
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong những năm gần đây thơ không đạt được nhiều thành tựu như
là tiểu thuyết. Điều này không lạ bởi lẽ quy luật sáng tạo thẩm mĩ cho thấy
các thể loại không bao giờ phát triển song hành cùng nhau. Tuy vậy, thơ vẫn
là thể loại văn học giàu truyền thống nhất trong các thể loại văn học. Xét về
mặt lịch sử, thơ là một “thể loại già”, còn tiểu thuyết là một “sinh ngữ trẻ”.
Thơ ra đời bắt đầu từ lúc loài người có nhu cầu bộc lộ đời sống tâm hồn, tình
cảm và nó đã song hành cùng loài người với bao thăng trầm từ đó đến nay.
Cho dù ở thời điểm này, thơ đang ở trong cơn “bĩ cực” nhưng nó vẫn xứng
đáng được quan tâm, nghiên cứu.
1.2. Về thơ Việt Nam đương đại, hiện có nhiều đánh giá khác nhau.
Người bảo “nền rộng nhưng thiếu đỉnh”. Người bảo “thơ đi ngang”. Người lại
quả quyết, thơ hiện nay “ngang ngửa” thậm chí “chất lượng và bề thế hơn”
thơ các giai đoạn trước… Những đánh giá ấy, dĩ nhiên, xuất phát từ những
góc nhìn và tâm thế khác nhau. Nhưng sự tản mạn, không thống nhất về thơ
hiện nay là điều có thể hiểu được, vì, thứ nhất, độ lùi đánh giá chưa xa; và,
thứ hai, so với thơ ca trước đây, thơ Việt kể từ sau 1975 phức tạp hơn, tính ly
tâm cao hơn. Phức tạp bởi các nhà thơ không còn bó mình trong một kiểu
nghĩ, một trường thẩm mỹ chung. Ly tâm bởi muôn nẻo kiếm tìm và phương
cách biểu đạt bản thể. Thêm nữa, mỹ cảm nghệ thuật hiện đại/ hậu hiện đại đã
khai mở và kích thích những cuộc phiêu lưu bất tận của nhà thơ, cái toàn trị
đã dần nhường chỗ cho cái phân mảnh, tiếng nói cộng đồng đã nhường chỗ
cho tiếng nói cá nhân,… Giờ đây, người ta đang chứng kiến sự hiện diện cùng
lúc nhiều loại hình giá trị: trung tâm và ngoại vi, chính thống và phi chính
thống, cao sang và suồng sã, cổ điển và phi cổ điển,… Ấy là chưa nói đến sự