Chế độ ăn để giảm cholesterol trong máu
Để khắc phục cholesterol trong máu cao, chế độ ăn là
ưu tiên số một. Chỉ khi phương pháp này không tác
dụng, bác sĩ mới kê đơn cho uống thêm thuốc.
Chế độ ăn đóng vai trò quan trọng trong điều trị hạ
cholesterol máu để ngăn ngừa xơ vữa động mạch,
bệnh mạch vành và một số bệnh tim mạch khác. Theo
khuyến cáo mới nhất của hội tim mạch Mỹ, để giảm
cholesterol, chế độ ăn chỉ được cung cấp dưới 30%
calo từ chất béo, trong đó chỉ 10% calo từ các chất
béo no. Để xác định lượng chất béo được phép tiêu
thụ mỗi ngày, lấy tổng lượng calo cơ thể cần nhân
với 30% rồi chia cho 9 (chẳng hạn cơ thể cần 2.000
calo, số lượng chất béo cần giới hạn là 67g/ngày).
Tránh ăn mỡ, da động vật: sử dụng thịt ít béo như
thịt bò nạc, thịt gà nạc bỏ da, thịt heo thăn... Tránh ăn
mỡ động vật (mỡ heo, bơ, mỡ bò...) và kem sữa bò.
Những thực phẩm này chứa nhiều chất béo no nên dễ
làm tắc động mạch. Giới hạn lượng thịt đỏ (bò, ngựa,
trâu, cừu...) tiêu thụ dưới 255g/tuần. Nếu dùng thức
ăn từ sữa thì chọn loại đã tách kem (còn gọi sữa gầy).
Ngay cả sữa chua hay pho mát cũng nên chọn loại
làm từ sữa gầy hoặc sữa có hàm lượng chất béo chỉ 1
- 2%.
Tăng cường đậu tương: nên ăn các sản phẩm được
chế biến từ đậu tương như sữa đậu nành, đậu phụ, tào
phớ, bột đậu tương, sữa chua đậu tương... Thực phẩm
làm từ đậu tương chứa nhiều estrogen thực vật và
isoflavon sẽ làm giảm đáng kể nồng độ cholesterol
toàn phần. Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ
(FDA) đã đưa ra khuyến cáo nên tiêu thụ ít nhất 25g
đậu tương/ngày với bất cứ hình thức chế biến nào để
giảm nguy cơ bệnh tim mạch.
Ăn nhiều cá:
mỗi tuần nên có vài ba lần ăn cá để thu nhận axit béo
hệ omega-3, có tác dụng bảo vệ tim mạch. Cá hồi, cá
ngừ, cá mòi, cá trích và cá thu có nhiều axit béo loại
này.
Hạn chế thức ăn công nghiệp: tránh thức ăn như bơ
thực vật dạng thỏi và bánh, bánh nướng lò, sản phẩm
dạng rán như khoai tây rán, mì ăn liền và nhiều thức
ăn công nghiệp chế biến sẵn khác. Trong những thức
ăn này có axit béo dạng trans, có thể làm tăng lượng
cholesterol trong máu. Nên dùng dầu ôliu, dầu cải,
dầu ngô, dầu hạt rum, dầu đậu nành và dầu hướng
dương. Đây là những loại dầu có tác dụng làm hạ
mức cholesterol. Tránh dùng dầu cọ hay dầu dừa
(không chỉ tồn tại riêng lẻ, các loại dầu này có mặt
trong kem thực vật để uống với càphê, bánh kem, kẹo
sôcôla...).
Giảm ăn đường, mật: tối đa chỉ nên ăn từ 10 -
20g/ngày.
Ăn nhiều rau quả, uống trà: sử dụng rau quả
khoảng 500g/ngày để cung cấp đủ các vitamin, chất
khoáng và chất xơ. Những thức ăn có nhiều chất xơ
hoà tan là gạo lức, các hạt họ đậu, lúa mạch, rau, trái
cây. Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy chế độ ăn giàu
các chất chống oxy hoá có thể giảm từ 20 - 40% nguy
cơ bệnh mạch vành. Các thực phẩm nên chọn đưa
vào khẩu phần ăn nhằm chống tác dụng oxy hoá độc
hại như: thực phẩm giàu vitamin E (giá đỗ, dầu thực
vật, dầu gấc, các sản phẩm chế biến từ gấc), thực
phẩm giàu beta-caroten (càrốt, bí đỏ, đu đủ chín,
xoài; các loại rau có màu xanh thẫm như rau muống,
mồng tơi, cải xoong...), thức ăn giàu vitamin C (các
loại rau quả nói chung), thức ăn giàu selen (rau ngót,
rau cải bắp...). Tỏi cũng có những hoạt chất có khả
năng làm hạ cholesterol. Uống nước chè (trà) xanh
hàng ngày có thể giảm 44 - 58% nguy cơ bệnh mạch
vành tim.
Bên cạnh chế độ ăn hợp lý, luyện tập thể dục thể thao
đều đặn cũng là một yếu tố quan trọng làm tăng hiệu
quả của chế độ ăn uống trong điều trị hạ cholesterol.
Mức cholesterol an toàn
Để đánh giá cholesterol cao hay thấp
phải tuỳ thuộc vào kết quả xét
nghiệm. Nếu dưới 5,2mmol/l, tức
dưới 200mg/100ml là bình thường,
cholesterol trong máu không cao.
Nếu kết quả từ 5,2 - 6,2/mmol/l, tức
từ 200mg - 240mg/100ml là hơi cao,
gọi là tăng cholesterol ranh giới. Giai
đoạn này phải có chế độ ăn uống, tập
luyện tốt và phải kiểm tra sức khoẻ ít
nhất sáu tháng một lần. Nếu kết quả
6,2mmol/l tức vượt quá ngưỡng
240mg/100ml là tăng cholesterol rõ
ràng, có nguy cơ mắc bệnh cao nên
cần điều trị sớm.