VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ TRUNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ

VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN

ĐỊA BÀN HUYỆN BÌNH SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ TRUNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ

VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN

ĐỊA BÀN HUYỆN BÌNH SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành : Chính sách công

Mã số : 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. HỒ VIỆT HẠNH

HÀ NỘI, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi. Các tài liệu,

thông tin thu thập được để phân tích, làm rõ những nội dung trong Luận văn có

nguồn gốc rõ ràng, chính xác và lần đầu tiên được nghiên cứu, công bố trong

công trình này.

Quảng Ngãi, ngày 10 tháng 8 năm 2020

NGƯỜI CAM ĐOAN

Võ Trung

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận

được sự hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo của các thầy cô giáo và sự giúp đỡ nhiệt

tình, những ý kiến đóng góp quý báu của nhiều cá nhân và tập thể để hoàn thành

Luận văn này. Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Hồ Việt

Hạnh, người đã trực tiếp hướng dẫn đề tài cho tôi với tất cả lòng nhiệt tình và sự

quan tâm. Đồng thời, tôi xin chân thành cảm ơn sự đóng góp chân thành của các

thầy, cô giảng viên của Học viện khoa học xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi cho

tôi thực hiện đề tài. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo UBND huyện

Bình Sơn, Phòng TN&MT, Ban quản lý dự án đầu tư huyện Bình Sơn, Trung

tâm phát triển quỹ đất huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi; các cơ quan ban ngành

liên quan; người thân, bạn bè, đồng nghiệp, luôn quan tâm tạo điều kiện, chia sẻ

động viên tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu Luận văn. Mặc dù đã rất

cố gắng trong quá trình nghiên cứu nhưng Luận văn không thể tránh khỏi những

thiếu sót. Tôi mong nhận được sự góp ý của quý thầy, cô và bạn bè. Xin trân

trọng cảm ơn.

Quảng Ngãi, ngày 10 tháng 8 năm 2020

Tác giả

Võ Trung

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ

KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ..................................................................... 7

1.1. Một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định

cư khi nhà nước thu hồi đất .................................................................................... 7

1.2. Cơ sở thực tiễn thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi

nhà nước thu hồi đất ............................................................................................. 19

1.3. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư khi nhà nước thu hồi đất .......................................................................... 23

1.4. Một số kinh nghiệm thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

khi nhà nước thu hồi đất ....................................................................................... 29

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG,

HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA

BÀN HUYỆN BÌNH SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI .......................................... 33

2.1. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng

Ngãi… .................................................................................................................. 33

2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi ........... 43

2.3. Kết quả thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước

thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi ................................. 54

2.4 Những thành tựu và hạn chế thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng

Ngãi… .................................................................................................................. 57

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG, NÂNG CAO HIỆU QUẢ

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH

CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BÌNH

SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI .............................................................................. 64

3.1. Giải pháp chung thực hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi ........... 64

3.2. Giải pháp cụ thể thực hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi ........... 67

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 74

TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ

BQL Ban quản lý 1

BTNMT Bộ Tài nguyên và môi trường 2

GPMT Giải phóng mặt bằng 3

HĐND Hội đồng nhân dân 4

NCMR Nâng cấp mở rộng 5

NMLD Nhà máy lọc dầu 6

STNMT Sở Tài nguyên và môi trường 7

TDC Tái định cư 8

UBND Ủy ban nhân dân 9

10 UBMTTQVN Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đất đai có vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống con người và sự phát

triển kinh tế, xã hội ở các địa phương. Kể từ khi Hiến pháp 2013, Luật đất đai

2013 ra đời đã tạo hành lang pháp lý trong quản lý đất đai, triển khai thực hiện

chính sách đất đai nói chung, thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định

cư khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng. Qua đó góp phần bảo đảm quyền và lợi

ích hợp pháp cho người dân khi Nhà nước thu hồi đất để triển khai các công

trình, dự án; thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, từng bước nâng cao đời sống

nhân dân trong cả nước.

Các cấp, chính quyền địa phương đang tích cực xây dựng nông thôn mới,

phát triển đô thị, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, thực hiện nhiều dự án trọng điểm,

đẩy mạnh công nghiệp hóa. Tuy nhiên từ những quy định của pháp luật đến việc

triển khai thực hiện chính sách đất đai, chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

còn gặp nhiều khó khăn, bất cập, dẫn đến một số trường hợp người dân khiếu

nại, khiếu kiện...

Trong những năm qua, các cấp chính quyền huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng

Ngãi luôn xác định nâng cao hiệu quả công tác quản lý đất đai là hết sức cấp

thiết, hạn chế những mặt tiêu cực, đẩy nhanh tiến độ trong công tác bồi thường,

hỗ trợ, tái định cư, góp phần triển khai các dự án phát triển kinh tế - xã hội trên

địa bàn huyện đạt kết quả. Thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

trong đó bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở gắn với chính sách đất đai, các nội

dung về bồi thường, hỗ trợ được niêm yết công khai, bố trí tái cư hợp lý, tiến

hành bàn giao mặt bằng cho nhà đầu tư, chủ đầu tư thực hiện dự án đúng theo

quy định pháp luật; góp phần tích cực cho phát triển kinh tế, giữ vững ổn định

chính trị, đảm bảo an sinh xã hội tại địa phương.

Với chức trách nhiệm vụ, bản thân tôi được thực hiện công tác quản lý tại

Phòng phát triển quỹ đất, có nhiều cơ hội được tiếp cận trong thực tiễn quản lý

đất đai, triển khai thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ trong các công trình,

dự án phát triển kinh tế xã hội trong địa bàn huyện. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài

1

“Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi

đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi” để làm Luận văn tốt

nghiệp Thạc sỹ chính sách công nhằm nêu lên những quan điểm, phân tích, làm

rõ thực trạng chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, góp phần hoàn thiện

chính sách và nâng cao hiệu quả thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất tại địa phương.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Liên quan đến vấn đề nghiên cứu và vấn đề thực hiện chính sách bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đã được rất nhiều tác giả

nghiên cứu. Sau đây là một số công trình tiêu biểu:

- Đào Chung Chính (2014), “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất đổi mới

pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư”, Luận án Tiến sĩ, Đại

học Nông nghiệp Hà Nội;

- Nguyễn Chí Cường (2016), “Đánh giá mức độ hài lòng của người dân và

các vấn đề bất cập trong giải tỏa, bồi thường và tái định cư trên địa bàn tỉnh

Vĩnh Long”, Luận văn cao học Quản lý Đất đai, Đại học Cần Thơ;

- Lê Duy Du (2013), “Quyền khiếu nại hành chính của công dân về đất đai

từ thực tiễn tại Thành phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện

Khoa học xã hội;

- Nguyễn Anh Dũng (2016), “Thực hiện chính sách bồi thường, hổ trợ và

tái định cư khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn Khu kinh tế Dung Quất, tỉnh

Quảng Ngãi”, Luận văn Thạc sỹ Chính sách công, Học viện Khoa học xã hội;

- Trần Thị Mỹ Hạnh (2015), “Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sỹ

Chính sách công, Học viện Khoa học xã hội;

- Lê Văn Hải (2016), “Giải quyết khiếu nại quyết định hành chính về bồi

thường, hổ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh Bình

Định”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội;

- Phan Trung Hiền (2014), TS, Những điều cần biết về bồi thường, hỗ trợ,

tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Nhà xuất bản chính trị quốc gia;

2

- Hoàng Quốc Hùng (2017), Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế, Luận văn thạc sỹ Luật hiến pháp và

Luật hành chính, Học viện hành chính quốc gia;

- Trần Thị Hương (2018), Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Phú

Bình, tỉnh Thái Nguyên, Luận văn thạc sỹ Luật hiến pháp và Luật hành chính,

Học viện khoa học xã hội;

- Nguyễn Thị Nga (2013), Pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất – thực trạng và hướng hoàn thiện, Đề tài nghiên cứu

khoa học, Trường Đại học Luật Hà Nội;

- Trần Minh Sang (2017), Quản lý nhà nước về bồi thường, hỗ trợ, tái định

cư trên địa bàn huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang, Luận văn thạc sỹ quản lý

công, Học viện hành chính quốc gia;

- Nguyễn Thị Tâm (2013), “Pháp luật về thu hồi đất trong việc giải quyết

mối quan hệ giữa nhà nước – nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi”, Luận văn

Thạc sĩ Luật học;

- Phạm Thu Thủy (2014), “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi

đất nông nghiệp ở Việt Nam”, Luận án tiến sỹ,Trường Đại học Luật Hà Nội;

- Phạm Duy Tín (2015), “Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại địa bàn thành

phố Cần Thơ”, Luận văn cao học Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia;

- Nguyễn Thị Cẩm Tú (2014), “Đánh giá khung chính sách bồi thường lên

đời sống người dân giữa dự án đầu tư vốn nước ngoài và ngân sách Nhà nước

tại thành phố Cần Thơ”, Luận văn cao học Quản lý đất đai, Đại học Cần Thơ;

- Nguyễn Thị Minh Phượng (2018), TS, Chính sách bồi thường, hỗ trợ giải

phóng mặt bằng và tái định cư cho người dân bị thu hồi đất thực hiện các dự án

ở Nghệ An, Nhà xuất bản chính trị sự thật, tháng 12/2018;

- Nguyễn Thị Cẩm Vân (2014) “Giải quyết khiếu nại quyết định hành chính

về bồi thường, hổ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành

phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội;

3

- Nguyễn Đắc Vui (2016), Hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, Học viện

Hành chính Quốc gia;

- Trần Cao Hải Yến (2014), Thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay, Đại

Học Luật Hà Nội.

Qua tìm hiểu những công trình trên, trong đó có những vấn đề lý luận,

quản lý nhà nước, áp dụng thực hiện về đất đai nói chung và thực hiện thực hiện

chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng.

Từ những nghiên cứu của các công trình trên tác giả muốn tìm hiểu và áp dụng

nghiên cứu “Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi” có ý nghĩa

lý luận và thực tiễn, đồng thời một số đề xuất những giải pháp tăng cường nâng

cao hiệu quả thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước

thu hồi đất tại địa phương.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích nghiên cứu:

Trên cơ sở về mặt lý luận và thực tiễn, phân tích làm rõ thực hiện chính

sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn

huyện Bình Sơn và từ đó đưa ra định hướng, các giải pháp nâng cao hiệu quả

thực hiện chính sách tại địa phương.

- Nhiệm vụ nghiên cứu:

+ Nghiên cứu những lý luận chung về thực hiện chính sách bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

+ Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và

tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng

Ngãi, từ năm 2015 đến nay, nêu lên những kết quả đạt được và những tồn tại của

vấn đề, chỉ rõ nguyên nhân của vấn đề.

+ Đề xuất giải pháp tăng cường, nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình

4

Sơn trong thời gian đến.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: khái quát chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

đối với người dân trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Không gian: Được thực hiện nghiên cứu trên địa bàn huyện Bình Sơn,

tỉnh Quảng Ngãi.

+ Thời gian: từ năm 2015 đến nay.

+ Vấn đề nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện chính sách bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư đối với người dân bị thu hồi đất tại địa phương.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận:

Luận văn nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của

Chủ nghĩa Mác-Lênin; đồng thời trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách và pháp luật về chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và thực hiện

chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

- Phương pháp nghiên cứu:

+ Phương pháp thống kê: Thu thập các tài liệu, số liệu từ các cơ quan, ban

ngành có liên quan đến công tác thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn, từ đó phân tích, đánh giá và định

hướng nâng cao hiệu quả trong thời gian đến.

+ Phương pháp thu thập thông tin: Thu thập thông tin từ các cơ quan nhà

nước, các công trình nghiên cứu khác về xây dựng, hoàn thiện và thực hiện chính

sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn ở

các địa phương.

+ Phương pháp luật học: Đề tài nghiên cứu, tìm đọc các văn kiện, văn bản

luật và các văn bản hướng dẫn… để áp dụng, chọn lọc nghiên cứu trong Đề tài

của Luận văn.

5

6. Ý nghĩa của đề tài

Phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật về thực hiện chính sách bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Qua đó, làm cơ sở để các

cấp có thẩm quyền xây dựng hoàn thiện, bổ sung các nội dung chính sách phù

hợp đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao trong giai đoạn hiện nay.

7. Cơ cấu của luận văn

Luận văn bao gồm các nội dung sau:

Chương 1. Một số vấn đề lý luận và cơ sở thực tiễn thực hiện chính sách

bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.

Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định

cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

Chương 3. Giải pháp tăng cường, nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách

về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện

Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

6

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ

NƯỚC THU HỒI ĐẤT

1.1. Một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ

và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.

1.1.1. Một số khái niệm công cụ

* Khái niệm chính sách công

Ở nước ta, cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau về chính sách công, như:

Từ điển Bách khoa Việt Nam khái niệm: “Chính sách là các chuẩn tắc cụ

thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ…”.

Theo quan niệm của PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải khái niệm: “Chính sách

công là kết quả ý chí chính trị của nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các

quyết định có liên quan với nhau, bao hàm trong đó định hướng mục tiêu và cách

thức giải quyết những vấn đề công trong xã hội”.

Theo quan điểm của Viện chính trị học khái niệm: “...chính sách công là

chương trình hành động hướng đích của chủ thể nắm hoặc chi phối quyền lực

công cộng”.

Theo quan niệm của TS. Đặng Ngọc Lợi khái niệm: “chính sách công là

chính sách của nhà nước, của chính phủ...”.

Theo quan niệm của PGS.TS. Lê Chi Mai khái niệm: “chủ thể ban hành

chính sách công là nhà nước; chính sách công không chỉ là các quyết định thể

hiện trên văn bản và những hành động, hành vi thực tiễn ở các địa phương”.

Từ những phân tích trên, PGS.TS. Hồ Việt Hạnh có một số quan niệm

chính sách công như sau:

Thứ nhất, chính sách công chỉ xuất hiện trong thời kỳ xã hội loài người đã

có nhà nước.

Thứ hai, các quan niệm có xu hướng giới hạn vào chủ thể là nhà nước và

nếu mở rộng thì cũng chỉ đến các chủ thể chính trị khác song cũng đặt mối quan

hệ liên quan đến nhà nước.

7

Thứ ba, một số quan niệm tính đến mục tiêu giải quyết vấn đề như một

thành tố quan trọng làm tiêu chí xác định chính sách công. Tiêu chí đó có thể là

giải quyết những vấn đề bức xúc, quan tâm chung của cộng đồng...

Thứ tư, chính sách công phải được xem như một quá trình xác định ý

tưởng, hoạch định, thực hiện đến đánh giá. [16, tr.4]

Chính sách công được thể chế hóa bằng các quy định pháp luật điều chỉnh

các quan hệ xã hội, cuộc sống thực tiễn. Đòi hỏi sự phù hợp của chính sách được

thực hiện khả thi, bền vững trên thực tế.

Như vậy có thể hiểu, chính sách công bao gồm các thuộc tính nhà nước,

công cộng, hành động thực tiễn được hệ thống và kế thừa lịch sử, gắn liền với

các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của một quốc gia.

* Thực hiện chính sách là một quá trình trong việc chuyển hóa ý chí của

chủ thể chính sách thực hiện quản lý các đối tượng trong các quan hệ xã hội,

quản lý hành chính nhà nước. Tổ chức thực thi chính sách bao gồm các bước

theo quy trình chính sách thực hiện trong một hệ thống. Hoạch định chính sách

và thực hiện đúng chính sách luôn gắn kết với nhau trong quá trình thực hiện.

* Các bước thực hiện chính sách, gồm 5 bước:

- Ban hành văn bản, xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện chính sách.

- Phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thực hiện chính sách.

- Triển khai thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu

hồi đất

- Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc về thực hiện chính sách.

- Đánh giá, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư khi nhà nước thu hồi đất tại các địa phương.

* Về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

Theo pháp luật hiện hành chỉ xác định khái niệm “bồi thường về đất” mà

không xác định khái niệm đối với các tài sản khác như: công trình xây dựng, vật

kiến trúc, cây trồng, vật nuôi…

8

Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc nhà nước áp giá đền bù để chi

trả thiệt hại trong quá trình thu hồi đất đối với người dân và các chủ thể thiệt hại

về quyền sử dụng đất hoặc quyền sở hữu, sử dụng đối với công trình, vật kiến

trúc.... Đây là cơ sở để các cấp, chính quyền địa phương xác định được mức độ

thiệt hại khái niệm của người dân có đất bị thu hồi, được các cơ quan nhà nước

bồi thường tương xứng, đúng theo quy định của pháp luật. [khoản 12 Điều 3

Luật Đất đai năm 2013].

Các trường hợp chủ thể sử dụng đất không đúng mục đích, sử dụng đất

không có hiệu quả, cố ý huỷ hoại đất hoặc trường hợp đất được giao không đúng

đối tượng, không đúng thẩm quyển, đất lấn chiếm, đất do cá nhân sử dụng đã

chết mà không có người thừa kế, chủ thể sử dụng đất tự nguyện trả lại đất... thì

sẽ không được bồi thường khi bị thu hồi đất.

Đất đang sử dụng bị thu hồi mà chủ thể sử dụng đất có giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất thì được bồi thường, được bố trí khu tái định cư có điều kiện

tốt hơn nơi đất đã bị thu hồi trước đây.

Trường hợp không có khu tái định cư thì người bị thu hồi đất được bồi

thường, ưu tiên, thuê nhà ở khu vực đô thị; đối với khu vực nông thôn được bồi

thường bằng đất, được hỗ trợ ổn định đời sống, đào tạo nghề, bố trí việc làm mới

phù hợp tại địa phương.

* Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp cho người có

đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển [khoản 14 Điều 3 Luật Đất

đai 2013].

Về đối tượng được nhận hỗ trợ ổn định đời sống khi Nhà nước thu hồi đất

Thứ nhất, hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, đang có

quyền sử dụng đất nông nghiệp thông qua các hình thức như được Nhà nước

giao, cho thuê, công nhận hoặc nhận chuyển nhượng; Có thu nhập ổn định từ sản

xuất nông nghiệp trên diện tích đất đó.

9

Thứ hai, với các tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh

doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bị ngừng sản xuất, kinh doanh

khi Nhà nước thu hồi đất sẽ căn cứ theo khoản 6 Điều 19 Nghị định số

47/2014/NĐ-CP khi đó, người lao động trong các tổ chức kể trên được áp dụng

chế độ trợ cấp thôi việc theo quy định của pháp luật về lao động, thời gian trợ

cấp không quá 6 tháng.

Có thể nhận thấy đối tượng được hỗ trợ theo quy định của pháp luật chủ

yếu tập trung vào hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất và có nguồn gốc đất từ

việc xác lập bằng con đường Nhà nước giao đất, nhận chuyển nhượng… Đồng

thời các cấp có thẩm quyền cần bổ sung đối tượng thuê đất có hợp đồng trên diện

tích bị ảnh hưởng của quá trình thu hồi đất, được hỗ trợ ổn định đời sống.

Về điều kiện diện tích đất bị thu hồi để được nhận hỗ trợ ổn định đời sống

- Thu hồi từ 30% đến 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng được

hỗ trợ 6 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở; 12 tháng nếu di chuyển chỗ ở;

nếu di chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn được hỗ trợ

tối đa là 24 tháng.

- Thu hồi trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì được hỗ trợ

12 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở; 24 tháng nếu di chuyển chỗ ở.

- Diện tích đất thu hồi quy định được xác định theo từng quyết định thu

hồi đất của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền; đặc biệt khó khăn thì thời gian

hỗ trợ tối đa là 36 tháng;

Chỉ xem xét hỗ trợ những tổn thất trong cùng một quyết định thu hồi,

cùng một địa phương, chưa dự liệu được tình huống người sử dụng đất có nhiều

mẫu đất khác nhau, tại nhiều địa phương, phường, xã khác nhau; cùng bị ảnh

hưởng do quá trình thu hồi đất gây ra. [18-19, tr.9].

* Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

Tái định cư là việc bố trí chỗ ở mới cho người bị thu hồi đất, được xây

dựng cơ sở hạ tầng, đảm bảo các điều kiện tốt hơn nơi đất ở đã bị thu hồi theo

quy định pháp luật.

10

Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất

của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử

dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai. [khoản 11 Điều 3 Luật Đất đai 2013].

Trong công tác giải phóng mặt bằng các cấp chính quyền địa phương xác

định thực hiện chính sách bồi thường đất đai, tài sản gắn liền trên đất bảo đảm

đúng đối tượng, ổn định đời sống và hướng nghiệp nghề, việc làm ổn định cho

người bị thu hồi đất, phù hợp với chủ trương, chính sách từng địa phương. Đồng

thời đảm bảo thực hiện các dự án đầu tư, từng bước nâng cao đời sống nhân dân,

góp phần phát triển kinh tế xã hội tại các địa phương.

[Bùi Thanh Song (2011), Hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, Luận văn Thạc

sỹ Kinh tế, Trường Đại học kinh tế quốc dân].

* Quy định về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở

Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức lập, bố trí tái định cư trước

khi thu hồi đất của các hộ dân phù hợp với từng địa phương cụ thể.

Ban bồi thường, giải phóng mặt bằng được ủy ban nhân dân các cấp giao

trách nhiệm bố trí tái định cư, thực hiện thông báo, niêm yết công khai ít nhất 15

ngày tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư

nơi có đất thu hồi cho người có đất ở thu hồi về chủ trương di chuyển chỗ ở và

phương án bố trí tái định cư của chính quyền địa phương, bảo đảm đúng quy

trình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi tầng lớp nhân dân.

Các hộ cá nhân, gia đình có đất thu hồi được bố trí tái định cư tại chỗ hoặc

tái định cư khu mới theo quy hoạch tái định cư của địa phương. Ưu tiên vị trí

thuận lợi cho người có đất thu hồi sớm bàn giao mặt bằng, người có đất thu hồi

là người có công với cách mạng [Lý Thị Trang (2017), Bồi thường, hỗ trợ tái

định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Trang thông tin điện tử

https://law.tueanhgroup.vn/, cập nhật ngày 04/7/2017].

1.1.2. Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất

11

1.1.2.1. Lý luận về thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

khi nhà nước thu hồi đất

Thực hiện chính sách

Thực hiện chính sách là một quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính

sách đối với các đối tượng được quản lý, điều chỉnh các quan hệ xã hội đáp ừng

được mục tiêu đặt ra. Tổ chức thực thi chính sách bao gồm các bước thực hiện

theo quy trình trong một hệ thống chính sách [27].

Các bước thực hiện chính sách

Bước 1. Thông báo thu hồi đất:

Trước khi có quyết định thu hồi đất, chậm nhất là 90 ngày đối với đất nông

nghiệp và 180 ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm

quyền phải thông báo thu hồi đất cho người có đất thu hồi biết. Sau đó tổ chức

họp, lấy ý kiến và tổng hợp những ý kiến này làm cơ sở để UBND cấp có thẩm

quyền có thể ra Quyết định thu hồi đất và thực hiện các chính sách về bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định.

Bước 2. Thu hồi đất:

UBND cấp tỉnh có thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công

ích của xã, phường, thị trấn; đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam

định cư ở nước ngoài.... UBND cấp huyện có thẩm quyền thu hồi đất đối với đất

của hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư.... Trường hợp khu đất thu hồi có cả

tổ chức và hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất thì UBND cấp tỉnh có thẩm

quyền quyết định thu hồi đất hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện

quyết định thu hồi đất.

Bước 3. Kiểm kê đất đai, tài sản có trên đất:

Khi có Thông báo thu hồi đất, UBND cấp xã có trách nhiệm phối hợp với

Ban bồi thường, giải phóng mặt bằng triển khai thực hiện khảo sát, đo đạc, kiểm

kê và các hộ gia đình, cá nhân có đất tăng cường phối hợp với chính quyền địa

phương thực hiện kiểm kê đất, tài sản gắn liền trên đất đạt hiệu quả. Nếu người

dân không phối hợp, chính quyền địa phương thực hiện việc vận động, thuyết

12

phục để người sử dụng đất chấp hành nghiêm túc hoặc trường hợp người có đất

thu hồi không chấp hành thì Chủ tịch UBND cấp huyện ban hành quyết định

cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc [Điều 70, Luật đất đai 2013].

Bước 4. Lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư:

UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện có trách nhiệm tổ chức, bố trí tái định

cư trước khi thu hồi đất của các hộ dân. Khu tái định cư đảm bảo các điều kiện

tốt nhất, phù hợp với phong tục, tập quán của từng địa phương. Dự án tái định cư

được lập và thực hiện bảo đảm có đất ở, nhà ở tái định cư trước khi nhà nước thu

hồi đất.

Bước 5. Niêm yết công khai phương án lấy ý kiến của nhân dân

Sau khi phương án chi tiết được lập, Ban bồi thường, giải phóng mặt bằng

có trách nhiệm phối hợp với UBND cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức lấy ý kiến,

niêm yết công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại trụ sở UBND

cấp xã nơi có đất thu hồi. Việc tổ chức lấy ý kiến phải được lập thành biên bản

có xác nhận của chính quyền địa phương, đại diện những người có đất thu hồi.

Ban bồi thường, giải phóng mặt bằng tổng hợp ý kiến trình cơ quan có

thẩm quyền phê duyệt phương án.

Bước 6. Hoàn chỉnh Phương án:

Trên cơ sở ý kiến người có đất bị thu hồi, đại diện chính quyền địa phương

tiếp thu, tổng hợp phương án chi tiết trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt thực

hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.

Bước 7. Phê duyệt phương án chi tiết và tổ chức triển khai thực hiện:

Ban bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm phối hợp với chính

quyền địa phương niêm yết công khai quyết định phê duyệt phương án, mức giá,

địa điểm bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của những hộ dân bị thu hồi đất.

Trường hợp người có đất thu hồi không bàn giao đất cho Ban bồi thường,

giải phóng mặt bằng thì chính quyền địa phương nơi có đất thu hồi và Ban bồi

13

thường, giải phóng mặt bằng tổ chức vận động người dân thực hiện, nếu không

chấp hành thì thực hiện cưỡng chế [Điều 71 của Luật đất đai 2013].

Bước 8. Tổ chức chi trả bồi thường:

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà

nước có thẩm quyền có hiệu lực thi hành, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi

thường phải chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi [Điều 93

Luật đất đai 2013]

Trường hợp nhà nước bồi thường chậm thì người dân được được thanh toán

thêm một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định và nếu người dân

không nhận tiền bồi thường, hỗ trợ thì số tiền này được gửi vào tài khoản tạm

giữ của Kho bạc nhà nước.

Người sử dụng đất được bồi mà chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất

đai thì phải trừ đi khoản tiền này trong tổng số tiền được bồi thường để nộp ngân

sách nhà nước. Nếu số tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính khi thực hiện thu

hồi đất lớn hơn số tiền được bồi thường, hỗ trợ thì hộ gia đình, cá nhân tiếp tục

được ghi nợ số tiền chênh lệch này; nếu hộ gia đình, cá nhân được bố trí tái định

cư thì sau khi trừ số tiền bồi thường, hỗ trợ mà số tiền còn lại nhỏ hơn số tiền

chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì hộ gia đình, cá nhân tiếp tục được ghi nợ

theo quy định [Khoản 4, Điều 93, Luật đất đai 2013]

Trường hợp diện tích đất thu hồi đang có tranh chấp thì tiền bồi thường, hỗ

trợ đối với phần diện tích đất này được chuyển vào Kho bạc Nhà nước chờ sau

khi chính quyền địa phương quyết xong thì trả cho ngươi có quyền sử dụng đất.

Bước 9. Bàn giao mặt bằng, cưỡng chế thu hồi đất

Người bị thu hồi đất phải bàn giao mặt bằng ngay sau khi nhận tiền bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư; nếu không bàn giao mặt bằng thì thực hiện cưỡng chế

[Điều 71 Luật Đất đai 2013].

Trình tự, thủ tục thực hiện cưỡng chế thu hồi đất: UBND cấp huyện

thành lập Ban thực hiện cưỡng chế với nhiệm vụ thực hiện vận động, thuyết

14

phục, đối thoại với người dân, lập biên bản ghi nhận theo quy định. Việc bàn

giao đất được thực hiện chậm nhất sau 30 ngày kể từ ngày lập biên bản. Nếu

người dân không chấp hành thì Ban thực hiện cưỡng chế tổ chức thực hiện

cưỡng chế...Trường hợp người bị cưỡng chế từ chối nhận tài sản thì lập biên bản,

bảo quản tài sản theo quy định của pháp luật và thông báo cho người có tài sản

nhận lại tài sản.

Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện quyết định

cưỡng chế thu hồi đất: UBND cấp huyện tổ chức thực hiện việc cưỡng chế, giải

quyết khiếu nại liên quan đến việc cưỡng chế theo quy định và thực hiện phương

án tái định cư trước khi thực hiện cưỡng chế....Trường hợp trên đất thu hồi có tài

sản thì thực hiện bảo quản tài sản, chi phí bảo quản tài sản do chủ sở hữu chịu

trách nhiệm thanh toán....

Luật đất đai 2013 được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2013, có hiệu lực

thi hành từ ngày 01/7/2014 quy định một số điểm mới về bồi thường và thu hồi

đất nhằm tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng hơn trong hoạt động bồi thường

và thu hồi đất. Theo đó, quy định quyền lợi của người sử dụng đất khi bị thu hồi

[Điều 26, khoản 3 Luật Đất Đai 2013]; Thẩm quyền về thu hồi đất [Điều 66];

Trình tự thông báo khi thu hồi đất [khoản 1, Điều 67]; Các trường hợp bị thu hồi

đất [Điều 61 đến Điều 65]; Trình tự thu hồi đất [Điều 69 Luật đất đai 2013, Điều

65, Điều 66 Nghị định 43/2014/NĐ-CP]; Cưỡng chế thu hồi đất [Điều 71]; Bồi

thường khi thu hồi đất [Điều 77, Điều 79, Điều 83 Luật đất đai 2013, Điều 5,

Điều 6 Nghị định 47/2014/NĐ-CP]; Những trường hợp Nhà nước thu hồi đất

không được bồi thường về đất [Điều 82].

Từ khi có Luật đất đai 2013, cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều

chính sách, văn bản liên quan đến giá đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Từ

những quan điểm, chủ trương chung, các cơ quan chuyên môn có thẩm quyền

ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh, thực hiện chính sách

bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Đồng thời tham mưu giúp Chính

phủ, Quốc hội ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản hướng dẫn

15

thi hành liên quan đến công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất

tại các địa phương.

1.1.2.2. Phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và

tái định cư khi nhà nước thu hồi đất

Các cấp, các ngành xác định công tác thực hiện chính sách về bồi thường,

hỗ trợ và tái định cư là nhiệm vụ thường xuyên của cả hệ thống chính trị theo

hướng tổ chức Đảng tập trung lãnh đạo, chính quyền tích cực triển khai thực

hiện, các đoàn thể và các cơ quan liên quan tích cực tuyên truyền phổ biến, giáo

dục pháp luật về Luật đất đai nói chung và quy định của pháp luật về bồi thường,

hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất nói riêng, vận động nhân dân thực hiện đúng

chủ trương, chính sách, đồng thời đảm bảo quyền lợi của người dân. Trong thời

gian triển khai thực hiện các dự án các cấp chính quyền địa phương luôn nêu cao

tinh thần trách nhiệm, thực hiện thuyết phục nhân dân chấp hành các chủ trương

của Đảng, thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất của

người dân, bảo đảm thực hiện đạt kế hoạch của các địa phương hàng năm.

Qua việc thực hiện công tác tuyên truyền đã tác động rất lớn đến tư tưởng,

nhận thức của người dân, tổ chức trong việc phối hợp, chấp hành, triển khai thực

hiện công tác bồi thường, hỗ trợ đạt kết quả tốt. Nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến

giáo dục pháp luật, thực tiễn áp dụng đúng đắn, tuân thủ triệt để pháp luật, thực

hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đã

từng bước nâng cao đời sống nhân dân, góp phần triển kinh tế, xã hội, chuyển

đổi cơ cấu nền kinh tế, ổn định đời sống sản xuất cho người có đất bị thu hồi ở

các địa phương, bảo đảm thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

khi Nhà nước thu hồi đất đạt hiệu quả trong thực tiễn.

1.1.2.3. Triển khai thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất

Lập phương án bồi thường thiệt hại, hỗ trợ

Ban bồi thường, thu hồi đất, các cơ quan chuyên môn thực hiện phương

án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với từng tổ chức, cá nhân, hộ gia đình bị

16

thu hồi đất; thực hiện kiểm kê, áp giá tính giá trị bồi thường về đất, tài sản trên

đất theo đúng quy định của pháp luật.

Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư: UBND các cấp lập phương

thức bồi thường, hỗ trợ trước khi thu hồi đất; bảo đảm tái định cư phù hợp với

điều kiện từng địa phương, bảo đảm mọi người dân có nghề, có việc làm, ổn

định cuộc sống tại các địa phương.

Niêm yết công khai phương án lấy ý kiến của nhân dân

Ban bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phối hợp với chính quyền địa

phương tổ chức lấy ý kiến của nhân dân, niêm yết công khai phương án bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư, áp giá bồi thường cho từng hộ dân theo quy định

pháp luật.

Hoàn chỉnh Phương án

Trên cơ sở đó tổng hợp ý kiến của người dân có đất bị thu hồi, xác nhận

của chính quyền địa phương, hoàn chỉnh phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ và

tái định cư trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, triển khai thực hiện.

Phê duyệt phương án chi tiết và tổ chức triển khai thực hiện

UBND cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất, phê duyệt phương án

bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trong cùng một ngày. Đồng thời Ban bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư phối hợp với chính quyền địa phương phổ biến và

niêm yết công khai phương án bồi thường; trường hợp người có đất thu hồi

không bàn giao đất thì chính quyền địa phương thực hiện cưỡng chế [Điều 66

của Luật đất đai năm 2013]

Tổ chức chi trả bồi thường

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà

nước có thẩm quyền có hiệu lực thi hành, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi

thường phải chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người có đất thu

hồi [Điều 93 Luật đất đai 2013]

17

Khoản tiền chưa thực hiện nghĩa vụ Tài chính về đất đai bao gồm tiền sử

dụng đất, tiền thuê đất phải nộp cho Nhà nước nhưng đến thời điểm thu hồi đất

vẫn chưa nộp; số tiền này được xác định theo quy định của pháp luật về thu tiền

sử dụng đất; thu tiền thuê đất, thuê mặt nước.

Trường hợp số tiền chưa thực hiện nghĩa vụ Tài chính đến thời điểm thu

hồi đất lớn hơn số tiền được bồi thường thì hộ gia đình, cá nhân tiếp tục được ghi

nợ số tiền chênh lệch đó; nếu số tiền còn lại nhỏ hơn số tiền chưa thực hiện

nghĩa vụ Tài chính thì hộ gia đình, cá nhân tiếp tục được ghi nợ số tiền chênh

lệch đó [9]

Chính phủ ban hành Nghị định 06/2020/NĐ-CP ngày 03/01/2020 sửa đổi,

bổ sung Điều 17 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính

phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; có hiệu

lực thi hành từ ngày 20/02/2020. Đối với dự án đầu tư đã phê duyệt phương án

bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho toàn bộ dự án trước ngày 20/02/2020 thì tiếp

tục thực hiện theo quy định tại Điều 17 của Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày

15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất. Đối với dự án đầu tư chưa phê duyệt phương án bồi thường, hỗ

trợ, tái định cư cho toàn bộ dự án trước ngày 20/02/2020 thì tổ chức thực hiện

bồi thường, hỗ trợ , tái định cư theo quy định của Nghị định này. [11]

1.1.2.4. Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc về thực hiện chính sách bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất

Thanh tra, kiểm tra để tìm ra những địa phương điển hình, thực hiện, áp

dụng pháp luật bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đạt kết quả; phát

hiện các địa phương chưa chỉ đạo sát sao và giám sát chặt chẽ việc thực hiện

pháp luật về quản lý đất đai trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để

thực hiện các dự án.

Thông qua công tác triển khai thực hiện chính sách, thực hiện thanh tra,

kiểm tra, giám sát việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

nhằm nêu cao trách nhiệm, quyền hạn của các cấp chính quyền theo quy định

18

của Luật Đất đai, nâng cao năng lực, trách nhiệm cán bộ trong việc thực hiện và

thi hành chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất.

Nhiệm vụ thanh tra, giám sát trong công tác này ở các địa phương đã đi vào

nề nếp theo quy định của pháp luật về đất đai; Các chủ trương chính sách có liên

quan đến công tác tài nguyên môi trường của Nhà nước và UBND các cấp cơ

bản đã được chỉ đạo triển khai kịp thời, nâng cao chất lượng Thanh tra, kiểm tra,

giám sát việc về thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất ở các địa phương được thực hiện theo luật định.

1.1.2.5. Đánh giá, rút kinh nghiệm công tác thực hiện chính sách bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất

Đánh giá, rút kinh nghiệm là quá trình xem xét việc điều hành và chấp hành

thực thi chính sách là nhiệm vụ cần thiết của các cấp chính quyền địa phương.

Qua đó đánh giá thực chất hiệu quả thực hiện chính sách và những bài học kinh

nghiệm để áp dụng, sửa đổi, bổ sung chính sách phù hợp trong giai đoạn tiếp

theo. Đảm bảo thực hiện hiệu quả quá trình này nhằm ổn định cuộc sống người

dân, tăng cường an sinh xã hội, phát triển kinh tế bền vững tại các địa phương.

Qua công tác này để các cấp chính quyền địa phương, công chức thực hiện

nhiệm vụ có thể chia sẻ những kinh nghiệm trong quá trình triển khai thực hiện

chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Đồng thời chia sẻ những vướng

mắc, bất cập khó khăn trong quá trình thực hiện, đề xuất những sáng kiến, giải

pháp thực hiện hiệu quả, nâng cao vai trò của mỗi cá nhân, tổ chức và các cấp

chính quyền trong việc tham gia thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái

định ở cơ sở, nhằm tăng cường công tác phối hợp, bảo đảm thực thi chính sách

này tại các địa phương trong giai đoạn hiện nay.

1.2. Cơ sở thực tiễn thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định

cư khi nhà nước thu hồi đất

Việc ban hành Luật đất đai năm 2013 và các chính sách liên quan về bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư đã góp phần phát triển kinh tế xã hội, từng bước

nâng cao đời sống nhân dân ở các địa phương. Cơ quan có thẩm quyền đã ban

19

hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh việc thực hiện chính sách

bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất:

Quốc hội (2013), Luật Đất đai, số 45/2013/QH13, 29/11/2013;

Thủ tướng Chính phủ (2014), Chỉ thị số 01/CT-TTg, ngày 22/1/2014 về

việc triển khai thi hành Luật Đất đai năm 2013;

Chính phủ (2014), Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 quy định

chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai;

Chính phủ (2014). Nghị định số 45/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 quy định

thu tiền sử dụng đất;

Chính phủ (2014). Nghị định số 46/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 quy định

thu tiền thuê đất;

Chính phủ (2014). Nghị định số 47/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 quy định

về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất;

Thông tư 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi

trường quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi

đất;

Thông tư 30/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi

trường quy định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất,

thu hồi đất;

Nghị định 06/2020/NĐ-CP ngày 03/01/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ

sung Điều 17 cùa Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về

bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

Trong thời gian qua UBND tỉnh Quảng Ngãi đã ban hành nhiều văn bản

liên quan đến việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa

bàn tỉnh nói chung và thực hiện công tác này trên địa bàn huyện Bình Sơn nói

riêng. Trong đó phải kể đến Quyết định số 737/QĐ-UBND ngày 27/9/2019 của

UBND tỉnh ban hành quy chế thực hiện dân chủ trong công tác bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng

Ngãi. Trong đó thể hiện mục tiêu chính sách đó là bảo đảm thực hiện dân chủ

trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo

20

Luật đất đai, được triển khai sâu rộng từ tỉnh đến huyện, bảo đảm công khai, dân

chủ, minh bạch, công bằng và đúng quy định của pháp luật; Bảo đảm quyền của

người dân được biết, được tham gia ý kiến để thực hiện và giám sát việc thực

hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Bảo vệ lợi

ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất khi Nhà

nước thu hồi... Nội dung cơ bản của Quyết định 737, bao gồm những nội dung

sau:

* Nguyên tắc thực hiện

Bảo đảm công khai, dân chủ, minh bạch, công bằng và đúng quy định của

pháp luật; người dân được biết, được tham gia ý kiến để thực hiện và giám sát

việc thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;

Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất

khi Nhà nước thu hồi; Bảo đảm sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp; sự

giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã

hội; Việc tiếp nhận, xem xét, giải quyết các ý kiến, kiến nghị của tổ chức, cá

nhân phải đảm bảo kịp thời, khách quan, đúng quy định của pháp luật...

* Nội dung và hình thức công khai

Những nội dung phải công khai: Những chủ trương, chính sách, các văn

bản của Trung ương và các quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh có liên quan đến

thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; Quy hoạch sử dụng đất; Kế hoạch sử

dụng đất đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; Thông báo thu hồi đất, Thông

báo kiểm đếm của cấp có thẩm quyền; Kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát,

đo đạc, kiểm đếm, lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; giá đất cụ thể

và giá bồi thường về tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi; Phương án tái

định cư (đối với những phương án bồi thường có hộ gia đình, cá nhân di chuyển

hẳn chỗ ở), gồm: quy hoạch, địa điểm, dự kiến đầu tư hạ tầng khu tái định cư,

giá thu tiền sử dụng đất (trừ trường hợp có quy định riêng của Ủy ban nhân dân

tỉnh và trường hợp hộ gia đình, cá nhân có đất thu hồi để xây dựng khu tái định

cư nhưng được bố trí lại tại khu tái định cư); Phương án bồi thường, hỗ trợ trước

khi trình cấp thẩm quyền phê duyệt...

21

Hình thức và thời gian công khai: Trong quá trình thực hiện công tác bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư có thể áp dụng một hoặc đồng thời nhiều hình thức

công khai như niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm

sinh hoạt của khu dân cư nơi có đất thu hồi; Thông báo trên phương tiện thông

tin đại chúng, phát thanh trên hệ thống truyền thanh của Ủy ban nhân dân cấp xã,

địa điểm sinh hoạt của khu dân cư nơi có đất thu hồi; Thông báo bằng văn bản

đến từng tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có đất thu hồi....; Thời gian và thời lượng

công khai thông tin đối với từng lĩnh vực được thực hiện theo quy định của pháp

luật hiện hành; trường hợp pháp luật chưa có quy định thì chậm nhất là 05 ngày

văn bản được ban hành hoặc kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan, đơn vị

cấp trên.

* Nội dung và hình thức tham gia ý kiến

Những nội dung người có đất thu hồi tham gia ý kiến khi nhà nước thu

hồi đất: phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, kết quả kê khai, kiểm đếm đất

đai, tài sản sắn liền với đất thu hồi..; Phương án đào tạo nghề, chuyển đổi nghề

và tìm kiếm việc làm (nếu có).

Hình thức tham gia ý kiến: tham gia ý kiến trực tiếp với cán bộ làm công

tác kiểm kê lập phương án bồi thường; Tham gia trực tiếp tại Hội nghị do Ủy

ban nhân dân cấp xã phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng

mặt bằng tổ chức; Tham gia, góp ý trực tiếp hoặc bằng văn bản thông qua Hội

đồng nhân dân; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã

hội cấp xã....

* Nội dung và hình thức giám sát

Nội dung giám sát: trình tự, thủ tục thực hiện công tác thu hồi đất; bồi

thường, giải phóng mặt bằng. Việc áp dụng các cơ chế, chính sách trong công tác

thu hồi đất; bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Những nội dung phải công khai và

những nội dung người có đất thu hồi tham gia ý kiến. Việc giải quyết của cơ

quan có thẩm quyền đối với khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ảnh của nhân dân

về thu hồi đất; bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.

22

Hình thức giám sát của người có đất thu hồi: Giám sát trực tiếp trên cơ

sở các nội dung niêm yết công khai về thu hồi đất; phương án bồi thường, hỗ trợ,

tái định cư. Giám sát thông qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban

giám sát đầu tư cộng đồng ở xã, phường, thị trấn; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các

tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội cấp xã. Giám sát thông qua quyền khiếu nại,

tố cáo, kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định pháp luật.

[38]

1.3. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất

1.3.1. Yếu tố bản thân chính sách

Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất

được xây dựng, ban hành và sửa đổi bổ sung nhiều lần từ Luật đất đai năm 1993,

2003 đến nay là Luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn Nghị định số

47/2014/NĐ-CP và Nghị định số 01/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số nghị

định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai thay thế cho các nghị định Nghị định

số 197/2004/NĐ-CP; Nghị định số 84/2007/NĐ-CP; Nghị định số 69/2009/NĐ-

CP.

Giá đất làm căn cứ tính bồi thường, hỗ trợ và tái định còn thấp hơn so với

thực tế tại các địa phương. Giá đất được UBND cấp tỉnh quyết định, tuy nhiên

giá đất này thường thấp hơn giá đất giao dịch thực tế, ảnh hưởng một phần

quyền lợi của người dân. Chính vì vậy, khi thực hiện các dự án sẽ gặp nhiều khó

khăn, thiếu sự đồng thuận của người dân, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các

công trình, dự án.

Từ những phân tích trên cho thấy bản thân những quy định của chính sách

đã tác động đến việc triển khai thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư khi nhà nước thu hồi đất tại các địa phương. Nếu chính sách được ban

hành phù hợp với tình hình thực tế tại các địa phương sẽ giúp cho các cấp chính

quyền địa phương thực hiện chính sách đạt hiệu quả và ngược lại.

1.3.2. Chủ thể thực hiện chính sách

23

Vấn đề bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất là một

vấn đề rất nhạy cảm vì nó tác động, ảnh hưởng cực kỳ lớn đến cuộc sống người

dân, cuộc sống của những người bị hồi đất tại địa phương. Chính vì những vấn

đề này, đòi hỏi các cán bộ, công chức thực thi công vụ, thực hiện bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư ngoài những việc am hiểu chính sách pháp luật, cần phải có

những kỹ năng nghiệp vụ để chia sẻ, đồng cảm, động viên mọi tầng lớp nhân dân

nâng cao nhận thức pháp luật, chấp hành chủ trương của nhà nước về chính sách

bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và thực hiện chính

sách đạt hiệu quả tại địa phương.

Nếu công chức thực hiện công vụ không có tâm, thiếu tinh thần trách nhiệm

sẽ không nhận được sự đồng thuận của mọi tổ chức và công dân trong việc thực

hiện chính bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Năng lực

của đội ngũ công chức, chủ thể thực hiện chính sách làm công tác bồi thường, hỗ

trợ, tái định cư cũng tác động lớn đến đời sống nhân dân, tiến độ và hiệu quả

thực hiện chính sách này.

Trong những năm qua, Đảng ta tiến hành đổi mới phương thức lãnh đạo

trên nhiều khía cạnh song có một điểm thống nhất, xuyên suốt đó là Đảng đề ra

chủ trương đường lối còn việc cụ thể hóa những ý tưởng đó thông qua các văn

bản quy phạm pháp luật đó là công việc của Nhà nước. Để thực hiện được vấn

đề nêu trên một cách có hiệu quả thì chính sách trong nội bộ Đảng phải giải

quyết được ba vấn đề:

Một là, có phương thức để thu thập ý kiến phù hợp để xác định vấn đề

chính sách công cho đúng và trúng. Thường những ý kiến có được từ nguồn

thông tin và đánh giá tình hình của chính đội ngũ đảng viên làm việc trong bộ

máy nhà nước.

Hai là, đảm bảo cho các khâu tiếp theo của chính sách không đi trệch khỏi

vấn đề cần giải quyết được đặt ra ban đầu.

Ba là, chính sách nội bộ của Đảng phải đồng bộ, phù hợp với chính sách

của Đảng như là công cụ để lãnh đạo đất nước nhằm giúp cho các đảng viên của

24

đảng được cử tham gia vào bộ máy nhà nước có thể hoàn thành đồng thời hai

chức trách của mình.

Tóm lại, Đảng Cộng sản Việt Nam, xét ở phạm vi quốc gia là chủ thể chính

sách công ở Việt Nam hiện nay. Với tư cách là chủ thể có vai trò quan trọng

nhất, Đảng sẽ tham gia như thế nào trong quá trình thực hiện chính sách sẽ có ý

nghĩa hết sức quan trọng đối với sự vận động và phát triển của đất nước ta trong

tương lai.

[Hồ Việt Hạnh (2018), Đảng cộng sản Việt Nam – chủ thể chính sách công

ở nước ta hiện nay, Tạp chí nhân lực khoa học xã hội, Học Viện khoa học xã

hội, số 12 – 2018].

1.3.3. Đối tượng chịu tác động của chính sách

Hầu hết các chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đều liên quan đến

đời sống nhân dân ở các địa phương. Nếu chính sách triển khai được sự đồng

thuận, nhất trí cao của cán bộ, công chức, các tổ chức, doanh nghiệp và người

dân thì quá trình thực hiện sẽ gặp nhiều thuận lợi, bảo đảm mọi chế độ, chính

sách bồi thường, hỗ trợ cho tổ chức, công dân được thực hiện đúng đối tượng,

đáp ứng được vọng của mọi tầng lớp nhân dân. Đồng thời góp phần triển khai

thực hiện các công trình, dự án đúng tiến độ; bố trí tái định cư phù hợp với từng

hộ dân, từng khu dân cư tại các địa phương.

Nếu người dân có ý thức trách nhiệm tốt thì công tác này sẽ triển khai

nhanh chóng, hiệu quả. Ngược lại, nếu đối tượng chịu tác động của chính sách

không hợp tác, không thực hiện nghiêm những quy định của Nhà nước thì công

tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất sẽ gặp nhiều trở

ngại, khó khăn. Chính vì vậy đối tượng chịu tác động của chính sách, có vai trò

quyết định sự thành bại trong quá trình triển khai thực hiện.

1.3.4. Các yếu tố khác

Yếu tố chính trị

Những quy định của pháp luật và chủ trương của Đảng là yếu tố ảnh hưởng

đến công tác bồi thường, hỗ trợ, thu hồi; công tác quản lý đất đai luôn biến động

theo cơ chế thị trường. Từ năm 1993 đến năm 2014, cơ quan có thẩm quyền đã

25

ban hành hơn 230 văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất. Hệ

thống quy phạm pháp luật đất đai cơ bản hoàn chỉnh, phù hợp với thực tế. Tuy

nhiên số lượng văn bản được ban hành nhiều với nhiều mảng, khó tổng hợp, tiếp

cận, áp dụng đồng bộ, dẫn đến hiệu quả thực hiện chính sách còn những hạn chế

nhất định.

Tác động tích cực

Những quy định pháp luật phù hợp, áp dụng thực hiện với thực tiễn đúng

đắn, đạt hiệu quả, tuân thủ đúng quy trình về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu

hồi đất sẽ góp phần phát triển kinh tế, xã hội bền vững tại các địa phương. Mức

bồi thường, hỗ trợ ngày càng cao, tạo điều kiện cho người dân bị thu hồi đất có

thể khôi phục lại chỗ ở ổn định để tiếp tục sinh sống, lao động, học tập...

Tuy chính sách pháp luật phù hợp nhưng sẽ không phát huy được hiệu quả

nếu không được áp dụng trong thực tiễn. Vì vậy vấn đề thực tiễn áp dụng đúng

đắn, tuân thủ triệt để pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trở

nên hết sức quan trọng và đóng vai trò chính tác động tích cực đến việc giữ gìn

ổn định chính trị xã hội, chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, ổn định đời sống sản

xuất cho người có đất bị thu hồi…những điều này đều sẽ góp phần làm tình hình

chính trị-xã hội trong nước ổn định.

Tác động tiêu cực

Các cấp chính quyền địa phương, trong quá trình thực hiện thu hồi đất, bồi

thường, hỗ trợ gặp rất nhiều vấn đề khó khăn từ thực tiễn. Việc thu hồi đất trong

thực tiễn ảnh hưởng, tác động rất lớn tới tình hình chính trị- xã hội theo cả hai

chiều tích cực và tiêu cực và ngược lại ở một mức độ nào đó tình hình chính trị

xã hội cũng tác động ngược trở lại việc áp dụng pháp luật bồi thường, hỗ trợ

trong thực tiễn.

Thực thi chính sách ở các địa phương cho thấy, quy định của pháp luật bồi

thường, hỗ trợ thì còn nhiều hạn chế, bất cập, tác động lớn đến đời sống của

những người bị thu hồi đất, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân.

26

Từ đó những vấn đề trên, đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền cần sớm hoàn

thiện quy định pháp luật và chỉnh đốn, kiểm soát chặt chẽ thực tiễn áp dụng pháp

luật về vấn đề bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.

Yếu tố pháp luật

Các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai của Nhà nước đã tạo cơ sở pháp

lý quan trọng trong việc tổ chức thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư khi Nhà nước thu hồi đất, hình thành trong quá trình công nghiệp hóa và

đô thị hóa. Do các quy định chưa thống nhất của pháp luật đất đai trong những

năm qua, dẫn đến kết quả thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, thu hồi đất

chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao.

Từ thực tiễn cho thấy, trong quá trình thực thi công vụ, việc áp dụng pháp

luật còn lúng túng trong quá trình thực hiện và giải quyết tranh chấp, khiếu nại,

tố cáo. Những quy phạm pháp luật được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã

hội, là cơ sở để mọi người chấp hành và thực hiện theo luật định, qua đó tác

động đến việc thực thi chính sách ở các địa phương. Có khi nhiều văn bản pháp

luật vừa ban hành đã phải sửa đổi, bổ sung, nên trong quá trình thực hiện không

thể thống kê, tiếp cận pháp luật mới một cách kịp thời. Chính vì vậy yếu tố pháp

luật tác động rất lớn đến thực hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định

cư khi Nhà nước thu hồi đất tại các địa phương.

Yếu tố kinh tế thị trường

Sự phát triển mạnh của thị trường bất động sản đã tác động lớn đến việc

thực thi chính sách thu hồi đất triển khai thực hiện các dự án đầu tư; người bị thu

hồi đất và giới kinh doanh tự do thỏa thuận cho thuê lại đất đai, nhà cửa mà

không cần thông qua chính quyền địa phương

Giá đất của thị trường sẽ tác động đến giá đất của nhà nước tính bồi thường

cho người dân. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường luôn gắn với liền với sự

phát triển của thị trường bất động sản dẫn đến giá đất tăng cao, các khu dân cư

đô thị ngày càng nhiều, do đó trong việc triển khai thực hiện chính sách về bồi

27

thường, hỗ trợ và tái định cư luôn bị ảnh hưởng, dẫn đến việc tranh chấp đất đai,

khiếu nại về áp giá đền bù, bồi thường của Nhà nước và ý thức chấp hành chủ

trương thu hồi đất của chính quyền địa phương, tác động lớn đến quá trình triển

khai thực hiện các dự án tại địa phương.

Yếu tố văn hóa, phong tục tập quán

Văn hóa, phong tục tập quán là truyền thống quý báu của dân tộc, là công

cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, tổng hợp các lý luận triết học, nhân sinh, cội

nguồn… Văn hóa, phong tục tập quán và pháp luật có mối quan hệ tác động lẫn

nhau, đồng thời tác động đến quá trình thực hiện chính sách về bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và tác động ngược lại với văn hóa,

phong tục tập quán.

Trên cơ sở văn hóa, phong tục, tập quán và quy định của pháp luật, các cấp

chính quyền có thể áp dụng thực hiện giải quyết các tranh chấp và những yêu

cầu khiếu nại, tố cáo về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất trong việc

thực hiện hòa giải, xác minh chứng cứ, thực hiện thi hành án… Qua đó cho thấy,

văn hóa, phong tục tập quán phù hợp đã góp phần làm cho pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng, pháp luật về đất

đai nói chung được thực hiện nghiêm chỉnh, tự giác trong mỗi cán bộ, công chức

và mọi tầng lớp nhân dân.

Yếu tố trình độ dân trí

Thực tiễn cho thấy, việc mua bán đất, tự do cò đất, chuyển giao quyền sử

dụng đất, thay đổi cuộc sống hiện tại đã ảnh hưởng đến sự đoàn kết nội bộ, mối

quan hệ gia đình, làng xóm, cuộc sống người dân bị tác động bởi lợi ích kinh tế,

cơ chế thị trường khi thực hiện quyền chuyển quyền sở hữu, chuyển mục đích sử

dụng đất và việc bồi thường, hỗ trợ trong chính sách đất đai ở các địa phương.

Diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp đồng nghĩa với tư liệu sản xuất của

người nông dân không còn nữa nên họ buộc phải tìm kế sinh nhai, trình độ hạn

chế, mức lương thấp, không đảm bảo được đời sống…gây áp lực về mặt kinh tế,

28

xã hội. Trong khi đó, nơi đi lại thiếu lao động, vấn đề sản xuất nông nghiệp nông

thôn bị ảnh hưởng không ít.

Tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung, tác động

của Luật đất đai nói riêng và trình độ nhận thức của người dân đã có những tác

động nhất định đến việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

khi nhà nước thu hồi đất tại các địa phương.

1.4. Một số kinh nghiệm thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư khi nhà nước thu hồi đất

1.4.1. Kinh nghiệm tại huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam

Tiên Phước là huyện vùng trung du, diện tích đất lâm nghiệp, đất rừng có

giá trị thấp, đa phần người dân không có nghề mưu sinh khác ngoài canh tác

nông lâm nghiệp để làm kế sinh sống. Chính vì vậy, công tác bồi thường GPMB

gặp nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu thực hiện chính sách trong giai

đoạn hiện nay.

Các cấp chính quyền địa phương đã tích cực vận động, tuyên truyền nhân

dân chấp hành chủ trương của nhà nước từ đó việc thu hồi đất, GPMB giao lại

cho các chủ đầu tư được thực hiện theo kế hoạch. Có được những kết quả đó là

nhờ ý thức và việc phối hợp chặt chẽ của người dân trong quá trình triển khai

thực hiện. Chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trên địa bàn tỉnh Quảng

Nam nói chung và huyện Tiên Phước nói riêng đã tương đối hợp lí, được nhân

dân chấp nhận từ đó giúp cho huyện Tiên Phước giải phóng được mặt bằng giao

cho chủ đầu tư kịp thời hạn để triển khai dự án góp phần làm thay đổi cơ cấu

kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Hằng năm các cấp Ủy Đảng, chính quyền, Mặt Trận tổ quốc đã có những

phương hướng, giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác

dân vận. Sự hợp tác, phối hợp chặt giữa Ban Dân vận cùng với chính quyền, Mặt

trận Tổ quốc và các đoàn thể nhằm triển khai các công tác tuyên truyền, vận

động người dân về vai trò và tầm quan trọng của công tác thu hồi đất từ đó lấy

29

được những ý kiến đóng góp của quần chúng nhân dân nhằm cải thiện các chính

sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất góp phần tạo điều kiện cho

công tác này được thực hiện một nhanh chóng, hiệu quả trên địa bàn huyện.

1.4.2. Kinh nghiệm tại huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang

Kiên Lương là một trong những huyện của tỉnh Kiên Giang có tốc độ phát

triển kinh tế - xã hội và đô thị hóa khá nhanh. Thời gian qua, trên địa bàn huyện

đã triển khai nhiều dự án đầu tư phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của

huyện, như dự án đầu tư xây dựng đường, chợ, cảng cá, khu du lịch ... Mặc dù

công tác giải phóng mặt bằng trong thời gian qua ở huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên

Giang đã cơ bản đáp ứng được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa

phương. Các cấp chính quyền địa phương bảo đảm thực hiện đúng quy trình từ

giai đoạn xây dựng kế hoạch thu hồi đất, tổ chức chi trả, bồi thường, hỗ trợ, bố

trí tái định cư, bàn giao quỹ đất thu hồi cho nhà đầu tư; thực hiện tốt việc xác

định điều kiện bồi thường, không bồi thường theo quy định của pháp luật. Phần

lớn công tác xét duyệt điều kiện bồi thường được thực hiện chặt chẽ nên hạn chế

phát sinh khiếu kiện sau phương án bồi thường phê duyệt. Các khu tái định cư

trên địa bàn huyện lập theo quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng, đáp ứng được yêu

cầu nguyện vọng của người dân tại các địa phương.

1.4.3. Kinh nghiệm tại thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội

Các cấp chính quyền đã chỉ đạo trực tiếp Ban Bồi thường GPMB, Trung

tâm phát triển quỹ đất và các phòng, ban theo từng chức năng, nhiệm vụ chuyên

môn đã bám sát các nhiệm vụ trọng tâm, đồng bộ có hiệu quả nhiều giải pháp

nhằm đẩy nhanh tiến độ công tác GPMB các dự án đầu tư trên địa bàn.

Địa phương đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động, giải thích các

chính sách, chủ trương của Nhà nước từ đó người dân đồng tình ủng hộ, góp

phần phát triển kinh tế xã hội tại địa phương. Mọi tầng lớp nhân dân đều nâng

cao ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ thực hiện chủ trương GPMB khi Nhà nước

30

thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế, xã

hội tại địa phương.

Các cấp chính quyền tăng cường cải cách thủ tục hành chính trong việc

thực hiện các chính sách đất đai tại địa phương.

Thường xuyên tổ chức vận động nhân dân, nâng cao nhận thức của các cấp

ủy Đảng, chính quyền và mọi tầng lớp nhân dân trong việc chấp hành chính

sách, pháp Luật Đất đai và công tác bồi thường GPMT trên địa bàn Thị xã Sơn

Tây.

Phát huy vai trò của cán bộ, Đảng viên trong các chi bộ Đảng, các tổ chức

quần chúng nhằm tăng hiệu quả của công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

khi Nhà nước thu hồi đất.

Nâng cao năng lực cho các cán bộ, đầu tư cơ sở vật chất, điều kiện làm việc

và quán triệt, nâng cao tinh thần trách nhiệm cho các cán bộ trong công tác bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư.

31

Tiểu kết chương 1

Chương 1, Luận văn đã tập trung khái quát một số khái niệm liên quan đến

chính sách công, chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu

hồi đất; thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu

hồi đất bao gồm lý luận về thực hiện chính sách; Phổ biến, tuyên truyền thực

hiện chính sách; Triển khai thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất; Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc về thực hiện chính sách và

đánh giá, rút kinh nghiệm công tác thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư khi nhà nước thu hồi đất. Đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm của một số

địa phương và phân tích các yếu tố tác động đến công tác này như yếu tố chính

trị, pháp luật, kinh tế thị trường, văn hóa, phong tục tập quán, trình độ dân trí...

Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là nhiệm vụ vô cùng khó

khăn, trong quá trình triển khai có nhiều ảnh hưởng đến quyền lợi, cuộc sống của

người dân ở các địa phương. Chính vì thế các cấp, chính quyền địa phương cần

xây dựng cơ chế, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành, bảo đảm

triển khai thực hiện chính sách đồng bộ, hiệu quả, phù hợp với tửng địa phương.

Luận văn tiếp tục nghiên cứu Chương 2 để phân tích rõ hơn những nội dung trên.

32

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ

VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN BÌNH SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI

2.1. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn,

tỉnh Quảng Ngãi

2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên

Tỉnh Quảng Ngãi bao gồm thành phố Quảng Ngãi và các huyện Bình Sơn,

Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ, Trà Bồng, Sơn Hà, Sơn

Tây, Minh Long, Ba Tơ, Lý Sơn.

Vị trí địa lý

Tỉnh Quảng Ngãi nằm ở duyên hải Nam Trung Bộ, trong đó phía bắc

giáp tỉnh Quảng Nam trên ranh giới các huyện Bình Sơn và Trà Bồng; phía nam

giáp tỉnh Bình Định trên ranh giới các huyện Đức Phổ, Ba Tơ; phía tây, tây bắc

giáp tỉnh Quảng Nam và tỉnh Kon Tum trên ranh giới các huyện Trà Bồng, Sơn

Tây và Ba Tơ; phía tây nam giáp tỉnh Gia Lai trên ranh giới huyện Ba Tơ; phía

đông giáp biển Đông.

Điều kiện tự nhiên

Tỉnh Quảng Ngãi có diện tích tự nhiên 5.131,5 km2, bằng 1,7% diện tích tự

nhiên cả nước, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.

Địa hình

Quảng Ngãi là tỉnh thuộc duyên hải Trung Trung Bộ với đặc điểm địa hình

đồng bằng ven biển ở phía đông đến địa hình miền núi cao ở phía tây. Miền núi

chiếm khoảng 3/4 diện tích tự nhiên toàn tỉnh, đồng bằng nhỏ hẹp chiếm 1/4 diện

tích tự nhiên.

Khí hậu

33

Quảng Ngãi nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Đông và gió mùa mùa

Hè. Do địa hình chi phối nên hướng gió không phản ảnh đúng cơ chế của hoàn

lưu. Tuy nhiên, hướng gió hình thành vẫn biến đổi theo mùa rõ rệt.

Nằm trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu, Quảng Ngãi có nền nhiệt độ cao

và ít biến động trong năm. Mùa lạnh các tháng có nhiệt độ trung bình ổn định dưới 200C, mùa nóng có nhiệt độ trung bình ổn định. [40, tr.1]

2.1.2 Tình hình kinh tế xã hội

Huyện uỷ Bình Sơn đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về đầu tư phát triển

kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông, đô thị giai đoạn 2016 - 2020. Trên cơ

sở đó, UBND huyện và các địa phương đã huy động nhiều nguồn lực để đầu tư

phát triển đồng bộ hạ tầng giao thông, đô thị.

Trong đó, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính

quyền, nhất là phát huy vai trò của MTTQ và các đoàn thể từ huyện đến cơ sở để

tuyên truyền, huy động nguồn lực trong dân để xây dựng các tuyến đường do

huyện, xã làm chủ đầu tư; khuyến khích người dân tự làm đường ngõ, xóm,

đường vào hộ gia đình.

Qua triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, từ tháng 12.2016 đến nay, huyện

Bình Sơn đã tranh thủ các nguồn vốn đầu tư 105 tỷ đồng làm mới, sửa chữa,

nâng cấp các tuyến đường huyện, với chiều dài 26,1km. Với phương châm “Nhà

nước và nhân dân cùng làm”, 2 năm qua, toàn huyện đã huy động được hàng

nghìn ngày công lao động trong nhân dân để làm mới, tu sửa các công trình giao

thông; vận động hàng trăm hộ dân hiến cả nghìn mét vuông đất để mở đường.

Đến nay, toàn huyện có 210/249km đường trục xã, liên xã được thảm

nhựa hoặc bê tông (đạt 84,5%); cứng hóa 146,7/212km đường trục thôn, xóm;

gần 200/534km đường ngõ, xóm đã sạch và không còn lầy lội vào mùa mưa.

Huyện cũng đã đầu tư làm kiên cố 122,5/566 km đường trục chính nội đồng...

“Các công trình giao thông trên địa bàn huyện được đầu tư xây dựng đã phát huy

hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện”, ông

Khiêm nhấn mạnh.

34

Bình Sơn cũng chú trọng phát triển hạ tầng đô thị. Huyện đã hoàn thành

việc lập quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 thị trấn Châu Ổ; lập quy hoạch chi tiết

1/500 dọc hai bên sông Trà Bồng, nhằm thúc đẩy phát triển đô thị; triển khai thủ

tục mở rộng địa giới hành chính thị trấn Châu Ổ về hướng xã Bình Thới và một

phần diện tích xã Bình Trung, Bình Nguyên và Bình Long.

Đồng thời triển khai xây dựng các bờ kè chống sạt lở dọc sông Trà Bồng

đoạn qua thị trấn Châu Ổ để tạo không gian, cảnh quan đô thị ven sông... Huyện

kêu gọi đầu tư dự án Trung tâm Thể dục-thể thao và tỉnh đã chấp thuận cho hộ

kinh doanh Thanh Lương triển khai dự án Khu Thể thao và Dịch vụ Thanh

Lương; hộ kinh doanh Long Thảo triển khai dự án Khu liên hợp thể thao và Dịch

vụ Long Thảo theo hình thức xã hội hóa; triển khai dự án khu dân cư bờ kè bắc

sông Trà Bồng, với diện tích 40ha; đầu tư xây dựng công viên cây xanh bờ kè

bắc sông Trà Bồng, với tổng mức đầu tư gần 12 tỷ đồng...

Tổng giá trị sản xuất công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp thực hiện đạt

1.411 tỷ đồng, bằng 62,85% kế hoạch năm; doanh thu thương mại- dịch vụ đạt

4.566 tỷ đồng, bằng 59,55% kế hoạch.

Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, đến

nay toàn huyện có 9/24 xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia nông thôn mới;

bình quân số tiêu chí đạt chuẩn trên xã là 15,21 tiêu chí. Thực hiện đầu tư xây

dựng nhiều công trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế biển; khuyến khích ngư

dân đầu tư đóng mới tàu cá công suất lớn, mua sắm trang thiết bị hiện đại để

vươn khơi xa khai thác hải sản.

Quảng Ngãi đang dần vươn mình phát triển mạnh mẽ hứa hẹn tạo ra một

Quảng Ngãi hiện đại và năng động; thực hiện hàng loạt các dự án đã làm thay

đổi bộ mặt của thành phố như: Dự án Khu dịch vụ chất lượng cao - Bệnh viện

Đa khoa tỉnh , thành phố giáo dục và y tế của tập đoàn Nguyễn Hoàng; Dự án

trung tâm thương mại VinCom của tập đoàn VinGroup…

Lý Sơn thu hút hàng trăm nghìn khách du lịch đến với hòn đảo xinh đẹp.

Huyện Bình Sơn với khu công nghiệp Dung Quất cũng đã thu hút nhiều tập

đoàn, doanh nghiệp lớn trong cả nước về đầu tư, tạo công ăn việc làm cho hàng

35

nghìn lao động nông thôn, góp phần phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng

Ngãi. Các cấp chính quyền chấp thuận chủ trương đầu tư 27 dự án khu đô thị,

khu dân cư với tổng diện tích quy hoạch 198,44 ha, tổng mức đầu tư gần 2.684

tỷ đồng. Hình thành nhiều khu dân cư mới khang trang, đồng bộ, hiện đại góp

phần phát triển đô thị như: Khu Đô thị - Dịch vụ VSIP, Khu đô thị Ngọc Bảo

Viên, khu dân cư Bắc Lê Lợi, An Phú Sinh, khu dân cư Nam thị trấn Châu Ổ...

Bên cạnh đó, Quảng Ngãi còn có những dự án kinh tế lớn như: dự án

đường ven biển Dung Quất – Sa Huỳnh với tổng kinh phí 2.000 tỷ đồng, dự án

cầu Cửa Đại có kinh phí 2.250 và dự án Đập dâng sông Trà Khúc với tổng mức

đầu tư là 1.500 tỷ đồng và nhiều dự án lớn nhỏ khác. Những dự án được đầu tư

tại Quảng Ngãi sẽ là tiền đề quan trọng để thúc đẩy Quảng Ngãi phát triển hơn

nữa trong một tương lai không xa.

Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện, thu hút đầu tư vẫn được

duy trì; đối thoại giữa chính quyền với doanh nghiệp được tăng cường, kịp thời

tháo gỡ khó khăn vướng mắc tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển.

Từ những dự án lớn, bức tranh tổng thể của Quảng Ngãi đã được dần thay

da, đổi thịt, đồng thời Quảng Ngãi vẫn luôn đẩy mạnh công tác đến ơn đáp

nghĩa, an sinh xã hội được quan tâm triển khai với nhiều hoạt động thiết thực, ý

nghĩa; giáo dục và đào tạo tiếp tục được cải thiện chất lượng dạy và học. Các

lĩnh vực khác như y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, tạo việc làm, văn hóa, thể

dục thể thao tiếp tục đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Bảo đảm an ninh

chính trị, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương.

Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; nâng cao chỉ số năng lực

cạnh tranh cấp tỉnh; từng bước đổi mới, sáng tạo, tạo điều kiện cơ chế chính sách

trong khởi nghiệp; phát triển doanh nghiệp; khơi thông, huy động nguồn lực xã

hội cho đầu tư phát triển; thực hiện có hiệu quả 3 nhiệm vụ đột phá, 3 nhiệm vụ

trọng tâm; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý tài nguyên, môi trường.

Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và cung cấp đầy

đủ, kịp thời thông tin trên các lĩnh vực về chính sách, pháp luật và môi trường

đầu tư, kinh doanh, năng lực cạnh tranh. Thực thi cam kết, tiếp tục đồng hành

36

cùng doanh nghiệp, nhà đầu tư trong việc triển khai các dự án đã cấp phép sớm

đi vào hoạt động, sản xuất kinh doanh.

Xây dựng cơ chế chính sách khởi nghiệp, phát triển doanh nghiệp, nâng

cao hiệu quả hỗ trợ doanh nghiệp và các mô hình hộ gia đình. Có cơ chế hỗ trợ,

khuyến khích hộ kinh doanh cá thể chuyển thành doanh nghiệp.

Tập trung chỉ đạo đẩy mạnh phát triển công nghiệp, phát huy tối đa tiềm

năng, lợi thế, ưu tiên thu hút các ngành công nghiệp đã định hướng, tập trung thu

hút các dự án cảng biển và hệ thống Logistisc; đẩy mạnh phát triển công nghiệp

công nghệ cao; công nghiệp sạch; công nghiệp hóa dầu; công nghiệp chế biến,

sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp phụ trợ. Tích cực

phối hợp, hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện dự án đưa khí từ mỏ Cá Voi Xanh vào bờ,

chuẩn bị các điều kiện để thực hiện các dự án điện khí tại Khu kinh tế Dung

Quất.

Khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế về cảnh quan thiên nhiên, các di sản

văn hóa, thế mạnh đặc trưng các vùng, miền để phát triển đa dạng các loại hình,

sản phẩm du lịch; khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển các khu,

điểm du lịch như: Bình Châu – Lý Sơn, Mỹ Khê, Sa Huỳnh...

Huy động, sử dụng hiệu quả nhiều nguồn lực phát triển kết cấu hạ tầng;

đẩy nhanh tiến độ các công trình trọng điểm như: Đập dâng hạ lưu sông Trà

Khúc; kè chắn cát cảng Dung Quất (giai đoạn 2); các tuyến đê huyện Bình Sơn:

Đập ngăn mặn Trà Bồng, đập ngăn mặn Bình Nguyên và Bình Phước. Triển

khai đầu tư Tuyến đường ven biển Dung Quất - Sa Huỳnh giai đoạn 2a; đường

nối cầu Thạch Bích đến Tịnh Phong giai đoạn 1...

Tiếp tục đầu tư hạ tầng đô thị thành phố Quảng Ngãi, huyện Đức Phổ và

các thị trấn, đô thị theo quy hoạch. Trong đó, tập trung ưu tiên đầu tư phát triển

đô thị thành phố Quảng Ngãi đạt một số tiêu chí đô thị loại 1, đưa thị trấn Đức

Phổ trở thành thị xã thuộc tỉnh.

Các cấp chính quyền xác định thực hiện cải cải cách thủ tục hành chính,

phát triển mô hình hành chính công, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân tại

các địa phương [43, tr.2-3-4-5].

37

Huyện Bình Sơn có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế, xã hội, theo

báo của Huyện ủy huyện Bình Sơn, kinh tế đã đạt và vượt nhiều chỉ tiêu quan

trọng. Tổng giá trị sản xuất đến năm 2020 đạt gần 17.500 tỷ đồng (Nghị quyết đề

ra 17.450 tỷ đồng), tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân nhiệm kỳ đạt 11,3%

(Nghị quyết 11 - 12%/năm). Thu nhập bình quân đến năm 2020 trên 50 triệu

đồng/người/năm, đạt kế hoạch đề ra...

Thời gian qua, huyện Bình Sơn thực hiện các nhiệm vụ đột phá, nhiệm vụ

trọng tâm đạt kết quả toàn diện, nhất là đột phá về đẩy mạnh đầu tư phát triển kết

cấu hạ tầng. Nhiều công trình giao thông quan trọng, quy mô lớn được đầu tư,

nâng cấp, đảm bảo kết nối giữa các vùng và cơ bản đáp ứng nhu cầu đi lại của

nhân dân.

Theo đó, huyện đã đầu tư nâng cấp, sửa chữa 26,156km đường huyện, với

tổng kinh phí 105,251 tỷ đồng, lũy kế đến nay có 89,81km/108,55km đường

huyện đã được nhựa hóa, bê tông, đạt 82,74% so với tổng số đường huyện được

quy hoạch (đạt 103,4% chỉ tiêu). Thị trấn Châu Ổ đạt 48/59 tiêu chí đô thị loại

IV...

Các địa phương trên địa bàn huyện tích cực triển khai thực hiện chính sách

bồi thường, hỗ trợ và tái định cư và các mục tiêu kinh tế, xã hội để lập thành tích

chào mừng chuẩn bị tổ chức đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu

Đảng bộ huyện lần thứ XXVII, nhiệm kỳ 2020 – 2025 [40, tr.6].

2.1.3. Phong tục tập quán

Huyện Bình Sơn với diện tích 466,77 km2. Dân số 180.045 người, có một

số ít đồng bào dân tộc Cor sinh sống tại địa phương. Mật độ dân số 386

người/km2. Gồm có 1 thị trấn và 24 xã.

Phong tục tập quán gắn liền với cuộc sống người dân tại địa phương. Ta

biết đến Bình Sơn với những truyền thống như khai thác rong mơ, trồng giống

lúa Nàng Thương 9, mô hình trồng tỏi Lý Sơn, phong tục Tết ngã rạ... Người dân

nơi đây chủ yếu sống bằng nghề nông và đánh bắt chế biến hải sản, một số ít làm

đồ gỗ, đồ gốm.

38

UBND tỉnh Quảng Ngãi đã chọn Lý Sơn và 3 huyện Bình Sơn, Nghĩa

Hành, Ba Tơ xây dựng thí điểm phát triển sản phẩm du lịch cộng đồng từ nay

đến năm 2020. Trên tuyến du lịch đến Bình Sơn- Lý Sơn, du khách tham gia các

hoạt động du lịch cộng đồng gắn kết giữa làng bích họa Gành Yến và các điểm

trải nghiệm trưng bày đồ cổ và gốm Mỹ Thiện. Qua đó, kết nối tour du lịch

khám phá những giá trị tương đồng về cảnh quan và địa chất nằm trong quần thể

Công viên địa chất Lý Sơn- Sa Huỳnh [40, tr.1].

Bình Sơn là một huyện có truyền thống văn hóa, cách mạng lâu đời từ thế

kỷ thứ 18 với phong trào Tây Sơn và bắt đầu từ năm 1998, Khu kinh tế Dung

Quất nằm trên địa hạt huyện ra đời đã tạo điều kiện thuật lợi để Bình Sơn phát

triển kinh tế - xã hội tại địa phương. Xuất phát điểm từ đó nên khi triển khai các

dự án, công trình sẽ tác động rất lớn đến đời sống nhân dân, đến phong tục tập

quán địa phương; yếu tố phong tục tập quán sẽ tác động ngược lại đối với việc

thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.

Chính vì vậy, các cấp chính quyền địa phương cần có những giải pháp phù hợp

vừa bảo đảm phát triển kinh tế, vừa bảo đảm gìn giữ văn hóa truyền thống, lịch

sử cách mạng và phong tục tập quán của người dân trên địa bàn huyện.

Xuất phát từ chủ trương chung trên địa bàn huyện, Ban Tuyên giáo Huyện

ủy huyện Bình Sơn ban hành Hướng dẫn số 77-HD/BTGHU ngày 26/03/2020 về

công tác văn hóa, văn nghệ năm 2020 và các hoạt động văn hóa, văn nghệ chào

mừng đại hội đảng các cấp tiến tới đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của

Đảng. Qua đó, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho mọi tầng lớp nhân dân,

góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, qua đó, giáo dục đạo

đức, lối sống, xây dựng nhân cách con người Bình Sơn đáp ứng yêu cầu phát

triển bền vững tại địa phương [37, tr.2].

2.1.4. Chủ thể thực hiện chính sách

Trong những năm qua UBND tỉnh, huyện đã phối hợp với các cơ quan, Tập

đoàn, doanh nghiệp triển khai rất nhiều dự án: Dự án quần thể du lịch của Tập

đoàn FLC; Dự án khu dân cư Đông Nam trung tâm Châu Ổ do Công ty cổ phần

công trình giao thông 5 (Cienco 5) làm chủ đầu tư, với tổng vốn 200 tỷ; Dự án

39

Đầu tư mở rộng Khu liên hợp sản xuất gang thép Hòa Phát Dung Quất và các dự

án vệ tinh của Khu liên hợp sản xuất gang thép Hòa Phát Dung Quất. Khu liên

hợp sản xuất gang thép Hòa Phát Dung Quất có tổng vốn đầu tư 52.000 tỷ đồng;

Dự án "Phòng chống đuối nước cho trẻ em" được thực hiện tại xã Bình Chương,

xã Bình Hòa và xã Bình Mỹ (huyện Bình Sơn). Dự án do Hội Chữ thập đỏ tỉnh

Quảng Ngãi phối hợp với Tổ chức Cứu trợ Trẻ em và Prudential Việt Nam. Với

tổng kinh phí tài trợ là 4,3 tỷ đồng, dự án tập trung thực hiện tại các xã thường

xuyên hứng chịu những rủi ro từ thiên tai....

Chủ trương của các cấp chính quyền địa phương là thực hiện các chính

sách, phát triển kinh tế, triển khai các dự án phải đặt lợi ích của người dân lên

hàng đầu; đảm bảo các trình tự thủ tục, dự án đầu tư phải kết hợp phát triển kinh

tế – xã hội gắn với bảo đảm an ninh – quốc phòng. Khu vực nào có những quy

hoạch về quốc phòng thì phải tuân thủ các quy định về quốc phòng; đồng thời

buộc nhà đầu tư cam kết tuân thủ những nội dung này, quá đó tạo được sự đồng

thuận của các cấp chính quyền với nhân dân và nhân dân với các chủ trương phát

triển kinh tế, thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước

thu hồi đất tại các địa phương. Qua đó, vừa thể hiện vai trò của chủ thể thực hiện

chính sách, sự quan tâm lãnh đạo chỉ đạo trong việc triển khai các dự án, phát

triển kinh tế nói chung và triển khai thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và

tái định cư khi nhà nước thu hồi đất nói riêng trên địa bàn huyện.

Thực tiễn các địa phương, chủ thể thực hiện chính sách trong quá trình

quản lý, triển khai thực hiện sẽ tiếp cận kịp thời những phản ánh, ý kiến của

nhân dân, mới biết được chính sách có đúng, phù hợp và đi vào cuộc sống hay

không. Đó là cơ sở để đánh giá kết quả thực sự trong quá trình thực hiện chính

sách. Việc đưa chính sách vào thực tiễn cuộc sống là một quá trình phức tạp đầy

biến động, chịu sự tác động của nhiều yếu tố giúp các chủ thể thực hiện chính

sách, tổ chức thực hiện chính sách những giải pháp trong thực hiện chính sách ở

các địa phương, đồng thời kịp thời đề xuất cấp có thầm quyền điều chỉnh, bổ

sung và hoàn thiện chính sách cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu,

nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân.

40

Trong quá trình triển khai thực hiện, xét thấy những chính sách không phù

hợp, các cấp chính quyền huyện Bình Sơn đã đề xuất cấp có thẩm quyền điều

chỉnh, sửa đổi hoặc bãi bõ, ban hành mới chính sách phù hợp hơn. Chẳng hạn

như vừa qua, UBND tỉnh Quảng Ngãi ký quyết định đóng cửa mỏ khoáng sản

cát làm vật liệu xây dựng thông thường tại mỏ cát thôn Lộc Thịnh và mỏ cát

Thác Gốc, xã Bình Minh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi theo Giấy phép khai

thác khoáng sản số 53/GP-UBND ngày 29/7/2016 của UBND tỉnh. Diện tích

đóng cửa mỏ khai trường: 2,32ha. Việc đóng cửa mỏ, nhằm phục vụ cho công

tác quản lý về hoạt động khoáng sản, bảo vệ khoáng sản và giao đất cho địa

phương để quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật

khác có liên quan; phục hồi môi trường khu vực đã khai thác.

Từ những phân tích trên cho thấy, chủ thể thực hiện chính sách là các cấp

chính quyền địa phương, các chủ đầu tư, dự án và các cơ quan, doanh nghiệp

liên quan trong việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi

nhà nước thu hồi đất tại địa phương, luôn là người hoạch định chính, xây dựng

cơ chế triển khai, phối hợp để thực hiện chính sách, hiệu quả quản lý, kết quả

thực hiện chính sách phụ thuộc rất lớn vào chủ thể thực hiện chính sách [39, tr.1-

2].

2.1.5. Đối tượng chịu sự tác động của chính sách

Huyện Bình Sơn là địa phương có rất nhiều dự án của tỉnh Quảng Ngãi

được xây dựng, phát triển tại đây nên việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định

cư khi thu hồi đất sẽ ảnh hưởng đến đối tượng chịu sự tác động của chính sách là

người dân tại địa phương. Trong đó có dự án quần thể du lịch của Tập đoàn

FLC, chính quyền địa phương có chủ trương cho quy hoạch khu đô thị tái định

cư hàng trăm hộ dân thuộc dự án FLC đã tác động đến 17.000 người dân làng

chài. Do đó, các cấp chính quyền và nhà đầu tư trong quá trình triển khai phải

nghiên cứu, bố trí xen kẽ một số tuyến đường ra biển và không gian bờ biển

dùng chung cho cộng đồng tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đi lại, tiếp cận

với biển. Đồng thời bảo tồn các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, các giá trị

địa chất, khoáng sản, núi lửa trong khu vực quy hoạch dự án và vùng phụ cận,

41

nhất là việc bảo tồn các giá trị địa chất núi lửa, các di sản, di tích trong khu vực

dự án và vùng phụ cận....

Đối tượng chịu sự tác động của chính sách là rất lớn, các cấp, các ngành

phải xây dựng chiến lược quy hoạch theo hướng không phân thành nhiều khu tái

định cư nhỏ, mà tập trung đầu tư xây dựng một hoặc vài khu đô thị với quy mô

lớn ở Bình Châu và một số khu vực khác cho phù hợp với nghề biển, nông

nghiệp, tập quán sinh hoạt của người dân địa phương. Đồng thời chủ đầu tư phải

tạm ứng để thực hiện theo tiến độ và yêu cầu đặt ra.

Trong thực tiễn, ý thức tự giác của nhân dân ta khá cao trong chấp hành

quyết định thu hồi đất của Nhà nước vào mục đích quốc phòng, an ninh, xây

dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật (như đường giao thông, công trình thủy lợi, v.v...),

xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội (như trường học, bệnh viện, sân vận động, công

viên, chợ, v.v...). Nhiều người dân nhận mức bồi thường, hỗ trợ hợp lý hoặc tự

nguyện hiến đất để góp chung trong việc phát triển kinh tế xã hội tại địa phương.

Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp khi thực hiện chính sách bồi thường, hỗ

trợ, tái định cư nhằm thực hiện các dự án, công trình như: mở rộng đường giao

thông thuộc khu dân cư; xây dựng nhà ở để kinh doanh; làm khu công nghiệp

cho doanh nghiệp..... được tái định cư không thuận lợi bằng nơi ở cũ hoặc không

chấp nhận áp giá đền bù để di dời, họ đã không chấp hành những quy định của

pháp luật và nhận thấy rõ được lợi ích của việc thực hiện chính sách để góp phần

phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống nhân dân trên địa bàn huyện.

Từ những tình trạng trên, gây ra tâm lý nhiều người bị thu hồi đất không

muốn chuyển đi, hoặc nếu chấp nhận chuyển đi họ thường đòi bồi thường với

giá rất cao trong khi giá bồi thường của Nhà nước thấp hơn nhiều so với giá thị

trường, nên quá trình áp giá bồi thường, triển khai các dự án gặp nhiều khó khăn,

có những trường hợp khiếu nại, khiếu kiện kéo dài, ảnh hưởng chung đến sự

phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Do đó, nhận thức và sự đồng thuận của

đối tượng chịu tác động của chính sách có vai trò rất lớn để thể hiện hiệu quả của

chính sách, thể hiện chính sách đi vào cuộc sống, phù hợp với tình hình thực tế

tại địa phương.

42

Trong quá trình phát triển, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc

triển khai các dự án mới là cần thiết và tất yếu. Tuy nhiên phải bảo đảm lợi ích

của người dân, bảo đảm phát triển bền vững, từng bước nâng cao đời sống nhân

dân trên địa bàn huyện [39, tr.2-3].

2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng

Ngãi

2.2.1. Ban hành văn bản, xây dựng chương trình, kế hoạch về thực hiện

chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất

Trên cơ sở những chủ trương, chính sách của Đảng và quy định pháp luật

của Nhà nước, các cấp chính quyền địa phương tỉnh Quảng Ngãi đã ban hành

nhiều văn bản liên quan đến thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định

cư khi nhà nước thu hồi đất tại địa phương như:

Quyết định số 35/2010/QĐ-UBND ngày 27/12/2010 của UBND tỉnh về

việc ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu

hồi đất áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi;

Quyết định số 155/QĐ-UBND ngày 18/8/2011 của UBND tỉnh về việc sửa

đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 144/QĐ-UBND ngày 30/8/2010 của

UBND tỉnh quy định bổ sung về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước

thu hồi đất để thực hiện các dự án hồ chứa nước nước trong, tỉnh Quảng Ngãi;

Quyết định số 67/2014/QĐ-UBND ngày 31/12/2014 của UBND tỉnh

Quảng Ngãi ban hành Quy định về giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

áp dụng cho thời kỳ 05 năm (2015 - 2019);

Quyết định số 56/QĐ-UBND ngày 28/02/2014 của UBND tỉnh Quảng Ngãi

về việc phê duyệt quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất 5

năm kỳ đầu (2011-2015) huyện Bình Sơn;

Quyết định số 627/QĐ-UBND ngày 26/4/2014 của Chủ tịch UBND tỉnh về

việc phê duyệt Tiểu dự án giải phóng mặt bằng đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng

Ngãi, đoạn qua tỉnh Quảng Ngãi;

43

Quyết định số 913/QĐ-UBND ngày 26/6/2014 của UBND tỉnh Quảng

Ngãi về việc phê duyệt quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng

đất 5 năm kỳ đầu (2011-2015) Khu kinh tế Dung Quất (09 xã thuộc KKT hiện

hữu);

Quyết định số 54/2015/QĐ-UBND ngày 10/12/2015 của UBND tỉnh ban

hành Quy định về hạn mức giao đất để xây dựng nhà ở; hạn mức công nhận diện

tích đất ở và xác định diện tích đất ở khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,

quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất đối với hộ gia đình, cá

nhân và quy định về diện tích tối thiểu được tách thửa đối với đất ở trên địa bàn

tỉnh Quảng Ngãi;

Căn cứ Quyết định số 1979/QĐ-UBND ngày 25/10/2016 của Chủ tịch

UBND tỉnh về việc điều chỉnh Chủ đầu tư các dự án hiện do Sở Giao thông vận

tải làm Chủ đầu tư sang Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng các công trình giao

thông tỉnh làm chủ đầu tư;

Quyết định số 1244/QĐ-UBND ngày 03/7/2017 của UBND tỉnh về việc

phê duyệt quyết toán công trình hoàn thành dự án: Tiểu Dự án giải phóng mặt

bằng đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi, đoạn qua tỉnh Quảng Ngãi (Đợt 4:

khu tái định cư điền trang (mở rộng), khu tái định cư Điền Long (mở rộng), điểm

dân cư Vũng Thảo (giai đoạn 2 và 3), 8 hạng mục di dời đường điện và hạng

mục đền bì đường chính đợt 2 gồm 157 phương án);

Quyết định số 48/2017/QĐ-UBND ngày 18/8/2017 của UBND tỉnh ban

hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất áp

dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi;

Quyết định số 79/2017/QĐ-UBND ngày 12/12/2017 của UBND tỉnh ban

hành trình tự, thủ tục khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

Quyết định số 05/2018/QĐ-UBND ngày 23/01/2018 của UBND tỉnh bổ

sung, điều chỉnh bảng giá đất ở trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi áp dụng cho thời

kỳ 05 năm (2015 – 2019) ban hành kèm theo Quyết định số 67/2014/QĐ-UBND

ngày 31/12/2014 của UBND tỉnh Quảng Ngãi;

44

Quyết định số 69/QĐ-UBND ngày 24/01/2018 của UBND tỉnh về việc phê

duyệt Kế hoạch sử dụng đất năm 2019 của huyện Bình Sơn;

Nghị quyết số 32/2018/NQ-HĐND ngày 26/12/2018 của Hội đồng nhân

dân tỉnh về việc thông qua danh mục công trình, dự án phải thu hồi đất và

chuyển mục đích sử dụng đất lúa, đất rừng phòng hộ sang đất phi nông nghiệp

năm 2019 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi;

Quyết định số 525/QĐ-UBND ngày 28/6/2019 của UBND tỉnh về việc phê

duyệt Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 huyện Bình Sơn;

Quyết định số 737/QĐ-UBND ngày 27/9/2019 của UBND tỉnh ban hành

quy chế thực hiện dân chủ trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi;

Nghị quyết số 28/2019/NQ-HĐND ngày 27/12/2019 của Hội đồng nhân

dân tỉnh về việc thông qua danh mục công trình, dự án phải thu hồi đất và

chuyển mục đích sử dụng đất lúa, đất rừng phòng hộ sang đất phi nông nghiệp

năm 2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi;

Quyết định số 167/QĐ-UBND ngày 19/03/2020 của UBND tỉnh về việc

phê duyệt kế hoạch sử dụng đất năm 2020 của huyện Bình Sơn.

Việc thực hiện chính sách đất đai, thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

là nhiệm vụ thường xuyên, nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân

dân tại địa phương. Xác định được tầm quan trọng đó nên các cấp chính quyền

địa phương huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi luôn quan tâm đến công tác tổ

chức cán bộ, đào tạo công chức chuyên môn đạt chuẩn và tập trung xây dựng,

ban hành văn bản để quản lý, triển khai hực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ

và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất tại các địa phương [42, tr.1-2].

2.2.2. Phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thực hiện chính sách

bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất

Công tác tuyên truyền có vai trò quan trọng trong việc giúp cho các cán bộ,

công chức, viên chức thực thi chính sách và bảo đảm các nguyên tắc bồi thường,

hỗ trợ, tái định cư cho người dân theo luật định. UBND huyện Bình Sơn đã chỉ

đạo các ngành liên quan và UBND các xã, thị trấn phối hợp thực hiện tuyên

45

truyền phổ biến về chính sách thu hồi đất, chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định

cư ở các địa phương.

Qua đó cho thấy, các cấp, các ngành thực hiện công tác tuyên truyền, phô

biến chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, đạt kết quả tương đối, được mọi

người dân đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế, công tác tuyên

truyền thông qua các buổi họp, sinh hoạt tại các khu dân cư được tổ chức không

thường xuyên, công tác soạn thảo đề cương tuyên truyền về các văn bản luật

chưa khoa học, chưa sát với thực tế địa phương.

Thiết nghĩ chính quyền địa phương cần đổi mới phương pháp, nội dung

tuyên truyền, qua đó tạo điều kiện cho nhân dân dễ tìm hiểu, tiếp cận những

chính sách mới và ý nghĩa của việc bồi thường, thu hồi đất, tái định cư để thực

hiện cho mục đích quốc phòng, an ninh, tăng cường phát triển kinh tế - xã hội,

nâng cao đời sống nhân dân tại các địa phương. Do triển khai tốt công tác tuyên

truyền, vận động đã tạo được sự đồng thuận cao trong nhân dân nên nhiều dự án,

công trình được triển khai thực hiện đúng tiến độ, bồi thường thỏa đáng và tái

định cư phù hợp cho từng hộ dân trên địa bàn huyện bảo đảm theo quy định pháp

luật [44, tr 3].

2.2.3. Triển khai thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất

Thực tiễn cho thấy việc khiếu nại về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư có xu

hướng tăng và phức tạp, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế – xã hội của huyện;

một số địa phương chưa chủ động nghiên cứu các quy định của pháp luật để giải

quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban

nhân dân cấp huyện.

Trước tình hình đó, để đẩy nhanh tiến độ thực hiện công tác bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư, đáp ứng tốt nhất yêu cầu đặt ra vừa ổn định đời sống nhân dân,

bảo đảm quyền lợi người dân, vừa triển khai các dự án đầu tư trên địa bàn huyện,

góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Ủy ban nhân dân

huyện yêu cầu các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, Ủy ban nhân dân các xã chủ

46

động phối hợp với các chủ dự án và tổ chức có liên quan thực hiện tốt chính sách

bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất đảm bảo công khai,

minh bạch, dân chủ, công bằng và thuận lợi trong quá trình giải phóng mặt bằng,

bàn giao đất thực hiện các dự án, tạo mọi điều kiện cho các tổ chức, doanh

nghiệp đầu tư phát triển kinh tế tại địa phương.

Các cấp đã tiến hành rà soát lại quỹ đất tái định cư, tận dụng các khu tái

định cư đã có để phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, đồng thời, chủ

động nghiên cứu đầu tư xây dựng hạ tầng theo thẩm quyền trên cơ sở tính toán

giá thành đảm bảo các điều kiện về điện, nước, phù hợp với quy hoạch tổng thể

tại địa phương và phù hợp với khu tái định cư trong từng giai đoạn phát triển

trên địa bàn huyện. Các địa phương đã phân công công chức chuyên môn trong

Ban bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thường xuyên trực tại Bộ phận một cửa, một

cửa liên thông của UBND huyện, tăng cường phối hợp với UBND các xã, thị

trấn kịp thời giải quyết đơn thư khiếu nại, kiến nghị của người dân về bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư theo thẩm quyền từ cơ sở, tránh tình trạng đơn thư

vượt cấp, kéo dài. Tích cực vận động, thuyết phục mọi tầng lớp nhân dân phối

hợp với cơ quan nhà nước thực hiện nhận tiền bồi thường, bàn giao mặt bằng và

thực hiện tái định cư theo quy định.

Ủy ban nhân dân xã, thị trấn tăng cường công tác kiểm tra, phát hiện, ngăn

chặn, xử lý kịp thời, kiên quyết đối với các trường hợp lấn chiếm đất, xây dựng

công trình trái phép; cập nhật kịp thời các biến động về đất đai để phục vụ công

tác quản lý đất đai nói chung và công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trên địa

bàn huyện nói riêng; thực hiện xác nhận nguồn gốc đất đai, chính sách ổn định

đời sống, hỗ trợ chuyển đổi nghề, tái định cư,… qua đó đảm bảo quyền lợi cho

mọi tổ chức và cá nhân trên địa bàn huyện.

Theo báo cáo của Huyện ủy Bình Sơn, Dự án Khu liên hợp sản xuất gang

thép Hòa Phát Dung Quất đã nhận được sự ủng hộ, đồng tình và tạo điều kiện

của các cấp ủy Đảng, chính quyền từ huyện đến xã. Nhưng trong quá trình triển

khai thực hiện, dự án đã phát sinh một số bất cập liên quan đến công tác bồi

thường, tái định cư, ô nhiễm môi trường, gây lo lắng trong nhân dân... Chính

47

quyền địa phương đã nhiều lần tổ chức họp dân, đối thoại, vận động người dân,

trong đó có việc đề nghị tăng kinh phí hỗ trợ tiền thuê nhà; di dời mồ mả vào

khu riêng biệt tại nghĩa địa xã Bình Trị và Bình Đông; UBND tỉnh sớm ban hành

kế hoạch sử dụng đất trên địa bàn Khu Kinh tế Dung Quất để thuận lợi xây dựng

khu tái định cư cho người dân đang sống tại 115ha xã Bình Thuận; tham mưu

UBND tỉnh chỉ đạo Sở TN&MT thường xuyên, chặt chẽ trong công tác kiểm tra,

giám sát môi trường và công khai cho nhân dân biết để an dân… Qua đó các cơ

quan, sở, ban ngành liên quan và lãnh đạo Công ty CP Thép Hòa Phát Dung

Quất kịp thời giải đáp những vấn đề vướng mắc cũng như đóng góp ý kiến, đưa

ra các giải pháp nhằm sớm tháo gỡ những khó khăn, đảm bảo hài hòa giữa lợi

ích của doanh nghiệp và người dân, vì sự phát triển KT- XH chung trên địa bàn

huyện Bình Sơn và của tỉnh Quảng Ngãi.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành các Quyết định số 766-QĐ/TU ngày

23/8/2017 về việc thành lập Tổ Công tác giúp Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo

và thực hiện thí điểm việc tuyên truyền, vận động hỗ trợ giải phóng mặt bằng Dự

án Khu đô thị, công nghiệp, dịch vụ VSIP và Quyết định số 944-QĐ/TU ngày

02/02/2018 về việc chỉ đạo và thực hiện việc tuyên truyền, vận động, hỗ trợ giải

phóng mặt bằng Dự án nâng cấp, mở rộng Nhà máy lọc dầu Dung Quất. Trên cơ

sở đó các cấp, các ngành trên địa bàn huyện Bình Sơn đã khẩn trương làm việc,

gặp gỡ, trao đổi với các tổ chức, cơ quan, địa phương có liên quan chuẩn bị kỹ

lưỡng các nội dung, nhất là việc nắm bắt tình hình người dân khu vực chịu ảnh

hưởng để xây dựng kế hoạch, lịch làm việc, kịch bản chi tiết, phân công nhiệm

vụ cụ thể cho các thành viên và bàn biện pháp, phương pháp, thời gian, nhân lực,

vật lực để tiến hành tổ chức tuyên truyền, vận động hỗ trợ giải phóng mặt bằng

tại các Dự án.

Từ cuối năm 2017 đến nay, các Tổ công tác đã chủ trì hoặc phối hợp với

cấp ủy, chính quyền địa phương, các đơn vị liên quan tổ chức hàng chục cuộc

họp để trao đổi, bàn bạc, đánh giá, thống nhất cách làm trong công tác tuyên

truyền, vận động. Qua đó, đã triển khai tổ chức gần 40 buổi gặp gỡ trao đổi,

thuyết phục người dân bằng nhiều hình thức như: gặp gỡ, đối thoại, thuyết phục,

48

vận động tại Hội trường UBND xã, tại Nhà sinh hoạt xóm, thôn, tới vận động

từng nhà và vận động trực tiếp để người dân tự nguyện tháo dỡ tại hiện trường

Dự án. Qua quá trình vận động với tinh thần cầu thị, lắng nghe người dân nói,

tìm hiểu từng hoàn cảnh cụ thể, Tổ Công tác đã cùng chính quyền địa phương

giải quyết kịp thời một số thiếu sót, bất cập trong quá trình triển khai công tác

bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, đảm bảo quyền lợi tối đa cho người dân. Đồng

thời đề xuất, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết nhiều nguyện vọng,

kiến nghị chính đáng của người dân.

Đối với Dự án VSIP, tính đến hết tháng 4/2019, đã bàn giao 100% đất sạch

cho 02 Nhà đầu tư theo Kế hoạch với 46 ha và 85 ha đất sạch có hạ tầng chưa

bàn giao cho Nhà đầu tư. Trong đó, có 191 hộ/194 hộ dân và 01 cộng đồng dân

cư tự giác bàn giao mặt bằng. Chính quyền chỉ thực hiện biện pháp bảo vệ thi

công, cưỡng chế thu hồi đất công ích đối với 03 hộ dân sau khi đã kiên trì thuyết

phục tuyên truyền, vận động nhiều lần. Đối với Dự án Nâng cấp, Mở rộng Nhà

máy lọc dầu Dung Quất, tính đến ngày 20/5/2019 đã vận động dỡ dọn được nhà

cửa, vật kiến trúc của 216 hộ/219 hộ, 03 hộ còn lại cam kết dỡ dọn trong cuối

tháng 5/2019 trên tổng số hơn 108 ha của Dự án.

Bên cạnh đó huyện Bình Sơn còn phối hợp với các cơ quan liên quan triển

khai Dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1A đoạn qua huyện Bình Sơn và huyện

Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, do Bộ GTVT quyết định đầu tư vào ngày 31/3/2016

và giao cho Sở GTVT tỉnh Quảng Ngãi làm chủ đầu tư với hơn 760 tỷ đồng, các

tiểu dự án giải phóng mặt bằng có số vốn gần 355 tỷ đồng. Tại huyện Bình Sơn,

chiều dài Quốc lộ 1A qua huyện là 24,56km, hiện mặt bằng đã bàn giao là

24,12km, đạt 98,2%.

UBND huyện Bình Sơn đã phối hợp với các chính quyền địa phương tăng

cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát động các phong trào thi đua yêu

nước, vận động nhân dân phối hợp thực hiện chính sách đất đai gắn với mục tiêu

phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện.

Phòng Tài nguyên và Môi trường tham mưu cho UBND huyện quản lý nhà

nước về đất đai, thực hiện, kiểm soát các thủ tục hành chính về đất đai theo quy

49

định của Nhà nước như: Tuyên truyền phổ biến pháp luật đất đai, xử lý vi phạm

hành chính về đất đai, công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, công tác

xác định giá đất, công tác thu hồi đất, … Đồng thời tham mưu thẩm định phương

án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư theo quy định của pháp luật. Chi nhánh Văn

phòng đăng ký đất đai cấp huyện có trách nhiệm theo dõi, cập nhật, chỉnh lý hồ

sơ địa chính và xây dựng hệ thống thông tin đất đai cấp huyện.

Trung tâm Phát triển Quỹ đất thực hiện nhiệm vụ về bồi thường, hỗ trợ và

tái định cư, thực hiện công tác cho thuê đất, đấu giá quyền sử dụng đất, quản lý

quỹ đất đã giải phóng mặt bằng và quản lý quỹ đất tái định cư thuộc cấp huyện

quản lý.

Ban quản lý dự án xây dựng huyện thực hiện nhiệm tham mưu, đề xuất

giúp chủ đầu tư thực hiện việc quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản và thực hiện

các công việc cụ thể như: Chuẩn bị mặt bằng thi công, chuẩn bị hồ sơ thiết kế,

mời thầu và tổ chức đấu thầu, thực hiện chức năng quản lý dự án, …. và thanh

quyết toán dự án theo quy định.

Phòng Tài chính - Kế hoạch tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện

thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực tài chính, tài sản theo quy

định của pháp luật và hướng dẫn, tổ chức thực hiện các văn bản về quản lý tài

chính, tài sản cho các cơ quan cấp huyện [42, tr.5-6-7].

2.2.4. Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc về thực hiện chính sách bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất

Trong những năm qua, UBND huyện Bình Sơn đã chỉ đạo các cấp, các

ngành tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính

sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất tại các địa

phương. Theo đó, văn phòng UBND huyện, tỉnh làm việc với Tập đoàn Điện lực

Việt Nam về công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng các dự án đường dây

điện; đối với dự án đường dây 500 kV Quảng Trạch – Dốc Sỏi và đường dây

500kV Dốc Sỏi – Pleiku 2 (đoạn qua địa bàn huyện Bình Sơn), yêu cầu các

ngành chuyên môn khẩn trương tổ chức thẩm định, phê duyệt các phương án bồi

50

thường, hỗ trợ đối với phần diện tích đất tại các vị trí móng trụ và hoàn thành

kiểm kê phần diện tích nằm trong hành lang tuyến của dự án trong tháng 8/2019.

Qua thanh tra cho thấy, việc triển khai thực hiện phương án bồi thường, hỗ

trợ để thi công về dự án điện nêu trên và dự án Hòa Phát Dung Quất, giữa chính

quyền địa phương, chủ dự án và nhân dân tại địa phương chưa được sự thống

nhất, đồng thuận. Người dân không đồng tình với giá cả bồi thường đất, chính

quyền địa phương đã thực hiện các trình tự thủ tục từ công bố dự án đến họp dân

hơn 200 cuộc để đối thoại, giải thích nhưng nhân dân chưa đồng tình ủng hộ. Dự

án Quốc lộ 1 có đoạn qua huyện Bình Sơn được triển khai thi công từ tháng

8/2016, toàn tuyến có 1.517 tổ chức, hộ gia đình, cá nhân bị ảnh hưởng với diện

tích đất thu hồi là 45,4ha, tổng chiều dài giải phóng mặt bằng dọc hai bên tuyến

là 24,56 km. Đến nay đã chi trả tiền bồi thường cho 1.494/1.517 hộ, còn lại 23

hộ chưa nhận tiền bồi thường và bàn giao mặt bằng.

Trước tình hình trì trệ của Dự án, huyện Bình Sơn đã phối hợp với các đơn

vị tổ chức cưỡng chế 2/16 hộ không bàn giao mặt bằng để thực hiện dự án đoạn

qua huyện Bình Sơn. Bên cạnh đó huyện còn phối hợp thực hiện 04 dự án lớn

trên địa bàn xã Bình Thuận, huyện Bình Sơn, gần 2.300 hộ dân với hơn 8.700

nhân khẩu nơi đây đứng trước nguy cơ phải di dời nhà đất, sống phân tán. Trong

đó bao gồm Dự án tuyến đường liên cơ cảng vụ nằm trong phạm vi thôn Tuyết

Diêm 1; dự án đầu tư xây dựng các tuyến đường trục trong Khu công nghiệp

phía Đông Dung Quất (gọi tắt là tuyến số 6) nằm trong phạm vi thôn Tuyết

Diêm 3; dự án di dời các hộ bị ảnh hưởng bởi nhà máy Bio Ethanol tại thôn

Đông Lỗ (10 hộ). Mỗi dự án khi được khởi động gây ảnh hưởng đến hàng chục

hộ dân, giai đoạn 2020- 2030, toàn bộ diện tích đất tự nhiên trên địa bàn xã (gần

1.900ha) sẽ được quy hoạch phục vụ cho các dự án này và không có phương án

quy hoạch khu dân cư giữ lại dân nên tương lai, địa giới hành chính Bình Thuận

sẽ bị “xóa sổ” và người dân sống phân tán.

Năm 2017, Ban quản lý Khu kinh tế Dung Quất và các Khu công nghiệp

Quảng Ngãi đã ra Quyết định số 277/QĐ- BQL về việc phê duyệt quy hoạch chi

tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 Khu dân cư phục vụ di dời dân xã Bình Thuận (giai

51

đoạn 1). Khu vực nghiên cứu lập quy hoạch thuộc thôn An Cường, xã Bình Hải,

với tổng diện tích hơn 60 ha. Tuy nhiên, đến nay, quy hoạch này bị “treo” vì tất

cả số đất ấy được trao lại cho nhà đầu tư... Trong quá trình phát triển công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc triển khai các dự án mới là cần thiết và tất yếu.

Tuy nhiên, các cấp chính quyền cần phải đảm bảo cuộc sống của chính những

người dân đã nhường lại phần nhà đất gắn bó bao đời nay cho việc xây mới các

dự án; tập trung thực hiện tốt tái định cư, ổn định cuộc sống, đáp ứng được yêu

cầu, nguyện vọng của mọi người dân.

Chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả việc tiếp công dân, giải quyết

đơn thư, khiếu kiện, tranh chấp đất đai đảm bảo đúng quy định, đáp ứng được

yêu cầu nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân. Bên cạnh đó, công tác quy

hoạch, sử dụng, khai thác đất đai chưa thực sự hiệu quả, vẫn còn tình trạng tự ý

lấn chiếm đất, làm nhà trái phép chưa được xử lý kịp thời.

Việc thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các dự án, kế hoạch, phương án thu

hồi bồi thường, tái định cư chưa được thực hiện thường xuyên, đội ngũ cán bộ,

công chức thanh tra các cấp còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu

nhiệm vụ được giao. Từ năm 2015 đến 2019, Ban Bồi thường giải phóng mặt

bằng đã tiếp nhận gần 130 đơn thư kiến nghị, phản ánh liên quan đến chính sách

bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và tái định cư thuộc thẩm quyền giải

quyết. Sau khi tiếp nhận đơn, công chức thực thi công vụ đã phân loại đơn, xác

minh các nội dung liên quan, trình cấp có thẩm quyền giải quyết nhanh chóng,

kịp thời cho nhân dân đạt trên 90% các vụ việc được tiếp nhận, giải quyết.

Qua công tác thanh tra, kiểm tra đã kịp thời chấn chỉnh kỷ cương hành

chính trong việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức và của các

đơn vị có liên quan trong quá trình tổ chức, triển khai thực hiện chính sách; kịp

thời tổng hợp các ý kiến của nhân dân và đề xuất cơ quan có thẩm quyền giải

đáp thắc mắc, đối thoại, tiếp dân định kỳ, tạo được sự đồng thuận trong nhân dân

trên địa bàn huyện. Tuy nhiên, công tác kiểm tra, giám sát còn nhiều hạn chế,

52

chưa triệt để, chưa thực hiện chế tài xử phạt nghiêm khắc theo quy định của pháp

luật [44, tr.8-9].

2.2.5. Đánh giá, rút kinh nghiệm công tác thực hiện chính sách bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất

Xác định công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

là nhiệm vụ thường xuyên, gắn liền giữa lợi ích kinh tế xã và người dân, hàng

năm cơ quan chuyên môn bao gồm các cơ quan Phòng Tài nguyên và môi

trường, Phòng phát triển quỹ đất, Ban quản lý dự án, Ban bồi thường, hỗ trợ và

tái định cư tham mưu UBND huyện tổ chức sơ kết, tổng kết đánh giá, rút kinh

nghiệm trong quá trình triển khai thực hiện tại địa phương. Qua đó, đánh giá

toàn diện những thành tựu đạt được, phân tích, làm rõ những hạn chế và đề xuất

các phương hướng, nhiệm vụ thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

khi Nhà nước thu hồi đất hiệu quả hơn trong thực tiễn. Đồng thời, UBND huyện

Bình Sơn tổ chức các Hội nghị, Hội thảo, đối thoại với nhân dân để xem xét, giải

quyết bảo đảm các trình tự, thủ tục, thời gian thực hiện chính sách đánh giá bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi tại các địa phương; nghiêm túc

kiểm điểm, rút kinh nghiệm những hạn chế tồn tại và kịp thời vinh danh, nêu

gương, khen thưởng các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp trong việc thực hiện

hiệu quả chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi trên địa

bàn huyện.

Một trong những kinh nghiệm cần thiết đó là, các cấp, các ngành tăng

cường công tác tuyên truyền, vận động được tiến hành tổ chức sâu rộng ở các địa

phương trước khi triển khai các Dự án. Đòi hỏi phải có sự vào cuộc của cả hệ

thống chính trị, sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa cấp ủy, chính quyền với các

ban, ngành, tổ chức liên quan; quyết tâm, nỗ lực của người đứng đầu cấp ủy,

chính quyền trong việc xây dựng cơ chế, chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư.

Trường hợp có nhiều hộ dân phản đối hoặc chưa đồng thuận thì cần rà soát,

xem lại cơ chế, chính sách áp dụng đã đúng hay chưa để có hướng trao đổi,

53

thuyết phục, giải quyết hoặc kiến nghị cấp thẩm quyền giải quyết phù hợp cho

từng trường hợp cụ thể, riêng biệt.

Phương án chọn địa điểm, quy mô khu tái định cư phải rất thực tế với quỹ

đất phù hợp nhưng phải đảm bảo nhu cầu, lợi ích hợp pháp của người dân và

phải đảm bảo nguyên tắc chất lượng hạ tầng, bảo đảm tái định cư nơi ở mới tốt

hơn nơi ở cũ. Đồng thời thực hiện nghiêm việc công khai, minh bạch, thực hiện

tốt các quy định về dân chủ cơ sở và cơ chế "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân

kiểm tra" trong tất cả các dự án ngay từ đầu là hết sức quan trọng.

Mỗi thành viên Tổ Công tác phải có ý thức tự giác và phát huy tinh thần

trách nhiệm, trau dồi kiến thức liên quan đến công tác bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư; không ngừng nâng cao kỹ năng đối thoại, thuyết phục người dân. Qua

đó góp phần thực hiện các chính sách thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, giải phóng

mặt bằng, tái định cư các dự án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện đạt

kết quả cao [42, tr.10].

2.3. Kết quả thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi

nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi

Xuất phát từ các quy định của Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi

hành luật, các cấp chính quyền đã từng bước xây dựng cơ chế, chính sách và

hoàn thiện chính sách bồi thường, tái định cư phù hợp với địa phương. Các cấp

chính quyền thực hiện thành lập Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng, tăng

cường chỉ đạo, điều hành phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan liên quan, thực

hiện hiệu quả các dự án như hoàn thiện tuyến đường Võ Văn Kiệt, Dự án Nhà

máy lọc dầu Dung Quất, Nhà máy công nghiệp nặng Doosan, Nhà máy

Polypropylen..., đáp ứng được yêu cầu đặt ra.

UBND huyện Bình Sơn đã phối hợp cùng với UBND tỉnh, Tập đoàn Dầu

khí Việt Nam (PVN), Công ty Lọc hóa đầu Bình Sơn (BSR), ban quản lý Dự án

NCMR NMLD Dung Quất (DQRE) triển khai Dự án Nâng cấp mở rộng

(NCMR) Nhà máy lọc dầu (NMLD) Dung Quất. Theo báo cáo, kết quả thực hiện

Tiểu dự án Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phục vụ Dự án NCMR NMLD Dung

54

Quất, đại diện DEZA cho biết diện tích mặt bằng cho Dự án đã chi trả đền bù đạt

96%; diện tích đã thực hiện xong công tác bồi thường đạt 99%; diện tích sạch đủ

điều kiện bàn giao đợt 1 là 91/93,4ha, đạt 97%. Công tác thi công xây dựng khu

tái định cư đã thực hiện được 3,5 tháng (trên tổng số 6 tháng), đạt 40,16% kế

hoạch. Một số hạng mục chậm so với tiến độ trong thời gian qua là do thời tiết

không thuận lợi tại khu vực miền Trung. Hiện vẫn còn một số tồn tại, vướng mắc

trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng; công tác xây dựng khu tái định

cư… để từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm đẩy nhanh tiến độ. Các cấp

chính quyền tỉnh, huyện cần tiếp tục chỉ đạo quyết liệt các sở, ban, ngành liên

quan tập trung giải quyết nhanh các khó khăn, vướng mắc trong việc chi trả 18

trường hợp tại mặt bằng 108 ha; 31 trường hợp vướng mắc của 10 hạng mục di

dời, hoàn trả. Đồng thời có biện pháp giải quyết dứt điểm các trường hợp vướng

mắc nằm ngoài phương án đền bù giải tỏa. [UBND tỉnh Quảng Ngãi (2017), Báo

cáo kết quả triển khai thực hiện dự án NCMR NMLD Dung Quất năm 2017].

Ngày 28/4/2017, Ban Quản lý Khu kinh tế (KKT) Dung Quất và các Khu

công nghiệp (KCN) tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với Ban Quản lý Dự án Nâng cấp

mở rộng Nhà máy Lọc dầu (NMLD) Dung Quất, chính quyền địa phương huyện

Bình Sơn và các nhà thầu đã tổ chức Lễ công bố vị trí mốc giới lô đất tái định cư

cho nhân dân trong khu vực giải tỏa để thực hiện Dự án Nâng cấp mở rộng

NMLD Dung Quất. Theo đó, Khu tái định cư được xây dựng tại khu dân cư Tây

Bắc Vạn Tường giai đoạn 3, với diện tích 19,35ha, trên địa bàn xã Bình Trị,

huyện Bình Sơn với tổng mức đầu tư hơn 200 tỷ đồng. Công ty Cổ phần xây

dựng Tân Nam là nhà thầu chính và các nhà thầu phụ là Công ty Cổ phần đầu tư

phát triển Hợp Nghĩa; Công ty TNHH phát triển công nghệ An Đô; Công ty Cổ

phần nội thất miền Bắc thi công. Ngoài ra còn diện tích mương thoát nước dọc

và cống thoát lũ cần bổ sung là 1,36ha. Diện tích đất ở là 10,2ha và được chia

làm 22 khu ở, với 557 lô gồm: 389 lô có diện tích 200m2/lô; 136 lô có diện tích

150m2/lô và 32 lô có diện tích 100m2/lô. Hạ tầng kỹ thuật gồm có 19 tuyến

đường nội bộ và 2 tuyến đường gom, với tổng chiều dài toàn tuyến trên 4,5km.

Các công trình phụ trợ gồm: cống kỹ thuật, nút giao thông, vỉa hè, cây xanh…

55

Hệ thống thoát nước nước mưa, nước thải được xây dựng theo tuyến dọc chạy

xung quanh khu dân cư, có chiều dài gần 1,2km và hệ thống cấp nước sạch, cấp

điện dân dụng, điện chiếu sáng bằng cáp ngầm. Các công trình hạ tầng xã hội

gồm: 1 trường tiểu học xây 2 tầng trên diện tích 4.882,49m2, gồm 8 phòng học,

khối phục vụ, khối hành chính quản trị; 1 trường mầm non xây 2 tầng trên diện

tích 2.439,96m2; 1 trạm y tế 2 tầng được xây dựng trên diện tích 862,53m2 và 2

nhà sinh hoạt cộng đồng có tổng diện tích đất xây dựng 1.226,4m2. Riêng dự án,

theo báo cáo của UBND huyện Bình Sơn, đến nay UBND huyện Bình Sơn đã

phê duyệt 25 phương án bồi thường, tái định cư tương ứng với 6 vị trí, với tổng

giá trị bồi thường, hỗ trợ là 418,93 tỷ đồng. Tổng số hộ bị ảnh hưởng trong vùng

dự án là 1.444 hộ; có 505 hộ có nhà ở vật kiến trúc phải di dời; 1.461 mồ mả và

10 công trình phải di dời; số hộ dự kiến được bố trí tái định cư là 406/446 lô (có

7 hộ/17 lô tái định cư tại chỗ).

Quần thể du lịch nghỉ dưỡng FLC Quảng Ngãi chính thức khởi công trong

ngày 30/6/2019 tại huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Đây là công trình chào

mừng 30 năm ngày tái lập tỉnh. Các cấp, các ngành huyện Bình Sơn đã tích cực

phối hợp với UBND tỉnh và các sở, ngành liên quan thực hiện bảm đảm đúng

quy trình về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và các chính sách đất đai phù hợp

cho người dân và doanh nghiệp để triển khai, xây dựng Quần thể du lịch nghỉ

dưỡng FLC Quảng Ngãi trải dài bên vùng biển đẹp nhất của huyện Bình Sơn,

thuộc Khu đô thị mới Vạn Tường (Khu Kinh tế Dung Quất). Dự án có quy mô

1.026 ha, trong đó, các hạng mục bao gồm 4 phân khu khách sạn, resort cao cấp

và hai phân khu đô thị biển với tổng mức đầu tư giai đoạn đầu ước tính khoảng

11.000 tỷ đồng. Để có được những kết quả này, lãnh đạo các cấp, chính quyền

địa phương huyện Bình Sơn đã thường xuyên vận động mọi người dân nhận thức

rõ về lợi ích đầu tư dự án, phát triển kinh tế, đồng thời địa phương cũng khẳng

định việc quy hoạch và xây dựng các khu chức năng, hạng mục công trình cần

đảm bảo hài hòa lợi ích giữa người dân, doanh nghiệp và Nhà nước. Người dân

trong vùng dự án và các vùng lân cận phải được hưởng lợi, có cuộc sống tốt hơn

56

trước khi có dự án. Nhà chức trách cùng nhà đầu tư nghiên cứu, bố trí xen kẽ

một số tuyến đường ra biển và không gian bờ biển cho cộng đồng.

Năm 2019, ngành Tài nguyên và Môi trường huyện đã tiếp nhận và giải

quyết 9.317 hồ sơ liên quan đến đất đai. Trong đó, giải quyết 8.193 hồ sơ và

tham mưu UBND huyện cấp 4.099 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho công

dân và tổ chức và đã thực hiện dự án đo đạc hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu

quản lý đất đai, hoàn thành 55.072 hồ sơ của 25 xã, thị trấn. Đồng thời UBND

huyện đã trình cấp có thẩm quyền phê duyệt Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

giai đoạn 2020 – 2025.

Tiểu dự án Giải phóng mặt bằng đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi,

đoạn qua địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đang gặp nhiều khó khăn, Chủ tịch UBND

tỉnh Quảng Ngãi đã yêu cầu UBND các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa và

Nghĩa Hành, các địa phương có dự án đi qua khẩn trương tổ chức bán đấu giá

các lô đất còn lại của các khu tái định cư để hoàn trả kinh phí cho dự án.

Nhìn chung, qua công tác thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư huyện Bình Sơn đã đạt được những kết quả nhất định. Các cơ quan

chuyên môn đã triển khai công tác đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp cho các hộ

dân tái định cư sớm ổn định cuộc sống; tăng cường tuyên truyền, vận động nhân

dân trong vùng quy hoạch phát huy truyền thống cách mạng, tiếp tục ủng hộ chủ

trương của Đảng và Chính phủ, các địa phương trên địa bàn huyện trong việc

thực hiện các Dự án, đồng thuận cao với các cấp chính quyền và các cơ quan

chuyên môn, sớm di dời đến nơi ở mới, bàn giao mặt bằng đúng thời gian để

triển khai dự án đúng tiến độ, triển khai chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định

cư trên địa bàn huyện [42, tr.11-12-13].

2.4 Những thành tựu và hạn chế thực hiện chính sách bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn,

tỉnh Quảng Ngãi

2.4.1. Những thành tựu và nguyên nhân thành tựu

2.4.1.1. Những thành tựu

57

Thứ nhất, chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại địa phương được

mọi tầng lớp nhân dân đồng thuận cao. Qua đó, các dự án, công trình đầu tư xây

dựng được triển khai hiệu quả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đáp ứng được yêu

cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn huyện.

Thứ hai, tạo cơ hội học nghề, đào tạo nghề, việc làm, bố trí việc làm cho

những người dân bị thu hồi đất, sớm ổn định cuộc sống.

Thứ ba, chính quyền địa phương đã xây dựng nhiều cơ chế, chính sách,

ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện hiệu quả chính sách bồi thường, hỗ trợ tái

định cư, từng bước nâng cao đời sống nhân dân, góp phần phát triển kinh tế - xã

hội tại các địa phương.

Thứ tư, cơ chế, chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được các cấp

chính quyền, công chức chuyên môn thực hiện hiệu quả, tuân thủ, áp dụng đúng

nguyên tắc và đưa ra những quyết định phù hợp với tình hình thực tiễn các địa

phương theo hướng đơn giản hóa, dễ thực hiện, bảo đảm hài hòa về lợi ích giữa

nhà nước – nhà đầu tư - người bị thu hồi đất.

Thứ năm, các cấp các ngành thực hiện tốt công tác phối hợp, tuyên truyền,

vận động; tổ chức tập hợp lấy ý kiến đóng góp của quần chúng nhân dân nhằm

từng bước cải thiện các chính sách, áp giá đất, bố trí đất ở mới và thực hiện bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất góp phần tạo điều kiện cơ sở vật

chất, nguồn lực để thực hiện một nhanh chóng, hiệu quả trên địa bàn huyện.

Thứ sáu, cán bộ và nhân dân đã nhận thức được tầm quan trọng, ý nghĩa

của chủ trương, chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đề phát triển kinh tế,

xã hội tại địa phương. Các cấp chính quyền đã có nhiều nỗ lực để tạo điều kiện

vật chất và kỹ thuật trong việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.

Thứ bảy, đội ngũ công chức chuyên môn thực hiện công tác bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư nêu cao tinh thần trách nhiệm, tăng cường tham mưu, phối hợp

với các sở, cơ quan, ban ngành có các dự án đầu tư ngày càng được mở rộng và

thực hiện hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ và nguyện vọng của mọi

tầng lớp nhân dân.

58

Thứ tám, thực hiện tốt chính sách đất đai, bố trí tái định cư, tạo thuận lợi

cho nông dân phát triển mô hình trồng dưa sách không hạt và nhân rộng tại

huyện Bình Sơn. Nông dân tham gia mô hình được hỗ trợ kinh phí về giống,

phân hữu cơ, phân vi sinh, thuốc sinh học, bạc phủ, còn lại các hộ tự đối ứng và

lo nhân công; các loại dưa này được thu hoạch, phân phối, kinh doanh trên thị

trường trong huyện, tỉnh [42, tr.15].

2.4.1.2. Nguyên nhân thành tựu

Một là, do sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền địa phương trong

việc phát triển kinh tế, xã hội nói chung và thực hiện chính sách bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện nói riêng.

Hai là, tỉnh, huyện đã xây dựng nhiều cơ chế, chính sách phù hợp để thu

hút đầu tư, phát triển kinh tế tại địa phương, vừa bảo đảm lợi ích kinh tế của nhà

nước và quyền lợi của người dân được đảm bảo.

Ba là, tạo được sự đồng thuận cao của các cấp, các ngành, các tổ chức

doanh nghiệp, nhà đầu tư và mọi tầng lớp nhân dân đã tạo nên sức mạnh tổng

hợp trong quá trình thực hiện chính bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất tại địa phương.

Bốn là, do điều kiện tự nhiên thuận lợi, tiềm năng sẵn có của địa phương và

việc nhận thức của người dân trong cơ chế, chính sách và ý nghĩa thực hiện

chính sách góp phần phát triển kinh tế xã hội địa phương đạt kết quả. Qua đó,

góp phần triển khai thực hiện chính sách đạt hiệu quả cao, đáp ứng được yêu cầu

nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.

2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân hạn chế

2.4.2.1. Những hạn chế

Thứ nhất, nhiều hộ dân tại xã Bình Thuận, huyện Bình Sơn nằm trong diện

tái định cư thuộc Dự án thép Hòa phát Dung Quất, người dân chưa được hỗ trợ

tiền thuê nhà trong thời gian chờ tái định cư, chưa được bố trí tái định cư đúng

thời gian quy định.

Thứ hai, giá đất do UBND cấp tỉnh thấp hơn so với giá thị trường, việc

xác định giá đất để tính bồi thường cho người bị thu hồi đất chưa được quy định

59

theo một chuẩn mực nhất quán; người bị thu hồi đất nông nghiệp thường chịu

thiệt thòi hơn so với người bị thu hồi đất phi nông nghiệp.

Thứ ba, Chưa xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp hỗ trợ cho người dân

để xác định, lựa chọn việc làm, lựa chọn hướng chuyển đổi nghề nghiệp, việc tổ

chức đào tạo, cho học nghề đối với người dân bị thu hồi đất gặp nhiều khó khăn.

Thứ tư, nhiều dự án của nhiều nhà đầu tư được triển khai thực hiện cùng

một lúc, qua nhiều giai đoạn trên địa bàn huyện, dẫn đến việc xây dựng quy

hoạch, kế hoạch bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của các cấp chính quyền địa

phương chưa được thực hiện đồng bộ, ảnh hưởng đến tiến độ dự án, người dân

chưa bố trí, tái định cư kịp thời, cuộc sống của người dân bị ảnh hưởng trong

một thời gian dài.

Thứ năm, một số địa phương vẫn còn công chức thực hiện công vụ, hạn

chế năng lực, gây phiền hà về thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người

dân bị thu hồi đất.

Thứ sáu, một số địa phương bố trí tái định cư chưa phù hợp, các công trình

xây dựng thiết yếu, khu vui chơi, giải trí công cộng, công viên chưa được quan

tâm đầu tư tại nơi ở mới của những khu tái định cư tại các địa phương.

Thứ bảy, trình tự thủ tục về công khai, minh bạch về giá đất, bồi thường,

cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được

nguyện vọng của người dân tại địa phương.

Thứ tám, việc phối hợp, phân công cho cơ quan chủ trì thực hiện chính

sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư chưa rõ ràng, hầu như chính quyền địa

phương giao trách nhiệm chính cho các chủ đầu tư, chủ dự án dẫn đến việc thực

hiện chính sách bồi thường đối với người dân ở một số địa phương còn chậm, dự

án được triển khai nhưng người dân vẫn chưa được bố trí tái định cư.

Thứ chín, một số công trình, dự án chưa đạt hiệu quả cao, vẫn còn một số

sai phạm của cán bộ khi thực thi công vụ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

trên địa bàn huyện [40, tr.16].

2.4.2.2. Nguyên nhân hạn chế

60

Một là, cơ chế chính sách của pháp luật về chính sách bồi thường thu hồi

đất, tái định cư còn chưa thực sự phù hợp với các địa phương.

Hai là, giá đất UBND tỉnh quy định bồi thường thấp hơn giá thị trường,

việc áp dụng pháp luật, hỗ trợ, bồi thường cho một số hộ gia đình, cá nhân còn

nhiều lúng túng, ảnh hưởng đến quyền và lợi của người dân bị thu hồi đất tại các

địa phương.

Ba là, các Dự án Khu liên hợp sản xuất gang thép Hòa Phát Dung Quất; Dự

án Khu đô thị, công nghiệp, dịch vụ VSIP; Nhà máy lọc dầu Dung Quất; Dự án

nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1A; Quần thể du lịch nghỉ dưỡng FLC Quảng Ngãi;

Tiểu dự án Giải phóng mặt bằng đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi… được

triển khai thực hiện cùng một lúc, dàn trải, thiếu tập trung; chưa có sự phối hợp

chặt chẽ giữa chính quyền địa phương với doanh nghiệp, chủ đầu tư và người

dân.

Bốn là, cơ chế chính sách, nguồn vốn phân bổ cho công tác bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư còn nhiều hạn chế, kinh phí chủ yếu tập trung cho dự án, chưa

có chính sách phù hợp, bảo đảm quyền và lợi ích của người dân.

Năm là, hầu hết các dự án được triển khai, chính quyền địa phương giao

cho chủ đầu tư tự xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ và một số chủ đầu tư

chưa phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, xem quy trình giải phóng

mặt bằng thuộc về chính quyền cơ sở. Do đó, ảnh hưởng chung đến tiến độ dự án

và việc tái định cư cho nhân dân thuộc dự án trên địa bàn huyện.

Sáu là, một số xã chưa thực hiện tốt công tác quản lý đất đai, hiện trạng sử

dụng đất, nguồn gốc đất, quỹ đất… năng lực của công chức chuyên môn, thành

viên Ban quản lý dự án, Ban bồi thường, hỗ trợ và tái định cư còn nhiều hạn chế

[42, tr.17].

2.4.3. Những vấn đề đặt ra để giải quyết

Các cấp chính quyền địa phương thường xuyên tiến hành rà soát các quy

định của pháp luật về đất đai nói chung, các cơ chế chính sách về bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư nói riêng để đề xuất, góp ý cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ

61

sung, hoàn thiện pháp luật đất đai và các chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư phù hợp trong thực tiễn ở các địa phương.

UBND huyện Bình Sơn cần tăng cường phối hợp với UBND tỉnh, các sở

ngành, các cơ quan chuyên môn cùng với các nhà đầu tư có những giải pháp phù

hợp để theo dõi, hướng dẫn, chỉ đạo cơ quan chuyên môn và địa phương thực

hiện hiệu quả các dự án nêu trên, vừa bảo đảm thực hiện tốt các dự án, vừa thực

hiện tốt chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

trên địa bàn huyện.

Thực hiện tốt quyền tiếp cận thông tin về bồi thường, hỗ trợ và tái định khi

Nhà nước thu hồi đất theo Luật tiếp cận thông tin năm 2016. Pháp luật quy định

việc thu hồi đất “phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định

của pháp luật” [khoản 3 Điều 54 Hiến pháp năm 2013].

Yêu cầu đặt ra đòi hỏi các cấp chính quyền địa phương có trách nhiệm tổ

chức đối thoại với người dân ở địa phương về tình hình hoạt động của UBND

…[Điều 125, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015]. Phát huy vai trò

của UBND và Trung tâm Phát triển quỹ đất thực hiện hiệu quả chính sách đất đai

[43, tr 4].

62

Tiểu kết chương 2

Từ việc phân tích thực trạng thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư trên địa bàn huyện Bình Sơn cho thấy, chính quyền địa phương đã ban

hành nhiều văn bản nhằm cụ thể hóa các quy định trong chính sách bồi thường,

hỗ trợ tái định cư của Trung ương, tỉnh, định hướng phù hợp đối với tình hình

thực tế trên địa bàn huyện. Qua đó tạo được sự đồng thuận cao trong quần chúng

nhân dân, tạo điều kiện cho cho các nhà đầu tư sớm triển khai xây dựng và đi

vào hoạt động các dự án, góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế tại địa phương.

Đồng thời tạo nhiều cơ hội học nghề, đào tạo nghề, việc làm, bố trí việc làm cho

những người dân bị thu hồi đất, sớm ổn định cuộc sống; các cấp các ngành thực

hiện tốt công tác phối hợp, tuyên truyền, vận động; tổ chức tập họp lấy ý kiến

đóng góp của nhân dân để hoàn thiện các chính sách, áp giá đất, bố trí đất ở mới

và thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất đạt kết quả; người

dân đã nhân rộng mô hình phát triển kinh tế tại các địa phương. Tuy nhiên trong

quá triển khai khai thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất còn gặp nhiều khó khăn trong những quy định pháp luật đất đai,

cơ chế chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Chính vì vậy, các cấp, các

ngành cần có những giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác này trong thời gian

đến. Luận văn tiếp tục nghiên cứu nội dung này tại Chương 3.

63

CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG, NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ

NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BÌNH SƠN, TỈNH

QUẢNG NGÃI

3.1. Giải pháp chung thực hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng

Ngãi

Giải pháp 1: về thực hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

khi nhà nước thu hồi đất

Cấp có thẩm quyền cần tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về

chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cự đáp ứng được yêu cầu phát triển

kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, xây dựng cơ chế chính sách thu hút đầu tư,

phát triển hiệu quả dự án đầu tư, các công trình xây dựng cơ bản, góp phần xây

dựng nông thôn mới tại các địa phương.

Bổ sung một số trường hợp thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi

ích quốc gia, lợi ích công cộng quy định tại Điều 62 Luật Đất đai năm 2013, cụ

thể: Thu hồi đất để tạo quỹ đất thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã

được cơ quan có thẩm quyền phế duyệt; Thu hồi hồi đất để thực hiện các dự án

bồi thường, dự án BOT; Thu hồi đất để thực hiện dự án có vốn đầu tư nước

ngoài.

Đảm bảo quá trình thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi

đất một cách công khai, minh bạch, đúng pháp luật trong đó có nhiệm vụ thực

hiện thông báo công khai thu hồi, thời gian, kế hoạch, phương án bồi thường, áp

giá đền bù, bố trí tái định cư với những điều kiện đảm bảo, ổn định cuộc sống

người dân trên địa bàn huyện.

Tiếp tục hoàn thiện hơn nữa chính sách, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư, về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, qua đó giải quyết kịp thời các

64

yêu cầu khiếu nại, tố cáo trong thực hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư tại các địa phương.

Giải pháp 2: Nâng cao hiệu quả tổ chức, thực hiện chính sách về bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất

Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên môn thực hiện

chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất đồng bộ từ

tỉnh đến địa phương, đảm bảo chức năng thống nhất triển khai thực hiện chính

sách của chính quyền cơ sở, có sự phân công, phân cấp rõ ràng, hoạt động có

hiệu lực, hiệu quả.

Thực hiện sắp xếp, bố trí việc làm phù hợp với trình độ chuyên môn, năng

lực công tác của các cán bộ, công chức, viên chức, đáp ứng được yêu cầu nhiệm

vụ được giao. Qua đó, kịp thời tham mưu cấp có thẩm quyền giải quyết nhanh

chóng các vấn đề liên quan đến lợi ích, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức và

công dân trong quá trình thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, thu hồi đất, tái

định cư tại địa phương.

Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật về đất đai và các chế độ

chính sách liên quan đến công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho đội ngũ

cán bộ chuyên trách Ban quản lý dự án, Ban bồi thường, hỗ trợ và tái định cư từ

tỉnh đến xã. Phải thường xuyên quan tâm thực hiện có kết quả việc đánh giá

phân loại công chức trong đội ngũ chuyên trách để kịp thời khen thưởng, nêu

gương trong thực thi công vụ và triển khai thực hiện chính sách bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư trên địa bàn huyện.

Giải pháp 3: Cải cách hành chính trong quản lý nhà nước về bổi

thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất

Xây dựng phù hợp quy hoạch chi tiết các dự án đầu tư xây dựng khu tái

định cư đáp ứng được nguyện vọng của người dân trước khi có quyết định thu

hồi đất của cấp có thẩm quyền, đảm bảo hạn mức giao đất, xây dựng cơ sở hạ

tầng, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân tốt hơn nơi ở cũ trước đây.

65

Thủ trưởng các cơ quan hành chính Nhà nước tại địa phương cần tăng

cường và nâng cao trách nhiệm trong công tác Quản lý Nhà nước, tập trung chấn

chỉnh những tồn tại, yếu kém trong thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư; chú trọng đầu tư kinh phí, trang thiết bị phục vụ công tác; công khai,

minh bạch, dân chủ, công bằng quá trình xây dựng, ban hành các chính sách,

pháp luật, nhất là trong lĩnh vực về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất.

Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách phải quan tâm đến quyền và lợi

ích hợp pháp của công dân, bảo đảm công dân không bị thiệt thòi do những bất

cập của chính sách; công tác quản lý, nhất là trong thu hồi đất để thực hiện các

dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích công cộng cần phải xây dựng phương

án bồi thường, hỗ trợ dân chủ, công khai, đúng chính sách, pháp luật, sát thực tế,

bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất.

Các cấp, các ngành, địa phương cần làm tốt công tác tuyên truyền, vận

động người dân phối hợp thực hiện chính sách, quan tâm đầu tư xây dựng phòng

tiếp dân, thực hiện tốt lịch tiếp công dân định kỳ, thường xuyên và đột xuất theo

quy định của pháp luật. Chính quyền địa phương thường xuyên bố trí lịch đối

thoại trực tiếp với công dân, kịp thời tiếp nhận và giải đáp thỏa đáng các vụ việc

khiếu nại, tố cáo liên quan đến công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất tại các địa phương.

Giải pháp 4: Tăng cường kiểm tra, giám sát và tổng kết đánh giá thực

hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất

Chỉ đạo các địa phương thực hiện tốt hơn nữa công tác Quản lý Nhà nước

về đất đai, thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, nhất là việc

bảo vệ hiện trạng sử dụng đất, ngăn chặn người dân trong khu vực thu hồi đất

thực hiện xây dựng các công trình trái phép nhằm trục lợi kinh phí bồi thường;

xây dựng chế tài đủ mạnh để thực hiện nghiêm việc cưỡng chế kiểm đếm, cưỡng

chế thu hồi đất và bảo vệ thi công đối với các trường hợp cố tình chống đối,

66

không chấp hành quyết định thu hồi đất của các cơ quan Nhà nước có thẩm

quyền.

Thực hiện chính sách thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư công khai,

minh bạch, đúng pháp luật, bảo đảm quyền lợi hợp pháp, hoạt động sản xuất và

đời sống của người có đất thu hồi. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đạt

chuẩn trình độ chuyên môn, năng lực quản lý, triển khai thực hiện chính đất đai

tại các địa phương; các ngành trong lĩnh vực địa chính, xây dựng thực hiện cải

cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai, thường xuyên kiểm tra, giám sát,

đánh giá hiệu quả chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư gắn với mô hình

một cửa, một cửa liên thông, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản

lý đất đai, triển khai thực hiện chính sách tại các địa phương. Thực hiện công

khai quyết định thu hồi đất, công bố công khai các dự án và quy hoạch chi tiết

phương án bồi thường, tái định cư, các trường hợp dự án sử dụng đất sai mục

đích, vi phạm pháp luật về đất đai, môi trường, sinh thái trên trang thông tin điện

tử và đài phát thanh truyền hình trên địa bàn huyện.

3.2. Giải pháp cụ thể thực hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng

Ngãi

Giải pháp 1: Nêu cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức thực

hiện công vụ

Quan tâm đầu tư các phương tiện kỹ thuật cần thiết, phục vụ công tác

chuyên môn nhanh chóng, kịp thời trong việc thực hiện các chính sách bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư. Kiện toàn, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức,

viên chức đảm bảo kiến thức pháp luật cơ bản và năng lực công tác phù hợp,

chuyên sâu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. Hàng năm, tổ

chức đánh giá phân loại công chức, viên chức về hiệu quả thực thi công vụ, kịp

thời động viên, khen thưởng, nêu gương phát huy vai trò triển khai thực hiện

chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Đồng thời thực hiện kế hoạch đào

67

tạo, bồi dưỡng công chức chuyên ngành, nâng cao tinh thần trách nhiệm, năng

động trong việc tham mưu áp dụng mức gia thực hiện bồi thường, tái định cư và

giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai liên quan đến đời sống nhân

dân trên địa bàn huyện.

Thực tiễn các địa phương, trong quá trình lập quy hoạch đô thị, quy hoạch

sử dụng đất, phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chưa thực hiện công bố

rộng rãi, lấy ý kiến của nhân dân, qua đó trong quá trình triển khai các dự án ảnh

hưởng trực tiếp đến đời sống của nhân dân. Nếu các chính sách được triển khai

thực hiện đúng quy trình, có sự góp ý từ nhân dân, sẽ góp phần thực hiện chính

sách hiệu quả hơn trong thực tế ở các địa phương.

Chính quyền địa phương tiếp tục nâng cao chất lượng công tác Quản lý,

triển khai thực hiện chính sách bồi thường, thường xuyên, đảm bảo cân bằng giá

thị trường và áp giá của nhà nước phù hợp với nguyện vọng của dân; hạn chế

tình trạng các hộ dân không phối hợp với chính quyền, không tạo được sự đồng

thuận của người dân tại các địa phương trong quá trình triển khai thực hiện các

chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.

Phát huy năng lực, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của các thành viên trong

Hội đồng định giá, áp giá bồi thường tại các cấp chính quyền địa phương, bảo

đảm quyền lợi của mọi người dân bị thu hồi đất.

Trong những năm qua, cơ quan có thẩm quyền đã kịp thời sửa đổi và ban

hành các đạo luật quan trọng như Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự,

Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Hộ tịch, Luật Đất đai để

áp dụng vào thực tiễn, điều chỉnh các quan hệ xã hội, các vấn đề liên quan đến

chính sách đất đai đạt hiệu quả. Các cấp chính quyền trên địa bàn huyện cần tăng

cường tổ chức bồi dưỡng, tập huấn, phổ biến những chính sách, pháp luật mới

cho đội ngũ cán bộ và mọi tầng lớp nhân dân ở các thôn nóc vùng sâu, vùng xa;

tăng cường công tác hòa giải, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo về chính

sách đất đai, bồi thường, tái định cư tại địa phương.

68

Đồng thời, UBND các cấp cần xây dựng cơ chế, chính sách, tăng cường

phối hợp kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện việc tuyên truyền pháp luật đất

đai, chính sách thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Qua đó, kịp thời chấn

chỉnh các sai phạm, tăng cường kỷ cương hành chính, thực hiện hiệu quả chính

sách thu hồi, bồi thường và tái định cư trên địa bàn huyện.

Đổi mới phương pháp, tập trung biên soạn đề cường pháp luật ngắn gọn,

dễ hiểu để tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nâng cao ý thức,

trách nhiệm của cơ quan, ban ngành, các tầng lớp dân cư hiểu rõ quy định của

pháp luật, trình tự thực hiện chính sách thu hồi, bồi thường, tái định cư và thẩm

quyền giải quyết của các cấp chính quyền, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các cá

nhân, tổ chức thực hiện chính sách đất đai đạt chất lượng, đáp ứng được yêu cầu

đặt ra trong giai đoạn hiện nay.

Tiếp tục hoàn thiện, xây dựng quy chế hoạt động và chức năng Ban bồi

thường, hỗ trợ. Xây dựng kế hoạch đào tạo chuyên sâu, bồi dưỡng, dự nguồn các

công chức đảm nhận công tác bồi thường, hỗ trợ, thu hồi đất trên địa bàn huyện.

Nêu cao tinh thần trách nhiệm, tích cực học tập, nghiên cứu, nâng cao trình độ

chuyên môn, đáp đứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Nâng cao tinh thần

trách nhiệm, tăng cường phối hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến công

dân; thực hiện phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ quan chuyên môn triển

khai thực hiện chính sách thu hồi, bồi thường và tái định cư ở các địa phương,

đảm bảo thực hiện đúng quy trình, tiến độ thực hiện các dự án và việc ổn định

đời sống của người dân bị thu hồi đất, thực hiện tái định cư hiệu quả tại các địa

phương.

Năng lực công tác, hiệu quả thực thi công vụ của các tổ chức, của đội ngũ

cán bộ, công chức ảnh hưởng rất lớn đến kết quả thực hiện công tác bồi thường,

hỗ trợ và tái định cư, nếu không có sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành

sẽ làm chậm tiến độ công tác bồi thường, hỗ trợ của các dự án đang triển khai tại

địa phương.

69

Giải pháp 2: Nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân về thực

hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất

Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và sự phối hợp của người dân trong

công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Tiếp tục đẩy mạnh công

tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, tinh thần trách nhiệm của các cấp

ủy đảng, chính quyền và nhân dân nghiêm túc chấp hành pháp luật và chủ trương

quy hoạch thu hồi đất, kế hoạch bồi thường, hỗ trợ cho các hộ dân bị thu hồi đất

theo quy định pháp luật, góp phần triển khai thực hiện công tác bồi thường hiệu

quả; nâng cao năng lực Quản lý Nhà nước về thực hiện chính sách bồi thường,

hỗ trợ, thu hồi đất cho cấp xã, thị trấn trên địa bàn huyện.

Giải pháp 3: Xây dựng cơ chế về thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ

và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất

UBND huyện chỉ đạo các cấp, các ngành thực hiện việc thu hồi đất, giao

đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư bảo đảm công khai, đúng trình tự, thủ tục; tổ

chức các lớp tập huấn, hướng dẫn, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ trong thực thi

pháp luật về đất đai, nhất là chính quyền cấp xã, phường. Đồng thời rà soát, góp

ý kiến kịp thời sửa đổi, bổ sung chính sách thu hồi đất, giao đất, bồi thường, hỗ

trợ, tái định cư bảo đảm phù hợp với quy định của pháp luật và điều kiện thực tế

của địa phương. Chỉ đạo việc đầu tư xây dựng các khu tái định cư, tạo quỹ đất

dự trữ để chủ động bố trí tái định cư; xây dựng, phê duyệt phương án tái định cư

trước khi có quyết định thu hồi đất thực hiện dự án, nhằm tạo sự đồng thuận cao

khi thực hiện.

Nâng cao tinh thần trách nhiệm của lãnh đạo và cán bộ trong thu hồi đất,

bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Tăng cường công tác tiếp công dân, đối thoại và

giải trình khi người dân chưa có ý kiến đồng tình. Đặc biệt, cần chỉ đạo cơ quan

thực hiện công tác GPMB chuẩn bị tốt phương án đền bù, phương án tái định cư

trên cơ sở tính toán đầy đủ lợi ích của Nhà nước, người bị thu hồi đất và nhà đầu

tư. Những người bị di dời phải được tham vấn rõ ràng được tham gia vào các

70

chương trình lập kế hoạch và thực hiện dự án. Bảo đảm cho những người bị thu

hồi đất có thể khôi phục hoặc cải thiện mức sống so với trước khi bị thu hồi đất.

Kết quả giám sát của HĐND huyện cũng cho thấy, việc xác định giá đất bồi

thường và giá đất cụ thể để bố trí giao đất tái định cư thuộc thẩm quyền của

UBND tỉnh, phụ thuộc vào Hội đồng thẩm định do UBND tỉnh thành lập, làm

chậm trễ việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và giao đất tái định cư cho

các hộ gia đình bị ảnh hưởng. Việc đầu tư xây dựng khu tái định cư của một số

dự án còn chậm; hạ tầng kỹ thuật chưa bảo đảm; quy hoạch phân lô bố trí tái cư

nhỏ, chưa phù hợp với tập quán sinh hoạt của người dân ở khu vực nông thôn...

do đó, một số hộ dân không chấp hành di chuyển về nơi ở mới.

Thường xuyên kiểm tra công tác thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và

tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của các cơ quan chức năng; kịp thời chấn

chỉnh những sai phạm, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật về bồi

thường, thu hồi đất. Giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ảnh

về công tác bồi thường, hỗ trợ theo đúng quy định của pháp luật.

Tổng hợp lấy ý kiến của nhân dân và các cơ quan chuyên môn trong việc

Quy hoạch các cụm công nghiệp, các dự án, công trình, qua đó có kế hoạch bồi

thường, đền bù, hỗ trợ hợp lý; Tăng cường thu hút đầu tư đối với những ngành

công nghiệp sạch, lựa chọn các nhà đầu tư ở các lĩnh vực ít có nguy cơ gây ô

nhiễm môi trường, thúc đầy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện.

Đôn đốc, kiểm tra, giám sát quá trình triển khai, thực hiện chính sách, Kế

hoạch bồi thường, hỗ trợ, thu hồi đất tại các xã, hạn chế các trường hợp khiếu nại

về công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất tại địa phương.

Trong từng phương hướng, UBND huyện phân công rõ đơn vị chủ trì, đơn

vị phối hợp và thời gian hoàn thành. UBND huyện giao UBND các xã căn cứ

vào Chỉ thị của Ban Thường vụ Huyện ủy, Kế hoạch của UBND huyện và tình

hình thực tiễn công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn

để xây dựng kế hoạch với mục tiêu, nội dung và giải pháp cụ thể, thông qua Ban

71

Thường vụ huyện ủy và tổ chức thực hiện để nâng cao hiệu quả thực hiện chính

sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn huyện; kịp thời báo cáo đề

xuất các giải pháp giải quyết những vướng mắc, khó khăn trong quá trình triển

khai thực hiện.

72

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở lý luận và thực trạng thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và

tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, Luận văn đã

đưa 3 giải pháp cụ thể thực hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

và 4 giải pháp giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ và

tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng

Ngãi. Qua phân tích cho thấy, việc nghiên cứu các quy định pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất áp dụng trên thực tiễn là việc làm cần

thiết, nhằm góp phần tìm ra giải pháp khắc phục những tồn tại, thiếu sót và nâng

cao hiệu quả thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước

thu hồi đất của tỉnh nói chung và huyện Bình Sơn nói riêng.

Để thực hiện hiệu quả những giải pháp trên cần có sự phối hợp của các

cấp, các ngành, doanh nghiệp, chủ đầu tư và người dân trong quá trình triển khai

ở các địa phương. Đồng thời cấp có thẩm quyền cần xây dựng cơ chế phù hợp,

góp ý đề xuất hoàn thiện chính sách đất đai, chính sách về bồi thường, hỗ trợ và

tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu

nhiệm vụ, phát triển kinh tế xã hội và từng bước nâng cao đời sống nhân dân trên

địa bàn huyện Bình Sơn trong thời gian đến.

73

KẾT LUẬN

Trong những năm qua, thực tiễn đã chứng minh về đường lối, chủ trương

đúng đắn của Đảng, pháp luật đất đai của Nhà nước và thực hiện các chính sách

bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đã được triển khai

rộng khắp, đạt hiệu quả ở các địa phương.

Thực trạng trên địa bàn huyện Bình Sơn đã được phân tích, đánh giá trong

Luận văn là những kết quả trung thực được thu thập, tổng hợp từ các cấp chính

quyền, các cơ quan chuyên môn trên địa bàn huyện Bình Sơn và các sở, ngành

trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Bên cạnh những thành tựu đạt được, thì việc thực

hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên

địa bàn huyện, các cấp chính quyền trong quá trình tổ chức thực hiện, theo dõi,

giám sát các dự án và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người dân còn nhiều

hạn chế, tồn tại; các cơ quan, công chức chuyên môn chưa thể hiện hết vai trò,

trách nhiệm thực hiện công vụ đối với những chính sách liên quan trực tiếp đến

đời sống nhân dân và lợi ích kinh tế để phát triển doanh nghiệp, mở rộng đầu tư,

chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn

huyện.

Hy vọng với những tìm hiểu, nghiên cứu ở góc độ học hỏi, rút kinh nghiệm

và Luận văn mạnh dạn đề xuất các giải pháp để các cấp, các ngành, các chuyên

gia chuyên môn có một cách nhìn toàn diện, từng bước hoàn thiện pháp luật đất

đai và các chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, đáp ứng được nguyện

vọng của mọi cá nhân và tổ chức, góp phần phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn

huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi trong những năm đến.

74

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ tài nguyên và môi trường (2009), Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày

01/10/2009 của Bộ tài nguyên và môi trường quy định chi tiết về bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư và trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho

thuê đất, Hà Nội;

2. Bộ tài nguyên và môi trường (2014), Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT ngày

30/6/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Quy định chi tiết về

bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Hà Nội;

3. Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của

Chính phủ về thi hành Luật đất đai năm 2003, Hà Nội;

4. Chính phủ (2004), Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của

Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất,

Hà Nội;

5. Chính phủ (2007), Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của

Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường,

hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất

đai, Hà Nội;

6. Chính phủ (2009), Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009 quy định

bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ

và tái định cư, Hà Nội;

7. Chính phủ (2014), Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính

phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai 2013, Hà Nội;

8. Chính phủ (2014), Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính

phủ Quy định về giá đất, Hà Nội;

9. Chính phủ (2014), Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính

phủ Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất,

Hà Nội;

10. Chính phủ (2014), Nghị định số 14/2014/NĐ-CP ngày 26/02/2014 của

Chính phủ Quy định chi tiết thi hành Luật Điện lực về an toàn điện, Hà

Nội;

11. Chính phủ (2020), Nghị định 06/2020/NĐ-CP ngày 03/01/2020 của Chính

phủ sửa đổi, bổ sung Điều 17 cùa Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày

15/5/2014 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước

thu hồi đất, Hà Nội;

12. Đào Chung Chính (2014), “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất đổi mới pháp

luật về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư”, Luận án Tiến sĩ, Đại

học Nông nghiệp Hà Nội;

13. Nguyễn Chí Cường (2016), “Đánh giá mức độ hài lòng của người dân và

các vấn đề bất cập trong giải tỏa, bồi thường và tái định cư trên địa bàn

tỉnh Vĩnh Long”, Luận văn cao học Quản lý Đất đai, Đại học Cần Thơ;

14. Lê Duy Du (2013), “Quyền khiếu nại hành chính của công dân về đất đai

từ thực tiễn tại Thành phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện

Khoa học xã hội;

15. Nguyễn Anh Dũng (2016), “Thực hiện chính sách bồi thường, hổ trợ và tái

định cư khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn Khu kinh tế Dung Quất, tỉnh

Quảng Ngãi”, Luận văn Thạc sỹ Chính sách công, Học viện Khoa học xã

hội;

16. Hồ Việt Hạnh (2017), Bàn về khái niệm chính sách công, Tạp chí nhân lực

khoa học xã hội, Học Viện khoa học xã hội, số 12 – 2017;

17. Trần Thị Mỹ Hạnh (2015), “Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc

sỹ Chính sách công, Học viện Khoa học xã hội;

18. Lê Văn Hải (2016), “Giải quyết khiếu nại quyết định hành chính về bồi

thường, hổ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh

Bình Định”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội;

19. Phan Trung Hiền (2014), TS, Những điều cần biết về bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Nhà xuất bản chính trị quốc gia;

20. Hoàng Quốc Hùng (2017), Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế, Luận văn thạc sỹ Luật hiến

pháp và Luật hành chính, Học viện hành chính quốc gia;

21. Trần Thị Hương (2018), Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Phú

Bình, tỉnh Thái Nguyên, Luận văn thạc sỹ Luật hiến pháp và Luật hành

chính, Học viện khoa học xã hội;

22. Hội đồng nhân dân (2016), Nghị quyết số 35/2016/NQ-HĐND ngày

14/12/2016 của HĐND tỉnh về việc thông qua điều chỉnh quy hoạch sử

dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016 – 2020)

tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi;

23. Hội đồng nhân dân (2018), Nghị quyết số 32/2018/NQ-HĐND ngày

26/12/2018 của Hội đồng nhân dân tỉnh về việc thông qua danh mục công

trình, dự án phải thu hồi đất và chuyển mục đích sử dụng đất lúa, đất rừng

phòng hộ sang đất phi nông nghiệp năm 2019 trên địa bàn tỉnh Quảng

Ngãi, Quảng Ngãi;

24. Hội đồng nhân dân (2019), Nghị quyết số 28/2019/NQ-HĐND ngày

27/12/2019 của Hội đồng nhân dân tỉnh về việc thông qua danh mục công

trình, dự án phải thu hồi đất và chuyển mục đích sử dụng đất lúa, đất rừng

phòng hộ sang đất phi nông nghiệp năm 2020 trên địa bàn tỉnh Quảng

Ngãi, Quảng Ngãi;

25. Nguyễn Thị Nga (2013), Pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất – thực trạng và hướng hoàn thiện, Đề tài nghiên cứu

khoa học;

26. Nguyễn Thị Minh Phượng (2018), TS, Chính sách bồi thường, hỗ trợ giải

phóng mặt bằng và tái định cư cho người dân bị thu hồi đất thực hiện các

dự án ở Nghệ An, Nhà xuất bản chính trị sự thật, tháng 12/2018;

27. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013;

28. Quốc hội (2013), Luật Đất đai năm 2013;

29. Trần Minh Sang (2017), Quản lý nhà nước về bồi thường, hỗ trợ, tái định

cư trên địa bàn huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang, Luận văn thạc sỹ quản

lý công, Học viện hành chính quốc gia;

30. Nguyễn Thị Tâm (2013), “Pháp luật về thu hồi đất trong việc giải quyết

mối quan hệ giữa nhà nước – nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi”, Luận

văn Thạc sĩ Luật học;

31. Văn Tất Thu (2016), Năng lực thực hiện chính sách công - những vấn đề lý

luận và thực tiễn, Trang thông tin điện tử Tạp chí tổ chức nhà nước

https://tcnn.vn/, cập nhật ngày 31/01/2016;

32. Phạm Thu Thủy (2014), “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp ở Việt Nam”, Luận án tiến sỹ,Trường Đại học Luật Hà Nội;

33. Phạm Duy Tín (2015), “Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại địa bàn thành

phố Cần Thơ”, Luận văn cao học Quản lý công, Học viện Hành chính

Quốc gia;

34. Nguyễn Thị Cẩm Tú (2014), “Đánh giá khung chính sách bồi thường lên

đời sống người dân giữa dự án đầu tư vốn nước ngoài và ngân sách Nhà

nước tại thành phố Cần Thơ”, Luận văn cao học Quản lý đất đai, Đại học

Cần Thơ;

35. UBND tỉnh (2018), Quyết định số 05/2018/QĐ-UBND ngày 23/01/2018

của UBND tỉnh bổ sung, điều chỉnh bảng giá đất ở trên địa bàn tỉnh Quảng

Ngãi áp dụng cho thời kỳ 05 năm (2015 – 2019) ban hành kèm theo Quyết

định số 67/2014/QĐ-UBND ngày 31/12/2014 của UBND tỉnh Quảng Ngãi;

Quảng Ngãi;

36. UBND tỉnh (2018), Quyết định số 69/QĐ-UBND ngày 24/01/2018 của

UBND tỉnh về việc phê duyệt Kế hoạch sử dụng đất năm 2019 của huyện

Bình Sơn, Quảng Ngãi;

37. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2018), Kế hoạch số 72/KH-UBND ngày

16/5/2018 của UBND tỉnh phát triển sản phẩm du lịch cộng đồng tại 04

huyện Bình Sơn, Lý Sơn, Nghĩa Hành, Ba Tơ tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn

2018 – 2020, Quảng Ngãi;

38. UBND tỉnh (2019), Quyết định số 525/QĐ-UBND ngày 28/6/2019 của

UBND tỉnh về việc phê duyệt Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm

2020 huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi;

39. UBND tỉnh (2019), Quyết định số 737/QĐ-UBND ngày 27/9/2019 của

UBND tỉnh ban hành quy chế thực hiện dân chủ trong công tác bồi thường,

hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng

Ngãi, Quảng Ngãi;

40. UBND huyện Bình Sơn (2019), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã hội

trên địa bàn huyện Bình Sơn giai đoạn 2015 – 2019, Bình Sơn;

41. UBND huyện (2019), Báo cáo kết quả thực hiện chính sách bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn

2015 – 2019, Bình Sơn;

42. UBND tỉnh (2020), Quyết định số 167/QĐ-UBND ngày 19/03/2020 của

UBND tỉnh về việc phê duyệt kế hoạch sử dụng đất năm 2020 của huyện

Bình Sơn, Quảng Ngãi;

43. Nguyễn Thị Cẩm Vân (2014) “Giải quyết khiếu nại quyết định hành chính

về bồi thường, hổ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn

thành phố Đà Nẵng” năm 2014, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện

Khoa học xã hội;

44. Nguyễn Đắc Vui (2016), Hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định

cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, Học viện

Hành chính Quốc gia;

45. Trần Cao Hải Yến (2014), Thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay,

Đại Học Luật Hà Nội.