VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÕ TRUNG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ
VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN BÌNH SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÕ TRUNG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ
VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN BÌNH SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI
Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số : 8 34 04 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. HỒ VIỆT HẠNH
HÀ NỘI, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi. Các tài liệu,
thông tin thu thập được để phân tích, làm rõ những nội dung trong Luận văn có
nguồn gốc rõ ràng, chính xác và lần đầu tiên được nghiên cứu, công bố trong
công trình này.
Quảng Ngãi, ngày 10 tháng 8 năm 2020
NGƯỜI CAM ĐOAN
Võ Trung
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo của các thầy cô giáo và sự giúp đỡ nhiệt
tình, những ý kiến đóng góp quý báu của nhiều cá nhân và tập thể để hoàn thành
Luận văn này. Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Hồ Việt
Hạnh, người đã trực tiếp hướng dẫn đề tài cho tôi với tất cả lòng nhiệt tình và sự
quan tâm. Đồng thời, tôi xin chân thành cảm ơn sự đóng góp chân thành của các
thầy, cô giảng viên của Học viện khoa học xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi thực hiện đề tài. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo UBND huyện
Bình Sơn, Phòng TN&MT, Ban quản lý dự án đầu tư huyện Bình Sơn, Trung
tâm phát triển quỹ đất huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi; các cơ quan ban ngành
liên quan; người thân, bạn bè, đồng nghiệp, luôn quan tâm tạo điều kiện, chia sẻ
động viên tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu Luận văn. Mặc dù đã rất
cố gắng trong quá trình nghiên cứu nhưng Luận văn không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Tôi mong nhận được sự góp ý của quý thầy, cô và bạn bè. Xin trân
trọng cảm ơn.
Quảng Ngãi, ngày 10 tháng 8 năm 2020
Tác giả
Võ Trung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ..................................................................... 7
1.1. Một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất .................................................................................... 7
1.2. Cơ sở thực tiễn thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất ............................................................................................. 19
1.3. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất .......................................................................... 23
1.4. Một số kinh nghiệm thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất ....................................................................................... 29
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG,
HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA
BÀN HUYỆN BÌNH SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI .......................................... 33
2.1. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi… .................................................................................................................. 33
2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi ........... 43
2.3. Kết quả thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi ................................. 54
2.4 Những thành tựu và hạn chế thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi… .................................................................................................................. 57
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG, NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH
CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BÌNH
SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI .............................................................................. 64
3.1. Giải pháp chung thực hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi ........... 64
3.2. Giải pháp cụ thể thực hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi ........... 67
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
BQL Ban quản lý 1
BTNMT Bộ Tài nguyên và môi trường 2
GPMT Giải phóng mặt bằng 3
HĐND Hội đồng nhân dân 4
NCMR Nâng cấp mở rộng 5
NMLD Nhà máy lọc dầu 6
STNMT Sở Tài nguyên và môi trường 7
TDC Tái định cư 8
UBND Ủy ban nhân dân 9
10 UBMTTQVN Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai có vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống con người và sự phát
triển kinh tế, xã hội ở các địa phương. Kể từ khi Hiến pháp 2013, Luật đất đai
2013 ra đời đã tạo hành lang pháp lý trong quản lý đất đai, triển khai thực hiện
chính sách đất đai nói chung, thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng. Qua đó góp phần bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp cho người dân khi Nhà nước thu hồi đất để triển khai các công
trình, dự án; thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, từng bước nâng cao đời sống
nhân dân trong cả nước.
Các cấp, chính quyền địa phương đang tích cực xây dựng nông thôn mới,
phát triển đô thị, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, thực hiện nhiều dự án trọng điểm,
đẩy mạnh công nghiệp hóa. Tuy nhiên từ những quy định của pháp luật đến việc
triển khai thực hiện chính sách đất đai, chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
còn gặp nhiều khó khăn, bất cập, dẫn đến một số trường hợp người dân khiếu
nại, khiếu kiện...
Trong những năm qua, các cấp chính quyền huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi luôn xác định nâng cao hiệu quả công tác quản lý đất đai là hết sức cấp
thiết, hạn chế những mặt tiêu cực, đẩy nhanh tiến độ trong công tác bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư, góp phần triển khai các dự án phát triển kinh tế - xã hội trên
địa bàn huyện đạt kết quả. Thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
trong đó bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở gắn với chính sách đất đai, các nội
dung về bồi thường, hỗ trợ được niêm yết công khai, bố trí tái cư hợp lý, tiến
hành bàn giao mặt bằng cho nhà đầu tư, chủ đầu tư thực hiện dự án đúng theo
quy định pháp luật; góp phần tích cực cho phát triển kinh tế, giữ vững ổn định
chính trị, đảm bảo an sinh xã hội tại địa phương.
Với chức trách nhiệm vụ, bản thân tôi được thực hiện công tác quản lý tại
Phòng phát triển quỹ đất, có nhiều cơ hội được tiếp cận trong thực tiễn quản lý
đất đai, triển khai thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ trong các công trình,
dự án phát triển kinh tế xã hội trong địa bàn huyện. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài
1
“Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi” để làm Luận văn tốt
nghiệp Thạc sỹ chính sách công nhằm nêu lên những quan điểm, phân tích, làm
rõ thực trạng chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, góp phần hoàn thiện
chính sách và nâng cao hiệu quả thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất tại địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Liên quan đến vấn đề nghiên cứu và vấn đề thực hiện chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đã được rất nhiều tác giả
nghiên cứu. Sau đây là một số công trình tiêu biểu:
- Đào Chung Chính (2014), “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất đổi mới
pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư”, Luận án Tiến sĩ, Đại
học Nông nghiệp Hà Nội;
- Nguyễn Chí Cường (2016), “Đánh giá mức độ hài lòng của người dân và
các vấn đề bất cập trong giải tỏa, bồi thường và tái định cư trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Long”, Luận văn cao học Quản lý Đất đai, Đại học Cần Thơ;
- Lê Duy Du (2013), “Quyền khiếu nại hành chính của công dân về đất đai
từ thực tiễn tại Thành phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện
Khoa học xã hội;
- Nguyễn Anh Dũng (2016), “Thực hiện chính sách bồi thường, hổ trợ và
tái định cư khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn Khu kinh tế Dung Quất, tỉnh
Quảng Ngãi”, Luận văn Thạc sỹ Chính sách công, Học viện Khoa học xã hội;
- Trần Thị Mỹ Hạnh (2015), “Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sỹ
Chính sách công, Học viện Khoa học xã hội;
- Lê Văn Hải (2016), “Giải quyết khiếu nại quyết định hành chính về bồi
thường, hổ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh Bình
Định”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội;
- Phan Trung Hiền (2014), TS, Những điều cần biết về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Nhà xuất bản chính trị quốc gia;
2
- Hoàng Quốc Hùng (2017), Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế, Luận văn thạc sỹ Luật hiến pháp và
Luật hành chính, Học viện hành chính quốc gia;
- Trần Thị Hương (2018), Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Phú
Bình, tỉnh Thái Nguyên, Luận văn thạc sỹ Luật hiến pháp và Luật hành chính,
Học viện khoa học xã hội;
- Nguyễn Thị Nga (2013), Pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất – thực trạng và hướng hoàn thiện, Đề tài nghiên cứu
khoa học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Trần Minh Sang (2017), Quản lý nhà nước về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư trên địa bàn huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang, Luận văn thạc sỹ quản lý
công, Học viện hành chính quốc gia;
- Nguyễn Thị Tâm (2013), “Pháp luật về thu hồi đất trong việc giải quyết
mối quan hệ giữa nhà nước – nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi”, Luận văn
Thạc sĩ Luật học;
- Phạm Thu Thủy (2014), “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp ở Việt Nam”, Luận án tiến sỹ,Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Phạm Duy Tín (2015), “Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại địa bàn thành
phố Cần Thơ”, Luận văn cao học Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia;
- Nguyễn Thị Cẩm Tú (2014), “Đánh giá khung chính sách bồi thường lên
đời sống người dân giữa dự án đầu tư vốn nước ngoài và ngân sách Nhà nước
tại thành phố Cần Thơ”, Luận văn cao học Quản lý đất đai, Đại học Cần Thơ;
- Nguyễn Thị Minh Phượng (2018), TS, Chính sách bồi thường, hỗ trợ giải
phóng mặt bằng và tái định cư cho người dân bị thu hồi đất thực hiện các dự án
ở Nghệ An, Nhà xuất bản chính trị sự thật, tháng 12/2018;
- Nguyễn Thị Cẩm Vân (2014) “Giải quyết khiếu nại quyết định hành chính
về bồi thường, hổ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành
phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội;
3
- Nguyễn Đắc Vui (2016), Hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, Học viện
Hành chính Quốc gia;
- Trần Cao Hải Yến (2014), Thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay, Đại
Học Luật Hà Nội.
Qua tìm hiểu những công trình trên, trong đó có những vấn đề lý luận,
quản lý nhà nước, áp dụng thực hiện về đất đai nói chung và thực hiện thực hiện
chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng.
Từ những nghiên cứu của các công trình trên tác giả muốn tìm hiểu và áp dụng
nghiên cứu “Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi” có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn, đồng thời một số đề xuất những giải pháp tăng cường nâng
cao hiệu quả thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất tại địa phương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở về mặt lý luận và thực tiễn, phân tích làm rõ thực hiện chính
sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
huyện Bình Sơn và từ đó đưa ra định hướng, các giải pháp nâng cao hiệu quả
thực hiện chính sách tại địa phương.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu những lý luận chung về thực hiện chính sách bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi, từ năm 2015 đến nay, nêu lên những kết quả đạt được và những tồn tại của
vấn đề, chỉ rõ nguyên nhân của vấn đề.
+ Đề xuất giải pháp tăng cường, nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình
4
Sơn trong thời gian đến.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: khái quát chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
đối với người dân trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian: Được thực hiện nghiên cứu trên địa bàn huyện Bình Sơn,
tỉnh Quảng Ngãi.
+ Thời gian: từ năm 2015 đến nay.
+ Vấn đề nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện chính sách bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư đối với người dân bị thu hồi đất tại địa phương.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
Chủ nghĩa Mác-Lênin; đồng thời trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật về chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và thực hiện
chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp thống kê: Thu thập các tài liệu, số liệu từ các cơ quan, ban
ngành có liên quan đến công tác thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn, từ đó phân tích, đánh giá và định
hướng nâng cao hiệu quả trong thời gian đến.
+ Phương pháp thu thập thông tin: Thu thập thông tin từ các cơ quan nhà
nước, các công trình nghiên cứu khác về xây dựng, hoàn thiện và thực hiện chính
sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn ở
các địa phương.
+ Phương pháp luật học: Đề tài nghiên cứu, tìm đọc các văn kiện, văn bản
luật và các văn bản hướng dẫn… để áp dụng, chọn lọc nghiên cứu trong Đề tài
của Luận văn.
5
6. Ý nghĩa của đề tài
Phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật về thực hiện chính sách bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Qua đó, làm cơ sở để các
cấp có thẩm quyền xây dựng hoàn thiện, bổ sung các nội dung chính sách phù
hợp đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao trong giai đoạn hiện nay.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn bao gồm các nội dung sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận và cơ sở thực tiễn thực hiện chính sách
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3. Giải pháp tăng cường, nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện
Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
6
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ
NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
1.1.1. Một số khái niệm công cụ
* Khái niệm chính sách công
Ở nước ta, cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau về chính sách công, như:
Từ điển Bách khoa Việt Nam khái niệm: “Chính sách là các chuẩn tắc cụ
thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ…”.
Theo quan niệm của PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải khái niệm: “Chính sách
công là kết quả ý chí chính trị của nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các
quyết định có liên quan với nhau, bao hàm trong đó định hướng mục tiêu và cách
thức giải quyết những vấn đề công trong xã hội”.
Theo quan điểm của Viện chính trị học khái niệm: “...chính sách công là
chương trình hành động hướng đích của chủ thể nắm hoặc chi phối quyền lực
công cộng”.
Theo quan niệm của TS. Đặng Ngọc Lợi khái niệm: “chính sách công là
chính sách của nhà nước, của chính phủ...”.
Theo quan niệm của PGS.TS. Lê Chi Mai khái niệm: “chủ thể ban hành
chính sách công là nhà nước; chính sách công không chỉ là các quyết định thể
hiện trên văn bản và những hành động, hành vi thực tiễn ở các địa phương”.
Từ những phân tích trên, PGS.TS. Hồ Việt Hạnh có một số quan niệm
chính sách công như sau:
Thứ nhất, chính sách công chỉ xuất hiện trong thời kỳ xã hội loài người đã
có nhà nước.
Thứ hai, các quan niệm có xu hướng giới hạn vào chủ thể là nhà nước và
nếu mở rộng thì cũng chỉ đến các chủ thể chính trị khác song cũng đặt mối quan
hệ liên quan đến nhà nước.
7
Thứ ba, một số quan niệm tính đến mục tiêu giải quyết vấn đề như một
thành tố quan trọng làm tiêu chí xác định chính sách công. Tiêu chí đó có thể là
giải quyết những vấn đề bức xúc, quan tâm chung của cộng đồng...
Thứ tư, chính sách công phải được xem như một quá trình xác định ý
tưởng, hoạch định, thực hiện đến đánh giá. [16, tr.4]
Chính sách công được thể chế hóa bằng các quy định pháp luật điều chỉnh
các quan hệ xã hội, cuộc sống thực tiễn. Đòi hỏi sự phù hợp của chính sách được
thực hiện khả thi, bền vững trên thực tế.
Như vậy có thể hiểu, chính sách công bao gồm các thuộc tính nhà nước,
công cộng, hành động thực tiễn được hệ thống và kế thừa lịch sử, gắn liền với
các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của một quốc gia.
* Thực hiện chính sách là một quá trình trong việc chuyển hóa ý chí của
chủ thể chính sách thực hiện quản lý các đối tượng trong các quan hệ xã hội,
quản lý hành chính nhà nước. Tổ chức thực thi chính sách bao gồm các bước
theo quy trình chính sách thực hiện trong một hệ thống. Hoạch định chính sách
và thực hiện đúng chính sách luôn gắn kết với nhau trong quá trình thực hiện.
* Các bước thực hiện chính sách, gồm 5 bước:
- Ban hành văn bản, xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện chính sách.
- Phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thực hiện chính sách.
- Triển khai thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất
- Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc về thực hiện chính sách.
- Đánh giá, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất tại các địa phương.
* Về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Theo pháp luật hiện hành chỉ xác định khái niệm “bồi thường về đất” mà
không xác định khái niệm đối với các tài sản khác như: công trình xây dựng, vật
kiến trúc, cây trồng, vật nuôi…
8
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc nhà nước áp giá đền bù để chi
trả thiệt hại trong quá trình thu hồi đất đối với người dân và các chủ thể thiệt hại
về quyền sử dụng đất hoặc quyền sở hữu, sử dụng đối với công trình, vật kiến
trúc.... Đây là cơ sở để các cấp, chính quyền địa phương xác định được mức độ
thiệt hại khái niệm của người dân có đất bị thu hồi, được các cơ quan nhà nước
bồi thường tương xứng, đúng theo quy định của pháp luật. [khoản 12 Điều 3
Luật Đất đai năm 2013].
Các trường hợp chủ thể sử dụng đất không đúng mục đích, sử dụng đất
không có hiệu quả, cố ý huỷ hoại đất hoặc trường hợp đất được giao không đúng
đối tượng, không đúng thẩm quyển, đất lấn chiếm, đất do cá nhân sử dụng đã
chết mà không có người thừa kế, chủ thể sử dụng đất tự nguyện trả lại đất... thì
sẽ không được bồi thường khi bị thu hồi đất.
Đất đang sử dụng bị thu hồi mà chủ thể sử dụng đất có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thì được bồi thường, được bố trí khu tái định cư có điều kiện
tốt hơn nơi đất đã bị thu hồi trước đây.
Trường hợp không có khu tái định cư thì người bị thu hồi đất được bồi
thường, ưu tiên, thuê nhà ở khu vực đô thị; đối với khu vực nông thôn được bồi
thường bằng đất, được hỗ trợ ổn định đời sống, đào tạo nghề, bố trí việc làm mới
phù hợp tại địa phương.
* Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp cho người có
đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển [khoản 14 Điều 3 Luật Đất
đai 2013].
Về đối tượng được nhận hỗ trợ ổn định đời sống khi Nhà nước thu hồi đất
Thứ nhất, hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, đang có
quyền sử dụng đất nông nghiệp thông qua các hình thức như được Nhà nước
giao, cho thuê, công nhận hoặc nhận chuyển nhượng; Có thu nhập ổn định từ sản
xuất nông nghiệp trên diện tích đất đó.
9
Thứ hai, với các tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh
doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bị ngừng sản xuất, kinh doanh
khi Nhà nước thu hồi đất sẽ căn cứ theo khoản 6 Điều 19 Nghị định số
47/2014/NĐ-CP khi đó, người lao động trong các tổ chức kể trên được áp dụng
chế độ trợ cấp thôi việc theo quy định của pháp luật về lao động, thời gian trợ
cấp không quá 6 tháng.
Có thể nhận thấy đối tượng được hỗ trợ theo quy định của pháp luật chủ
yếu tập trung vào hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất và có nguồn gốc đất từ
việc xác lập bằng con đường Nhà nước giao đất, nhận chuyển nhượng… Đồng
thời các cấp có thẩm quyền cần bổ sung đối tượng thuê đất có hợp đồng trên diện
tích bị ảnh hưởng của quá trình thu hồi đất, được hỗ trợ ổn định đời sống.
Về điều kiện diện tích đất bị thu hồi để được nhận hỗ trợ ổn định đời sống
- Thu hồi từ 30% đến 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng được
hỗ trợ 6 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở; 12 tháng nếu di chuyển chỗ ở;
nếu di chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn được hỗ trợ
tối đa là 24 tháng.
- Thu hồi trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì được hỗ trợ
12 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở; 24 tháng nếu di chuyển chỗ ở.
- Diện tích đất thu hồi quy định được xác định theo từng quyết định thu
hồi đất của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền; đặc biệt khó khăn thì thời gian
hỗ trợ tối đa là 36 tháng;
Chỉ xem xét hỗ trợ những tổn thất trong cùng một quyết định thu hồi,
cùng một địa phương, chưa dự liệu được tình huống người sử dụng đất có nhiều
mẫu đất khác nhau, tại nhiều địa phương, phường, xã khác nhau; cùng bị ảnh
hưởng do quá trình thu hồi đất gây ra. [18-19, tr.9].
* Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Tái định cư là việc bố trí chỗ ở mới cho người bị thu hồi đất, được xây
dựng cơ sở hạ tầng, đảm bảo các điều kiện tốt hơn nơi đất ở đã bị thu hồi theo
quy định pháp luật.
10
Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất
của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử
dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai. [khoản 11 Điều 3 Luật Đất đai 2013].
Trong công tác giải phóng mặt bằng các cấp chính quyền địa phương xác
định thực hiện chính sách bồi thường đất đai, tài sản gắn liền trên đất bảo đảm
đúng đối tượng, ổn định đời sống và hướng nghiệp nghề, việc làm ổn định cho
người bị thu hồi đất, phù hợp với chủ trương, chính sách từng địa phương. Đồng
thời đảm bảo thực hiện các dự án đầu tư, từng bước nâng cao đời sống nhân dân,
góp phần phát triển kinh tế xã hội tại các địa phương.
[Bùi Thanh Song (2011), Hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, Luận văn Thạc
sỹ Kinh tế, Trường Đại học kinh tế quốc dân].
* Quy định về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở
Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức lập, bố trí tái định cư trước
khi thu hồi đất của các hộ dân phù hợp với từng địa phương cụ thể.
Ban bồi thường, giải phóng mặt bằng được ủy ban nhân dân các cấp giao
trách nhiệm bố trí tái định cư, thực hiện thông báo, niêm yết công khai ít nhất 15
ngày tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư
nơi có đất thu hồi cho người có đất ở thu hồi về chủ trương di chuyển chỗ ở và
phương án bố trí tái định cư của chính quyền địa phương, bảo đảm đúng quy
trình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi tầng lớp nhân dân.
Các hộ cá nhân, gia đình có đất thu hồi được bố trí tái định cư tại chỗ hoặc
tái định cư khu mới theo quy hoạch tái định cư của địa phương. Ưu tiên vị trí
thuận lợi cho người có đất thu hồi sớm bàn giao mặt bằng, người có đất thu hồi
là người có công với cách mạng [Lý Thị Trang (2017), Bồi thường, hỗ trợ tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Trang thông tin điện tử
https://law.tueanhgroup.vn/, cập nhật ngày 04/7/2017].
1.1.2. Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất
11
1.1.2.1. Lý luận về thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất
Thực hiện chính sách
Thực hiện chính sách là một quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính
sách đối với các đối tượng được quản lý, điều chỉnh các quan hệ xã hội đáp ừng
được mục tiêu đặt ra. Tổ chức thực thi chính sách bao gồm các bước thực hiện
theo quy trình trong một hệ thống chính sách [27].
Các bước thực hiện chính sách
Bước 1. Thông báo thu hồi đất:
Trước khi có quyết định thu hồi đất, chậm nhất là 90 ngày đối với đất nông
nghiệp và 180 ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phải thông báo thu hồi đất cho người có đất thu hồi biết. Sau đó tổ chức
họp, lấy ý kiến và tổng hợp những ý kiến này làm cơ sở để UBND cấp có thẩm
quyền có thể ra Quyết định thu hồi đất và thực hiện các chính sách về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định.
Bước 2. Thu hồi đất:
UBND cấp tỉnh có thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công
ích của xã, phường, thị trấn; đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài.... UBND cấp huyện có thẩm quyền thu hồi đất đối với đất
của hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư.... Trường hợp khu đất thu hồi có cả
tổ chức và hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất thì UBND cấp tỉnh có thẩm
quyền quyết định thu hồi đất hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện
quyết định thu hồi đất.
Bước 3. Kiểm kê đất đai, tài sản có trên đất:
Khi có Thông báo thu hồi đất, UBND cấp xã có trách nhiệm phối hợp với
Ban bồi thường, giải phóng mặt bằng triển khai thực hiện khảo sát, đo đạc, kiểm
kê và các hộ gia đình, cá nhân có đất tăng cường phối hợp với chính quyền địa
phương thực hiện kiểm kê đất, tài sản gắn liền trên đất đạt hiệu quả. Nếu người
dân không phối hợp, chính quyền địa phương thực hiện việc vận động, thuyết
12
phục để người sử dụng đất chấp hành nghiêm túc hoặc trường hợp người có đất
thu hồi không chấp hành thì Chủ tịch UBND cấp huyện ban hành quyết định
cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc [Điều 70, Luật đất đai 2013].
Bước 4. Lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư:
UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện có trách nhiệm tổ chức, bố trí tái định
cư trước khi thu hồi đất của các hộ dân. Khu tái định cư đảm bảo các điều kiện
tốt nhất, phù hợp với phong tục, tập quán của từng địa phương. Dự án tái định cư
được lập và thực hiện bảo đảm có đất ở, nhà ở tái định cư trước khi nhà nước thu
hồi đất.
Bước 5. Niêm yết công khai phương án lấy ý kiến của nhân dân
Sau khi phương án chi tiết được lập, Ban bồi thường, giải phóng mặt bằng
có trách nhiệm phối hợp với UBND cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức lấy ý kiến,
niêm yết công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại trụ sở UBND
cấp xã nơi có đất thu hồi. Việc tổ chức lấy ý kiến phải được lập thành biên bản
có xác nhận của chính quyền địa phương, đại diện những người có đất thu hồi.
Ban bồi thường, giải phóng mặt bằng tổng hợp ý kiến trình cơ quan có
thẩm quyền phê duyệt phương án.
Bước 6. Hoàn chỉnh Phương án:
Trên cơ sở ý kiến người có đất bị thu hồi, đại diện chính quyền địa phương
tiếp thu, tổng hợp phương án chi tiết trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt thực
hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Bước 7. Phê duyệt phương án chi tiết và tổ chức triển khai thực hiện:
Ban bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm phối hợp với chính
quyền địa phương niêm yết công khai quyết định phê duyệt phương án, mức giá,
địa điểm bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của những hộ dân bị thu hồi đất.
Trường hợp người có đất thu hồi không bàn giao đất cho Ban bồi thường,
giải phóng mặt bằng thì chính quyền địa phương nơi có đất thu hồi và Ban bồi
13
thường, giải phóng mặt bằng tổ chức vận động người dân thực hiện, nếu không
chấp hành thì thực hiện cưỡng chế [Điều 71 của Luật đất đai 2013].
Bước 8. Tổ chức chi trả bồi thường:
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền có hiệu lực thi hành, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi
thường phải chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi [Điều 93
Luật đất đai 2013]
Trường hợp nhà nước bồi thường chậm thì người dân được được thanh toán
thêm một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định và nếu người dân
không nhận tiền bồi thường, hỗ trợ thì số tiền này được gửi vào tài khoản tạm
giữ của Kho bạc nhà nước.
Người sử dụng đất được bồi mà chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất
đai thì phải trừ đi khoản tiền này trong tổng số tiền được bồi thường để nộp ngân
sách nhà nước. Nếu số tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính khi thực hiện thu
hồi đất lớn hơn số tiền được bồi thường, hỗ trợ thì hộ gia đình, cá nhân tiếp tục
được ghi nợ số tiền chênh lệch này; nếu hộ gia đình, cá nhân được bố trí tái định
cư thì sau khi trừ số tiền bồi thường, hỗ trợ mà số tiền còn lại nhỏ hơn số tiền
chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì hộ gia đình, cá nhân tiếp tục được ghi nợ
theo quy định [Khoản 4, Điều 93, Luật đất đai 2013]
Trường hợp diện tích đất thu hồi đang có tranh chấp thì tiền bồi thường, hỗ
trợ đối với phần diện tích đất này được chuyển vào Kho bạc Nhà nước chờ sau
khi chính quyền địa phương quyết xong thì trả cho ngươi có quyền sử dụng đất.
Bước 9. Bàn giao mặt bằng, cưỡng chế thu hồi đất
Người bị thu hồi đất phải bàn giao mặt bằng ngay sau khi nhận tiền bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư; nếu không bàn giao mặt bằng thì thực hiện cưỡng chế
[Điều 71 Luật Đất đai 2013].
Trình tự, thủ tục thực hiện cưỡng chế thu hồi đất: UBND cấp huyện
thành lập Ban thực hiện cưỡng chế với nhiệm vụ thực hiện vận động, thuyết
14
phục, đối thoại với người dân, lập biên bản ghi nhận theo quy định. Việc bàn
giao đất được thực hiện chậm nhất sau 30 ngày kể từ ngày lập biên bản. Nếu
người dân không chấp hành thì Ban thực hiện cưỡng chế tổ chức thực hiện
cưỡng chế...Trường hợp người bị cưỡng chế từ chối nhận tài sản thì lập biên bản,
bảo quản tài sản theo quy định của pháp luật và thông báo cho người có tài sản
nhận lại tài sản.
Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện quyết định
cưỡng chế thu hồi đất: UBND cấp huyện tổ chức thực hiện việc cưỡng chế, giải
quyết khiếu nại liên quan đến việc cưỡng chế theo quy định và thực hiện phương
án tái định cư trước khi thực hiện cưỡng chế....Trường hợp trên đất thu hồi có tài
sản thì thực hiện bảo quản tài sản, chi phí bảo quản tài sản do chủ sở hữu chịu
trách nhiệm thanh toán....
Luật đất đai 2013 được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2013, có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/7/2014 quy định một số điểm mới về bồi thường và thu hồi
đất nhằm tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng hơn trong hoạt động bồi thường
và thu hồi đất. Theo đó, quy định quyền lợi của người sử dụng đất khi bị thu hồi
[Điều 26, khoản 3 Luật Đất Đai 2013]; Thẩm quyền về thu hồi đất [Điều 66];
Trình tự thông báo khi thu hồi đất [khoản 1, Điều 67]; Các trường hợp bị thu hồi
đất [Điều 61 đến Điều 65]; Trình tự thu hồi đất [Điều 69 Luật đất đai 2013, Điều
65, Điều 66 Nghị định 43/2014/NĐ-CP]; Cưỡng chế thu hồi đất [Điều 71]; Bồi
thường khi thu hồi đất [Điều 77, Điều 79, Điều 83 Luật đất đai 2013, Điều 5,
Điều 6 Nghị định 47/2014/NĐ-CP]; Những trường hợp Nhà nước thu hồi đất
không được bồi thường về đất [Điều 82].
Từ khi có Luật đất đai 2013, cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều
chính sách, văn bản liên quan đến giá đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Từ
những quan điểm, chủ trương chung, các cơ quan chuyên môn có thẩm quyền
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh, thực hiện chính sách
bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Đồng thời tham mưu giúp Chính
phủ, Quốc hội ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản hướng dẫn
15
thi hành liên quan đến công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất
tại các địa phương.
1.1.2.2. Phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
Các cấp, các ngành xác định công tác thực hiện chính sách về bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư là nhiệm vụ thường xuyên của cả hệ thống chính trị theo
hướng tổ chức Đảng tập trung lãnh đạo, chính quyền tích cực triển khai thực
hiện, các đoàn thể và các cơ quan liên quan tích cực tuyên truyền phổ biến, giáo
dục pháp luật về Luật đất đai nói chung và quy định của pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất nói riêng, vận động nhân dân thực hiện đúng
chủ trương, chính sách, đồng thời đảm bảo quyền lợi của người dân. Trong thời
gian triển khai thực hiện các dự án các cấp chính quyền địa phương luôn nêu cao
tinh thần trách nhiệm, thực hiện thuyết phục nhân dân chấp hành các chủ trương
của Đảng, thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất của
người dân, bảo đảm thực hiện đạt kế hoạch của các địa phương hàng năm.
Qua việc thực hiện công tác tuyên truyền đã tác động rất lớn đến tư tưởng,
nhận thức của người dân, tổ chức trong việc phối hợp, chấp hành, triển khai thực
hiện công tác bồi thường, hỗ trợ đạt kết quả tốt. Nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến
giáo dục pháp luật, thực tiễn áp dụng đúng đắn, tuân thủ triệt để pháp luật, thực
hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đã
từng bước nâng cao đời sống nhân dân, góp phần triển kinh tế, xã hội, chuyển
đổi cơ cấu nền kinh tế, ổn định đời sống sản xuất cho người có đất bị thu hồi ở
các địa phương, bảo đảm thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất đạt hiệu quả trong thực tiễn.
1.1.2.3. Triển khai thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất
Lập phương án bồi thường thiệt hại, hỗ trợ
Ban bồi thường, thu hồi đất, các cơ quan chuyên môn thực hiện phương
án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với từng tổ chức, cá nhân, hộ gia đình bị
16
thu hồi đất; thực hiện kiểm kê, áp giá tính giá trị bồi thường về đất, tài sản trên
đất theo đúng quy định của pháp luật.
Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư: UBND các cấp lập phương
thức bồi thường, hỗ trợ trước khi thu hồi đất; bảo đảm tái định cư phù hợp với
điều kiện từng địa phương, bảo đảm mọi người dân có nghề, có việc làm, ổn
định cuộc sống tại các địa phương.
Niêm yết công khai phương án lấy ý kiến của nhân dân
Ban bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phối hợp với chính quyền địa
phương tổ chức lấy ý kiến của nhân dân, niêm yết công khai phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư, áp giá bồi thường cho từng hộ dân theo quy định
pháp luật.
Hoàn chỉnh Phương án
Trên cơ sở đó tổng hợp ý kiến của người dân có đất bị thu hồi, xác nhận
của chính quyền địa phương, hoàn chỉnh phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, triển khai thực hiện.
Phê duyệt phương án chi tiết và tổ chức triển khai thực hiện
UBND cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất, phê duyệt phương án
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trong cùng một ngày. Đồng thời Ban bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư phối hợp với chính quyền địa phương phổ biến và
niêm yết công khai phương án bồi thường; trường hợp người có đất thu hồi
không bàn giao đất thì chính quyền địa phương thực hiện cưỡng chế [Điều 66
của Luật đất đai năm 2013]
Tổ chức chi trả bồi thường
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền có hiệu lực thi hành, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi
thường phải chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người có đất thu
hồi [Điều 93 Luật đất đai 2013]
17
Khoản tiền chưa thực hiện nghĩa vụ Tài chính về đất đai bao gồm tiền sử
dụng đất, tiền thuê đất phải nộp cho Nhà nước nhưng đến thời điểm thu hồi đất
vẫn chưa nộp; số tiền này được xác định theo quy định của pháp luật về thu tiền
sử dụng đất; thu tiền thuê đất, thuê mặt nước.
Trường hợp số tiền chưa thực hiện nghĩa vụ Tài chính đến thời điểm thu
hồi đất lớn hơn số tiền được bồi thường thì hộ gia đình, cá nhân tiếp tục được ghi
nợ số tiền chênh lệch đó; nếu số tiền còn lại nhỏ hơn số tiền chưa thực hiện
nghĩa vụ Tài chính thì hộ gia đình, cá nhân tiếp tục được ghi nợ số tiền chênh
lệch đó [9]
Chính phủ ban hành Nghị định 06/2020/NĐ-CP ngày 03/01/2020 sửa đổi,
bổ sung Điều 17 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính
phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; có hiệu
lực thi hành từ ngày 20/02/2020. Đối với dự án đầu tư đã phê duyệt phương án
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho toàn bộ dự án trước ngày 20/02/2020 thì tiếp
tục thực hiện theo quy định tại Điều 17 của Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất. Đối với dự án đầu tư chưa phê duyệt phương án bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư cho toàn bộ dự án trước ngày 20/02/2020 thì tổ chức thực hiện
bồi thường, hỗ trợ , tái định cư theo quy định của Nghị định này. [11]
1.1.2.4. Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc về thực hiện chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
Thanh tra, kiểm tra để tìm ra những địa phương điển hình, thực hiện, áp
dụng pháp luật bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đạt kết quả; phát
hiện các địa phương chưa chỉ đạo sát sao và giám sát chặt chẽ việc thực hiện
pháp luật về quản lý đất đai trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để
thực hiện các dự án.
Thông qua công tác triển khai thực hiện chính sách, thực hiện thanh tra,
kiểm tra, giám sát việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
nhằm nêu cao trách nhiệm, quyền hạn của các cấp chính quyền theo quy định
18
của Luật Đất đai, nâng cao năng lực, trách nhiệm cán bộ trong việc thực hiện và
thi hành chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất.
Nhiệm vụ thanh tra, giám sát trong công tác này ở các địa phương đã đi vào
nề nếp theo quy định của pháp luật về đất đai; Các chủ trương chính sách có liên
quan đến công tác tài nguyên môi trường của Nhà nước và UBND các cấp cơ
bản đã được chỉ đạo triển khai kịp thời, nâng cao chất lượng Thanh tra, kiểm tra,
giám sát việc về thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất ở các địa phương được thực hiện theo luật định.
1.1.2.5. Đánh giá, rút kinh nghiệm công tác thực hiện chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
Đánh giá, rút kinh nghiệm là quá trình xem xét việc điều hành và chấp hành
thực thi chính sách là nhiệm vụ cần thiết của các cấp chính quyền địa phương.
Qua đó đánh giá thực chất hiệu quả thực hiện chính sách và những bài học kinh
nghiệm để áp dụng, sửa đổi, bổ sung chính sách phù hợp trong giai đoạn tiếp
theo. Đảm bảo thực hiện hiệu quả quá trình này nhằm ổn định cuộc sống người
dân, tăng cường an sinh xã hội, phát triển kinh tế bền vững tại các địa phương.
Qua công tác này để các cấp chính quyền địa phương, công chức thực hiện
nhiệm vụ có thể chia sẻ những kinh nghiệm trong quá trình triển khai thực hiện
chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Đồng thời chia sẻ những vướng
mắc, bất cập khó khăn trong quá trình thực hiện, đề xuất những sáng kiến, giải
pháp thực hiện hiệu quả, nâng cao vai trò của mỗi cá nhân, tổ chức và các cấp
chính quyền trong việc tham gia thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định ở cơ sở, nhằm tăng cường công tác phối hợp, bảo đảm thực thi chính sách
này tại các địa phương trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Cơ sở thực tiễn thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất
Việc ban hành Luật đất đai năm 2013 và các chính sách liên quan về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư đã góp phần phát triển kinh tế xã hội, từng bước
nâng cao đời sống nhân dân ở các địa phương. Cơ quan có thẩm quyền đã ban
19
hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh việc thực hiện chính sách
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất:
Quốc hội (2013), Luật Đất đai, số 45/2013/QH13, 29/11/2013;
Thủ tướng Chính phủ (2014), Chỉ thị số 01/CT-TTg, ngày 22/1/2014 về
việc triển khai thi hành Luật Đất đai năm 2013;
Chính phủ (2014), Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai;
Chính phủ (2014). Nghị định số 45/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 quy định
thu tiền sử dụng đất;
Chính phủ (2014). Nghị định số 46/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 quy định
thu tiền thuê đất;
Chính phủ (2014). Nghị định số 47/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 quy định
về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất;
Thông tư 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất;
Thông tư 30/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường quy định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất,
thu hồi đất;
Nghị định 06/2020/NĐ-CP ngày 03/01/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ
sung Điều 17 cùa Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Trong thời gian qua UBND tỉnh Quảng Ngãi đã ban hành nhiều văn bản
liên quan đến việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa
bàn tỉnh nói chung và thực hiện công tác này trên địa bàn huyện Bình Sơn nói
riêng. Trong đó phải kể đến Quyết định số 737/QĐ-UBND ngày 27/9/2019 của
UBND tỉnh ban hành quy chế thực hiện dân chủ trong công tác bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi. Trong đó thể hiện mục tiêu chính sách đó là bảo đảm thực hiện dân chủ
trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo
20
Luật đất đai, được triển khai sâu rộng từ tỉnh đến huyện, bảo đảm công khai, dân
chủ, minh bạch, công bằng và đúng quy định của pháp luật; Bảo đảm quyền của
người dân được biết, được tham gia ý kiến để thực hiện và giám sát việc thực
hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất khi Nhà
nước thu hồi... Nội dung cơ bản của Quyết định 737, bao gồm những nội dung
sau:
* Nguyên tắc thực hiện
Bảo đảm công khai, dân chủ, minh bạch, công bằng và đúng quy định của
pháp luật; người dân được biết, được tham gia ý kiến để thực hiện và giám sát
việc thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất
khi Nhà nước thu hồi; Bảo đảm sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp; sự
giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã
hội; Việc tiếp nhận, xem xét, giải quyết các ý kiến, kiến nghị của tổ chức, cá
nhân phải đảm bảo kịp thời, khách quan, đúng quy định của pháp luật...
* Nội dung và hình thức công khai
Những nội dung phải công khai: Những chủ trương, chính sách, các văn
bản của Trung ương và các quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh có liên quan đến
thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; Quy hoạch sử dụng đất; Kế hoạch sử
dụng đất đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; Thông báo thu hồi đất, Thông
báo kiểm đếm của cấp có thẩm quyền; Kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát,
đo đạc, kiểm đếm, lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; giá đất cụ thể
và giá bồi thường về tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi; Phương án tái
định cư (đối với những phương án bồi thường có hộ gia đình, cá nhân di chuyển
hẳn chỗ ở), gồm: quy hoạch, địa điểm, dự kiến đầu tư hạ tầng khu tái định cư,
giá thu tiền sử dụng đất (trừ trường hợp có quy định riêng của Ủy ban nhân dân
tỉnh và trường hợp hộ gia đình, cá nhân có đất thu hồi để xây dựng khu tái định
cư nhưng được bố trí lại tại khu tái định cư); Phương án bồi thường, hỗ trợ trước
khi trình cấp thẩm quyền phê duyệt...
21
Hình thức và thời gian công khai: Trong quá trình thực hiện công tác bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư có thể áp dụng một hoặc đồng thời nhiều hình thức
công khai như niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm
sinh hoạt của khu dân cư nơi có đất thu hồi; Thông báo trên phương tiện thông
tin đại chúng, phát thanh trên hệ thống truyền thanh của Ủy ban nhân dân cấp xã,
địa điểm sinh hoạt của khu dân cư nơi có đất thu hồi; Thông báo bằng văn bản
đến từng tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có đất thu hồi....; Thời gian và thời lượng
công khai thông tin đối với từng lĩnh vực được thực hiện theo quy định của pháp
luật hiện hành; trường hợp pháp luật chưa có quy định thì chậm nhất là 05 ngày
văn bản được ban hành hoặc kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan, đơn vị
cấp trên.
* Nội dung và hình thức tham gia ý kiến
Những nội dung người có đất thu hồi tham gia ý kiến khi nhà nước thu
hồi đất: phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, kết quả kê khai, kiểm đếm đất
đai, tài sản sắn liền với đất thu hồi..; Phương án đào tạo nghề, chuyển đổi nghề
và tìm kiếm việc làm (nếu có).
Hình thức tham gia ý kiến: tham gia ý kiến trực tiếp với cán bộ làm công
tác kiểm kê lập phương án bồi thường; Tham gia trực tiếp tại Hội nghị do Ủy
ban nhân dân cấp xã phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng
mặt bằng tổ chức; Tham gia, góp ý trực tiếp hoặc bằng văn bản thông qua Hội
đồng nhân dân; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã
hội cấp xã....
* Nội dung và hình thức giám sát
Nội dung giám sát: trình tự, thủ tục thực hiện công tác thu hồi đất; bồi
thường, giải phóng mặt bằng. Việc áp dụng các cơ chế, chính sách trong công tác
thu hồi đất; bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Những nội dung phải công khai và
những nội dung người có đất thu hồi tham gia ý kiến. Việc giải quyết của cơ
quan có thẩm quyền đối với khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ảnh của nhân dân
về thu hồi đất; bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
22
Hình thức giám sát của người có đất thu hồi: Giám sát trực tiếp trên cơ
sở các nội dung niêm yết công khai về thu hồi đất; phương án bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư. Giám sát thông qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban
giám sát đầu tư cộng đồng ở xã, phường, thị trấn; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các
tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội cấp xã. Giám sát thông qua quyền khiếu nại,
tố cáo, kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định pháp luật.
[38]
1.3. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
1.3.1. Yếu tố bản thân chính sách
Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
được xây dựng, ban hành và sửa đổi bổ sung nhiều lần từ Luật đất đai năm 1993,
2003 đến nay là Luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn Nghị định số
47/2014/NĐ-CP và Nghị định số 01/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số nghị
định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai thay thế cho các nghị định Nghị định
số 197/2004/NĐ-CP; Nghị định số 84/2007/NĐ-CP; Nghị định số 69/2009/NĐ-
CP.
Giá đất làm căn cứ tính bồi thường, hỗ trợ và tái định còn thấp hơn so với
thực tế tại các địa phương. Giá đất được UBND cấp tỉnh quyết định, tuy nhiên
giá đất này thường thấp hơn giá đất giao dịch thực tế, ảnh hưởng một phần
quyền lợi của người dân. Chính vì vậy, khi thực hiện các dự án sẽ gặp nhiều khó
khăn, thiếu sự đồng thuận của người dân, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các
công trình, dự án.
Từ những phân tích trên cho thấy bản thân những quy định của chính sách
đã tác động đến việc triển khai thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất tại các địa phương. Nếu chính sách được ban
hành phù hợp với tình hình thực tế tại các địa phương sẽ giúp cho các cấp chính
quyền địa phương thực hiện chính sách đạt hiệu quả và ngược lại.
1.3.2. Chủ thể thực hiện chính sách
23
Vấn đề bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất là một
vấn đề rất nhạy cảm vì nó tác động, ảnh hưởng cực kỳ lớn đến cuộc sống người
dân, cuộc sống của những người bị hồi đất tại địa phương. Chính vì những vấn
đề này, đòi hỏi các cán bộ, công chức thực thi công vụ, thực hiện bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư ngoài những việc am hiểu chính sách pháp luật, cần phải có
những kỹ năng nghiệp vụ để chia sẻ, đồng cảm, động viên mọi tầng lớp nhân dân
nâng cao nhận thức pháp luật, chấp hành chủ trương của nhà nước về chính sách
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và thực hiện chính
sách đạt hiệu quả tại địa phương.
Nếu công chức thực hiện công vụ không có tâm, thiếu tinh thần trách nhiệm
sẽ không nhận được sự đồng thuận của mọi tổ chức và công dân trong việc thực
hiện chính bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Năng lực
của đội ngũ công chức, chủ thể thực hiện chính sách làm công tác bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư cũng tác động lớn đến đời sống nhân dân, tiến độ và hiệu quả
thực hiện chính sách này.
Trong những năm qua, Đảng ta tiến hành đổi mới phương thức lãnh đạo
trên nhiều khía cạnh song có một điểm thống nhất, xuyên suốt đó là Đảng đề ra
chủ trương đường lối còn việc cụ thể hóa những ý tưởng đó thông qua các văn
bản quy phạm pháp luật đó là công việc của Nhà nước. Để thực hiện được vấn
đề nêu trên một cách có hiệu quả thì chính sách trong nội bộ Đảng phải giải
quyết được ba vấn đề:
Một là, có phương thức để thu thập ý kiến phù hợp để xác định vấn đề
chính sách công cho đúng và trúng. Thường những ý kiến có được từ nguồn
thông tin và đánh giá tình hình của chính đội ngũ đảng viên làm việc trong bộ
máy nhà nước.
Hai là, đảm bảo cho các khâu tiếp theo của chính sách không đi trệch khỏi
vấn đề cần giải quyết được đặt ra ban đầu.
Ba là, chính sách nội bộ của Đảng phải đồng bộ, phù hợp với chính sách
của Đảng như là công cụ để lãnh đạo đất nước nhằm giúp cho các đảng viên của
24
đảng được cử tham gia vào bộ máy nhà nước có thể hoàn thành đồng thời hai
chức trách của mình.
Tóm lại, Đảng Cộng sản Việt Nam, xét ở phạm vi quốc gia là chủ thể chính
sách công ở Việt Nam hiện nay. Với tư cách là chủ thể có vai trò quan trọng
nhất, Đảng sẽ tham gia như thế nào trong quá trình thực hiện chính sách sẽ có ý
nghĩa hết sức quan trọng đối với sự vận động và phát triển của đất nước ta trong
tương lai.
[Hồ Việt Hạnh (2018), Đảng cộng sản Việt Nam – chủ thể chính sách công
ở nước ta hiện nay, Tạp chí nhân lực khoa học xã hội, Học Viện khoa học xã
hội, số 12 – 2018].
1.3.3. Đối tượng chịu tác động của chính sách
Hầu hết các chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đều liên quan đến
đời sống nhân dân ở các địa phương. Nếu chính sách triển khai được sự đồng
thuận, nhất trí cao của cán bộ, công chức, các tổ chức, doanh nghiệp và người
dân thì quá trình thực hiện sẽ gặp nhiều thuận lợi, bảo đảm mọi chế độ, chính
sách bồi thường, hỗ trợ cho tổ chức, công dân được thực hiện đúng đối tượng,
đáp ứng được vọng của mọi tầng lớp nhân dân. Đồng thời góp phần triển khai
thực hiện các công trình, dự án đúng tiến độ; bố trí tái định cư phù hợp với từng
hộ dân, từng khu dân cư tại các địa phương.
Nếu người dân có ý thức trách nhiệm tốt thì công tác này sẽ triển khai
nhanh chóng, hiệu quả. Ngược lại, nếu đối tượng chịu tác động của chính sách
không hợp tác, không thực hiện nghiêm những quy định của Nhà nước thì công
tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất sẽ gặp nhiều trở
ngại, khó khăn. Chính vì vậy đối tượng chịu tác động của chính sách, có vai trò
quyết định sự thành bại trong quá trình triển khai thực hiện.
1.3.4. Các yếu tố khác
Yếu tố chính trị
Những quy định của pháp luật và chủ trương của Đảng là yếu tố ảnh hưởng
đến công tác bồi thường, hỗ trợ, thu hồi; công tác quản lý đất đai luôn biến động
theo cơ chế thị trường. Từ năm 1993 đến năm 2014, cơ quan có thẩm quyền đã
25
ban hành hơn 230 văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất. Hệ
thống quy phạm pháp luật đất đai cơ bản hoàn chỉnh, phù hợp với thực tế. Tuy
nhiên số lượng văn bản được ban hành nhiều với nhiều mảng, khó tổng hợp, tiếp
cận, áp dụng đồng bộ, dẫn đến hiệu quả thực hiện chính sách còn những hạn chế
nhất định.
Tác động tích cực
Những quy định pháp luật phù hợp, áp dụng thực hiện với thực tiễn đúng
đắn, đạt hiệu quả, tuân thủ đúng quy trình về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu
hồi đất sẽ góp phần phát triển kinh tế, xã hội bền vững tại các địa phương. Mức
bồi thường, hỗ trợ ngày càng cao, tạo điều kiện cho người dân bị thu hồi đất có
thể khôi phục lại chỗ ở ổn định để tiếp tục sinh sống, lao động, học tập...
Tuy chính sách pháp luật phù hợp nhưng sẽ không phát huy được hiệu quả
nếu không được áp dụng trong thực tiễn. Vì vậy vấn đề thực tiễn áp dụng đúng
đắn, tuân thủ triệt để pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trở
nên hết sức quan trọng và đóng vai trò chính tác động tích cực đến việc giữ gìn
ổn định chính trị xã hội, chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, ổn định đời sống sản
xuất cho người có đất bị thu hồi…những điều này đều sẽ góp phần làm tình hình
chính trị-xã hội trong nước ổn định.
Tác động tiêu cực
Các cấp chính quyền địa phương, trong quá trình thực hiện thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ gặp rất nhiều vấn đề khó khăn từ thực tiễn. Việc thu hồi đất trong
thực tiễn ảnh hưởng, tác động rất lớn tới tình hình chính trị- xã hội theo cả hai
chiều tích cực và tiêu cực và ngược lại ở một mức độ nào đó tình hình chính trị
xã hội cũng tác động ngược trở lại việc áp dụng pháp luật bồi thường, hỗ trợ
trong thực tiễn.
Thực thi chính sách ở các địa phương cho thấy, quy định của pháp luật bồi
thường, hỗ trợ thì còn nhiều hạn chế, bất cập, tác động lớn đến đời sống của
những người bị thu hồi đất, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân.
26
Từ đó những vấn đề trên, đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền cần sớm hoàn
thiện quy định pháp luật và chỉnh đốn, kiểm soát chặt chẽ thực tiễn áp dụng pháp
luật về vấn đề bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
Yếu tố pháp luật
Các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai của Nhà nước đã tạo cơ sở pháp
lý quan trọng trong việc tổ chức thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất, hình thành trong quá trình công nghiệp hóa và
đô thị hóa. Do các quy định chưa thống nhất của pháp luật đất đai trong những
năm qua, dẫn đến kết quả thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, thu hồi đất
chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Từ thực tiễn cho thấy, trong quá trình thực thi công vụ, việc áp dụng pháp
luật còn lúng túng trong quá trình thực hiện và giải quyết tranh chấp, khiếu nại,
tố cáo. Những quy phạm pháp luật được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã
hội, là cơ sở để mọi người chấp hành và thực hiện theo luật định, qua đó tác
động đến việc thực thi chính sách ở các địa phương. Có khi nhiều văn bản pháp
luật vừa ban hành đã phải sửa đổi, bổ sung, nên trong quá trình thực hiện không
thể thống kê, tiếp cận pháp luật mới một cách kịp thời. Chính vì vậy yếu tố pháp
luật tác động rất lớn đến thực hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất tại các địa phương.
Yếu tố kinh tế thị trường
Sự phát triển mạnh của thị trường bất động sản đã tác động lớn đến việc
thực thi chính sách thu hồi đất triển khai thực hiện các dự án đầu tư; người bị thu
hồi đất và giới kinh doanh tự do thỏa thuận cho thuê lại đất đai, nhà cửa mà
không cần thông qua chính quyền địa phương
Giá đất của thị trường sẽ tác động đến giá đất của nhà nước tính bồi thường
cho người dân. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường luôn gắn với liền với sự
phát triển của thị trường bất động sản dẫn đến giá đất tăng cao, các khu dân cư
đô thị ngày càng nhiều, do đó trong việc triển khai thực hiện chính sách về bồi
27
thường, hỗ trợ và tái định cư luôn bị ảnh hưởng, dẫn đến việc tranh chấp đất đai,
khiếu nại về áp giá đền bù, bồi thường của Nhà nước và ý thức chấp hành chủ
trương thu hồi đất của chính quyền địa phương, tác động lớn đến quá trình triển
khai thực hiện các dự án tại địa phương.
Yếu tố văn hóa, phong tục tập quán
Văn hóa, phong tục tập quán là truyền thống quý báu của dân tộc, là công
cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, tổng hợp các lý luận triết học, nhân sinh, cội
nguồn… Văn hóa, phong tục tập quán và pháp luật có mối quan hệ tác động lẫn
nhau, đồng thời tác động đến quá trình thực hiện chính sách về bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và tác động ngược lại với văn hóa,
phong tục tập quán.
Trên cơ sở văn hóa, phong tục, tập quán và quy định của pháp luật, các cấp
chính quyền có thể áp dụng thực hiện giải quyết các tranh chấp và những yêu
cầu khiếu nại, tố cáo về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất trong việc
thực hiện hòa giải, xác minh chứng cứ, thực hiện thi hành án… Qua đó cho thấy,
văn hóa, phong tục tập quán phù hợp đã góp phần làm cho pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng, pháp luật về đất
đai nói chung được thực hiện nghiêm chỉnh, tự giác trong mỗi cán bộ, công chức
và mọi tầng lớp nhân dân.
Yếu tố trình độ dân trí
Thực tiễn cho thấy, việc mua bán đất, tự do cò đất, chuyển giao quyền sử
dụng đất, thay đổi cuộc sống hiện tại đã ảnh hưởng đến sự đoàn kết nội bộ, mối
quan hệ gia đình, làng xóm, cuộc sống người dân bị tác động bởi lợi ích kinh tế,
cơ chế thị trường khi thực hiện quyền chuyển quyền sở hữu, chuyển mục đích sử
dụng đất và việc bồi thường, hỗ trợ trong chính sách đất đai ở các địa phương.
Diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp đồng nghĩa với tư liệu sản xuất của
người nông dân không còn nữa nên họ buộc phải tìm kế sinh nhai, trình độ hạn
chế, mức lương thấp, không đảm bảo được đời sống…gây áp lực về mặt kinh tế,
28
xã hội. Trong khi đó, nơi đi lại thiếu lao động, vấn đề sản xuất nông nghiệp nông
thôn bị ảnh hưởng không ít.
Tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung, tác động
của Luật đất đai nói riêng và trình độ nhận thức của người dân đã có những tác
động nhất định đến việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất tại các địa phương.
1.4. Một số kinh nghiệm thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất
1.4.1. Kinh nghiệm tại huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam
Tiên Phước là huyện vùng trung du, diện tích đất lâm nghiệp, đất rừng có
giá trị thấp, đa phần người dân không có nghề mưu sinh khác ngoài canh tác
nông lâm nghiệp để làm kế sinh sống. Chính vì vậy, công tác bồi thường GPMB
gặp nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu thực hiện chính sách trong giai
đoạn hiện nay.
Các cấp chính quyền địa phương đã tích cực vận động, tuyên truyền nhân
dân chấp hành chủ trương của nhà nước từ đó việc thu hồi đất, GPMB giao lại
cho các chủ đầu tư được thực hiện theo kế hoạch. Có được những kết quả đó là
nhờ ý thức và việc phối hợp chặt chẽ của người dân trong quá trình triển khai
thực hiện. Chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam nói chung và huyện Tiên Phước nói riêng đã tương đối hợp lí, được nhân
dân chấp nhận từ đó giúp cho huyện Tiên Phước giải phóng được mặt bằng giao
cho chủ đầu tư kịp thời hạn để triển khai dự án góp phần làm thay đổi cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hằng năm các cấp Ủy Đảng, chính quyền, Mặt Trận tổ quốc đã có những
phương hướng, giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
dân vận. Sự hợp tác, phối hợp chặt giữa Ban Dân vận cùng với chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhằm triển khai các công tác tuyên truyền, vận
động người dân về vai trò và tầm quan trọng của công tác thu hồi đất từ đó lấy
29
được những ý kiến đóng góp của quần chúng nhân dân nhằm cải thiện các chính
sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất góp phần tạo điều kiện cho
công tác này được thực hiện một nhanh chóng, hiệu quả trên địa bàn huyện.
1.4.2. Kinh nghiệm tại huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang
Kiên Lương là một trong những huyện của tỉnh Kiên Giang có tốc độ phát
triển kinh tế - xã hội và đô thị hóa khá nhanh. Thời gian qua, trên địa bàn huyện
đã triển khai nhiều dự án đầu tư phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của
huyện, như dự án đầu tư xây dựng đường, chợ, cảng cá, khu du lịch ... Mặc dù
công tác giải phóng mặt bằng trong thời gian qua ở huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên
Giang đã cơ bản đáp ứng được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương. Các cấp chính quyền địa phương bảo đảm thực hiện đúng quy trình từ
giai đoạn xây dựng kế hoạch thu hồi đất, tổ chức chi trả, bồi thường, hỗ trợ, bố
trí tái định cư, bàn giao quỹ đất thu hồi cho nhà đầu tư; thực hiện tốt việc xác
định điều kiện bồi thường, không bồi thường theo quy định của pháp luật. Phần
lớn công tác xét duyệt điều kiện bồi thường được thực hiện chặt chẽ nên hạn chế
phát sinh khiếu kiện sau phương án bồi thường phê duyệt. Các khu tái định cư
trên địa bàn huyện lập theo quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng, đáp ứng được yêu
cầu nguyện vọng của người dân tại các địa phương.
1.4.3. Kinh nghiệm tại thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội
Các cấp chính quyền đã chỉ đạo trực tiếp Ban Bồi thường GPMB, Trung
tâm phát triển quỹ đất và các phòng, ban theo từng chức năng, nhiệm vụ chuyên
môn đã bám sát các nhiệm vụ trọng tâm, đồng bộ có hiệu quả nhiều giải pháp
nhằm đẩy nhanh tiến độ công tác GPMB các dự án đầu tư trên địa bàn.
Địa phương đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động, giải thích các
chính sách, chủ trương của Nhà nước từ đó người dân đồng tình ủng hộ, góp
phần phát triển kinh tế xã hội tại địa phương. Mọi tầng lớp nhân dân đều nâng
cao ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ thực hiện chủ trương GPMB khi Nhà nước
30
thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế, xã
hội tại địa phương.
Các cấp chính quyền tăng cường cải cách thủ tục hành chính trong việc
thực hiện các chính sách đất đai tại địa phương.
Thường xuyên tổ chức vận động nhân dân, nâng cao nhận thức của các cấp
ủy Đảng, chính quyền và mọi tầng lớp nhân dân trong việc chấp hành chính
sách, pháp Luật Đất đai và công tác bồi thường GPMT trên địa bàn Thị xã Sơn
Tây.
Phát huy vai trò của cán bộ, Đảng viên trong các chi bộ Đảng, các tổ chức
quần chúng nhằm tăng hiệu quả của công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất.
Nâng cao năng lực cho các cán bộ, đầu tư cơ sở vật chất, điều kiện làm việc
và quán triệt, nâng cao tinh thần trách nhiệm cho các cán bộ trong công tác bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư.
31
Tiểu kết chương 1
Chương 1, Luận văn đã tập trung khái quát một số khái niệm liên quan đến
chính sách công, chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất; thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất bao gồm lý luận về thực hiện chính sách; Phổ biến, tuyên truyền thực
hiện chính sách; Triển khai thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất; Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc về thực hiện chính sách và
đánh giá, rút kinh nghiệm công tác thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất. Đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm của một số
địa phương và phân tích các yếu tố tác động đến công tác này như yếu tố chính
trị, pháp luật, kinh tế thị trường, văn hóa, phong tục tập quán, trình độ dân trí...
Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là nhiệm vụ vô cùng khó
khăn, trong quá trình triển khai có nhiều ảnh hưởng đến quyền lợi, cuộc sống của
người dân ở các địa phương. Chính vì thế các cấp, chính quyền địa phương cần
xây dựng cơ chế, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành, bảo đảm
triển khai thực hiện chính sách đồng bộ, hiệu quả, phù hợp với tửng địa phương.
Luận văn tiếp tục nghiên cứu Chương 2 để phân tích rõ hơn những nội dung trên.
32
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ
VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN BÌNH SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI
2.1. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn,
tỉnh Quảng Ngãi
2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Tỉnh Quảng Ngãi bao gồm thành phố Quảng Ngãi và các huyện Bình Sơn,
Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ, Trà Bồng, Sơn Hà, Sơn
Tây, Minh Long, Ba Tơ, Lý Sơn.
Vị trí địa lý
Tỉnh Quảng Ngãi nằm ở duyên hải Nam Trung Bộ, trong đó phía bắc
giáp tỉnh Quảng Nam trên ranh giới các huyện Bình Sơn và Trà Bồng; phía nam
giáp tỉnh Bình Định trên ranh giới các huyện Đức Phổ, Ba Tơ; phía tây, tây bắc
giáp tỉnh Quảng Nam và tỉnh Kon Tum trên ranh giới các huyện Trà Bồng, Sơn
Tây và Ba Tơ; phía tây nam giáp tỉnh Gia Lai trên ranh giới huyện Ba Tơ; phía
đông giáp biển Đông.
Điều kiện tự nhiên
Tỉnh Quảng Ngãi có diện tích tự nhiên 5.131,5 km2, bằng 1,7% diện tích tự
nhiên cả nước, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
Địa hình
Quảng Ngãi là tỉnh thuộc duyên hải Trung Trung Bộ với đặc điểm địa hình
đồng bằng ven biển ở phía đông đến địa hình miền núi cao ở phía tây. Miền núi
chiếm khoảng 3/4 diện tích tự nhiên toàn tỉnh, đồng bằng nhỏ hẹp chiếm 1/4 diện
tích tự nhiên.
Khí hậu
33
Quảng Ngãi nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Đông và gió mùa mùa
Hè. Do địa hình chi phối nên hướng gió không phản ảnh đúng cơ chế của hoàn
lưu. Tuy nhiên, hướng gió hình thành vẫn biến đổi theo mùa rõ rệt.
Nằm trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu, Quảng Ngãi có nền nhiệt độ cao
và ít biến động trong năm. Mùa lạnh các tháng có nhiệt độ trung bình ổn định dưới 200C, mùa nóng có nhiệt độ trung bình ổn định. [40, tr.1]
2.1.2 Tình hình kinh tế xã hội
Huyện uỷ Bình Sơn đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về đầu tư phát triển
kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông, đô thị giai đoạn 2016 - 2020. Trên cơ
sở đó, UBND huyện và các địa phương đã huy động nhiều nguồn lực để đầu tư
phát triển đồng bộ hạ tầng giao thông, đô thị.
Trong đó, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính
quyền, nhất là phát huy vai trò của MTTQ và các đoàn thể từ huyện đến cơ sở để
tuyên truyền, huy động nguồn lực trong dân để xây dựng các tuyến đường do
huyện, xã làm chủ đầu tư; khuyến khích người dân tự làm đường ngõ, xóm,
đường vào hộ gia đình.
Qua triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, từ tháng 12.2016 đến nay, huyện
Bình Sơn đã tranh thủ các nguồn vốn đầu tư 105 tỷ đồng làm mới, sửa chữa,
nâng cấp các tuyến đường huyện, với chiều dài 26,1km. Với phương châm “Nhà
nước và nhân dân cùng làm”, 2 năm qua, toàn huyện đã huy động được hàng
nghìn ngày công lao động trong nhân dân để làm mới, tu sửa các công trình giao
thông; vận động hàng trăm hộ dân hiến cả nghìn mét vuông đất để mở đường.
Đến nay, toàn huyện có 210/249km đường trục xã, liên xã được thảm
nhựa hoặc bê tông (đạt 84,5%); cứng hóa 146,7/212km đường trục thôn, xóm;
gần 200/534km đường ngõ, xóm đã sạch và không còn lầy lội vào mùa mưa.
Huyện cũng đã đầu tư làm kiên cố 122,5/566 km đường trục chính nội đồng...
“Các công trình giao thông trên địa bàn huyện được đầu tư xây dựng đã phát huy
hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện”, ông
Khiêm nhấn mạnh.
34
Bình Sơn cũng chú trọng phát triển hạ tầng đô thị. Huyện đã hoàn thành
việc lập quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 thị trấn Châu Ổ; lập quy hoạch chi tiết
1/500 dọc hai bên sông Trà Bồng, nhằm thúc đẩy phát triển đô thị; triển khai thủ
tục mở rộng địa giới hành chính thị trấn Châu Ổ về hướng xã Bình Thới và một
phần diện tích xã Bình Trung, Bình Nguyên và Bình Long.
Đồng thời triển khai xây dựng các bờ kè chống sạt lở dọc sông Trà Bồng
đoạn qua thị trấn Châu Ổ để tạo không gian, cảnh quan đô thị ven sông... Huyện
kêu gọi đầu tư dự án Trung tâm Thể dục-thể thao và tỉnh đã chấp thuận cho hộ
kinh doanh Thanh Lương triển khai dự án Khu Thể thao và Dịch vụ Thanh
Lương; hộ kinh doanh Long Thảo triển khai dự án Khu liên hợp thể thao và Dịch
vụ Long Thảo theo hình thức xã hội hóa; triển khai dự án khu dân cư bờ kè bắc
sông Trà Bồng, với diện tích 40ha; đầu tư xây dựng công viên cây xanh bờ kè
bắc sông Trà Bồng, với tổng mức đầu tư gần 12 tỷ đồng...
Tổng giá trị sản xuất công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp thực hiện đạt
1.411 tỷ đồng, bằng 62,85% kế hoạch năm; doanh thu thương mại- dịch vụ đạt
4.566 tỷ đồng, bằng 59,55% kế hoạch.
Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, đến
nay toàn huyện có 9/24 xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia nông thôn mới;
bình quân số tiêu chí đạt chuẩn trên xã là 15,21 tiêu chí. Thực hiện đầu tư xây
dựng nhiều công trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế biển; khuyến khích ngư
dân đầu tư đóng mới tàu cá công suất lớn, mua sắm trang thiết bị hiện đại để
vươn khơi xa khai thác hải sản.
Quảng Ngãi đang dần vươn mình phát triển mạnh mẽ hứa hẹn tạo ra một
Quảng Ngãi hiện đại và năng động; thực hiện hàng loạt các dự án đã làm thay
đổi bộ mặt của thành phố như: Dự án Khu dịch vụ chất lượng cao - Bệnh viện
Đa khoa tỉnh , thành phố giáo dục và y tế của tập đoàn Nguyễn Hoàng; Dự án
trung tâm thương mại VinCom của tập đoàn VinGroup…
Lý Sơn thu hút hàng trăm nghìn khách du lịch đến với hòn đảo xinh đẹp.
Huyện Bình Sơn với khu công nghiệp Dung Quất cũng đã thu hút nhiều tập
đoàn, doanh nghiệp lớn trong cả nước về đầu tư, tạo công ăn việc làm cho hàng
35
nghìn lao động nông thôn, góp phần phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng
Ngãi. Các cấp chính quyền chấp thuận chủ trương đầu tư 27 dự án khu đô thị,
khu dân cư với tổng diện tích quy hoạch 198,44 ha, tổng mức đầu tư gần 2.684
tỷ đồng. Hình thành nhiều khu dân cư mới khang trang, đồng bộ, hiện đại góp
phần phát triển đô thị như: Khu Đô thị - Dịch vụ VSIP, Khu đô thị Ngọc Bảo
Viên, khu dân cư Bắc Lê Lợi, An Phú Sinh, khu dân cư Nam thị trấn Châu Ổ...
Bên cạnh đó, Quảng Ngãi còn có những dự án kinh tế lớn như: dự án
đường ven biển Dung Quất – Sa Huỳnh với tổng kinh phí 2.000 tỷ đồng, dự án
cầu Cửa Đại có kinh phí 2.250 và dự án Đập dâng sông Trà Khúc với tổng mức
đầu tư là 1.500 tỷ đồng và nhiều dự án lớn nhỏ khác. Những dự án được đầu tư
tại Quảng Ngãi sẽ là tiền đề quan trọng để thúc đẩy Quảng Ngãi phát triển hơn
nữa trong một tương lai không xa.
Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện, thu hút đầu tư vẫn được
duy trì; đối thoại giữa chính quyền với doanh nghiệp được tăng cường, kịp thời
tháo gỡ khó khăn vướng mắc tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển.
Từ những dự án lớn, bức tranh tổng thể của Quảng Ngãi đã được dần thay
da, đổi thịt, đồng thời Quảng Ngãi vẫn luôn đẩy mạnh công tác đến ơn đáp
nghĩa, an sinh xã hội được quan tâm triển khai với nhiều hoạt động thiết thực, ý
nghĩa; giáo dục và đào tạo tiếp tục được cải thiện chất lượng dạy và học. Các
lĩnh vực khác như y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, tạo việc làm, văn hóa, thể
dục thể thao tiếp tục đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Bảo đảm an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương.
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; nâng cao chỉ số năng lực
cạnh tranh cấp tỉnh; từng bước đổi mới, sáng tạo, tạo điều kiện cơ chế chính sách
trong khởi nghiệp; phát triển doanh nghiệp; khơi thông, huy động nguồn lực xã
hội cho đầu tư phát triển; thực hiện có hiệu quả 3 nhiệm vụ đột phá, 3 nhiệm vụ
trọng tâm; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý tài nguyên, môi trường.
Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và cung cấp đầy
đủ, kịp thời thông tin trên các lĩnh vực về chính sách, pháp luật và môi trường
đầu tư, kinh doanh, năng lực cạnh tranh. Thực thi cam kết, tiếp tục đồng hành
36
cùng doanh nghiệp, nhà đầu tư trong việc triển khai các dự án đã cấp phép sớm
đi vào hoạt động, sản xuất kinh doanh.
Xây dựng cơ chế chính sách khởi nghiệp, phát triển doanh nghiệp, nâng
cao hiệu quả hỗ trợ doanh nghiệp và các mô hình hộ gia đình. Có cơ chế hỗ trợ,
khuyến khích hộ kinh doanh cá thể chuyển thành doanh nghiệp.
Tập trung chỉ đạo đẩy mạnh phát triển công nghiệp, phát huy tối đa tiềm
năng, lợi thế, ưu tiên thu hút các ngành công nghiệp đã định hướng, tập trung thu
hút các dự án cảng biển và hệ thống Logistisc; đẩy mạnh phát triển công nghiệp
công nghệ cao; công nghiệp sạch; công nghiệp hóa dầu; công nghiệp chế biến,
sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp phụ trợ. Tích cực
phối hợp, hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện dự án đưa khí từ mỏ Cá Voi Xanh vào bờ,
chuẩn bị các điều kiện để thực hiện các dự án điện khí tại Khu kinh tế Dung
Quất.
Khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế về cảnh quan thiên nhiên, các di sản
văn hóa, thế mạnh đặc trưng các vùng, miền để phát triển đa dạng các loại hình,
sản phẩm du lịch; khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển các khu,
điểm du lịch như: Bình Châu – Lý Sơn, Mỹ Khê, Sa Huỳnh...
Huy động, sử dụng hiệu quả nhiều nguồn lực phát triển kết cấu hạ tầng;
đẩy nhanh tiến độ các công trình trọng điểm như: Đập dâng hạ lưu sông Trà
Khúc; kè chắn cát cảng Dung Quất (giai đoạn 2); các tuyến đê huyện Bình Sơn:
Đập ngăn mặn Trà Bồng, đập ngăn mặn Bình Nguyên và Bình Phước. Triển
khai đầu tư Tuyến đường ven biển Dung Quất - Sa Huỳnh giai đoạn 2a; đường
nối cầu Thạch Bích đến Tịnh Phong giai đoạn 1...
Tiếp tục đầu tư hạ tầng đô thị thành phố Quảng Ngãi, huyện Đức Phổ và
các thị trấn, đô thị theo quy hoạch. Trong đó, tập trung ưu tiên đầu tư phát triển
đô thị thành phố Quảng Ngãi đạt một số tiêu chí đô thị loại 1, đưa thị trấn Đức
Phổ trở thành thị xã thuộc tỉnh.
Các cấp chính quyền xác định thực hiện cải cải cách thủ tục hành chính,
phát triển mô hình hành chính công, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân tại
các địa phương [43, tr.2-3-4-5].
37
Huyện Bình Sơn có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế, xã hội, theo
báo của Huyện ủy huyện Bình Sơn, kinh tế đã đạt và vượt nhiều chỉ tiêu quan
trọng. Tổng giá trị sản xuất đến năm 2020 đạt gần 17.500 tỷ đồng (Nghị quyết đề
ra 17.450 tỷ đồng), tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân nhiệm kỳ đạt 11,3%
(Nghị quyết 11 - 12%/năm). Thu nhập bình quân đến năm 2020 trên 50 triệu
đồng/người/năm, đạt kế hoạch đề ra...
Thời gian qua, huyện Bình Sơn thực hiện các nhiệm vụ đột phá, nhiệm vụ
trọng tâm đạt kết quả toàn diện, nhất là đột phá về đẩy mạnh đầu tư phát triển kết
cấu hạ tầng. Nhiều công trình giao thông quan trọng, quy mô lớn được đầu tư,
nâng cấp, đảm bảo kết nối giữa các vùng và cơ bản đáp ứng nhu cầu đi lại của
nhân dân.
Theo đó, huyện đã đầu tư nâng cấp, sửa chữa 26,156km đường huyện, với
tổng kinh phí 105,251 tỷ đồng, lũy kế đến nay có 89,81km/108,55km đường
huyện đã được nhựa hóa, bê tông, đạt 82,74% so với tổng số đường huyện được
quy hoạch (đạt 103,4% chỉ tiêu). Thị trấn Châu Ổ đạt 48/59 tiêu chí đô thị loại
IV...
Các địa phương trên địa bàn huyện tích cực triển khai thực hiện chính sách
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư và các mục tiêu kinh tế, xã hội để lập thành tích
chào mừng chuẩn bị tổ chức đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu
Đảng bộ huyện lần thứ XXVII, nhiệm kỳ 2020 – 2025 [40, tr.6].
2.1.3. Phong tục tập quán
Huyện Bình Sơn với diện tích 466,77 km2. Dân số 180.045 người, có một
số ít đồng bào dân tộc Cor sinh sống tại địa phương. Mật độ dân số 386
người/km2. Gồm có 1 thị trấn và 24 xã.
Phong tục tập quán gắn liền với cuộc sống người dân tại địa phương. Ta
biết đến Bình Sơn với những truyền thống như khai thác rong mơ, trồng giống
lúa Nàng Thương 9, mô hình trồng tỏi Lý Sơn, phong tục Tết ngã rạ... Người dân
nơi đây chủ yếu sống bằng nghề nông và đánh bắt chế biến hải sản, một số ít làm
đồ gỗ, đồ gốm.
38
UBND tỉnh Quảng Ngãi đã chọn Lý Sơn và 3 huyện Bình Sơn, Nghĩa
Hành, Ba Tơ xây dựng thí điểm phát triển sản phẩm du lịch cộng đồng từ nay
đến năm 2020. Trên tuyến du lịch đến Bình Sơn- Lý Sơn, du khách tham gia các
hoạt động du lịch cộng đồng gắn kết giữa làng bích họa Gành Yến và các điểm
trải nghiệm trưng bày đồ cổ và gốm Mỹ Thiện. Qua đó, kết nối tour du lịch
khám phá những giá trị tương đồng về cảnh quan và địa chất nằm trong quần thể
Công viên địa chất Lý Sơn- Sa Huỳnh [40, tr.1].
Bình Sơn là một huyện có truyền thống văn hóa, cách mạng lâu đời từ thế
kỷ thứ 18 với phong trào Tây Sơn và bắt đầu từ năm 1998, Khu kinh tế Dung
Quất nằm trên địa hạt huyện ra đời đã tạo điều kiện thuật lợi để Bình Sơn phát
triển kinh tế - xã hội tại địa phương. Xuất phát điểm từ đó nên khi triển khai các
dự án, công trình sẽ tác động rất lớn đến đời sống nhân dân, đến phong tục tập
quán địa phương; yếu tố phong tục tập quán sẽ tác động ngược lại đối với việc
thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
Chính vì vậy, các cấp chính quyền địa phương cần có những giải pháp phù hợp
vừa bảo đảm phát triển kinh tế, vừa bảo đảm gìn giữ văn hóa truyền thống, lịch
sử cách mạng và phong tục tập quán của người dân trên địa bàn huyện.
Xuất phát từ chủ trương chung trên địa bàn huyện, Ban Tuyên giáo Huyện
ủy huyện Bình Sơn ban hành Hướng dẫn số 77-HD/BTGHU ngày 26/03/2020 về
công tác văn hóa, văn nghệ năm 2020 và các hoạt động văn hóa, văn nghệ chào
mừng đại hội đảng các cấp tiến tới đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng. Qua đó, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho mọi tầng lớp nhân dân,
góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, qua đó, giáo dục đạo
đức, lối sống, xây dựng nhân cách con người Bình Sơn đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững tại địa phương [37, tr.2].
2.1.4. Chủ thể thực hiện chính sách
Trong những năm qua UBND tỉnh, huyện đã phối hợp với các cơ quan, Tập
đoàn, doanh nghiệp triển khai rất nhiều dự án: Dự án quần thể du lịch của Tập
đoàn FLC; Dự án khu dân cư Đông Nam trung tâm Châu Ổ do Công ty cổ phần
công trình giao thông 5 (Cienco 5) làm chủ đầu tư, với tổng vốn 200 tỷ; Dự án
39
Đầu tư mở rộng Khu liên hợp sản xuất gang thép Hòa Phát Dung Quất và các dự
án vệ tinh của Khu liên hợp sản xuất gang thép Hòa Phát Dung Quất. Khu liên
hợp sản xuất gang thép Hòa Phát Dung Quất có tổng vốn đầu tư 52.000 tỷ đồng;
Dự án "Phòng chống đuối nước cho trẻ em" được thực hiện tại xã Bình Chương,
xã Bình Hòa và xã Bình Mỹ (huyện Bình Sơn). Dự án do Hội Chữ thập đỏ tỉnh
Quảng Ngãi phối hợp với Tổ chức Cứu trợ Trẻ em và Prudential Việt Nam. Với
tổng kinh phí tài trợ là 4,3 tỷ đồng, dự án tập trung thực hiện tại các xã thường
xuyên hứng chịu những rủi ro từ thiên tai....
Chủ trương của các cấp chính quyền địa phương là thực hiện các chính
sách, phát triển kinh tế, triển khai các dự án phải đặt lợi ích của người dân lên
hàng đầu; đảm bảo các trình tự thủ tục, dự án đầu tư phải kết hợp phát triển kinh
tế – xã hội gắn với bảo đảm an ninh – quốc phòng. Khu vực nào có những quy
hoạch về quốc phòng thì phải tuân thủ các quy định về quốc phòng; đồng thời
buộc nhà đầu tư cam kết tuân thủ những nội dung này, quá đó tạo được sự đồng
thuận của các cấp chính quyền với nhân dân và nhân dân với các chủ trương phát
triển kinh tế, thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất tại các địa phương. Qua đó, vừa thể hiện vai trò của chủ thể thực hiện
chính sách, sự quan tâm lãnh đạo chỉ đạo trong việc triển khai các dự án, phát
triển kinh tế nói chung và triển khai thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi nhà nước thu hồi đất nói riêng trên địa bàn huyện.
Thực tiễn các địa phương, chủ thể thực hiện chính sách trong quá trình
quản lý, triển khai thực hiện sẽ tiếp cận kịp thời những phản ánh, ý kiến của
nhân dân, mới biết được chính sách có đúng, phù hợp và đi vào cuộc sống hay
không. Đó là cơ sở để đánh giá kết quả thực sự trong quá trình thực hiện chính
sách. Việc đưa chính sách vào thực tiễn cuộc sống là một quá trình phức tạp đầy
biến động, chịu sự tác động của nhiều yếu tố giúp các chủ thể thực hiện chính
sách, tổ chức thực hiện chính sách những giải pháp trong thực hiện chính sách ở
các địa phương, đồng thời kịp thời đề xuất cấp có thầm quyền điều chỉnh, bổ
sung và hoàn thiện chính sách cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu,
nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân.
40
Trong quá trình triển khai thực hiện, xét thấy những chính sách không phù
hợp, các cấp chính quyền huyện Bình Sơn đã đề xuất cấp có thẩm quyền điều
chỉnh, sửa đổi hoặc bãi bõ, ban hành mới chính sách phù hợp hơn. Chẳng hạn
như vừa qua, UBND tỉnh Quảng Ngãi ký quyết định đóng cửa mỏ khoáng sản
cát làm vật liệu xây dựng thông thường tại mỏ cát thôn Lộc Thịnh và mỏ cát
Thác Gốc, xã Bình Minh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi theo Giấy phép khai
thác khoáng sản số 53/GP-UBND ngày 29/7/2016 của UBND tỉnh. Diện tích
đóng cửa mỏ khai trường: 2,32ha. Việc đóng cửa mỏ, nhằm phục vụ cho công
tác quản lý về hoạt động khoáng sản, bảo vệ khoáng sản và giao đất cho địa
phương để quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật
khác có liên quan; phục hồi môi trường khu vực đã khai thác.
Từ những phân tích trên cho thấy, chủ thể thực hiện chính sách là các cấp
chính quyền địa phương, các chủ đầu tư, dự án và các cơ quan, doanh nghiệp
liên quan trong việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất tại địa phương, luôn là người hoạch định chính, xây dựng
cơ chế triển khai, phối hợp để thực hiện chính sách, hiệu quả quản lý, kết quả
thực hiện chính sách phụ thuộc rất lớn vào chủ thể thực hiện chính sách [39, tr.1-
2].
2.1.5. Đối tượng chịu sự tác động của chính sách
Huyện Bình Sơn là địa phương có rất nhiều dự án của tỉnh Quảng Ngãi
được xây dựng, phát triển tại đây nên việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi thu hồi đất sẽ ảnh hưởng đến đối tượng chịu sự tác động của chính sách là
người dân tại địa phương. Trong đó có dự án quần thể du lịch của Tập đoàn
FLC, chính quyền địa phương có chủ trương cho quy hoạch khu đô thị tái định
cư hàng trăm hộ dân thuộc dự án FLC đã tác động đến 17.000 người dân làng
chài. Do đó, các cấp chính quyền và nhà đầu tư trong quá trình triển khai phải
nghiên cứu, bố trí xen kẽ một số tuyến đường ra biển và không gian bờ biển
dùng chung cho cộng đồng tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đi lại, tiếp cận
với biển. Đồng thời bảo tồn các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, các giá trị
địa chất, khoáng sản, núi lửa trong khu vực quy hoạch dự án và vùng phụ cận,
41
nhất là việc bảo tồn các giá trị địa chất núi lửa, các di sản, di tích trong khu vực
dự án và vùng phụ cận....
Đối tượng chịu sự tác động của chính sách là rất lớn, các cấp, các ngành
phải xây dựng chiến lược quy hoạch theo hướng không phân thành nhiều khu tái
định cư nhỏ, mà tập trung đầu tư xây dựng một hoặc vài khu đô thị với quy mô
lớn ở Bình Châu và một số khu vực khác cho phù hợp với nghề biển, nông
nghiệp, tập quán sinh hoạt của người dân địa phương. Đồng thời chủ đầu tư phải
tạm ứng để thực hiện theo tiến độ và yêu cầu đặt ra.
Trong thực tiễn, ý thức tự giác của nhân dân ta khá cao trong chấp hành
quyết định thu hồi đất của Nhà nước vào mục đích quốc phòng, an ninh, xây
dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật (như đường giao thông, công trình thủy lợi, v.v...),
xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội (như trường học, bệnh viện, sân vận động, công
viên, chợ, v.v...). Nhiều người dân nhận mức bồi thường, hỗ trợ hợp lý hoặc tự
nguyện hiến đất để góp chung trong việc phát triển kinh tế xã hội tại địa phương.
Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp khi thực hiện chính sách bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư nhằm thực hiện các dự án, công trình như: mở rộng đường giao
thông thuộc khu dân cư; xây dựng nhà ở để kinh doanh; làm khu công nghiệp
cho doanh nghiệp..... được tái định cư không thuận lợi bằng nơi ở cũ hoặc không
chấp nhận áp giá đền bù để di dời, họ đã không chấp hành những quy định của
pháp luật và nhận thấy rõ được lợi ích của việc thực hiện chính sách để góp phần
phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống nhân dân trên địa bàn huyện.
Từ những tình trạng trên, gây ra tâm lý nhiều người bị thu hồi đất không
muốn chuyển đi, hoặc nếu chấp nhận chuyển đi họ thường đòi bồi thường với
giá rất cao trong khi giá bồi thường của Nhà nước thấp hơn nhiều so với giá thị
trường, nên quá trình áp giá bồi thường, triển khai các dự án gặp nhiều khó khăn,
có những trường hợp khiếu nại, khiếu kiện kéo dài, ảnh hưởng chung đến sự
phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Do đó, nhận thức và sự đồng thuận của
đối tượng chịu tác động của chính sách có vai trò rất lớn để thể hiện hiệu quả của
chính sách, thể hiện chính sách đi vào cuộc sống, phù hợp với tình hình thực tế
tại địa phương.
42
Trong quá trình phát triển, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc
triển khai các dự án mới là cần thiết và tất yếu. Tuy nhiên phải bảo đảm lợi ích
của người dân, bảo đảm phát triển bền vững, từng bước nâng cao đời sống nhân
dân trên địa bàn huyện [39, tr.2-3].
2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi
2.2.1. Ban hành văn bản, xây dựng chương trình, kế hoạch về thực hiện
chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
Trên cơ sở những chủ trương, chính sách của Đảng và quy định pháp luật
của Nhà nước, các cấp chính quyền địa phương tỉnh Quảng Ngãi đã ban hành
nhiều văn bản liên quan đến thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất tại địa phương như:
Quyết định số 35/2010/QĐ-UBND ngày 27/12/2010 của UBND tỉnh về
việc ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi;
Quyết định số 155/QĐ-UBND ngày 18/8/2011 của UBND tỉnh về việc sửa
đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 144/QĐ-UBND ngày 30/8/2010 của
UBND tỉnh quy định bổ sung về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất để thực hiện các dự án hồ chứa nước nước trong, tỉnh Quảng Ngãi;
Quyết định số 67/2014/QĐ-UBND ngày 31/12/2014 của UBND tỉnh
Quảng Ngãi ban hành Quy định về giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
áp dụng cho thời kỳ 05 năm (2015 - 2019);
Quyết định số 56/QĐ-UBND ngày 28/02/2014 của UBND tỉnh Quảng Ngãi
về việc phê duyệt quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất 5
năm kỳ đầu (2011-2015) huyện Bình Sơn;
Quyết định số 627/QĐ-UBND ngày 26/4/2014 của Chủ tịch UBND tỉnh về
việc phê duyệt Tiểu dự án giải phóng mặt bằng đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng
Ngãi, đoạn qua tỉnh Quảng Ngãi;
43
Quyết định số 913/QĐ-UBND ngày 26/6/2014 của UBND tỉnh Quảng
Ngãi về việc phê duyệt quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng
đất 5 năm kỳ đầu (2011-2015) Khu kinh tế Dung Quất (09 xã thuộc KKT hiện
hữu);
Quyết định số 54/2015/QĐ-UBND ngày 10/12/2015 của UBND tỉnh ban
hành Quy định về hạn mức giao đất để xây dựng nhà ở; hạn mức công nhận diện
tích đất ở và xác định diện tích đất ở khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất đối với hộ gia đình, cá
nhân và quy định về diện tích tối thiểu được tách thửa đối với đất ở trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi;
Căn cứ Quyết định số 1979/QĐ-UBND ngày 25/10/2016 của Chủ tịch
UBND tỉnh về việc điều chỉnh Chủ đầu tư các dự án hiện do Sở Giao thông vận
tải làm Chủ đầu tư sang Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng các công trình giao
thông tỉnh làm chủ đầu tư;
Quyết định số 1244/QĐ-UBND ngày 03/7/2017 của UBND tỉnh về việc
phê duyệt quyết toán công trình hoàn thành dự án: Tiểu Dự án giải phóng mặt
bằng đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi, đoạn qua tỉnh Quảng Ngãi (Đợt 4:
khu tái định cư điền trang (mở rộng), khu tái định cư Điền Long (mở rộng), điểm
dân cư Vũng Thảo (giai đoạn 2 và 3), 8 hạng mục di dời đường điện và hạng
mục đền bì đường chính đợt 2 gồm 157 phương án);
Quyết định số 48/2017/QĐ-UBND ngày 18/8/2017 của UBND tỉnh ban
hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất áp
dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi;
Quyết định số 79/2017/QĐ-UBND ngày 12/12/2017 của UBND tỉnh ban
hành trình tự, thủ tục khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Quyết định số 05/2018/QĐ-UBND ngày 23/01/2018 của UBND tỉnh bổ
sung, điều chỉnh bảng giá đất ở trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi áp dụng cho thời
kỳ 05 năm (2015 – 2019) ban hành kèm theo Quyết định số 67/2014/QĐ-UBND
ngày 31/12/2014 của UBND tỉnh Quảng Ngãi;
44
Quyết định số 69/QĐ-UBND ngày 24/01/2018 của UBND tỉnh về việc phê
duyệt Kế hoạch sử dụng đất năm 2019 của huyện Bình Sơn;
Nghị quyết số 32/2018/NQ-HĐND ngày 26/12/2018 của Hội đồng nhân
dân tỉnh về việc thông qua danh mục công trình, dự án phải thu hồi đất và
chuyển mục đích sử dụng đất lúa, đất rừng phòng hộ sang đất phi nông nghiệp
năm 2019 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi;
Quyết định số 525/QĐ-UBND ngày 28/6/2019 của UBND tỉnh về việc phê
duyệt Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 huyện Bình Sơn;
Quyết định số 737/QĐ-UBND ngày 27/9/2019 của UBND tỉnh ban hành
quy chế thực hiện dân chủ trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi;
Nghị quyết số 28/2019/NQ-HĐND ngày 27/12/2019 của Hội đồng nhân
dân tỉnh về việc thông qua danh mục công trình, dự án phải thu hồi đất và
chuyển mục đích sử dụng đất lúa, đất rừng phòng hộ sang đất phi nông nghiệp
năm 2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi;
Quyết định số 167/QĐ-UBND ngày 19/03/2020 của UBND tỉnh về việc
phê duyệt kế hoạch sử dụng đất năm 2020 của huyện Bình Sơn.
Việc thực hiện chính sách đất đai, thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
là nhiệm vụ thường xuyên, nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân
dân tại địa phương. Xác định được tầm quan trọng đó nên các cấp chính quyền
địa phương huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi luôn quan tâm đến công tác tổ
chức cán bộ, đào tạo công chức chuyên môn đạt chuẩn và tập trung xây dựng,
ban hành văn bản để quản lý, triển khai hực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất tại các địa phương [42, tr.1-2].
2.2.2. Phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thực hiện chính sách
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
Công tác tuyên truyền có vai trò quan trọng trong việc giúp cho các cán bộ,
công chức, viên chức thực thi chính sách và bảo đảm các nguyên tắc bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư cho người dân theo luật định. UBND huyện Bình Sơn đã chỉ
đạo các ngành liên quan và UBND các xã, thị trấn phối hợp thực hiện tuyên
45
truyền phổ biến về chính sách thu hồi đất, chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định
cư ở các địa phương.
Qua đó cho thấy, các cấp, các ngành thực hiện công tác tuyên truyền, phô
biến chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, đạt kết quả tương đối, được mọi
người dân đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế, công tác tuyên
truyền thông qua các buổi họp, sinh hoạt tại các khu dân cư được tổ chức không
thường xuyên, công tác soạn thảo đề cương tuyên truyền về các văn bản luật
chưa khoa học, chưa sát với thực tế địa phương.
Thiết nghĩ chính quyền địa phương cần đổi mới phương pháp, nội dung
tuyên truyền, qua đó tạo điều kiện cho nhân dân dễ tìm hiểu, tiếp cận những
chính sách mới và ý nghĩa của việc bồi thường, thu hồi đất, tái định cư để thực
hiện cho mục đích quốc phòng, an ninh, tăng cường phát triển kinh tế - xã hội,
nâng cao đời sống nhân dân tại các địa phương. Do triển khai tốt công tác tuyên
truyền, vận động đã tạo được sự đồng thuận cao trong nhân dân nên nhiều dự án,
công trình được triển khai thực hiện đúng tiến độ, bồi thường thỏa đáng và tái
định cư phù hợp cho từng hộ dân trên địa bàn huyện bảo đảm theo quy định pháp
luật [44, tr 3].
2.2.3. Triển khai thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất
Thực tiễn cho thấy việc khiếu nại về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư có xu
hướng tăng và phức tạp, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế – xã hội của huyện;
một số địa phương chưa chủ động nghiên cứu các quy định của pháp luật để giải
quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban
nhân dân cấp huyện.
Trước tình hình đó, để đẩy nhanh tiến độ thực hiện công tác bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư, đáp ứng tốt nhất yêu cầu đặt ra vừa ổn định đời sống nhân dân,
bảo đảm quyền lợi người dân, vừa triển khai các dự án đầu tư trên địa bàn huyện,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Ủy ban nhân dân
huyện yêu cầu các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, Ủy ban nhân dân các xã chủ
46
động phối hợp với các chủ dự án và tổ chức có liên quan thực hiện tốt chính sách
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất đảm bảo công khai,
minh bạch, dân chủ, công bằng và thuận lợi trong quá trình giải phóng mặt bằng,
bàn giao đất thực hiện các dự án, tạo mọi điều kiện cho các tổ chức, doanh
nghiệp đầu tư phát triển kinh tế tại địa phương.
Các cấp đã tiến hành rà soát lại quỹ đất tái định cư, tận dụng các khu tái
định cư đã có để phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, đồng thời, chủ
động nghiên cứu đầu tư xây dựng hạ tầng theo thẩm quyền trên cơ sở tính toán
giá thành đảm bảo các điều kiện về điện, nước, phù hợp với quy hoạch tổng thể
tại địa phương và phù hợp với khu tái định cư trong từng giai đoạn phát triển
trên địa bàn huyện. Các địa phương đã phân công công chức chuyên môn trong
Ban bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thường xuyên trực tại Bộ phận một cửa, một
cửa liên thông của UBND huyện, tăng cường phối hợp với UBND các xã, thị
trấn kịp thời giải quyết đơn thư khiếu nại, kiến nghị của người dân về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư theo thẩm quyền từ cơ sở, tránh tình trạng đơn thư
vượt cấp, kéo dài. Tích cực vận động, thuyết phục mọi tầng lớp nhân dân phối
hợp với cơ quan nhà nước thực hiện nhận tiền bồi thường, bàn giao mặt bằng và
thực hiện tái định cư theo quy định.
Ủy ban nhân dân xã, thị trấn tăng cường công tác kiểm tra, phát hiện, ngăn
chặn, xử lý kịp thời, kiên quyết đối với các trường hợp lấn chiếm đất, xây dựng
công trình trái phép; cập nhật kịp thời các biến động về đất đai để phục vụ công
tác quản lý đất đai nói chung và công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trên địa
bàn huyện nói riêng; thực hiện xác nhận nguồn gốc đất đai, chính sách ổn định
đời sống, hỗ trợ chuyển đổi nghề, tái định cư,… qua đó đảm bảo quyền lợi cho
mọi tổ chức và cá nhân trên địa bàn huyện.
Theo báo cáo của Huyện ủy Bình Sơn, Dự án Khu liên hợp sản xuất gang
thép Hòa Phát Dung Quất đã nhận được sự ủng hộ, đồng tình và tạo điều kiện
của các cấp ủy Đảng, chính quyền từ huyện đến xã. Nhưng trong quá trình triển
khai thực hiện, dự án đã phát sinh một số bất cập liên quan đến công tác bồi
thường, tái định cư, ô nhiễm môi trường, gây lo lắng trong nhân dân... Chính
47
quyền địa phương đã nhiều lần tổ chức họp dân, đối thoại, vận động người dân,
trong đó có việc đề nghị tăng kinh phí hỗ trợ tiền thuê nhà; di dời mồ mả vào
khu riêng biệt tại nghĩa địa xã Bình Trị và Bình Đông; UBND tỉnh sớm ban hành
kế hoạch sử dụng đất trên địa bàn Khu Kinh tế Dung Quất để thuận lợi xây dựng
khu tái định cư cho người dân đang sống tại 115ha xã Bình Thuận; tham mưu
UBND tỉnh chỉ đạo Sở TN&MT thường xuyên, chặt chẽ trong công tác kiểm tra,
giám sát môi trường và công khai cho nhân dân biết để an dân… Qua đó các cơ
quan, sở, ban ngành liên quan và lãnh đạo Công ty CP Thép Hòa Phát Dung
Quất kịp thời giải đáp những vấn đề vướng mắc cũng như đóng góp ý kiến, đưa
ra các giải pháp nhằm sớm tháo gỡ những khó khăn, đảm bảo hài hòa giữa lợi
ích của doanh nghiệp và người dân, vì sự phát triển KT- XH chung trên địa bàn
huyện Bình Sơn và của tỉnh Quảng Ngãi.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành các Quyết định số 766-QĐ/TU ngày
23/8/2017 về việc thành lập Tổ Công tác giúp Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo
và thực hiện thí điểm việc tuyên truyền, vận động hỗ trợ giải phóng mặt bằng Dự
án Khu đô thị, công nghiệp, dịch vụ VSIP và Quyết định số 944-QĐ/TU ngày
02/02/2018 về việc chỉ đạo và thực hiện việc tuyên truyền, vận động, hỗ trợ giải
phóng mặt bằng Dự án nâng cấp, mở rộng Nhà máy lọc dầu Dung Quất. Trên cơ
sở đó các cấp, các ngành trên địa bàn huyện Bình Sơn đã khẩn trương làm việc,
gặp gỡ, trao đổi với các tổ chức, cơ quan, địa phương có liên quan chuẩn bị kỹ
lưỡng các nội dung, nhất là việc nắm bắt tình hình người dân khu vực chịu ảnh
hưởng để xây dựng kế hoạch, lịch làm việc, kịch bản chi tiết, phân công nhiệm
vụ cụ thể cho các thành viên và bàn biện pháp, phương pháp, thời gian, nhân lực,
vật lực để tiến hành tổ chức tuyên truyền, vận động hỗ trợ giải phóng mặt bằng
tại các Dự án.
Từ cuối năm 2017 đến nay, các Tổ công tác đã chủ trì hoặc phối hợp với
cấp ủy, chính quyền địa phương, các đơn vị liên quan tổ chức hàng chục cuộc
họp để trao đổi, bàn bạc, đánh giá, thống nhất cách làm trong công tác tuyên
truyền, vận động. Qua đó, đã triển khai tổ chức gần 40 buổi gặp gỡ trao đổi,
thuyết phục người dân bằng nhiều hình thức như: gặp gỡ, đối thoại, thuyết phục,
48
vận động tại Hội trường UBND xã, tại Nhà sinh hoạt xóm, thôn, tới vận động
từng nhà và vận động trực tiếp để người dân tự nguyện tháo dỡ tại hiện trường
Dự án. Qua quá trình vận động với tinh thần cầu thị, lắng nghe người dân nói,
tìm hiểu từng hoàn cảnh cụ thể, Tổ Công tác đã cùng chính quyền địa phương
giải quyết kịp thời một số thiếu sót, bất cập trong quá trình triển khai công tác
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, đảm bảo quyền lợi tối đa cho người dân. Đồng
thời đề xuất, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết nhiều nguyện vọng,
kiến nghị chính đáng của người dân.
Đối với Dự án VSIP, tính đến hết tháng 4/2019, đã bàn giao 100% đất sạch
cho 02 Nhà đầu tư theo Kế hoạch với 46 ha và 85 ha đất sạch có hạ tầng chưa
bàn giao cho Nhà đầu tư. Trong đó, có 191 hộ/194 hộ dân và 01 cộng đồng dân
cư tự giác bàn giao mặt bằng. Chính quyền chỉ thực hiện biện pháp bảo vệ thi
công, cưỡng chế thu hồi đất công ích đối với 03 hộ dân sau khi đã kiên trì thuyết
phục tuyên truyền, vận động nhiều lần. Đối với Dự án Nâng cấp, Mở rộng Nhà
máy lọc dầu Dung Quất, tính đến ngày 20/5/2019 đã vận động dỡ dọn được nhà
cửa, vật kiến trúc của 216 hộ/219 hộ, 03 hộ còn lại cam kết dỡ dọn trong cuối
tháng 5/2019 trên tổng số hơn 108 ha của Dự án.
Bên cạnh đó huyện Bình Sơn còn phối hợp với các cơ quan liên quan triển
khai Dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1A đoạn qua huyện Bình Sơn và huyện
Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, do Bộ GTVT quyết định đầu tư vào ngày 31/3/2016
và giao cho Sở GTVT tỉnh Quảng Ngãi làm chủ đầu tư với hơn 760 tỷ đồng, các
tiểu dự án giải phóng mặt bằng có số vốn gần 355 tỷ đồng. Tại huyện Bình Sơn,
chiều dài Quốc lộ 1A qua huyện là 24,56km, hiện mặt bằng đã bàn giao là
24,12km, đạt 98,2%.
UBND huyện Bình Sơn đã phối hợp với các chính quyền địa phương tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát động các phong trào thi đua yêu
nước, vận động nhân dân phối hợp thực hiện chính sách đất đai gắn với mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện.
Phòng Tài nguyên và Môi trường tham mưu cho UBND huyện quản lý nhà
nước về đất đai, thực hiện, kiểm soát các thủ tục hành chính về đất đai theo quy
49
định của Nhà nước như: Tuyên truyền phổ biến pháp luật đất đai, xử lý vi phạm
hành chính về đất đai, công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, công tác
xác định giá đất, công tác thu hồi đất, … Đồng thời tham mưu thẩm định phương
án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư theo quy định của pháp luật. Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai cấp huyện có trách nhiệm theo dõi, cập nhật, chỉnh lý hồ
sơ địa chính và xây dựng hệ thống thông tin đất đai cấp huyện.
Trung tâm Phát triển Quỹ đất thực hiện nhiệm vụ về bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư, thực hiện công tác cho thuê đất, đấu giá quyền sử dụng đất, quản lý
quỹ đất đã giải phóng mặt bằng và quản lý quỹ đất tái định cư thuộc cấp huyện
quản lý.
Ban quản lý dự án xây dựng huyện thực hiện nhiệm tham mưu, đề xuất
giúp chủ đầu tư thực hiện việc quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản và thực hiện
các công việc cụ thể như: Chuẩn bị mặt bằng thi công, chuẩn bị hồ sơ thiết kế,
mời thầu và tổ chức đấu thầu, thực hiện chức năng quản lý dự án, …. và thanh
quyết toán dự án theo quy định.
Phòng Tài chính - Kế hoạch tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực tài chính, tài sản theo quy
định của pháp luật và hướng dẫn, tổ chức thực hiện các văn bản về quản lý tài
chính, tài sản cho các cơ quan cấp huyện [42, tr.5-6-7].
2.2.4. Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc về thực hiện chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
Trong những năm qua, UBND huyện Bình Sơn đã chỉ đạo các cấp, các
ngành tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính
sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất tại các địa
phương. Theo đó, văn phòng UBND huyện, tỉnh làm việc với Tập đoàn Điện lực
Việt Nam về công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng các dự án đường dây
điện; đối với dự án đường dây 500 kV Quảng Trạch – Dốc Sỏi và đường dây
500kV Dốc Sỏi – Pleiku 2 (đoạn qua địa bàn huyện Bình Sơn), yêu cầu các
ngành chuyên môn khẩn trương tổ chức thẩm định, phê duyệt các phương án bồi
50
thường, hỗ trợ đối với phần diện tích đất tại các vị trí móng trụ và hoàn thành
kiểm kê phần diện tích nằm trong hành lang tuyến của dự án trong tháng 8/2019.
Qua thanh tra cho thấy, việc triển khai thực hiện phương án bồi thường, hỗ
trợ để thi công về dự án điện nêu trên và dự án Hòa Phát Dung Quất, giữa chính
quyền địa phương, chủ dự án và nhân dân tại địa phương chưa được sự thống
nhất, đồng thuận. Người dân không đồng tình với giá cả bồi thường đất, chính
quyền địa phương đã thực hiện các trình tự thủ tục từ công bố dự án đến họp dân
hơn 200 cuộc để đối thoại, giải thích nhưng nhân dân chưa đồng tình ủng hộ. Dự
án Quốc lộ 1 có đoạn qua huyện Bình Sơn được triển khai thi công từ tháng
8/2016, toàn tuyến có 1.517 tổ chức, hộ gia đình, cá nhân bị ảnh hưởng với diện
tích đất thu hồi là 45,4ha, tổng chiều dài giải phóng mặt bằng dọc hai bên tuyến
là 24,56 km. Đến nay đã chi trả tiền bồi thường cho 1.494/1.517 hộ, còn lại 23
hộ chưa nhận tiền bồi thường và bàn giao mặt bằng.
Trước tình hình trì trệ của Dự án, huyện Bình Sơn đã phối hợp với các đơn
vị tổ chức cưỡng chế 2/16 hộ không bàn giao mặt bằng để thực hiện dự án đoạn
qua huyện Bình Sơn. Bên cạnh đó huyện còn phối hợp thực hiện 04 dự án lớn
trên địa bàn xã Bình Thuận, huyện Bình Sơn, gần 2.300 hộ dân với hơn 8.700
nhân khẩu nơi đây đứng trước nguy cơ phải di dời nhà đất, sống phân tán. Trong
đó bao gồm Dự án tuyến đường liên cơ cảng vụ nằm trong phạm vi thôn Tuyết
Diêm 1; dự án đầu tư xây dựng các tuyến đường trục trong Khu công nghiệp
phía Đông Dung Quất (gọi tắt là tuyến số 6) nằm trong phạm vi thôn Tuyết
Diêm 3; dự án di dời các hộ bị ảnh hưởng bởi nhà máy Bio Ethanol tại thôn
Đông Lỗ (10 hộ). Mỗi dự án khi được khởi động gây ảnh hưởng đến hàng chục
hộ dân, giai đoạn 2020- 2030, toàn bộ diện tích đất tự nhiên trên địa bàn xã (gần
1.900ha) sẽ được quy hoạch phục vụ cho các dự án này và không có phương án
quy hoạch khu dân cư giữ lại dân nên tương lai, địa giới hành chính Bình Thuận
sẽ bị “xóa sổ” và người dân sống phân tán.
Năm 2017, Ban quản lý Khu kinh tế Dung Quất và các Khu công nghiệp
Quảng Ngãi đã ra Quyết định số 277/QĐ- BQL về việc phê duyệt quy hoạch chi
tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 Khu dân cư phục vụ di dời dân xã Bình Thuận (giai
51
đoạn 1). Khu vực nghiên cứu lập quy hoạch thuộc thôn An Cường, xã Bình Hải,
với tổng diện tích hơn 60 ha. Tuy nhiên, đến nay, quy hoạch này bị “treo” vì tất
cả số đất ấy được trao lại cho nhà đầu tư... Trong quá trình phát triển công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc triển khai các dự án mới là cần thiết và tất yếu.
Tuy nhiên, các cấp chính quyền cần phải đảm bảo cuộc sống của chính những
người dân đã nhường lại phần nhà đất gắn bó bao đời nay cho việc xây mới các
dự án; tập trung thực hiện tốt tái định cư, ổn định cuộc sống, đáp ứng được yêu
cầu, nguyện vọng của mọi người dân.
Chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả việc tiếp công dân, giải quyết
đơn thư, khiếu kiện, tranh chấp đất đai đảm bảo đúng quy định, đáp ứng được
yêu cầu nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân. Bên cạnh đó, công tác quy
hoạch, sử dụng, khai thác đất đai chưa thực sự hiệu quả, vẫn còn tình trạng tự ý
lấn chiếm đất, làm nhà trái phép chưa được xử lý kịp thời.
Việc thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các dự án, kế hoạch, phương án thu
hồi bồi thường, tái định cư chưa được thực hiện thường xuyên, đội ngũ cán bộ,
công chức thanh tra các cấp còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ được giao. Từ năm 2015 đến 2019, Ban Bồi thường giải phóng mặt
bằng đã tiếp nhận gần 130 đơn thư kiến nghị, phản ánh liên quan đến chính sách
bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và tái định cư thuộc thẩm quyền giải
quyết. Sau khi tiếp nhận đơn, công chức thực thi công vụ đã phân loại đơn, xác
minh các nội dung liên quan, trình cấp có thẩm quyền giải quyết nhanh chóng,
kịp thời cho nhân dân đạt trên 90% các vụ việc được tiếp nhận, giải quyết.
Qua công tác thanh tra, kiểm tra đã kịp thời chấn chỉnh kỷ cương hành
chính trong việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức và của các
đơn vị có liên quan trong quá trình tổ chức, triển khai thực hiện chính sách; kịp
thời tổng hợp các ý kiến của nhân dân và đề xuất cơ quan có thẩm quyền giải
đáp thắc mắc, đối thoại, tiếp dân định kỳ, tạo được sự đồng thuận trong nhân dân
trên địa bàn huyện. Tuy nhiên, công tác kiểm tra, giám sát còn nhiều hạn chế,
52
chưa triệt để, chưa thực hiện chế tài xử phạt nghiêm khắc theo quy định của pháp
luật [44, tr.8-9].
2.2.5. Đánh giá, rút kinh nghiệm công tác thực hiện chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
Xác định công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
là nhiệm vụ thường xuyên, gắn liền giữa lợi ích kinh tế xã và người dân, hàng
năm cơ quan chuyên môn bao gồm các cơ quan Phòng Tài nguyên và môi
trường, Phòng phát triển quỹ đất, Ban quản lý dự án, Ban bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư tham mưu UBND huyện tổ chức sơ kết, tổng kết đánh giá, rút kinh
nghiệm trong quá trình triển khai thực hiện tại địa phương. Qua đó, đánh giá
toàn diện những thành tựu đạt được, phân tích, làm rõ những hạn chế và đề xuất
các phương hướng, nhiệm vụ thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất hiệu quả hơn trong thực tiễn. Đồng thời, UBND huyện
Bình Sơn tổ chức các Hội nghị, Hội thảo, đối thoại với nhân dân để xem xét, giải
quyết bảo đảm các trình tự, thủ tục, thời gian thực hiện chính sách đánh giá bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi tại các địa phương; nghiêm túc
kiểm điểm, rút kinh nghiệm những hạn chế tồn tại và kịp thời vinh danh, nêu
gương, khen thưởng các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp trong việc thực hiện
hiệu quả chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi trên địa
bàn huyện.
Một trong những kinh nghiệm cần thiết đó là, các cấp, các ngành tăng
cường công tác tuyên truyền, vận động được tiến hành tổ chức sâu rộng ở các địa
phương trước khi triển khai các Dự án. Đòi hỏi phải có sự vào cuộc của cả hệ
thống chính trị, sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa cấp ủy, chính quyền với các
ban, ngành, tổ chức liên quan; quyết tâm, nỗ lực của người đứng đầu cấp ủy,
chính quyền trong việc xây dựng cơ chế, chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư.
Trường hợp có nhiều hộ dân phản đối hoặc chưa đồng thuận thì cần rà soát,
xem lại cơ chế, chính sách áp dụng đã đúng hay chưa để có hướng trao đổi,
53
thuyết phục, giải quyết hoặc kiến nghị cấp thẩm quyền giải quyết phù hợp cho
từng trường hợp cụ thể, riêng biệt.
Phương án chọn địa điểm, quy mô khu tái định cư phải rất thực tế với quỹ
đất phù hợp nhưng phải đảm bảo nhu cầu, lợi ích hợp pháp của người dân và
phải đảm bảo nguyên tắc chất lượng hạ tầng, bảo đảm tái định cư nơi ở mới tốt
hơn nơi ở cũ. Đồng thời thực hiện nghiêm việc công khai, minh bạch, thực hiện
tốt các quy định về dân chủ cơ sở và cơ chế "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra" trong tất cả các dự án ngay từ đầu là hết sức quan trọng.
Mỗi thành viên Tổ Công tác phải có ý thức tự giác và phát huy tinh thần
trách nhiệm, trau dồi kiến thức liên quan đến công tác bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư; không ngừng nâng cao kỹ năng đối thoại, thuyết phục người dân. Qua
đó góp phần thực hiện các chính sách thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, giải phóng
mặt bằng, tái định cư các dự án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện đạt
kết quả cao [42, tr.10].
2.3. Kết quả thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi
Xuất phát từ các quy định của Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi
hành luật, các cấp chính quyền đã từng bước xây dựng cơ chế, chính sách và
hoàn thiện chính sách bồi thường, tái định cư phù hợp với địa phương. Các cấp
chính quyền thực hiện thành lập Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng, tăng
cường chỉ đạo, điều hành phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan liên quan, thực
hiện hiệu quả các dự án như hoàn thiện tuyến đường Võ Văn Kiệt, Dự án Nhà
máy lọc dầu Dung Quất, Nhà máy công nghiệp nặng Doosan, Nhà máy
Polypropylen..., đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
UBND huyện Bình Sơn đã phối hợp cùng với UBND tỉnh, Tập đoàn Dầu
khí Việt Nam (PVN), Công ty Lọc hóa đầu Bình Sơn (BSR), ban quản lý Dự án
NCMR NMLD Dung Quất (DQRE) triển khai Dự án Nâng cấp mở rộng
(NCMR) Nhà máy lọc dầu (NMLD) Dung Quất. Theo báo cáo, kết quả thực hiện
Tiểu dự án Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phục vụ Dự án NCMR NMLD Dung
54
Quất, đại diện DEZA cho biết diện tích mặt bằng cho Dự án đã chi trả đền bù đạt
96%; diện tích đã thực hiện xong công tác bồi thường đạt 99%; diện tích sạch đủ
điều kiện bàn giao đợt 1 là 91/93,4ha, đạt 97%. Công tác thi công xây dựng khu
tái định cư đã thực hiện được 3,5 tháng (trên tổng số 6 tháng), đạt 40,16% kế
hoạch. Một số hạng mục chậm so với tiến độ trong thời gian qua là do thời tiết
không thuận lợi tại khu vực miền Trung. Hiện vẫn còn một số tồn tại, vướng mắc
trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng; công tác xây dựng khu tái định
cư… để từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm đẩy nhanh tiến độ. Các cấp
chính quyền tỉnh, huyện cần tiếp tục chỉ đạo quyết liệt các sở, ban, ngành liên
quan tập trung giải quyết nhanh các khó khăn, vướng mắc trong việc chi trả 18
trường hợp tại mặt bằng 108 ha; 31 trường hợp vướng mắc của 10 hạng mục di
dời, hoàn trả. Đồng thời có biện pháp giải quyết dứt điểm các trường hợp vướng
mắc nằm ngoài phương án đền bù giải tỏa. [UBND tỉnh Quảng Ngãi (2017), Báo
cáo kết quả triển khai thực hiện dự án NCMR NMLD Dung Quất năm 2017].
Ngày 28/4/2017, Ban Quản lý Khu kinh tế (KKT) Dung Quất và các Khu
công nghiệp (KCN) tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với Ban Quản lý Dự án Nâng cấp
mở rộng Nhà máy Lọc dầu (NMLD) Dung Quất, chính quyền địa phương huyện
Bình Sơn và các nhà thầu đã tổ chức Lễ công bố vị trí mốc giới lô đất tái định cư
cho nhân dân trong khu vực giải tỏa để thực hiện Dự án Nâng cấp mở rộng
NMLD Dung Quất. Theo đó, Khu tái định cư được xây dựng tại khu dân cư Tây
Bắc Vạn Tường giai đoạn 3, với diện tích 19,35ha, trên địa bàn xã Bình Trị,
huyện Bình Sơn với tổng mức đầu tư hơn 200 tỷ đồng. Công ty Cổ phần xây
dựng Tân Nam là nhà thầu chính và các nhà thầu phụ là Công ty Cổ phần đầu tư
phát triển Hợp Nghĩa; Công ty TNHH phát triển công nghệ An Đô; Công ty Cổ
phần nội thất miền Bắc thi công. Ngoài ra còn diện tích mương thoát nước dọc
và cống thoát lũ cần bổ sung là 1,36ha. Diện tích đất ở là 10,2ha và được chia
làm 22 khu ở, với 557 lô gồm: 389 lô có diện tích 200m2/lô; 136 lô có diện tích
150m2/lô và 32 lô có diện tích 100m2/lô. Hạ tầng kỹ thuật gồm có 19 tuyến
đường nội bộ và 2 tuyến đường gom, với tổng chiều dài toàn tuyến trên 4,5km.
Các công trình phụ trợ gồm: cống kỹ thuật, nút giao thông, vỉa hè, cây xanh…
55
Hệ thống thoát nước nước mưa, nước thải được xây dựng theo tuyến dọc chạy
xung quanh khu dân cư, có chiều dài gần 1,2km và hệ thống cấp nước sạch, cấp
điện dân dụng, điện chiếu sáng bằng cáp ngầm. Các công trình hạ tầng xã hội
gồm: 1 trường tiểu học xây 2 tầng trên diện tích 4.882,49m2, gồm 8 phòng học,
khối phục vụ, khối hành chính quản trị; 1 trường mầm non xây 2 tầng trên diện
tích 2.439,96m2; 1 trạm y tế 2 tầng được xây dựng trên diện tích 862,53m2 và 2
nhà sinh hoạt cộng đồng có tổng diện tích đất xây dựng 1.226,4m2. Riêng dự án,
theo báo cáo của UBND huyện Bình Sơn, đến nay UBND huyện Bình Sơn đã
phê duyệt 25 phương án bồi thường, tái định cư tương ứng với 6 vị trí, với tổng
giá trị bồi thường, hỗ trợ là 418,93 tỷ đồng. Tổng số hộ bị ảnh hưởng trong vùng
dự án là 1.444 hộ; có 505 hộ có nhà ở vật kiến trúc phải di dời; 1.461 mồ mả và
10 công trình phải di dời; số hộ dự kiến được bố trí tái định cư là 406/446 lô (có
7 hộ/17 lô tái định cư tại chỗ).
Quần thể du lịch nghỉ dưỡng FLC Quảng Ngãi chính thức khởi công trong
ngày 30/6/2019 tại huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Đây là công trình chào
mừng 30 năm ngày tái lập tỉnh. Các cấp, các ngành huyện Bình Sơn đã tích cực
phối hợp với UBND tỉnh và các sở, ngành liên quan thực hiện bảm đảm đúng
quy trình về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và các chính sách đất đai phù hợp
cho người dân và doanh nghiệp để triển khai, xây dựng Quần thể du lịch nghỉ
dưỡng FLC Quảng Ngãi trải dài bên vùng biển đẹp nhất của huyện Bình Sơn,
thuộc Khu đô thị mới Vạn Tường (Khu Kinh tế Dung Quất). Dự án có quy mô
1.026 ha, trong đó, các hạng mục bao gồm 4 phân khu khách sạn, resort cao cấp
và hai phân khu đô thị biển với tổng mức đầu tư giai đoạn đầu ước tính khoảng
11.000 tỷ đồng. Để có được những kết quả này, lãnh đạo các cấp, chính quyền
địa phương huyện Bình Sơn đã thường xuyên vận động mọi người dân nhận thức
rõ về lợi ích đầu tư dự án, phát triển kinh tế, đồng thời địa phương cũng khẳng
định việc quy hoạch và xây dựng các khu chức năng, hạng mục công trình cần
đảm bảo hài hòa lợi ích giữa người dân, doanh nghiệp và Nhà nước. Người dân
trong vùng dự án và các vùng lân cận phải được hưởng lợi, có cuộc sống tốt hơn
56
trước khi có dự án. Nhà chức trách cùng nhà đầu tư nghiên cứu, bố trí xen kẽ
một số tuyến đường ra biển và không gian bờ biển cho cộng đồng.
Năm 2019, ngành Tài nguyên và Môi trường huyện đã tiếp nhận và giải
quyết 9.317 hồ sơ liên quan đến đất đai. Trong đó, giải quyết 8.193 hồ sơ và
tham mưu UBND huyện cấp 4.099 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho công
dân và tổ chức và đã thực hiện dự án đo đạc hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu
quản lý đất đai, hoàn thành 55.072 hồ sơ của 25 xã, thị trấn. Đồng thời UBND
huyện đã trình cấp có thẩm quyền phê duyệt Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
giai đoạn 2020 – 2025.
Tiểu dự án Giải phóng mặt bằng đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi,
đoạn qua địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đang gặp nhiều khó khăn, Chủ tịch UBND
tỉnh Quảng Ngãi đã yêu cầu UBND các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa và
Nghĩa Hành, các địa phương có dự án đi qua khẩn trương tổ chức bán đấu giá
các lô đất còn lại của các khu tái định cư để hoàn trả kinh phí cho dự án.
Nhìn chung, qua công tác thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư huyện Bình Sơn đã đạt được những kết quả nhất định. Các cơ quan
chuyên môn đã triển khai công tác đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp cho các hộ
dân tái định cư sớm ổn định cuộc sống; tăng cường tuyên truyền, vận động nhân
dân trong vùng quy hoạch phát huy truyền thống cách mạng, tiếp tục ủng hộ chủ
trương của Đảng và Chính phủ, các địa phương trên địa bàn huyện trong việc
thực hiện các Dự án, đồng thuận cao với các cấp chính quyền và các cơ quan
chuyên môn, sớm di dời đến nơi ở mới, bàn giao mặt bằng đúng thời gian để
triển khai dự án đúng tiến độ, triển khai chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư trên địa bàn huyện [42, tr.11-12-13].
2.4 Những thành tựu và hạn chế thực hiện chính sách bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn,
tỉnh Quảng Ngãi
2.4.1. Những thành tựu và nguyên nhân thành tựu
2.4.1.1. Những thành tựu
57
Thứ nhất, chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại địa phương được
mọi tầng lớp nhân dân đồng thuận cao. Qua đó, các dự án, công trình đầu tư xây
dựng được triển khai hiệu quả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đáp ứng được yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn huyện.
Thứ hai, tạo cơ hội học nghề, đào tạo nghề, việc làm, bố trí việc làm cho
những người dân bị thu hồi đất, sớm ổn định cuộc sống.
Thứ ba, chính quyền địa phương đã xây dựng nhiều cơ chế, chính sách,
ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện hiệu quả chính sách bồi thường, hỗ trợ tái
định cư, từng bước nâng cao đời sống nhân dân, góp phần phát triển kinh tế - xã
hội tại các địa phương.
Thứ tư, cơ chế, chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được các cấp
chính quyền, công chức chuyên môn thực hiện hiệu quả, tuân thủ, áp dụng đúng
nguyên tắc và đưa ra những quyết định phù hợp với tình hình thực tiễn các địa
phương theo hướng đơn giản hóa, dễ thực hiện, bảo đảm hài hòa về lợi ích giữa
nhà nước – nhà đầu tư - người bị thu hồi đất.
Thứ năm, các cấp các ngành thực hiện tốt công tác phối hợp, tuyên truyền,
vận động; tổ chức tập hợp lấy ý kiến đóng góp của quần chúng nhân dân nhằm
từng bước cải thiện các chính sách, áp giá đất, bố trí đất ở mới và thực hiện bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất góp phần tạo điều kiện cơ sở vật
chất, nguồn lực để thực hiện một nhanh chóng, hiệu quả trên địa bàn huyện.
Thứ sáu, cán bộ và nhân dân đã nhận thức được tầm quan trọng, ý nghĩa
của chủ trương, chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đề phát triển kinh tế,
xã hội tại địa phương. Các cấp chính quyền đã có nhiều nỗ lực để tạo điều kiện
vật chất và kỹ thuật trong việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Thứ bảy, đội ngũ công chức chuyên môn thực hiện công tác bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư nêu cao tinh thần trách nhiệm, tăng cường tham mưu, phối hợp
với các sở, cơ quan, ban ngành có các dự án đầu tư ngày càng được mở rộng và
thực hiện hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ và nguyện vọng của mọi
tầng lớp nhân dân.
58
Thứ tám, thực hiện tốt chính sách đất đai, bố trí tái định cư, tạo thuận lợi
cho nông dân phát triển mô hình trồng dưa sách không hạt và nhân rộng tại
huyện Bình Sơn. Nông dân tham gia mô hình được hỗ trợ kinh phí về giống,
phân hữu cơ, phân vi sinh, thuốc sinh học, bạc phủ, còn lại các hộ tự đối ứng và
lo nhân công; các loại dưa này được thu hoạch, phân phối, kinh doanh trên thị
trường trong huyện, tỉnh [42, tr.15].
2.4.1.2. Nguyên nhân thành tựu
Một là, do sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền địa phương trong
việc phát triển kinh tế, xã hội nói chung và thực hiện chính sách bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện nói riêng.
Hai là, tỉnh, huyện đã xây dựng nhiều cơ chế, chính sách phù hợp để thu
hút đầu tư, phát triển kinh tế tại địa phương, vừa bảo đảm lợi ích kinh tế của nhà
nước và quyền lợi của người dân được đảm bảo.
Ba là, tạo được sự đồng thuận cao của các cấp, các ngành, các tổ chức
doanh nghiệp, nhà đầu tư và mọi tầng lớp nhân dân đã tạo nên sức mạnh tổng
hợp trong quá trình thực hiện chính bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất tại địa phương.
Bốn là, do điều kiện tự nhiên thuận lợi, tiềm năng sẵn có của địa phương và
việc nhận thức của người dân trong cơ chế, chính sách và ý nghĩa thực hiện
chính sách góp phần phát triển kinh tế xã hội địa phương đạt kết quả. Qua đó,
góp phần triển khai thực hiện chính sách đạt hiệu quả cao, đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân hạn chế
2.4.2.1. Những hạn chế
Thứ nhất, nhiều hộ dân tại xã Bình Thuận, huyện Bình Sơn nằm trong diện
tái định cư thuộc Dự án thép Hòa phát Dung Quất, người dân chưa được hỗ trợ
tiền thuê nhà trong thời gian chờ tái định cư, chưa được bố trí tái định cư đúng
thời gian quy định.
Thứ hai, giá đất do UBND cấp tỉnh thấp hơn so với giá thị trường, việc
xác định giá đất để tính bồi thường cho người bị thu hồi đất chưa được quy định
59
theo một chuẩn mực nhất quán; người bị thu hồi đất nông nghiệp thường chịu
thiệt thòi hơn so với người bị thu hồi đất phi nông nghiệp.
Thứ ba, Chưa xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp hỗ trợ cho người dân
để xác định, lựa chọn việc làm, lựa chọn hướng chuyển đổi nghề nghiệp, việc tổ
chức đào tạo, cho học nghề đối với người dân bị thu hồi đất gặp nhiều khó khăn.
Thứ tư, nhiều dự án của nhiều nhà đầu tư được triển khai thực hiện cùng
một lúc, qua nhiều giai đoạn trên địa bàn huyện, dẫn đến việc xây dựng quy
hoạch, kế hoạch bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của các cấp chính quyền địa
phương chưa được thực hiện đồng bộ, ảnh hưởng đến tiến độ dự án, người dân
chưa bố trí, tái định cư kịp thời, cuộc sống của người dân bị ảnh hưởng trong
một thời gian dài.
Thứ năm, một số địa phương vẫn còn công chức thực hiện công vụ, hạn
chế năng lực, gây phiền hà về thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người
dân bị thu hồi đất.
Thứ sáu, một số địa phương bố trí tái định cư chưa phù hợp, các công trình
xây dựng thiết yếu, khu vui chơi, giải trí công cộng, công viên chưa được quan
tâm đầu tư tại nơi ở mới của những khu tái định cư tại các địa phương.
Thứ bảy, trình tự thủ tục về công khai, minh bạch về giá đất, bồi thường,
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được
nguyện vọng của người dân tại địa phương.
Thứ tám, việc phối hợp, phân công cho cơ quan chủ trì thực hiện chính
sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư chưa rõ ràng, hầu như chính quyền địa
phương giao trách nhiệm chính cho các chủ đầu tư, chủ dự án dẫn đến việc thực
hiện chính sách bồi thường đối với người dân ở một số địa phương còn chậm, dự
án được triển khai nhưng người dân vẫn chưa được bố trí tái định cư.
Thứ chín, một số công trình, dự án chưa đạt hiệu quả cao, vẫn còn một số
sai phạm của cán bộ khi thực thi công vụ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
trên địa bàn huyện [40, tr.16].
2.4.2.2. Nguyên nhân hạn chế
60
Một là, cơ chế chính sách của pháp luật về chính sách bồi thường thu hồi
đất, tái định cư còn chưa thực sự phù hợp với các địa phương.
Hai là, giá đất UBND tỉnh quy định bồi thường thấp hơn giá thị trường,
việc áp dụng pháp luật, hỗ trợ, bồi thường cho một số hộ gia đình, cá nhân còn
nhiều lúng túng, ảnh hưởng đến quyền và lợi của người dân bị thu hồi đất tại các
địa phương.
Ba là, các Dự án Khu liên hợp sản xuất gang thép Hòa Phát Dung Quất; Dự
án Khu đô thị, công nghiệp, dịch vụ VSIP; Nhà máy lọc dầu Dung Quất; Dự án
nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1A; Quần thể du lịch nghỉ dưỡng FLC Quảng Ngãi;
Tiểu dự án Giải phóng mặt bằng đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi… được
triển khai thực hiện cùng một lúc, dàn trải, thiếu tập trung; chưa có sự phối hợp
chặt chẽ giữa chính quyền địa phương với doanh nghiệp, chủ đầu tư và người
dân.
Bốn là, cơ chế chính sách, nguồn vốn phân bổ cho công tác bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư còn nhiều hạn chế, kinh phí chủ yếu tập trung cho dự án, chưa
có chính sách phù hợp, bảo đảm quyền và lợi ích của người dân.
Năm là, hầu hết các dự án được triển khai, chính quyền địa phương giao
cho chủ đầu tư tự xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ và một số chủ đầu tư
chưa phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, xem quy trình giải phóng
mặt bằng thuộc về chính quyền cơ sở. Do đó, ảnh hưởng chung đến tiến độ dự án
và việc tái định cư cho nhân dân thuộc dự án trên địa bàn huyện.
Sáu là, một số xã chưa thực hiện tốt công tác quản lý đất đai, hiện trạng sử
dụng đất, nguồn gốc đất, quỹ đất… năng lực của công chức chuyên môn, thành
viên Ban quản lý dự án, Ban bồi thường, hỗ trợ và tái định cư còn nhiều hạn chế
[42, tr.17].
2.4.3. Những vấn đề đặt ra để giải quyết
Các cấp chính quyền địa phương thường xuyên tiến hành rà soát các quy
định của pháp luật về đất đai nói chung, các cơ chế chính sách về bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư nói riêng để đề xuất, góp ý cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ
61
sung, hoàn thiện pháp luật đất đai và các chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư phù hợp trong thực tiễn ở các địa phương.
UBND huyện Bình Sơn cần tăng cường phối hợp với UBND tỉnh, các sở
ngành, các cơ quan chuyên môn cùng với các nhà đầu tư có những giải pháp phù
hợp để theo dõi, hướng dẫn, chỉ đạo cơ quan chuyên môn và địa phương thực
hiện hiệu quả các dự án nêu trên, vừa bảo đảm thực hiện tốt các dự án, vừa thực
hiện tốt chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
trên địa bàn huyện.
Thực hiện tốt quyền tiếp cận thông tin về bồi thường, hỗ trợ và tái định khi
Nhà nước thu hồi đất theo Luật tiếp cận thông tin năm 2016. Pháp luật quy định
việc thu hồi đất “phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định
của pháp luật” [khoản 3 Điều 54 Hiến pháp năm 2013].
Yêu cầu đặt ra đòi hỏi các cấp chính quyền địa phương có trách nhiệm tổ
chức đối thoại với người dân ở địa phương về tình hình hoạt động của UBND
…[Điều 125, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015]. Phát huy vai trò
của UBND và Trung tâm Phát triển quỹ đất thực hiện hiệu quả chính sách đất đai
[43, tr 4].
62
Tiểu kết chương 2
Từ việc phân tích thực trạng thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư trên địa bàn huyện Bình Sơn cho thấy, chính quyền địa phương đã ban
hành nhiều văn bản nhằm cụ thể hóa các quy định trong chính sách bồi thường,
hỗ trợ tái định cư của Trung ương, tỉnh, định hướng phù hợp đối với tình hình
thực tế trên địa bàn huyện. Qua đó tạo được sự đồng thuận cao trong quần chúng
nhân dân, tạo điều kiện cho cho các nhà đầu tư sớm triển khai xây dựng và đi
vào hoạt động các dự án, góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế tại địa phương.
Đồng thời tạo nhiều cơ hội học nghề, đào tạo nghề, việc làm, bố trí việc làm cho
những người dân bị thu hồi đất, sớm ổn định cuộc sống; các cấp các ngành thực
hiện tốt công tác phối hợp, tuyên truyền, vận động; tổ chức tập họp lấy ý kiến
đóng góp của nhân dân để hoàn thiện các chính sách, áp giá đất, bố trí đất ở mới
và thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất đạt kết quả; người
dân đã nhân rộng mô hình phát triển kinh tế tại các địa phương. Tuy nhiên trong
quá triển khai khai thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất còn gặp nhiều khó khăn trong những quy định pháp luật đất đai,
cơ chế chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Chính vì vậy, các cấp, các
ngành cần có những giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác này trong thời gian
đến. Luận văn tiếp tục nghiên cứu nội dung này tại Chương 3.
63
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG, NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ
NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BÌNH SƠN, TỈNH
QUẢNG NGÃI
3.1. Giải pháp chung thực hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi
Giải pháp 1: về thực hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất
Cấp có thẩm quyền cần tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về
chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cự đáp ứng được yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, xây dựng cơ chế chính sách thu hút đầu tư,
phát triển hiệu quả dự án đầu tư, các công trình xây dựng cơ bản, góp phần xây
dựng nông thôn mới tại các địa phương.
Bổ sung một số trường hợp thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi
ích quốc gia, lợi ích công cộng quy định tại Điều 62 Luật Đất đai năm 2013, cụ
thể: Thu hồi đất để tạo quỹ đất thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã
được cơ quan có thẩm quyền phế duyệt; Thu hồi hồi đất để thực hiện các dự án
bồi thường, dự án BOT; Thu hồi đất để thực hiện dự án có vốn đầu tư nước
ngoài.
Đảm bảo quá trình thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất một cách công khai, minh bạch, đúng pháp luật trong đó có nhiệm vụ thực
hiện thông báo công khai thu hồi, thời gian, kế hoạch, phương án bồi thường, áp
giá đền bù, bố trí tái định cư với những điều kiện đảm bảo, ổn định cuộc sống
người dân trên địa bàn huyện.
Tiếp tục hoàn thiện hơn nữa chính sách, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư, về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, qua đó giải quyết kịp thời các
64
yêu cầu khiếu nại, tố cáo trong thực hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư tại các địa phương.
Giải pháp 2: Nâng cao hiệu quả tổ chức, thực hiện chính sách về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên môn thực hiện
chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất đồng bộ từ
tỉnh đến địa phương, đảm bảo chức năng thống nhất triển khai thực hiện chính
sách của chính quyền cơ sở, có sự phân công, phân cấp rõ ràng, hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả.
Thực hiện sắp xếp, bố trí việc làm phù hợp với trình độ chuyên môn, năng
lực công tác của các cán bộ, công chức, viên chức, đáp ứng được yêu cầu nhiệm
vụ được giao. Qua đó, kịp thời tham mưu cấp có thẩm quyền giải quyết nhanh
chóng các vấn đề liên quan đến lợi ích, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức và
công dân trong quá trình thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, thu hồi đất, tái
định cư tại địa phương.
Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật về đất đai và các chế độ
chính sách liên quan đến công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho đội ngũ
cán bộ chuyên trách Ban quản lý dự án, Ban bồi thường, hỗ trợ và tái định cư từ
tỉnh đến xã. Phải thường xuyên quan tâm thực hiện có kết quả việc đánh giá
phân loại công chức trong đội ngũ chuyên trách để kịp thời khen thưởng, nêu
gương trong thực thi công vụ và triển khai thực hiện chính sách bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư trên địa bàn huyện.
Giải pháp 3: Cải cách hành chính trong quản lý nhà nước về bổi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
Xây dựng phù hợp quy hoạch chi tiết các dự án đầu tư xây dựng khu tái
định cư đáp ứng được nguyện vọng của người dân trước khi có quyết định thu
hồi đất của cấp có thẩm quyền, đảm bảo hạn mức giao đất, xây dựng cơ sở hạ
tầng, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân tốt hơn nơi ở cũ trước đây.
65
Thủ trưởng các cơ quan hành chính Nhà nước tại địa phương cần tăng
cường và nâng cao trách nhiệm trong công tác Quản lý Nhà nước, tập trung chấn
chỉnh những tồn tại, yếu kém trong thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư; chú trọng đầu tư kinh phí, trang thiết bị phục vụ công tác; công khai,
minh bạch, dân chủ, công bằng quá trình xây dựng, ban hành các chính sách,
pháp luật, nhất là trong lĩnh vực về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất.
Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách phải quan tâm đến quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, bảo đảm công dân không bị thiệt thòi do những bất
cập của chính sách; công tác quản lý, nhất là trong thu hồi đất để thực hiện các
dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích công cộng cần phải xây dựng phương
án bồi thường, hỗ trợ dân chủ, công khai, đúng chính sách, pháp luật, sát thực tế,
bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất.
Các cấp, các ngành, địa phương cần làm tốt công tác tuyên truyền, vận
động người dân phối hợp thực hiện chính sách, quan tâm đầu tư xây dựng phòng
tiếp dân, thực hiện tốt lịch tiếp công dân định kỳ, thường xuyên và đột xuất theo
quy định của pháp luật. Chính quyền địa phương thường xuyên bố trí lịch đối
thoại trực tiếp với công dân, kịp thời tiếp nhận và giải đáp thỏa đáng các vụ việc
khiếu nại, tố cáo liên quan đến công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất tại các địa phương.
Giải pháp 4: Tăng cường kiểm tra, giám sát và tổng kết đánh giá thực
hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
Chỉ đạo các địa phương thực hiện tốt hơn nữa công tác Quản lý Nhà nước
về đất đai, thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, nhất là việc
bảo vệ hiện trạng sử dụng đất, ngăn chặn người dân trong khu vực thu hồi đất
thực hiện xây dựng các công trình trái phép nhằm trục lợi kinh phí bồi thường;
xây dựng chế tài đủ mạnh để thực hiện nghiêm việc cưỡng chế kiểm đếm, cưỡng
chế thu hồi đất và bảo vệ thi công đối với các trường hợp cố tình chống đối,
66
không chấp hành quyết định thu hồi đất của các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền.
Thực hiện chính sách thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư công khai,
minh bạch, đúng pháp luật, bảo đảm quyền lợi hợp pháp, hoạt động sản xuất và
đời sống của người có đất thu hồi. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đạt
chuẩn trình độ chuyên môn, năng lực quản lý, triển khai thực hiện chính đất đai
tại các địa phương; các ngành trong lĩnh vực địa chính, xây dựng thực hiện cải
cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai, thường xuyên kiểm tra, giám sát,
đánh giá hiệu quả chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư gắn với mô hình
một cửa, một cửa liên thông, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản
lý đất đai, triển khai thực hiện chính sách tại các địa phương. Thực hiện công
khai quyết định thu hồi đất, công bố công khai các dự án và quy hoạch chi tiết
phương án bồi thường, tái định cư, các trường hợp dự án sử dụng đất sai mục
đích, vi phạm pháp luật về đất đai, môi trường, sinh thái trên trang thông tin điện
tử và đài phát thanh truyền hình trên địa bàn huyện.
3.2. Giải pháp cụ thể thực hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi
Giải pháp 1: Nêu cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức thực
hiện công vụ
Quan tâm đầu tư các phương tiện kỹ thuật cần thiết, phục vụ công tác
chuyên môn nhanh chóng, kịp thời trong việc thực hiện các chính sách bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư. Kiện toàn, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức đảm bảo kiến thức pháp luật cơ bản và năng lực công tác phù hợp,
chuyên sâu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. Hàng năm, tổ
chức đánh giá phân loại công chức, viên chức về hiệu quả thực thi công vụ, kịp
thời động viên, khen thưởng, nêu gương phát huy vai trò triển khai thực hiện
chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Đồng thời thực hiện kế hoạch đào
67
tạo, bồi dưỡng công chức chuyên ngành, nâng cao tinh thần trách nhiệm, năng
động trong việc tham mưu áp dụng mức gia thực hiện bồi thường, tái định cư và
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai liên quan đến đời sống nhân
dân trên địa bàn huyện.
Thực tiễn các địa phương, trong quá trình lập quy hoạch đô thị, quy hoạch
sử dụng đất, phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chưa thực hiện công bố
rộng rãi, lấy ý kiến của nhân dân, qua đó trong quá trình triển khai các dự án ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống của nhân dân. Nếu các chính sách được triển khai
thực hiện đúng quy trình, có sự góp ý từ nhân dân, sẽ góp phần thực hiện chính
sách hiệu quả hơn trong thực tế ở các địa phương.
Chính quyền địa phương tiếp tục nâng cao chất lượng công tác Quản lý,
triển khai thực hiện chính sách bồi thường, thường xuyên, đảm bảo cân bằng giá
thị trường và áp giá của nhà nước phù hợp với nguyện vọng của dân; hạn chế
tình trạng các hộ dân không phối hợp với chính quyền, không tạo được sự đồng
thuận của người dân tại các địa phương trong quá trình triển khai thực hiện các
chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Phát huy năng lực, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của các thành viên trong
Hội đồng định giá, áp giá bồi thường tại các cấp chính quyền địa phương, bảo
đảm quyền lợi của mọi người dân bị thu hồi đất.
Trong những năm qua, cơ quan có thẩm quyền đã kịp thời sửa đổi và ban
hành các đạo luật quan trọng như Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự,
Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Hộ tịch, Luật Đất đai để
áp dụng vào thực tiễn, điều chỉnh các quan hệ xã hội, các vấn đề liên quan đến
chính sách đất đai đạt hiệu quả. Các cấp chính quyền trên địa bàn huyện cần tăng
cường tổ chức bồi dưỡng, tập huấn, phổ biến những chính sách, pháp luật mới
cho đội ngũ cán bộ và mọi tầng lớp nhân dân ở các thôn nóc vùng sâu, vùng xa;
tăng cường công tác hòa giải, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo về chính
sách đất đai, bồi thường, tái định cư tại địa phương.
68
Đồng thời, UBND các cấp cần xây dựng cơ chế, chính sách, tăng cường
phối hợp kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện việc tuyên truyền pháp luật đất
đai, chính sách thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Qua đó, kịp thời chấn
chỉnh các sai phạm, tăng cường kỷ cương hành chính, thực hiện hiệu quả chính
sách thu hồi, bồi thường và tái định cư trên địa bàn huyện.
Đổi mới phương pháp, tập trung biên soạn đề cường pháp luật ngắn gọn,
dễ hiểu để tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nâng cao ý thức,
trách nhiệm của cơ quan, ban ngành, các tầng lớp dân cư hiểu rõ quy định của
pháp luật, trình tự thực hiện chính sách thu hồi, bồi thường, tái định cư và thẩm
quyền giải quyết của các cấp chính quyền, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các cá
nhân, tổ chức thực hiện chính sách đất đai đạt chất lượng, đáp ứng được yêu cầu
đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
Tiếp tục hoàn thiện, xây dựng quy chế hoạt động và chức năng Ban bồi
thường, hỗ trợ. Xây dựng kế hoạch đào tạo chuyên sâu, bồi dưỡng, dự nguồn các
công chức đảm nhận công tác bồi thường, hỗ trợ, thu hồi đất trên địa bàn huyện.
Nêu cao tinh thần trách nhiệm, tích cực học tập, nghiên cứu, nâng cao trình độ
chuyên môn, đáp đứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Nâng cao tinh thần
trách nhiệm, tăng cường phối hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến công
dân; thực hiện phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ quan chuyên môn triển
khai thực hiện chính sách thu hồi, bồi thường và tái định cư ở các địa phương,
đảm bảo thực hiện đúng quy trình, tiến độ thực hiện các dự án và việc ổn định
đời sống của người dân bị thu hồi đất, thực hiện tái định cư hiệu quả tại các địa
phương.
Năng lực công tác, hiệu quả thực thi công vụ của các tổ chức, của đội ngũ
cán bộ, công chức ảnh hưởng rất lớn đến kết quả thực hiện công tác bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư, nếu không có sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành
sẽ làm chậm tiến độ công tác bồi thường, hỗ trợ của các dự án đang triển khai tại
địa phương.
69
Giải pháp 2: Nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân về thực
hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và sự phối hợp của người dân trong
công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Tiếp tục đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, tinh thần trách nhiệm của các cấp
ủy đảng, chính quyền và nhân dân nghiêm túc chấp hành pháp luật và chủ trương
quy hoạch thu hồi đất, kế hoạch bồi thường, hỗ trợ cho các hộ dân bị thu hồi đất
theo quy định pháp luật, góp phần triển khai thực hiện công tác bồi thường hiệu
quả; nâng cao năng lực Quản lý Nhà nước về thực hiện chính sách bồi thường,
hỗ trợ, thu hồi đất cho cấp xã, thị trấn trên địa bàn huyện.
Giải pháp 3: Xây dựng cơ chế về thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
UBND huyện chỉ đạo các cấp, các ngành thực hiện việc thu hồi đất, giao
đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư bảo đảm công khai, đúng trình tự, thủ tục; tổ
chức các lớp tập huấn, hướng dẫn, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ trong thực thi
pháp luật về đất đai, nhất là chính quyền cấp xã, phường. Đồng thời rà soát, góp
ý kiến kịp thời sửa đổi, bổ sung chính sách thu hồi đất, giao đất, bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư bảo đảm phù hợp với quy định của pháp luật và điều kiện thực tế
của địa phương. Chỉ đạo việc đầu tư xây dựng các khu tái định cư, tạo quỹ đất
dự trữ để chủ động bố trí tái định cư; xây dựng, phê duyệt phương án tái định cư
trước khi có quyết định thu hồi đất thực hiện dự án, nhằm tạo sự đồng thuận cao
khi thực hiện.
Nâng cao tinh thần trách nhiệm của lãnh đạo và cán bộ trong thu hồi đất,
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Tăng cường công tác tiếp công dân, đối thoại và
giải trình khi người dân chưa có ý kiến đồng tình. Đặc biệt, cần chỉ đạo cơ quan
thực hiện công tác GPMB chuẩn bị tốt phương án đền bù, phương án tái định cư
trên cơ sở tính toán đầy đủ lợi ích của Nhà nước, người bị thu hồi đất và nhà đầu
tư. Những người bị di dời phải được tham vấn rõ ràng được tham gia vào các
70
chương trình lập kế hoạch và thực hiện dự án. Bảo đảm cho những người bị thu
hồi đất có thể khôi phục hoặc cải thiện mức sống so với trước khi bị thu hồi đất.
Kết quả giám sát của HĐND huyện cũng cho thấy, việc xác định giá đất bồi
thường và giá đất cụ thể để bố trí giao đất tái định cư thuộc thẩm quyền của
UBND tỉnh, phụ thuộc vào Hội đồng thẩm định do UBND tỉnh thành lập, làm
chậm trễ việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và giao đất tái định cư cho
các hộ gia đình bị ảnh hưởng. Việc đầu tư xây dựng khu tái định cư của một số
dự án còn chậm; hạ tầng kỹ thuật chưa bảo đảm; quy hoạch phân lô bố trí tái cư
nhỏ, chưa phù hợp với tập quán sinh hoạt của người dân ở khu vực nông thôn...
do đó, một số hộ dân không chấp hành di chuyển về nơi ở mới.
Thường xuyên kiểm tra công tác thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của các cơ quan chức năng; kịp thời chấn
chỉnh những sai phạm, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật về bồi
thường, thu hồi đất. Giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ảnh
về công tác bồi thường, hỗ trợ theo đúng quy định của pháp luật.
Tổng hợp lấy ý kiến của nhân dân và các cơ quan chuyên môn trong việc
Quy hoạch các cụm công nghiệp, các dự án, công trình, qua đó có kế hoạch bồi
thường, đền bù, hỗ trợ hợp lý; Tăng cường thu hút đầu tư đối với những ngành
công nghiệp sạch, lựa chọn các nhà đầu tư ở các lĩnh vực ít có nguy cơ gây ô
nhiễm môi trường, thúc đầy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện.
Đôn đốc, kiểm tra, giám sát quá trình triển khai, thực hiện chính sách, Kế
hoạch bồi thường, hỗ trợ, thu hồi đất tại các xã, hạn chế các trường hợp khiếu nại
về công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất tại địa phương.
Trong từng phương hướng, UBND huyện phân công rõ đơn vị chủ trì, đơn
vị phối hợp và thời gian hoàn thành. UBND huyện giao UBND các xã căn cứ
vào Chỉ thị của Ban Thường vụ Huyện ủy, Kế hoạch của UBND huyện và tình
hình thực tiễn công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
để xây dựng kế hoạch với mục tiêu, nội dung và giải pháp cụ thể, thông qua Ban
71
Thường vụ huyện ủy và tổ chức thực hiện để nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn huyện; kịp thời báo cáo đề
xuất các giải pháp giải quyết những vướng mắc, khó khăn trong quá trình triển
khai thực hiện.
72
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở lý luận và thực trạng thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, Luận văn đã
đưa 3 giải pháp cụ thể thực hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
và 4 giải pháp giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách về bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi. Qua phân tích cho thấy, việc nghiên cứu các quy định pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất áp dụng trên thực tiễn là việc làm cần
thiết, nhằm góp phần tìm ra giải pháp khắc phục những tồn tại, thiếu sót và nâng
cao hiệu quả thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất của tỉnh nói chung và huyện Bình Sơn nói riêng.
Để thực hiện hiệu quả những giải pháp trên cần có sự phối hợp của các
cấp, các ngành, doanh nghiệp, chủ đầu tư và người dân trong quá trình triển khai
ở các địa phương. Đồng thời cấp có thẩm quyền cần xây dựng cơ chế phù hợp,
góp ý đề xuất hoàn thiện chính sách đất đai, chính sách về bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ, phát triển kinh tế xã hội và từng bước nâng cao đời sống nhân dân trên
địa bàn huyện Bình Sơn trong thời gian đến.
73
KẾT LUẬN
Trong những năm qua, thực tiễn đã chứng minh về đường lối, chủ trương
đúng đắn của Đảng, pháp luật đất đai của Nhà nước và thực hiện các chính sách
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đã được triển khai
rộng khắp, đạt hiệu quả ở các địa phương.
Thực trạng trên địa bàn huyện Bình Sơn đã được phân tích, đánh giá trong
Luận văn là những kết quả trung thực được thu thập, tổng hợp từ các cấp chính
quyền, các cơ quan chuyên môn trên địa bàn huyện Bình Sơn và các sở, ngành
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Bên cạnh những thành tựu đạt được, thì việc thực
hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên
địa bàn huyện, các cấp chính quyền trong quá trình tổ chức thực hiện, theo dõi,
giám sát các dự án và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người dân còn nhiều
hạn chế, tồn tại; các cơ quan, công chức chuyên môn chưa thể hiện hết vai trò,
trách nhiệm thực hiện công vụ đối với những chính sách liên quan trực tiếp đến
đời sống nhân dân và lợi ích kinh tế để phát triển doanh nghiệp, mở rộng đầu tư,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn
huyện.
Hy vọng với những tìm hiểu, nghiên cứu ở góc độ học hỏi, rút kinh nghiệm
và Luận văn mạnh dạn đề xuất các giải pháp để các cấp, các ngành, các chuyên
gia chuyên môn có một cách nhìn toàn diện, từng bước hoàn thiện pháp luật đất
đai và các chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, đáp ứng được nguyện
vọng của mọi cá nhân và tổ chức, góp phần phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn
huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi trong những năm đến.
74
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ tài nguyên và môi trường (2009), Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày
01/10/2009 của Bộ tài nguyên và môi trường quy định chi tiết về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư và trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho
thuê đất, Hà Nội;
2. Bộ tài nguyên và môi trường (2014), Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT ngày
30/6/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Quy định chi tiết về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Hà Nội;
3. Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của
Chính phủ về thi hành Luật đất đai năm 2003, Hà Nội;
4. Chính phủ (2004), Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của
Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất,
Hà Nội;
5. Chính phủ (2007), Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của
Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất
đai, Hà Nội;
6. Chính phủ (2009), Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009 quy định
bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư, Hà Nội;
7. Chính phủ (2014), Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính
phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai 2013, Hà Nội;
8. Chính phủ (2014), Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính
phủ Quy định về giá đất, Hà Nội;
9. Chính phủ (2014), Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính
phủ Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất,
Hà Nội;
10. Chính phủ (2014), Nghị định số 14/2014/NĐ-CP ngày 26/02/2014 của
Chính phủ Quy định chi tiết thi hành Luật Điện lực về an toàn điện, Hà
Nội;
11. Chính phủ (2020), Nghị định 06/2020/NĐ-CP ngày 03/01/2020 của Chính
phủ sửa đổi, bổ sung Điều 17 cùa Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất, Hà Nội;
12. Đào Chung Chính (2014), “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất đổi mới pháp
luật về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư”, Luận án Tiến sĩ, Đại
học Nông nghiệp Hà Nội;
13. Nguyễn Chí Cường (2016), “Đánh giá mức độ hài lòng của người dân và
các vấn đề bất cập trong giải tỏa, bồi thường và tái định cư trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Long”, Luận văn cao học Quản lý Đất đai, Đại học Cần Thơ;
14. Lê Duy Du (2013), “Quyền khiếu nại hành chính của công dân về đất đai
từ thực tiễn tại Thành phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện
Khoa học xã hội;
15. Nguyễn Anh Dũng (2016), “Thực hiện chính sách bồi thường, hổ trợ và tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn Khu kinh tế Dung Quất, tỉnh
Quảng Ngãi”, Luận văn Thạc sỹ Chính sách công, Học viện Khoa học xã
hội;
16. Hồ Việt Hạnh (2017), Bàn về khái niệm chính sách công, Tạp chí nhân lực
khoa học xã hội, Học Viện khoa học xã hội, số 12 – 2017;
17. Trần Thị Mỹ Hạnh (2015), “Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc
sỹ Chính sách công, Học viện Khoa học xã hội;
18. Lê Văn Hải (2016), “Giải quyết khiếu nại quyết định hành chính về bồi
thường, hổ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh
Bình Định”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội;
19. Phan Trung Hiền (2014), TS, Những điều cần biết về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Nhà xuất bản chính trị quốc gia;
20. Hoàng Quốc Hùng (2017), Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế, Luận văn thạc sỹ Luật hiến
pháp và Luật hành chính, Học viện hành chính quốc gia;
21. Trần Thị Hương (2018), Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Phú
Bình, tỉnh Thái Nguyên, Luận văn thạc sỹ Luật hiến pháp và Luật hành
chính, Học viện khoa học xã hội;
22. Hội đồng nhân dân (2016), Nghị quyết số 35/2016/NQ-HĐND ngày
14/12/2016 của HĐND tỉnh về việc thông qua điều chỉnh quy hoạch sử
dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016 – 2020)
tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi;
23. Hội đồng nhân dân (2018), Nghị quyết số 32/2018/NQ-HĐND ngày
26/12/2018 của Hội đồng nhân dân tỉnh về việc thông qua danh mục công
trình, dự án phải thu hồi đất và chuyển mục đích sử dụng đất lúa, đất rừng
phòng hộ sang đất phi nông nghiệp năm 2019 trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi, Quảng Ngãi;
24. Hội đồng nhân dân (2019), Nghị quyết số 28/2019/NQ-HĐND ngày
27/12/2019 của Hội đồng nhân dân tỉnh về việc thông qua danh mục công
trình, dự án phải thu hồi đất và chuyển mục đích sử dụng đất lúa, đất rừng
phòng hộ sang đất phi nông nghiệp năm 2020 trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi, Quảng Ngãi;
25. Nguyễn Thị Nga (2013), Pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất – thực trạng và hướng hoàn thiện, Đề tài nghiên cứu
khoa học;
26. Nguyễn Thị Minh Phượng (2018), TS, Chính sách bồi thường, hỗ trợ giải
phóng mặt bằng và tái định cư cho người dân bị thu hồi đất thực hiện các
dự án ở Nghệ An, Nhà xuất bản chính trị sự thật, tháng 12/2018;
27. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013;
28. Quốc hội (2013), Luật Đất đai năm 2013;
29. Trần Minh Sang (2017), Quản lý nhà nước về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư trên địa bàn huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang, Luận văn thạc sỹ quản
lý công, Học viện hành chính quốc gia;
30. Nguyễn Thị Tâm (2013), “Pháp luật về thu hồi đất trong việc giải quyết
mối quan hệ giữa nhà nước – nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi”, Luận
văn Thạc sĩ Luật học;
31. Văn Tất Thu (2016), Năng lực thực hiện chính sách công - những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Trang thông tin điện tử Tạp chí tổ chức nhà nước
https://tcnn.vn/, cập nhật ngày 31/01/2016;
32. Phạm Thu Thủy (2014), “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp ở Việt Nam”, Luận án tiến sỹ,Trường Đại học Luật Hà Nội;
33. Phạm Duy Tín (2015), “Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại địa bàn thành
phố Cần Thơ”, Luận văn cao học Quản lý công, Học viện Hành chính
Quốc gia;
34. Nguyễn Thị Cẩm Tú (2014), “Đánh giá khung chính sách bồi thường lên
đời sống người dân giữa dự án đầu tư vốn nước ngoài và ngân sách Nhà
nước tại thành phố Cần Thơ”, Luận văn cao học Quản lý đất đai, Đại học
Cần Thơ;
35. UBND tỉnh (2018), Quyết định số 05/2018/QĐ-UBND ngày 23/01/2018
của UBND tỉnh bổ sung, điều chỉnh bảng giá đất ở trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi áp dụng cho thời kỳ 05 năm (2015 – 2019) ban hành kèm theo Quyết
định số 67/2014/QĐ-UBND ngày 31/12/2014 của UBND tỉnh Quảng Ngãi;
Quảng Ngãi;
36. UBND tỉnh (2018), Quyết định số 69/QĐ-UBND ngày 24/01/2018 của
UBND tỉnh về việc phê duyệt Kế hoạch sử dụng đất năm 2019 của huyện
Bình Sơn, Quảng Ngãi;
37. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2018), Kế hoạch số 72/KH-UBND ngày
16/5/2018 của UBND tỉnh phát triển sản phẩm du lịch cộng đồng tại 04
huyện Bình Sơn, Lý Sơn, Nghĩa Hành, Ba Tơ tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn
2018 – 2020, Quảng Ngãi;
38. UBND tỉnh (2019), Quyết định số 525/QĐ-UBND ngày 28/6/2019 của
UBND tỉnh về việc phê duyệt Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm
2020 huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi;
39. UBND tỉnh (2019), Quyết định số 737/QĐ-UBND ngày 27/9/2019 của
UBND tỉnh ban hành quy chế thực hiện dân chủ trong công tác bồi thường,
hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi, Quảng Ngãi;
40. UBND huyện Bình Sơn (2019), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã hội
trên địa bàn huyện Bình Sơn giai đoạn 2015 – 2019, Bình Sơn;
41. UBND huyện (2019), Báo cáo kết quả thực hiện chính sách bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn
2015 – 2019, Bình Sơn;
42. UBND tỉnh (2020), Quyết định số 167/QĐ-UBND ngày 19/03/2020 của
UBND tỉnh về việc phê duyệt kế hoạch sử dụng đất năm 2020 của huyện
Bình Sơn, Quảng Ngãi;
43. Nguyễn Thị Cẩm Vân (2014) “Giải quyết khiếu nại quyết định hành chính
về bồi thường, hổ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn
thành phố Đà Nẵng” năm 2014, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện
Khoa học xã hội;
44. Nguyễn Đắc Vui (2016), Hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, Học viện
Hành chính Quốc gia;
45. Trần Cao Hải Yến (2014), Thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay,
Đại Học Luật Hà Nội.