
!
!
627
SỰ ĐA DẠNG GIỚI TÍNH TRONG BAN ĐIỀU HÀNH
VÀ VẤN ĐỀ CHI PHÍ ĐẠI DIỆN
ThS. Lê Thị Hồng Minh
Khoa Tài chính, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
ThS. Nguyễn Thị Mộng Thúy
Ngân hàng Công thương Việt Nam
Tóm tắt
Nghiên cứu này xem xét mối liên hệ giữa đa dạng giới tính trong ban điều hành và
chi phí đại diện của 80 công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh
(HOSE) trong giai đoạn từ 2006-2013. Chi phí đại diện được đo lường dựa vào dòng tiền
tự do và tỷ lệ chi trả cổ tức. Đa dạng giới tính trong ban điều hành (BĐH) được đo lường
bằng sự hiện diện của thành viên nữ trong BĐH. Kết quả chỉ ra rằng các công ty có sự
hiện diện của thành viên nữ trong BĐH thì sẽ làm giảm chi phí đại diện nhưng mối quan
hệ này không có ý nghĩa khi xem xét vấn đề nội sinh của biến đa dạng giới tính. Nghiên
cứu phát hiện vấn đề quản trị bên ngoài ảnh hưởng đến mối quan hệ trên. Mặc dù sự hiện
diện của thành viên nữ trong BĐH không phải lúc nào cũng làm giảm chi phí đại diện cho
tất cả các công ty, nhưng nghiên cứu đã tìm thấy sự hiện diện này có ý nghĩa nghịch biến
với chi phí đại diện của các công ty thuộc nhóm thị trường cạnh tranh thấp. Những kết
quả cho thấy sự xuất hiện thành viên nữ trong BĐH có thể tác động có lợi cho các công ty
thiếu sự quản trị bên ngoài mạnh mẽ.
Từ khóa: đa dạng giới tính, ban điều hành, chi phí đại diện.
Abstract
This paper examines the relationship between gender diversity in the executive
board and agency cost of 80 companies listed on the Ho Chi Minh Stock Exchange
(HOSE) in the period from 2006 to 2013. Cost agency is measured by free cash flow and
dividend payout ratio. Gender Diversity in the executive board is measured by the
presence of female members in the executive board. Regression results indicate that
companies have the presence of women in the top management will reduce the agency cost
but this relationship is insignificant when considering the endogeneity of gender diversity
variable. The study found external governance issues affecting this relationship. Despite
the presence of female members do not always decrease agency cost for all companies, but
we found this variable had negative correlation with agency cost in the low market
competition. These results suggest that the presence of women in the executive board may
have beneficial effects for companies lacking strong external governance.
Key words: gender diversity, executive board, agency costs.
1. Giới thiệu
Trong những năm qua, ngày càng nhiều phụ nữ đã thành công trong việc đảm
đương các vị trí cấp cao trong các tập đoàn lớn. Vì thế, sự đa dạng giới tính trong ban
điều hành công ty đang là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm gần đây. Khảo sát của
Deloitte (2013) về khuynh hướng đa dạng giới tính của 25 nước trên thế giới cho thấy

!
628
một số nước đã có các điều luật quy định tỷ lệ của phụ nữ trong ban điều hành công ty.
Cụ thể, Na Uy quy định tỷ lệ này tối thiểu 40% và các công ty sẽ bị phạt với mức cao
nhất là buộc phải ngừng hoạt động nếu không tuân thủ quy định này. Đây là nước đầu
tiên quy định trong văn bản pháp luật (2005) về tỷ lệ giới tính trong ban điều hành
công ty. Tương tự tỷ lệ này ở Tây Ban Nha là 40% từ năm 2015; Hà Lan 30% từ năm
2016; Pháp 20% từ năm 2014 và 40% từ năm 2017; Canada 20% từ năm 2015 và 40%
từ năm 2018; Bỉ quy định tối thiểu 1/3 thành viên nữ trong ban điều hành công ty từ
năm 2011; Malaysia 30% từ năm 2011 và Ấn Độ quy định ít nhất một phụ nữ trong
ban điều hành công ty từ năm 2012. Brazil cũng đang thiết lập tỷ lệ quy định là 40% từ
năm 2022.
Sự gia tăng của phụ nữ trong ban điều hành công ty đã cho thấy những tiến bộ
trong quyền của phụ nữ và sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động kinh tế. Những
nghiên cứu gần đây chú trọng vào tác động của đa dạng giới tính trong hội đồng quản
trị hay cấu trúc vốn có ảnh hưởng đến chi phí đại diện của công ty. Các kết quả cho
thấy tính không đồng điệu giữa những biến số này. Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu,
các công ty cạnh tranh bình đẳng thì việc kiểm soát được chi phí giảm giá thành sản
phẩm đang là vấn đề cấp thiết.
Các đề tài nghiên cứu về vấn đề giải thích ảnh hưởng của phụ nữ trong điều hành
có mang lại hiệu quả tốt hơn nam giới không đang được chú ý rất nhiều. Bài viết này
cung cấp những phân tích sâu hơn về yếu tố nội sinh của đa dạng giới tính và ảnh
hưởng của đa dạng giới tính đến chi phí đại diện ở 2 nhóm thị trường cạnh tranh mạnh
yếu khác nhau tại Việt Nam, nhằm giải quyết các câu hỏi nghiên cứu sau: (1) Đa dạng
giới tính trong ban điều hành có ảnh hưởng như thế nào đến chi phí đại diện? (2) Ảnh
hưởng của đa dạng giới tính đến chi phí đại diện có khác nhau giữa thị trường cạnh
tranh mạnh và yếu hay không?
2. Tổng quan các nghiên cứu trước đây
2.1. Tác động của đa dạng giới tính đến chi phí đại diện
2.1.1. Sự đa dạng giới tính trong BĐH
Giới tính của ban điều hành đang là vấn đề được tranh luận khá nhiều. Các nhà
nghiên cứu ủng hộ sự hiện diện của thành viên nữ trong ban điều hành vì phụ nữ có
hiểu biết và nắm bắt rất tốt về xu hướng thị trường tiêu dùng và tâm lí khách hàng để
đưa ra chiến lược không những cải thiện hoạt động tài chính mà còn giúp ích cho hoạt
động xã hội và cộng đồng (Stephenson, 2004; Bernardi và Threadgill, 2010). Một số
nghiên cứu phát hiện thành viên nữ mang đến nhiều cải tiến và ra quyết định có chất
lượng cao hơn. Sự thay đổi quan điểm của xã hội về nữ giới cũng như những quy định

!
!
629
pháp luật về bình đẳng giới đã có tác động tích cực trong việc tăng số phụ nữ trong các
ban điều hành công ty (Adam & Ferreira, 2009; Kang & cộng sự, 2007). Một số học
giả như Adam & Ferreira (2009) chỉ ra tỷ lệ thấp của phụ nữ trong ban điều hành ở các
công ty thể hiện sự hiện diện của phụ nữ như là để hợp thức hóa việc đa dạng giới tính
chứ không có ảnh hưởng trong ban điều hành công ty. Hạn chế này, do đó làm ảnh
hưởng của thành viên nữ trong ban điều hành đối với việc nâng cao hiệu quả công ty.
Lý thuyết phụ thuộc nguồn nhân lực quan niệm công ty là một hệ thống mở và
nó phụ thuộc vào nguồn lực bên ngoài (Pfeffer và Salancik, 1978). Lý thuyết này nhấn
mạnh ban điều hành công ty đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý nguồn lực bên
ngoài, giảm sự không chắc chắn và rủi ro liên quan đến môi trường kinh doanh. Theo
lập luận này, sự hiện diện của phụ nữ trong ban điều hành được mong đợi vì họ đem
lại nguồn lực dồi dào cho công ty chẳng hạn như uy tín, tính tuân thủ pháp luật, kỹ
năng, kiến thức, sự kết nối với những nguồn lực phụ thuộc từ bên ngoài tốt hơn so với
nam giới. Điều này mang lại lợi ích cho công ty trong việc giảm rủi ro liên quan đến
môi trường kinh doanh.
2.1.2. Tác động của đa dạng giới tính đến chi phí đại diện
Lee và James (2003) nghiên cứu ảnh hưởng của giới tính và những phản ứng giá
cổ phiếu đến những thông báo về bổ nhiệm ban quản trị cấp cao. Tác giả sử dụng tín
hiệu thị trường những nghiên cứu giới tính để đánh giá những nhận thức của nhà đầu
tư về lãnh đạo nữ. Kết quả cho thấy những phản ứng của cổ đông về những thông báo
của những CEO nữ thì tiêu cực hơn là các CEO nam và phụ nữ được thăng tiến trong
một công ty thì được đánh giá tích cực hơn phụ nữ không thăng tiến. Theo thời gian
khi một sự gia tăng số thành viên nữ được bổ nhiệm CEO thì các CEO nữ không còn
nhận được phản ứng tiêu cực. Nghiên cứu này không những đóng góp lý thuyết về đa
dạng giới tính mà còn có lý thuyết nhóm quản lý cấp cao. Trong nghiên cứu về tính đa
dạng, mặc dù có nhiều nghiên cứu kiểm định về vấn đề giới tính và sự lãnh đạo, chủ
yếu các nghiên cứu này tiến hành theo cách bằng việc sử dụng phương pháp luận khảo
sát hoặc thực nghiệm. Nghiên cứu này thì ngược lại, kiểm định phản ứng thị trường
chứng khoán theo sau thông báo bổ nhiệm giám đốc điều hành nữ. Vì vậy họ không
cần phải suy đoán về nhận thức và hành vi của nhà đầu tư đối với nữ giám đốc điều
hành. Ngoài ra nghiên cứu về đa dạng trong các tổ chức tập trung chủ yếu vào ảnh
hưởng cá nhân và nhóm.
Wolfers (2006) nghiên cứu mối quan hệ giữa suất sinh lợi cổ phiếu và giới tính
CEO. Các tài liệu đã tìm thấy bằng chứng về tình trạng một người không được thăng
tiến thông qua đó phụ nữ trong ban quản lý cấp cao được miêu tả không đúng cách.

!
630
Thị trường tài chính cung cấp các phương pháp đo lường nhận thức của thị trường về
giá trị của công ty, ghi nhận những kỳ vọng của những người tham gia thị trường về
năng lực của nam và nữ trong quản lý cấp cao. Theo đó dữ liệu tài chính giữ vai trò
cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự hiện diện của phân biệt đối xử sai lầm. Đặc biệt, nếu
những công ty có nữ đứng đầu thì bị đánh giá thấp, điều này cho thấy những công ty
này có thể làm tốt hơn mong đợi. Việc nghiên cứu dữ liệu S&P 1500 công ty suốt thời
kỳ 1992-2004 tác giả thấy rằng không có sự thay đổi hệ thống trong suất sinh lợi của
cổ phiếu nắm giữ trong những công ty nữ đứng đầu, mặc dù kết quả này phản ánh khả
năng thống kê yếu kém hơn là một hàm ý mạnh về thị trường tài chính đánh giá thấp
hoặc không đánh giá thấp các CEO nữ. Theo phương pháp hồi quy Fama Macbeth, tác
giả tìm ra sự thay dổi trong tỷ suất sinh lợi giữa những công ty có nam lãnh đạo và nữ
lãnh đạo là không có ý nghĩa thống kê.
Jurkus và cộng sự (2011) nghiên cứu trên 668 công ty và 3.132 số quan sát từ
năm 1995-2005. Nghiên cứu kiểm định mối quan hệ giữa đa dạng giới tính và chi phí
đại diện. Đa dạng giới tính được đo lường là tỷ lệ của thành viên nữ trong BĐH với
tổng thành viên trong BĐH. Chi phí đại diện được đo lường theo hai cách: dòng tiền tự
do với tăng trưởng xấu và tỷ lệ chi trả cổ tức. Tuy nhiên, tác giả đã thành công trong
việc giải quyết vấn đề nội của đa dạng giới tính. Ảnh hưởng của đa dạng giới tính là
ngược chiều với chi phí đại diện. Nhưng khi tác giả xem xét vấn đề nội sinh thì ảnh
hưởng này lại không còn mạnh nữa. Hơn nữa, mối quan hệ này lại bị ảnh hưởng khi có
sự quản trị bên ngoài. Mặc dù, đa dạng giới tính tăng sẽ làm giảm chi phí đại diện
nhưng kết quả này chỉ giải thích đúng cho những thị trường cạnh tranh yếu.
2.2. Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa đa dạng giới tính và chi phí đại diện
theo đặc điểm tính cạnh tranh của thị trường sản phẩm
Ảnh hưởng của đa dạng giới tính đến chi phí đại diện có thể thay đổi theo mức
độ quản trị cụ thể. Những công ty có quản trị bên trong hoặc bên ngoài khỏe mạnh thì
đa dạng giới tính không có ảnh hưởng. Nhưng nếu những công ty có quản trị yếu kém
thì vấn đề giới tính trong ban điều hành lại có ảnh hưởng đáng kể. Do đó nghiên cứu
này muốn xem xét đến ảnh hưởng của đa dạng giới tính đến chi phí đại diện thay đổi
như thế nào nếu những công ty có cơ chế quản trị khác nhau.
Thị trường cạnh tranh làm cho giá cả hướng đến chi phí trung bình tối thiểu, do
đó sẽ tạo động lực cho các nhà quản lý tăng hiệu quả công ty. Theo đó, cạnh tranh
được xét đến như là một cơ chế quản trị bên ngoài và giải thích cho vấn đề đại diện.
Theo mô hình lý thuyết của Hart (1983), cho rằng vai trò của cạnh tranh trên thị trường
sẽ làm giảm sự quản lý yếu kém. Nếu các yếu tố bên ngoài công ty có tương quan với
nhau thì cạnh tranh sẽ làm giảm sự yếu kém đó.

!
!
631
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã kiểm định mối quan hệ giữa cạnh tranh thị
trường và chi phí đại diện. Họ đều ủng hộ ý kiến cho rằng cạnh tranh giúp cho các nhà
quản lý và cổ đông gắn kết hiệu quả và phù hợp hơn. Nickell (1996) cho rằng việc
cạnh tranh sẽ cải thiện hiệu quả hoạt động công ty. Theo báo cáo kết quả nghiên cứu
trên 670 công ty ở Anh ủng hộ cho quan điểm này khi nhận diện được cạnh tranh làm
tăng tỷ lệ tăng trưởng.
Grullon và Michaely (2007) nghiên cứu trên mẫu lớn những công ty sản xuất.
Tác giả tìm thấy mối quan hệ giữa tỷ lệ chi trả cổ tức của những ngành cạnh tranh thấp
thì thấp hơn những công ty trong thị trường cạnh tranh cao hơn. Mối quan hệ nghịch
biến giữa mức độ tập trung ngành và chi phí hoạt động trong những công ty này. Cạnh
tranh có thể làm áp lực vào các nhà quản lý phân phối tiền mặt đến các cổ đông bằng
cách tăng rủi ro và chi phí đầu tư quá mức, điều này được lập luận không đúng. Tác
giả đồng ý quan điểm chi tiêu hoạt động là kết quả của những nỗ lực của thị trường
cạnh tranh, kết quả của các yếu tố bên ngoài. Kết quả là phù hợp với lý thuyết chi phí
đại diện, ảnh hưởng của cạnh tranh thị trường đến chi phí mạnh hơn những công ty có
chi phí đại diện của dòng tiền mặt cao.
Jurkus A. F. và cộng sự (2011) cho rằng những công ty hoạt động trong thị
trường cạnh tranh mạnh thì tác động giữa đa dạng giới tính và chi phí đại diện không
có ý nghĩa thống kê, ảnh hưởng này không đáng kể. Tuy nhiên ở nhóm thị trường cạnh
tranh yếu thì đa dạng giới tính được xem là có ảnh hưởng đến chi phí đại diện. Tuy
nhiên mối quan hệ ngược chiều này xuất hiện khi chi phí đại diện được đo lường bằng
dòng tiền tự do với cơ hội tăng trưởng xấu và cùng chiều khi chi phí đại diện được đo
lường bằng tỷ lệ chi trả cổ tức.
3. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở dữ liệu
Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ năm 2006 đến năm 2013 của 80 công ty
phi tài chính niêm yết thuộc 18 ngành khác nhau (Bảng 1) trên sàn chứng khoán HOSE
tạo thành dữ liệu dạng bảng (panel data) bao gồm 640 quan sát. Số liệu tài chính và số
nhân viên nữ cũng như tổng nhân viên trong BĐH được thu thập từ BCTC, báo cáo
thường niên từng năm của từng công ty và thông tin công bố trên các website của công
ty và trang http://cafef.vn; http://www.cophieu68.vn. Biến động của dân số nữ năm
1995 so với năm 2006 liên quan đến địa bàn hoạt động của công ty được trích từ
website của Tổng cục Thống kê.