
Đá trắng
TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN THANH
Những ngày cuối đông, cái im vắng, buồn tẻ thường diễn ra ở Bãi Nam Hòn Khoai. Thật
thế, nhưng theo ông già gác đèn biển, ông Hai Hòn, nguyên nhân gây ra cảnh tượng đó
đều do những tảng đá chông chênh ngồi gần mé nước: Những tảng đá mốc trắng, kể cả
những tảng đá ngồi lẻ loi trên vách núi đều tư lự, khi ngóng dòm ra biển cả, khi lơ mơ
nhìn lên trạm đèn ngất nghểu, xam xám. Thảm hại hơn, chính tấm thân của nó lem luốc
những vết bẩn và những chữ “nhớ”, “cô đơn”, “BB!”, “em yêu”, “buồn”...
Thế nên những ngày này, ông Hai Hòn uể oải ít chịu lui tới Bãi Nam mặc dù so với Bãi
Chướng, nhà ông ở gần Bãi Nam gấp mười lần. Lại nữa, ông già không muốn nhìn cảnh
tượng mặt trời sắp lặn xuống biển.
Nói thế, không phải tuyệt nhiên ròng rã hàng tháng trời ông Hai Hòn chỉ một việc mải
miết leo ngược lên trạm đèn. Còn mấy ngày đi săn kỳ đà, mấy ngày đánh cá, mấy ngày
trồng rau tỉa hạt và thỉnh thoảng theo sau con chó đốm Mi Mi xuống Bãi Nam nhận một
ít quà, một ít muối, khô cá dứa, cá khoai, vài chục xâu tôm lụi phơi khô của người quen
từ Rạch Gốc, Kinh Năm, Cái Xép... gửi ra. Có cả vài chai rượu nếp uống gần cháy cổ của
ông Hai Lộng ở Rạch Tàu.
Nhưng đùng một cái, ông già đổi ý và đảo lộn mọi sinh hoạt hằng ngày. Ông lên lên,
xuống xuống Bãi Nam như ăn cơm bữa.
Do Bời chăng? Chính anh Trung đội trưởng Thông tin ấy đã xui khiến ông già trở nên
khác thường. Ngay từ hôm anh em Bời trên đỉnh dọn xuống Bãi Nam ở, chưa vào những
gian nhà gạch thấp lè tè giáp với mé nước đã thấy ông già gác đèn có mặt tại đây. Ông tự
xếp cho mình một việc giúp bộ đội: Cầm mấy nhánh cây tuốt hết lá quơ quét trên nền xi-
măng nham nhở...

Chuyện thật đơn giản, ấy thế mà ông già có vẻ nghiêm nghiêm, trịnh trọng. Ông quơ quét
chậm rãi, thật nhẹ nhàng đến đỗi không nghe thấy tiếng chổi kéo sột soạt trên nền xi-
măng.
Mời các chú vào! Xin mời!
Ông già nhanh nhẩu lên tiếng rồi không từ giã ai, ra về. Bời cầm giữ ông nán lại cách
mấy cũng không được.
Rồi tiếp sau, ông già lui tới với anh em Bời thường xuyên như lui tới trạm đèn vậy. Hoàn
toàn ông già đến đây không phải chỉ vì việc nhận quà, loại trừ khả năng dòm ngó thăm
nom chiếc ghe mới đóng còn dở dang nằm xểnh trên bãi cát...
Lần nào cũng thế, chưa tới nhà, ông già đã lên tiếng trên triền dốc:
Bời đâu? Có đứa nào rảnh đi lên nói với Bé Bảy cắt cho ít đọt rau thơm. Ăn uống gì
kham khổ vậy? Nghe rõ chưa? Trả lời...
Bời đâu? Ban đêm mắc trực máy thì thôi, bằng không, ngó giùm lên ngọn đăng coi có
cháy đều không? Hai mươi giây, bốn chớp. Nhận rõ? Trả lời ...
Tiếng ông Hai Hòn oang oang, khản đặc từ trên triền dốc và suốt dọc đường vào tới nhà.
Hởi vắng mặt. Bời và vài anh em ở nhà ra đón khách. Anh bỏ dở hết chuyện vặt vãnh như
nhen lửa, lặt rau sau bếp để kè kè bên khách, hơi khép nép, khác hẳn anh Đại đội trưởng
Hởi vừa nói chuyện tự nhiên vừa nhấp nháp với ông già cốc rượu trắng. Chẳng vậy, Bời
còn “dạ rõ, dạ rõ” lia lịa nghe phát mệt.
Thật cũng khó cho Bời xử lý: Ông khách có chịu ngồi yên một chỗ đâu. Đằng này, hai
tay ông khách chắp sau đít, lui lui, tới tới tự nhiên như nhà mình vậy, khiến Bời kè kè
phía sau như một cái đuôi. Họa hoằn ông già mới đứng yên được vài phút đối diện với
Bời. Những lúc đó Bời càng khép nép. Chốc chốc, Bời nhìn một thoáng vào gương mặt
xương xương, người mảnh dẻ, khỏe khoắn và râu mép không một sợi bạc rung nhè nhẹ
của ông già.
Bời thích, nhìn hoài.

Lại nữa, ông già có tính rộng rãi, quý khách, và khi ông nói giọng giống hệt một chiến sĩ
Thông tin trực máy.
Thật vậy, Ông già quấn quýt ngay với đơn vị 962 chiếm lĩnh Hòn Khoai vào sáng ngày 2,
tháng 5, năm 1975. Và ông già cùng ăn ngủ chung với tốp Thông tin của đơn vị.
Trước đó vài ngày, ông cùng sáu nhân viên cũ, có cả binh lính, trong đó có anh tài xế xe
GMC cự tuyệt không chạy theo bọn cướp biển bỏ hòn chạy trốn ra nước ngoài. Đủ bảy
người ra tiếp nhận cái thư kêu gọi đối phương đầu hàng của quân Giải phóng do ông Sáu
Bộ từ đất liền mang ra.
Nhưng chẳng bao lâu, tốp chiến sĩ thuộc đơn vị 962 được điều đi nơi khác. Thay vào chỗ
trống ấy là đơn vị Bời.
Ông già gác đèn mủi lòng lúc tiễn đưa và ngồi khóc đỏ chạch hai mắt trên trạm đèn biển.
Lại nữa, ông già buồn buồn ngồi nhìn dãy cây nằm nước ở chót mũi Cà Mau hình dèn
dẹt, mũi nhọn giống một đoàn tàu nối đuôi nhau ra khơi đánh cá. Ông mải miết nhìn vũng
nước màu sữa loang loáng phía bên kia, chỗ hai vàm sông Bảy Háp và Cửa Lớn nhập lại.
Vô số cánh nhạn xam xám, chấp chới chỗ ấy, khắp trên biển và quay cuồng trên nóc tháp
đèn nơi ông đứng...
Mấy tháng ăn ở chung với tốp chiến sĩ toàn người miền Trung, miền Bắc, ông già coi
chẳng khác nào đơn vị 962. Ông quen hết ráo, nhớ tên từng đứa một. Và đứa ông quen
sớm nhất chính là Bời đang tiếp chuyện với ông.
- Mời Bác ngồi – Bời vồn vã nhưng không được tự nhiên.
Lần này ông già dợm ngồi xuống. Chưa ngồi hẳn bỗng ông sững người nhìn ra bãi cỏ
xanh um trước mặt: Con Mi Mi gặm cái gáo dừa chạy xẹt ngang cửa và sủa lên ăng ẳng
mấy tiếng. Con chó đốm bị vướng vít những cọng dây tơ vàng nhạt ngang cổ; dây lá khô,
rau muống biển quấn quanh hai đùi sau, và bộ lông lốm đốm trắng của nó giờ đây xù cả
lên như vừa mới phá phách hoặc vật nhau với kỳ đà trên rừng.
Ông già bước ra khỏi cửa đã trông thấy bóng đứa con gái của ông: Cô Bé Bảy đang đi
xuống triền dốc chỗ đặt mấy cái máy đèn phế thải “Mày đi việc gì? Mi Mi đi việc gì? Cả

hai đi hết, chuột tha ma bắt hết con gà, con heo trong chuồng cũng không ai biết nữa. Con
gái!...” Ông già nói thầm trong bụng, không từ giã ai, cắm cúi lội lên nhà.
- Mầy xuống đây làm gì? Đi thường hơn tao nữa nghe. Tao biết!... - Ông già dừng lại hất
hàm về phía con gái – Mầy đi việc gì? Nói...
Bé Bảy đứng sững, khép nép:
Con Mi Mi nó sủa hoài, giống như có kỳ đà bò đâu đây, nó lôi con đi...
Nó lôi à? Nó lôi hay mầy lôi? – Ông già đĩnh đạc hỏi – Thằng trong đất liền, thằng ngoài
hòn, chọn đứa nào? Nhận rõ chưa? Trả lời...
Im lặng.
Bé Bảy day mặt vào vách núi, nhìn thấy bóng mình ngả dài tới mí con đường lên nhà tối
om om.
- Chỗ tình nghĩa anh em thôi, con mới xuống. Ba nói con tức quá – Bé Bảy nói, mặt buồn
buồn và đôi mắt hơi đăm chiêu nhìn thẳng vào mặt cha.
Ông già lầm bầm:
- Mầy thấy cái cây bị gió lớn xô ngã xuống còn đó. Mấy trăm gia đình liệt sĩ nhưng chỉ
mình anh Hai Lộng mới được ra hòn cưa cây. Thằng Chín cũng sắp ra nữa đó. Nó coi
cũng được. Tùy mầy – Ông già dừng lại nhìn chung quanh một thoáng – Mà đứa ngoài
hòn tao cũng thương! Nhận rõ? Trả lời...
Nói xong, ông già bước gấp gảy lên triền dốc. Bảy dần dà một chỗ mãi lâu, nửa muốn
xuống Bãi Nam, nửa muốn quay lên nhà. Cô gái đưa một tay phủi bụi, sửa sửa vạt áo sơ-
mi ngắn tay. Cô mặc nguyên bộ đồ vải lin-phăng đen. Tay kia xoay tròn mấy lọn rau rắp
cá, rau cần. Tóc cô thơm thoang thoảng mùi trái bồ kết nấu chín. Cô vừa gội tóc bằng trái
bồ kết, chưa kẹp, nên những lọn tóc đen mượt buông xuống lõa xõa.
Bé Bảy nghiêng người xuống và để rớt hai lọn rau trên thảm rau muống biển. Cô rẽ trái,
bước thẳng về hướng chiếc ghe của cô. Cô và con Mi Mi còn ra tận mỏm đá cheo leo đầu
bãi cát màu nâu lấp lánh.

Trước khung cửa sổ của gian nhà gạch, bóng Bời thấp thoáng. Và sau bếp, nồi cơm già
lửa sôi ùng ục, nắp xoong trễ một nửa ra ngoài...
Buổi chiều, gió thường rú rít bên Bãi Chướng. Bóng núi sập xuống làm tối đen một vùng
nước ngầu bọt trắng xóa, lan ra gần giáp với Hòn Sao kề bên. Tiếng sóng vỗ vào thành đá
ầm ì như tiếng đại bác, tiếng một đoàn tàu nổ máy. Còn Bãi Nam im vắng lạ. Sóng lừng
lên nhấp nhứ phía ngoài những tảng đá án ngữ. Nước tụt sâu xuống phơi ra những viên
đá cuội bám rong rêu như bầy cá đen. Mặt trời sắp lặn xuống biển, dần dà, cháy rực lên
trên vách núi. Vô số đọt non của một loài cây không tên tua tủa như những ánh lửa nhảy
nhót từ những hốc đá, trên thảm cỏ dại màu xanh rêu, từ những lối mòn ngoằn ngoèo màu
vàng sậm. Trạm đèn trên nóc tháp xam xám tựa hình người đứng gác với chiếc nón lá đội
đầu, không dở nón xuống, cũng không chịu đổi gác lần nào. Và kia, những tảng đá chông
chênh ngồi tư lự. Chưa ai kỳ cọ rửa sạch trên lưng nó những dòng chữ chứa đựng một
điều tâm sự, một nỗi nhớ nhà, nhớ người yêu, một sự tha hóa, đơn độc và những điều
nhảm nhí, tục tằn...
Đối với Bé Bảy, những tảng đá ấy biết nói. Là vì nó luôn gợi nhớ một dĩ vãng đau xót,
không chỉ riêng cô mà còn với gia đình cô nữa.
Cách đây mười năm, Bảy còn là một cô gái mười bảy tuổi. Từ thành phố Mỹ Tho, Bảy bỏ
dở việc học hành tìm đến Hòn Khoai ở luôn với cha. Lý do duy nhất, Bảy trốn thoát một
người chồng sắp cưới do người dì xếp đặt thuộc loại giàu có, lớn hơn cô gấp đôi tuổi tác.
Lúc Bảy tới hòn, tay chỉ xách mấy bộ quần áo, cây đàn ghi-ta được buộc dính vào một
thanh sắt nhỏ gập đôi trên cần đàn để vặn trục đàn bị hỏng. Đàn ve kêu rả rích bay theo
cô ra tới hòn. Tiếng ve kêu suốt đêm, rộn lên trong khu rừng đậm đặc. Cô say say trong
tiếng ve âm u và tiếng sóng vỗ ầm ào vào vách đá những ngày đầu tới hòn. Không một
người quen ngoài cha cô, ngoài con Mi Mi lúc ấy vẫn còn nhỏ xíu, thường vểnh tai nghe
ngóng, sủa ăng ẳng trong bụi rậm. Con chó đốm trắng Mi Mi của một người quen từ
trong đất liền gửi ra cho, thay cho con chó già lụ khụ, giỏi giang trước của cha cô đã chết.

