BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
MAI THỊ CHÂU PHA
ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ TẾ HANH
THỜI KỲ CHỐNG MỸ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC
MÃ SỐ: 5.04.01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PSG.TS PHÙNG QUÝ NHÂM
TP. HỒ CHÍ MINH - 2003
2
LỜI CẢM ƠN
Nhân dịp luận văn hoàn thành tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với
phòng Sau Đại Học, Quí Thầy Cô cùng các đồng nghiệp đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian qua. Đặc biệt tôi xin ghi nhớ công ơn của thầy PGS. TS Phùng Quý Nhâm, người
đã trực tiếp hướng dẫn và hết lòng chỉ dạy, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu. Tôi
xin ghi nhận những đóng góp quí báu cho luận văn và sẽ cố gắng tiếp tục phấn đấu hơn nữa
để vấn đề nghiên cứu có thể được mở rộng và hoàn thiện một cách toàn diện.
TP Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 9 năm 2003.
Người thực hiện luận văn
Mai Thị Châu Pha
3
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 3
MỤC LỤC .................................................................................................................... 4
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài: ........................................................................................................... 6
2. Phạm vi của đề tài và phương hướng nghiên cứu: ...................................................... 7
3. Phương pháp nghiên cứu: .............................................................................................. 8
4. Lịch sử vấn đề : ............................................................................................................... 9
5. Cấu trúc luận văn: ........................................................................................................ 17
CHƯƠNG 1: ĐẶC ĐIỂM NGÔN TỪ VÀ THỂ THƠ TRONG THƠ TẾ HANH. ..................................................................................................................................... 18
1.1. Đặc điểm ngôn từ: ...................................................................................................... 18
1.1.1. Ngôn từ giản dị, mộc mạc, trong sáng gần với lời nói thông thường: .................. 18
1.1.2. Ngôn từ giàu sức biểu hiện, mang chất khỏe khoắn và giàu có của ngôn ngữ đời sống: ................................................................................................................................ 27
1.1.3. Ngôn từ đẹp, gợi cảm nhưng đôi khi lại nông nhẹ: .............................................. 35
1.1.4. Vần: ....................................................................................................................... 40
1.2. Hình ảnh: .................................................................................................................... 47
1.2.1. Hình ảnh thực, khỏe khoắn, dung dị, nồng đượm hơi thở của cuộc sống. ........... 47
1.2.2. Hình ảnh so sánh, tượng trưng: ............................................................................. 54
1.2.3. Hình ảnh đẹp, giàu sáng tạo: ................................................................................. 63
1.3. Nhịp điệu: ................................................................................................................... 69
1.3.1. Nhịp điệu đều đều, chậm rãi: ................................................................................ 71
1.3.2. Nhịp điệu biến đổi bộc lộ nỗi trăn trở, day dứt:.................................................... 74
1.4. Thể thơ:....................................................................................................................... 77
1.4.1. Thể thơ bốn chữ, năm chữ có những đổi mới: ...................................................... 78
1.4.2. Thể thơ 7 chữ, 8 chữ có những cách tân thể hiện sự nhuần nhuyễn: .................... 80
1.4.3. Thơ lục bát với những cách tân hiện đại: .............................................................. 84
1.4.4. Thơ tự do có những tìm tòi bước đầu: .................................................................. 89
CHƯƠNG 2: KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TẾ HANH. ........................................................................................ 91
2.1. Không gian nghệ thuật: ............................................................................................. 91
2.1.1. Không gian địa lý: ................................................................................................. 91
4
2.1.2. Không gian nỗi niềm: ......................................................................................... 105
2.1.3. Hình tượng không gian: ...................................................................................... 115
2.2. Thời gian nghệ thuật: .............................................................................................. 118
2.2.1. Thời gian hiện thực: ............................................................................................ 119
2.2.2. Thời gian hồi tưởng, thời gian hoài niệm: .......................................................... 129
2.2.3. Cảm thức về thời gian trong thơ Tế Hanh: ......................................................... 132
2.2.4. Phương thức tổ chức thời gian: ........................................................................... 142
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 150
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 153
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại, Tế Hanh là một trong những cây bút tiêu biểu
cùng với Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tố Hữu "góp vào và tạo nên những đỉnh cao
trong ngũ hành thơ ca (68, tr.40).
Vốn là người đến muộn hơn so với các nhà thơ Mới nhưng Tế Hanh vẫn là "một bông
hoa còn hương sắc", "là dòng suối thầm thì róc rách đi vào những mạch thầm kín của tình
đời, tình người"(68, tr.10). Nhưng từ khi tập kết ra Bắc, trong những năm 1954- 1975, thời
chống Mỹ cứu nước, "tài thơ của Tế Hành mới thực sự nở rộ"(68, tr. 199). Tế Hanh sẵn có
một tấm lòng đôn hậu, nhạy cảm, yêu quê hương đất nước đi theo cách mạng được bồi đắp
sâu sắc thêm, đằm thắm thêm. Giai đoạn ấy nhà thơ đã cho ra những tập thơ: Lòng miền
Nam, Gửi miền Bắc, Tiếng Sóng, Hai nửa yêu thương, Khúc ca mới, Đi suốt bài ca, Cậu
chuyện quê hương, Theo nhịp tháng ngày, Bài thơ tháng bảy. Trong đó có những bài thơ nổi
tiếng được nhiều người tâm đắc. Ngày nay, các bài thơ ấy cũng có trong sách giáo khoa và
được giới nghiên cứu trên cả nước quan tâm. Các sáng tác thơ Tế Hanh nói chung, giai đoạn
chống Mỹ nói riêng đã có cơ sở để các nhà nghiên cứu khẳng định "là một trong những nhà
thơ tài năng, thơ ca vừa có tính hiện đại vừa đậm đà bản sắc đân tộc"(68,tr.l20).
Tài năng của Tế Hanh không chỉ thể hiện trong nội dung sáng tác chủ yếu là đề tài đấu
tranh thống nhất đất nước đáp ứng nhu cầu của dân tộc đương thời mà còn thể hiện ở sự tìm
tòi học hỏi, phát huy và đổi mới trong nghệ thuật sáng tạo. Nội dung và hình thức nghệ
thuật của sáng tác là hai mặt thống nhất không thể tách rời. Tác phẩm văn học nói chung,
thơ ca nói riêng có thể đứng vững và sống mãi với thời gian khi đáp ứng được tính sáng tạo
hài hòa trong cả hai mặt này.
Chất liệu vật chất trực tiếp làm nên tác phẩm thơ ca là ngôn từ nghệ thuật cùng tài
năng sáng tạo. Do đó tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật thơ Tế Hanh thời kỳ chống Mỹ sẽ góp
phần quan trọng vào việc đánh giá nội dung cũng như có dịp nhìn lại và tìm hiểu về một
phần sáng tạo của nghệ thuật thơ giai đoạn chống Mỹ. Cuối cùng người viết tin rằng tìm
6
hiểu những sáng tạo nghệ thuật của thơ Tế Hanh giai đoạn này sẽ lý thú và bổ ích cho
chuyên môn giảng dạy và nghiên cứu sau này.
2. Phạm vi của đề tài và phương hướng nghiên cứu:
2.1. Phạm vi của đề tài:
Văn học là một lĩnh vực của hoạt động nghệ thuật. Tác phẩm văn học bao giờ cũng
được tồn tại trong một hình thức nhất định với một nội dung tương ứng. Tìm hiểu tác phẩm
văn học phải tìm hiểu cả nội dung lẫn hình thức. Vì mối quan hệ giữa nội dung và hình thức
trong đó là hai mặt gắn bó mật thiết nhau.
Nhưng vì thời gian và điều kiện có hạn, trong luận văn này chúng tôi không đi sâu vào
vấn đề nội dung của thơ Tế Hanh mà chủ yếu là đi sâu tìm hiểu về đặc điểm nghệ thuật thơ
Tế Hanh. Mỗi một nhà thơ mang phong cách riêng. Do đó các sáng tác cũng nổi lên những
đặc điểm nghệ thuật không giống nhau. Đặc điểm nghệ thuật thơ Tế Hanh có nhiều vấn đề
cần nghiên cứu nhưng chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu những vấn đề nổi trội và tâm đắc là:
ngốn từ, thể thơ, thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật.
Tế Hanh là người tận tụy với nghề. Sáng tác xuyên suốt hơn nửa thế kỉ của nhà thơ đã
để lại cho đời hơn 14 tập thơ. Trong đó chúng ta cũng thấy giai đoạn chống Mỹ cứu nước
1954 - 1975 thì tài năng nghệ thuật ở nhà thơ mới thực sự nở rộ. Chúng tôi chỉ tìm hiểu đặc
điểm nghệ thuật thơ Tế Hanh giai đoạn này với hy vọng đây sẽ là những nghiên cứu bước
đầu góp phần cho nghiên cứu toàn bộ thơ Tế Hanh sau này.
Do điều kiện bản thân cùng lượng thời gian có hạn chúng tôi xin được tìm hiểu vấn đề
chủ yếu trên cơ sở các tập thơ: Gửi miền Bắc, Hai nửa yêu thương, Tiếng sóng, Khúc ca
mới, Câu chuyện quê hương, Đi suốt bài ca, Theo nhịp tháng ngày và một số bài thơ của tập
Lòng miền Nam được trích trong tuyển tập thơ Tế Hanh Nhà xuất bản văn học Hà Nội 1997.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng thám khảo các sáng tác của Tế Hanh ở giai đoạn trước và
sau thời gian đó như: Hoa niên, Con đường và dòng sông, Giữa những ngay xuân, Bài ca sự
sống và các bài thơ trong tuyển tập thơ/Tế Hanh cũng như một vài tác phẩm sáng tác sau
này.
2.2. Phương hướng nghiên cứu:
7
Để hoàn thành luận văn này trước hết chúng tôi đọc, tham khao toàn bộ tài liệu có liên
quan, dựa vào những sáng tác của Tế Hanh chủ yếu là các tác phẩm thuộc giai đoạn chống
Mỹ cứu nước để xác định những đặc điểm nổi bật về vấn đề ngôn từ, thể thơ. Tiếp theo luận
vãn sẽ đi vào tìm hiểu về thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật của thơ Tế Hanh dưới
góc độ thi pháp.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Để đạt hiệu quả trong nghiên cứu, ngay từ khi đến với đề tài này chúng tôi cố gắng tìm
và chọn những phương pháp phù hơp, khoa học để khám phá, tìm hiểu vấn để. Xác định đối
tượng và phạm vi nghiên cứu như trên, luận văn này ở nhiều mức độ khác nhau chủ yếu sử
dụng một số phương pháp sau:
3.1 Phương pháp nghiên cứu hệ thông:
Luận văn sử dụng phương pháp hệ thông để xác định thơ Tế Hanh giai đoạn 1954 -
1975 nằm trong hệ thống thơ ca chống Mỹ ở miền Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc. Tế Hanh là một trong những nhà thơ lớn lên bắt nguồn từ phong trào thơ Mới và
tiếp tục qua giai đoạn chống Mỹ trở thành nhà thơ hiện đại Việt Nam. Đặt ông trong hệ
thống này luận văn xác định những vấn đề chung về nghệ thuật giữa thơ ông và thơ ca của
thời đại. Từ đó khẳng định những đặc sắc mới lạ, những đóng góp sáng tạo về nghệ thuật
nói riêng của thơ Tế Hanh giai đoạn này cho nền văn học dân tộc. Luận văn cũng đặt giai
đoạn sáng tác thơ 1954 - 1975 vào hệ thống văn học hiện đại Việt Nam bên cạnh những nhà
thơ cùng thời như Xuân Điệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tố Hữu để thấy được những nét đặc
trưng riêng biệt của thơ ông với các nhà thơ cách mạng này.
Sử dụng phương pháp hệ thống này người viết đặt thơ Tế Hanh trong nền văn học đấu
tranh cách mạng xã hội chủ nghĩa để giải quyết một số vấn đề của luận văn.
3.2. Phương pháp so sánh:
Phương pháp so sánh trong luận văn này là để vận dụng so sánh thơ Tế Hanh với một
số nhà thơ cùng thời như Xuân Diệu, Huy Cận nhằm góp phần làm sáng tỏ thêm những đặc
điểm nổi bật trong nghệ thuật thơ Tế Hanh. Phương pháp so sánh còn dùng để đánh giá sự
8
chuyển biến về nghệ thuật của thơ Tế Hanh giai đoạn chống Mỹ cứu nước với các giai đoạn
trước và sau đó.
Người viết còn vận dụng phương pháp tiếp cận thi pháp để đi sâu tìm hiểu các đặc
điểm nghệ thuật cụ thể của thơ Tế Hanh thời chống Mỹ như: hình ảnh, thể loại, thời gian
nghệ thuật, không gian nghệ thuật,...
Ngoài ra trong quá trình nghiên cứu luận văn còn sử dụng một số thủ pháp, biện pháp
như: thông kê, lập biểu mẫu, phân loại nhằm nắm bắt cụ thể hơn về thể thơ, ngôn từ thơ,
hình ảnh thơ,...Từ đó làm nổi bật hơn sự sáng tạo về nghệ thuật thơ Tế Hanh. Điều đương
nhiên là các phương pháp trên được thực hiện phối hợp nhau trọng quá trình khảo sát, đánh
giá các vấn đề ở nội dung của luận văn.
Tóm lại, văn học gắn liền với sự nhận thức đồng thời gắn liền với tình cảm. Xuất phát
từ đối tượng nghiên cứu, từ mục đích của luận văn người viết chú trọng cách tiếp cận từ văn
bản. Cách tiếp cận này đòi hỏi phải chú ý đến ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm. "Đây là
một hướng nghiên cứu cần thiết, có khả năng tăng cường tính khách quan trong khoa học"
(30, tr.40).
4. Lịch sử vấn đề :
Tế Hanh thuộc lớp nhà thơ cuối cùng của phong trào thơ Mới, là một trong những cây
bút tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Thơ ông xuất hiện khá muộn trên thi đàn so
với các nhà thơ cùng thời. Nhưng ngay từ tập thơ đầu tay ra đời đã tạo nên ấn tượng khó
phai trong mắt của giới nghiên cứu bấy giờ.
Tập thơ đầu tiên Nghẹn ngào ( Hoa niên) ra đời năm 1939, Nhất Linh đã cho hay: "Tế
Hanh có một linh hồn rất phong phú, có những rung động rất sâu sắc và diễn tả tâm hồn ông
có đủ nghệ thuật về cách đặt câu, tìm chữ..." (68, tr.283).
Đến 1941, Tế Hanh được Hoài Thanh trân trọng giới thiệu trong Thi nhân Việt Nam
và nhận thấy "Tế Hanh là một người tinh lắm. Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về
cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy cả những điều không hình sắc, không âm
thanh như mảnh hồn làng trên cánh buồm giương như tiếng hát của hương đồng quyến rũ
con đường quê nho nhỏ. Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi thường ta chỉ thấy 9
một cách mờ mờ, cái thế giới của những tình cảm ta đã âm thầm trao cho cảnh vật" vì
"người sẵn có một tâm hồn tha thiết" và "sự thành thực không thể ngờ được"(106, tr. 146).
Sau cách mạng, Tế Hanh luôn tận tụy, làm việc cật lực với cây bút của mình và để lại
hơn mười tập thơ. Điều đặc biệt là hầu hết các sáng tác của Tế Hanh xuất hiện đều được bạn
đọc và giới nghiên cứu quan tâm. Nhờ đó những bài phê bình kịp thời, công phu về các tập
thơ cũng ra đời. Các bài viết đều làm nổi bật lên những đặc sắc, thành công và hạn chế cả về
nội dung lẫn nghệ thuật của từng tập thờ theo quá trình sáng tác của tác giả. Nhìn chung
những ý kiến, nhận xét đó đều tương đối thống nhất nhau.
Nguyễn Đình trên Báo Văn học số 6, ngày 15 -7- 1958 đã nhận thấy ở Gửi miền Bắc
"Tế Hanh có một tâm hồn thơ tế nhị, một sức rung cảm sâu sắc và mau nhạy, một bút pháp
vững vàng và dễ hiểu như những lời mộc mạc trong ca dao và thường là duyên dáng, ý vị dễ
đi vào tình cảm con người". Ở đây Tế Hanh đã khẳng định cái "thiết tha và vững chắc của
mình so với cái rụt rè có phần chập chững trong Hoa niên".
Trên Tạp chí Văn nghệ số 40 tháng 9 năm 1960, Lê Đình Kỵ đã nhận thấy "Tiếng
sóng đánh dấu một bước tiến của thơ Tế Hanh" với "chất thơ nhuần nhị, trong sáng". Cụ thể
là ở Tiếng sóng 1 những bài thơ viết dưới "hình thức những mẩu chuyện riêng rẽ", "có thể
coi như một mảng trường ca về những người lao động vùng biển". Tiếng sóng 2 Tế Hanh
"cũng tỏ ra có một tâm hổn dễ rung cảm, chất thơ đậm đà, lời thơ trong sáng". Tuy câu thơ
có gì êm ả quá "có vẻ bày biện sắp đặt" nhưng "dễ đi vào lòng người, có cái tiếng ngân hiền
dịu êm xa".
Tiếng sóng còn được Đỗ Hữu Tấn trên Nghiên cứu văn học, số 1, 1961, "coi là thành
công quan trọng", là "tiếng hát của một tâm hồn dễ rung cảm, một tâm hồn tế nhị". Tiếng
sóng đã vượt các tập thơ trước của Tế Hanh về tính tư tưởng, về "bề rộng và bề sâu của hiện
thực được phản ánh cũng như về trình độ trau chuốt của nghệ thuật". Có thể nói các nhà
nghiên cứu đều khẳng định "Tiếng sóng mở ra triển vọng mới cho Tế Hanh" và chứng tỏ
Tế Hanh còn có thể tiến lên nhiều nữa.
Năm 1962, Chế Lan Viên trong Phê bình văn học, Nhà Xuất Bản Văn Học Hà Nội,
nhận thấy sự biến chuyển rõ rệt qua 15 năm cách mạng. Ở Tế Hạnh : vẫn là lối "suy tưởng
một cách chân thành" nhưng qua Tiếng Sóng, Tế Hanh tiến thêm một bước trong lối nhìn
10
hiện thực, "Tế Hanh ngọt ngào như trước và hơn trước, là một Tế Hanh thực hơn, khỏe hơn,
có suy nghĩ hơn". "Thơ chuyện của Tế Hanh - trừ bài Người thủy thủ và con chim én, Cái
chết của em Ái khá đạt /về tình cảm và nghệ thuật, còn thì đang ở vào trình độ bình
thường".
Đến Hai nửa yêu thương cũng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Nguyễn Đình ở
Tạp chí Văn học số 5, 1963 đã cho biết " về hình thức thơ, Hai nửa yêu thương đã có nhiều
tìm tòi mới tránh được cái đơn điệu của khá nhiều tập thơ khác nhưng những hình thức mới
ở đây còn chưa nhuần nhị" "còn đơn giản khô khan, làm rơi rụng đi khá nhiều cái ngọt
ngào, cái nên thơ dễ cảm vốn có". Cũng trên tạp chí này, Thiếu Mai nhận thấy ở Hai nửa
yêu thương "tình cảm của Tế Hanh càng được phát triển thêm, thiết tha hơn, đồng thời
cũng khỏe khoắn hơn". Bên cạnh "hình tượng ít chất thơ", "ngôn ngữ ít hình tượng, xa lạ
với khiếu thưởng thức thơ của quần chúng" thì Tế Hanh cũng "có những tìm tòi đáng kể" là
"dùng nhiều hình thức diễn đạt khạc nhau tùy theo tình cảm ở từng bài thơ, tránh cho tập thơ
không khí đều đều dễ chán". Vì thế Tế Hanh càng xứng đáng hơn với danh hiệu "nhà thơ
của miền Nam".
Bước tiến mới của Tế Hanh về mặt tình cảm, tư tưởng đã được Hoàng Minh Châu trên
Báo Văn nghệ số 12, ngày 19-7-1963 nhận thấy: "Tình cảm anh lớn lên cùng đất nước" nó
"kết tinh được cái lớn lên về cảm xúc và trí tuệ". Mặc dù nhà thơ "có sự sáng tạo" nhưng
"chưa thật hoàn chỉnh". Có bài "anh muốn thể nghiệm một lời thơ phá thể để chứa cho hết ý
nhưng chính vì chưa điều khiển nổi nên để ý lấn sang tình", "một số bài chưa thật kết tinh
nhuần nhuyễn".
Cùng với Tiếng sóng, Hai nửa yêu thương đã đánh dấu thêm những thành công của
Tế Hanh. Trên Báo Nhân dân, ngày 2 -11-1963, Trần Hữu Thung thấy Tế Hanh "đã làm
giàu thêm cho thơ mình bằng cách nói mới" "đáp ứng những tư tưởng tình cảm chung", Tế
Hanh "không ngừng tìm tòi để diễn đạt thơ mình". Và phần lớn thơ Tế Hanh thành công ở
phần dịu ngọt, tâm tình,...Từ đó đi đến nhận xét chung thơ Tế Hanh "là những vần thơ chân
thật, trẻ trung, êm dịu, có bản sắc".
Năm 1966, Khúc ca mới ra đời. Sau đó, trên Báo Văn nghệ số 224 , ngày 11-8-1967,
hai nhà nghiên cứu Lê Tố, Nguyễn Xuân Nam đã chỉ ra trong đó "ngọn lửa thôi thúc hành
động". "Bên giọng yêu thương ngọt ngào quen thuộc Tế Hanh đã có thêm những khúc hát
11
chiến đấu". Và "hào khí trong thơ Tế Hanh đã có phần mạnh hơn so với các tập thơ trước".
Các nhà nghiên cứu cũng thấy "Tế Hanh sử dụng ngôn ngữ, vần điệu khá thành thục" " ít
khi gặp phải những vần điệu trúc trắc, sạn sỏi", "không bị gò bó vào một khuôn khổ nào của
thơ". Câu thơ "rất dễ đàng, lưu loát". Khi cảm xúc đến là nhà thơ có được những lời và vần
điệu trong sáng, bình dị.
Nghiên cứu "Đường thơ của Tế Hanh", Thiếu Mai ở Tạp chí Văn học số 2-1969 đã
khẳng định: "cái hay của Tế Hanh là một cái hay dễ cảm thấy mà rất khó nói". "Đặc điểm
nổi bật trong phong cách thơ của Tế Hanh là lòng chân thành, cảm xúc dồi dào ý nhị”. Qua
từng chặng đường, Tế Hanh đã "cố gắng tránh sự đơn điệu trong hình thức biểu hiện, làm
cho phong cách thơ của mình đa dạng hơn" và tạo được "những hình ảnh độc đáo" "dạt dào
cảm xúc" "khỏe chắc và chứa một nội dung khá sâu".
Khi Đi suốt bài ca xuất bản, trên Tạp chí Tác phẩm mới, số 10 tháng 12, 12 -1970,
Thiếu Mai nhận xét: "Vế hình thức diễn đạt, Tế Hanh có nhiều tìm tòi", "hình thức câu thơ 8
chữ được nhà thơ phát triển thành câu 9, 10 chữ". Nhưng những tìm tòi của nhà thơ "chưa
tạo thành những nét mới, ổn định trong sự phát triển tất yếu của phong cách thơ Tế Hanh".
Tế Hanh vẫn là nhà thơ "nắm bắt cái đẹp và nhạy" "lời thơ dào dạt cảm xúc".
Anh Tố trên Báo Văn nghệ số 337, ngày 1-1 -1971 cũng đưa ra cảm nghĩ của mình khi
đọc Đi suốt bài ca. "Cái giàu xúc cảm chân thực được thể hiện qua những lời thơ trong trẻo,
giản dị". Tế Hanh "không đeo đuổi những hình ảnh cầu kỳ, hoặc suy tư triết lý", "giọng thơ
Tế Hanh là một giọng thơ đôn hậu, không cao đạo. Thơ anh giàu tình cảm hơn là giàu hình
ảnh. Câu thơ thường mang dáng dấp chân thực, trong sáng, gần gũi quần chúng". "Tình của
Tế Hanh ...có gì thiết tha, đầm ấm,...thâm trầm, thắm thiết". Tuy nhiên ngôn ngữ thơ còn
dàn trải, "Tế Hanh thường thành công nhiều trong thể loại lục bát, hoặc thơ 5, 7, 8 chữ quen
thuộc". "Thơ tự do...Tế Hanh chưa tạo được một thế hài hòa giữa lời và cảm xúc, giữa ý và
tình".
Trong Nhà văn và tác phẩm, Nhà Xuất Bản Văn Học Hà Nội, 1971, Hà Minh Đức đã
nhận thấy: "tâm hồn thơ giàu cảm xúc" làm cho thơ Tế Hanh "có một phong vị riêng".
"Bước chuyển biến có ý nghĩa quan trọng về mặt nghệ thuật " của Tế Hanh "góp vào thơ
đấu tranh thống nhất đất nước một tiếng nói sâu sắc, có giá trị". Có thể nói "cảm xúc chân
thành tha thiết" đã giúp Tế Hanh "nói lên bằng nhiều cách nói, nhiều giọng điệu, nhiều hình
12
ảnh". "Tế Hanh đã có nhiều đóng góp cho nền thơ ca hiện đại", "là một nhà thơ có bản sắc
và phong cách riêng", "luôn có ý thức tìm tòi, trăn trở, cố gắng để tự vượt lên mình".
Hoài Anh đã đọc Câu chuyện quê hương trên Tạp chí Tác phẩm mới số 35, tháng 3 -
1974 và nhận thấy cai giọng riêng "dễ dễ mà rất khó ở Tế Hanh" "nó trong sáng và chân
chất, đi thẳng vào lòng người, không uốn éo, không lên gân, không gò nặn", "thơ anh là
tiếng nói của trái tim".
Cũng về một Câu chuyện quê hương trên Báo Văn nghệ số 563 , ngày 16 -8 -1974,
Trường Lưu đã chỉ ra: "Bài thơ sân khấu ...là một trong những sáng tạo” của nhà thơ. "Bài
thơ có phân cảnh đối thoại, độc thoại, cổ hồi tưởng, liên tưởng,... Đó là sự kết hợp giữa tự
sự và miêu tả, giữa phản ánh và khắc họa, giữa dung lượng câu chuyện cần có và những chi
tiết sống theo yêu cầu của một hình thức thể loại mà tác giả sáng tạo nên". Ở đây "Tế Hanh
đã tạo cho mình một cách khám phá hiện thực và từ đó tạo ra một cách miêu tả". Đây là tập
thơ đa dạng về bút pháp "có bài tác giả đang thể nghiệm một hình thức: để sự việc trần trụi
hiện ra mà không cần có hình ảnh, vần điệu".
Trên Tạp chí Tác phẩm mới, số 43, 44, tháng 11 và 12 -1974 Phong Lan đọc Theo
nhịp tháng ngày và nhận thấy thơ Tế Hanh "là ánh phản quang của một tâm hồn nhân hậu,
dễ rung cảm và hơi mơ màng". Và cũng Theo nhịp tháng ngày, trên Báo Văn nghệ số 533,
ngày 15-3-1975, Vũ Quần Phương cho rằng sở trường quen thuộc của Tế Hanh là "một cách
viết trong sáng và bình dị", "thơ là một sự giãi bày".
Về tâm hồn phong cách sáng tạo, Hà Mình Đức trong Nhà văn Việt Nam 1945-1975,
tập II, Nhà Xuất Bản Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp Hà Nội, 1983, nhận thấy "Tế
Hanh là một tâm hồn giàu tình cảm, giọng tâm tình trong trẻo, sâu lắng". "Thơ Tế Hanh
không phải là tiếng nói thơ ca có âm vang sâu rộng. Dòng thơ anh như một con suối nhỏ
chảy bền bỉ theo tháng năm". Trong nghệ thuật biểu hiện, Tế Hanh không lộ rõ sự sắc sảo,
tài hoa,...mà âm thầm , đằm thắm, ý vị.
"Tinh cảm chân thật, cách viết trong sáng là ưu điểm nổi bật ở Tế Hanh". Vũ Quần
Phương trong Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1984 đã
khẳng định: với Tế Hanh "thơ là sự giãi bày", "tâm tình là giọng điệu chung". "Tế Hanh
cũng tìm tòi những cách biểu hiện khác để tạo vẻ phong phú trong bút pháp" nhưng nhược
13
điểm ở Tế Hanh là "sự kể lể". Nhưng từ khi đi theo cách mạng, Tế Hanh đã có được bước
tiến quan trọng trong sáng tác. Và trên Báo Văn nghệ số 5, 6 ngày 2 -2 -1986, Chế Lan Viên
đã khẳng định: "Nhờ có cách mạng, nhờ có nhân dân, Tế Hanh đã đem một chất mới cho
bản thân mình, riêng của mình rất Tế Hanh" đóng góp vào cái chung của nền văn học. "Tế
Hanh ... mở rộng mình ra, đối thoại cùng khách thể".
Trong lời giới thiệu Tuyển tập Tế Hanh, Nhà Xuất Bản Văn học 1987, Mã Giang Lân
cho hay "sau cách mạng, thơ Tế Hanh đang mở ra, đang vượt lên... đã phản chiếu một cách
trung thực xã hội và hành trình tâm trạng của nhà thơ để cuối cùng đã tự bồi dưỡng, tự làm
giàu cho mình rất nhiều". Nhà nghiên cứu đã đi sâu khám phá những biểu hiện tốt cả nội
dung lẫn nghệ thuật ở Tế Hanh trong từng tập thơ. Bên cạnh những tìm tòi còn ở bước thể
nghiệm, nghĩ đến Tế Hanh người đọc nghĩ đến "một hồn thơ đôn hậu, hiền lành nhiều rung
động". Ngôn ngữ đẹp, gợi cảm, mộc mạc, giản dị, thời gian hồi tưởng, không gian nhớ
nhung, xa cách.
Năm 1989, trong Tuyển tập thơ Tế Hành 1938 -1988 Phạm Hổ đã khai thác tâm
trạng Tế Hanh và nhận thấy "màu sắc trầm lặng, tin yêu" trên bầu trời thơ ca Việt Nam; Và
đây là "nhà thơ của những tình cảm quê hương, của những tấm lòng nhớ thương, xa cách,
của sự đấu tranh chống lại sự cô đơn để vươn tới tin yêu".
Trên Báo Văn nghệ số 18, ngày 5 -5 -1990, Lê Quang Trang đã đi tìm đường thơ Tế
Hanh và cho thấy "phải đến sau ...1954 cho đến những năm 60, thơ Tế Hanh mới đạt độ
chín". Nhà thơ "lựa chọn những gì dịu nhẹ, sâu lắng". "Đầu những năm 80 thơ ông có
những bước chuyển khá mạnh. Suy nghĩ đằm lại, chiều sâu tư tưởng tăng lên .. lời thơ tiết
kiệm đi". Vì vậy, "ông là một trong vài ba cây bút lão thành ít bị cũ trước chuyển động của
thơ hôm nay".
"Nghĩ về một câu hỏi của anh", Ngô Quân Miện trên Báo Văn nghệ số 23, ngày 8 -6-
1991 đã nhận ra "Tế Hanh có một khả năng cảm nhận và truyền cảm khá nhạy bén và tinh
vi" "tứ thơ có chiều sâu".
Anh Ngọc trên Báo Thể thao và Văn hóa số 37, ngày 14 -9 -1991 đã thấy 55 năm ấy,
thơ Tế Hanh đã chia làm hai nửa rõ rệt cả về nội dung lẫn hình thức. "Nửa thứ nhất ...là
những bài làm sơ lược, cảm xúc nghèo nàn, hình thức cũng thô sơ, cạn cợt". Nửa thứ hai
14
"giọng thơ da diết có cái cốt lõi là tình cảm thơ chân thực" "Tế Hanh đã thành công ở nghệ
thuật cấu trúc: cấu tứ và lập ý", "khéo đưa những quan sát tinh tế vào thơ mình". "Tế Hanh
vẫn bảo toàn được chất riêng của mình qua mọi biến thiên của thời cuộc khiến cho dòng thơ
ông, dẫu có lúc đầy vơi song không bao giờ đứt đoạn hay lạc dòng".
Tìm hiểu đôi nét đặc trưng thơ Tế Hanh, Trường Lưu trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật
số 8, 1994 thấy "bút pháp trữ tình thiết tha và chân thật" của "một tâm hồn trong
trắng,...hình ảnh mộc mạc, cụ thể được thi vị hóa thành thơ rất thật và rất gần gũi đời
thường", "lời thơ chân thành dịu dàng".
Vương Trí Nhàn trên Báo Thể thao và Văn hóa số 29, ngày 20-7 -1996 đã khẳng định
Tế Hanh có "một cuộc đời sống trọn vẹn với thơ,...là một nhà thơ chuyên nghiệp.. .giọng
thơ thường từ tốn, lưng chừng" nhưng "có sức truyền cảm riêng do cái vẻ hồn nhiên bột
phát của nó".
Tế Hanh trọn đời cho thơ là nhận xét của Ngô Văn Phú trong Các nhà văn mới được
giải thưởng Hồ Chí minh, Nhà Xuất Bản Hội nhà văn Hà Nội, 1997. Và nhà nghiên cứu
thấy "thơ tế Hanh là một giọng riêng, hồn thơ, cốt cách, con chữ, cách nghĩ đằm hơi thơ,
giọng điệu của quê hương xứ sở mà những nét hiện đại vẫn rất rõ. Thơ ông có vẻ giản dị,
thậm chí có lúc dễ dãi nhưng nhiều bài tính triết lý lại rất cao". "Tâm hồn và tình cảm của
ông đối với thơ, với đời vẫn thiết tha đằm thắm".
Mã Giang Lân ở. Tuyển tập Tế Hanh, tập II, Nhà Xuất Bản Văn học, Hà Nội, 1997
đã khẳng định: "cái tạng Tế Hanh: giản dị, trong sáng, tinh tế mà đậm tình đất nước". Cũng
trong lời giới thiệu tuyển tập này, tác giả nhận thấy ngay từ buổi đầu xuất hiện tiếng nói thơ
ca Tế Hanh ấm áp và non tơ khác hẳn các nhà thơ tỏa sáng cùng thời bấy giờ. "Tế Hanh là
nhà thơ của đời thường. Chất liệu đời thường gần gũi được Tế Hanh trân trọng khai thác"
"cảm xúc tinh tế, những liên tưởng thi vị trước cái đẹp muôn đời của thiên nhiên", "hồn thơ
chân thật gắn bó với cuộc đời".
Năm 1998, trên Văn nghệ Quảng Ngãi, xuân Mậu Dần, Trương Quang Lộc cho rằng
thơ Tế Hanh đã chịu ảnh hưởng của các nhà thơ Pháp như Baudelaire ở chỗ "dùng từ bạo,
hình ảnh bạo" và chịu ảnh hưởng chủ yếu ở Verlaine. Vì vậy mà "những sự vật trong đời
thường" luôn có trong thơ Tế Hanh. Cũng vào năm 1998, Võ Văn Trực trong Gương mặt
15
những nhà thơ, Nhà Xuất Bản Văn học, Hà Nội khẳng định: "cái hay của Tế Hanh là ở sự
tự nhiên, giản dị, trong sáng...Tế Hanh tạo cảm giác giỏi". Từ đó "gây ân tượng" tạo nên
"dòng sông thơ trong trẻo".
Đặc biệt, vào năm 1999 có nhiều nhà nhiên cứu quan tâm đến thơ Tế Hanh và có nhiều
bài viết ra đời. Nguyễn Diên Xướng ở Tạp chí Cẩm Thành số 18, tháng 1-1999 nhận thấy Tế
Hanh "có những câu thơ dung dị như lời trần tình thành thực, ...có tâm thức về một vùng
sông biển,... sông biển quê nhà như một nhịp điệu hồi hoàn". Và Báo Người Hà Nội, số 18,
ngày 1 -5 -1999, Phạm Văn Lam đã thấy trong thơ Tế Hanh "nỗi niềm da diết hướng về
miền Nam ruột thịt ...với giọng điệu tâm tình thủ thỉ...mà đằm thắm không nguôi" nên đọc
thơ Tế Hanh ta thường bắt gặp nỗi chia cắt.
Tìm hiểu một phương diện khác của thơ Tế Hanh, trên Tạp chí Tác phẩm mới, số 5-
1999 Mã Giang Lân cho rằng "ông là người coi trọng hình ảnh, và có ý thức xây dựng một
thế giới hình ảnh phong phú để biểu hiện thế giới cảm xúc đa dạng của tâm hồn". Đó là
"hình ảnh thực khỏe khoắn, dung dị và nồng đượm hơi thở của đời sống". Sở trường của Tế
Hanh là ở sự sáng tạo những hình ảnh cụ thể, gần gũi,...nhỏ gọn...không chói gắt về màu
sắc. "Thế giới hình ảnh trong thơ Tế Hanh được sáng tạo bằng tư duy nghệ thuật độc đáo,
bằng thi pháp mang dấu ấn tài hoa và tinh tế của nhà thơ."
Trong Văn học -Một cách nhìn, Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1999, Mai
Hương đã khám phá giọng điệu thơ Tế Hanh và thấy rằng "chất giọng chủ đạo, quán xuyến
của thơ Tế Hanh là: giọng tâm tình giãi bày" có lúc nghẹn ngào, day dứt, suy tư.
Qua các bài nghiên cứu trên, chúng tôi thấy các nhà nghiên cứu đã khai thác từng
phương diện, từng tập thợ, từng chặng đường thơ mà Tế Hanh đã đạt được. Từ góc độ đó,
người nghiên cứu, người đọc có điều kiện hiểu rõ hơn tầm vóc, tài năng nghệ thuật, sự sáng
tạo không ngừng cống hiến quan trọng, lớn lao ở nhiều phương diện của Tế Hanh đối với sự
phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại.
Tóm lại, từ những góc nhìn vấn đề không hoàn toàn giống nhau nhưng các tác giả
nghiên cứu ít nhiều đã:
+ Khẳng định Tế Hanh là nhà thơ tận tụy, có những tìm tòi sáng tạo đóng góp cho nền
thơ ca hiện đại Việt Nam.
16
+ Khẳng định tài năng thơ, những sáng tác độc đáo của thơ Tế Hanh về nghệ thuật. Tế
Hanh có một hồn thơ chân thực, tinh nhạy, giàu cảm xúc.
+ Khái quát những đóng góp nổi bật ở từng tập thơ và sơ lược những chặng đường
phát triển của thơ Tế Hanh. Từ đó khẳng định những bước tiến, những cách tân nghệ thuật ở
một vài phương diện của thơ Tế Hanh.
Tiếp thu theo cách kế thừa và phát huy những thành quả của các cồng trình nghiên cứu
đi trước cũng là để góp phần nhận thức, khám phá thấu đáo hơn, toàn diện hơn về đặc điểm
nghệ thuật thơ Tế Hanh thời kỳ chống Mỹ.
5. Cấu trúc luận văn:
Trong luận văn này, sau khi trình bày Mở đầu chúng tôi đi vào Nội dung. Nội dung
luận văn được trình bày trong hai chương:
Chương 1: Đặc điểm ngôn từ và thể thơ trong thơ Tế Hanh.
Chương 2: Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong thơ Tế Hanh.
Sau đó chúng tôi Kết luận. Và cuối cùng là trình bày Tài liệu tham khảo.
17
CHƯƠNG 1: ĐẶC ĐIỂM NGÔN TỪ VÀ THỂ THƠ TRONG THƠ
TẾ HANH.
1.1. Đặc điểm ngôn từ:
Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Ngôn từ nghệ thuật trong văn học là sự kết tinh cao
nhất, sự thăng hoa từ ngôn ngữ toàn dân. Giá trị bền vững của một tác phẩm một phần nhờ
vào sức sống của ngôn từ. Thơ ca là tiếng nói của trái tim, của tình cảm nên ngôn ngữ thơ ca
là ngôn ngữ được chọn lọc, kết tinh cao độ. Như vậy, sáng tạo văn chương cũng đồng thời
là quá trình sáng tạo ra ngôn từ nghệ thuật.
Ngôn từ thơ Tế Hanh mang những đặc điểm riêng của phong cách Tế Hanh, đồng thời
cũng mang những dấu ấn chung của ngôn ngữ trong giai đoạn xã hội đương thời. Ngôn từ
thơ Tế Hanh giai đoạn 1954 -1975 nằm chung trong ngôn ngữ thơ chống Mỹ cứu nước.
Nhưng ở thơ Tế Hanh thế giới ngôn từ nghệ thuật ấy có những đặc điểm riêng nổi bật mà
khó lầm lẫn với các nhà thơ khác cùng thời.
1.1.1. Ngôn từ giản dị, mộc mạc, trong sáng gần với lời nói thông thường:
Sinh ra và lớn lên ở một vùng quê biển, Tế Hanh đã in sâu trong tiềm thức của mình
nét ngôn ngữ giản dị, mộc mạc của người dân sông nước. Ngoài việc kế thừa và phát huy
năng lực sáng tạo của cha ông, nhà thơ còn có một tấm lòng chân thật "đến với thơ ca bằng
sự thành thật,... không thể ngờ được". "Tế Hanh đã sống hồn nhiên giữa cuộc đời và ít giấu
mình trên trang giấy. Trong đời đã vậy, mà trong nghệ thuật lại càng như vậy. Trong bối
cảnh mà mỗi nhà nghệ sĩ cũng là một nhà chính trị... chất hồn nhiên bản năng là điều đáng
quí." (68, tr. 181). Giai đoạn chống Mỹ, Tế Hanh đã đưa vào thơ một cách tự nhiên, chân
thật, không cầu kỳ hàng loạt những lớp từ bình dân. Và "cái hay của Tế Hanh là ở sự tự
nhiên, giản dị, trong sáng, ... Ta có cảm giác như anh không cần đẽo gọt công phu mà tự
nhiên nó thốt ra như thế" (68, tr.247). Đưa tiếng nói của quần chúng vào thơ là một cố gắng
của thơ kháng chiến nói chung và là một đặc điểm nghệ thuật của ngôn từ thơ Tế Hanh.
Điều này chứng tỏ Tế Hanh đã có một quan niệm đúng, một tình cảm chan hòa với nhân
18
dân, một nhận thức mới về tiếp thu truyền thống và sang tạo. Từ đó sáng tác của Tế Hanh
đáp ứng được nhu cầu thực tế và đạt hiệu quả nghệ thuật.
Người đọc nhận thấy trong thơ Tế Hanh hàng loạt những tên sông, tên đất, tên
người,... số liệu, thời gian xuất hiện một cách chân thực, cụ thể. Những tên đất quen thuộc:
Quảng Ngãi, Mỏ Cày, Phú Lợi, Mộc Châu, Bình Định, .... những dòng sông Trà Bồng, Trà
Khúc, Nậm Rôm, Hiền Lương, sông Lam, sông Mê Kông, sông Mã... gắn với những địa
danh ấy là những cách gọi tên người bình dị của làng quê: chị Duyên, anh Hải, chị Diệu, chị
Lý, anh Vịnh, chị Vân, em Ái, Thủy, Yên, ... Lớp từ này xuất hiện với mặt độ khá dày đặc
trong tác phẩm góp phần làm cho lời thơ cụ thế, gần gũi với cuộc sống. Và cái chân thật đến
không ai ngờ được khi đọc những câu:
Một chấm đỏ trên bản đồ nước Việt
Một chấm xanh trên bãi Thái Bình Dương.
(Tiếng sóng)
Dừng chân dưới một quả đồi
Gỡ từng sợi cỏ, tôi ngồi nhìn thu .
(Thu)
Cách nói thẳng, bộc trực như vậy giúp lời thơ thêm rõ ràng trong sáng, không cầu kỳ
mà giản dị, tự nhiên. Khi lòng căm thù sục sôi, lời thơ Tế Hanh như lời nói hàng ngày đầy
căm phẫn:
Chúng tao chi có câu này
Thề cùng giặc Mỹ có mày không tao
...Nơi chúng bay giết người
Thì chúng bay phải chết...
(Câu chuyên quê hương)
19
Tế Hanh sử dụng rất nhiều những từ mang phong cách khẩu ngữ tạo nên không khí
cuộc sống làng quê rất dân dã, bình dị góp phần làm nên đặc điểm ngôn từ trong thơ như:
bấm tay, đó đây, ngước nhìn, chắc gì, quá chừng, lột vỏ, sáng trưng, nhìn vô, mắc nghẹn,
nát bét, lởn vờn, ngủ vùi, nhỡ, tận số, bèn kể lể, nín lặng, chắc là, chòm xóm, lén lút, ngóng,
rùm beng, xỏ lá, sạch trơn, ghé. chơi, mạt vận, đừng hòng, chưa từng thấy, con nít, không
hề, bộ hạ, ế ẩm, ruột rà, mặt mày, thò lò, lần chót, vụ chót, đừng mong,... Đây là một chú ý,
một biểu hiện của nghệ thuật ngôn từ mà tác giả mong muốn:
Tôi muốn viết những lời thơ dễ hiểu
Như những lời mộc mạc trong ca dao.
(Điệu quê hương)
Trong thơ Tế Hanh hình thức ngôn ngữ đối thoại rất phổ biến. Ngôn ngữ đối thoại,
ngôn ngữ kể chuyện trong thơ làm chúng ta cảm thấy như lời nói hàng ngày. Bởi không chỉ
bản thân ngôn ngữ mà cách diễn tả ngôn ngữ trong thơ cũng đơn giản dễ hiểu. Đọc những
câu thơ như thế chúng ta có cảm giác như đọc những câu văn xuôi, câu nói hàng ngày
nhưng giàu sức biểu cảm, đạt hiệu quả cao trong việc biểu lộ cảm xúc.
Nếu ai hỏi ta: chân lý ở đâu? Ta sẽ trả lời: chân lý
Từ một lời di chúc cửa tình thương.
(Bác để lại)
Có khi cả bài thơ được Tế Hanh xây dựng theo kết cấu đối thoại giữa hai nhân vật
bằng ngôn ngữ nói như: Mẩu chuyện ở Quảng Bình, Câu chuyện hai người gặp lại, Những
câu hỏi dưới đất, Ngày mai khi trở về, ... Trong suốt Mẩu chuyện ở Quảng Bình là lời đối
thoại giữa hai nhân vật:
Anh hãy để tôi xuống!
Tôi còn đi được mà
-Chị để tôi cõng chị
Đường bệnh Viện còn xa....
20
Lời thơ kể chuyện tự nhiên mà có sức truyền cảm. Chẳng hạn đoạn cụ già vớt được xác anh
Hải trong Chị Duyên anh Hải:
Chị Duyên ơi! trời chẳng phụ người hiền.
Nên chúng tôi vớt được anh lên:
Anh ở với bà con, nghe anh Hải!
Mặt khác, hệ thống những từ chỉ thời gian ước định như: thuở trước, ngày trước, hôm
đó, xưa kia, cách đây mười năm, mười năm về trước, ngày mai, ngày nào, mới ngày
nào,...giúp ngôn từ thơ Tế Hanh có tính khái quát đồng thời mang đậm sắc thái dân gian phù
hợp với phong cách khẩu ngữ quen thuộc của người dân.
Cuộc đời thuở trước lênh đênh
Mẹ cha không tấm lưới mành nuôi con.
(Hai lời rủa và một khúc ca)
Chiếc cầu Pháp đổ năm xưa
Chiếc cầu Mỹ cũng lại vừa nổ tung
(Ba chiếc cầu ở Đông Hà)
Cũng như các nhà thơ đương thời, giai đoạn chống Mỹ hiện thực cuộc sống đi vào thơ
Tế Hanh ngày càng phong phú, đa dạng. Ngôn từ trong thơ Tế Hanh không những gần với
tiếng nói của quần chúng lao động mà có cả một lớp ngôn ngữ của thời chiến mang dấu ấn
của thời đại như các loại: bom, đạn, pháo, súng, khẩu hiệu chiến tranh,...
Khi quân thù đem tre cọc, thép gai
Dồn dân chúng trong khu trù mật
...Hay mới đây trong những trận càn
Ấp chiến lược, mẹ còn không hỡi mẹ.
21
(Mẹ mãi còn)
Đặc biệt những sự kiện, những chiến công được ghi lại rõ ràng trong từng thời gian cụ
thể. Có bài thơ lời thơ ngắn gọn chứa những số liệu cụ thể như lời nói thông thường nhưng
giàu sức gợi ẩn chứa lòng căm thù sâu sắc.
Một xã 5.000 dân
Đóng 25000 lính Mỹ.
Cứ hai người dân
1 thằng lính Mỹ
50% cửa nhà
phá hủy
Chi bộ 13 đồng chí
quyết tâm
bám dân
đánh Mỹ 18 tháng sau
cứ 7 tên
mất 1 thằng
giặc Mỹ.
(Những con số)
Nếu ở Tế Hanh ngôn ngữ của cuộc chiến đem đến cho thơ ca tiếng nói đầy căm phẫn
đánh thẳng vào địch, giành lại hòa bình thống nhất thì thơ Huy Cận không khí cuộc chiến
vẫn đem lại cho nhà thơ niềm lạc quan, yêu đời, tin tưởng chiến thắng. Mặc cho mưa bom
bão đạn, cuộc sống nơi hầm sâu trong lòng đất vẫn diễn ra bình thường trong không khí ấm
áp của gia đình.
22
Những nhà hầm như cuộc sống soi gương
...Mẹ ta xuống đó với khói cơm thơm
Con ta xuống đó với vần bằng trắc,
Với dấu huyền dấu sắc
Mà rốc két; bom bi không đảo ngược được bao giờ.
(Chào Vĩnh Linh đất thánh)
Ngay những bài thơ Đường như thấtt ngôn tứ tuyệt, Tế Hanh cũng bình thường hóa
chúng làm cho gần gũi hơn, lời thơ cũng mộc mạc như lời nói hàng ngày bởi việc sử dụng
toàn ngôn ngữ thuần Việt mang dấu ấn của thời chiến, cách ngắt nhịp, chấm câu thay đổi.
Tiêu biểu như bài Mẹ:
Mẹ tám mươi. Con nghĩ không còn
Giặc ném quê mình mấy trận bom
Sáng nay mẹ nhắn tin ra.- Mẹ!
Mười sáu năm trời chớ giận con.
Thơ lục bát cũng được bình thường hóa như câu nói văn xuôi thông thường bởi ngôn từ giản
dị, hiện tượng vắt dòng, chấm câu giữa dòng...
Tứ về. Giữa khoảng trời đêm
Vành trăng như thể mắt em soi đường.
(Mùa thu tiễn em)
Ngoài ra, thơ Tế Hanh còn có khá nhiều những từ có tính cụ thể hóa rõ nét tính chất,
trạng thái, mức độ của sự vật, hiện tượng góp phần làm cho lời thơ vừa rõ ràng vừa chân
chất. Với Tế Hanh đã sáng thì là sáng trưng, sáng rực, sáng chói, sáng ngời, ...trong thì
trong trẻo, trong vắt, trong xanh, trong veo,.. .trắng thì trắng trẻo, trắng phau, trắng bệch,...
xanh thì xanh biếc, xanh lam, xanh lơ, xanh rờn, xanh non, xanh già, xanh um,...mát lừng,
23
mạt rượi, đen nhánh, đen sì,... Và Tế Hanh cũng thành công trong việc vận dụng từ láy làm
cho ngôn từ thơ cụ thể, giàu hình tượng như : long lanh, bát ngát, rộn ràng, ríu rít, rì rào,
nơi nơi, mênh mông, lấp lánh,...
Anh nhìn ra bát ngát từng không
Thấy mặt em hiện giữa mênh mông
Rừng cây dài hay tóc em đen nhánh
Và dòng suối trong ánh trăng lấp lánh.
(Cảnh!)
Hơn nữa, cách nói thẳng, nói thật, việc sử dụng rất nhiều những thán từ: ối, ơi, hỡi,...
đã gợi lên nỗi lòng của nhân vật trữ tình đồng thời thấy được vẻ hồn nhiên chân thực của
phong cách khẩu ngữ.
Hỡi hàng dừa xanh Bình Định - Tam Quan
Xinh đẹp quá và anh dũng quá!
Bình Định ơi! Mảnh đất miền Nam
...Đất anh hùng ! Ơi miền Nam, miền Nam.
(ChàoAriLão)
Có thể nói, lượng thành ngữ trong thơ Tế Hanh xuất hiện nhiều bằng những cách khác
nhau: 37 lần trong 250 bài thơ được khảo sát, giúp ngôn từ thơ Tế Hanh hàm súc, gợi cảm
và bình dị.
Quê ta lửa bỏng dầu sôi
Bọn Mỹ ngụy thẳng tay bắn giết
Không ngày nào không máu chảy xương rơi.
... Sống giữa lũ đầu trâu mặt ngựa
24
Những hận thù càng âm ỉ ngày đêm.
(Cảnh 2)
Không những thế, cách nói của nhà thơ cũng bình dị, mộc mạc như khẩu ngữ. Đọc thơ
ông chúng ta có cảm giác như nhà thơ không cần sự gọt đẽo công phu mà tự nhiên thốt ra
như thế. Đôi lúc lời thơ như lời nói thường mà ý thờ rất hàm súc:
-Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị.
-Nhớ khu năm tôi đi vào khu bốn.
-Có tình người nên có rét Nàng Bân ...
Cái hay trong thơ Tế Hanh là cái giàu cảm xúc chân thực được thể hiện qua những lời
thơ trong trẻo, giản dị, câu thơ co giãn theo dung lượng cảm xúc, sự kiện, sự việc, những tên
người, tên đất được nêu lên cụ thể, những trận đánh, những chiến công được ghi lại rõ ràng.
Nhà thơ ca ngợi cuộc sống từ góc độ bình thường nhất. Câu thơ thường mang dáng dấp chân
thực, trong sáng, gần gũi quần chúng. Người đọc không thấy tác giả đeo đuổi những ngôn
ngữ cầu kỳ hay những suy tư triết lý. Trong Câu chuyện quê hương nhà thơ đã nói thẳng,
nói thực, lời thơ như tiếng nói của trái tim, có sao nói vậy.
Anh thấy em như thấy lại quê nhà
Anh tưởng như vừa từ giã hôm qua.
Có thể nói ngôn ngữ thuần Việt giản dị, gần với lời nói hàng ngày là nét độc đáo trong
ngôn từ thơ Tế Hanh đồng thời cũng là nét chung của thơ ca kháng chiến. Trong số những
cây bút đại thụ làm nên những đỉnh cao của "ngũ hành thơ ca" thì thơ Huy Cận rất gần với
thơ Tế Hanh. Đặt Tế Hanh bên cạnh Huy Cận sẽ thấy được những nét độc đáo làm nên
phong cách của hai nhà thơ cùng thời. Bên cạnh những nét chung thì nổi lên những nét
riêng. Mỗi nhà thơ mang một phong cách riêng trong sáng tạo nhất là việc xây dựng thế giới
hình tượng trong tác phẩm. Ngôn từ thơ Huy Cận trong giai đoạn này cũng tự nhiên, mộc
mạc, gần với hiện thực không kém, câu thơ Huy Cận nhiều lúc cũng như câu nói:
Chuyện không nhớ năm nào
25
Tự ngày chưa có Đảng
Uất quá thì mài dao
Dao sáng trời chưa sáng
(Chuyện anh Phòng đấu tranh)
Nhưng ở Huy Cận không có nhiều số liệu, thành ngữ không được vận dụng nhiều như
trong thơ Tế Hanh. Có thể nói ngôn từ thơ Huy Cận nặng về tính triết lý của những câu
chuyện kể.
Thời chống Mỹ, hiện thực có những biến động, đòi hỏi phải có những cách tân trong
nghệ thuật nên các nhà thơ thời này đều đổi mới. Nếu Huy Gân vốn hồn hậu thì nay lại có
thêm nhạy bén và sâu sắc, chất suy tưởng triết lý vốn giàu trong thơ băm sát hơn với những
vấn đề xã hội và thời đại thì Tế Hanh không chỉ cảm xúc nữa mà nhà thơ đã tăng thêm sức
suy tưởng và đang trên đường tìm tòi sự hài hòa giữa chúng trong tiếng nói tự nhiên. So với
giai đoạn trước thơ Tế Hanh cũng dạt dào tình cảm nhưng ngôn từ được chọn lọc sắc sảo
hơn, trau chuốt hơn, mang tính thi vị sâu sắc. Đặc biệt thuở Hoa niên thơ Tế Hanh đầy
những ngôn từ chỉ cảm xúc, tâm trạng. Nhà thơ ít đưa hiện thực cuộc sống vào thơ hơn sau
này:
Những buổi mai tươi nắng chói xa,
Hồn tôi lóng lánh ánh dương sa;
Những chiều êm ả tôi thư thái
Như kẻ nông dân trở lại nhà.
(Lời con đường quê )
Sau năm 1975, ngôn từ thơ Tế Hanh thường mang tính triết lý, suy gẫm về cuộc sống.
Có một thứ kính nào
Màu thời gian đặc biệt
26
Tôi thấy lại mặt em
Trong một ngày xuân đẹp.
(Những loại kính)
Thơ Tế Hanh giai đoạn chống Mỹ nói riêng, thơ chống Mỹ nói chung vang lên những
âm thanh khỏe chắc và say người là do hòa hợp được những âm sắc riêng và độc đáo. Các
nhà thơ bấy giờ có những biến đổi, phát triển rõ rệt trong phong cách sáng tác. "Phong cách
sáng tác của một nghệ sĩ thật sự có bản lĩnh và có năng lực nghệ thuật... luôn phát triển và
bổ sung những yếu tố mới... luôn tìm cách định hình để tạo nên một diện mạo riêng không
thể trộn lẫn" (5, tr.119).
1.1.2. Ngôn từ giàu sức biểu hiện, mang chất khỏe khoắn và giàu có của ngôn ngữ
đời sống:
Bên cạnh sự tự nhiên, giản dị, ngôn từ thơ Tế Hanh cũng phong phú, khỏe khoắn, giàu
sinh lực biểu hiện. Có được như thế trước hết là nhờ hệ thống những từ láy, từ ghép chỉ mức
độ, sắc thái một cách rõ rệt làm cho câu thơ thêm mạnh mẽ, mức độ biêu hiện đậm đặc hơn.
Một bên từng từng lớp lớp than dày
Núi lấp lánh như muôn ngàn đợi sóng
Một bên điệp điệp trùng trung chuyển động
Biển mang trong lòng sức sống vô biên.
(Giấc mộng diêu huyền)
Kìa đôi mắt, đôi mắt
Dòng sông yêu trong vắt.
Kìa vầng trán thanh thanh
Khoảng trời xưa yên lành.
27
(Mặt quê hương)
Ở Hoa niên thơ Tế Hanh đầy những từ chỉ trạng thái nội tâm có gì xa vời khó nắm
bắt: bỡ ngỡ, loanh quanh, lưu luyến, buồn tênh, chán chê, ngao ngán, rã rời, hững hờ, bơ
vơ, thấm thìa, rưng rức, héo hắt, nao nao, vơ vẩn, bần thần, bực bội, tư lự, nhợt nhạt,... Đến
thời chống Mỹ, giống như Huy Cận, thơ Tế Hanh đã trưởng thành hoàn toàn, hiện thực cuộc
sống đi vào trong thơ ngày càng phong phú. Cho nên lòng người ở đây không còn mềm yếu,
buồn vu vơ nữa, tác giả tập trung tư tưởng vào cuộc chống ngoại xâm. Hệ thống dày đặc
những động từ trong thơ Tế Hanh giai đoạn này làm cho lời thơ thêm tràn đầy sinh lực,
khỏe khoắn.
Người đọc bắt gặp ở thơ Tế Hanh rất nhiều động từ: quấn, bắn, treo ngược, giơ tay,
phá, nhảy, cắn răng, chùi, xô; đập, chửi la, chui, giơ tay ôm, trào, giam cầm, tra tấn, giết,
chao động, căm thù, khiếp sợ, thét, gầm, kêu, nhận chìm, rót, băng, vượt, gọi, tiêu diệt, rình
cướp phá, núp, nhìn, chạy, níu lấy, bá cổ, cuốn chạy, cúi nhìn, rẽ, lướt, vây riết, hám giữ,
ngẩn cao, quật, đẩy, nuốt chửng, chụp, bực tức, ghé, rình mò, khoanh tay, chôn, săn sóc, vỡ
ra, đè lên, đâm, xô đẩy, bằm, treo buộc, cản ngăn, ... Nhiều câu thơ, bài thơ có động từ xuất
hiện dày đặc tạo không khí căm hờn, sôi sục...
Quân giặc đến
bóng đen sầm trên biển sáng quê hương
những chiếc tàu ăn cướp chắn ngang đường
muốn vây riết xóm làng trong đối khổ
lưới cháy. Thuyền chìm. Máu đổ.
(Ngoài khơi gió lộng)
Ngôn từ khỏe khoắn, mạnh mẽ trong thơ Tế Hanh còn biểu hiện ở hệ thống những từ
đối lập xuất hiện khá nhiều. Đó là: căm thù - yêu thương, tối-sáng, cái bây giờ- cái trước,
hôm nay - ngày qua, dạo công viên - nấp hầm, bắp ngô củ sắn - bữa tiệc ngon lành, mây
đen- vầng dương, cảnh bạo tàn- cảnh yêu thương, nơi văn hóa- nơi bắn giết,...
Với lũ giặc là căm thù nghìn độ
28
Với giống nòi là tất cả yêu thương.
(Trái tim Nguyễn Thái Bình)
Gớt vậy đó. Thế mà quân phát xít
Đem mây đen toan bôi nhọ vầng dương
Cảnh bạo tàn thay thế cảnh yêu thương
Nơi văn hóa biến thành nơi bẳn giết.
(Một bài thơ về Gót)
Nếu ở Huy Cận người đọc nhận thấy ngôn từ đẹp và gợi cảm khi nói về cuộc sống mới
như trong Đoàn thuyền đánh cá, Về thăm chùa Keo, Một buổi chiều thu,...
Chiều tháng chín nắng vầng thịnh vượng
Ruộng bát ngát lúa xanh màu cốm
Hương lúa cũng xanh đọng ánh sương chiều.
Đất mỡ màu ngọn gió cũng phì nhiêu
Như thức gọi trăm nghìn mầm mộng.
(Về thăm chùa Keo)
Tế Hanh cũng yêu đời, tin tưởng ở công cuộc đổi mới của cách mạng. Bởi thế nhà thơ
đã đưa người đọc đến với thế giới của những ngôn từ khỏe, đẹp. Lời thơ tươi vui tràn đầy
sức sống bởi những so sánh gần gũi, giàu sức liên tưởng.
Nông trường ta rộng mênh mông
Trăng lên trăng lặn vẫn không ra ngoài.
(Nông trường cà phê)
Đất mở lòng tươi như ngực trẻ
29
Mầm non hạt mới ấm bàn tay.
(Đến Mộc Châu)
Mùa thu của cuộc sống mới đi vào thơ Tế Hanh cũng rất đẹp, tràn đầy sức sống bởi
những ngôn từ tươi, gợi cảm, màu sắc thắm dịu, ngọt ngào, hài hòa.
Nắng vàng mây lững lờ trôi
Nét xanh sóng lượn lưng đồi uốn cong.
Lúa mùa đang ngậm đòng đòng
Ngâm mình trong suối nước trong đạt dào.
{Mua thu ở nông trường)
Trong chiến tranh đầy mất mát, đau thương nhà thơ vẫn đau xót nhưng nỗi đau ấy đã
nung nấu lòng căm thù quyết tâm chống Mỹ chứ không bi quan. Nỗi đau, nước mắt trong
thơ Tế Hanh chính là mối quan tâm của nhà thơ với cuộc sống là lời đấu tranh thống nhất
đất nước.
Trong thơ tôi có câu đầy nước mắt
Nhưng tôi không chán nản đâu anh!
Khi nửa nước còn trong tay lũ giặc
Tôi cười vui dễ dãi sao đành.
(Tiếng sóng)
Đối với miền Nam, những câu thơ đánh địch mới đọc tưởng khô khan nhưng rất khỏe
và chắc đánh thẳng vào lũ giặc như trong bài: Ai, Lời anh tuyên án, Đâu phải chỉ mình tôi,..
Cũng như Huy Cận, ngôn từ thơ Tế Hanh giai đoạn chống Mỹ là ngôn từ khỏe, giàu
sức biểu hiện. Bởi nhà thơ đã có cái nhìn tin tưởng vững chắc hơn vào hiện thực cuộc sống
mới. Nếu Huy Cận nhận thấy:
30
Mưa xưa rời rạc tần ngần
Mưa nay ríu rít nhân quần tiếng vang.
(Mưa mười năm sau)
Thì Tế Hanh ga không còn là nơi chia ly, đau khổ như trước. Giờ đây ga là nơi cuộc sống
mới bắt đầu, chất chứa niềm vui và tin tưởng:
Nơi tập hợp những bình minh phấn khởi
Nơi vận chuyển những nguồn sinh lực mới.
(Ga)
Có thể nói cái nhìn yêu đời đã đưa tác giả đến thế giới của những ngôn từ khỏe, giàu
sinh lực biểu hiện cuộc sống. Thơ Tế Hanh có hàng loạt những từ ngữ chỉ niềm vui, kỳ vọng
ở ngày mai trong không khí hăng say lao động cũng như những cải cách mới. Nếu thời Hoa
niên đầy những: rụt rè, e ấp, buồn cô lẻ, ngơ ngẩn, hững hờ, bơ vơ, mơ màng, lối đi cỏ rậm,
bùi ngùi, run rẩy, nhớ rưng rưng, cỏ cây im lặng, buồn xơ xác, ngậm ngùi, bơ phờ,...thì nay
thơ Tế Hanh có những: kiến thiết, chói ngời sắc biếc, câu ca, chân trời xuân, gỗ thơm niềm
nở đón, rừng cây mát, tình yêu ghé bến, nhịp sống trăm phương, bình minh phấn khởi,
nguồn sinh lực mới, ga nắng hồng, đồng xanh, nắng tràn, chân trời công nghiệp, ngọt thêm,
xanh thêm, đồng ruộng biếc, ánh điện tỏa, kiêu hãnh, tiến mãi, trăng sáng khắp sân,. ..
Niềm tin tưởng, yêu đời ở Tế Hanh không gì có thể lấp đi được. Dù cơn bão biển hung
tàn đã nhấn chìm tàu chỉ còn một mình Dương sống sót với thân thể đầy thương tích nhưng
bài thơ vẫn loé lên niềm hy vọng, tin tưởng ở ngay mai bởi những ngôn từ chỉ màu sắc tươi
sáng, giàu sức gợi cảm.
Trời lại xanh, như một niềm mong đợi
Ánh sáng nhảy trên mái nhà rạ mới
...Chiếc thuyền thơm gỗ mới ánh mặt trời
Chờ một ngày từ lộng lại ra khơi.
31
(Ngoài khơi gió lộng)
Lời thơ thật quyết liệt, mạnh mẽ đã làm bật lên sức mạnh của dân tộc cũng như tinh
thần chiến đấu kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam trong chiến tranh. Từ đó bộc
lộ niềm lạc quan trong căm thù và tin tưởng ở ngày mai. .
Nơi của hy sinh, bất khuất, kiên cường
Đất nước anh hùng chói sáng Thái Bình Dương
Đã đứng dậy dưới ngọn cờ giải phóng.
... Những trái tim như trời rộng biển khơi
Máu thắm dâng vì hạnh phúc con người.
(Cả ngày mai là một với miền Nam)
Nhà thơ đã tin hơn vào sức mạnh kỳ điệu của quê hương. Lời thơ thật sắc, đầy ấn
tượng:
Ôi miền Nam! Vững mạnh bức thành đồng
Sức triệu người trỗi dậy đất trời rung.
(Quê hương lớn mạnh)
Với ý thức thể hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tác giả đã hạn chế cách diễn đạt
mềm mại của loại thơ thuần cảm xúc. Đặc biệt từ Khúc ca mới, Đi suốt bài ca nhà thơ tìm
đến cách nói trực tiếp hơn, nhiều khi trần trụi nhưng khỏe khoắn để biểu thị được tất cả sự
phong phú, đa dạng của hiện thực vĩ đại của nhân dân ta trong chiến đấu. Ở Đất này Vĩnh
Linh nhà thơ viết:
Trong nỗi nhớ thương có nỗi nhớ ánh sáng mặt trời
...chỉ hố bom, hố bom...
Bom B52, bom tọa độ, bom phá, bom xoáy, bom khoan
32
Hố đại bác từ 105 ly đến 406
Một dân số 7 vạn người, người nào cũng có nợ thù, nợ máu
Đất nàỵ suốt bốn năm vẫn thức
Con đường sống càng đi sâu xuống đất
Hầm chữ A địa đạo khắp nơi nơi.
Chất khỏe khoắn, giàu sức sống trong ngôn từ thơ Tế Hanh còn biểu hiện ở việc nhà
thơ dùng chất liệu ít, tiết kiệm ngôn ngữ cho sát với đối tượng: Mộ Bectôn Bơrếch, Chị câm,
Những con số, ...
Dưới ánh sáng của Đảng, thơ Tế Hanh giai đoạn này đã xa lìa cái cô đơn của ngày
trước cách mạng. Ngôn từ thơ bấy giờ tràn ngập ánh sáng, màu tươi, hoa trái. Các loại hoa
đường như tập trung vào thơ Tế Hanh cùng đua sắc, khoe màu làm cho câu thơ, bức tranh
thơ thêm hương vị đầy sức sống. Hoa phượng như bó đuốc sáng soi hồng mặt đất; hoa cúc
vàng, hoa thiên trúc, hoàng mai, quế hương bay man mác; hoa táo; hoa sen; hoa cà phê nở
trắng cành, hương hoa bát ngát; hoa hồng, đào, thược dược; hoa ban; hoa cỏ may; hoa tý
ngọ; hoa râm bụt; hoa báo mưa; hoa tuyết; hoa nhãn; hoa phia bióc; hoa cẩm chướng; hoa
quỳnh... Thơ Huy Cận cũng đầy ắp hiện thực màu sắc tươi sáng đầy hoa trái: hoa mướp, hoa
bí, hoa sấu,... nhưng phổ biến là lối thơ kể chuyện, nhà thơ nặng về sự việc, triết lý cuộc
sống. Xuân Diệu rạo rực bởi đón nhận những trái hồng lẫn trái xanh, Huy Cận lắng nghe
chất nhựa trên cành, tìm hương của đất thì chỉ màu xanh của lá cũng làm Tế Hanh hạnh
phúc.
Cũng giống Huy Cận, ngôn ngữ thơ Tế Hanh phong phú, sôi động, giàu sức sống. bởi
có hàng loạt các loài sinh vật như: chim, cá, bướm, ong, mèo, bò, ve, tôm, ngao, hến,... gắn
bó tạo nên hình ảnh đẹp, tràn đầy sức sống.
Những đàn cá rẽ mây lướt tới
Như cánh chim bay giữa từng không
Cá chuồn, cá thụ, cá nục, cá hồng...
33
Những con cá đuối vàng vây bạc vẫy.
(Ngoài khơi gió lộng)
Và người đọc cũng bắt gặp hàng loạt ngôn từ chỉ các loại rau quả như: rau muống, bắp
cải, su hào, cà, khoai, ngô, đào, táo, đậu tương, đu đủ, cam, mít, mận, nho, chuối,...Tất cả
đều hiện ra tươi thắm làm cho lời thơ phong phú giàu sức sống. Nếu ở Huy Cận người đọc
bắt gặp:
Chiều xuân nắng mịn lá khoai lang
Hoa bí bò leo nở cánh vàng.
(Chiều xuân bên đường)
Thì ở Tế Hanh:
Trong gánh rau tươi đến chợ mai
Bắp cải su hào còn mọng nước.
(Gặp xuân ngoại thành)
Cơm thơm canh ngọt bay hơi nóng
Rau nhắm the the cà cắn giòn.
(Bữa cơm sơ tán)
Trong thơ Tế Hanh có một lớp ngôn từ chỉ tên sông, tên đất, tên người,...giúp lời thơ
thêm sinh động. Những ngôn ngữ định danh như vậy đem lại cho thơ cái cụ thể, khỏe
khoắn, chân thực của cuộc sống.
Tóm lại, ngôn từ thơ Tế Hanh rất phong phú, đa dạng. Nhà thơ đã khéo đưa vào thơ
mình khá đầy đủ tiếng nói của đời sống làm cho lời thơ gần gũi, chân thật. Và từ hiện thực
cuộc sống cũng như tấm lòng yêu quê hương sâu sắc, Tế Hanh đem đến cho thơ mình chất
khỏe khoắn, mạnh mẽ. Tất cả góp phần thể hiện hồn thơ Tế Hanh.
34
1.1.3. Ngôn từ đẹp, gợi cảm nhưng đôi khi lại nông nhẹ:
Nhìn chung ngôn từ thơ Tế Hanh giai đoạn chống Mỹ đẹp và gợi cảm. Cái đẹp ở đây
không phải ở sự bóng bẩy . Cái đẹp trong ngôn từ thơ Tế Hanh là cái đẹp của ngôn ngữ chân
thật, trong sáng, giàu hình ảnh liên tưởng gần gũi, mới lạ mang phong cách ngôn ngữ thuần
Việt quen thuộc trong đời sống hàng ngày. Đọc thơ Tế Hanh rất dễ hiểu, lời thơ trong sáng,
gợi cảm không hoa mỹ . Người đọc tưởng chừng như nhà thơ đang chân tình bày tỏ tiếng
nói của trái tim mình. Điều này trước hết là nhờ sự trong sáng, chân thực, khỏe khoắn giàu
sức biểu hiện như đã nói; Tế Hanh rất có khả năng trong việc vận dụng hệ thống từ láy, từ
ghép giàu hình ảnh, sinh động, gợi cảm.Từ loại này xuất hiện dày đặc làm tăng vẻ lung linh,
sáng rõ trong thơ. Bắt nguồn từ tình yêu quê hương và cái nhìn đổi mới về hiện thực đời
sống nhà thơ đã có những lời thơ đẹp, giàu năng lực biểu hiện như khi viết về con sông quê
hương.
Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Tỏa bóng xuống dòng sông lấp loáng.
Chính từ xanh biếc để miêu tả dòng sông, nước như gương trong soi bóng những hàng
tre tưởng chừng như soi tóc đã gợi lên nét đẹp nên thơ, dịu dàng, gợi cảm. Tâm hồn nhà thơ
là buổi trưa hè tỏa bóng xuống dòng sông làm cho dòng sông trở nên lung linh tuyệt đẹp.
Tất cả, được nhà thơ diễn tả bằng một từ láy rất gợi cảm lấp loáng. Con sông ghi dấu ấn
tuổi thơ với những kỷ niệm đẹp chứa chan tình cảm. Ngôn từ giàu hình ảnh, gợi cảm, cách
diễn đạt trong sáng tạo nên những hình ảnh đẹp dễ đi vào lòng người.
Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu
Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy
Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy
Bầy chim non bơi lội trên sông.
35
(Nhớ con sông quê hương)
"Nét riêng trong phong cách Tế Hanh là một tâm hồn nhạy cảm với cái đẹp. Ông miêu
tả hiện thực cuộc sống với một lý tưởng đẹp và vì vậy thường thiên về khai thác cái đẹp
trong cuộc sống trong thiên nhiên" (68, tr.30). Lời thơ đẹp đầy sinh khí, ngon như đoạn
miêu tả tổ đánh cá giữa biển khơi:
Con thuyền ru giữa biển tình thương
Cánh buồm giỏ lưng trời vời vợi
Những đàn cá rẽ mây lướt tới
Như cánh chim bay giữa từng không
Cá chuồn, cá thu, cá nục, cá hồng
Những con cá vây vàng đuôi vẫy bạc.
(Ngoài khơi gió lộng)
Trong giai đoạn chống Mỹ dù mất mát, hy sinh nhưng Tế Hanh vẫn giữ được nét tinh
tế trong dùng từ, dùng chữ. Đi vào cuộc sống nhà thơ dường như muốn lướt qua phần hiện
thực vất vả mà hướng vào khai thác những nét duyên dáng, nên thơ ở những đối tượng tự nó
vốn là đẹp. Tả Mùa thu ở nông trường nhà thơ chú ý vào cái duyên dáng, thi vị, thơ mộng,
mượt mà:
Nắng vàng mây lững lờ trôi
Nét xanh sóng lượn lưng đồi uốn cong
Lúa mùa đang ngậm đòng đòng
Ngâm mình trong nước suối trong dạt dào.
Lời thơ càng giàu sức biểu hiện, gợi cảm khi tác giả nói về những buổi Họp tổ đêm
trăng:
Công việc ngày mai đã bàn kỹ
36
Ra về thoang thoảng lúa ba hương
Sáng mai dậy sớm chờ nhau với
Chung mộng, chung lòng, chung mảnh trăng.
Từ cái tạng cảm xúc ưa những gì dịu nhẹ, gần gũi, sâu lắng thơ Tế Hanh nồng nàn,
trong trẻo, hồn hậu. Hiện thực cuộc sống như được nhà thơ lựa chọn đưa vào những ý tiêu
biểu rồi tô đậm và thể hiện bằng câu chữ tinh tế, dịu dàng, gợi cảm. Tế Hanh viết nhiều về
thiên nhiên. Đó là thiên nhiên được miêu tả bằng giọng trìu mến yêu thương đặc biệt với
những nét đẹp tinh tế sáng tạo. Thơ Tế Hanh tràn ngập những trời, biển, trăng, mây, gió,
hoa, chim, cá...Ngay những tia nắng đẹp cuối cùng còn lại cũng khắc vào lòng tác giả:
Góc sân ánh nắng như lưu luyến
Dừng lại trên cành hoa báo mưa.
(Hoa báo mưa)
Ngòi bút Tế Hanh còn độc đáo trong việc lột tả được cái không khí huyền ảo, vẻ đẹp
tinh khiết, dịu dàng của khoảnh khắc đóa hoa bừng nở, khoảnh khắc của sự giao cảm tuyệt
vời giữa tâm hồn nhà thơ với thiên nhiên. Câu thơ lung linh cảm xúc:
Trên hoa trăng sáng một vừng
Dưới trăng hoa nở bừng bừng nhụy bông
Hoa là trăng đậu cành cong
Trăng là hoa ngự trời trong ngời
Hoa trăng với lại hồn tôi
Phút giây hư thực đất trời trôi qua.
(Hoa nở theo trăng)
Thơ Tế Hanh có rất nhiều trăng, trăng hiện lên với những nét đẹp khác nhau. Ánh
trăng như rọi vào thơ Tế Hành làm cho thơ có cái đậm đà, ý nhị, tình tứ tươi trẻ. Có thể nói
37
ngôn từ thơ Chế Lan Viên giàu chất triết lý: "Đất nước mênh mông đời anh nhỏ hẹp", Huy
Cận nồng nàn trong hương vị của đất đai và cái thẳm sâu của vũ trụ:
Đất thở xanh rờn triệu lá
Chiều thu như ngọn lửa xanh
Sông chảy chuyện trò với cá
Như khi vũ trụ bình minh.
(Một buổi chiều thu)
"Tế Hanh tinh tế rút lấy cái thần, cái hồn của thiên nhiên để bộc lộ cảm xúc đa dạng
phong phú của trái tim mình. Đồng thời lại gửi vào thiên nhiên cả cuộc sống tâm hồn mình
khiến cho cuộc sống không chỉ có hình sắc mà chất chứa biết bao tiếng nói tự bên trong."
(68, tr.32). Xuất phát từ tâm hồn chân thật yêu cái đẹp nên ngôn từ trong thơ Tế Hanh đẹp
và gợi cảm, bởi nó tinh tế vô cùng. Tuy nhiên, những mộc mạc, giản dị của chất liệu đời
sống làm cho ngôn từ thơ Tế Hanh phong phú nhưng đôi lúc lại thiếu chọn lọc và chưa
chuyển thành năng lượng thơ. Ở Gửi miền Bắc có khi những chữ những lời còn chưa thật
nhuần nhuyễn.
Em gửi áo lo anh giận dỗi
Nhận áo em anh lại sợ em phiền
Đời cán bộ ít thì giờ nhàn rỗi
Vì việc chung đôi lúc nhẹ niềm riêng.
(Rét Nàng Bân)
Những nhà cửa tắm trong không khí
Những con đường như dẫn tới tình yêu.
(Gửi miền Bắc)
38
Tế Hanh có sự thắm thiết của con tim, sự chân thành trong tình cảm góp phần làm cho
thơ Tế Hanh dễ nhớ và sống mãi trong lòng người đọc. Nhưng bên cạnh những ngôn từ
khỏe khoắn, đẹp đẽ đáng trân trọng để diễn tả tấm lòng đó, góp phần làm phong phú thơ
Việt Nam đương đại thì sự chân thật, mộc mạc ấy nhiều khi làm cho thơ Tế Hanh thêm bề
bộn và dễ dãi, sơ sài. Ý bài thơ có phần nông cạn chưa sâu sắc. Với Tế Hanh cái thật thà
trần trụi trong cái chân thành, giản dị. Hai vế này trộn lẫn vào nhau suốt trong quá trình
sáng tạo và đôi khi ngay cả trong một bài thơ. Cải giản dị chân thành ấy có thể trở thành
một cử chỉ dễ thương, một câu thơ hay và trong sáng. Nhưng chỉ cần sa sẩy một chút là trở
nên vụng về.
Bài thơ Nông trường cà phê bên cạnh những câu thơ hay thì có những câu lời thơ còn
nông cạn. Để diễn tả sự mênh mông của nông trường, của những luống cà phê thẳng tấp dài
như vô tận tác giả dùng ngôn từ bình dị như lời nói hằng ngày làm nên câu thơ rất thực và
không kém vẻ đẹp:
Cà phê chạy tới chân mây
Song song luống thẳng, lá đầy nắng mai.
Nhưng khi nhà thơ nói: "Cà phê chạy tới tương lai" thì lại là thiếu suy nghĩ. Ngôn từ ở
đây dường như không đáp ứng được tâm hồn của thi nhân làm cho ý thơ nông nhẹ. Và chính
lối viết quá chân thực, dễ dãi chưa đào sâu vào tâm hồn nên nhà thơ diễn tả cảm xúc của
mình bằng những từ ngữ còn quá hiền lành, chung chung. "Tách cà phê nóng trong đêm,
Bạn cùng tôi uống" thì chân thực chưa thấy gì nhưng ý chính của câu thơ tác giả đã buông
lỏng "hồn thêm mơ màng". Đây là bài thơ hay nhưng tâm hồn mơ màng của thi nhân có lẽ
làm rơi rụng đi ít nhiều giá trị của bài thơ.
Trong bài Vườn xuân tác giả đã bày tỏ niềm vui mừng khi đến thăm trại nhi đồng vào
mùa xuân và nhớ đến thời "Tiếng đau mất nước đọng buồn trong nôi" nhưng niềm vui bên
con chỉ được thể hiện một cách nông nhẹ, lời thơ kết thúc thật hời hợt. Cảnh vui bên con chỉ
làm cho lòng người cha "thêm tình" chứ chưa có gợi cho người đọc thấy một tương lai hạnh
phúc ở ngày mai.
Vườn mai vang tiếng chim ca
39
Có con cha thấy lòng cha thêm tình,
Cũng có những bài thơ trong Hai nửa yêu thương như : Trông gì, Đâu phải chỉ ninh
tôi, Ai,...có lẽ do quá lạm dụng các câu hỏi mà rơi vào đơn điệu. Các từ : ai ( chồng ai, con
ai, làng ai, ai đi) trong cùng một bài thơ ngắn Đâu phải chỉ mình tôi, và từ "ai" trong Ai
lặp đi lặp lại 12 lần chiếm gần hết từ ngữ trong bài thơ làm cho ngôn từ nghèo đi. Hay
những bài thơ như : Vì miền Nam ruột thịt, Dâng Bác những chiến thắng Khe Sanh, Chào
An Lão,...nhà thơ theo sát những vấn đề thời sự và phản ánh kịp thời những sự kiện xảy ra
trên quê hương nhưng đôi khi còn khô khan.
Có thể nói, bằng tâm hồn thành thực và tinh tế, nhạy cảm Tế Hanh đã đưa vào thơ
mình thế giới ngôn từ phong phú, bình dị, trong sáng, khỏe khoắn, gợi cảm, giàu sinh lực
biểu hiện cuộc sống. Vốn có tâm hồn nhạy cảm, khi cảm xúc đến là nhà thơ có được những
lời thơ đẹp. Nhưng đôi lúc vì hời hợt nên có những lời thơ còn nông cạn, chưa diễn tả hết
được tâm hồn của nhà thơ.
1.1.4. Vần:
Mội trong những yếu tố tạo nên đặc trưng ngôn ngữ thơ ca là vần thơ. Đối với các loại
thơ Đường, thơ cách luật thì vần là một yếu tố rất quan trọng. Vì bài thơ thuộc thể loại nào
thì sẽ có những hiện tượng gieo vần tương ứng theo một khuôn phép không được vượt ra
ngoài. Nhưng từ khi thơ Mới có mặt trên thi đàn Việt Nam, vần thơ đã có những đổi mới
bởi xuất hiện nhiều thể loại thơ mới, khuôn phép của thơ cũ đã bị phá vỡ. Thơ hiện đại niêm
luật đã có những phá vỡ ngay cả lối hiệp vần cũng khác.
"Vần thơ là một phường tiện tổ chức văn bản dựa trên cơ sở để lập lại không hoàn toàn
các tiếng ở những vị trí nhất định của dòng thơ nhằm tạo nên tính hài hòa và liên kết của
dòng thơ và giữa các dòng thơ" (48, tr.292). Theo Phan Diễm Phương, " Vần là một phương
tiện tổ chức văn bản thơ ca dân gian dựa trên cơ sở lập lại không hoàn toàn các tiếng ở
những vị trí nhất định của dòng thơ nhằm tạo nến tính hài hòa và liên kết giữa các dòng thơ"
(91, tr.38). Theo Hê ghen vần trong thơ là do nhu cầu thực sự của tâm hồn muốn nhìn thấy
mình được biểu lộ rõ hơn, nhiều hơn, có sự vang dội đều đặn. Vần làm nổi bật yếu tố cảm
giác, là một độ vang nặng và đầy. Như vậy, vần thơ là sự phối hợp ảnh hưởng của các âm có
cùng một khuôn và cùng một thanh trắc hay bằng. Vần nối những từ, những hình ảnh,
40
những ý lại với nhau để tạo thành đơn vị thống nhất, thuận lợi cho trí nhớ và mang âm
hưởng riêng.
Xét về mặt ngữ âm, vần coi như sự lập lại các âm trong một tập hợp âm nổi giữa hai
dòng thơ và kéo dài đến cuối bài thơ. Vần có khả năng tạo nên giọng đọc của đoạn thơ: nó
định hình việc thông báo dòng thơ ở đơn vị kết thúc có tính chất thơ. Khi trong thơ có sự tác
động lẫn nhau giữa các đơn vị ngữ điệu và ngữ điệu giữa đoạn, vần có khả năng tạo nên sự
liên hệ giữa chúng. Vần có ý nghĩa về phương diện ngữ âm như một sự lập lại âm thanh và
có ý nghĩa vận luật tạo nên giới hạn của một dãy âm trong một câu thơ. Vần do người làm
thơ tạo ra một cách có ý thức cho nên nó nhất định có mang phong cách tác giả, có mang
tính mỹ học nhất định.
Phát huy thơ Mới trên nền tảng của thơ cũ thơ Tế Hanh vừa mang nét truyền thống của
thơ cũ đồng thời cũng vừa kế thừa, cách tân các thể loại thơ Mới. Khảo sát thơ Tế Hanh giai
đoạn chống Mỹ, chúng tôi thấy nhà thơ đã sử dụng tất cả cách hiệp vần theo thơ ca truyền
thống và tiếp thu nhiều cách gieo vần của thơ ca nước ngoài, chủ yếu là thơ pháp tạo nên
những cách tân đáng kể trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam.
1.1.4.1. Về vị trí gieo vần, thơ Tế Hanh thể hiện được sự gắn bó giữa các dòng thơ:
Các lối gieo vần đã có trong thơ ca truyền thống đều được Tế Hanh khai thác, vận
dụng. Về vị trí, tùy theo từng thể loại thơ khác nhau mà hai lối gieo vần cơ bản là vần lưng
và vần chân được Tế Hanh chú trọng khai thác ở những mức độ khác nhau.
- Vần lưng (yêu vận) là vần được gieo ở giữa dòng thơ. Trong thơ Tế Hanh vần lưng
chủ yếu được vận dụng ở thể lục bát, thất ngôn và một số ở thể thơ 8 chữ. Vần lưng ở thể
lục bát được gieo ở tiếng thứ sáu cửa dòng thơ một cách đều đặn làm cho câu thơ thêm nhịp
nhàng, êm ái, giúp cho người đọc dễ nhớ, dễ thuộc và tạo cảm giác mộc mạc thân thuộc như
ca dao.
Đêm nay trăng sáng Bắc Kinh
Nhớ trăng Hà Nội thấm tình quê hương
Lòng như cuộn chỉ yêu thương
41
Quấn theo mỗi một đoạn đường ra đi.
(Dặm liễu)
Ở các thể thơ 7 chữ, 8 chữ vần lưng được tác giả vận dụng ít hơn. Trong mỗi tập thơ
thỉnh thoảng xuất hiện những hình thức gieo vần lưng như:
Tiếng sóng biển quê hương hay tiếng sóng
Đã bao lần vang động giữa thơ tôi.
(Tiếng sóng)
Suốt ngày làm cỏ làm phân bón
Những miếng bùn đen dính ngón chân.
(Họp tổ đêm trăng)
Vần lưng ở đây được gieo chủ yếu ở tiếng thứ năm một số ở tiếng thứ sáu. Lối gieo
vần như vậy làm cho câu thơ 7 chữ, 8 chữ vốn mạnh mẽ trở nên uyển chuyển nhịp nhàng
hơn và các dòng thơ gắn bó nhau hơn. Mặt khác, những vần lừng nối nhau trực tiếp trong
từng câu thơ gợi lên những âm điệu đặc biệt, tăng sức gợi cảm cho tứ thơ. Ngoài vần lưng,
thơ Tế Hanh vận dụng chủ yếu là vần chân với nhiều loại khác nhau.
-Vần chân (cước vận) là vần được gieo vào cuối mỗi dòng thơ có tác dụng đánh dấu sự
kết thúc dòng thơ và tạo nên mối liên kết giữa các dòng thơ. Khảo sát thơ Tế Hanh chúng
tôi thấy vần chân được gieo rất phổ biến ở tất cả các thể loại. Ở thể lục bát vần chân làm cho
các câu lục bát gắn liền nhau tạo âm điệu nhịp nhàng, uyển chuyển.
Bé nằm nhớ mẹ phương xa
Trăng thương nghiêng xuống mặt hoa gần gần
Bốn bề bát ngát trăng ngân
Câu ca dân tộc nghìn năm lại về.
(Bé hát dưới trăng)
42
Các thể thơ 4 chữ, 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ,...vần chân cũng được sử dụng phổ biến theo
nhiều cách khác nhau. Ngoài các vần chân được gieo theo thơ cũ như vần liên tiếp, vần gián
cách thơ Tế Hanh còn kết hợp với lối hiệp vần của thơ Pháp.
Vần liên tiếp theo lối tứ tuyệt:
Biết một những mà vẫn thấy hai
Phương tây sao Hôm, đông sao Mai
Sao Mai chờ sáng, Hôm chờ tối
Bát ngát không gian khoảng cách dài.
(Sao Hôm, sao Mai, Sao Kim)
Vần liên tiếp gieo từng cặp một:
Mắt anh nhìn, cả trời quê trong vắt (V1 )
Tiếng anh nói hay cỏ cây thầm nhắc ( V 1 )
Bước anh đi, dáng dấp quen thân (V2 )
Hay núi sông đang nhích lại gần. (V2)
(Cả ngày mai là một với miền Nam)
Vần gián cách:
Anh đứng trong nắng chiều (V1 )
Nhìn cánh đồng hợp tác ( V2 )
Bóng anh ngã thân yêu (V1)
Ruộng này qua ruộng khác. (V2
(Bóng anh)
Vần ôm nhau:
43
Lòng miền Nam mơ ước đến Tân Trào ( V1)
Đường bị cắt gặp ngày con nước lũ (V2 )
Dừng bên suối tìm vết chân lãnh tụ (V2 )
Trông núi rừng tưởng vọng bóng Đa Cao. (V1)
(Tưởng vọng Tân Trào)
Vần hỗn hợp: là hiệp vần theo hai vần nhất định và thường là một bằng một trắc trong
những câu thơ xen lẫn nhau.
Khi quân thù đem tre cọc, thép gai
Dồn dân chúng trong khu trù mật
Mẹ còn không sau những ngày sáu mốt
Chúng dôi bom, rải chất độc lan tràn
Hay mới đây trong những trận càn
Ấp chiến lược mẹ còn không hỡi mẹ ?
(Mẹ mãi còn)
Trong mỗi bài thơ các cách hiệp vần theo những kiểu như thế đan xen, phối hợp nhau
tạo nên âm điệu biến hóa phù hợp với tâm trạng, cảm xúc trong mạch thơ. Bởi vì mỗi cách
hiệp vần mang một giọng riêng, một âm điệu riêng. Ngoài ra, thơ Tế Hanh còn có lối gieo
vần liên tiếp và tách thành từng cặp trong suốt bài thơ tạo nên những âm điệu dứt khoát,
chắc và mạnh như xoáy sâu vào một giọng điệu nào đó như: Ai, Mặt quê hương, Nhà máy
Lâm Thao, Nói chuyện với người yêu một ngày đầu năm, Chào Vạn Tường,... vần liên tiếp
được gieo từng cặp trong Ai làm bật lên giọng căm hờn kết tội lũ giặc và ca ngợi mạnh mẽ
tấm lòng đấu tranh anh dũng chống giặc của nhân dân.
Ai chín năm giết người
Moi gan nhắm rượu cười?
44
Ai xé thây em bé
Hiếp chết luôn người mẹ?...
(Ai)
Và ở Mặt quê hương với lối gieo vần liên tiếp từng cặp, chắc nịch tác giả đã hình dung mặt
người yêu và mặt quê hương hòa vào nhau làm cho tứ thơ sâu sắc. Vần thơ biến đổi liên tục
trong từng cặp nhưng vẫn gắn bó nhau tránh sự lặp lại đều đều nhàm chán đồng thời mở
rộng được những liên tưởng bất ngờ góp phần thể hiện nội dung tác phẩm.
Mặt em như tấm gương
Anh nhìn thấy quê hương
Kìa đôi mắt, đôi mắt
Dòng sông yêu trong vắt
Kìa vầng trán thanh thanh
Khoảng trời xưa yên lành ...
(Mặt quê hương)
Lối gieo vần này làm cho âm điệu trầm bổng, biến đổi linh hoạt, nhịp nhàng bớt đi vẻ
đơn điệu. Mỗi cặp vần khi đọc xong như còn vang xa, giàu sức gợi.
1.1.4.2. Về mặt âm thanh, vần trong thơ Tế Hanh tạo nên âm điệu biến hóa tăng
sức gợi cảm;
Xét về mặt âm thanh, vần trong thơ Tế Hanh cũng được kết hợp trên hai loại.
-Vần chính: "là sự hòa phối âm thanh ở mức độ cao giữa các tiếng được gieo vần trong
đó bộ phận vần cái (kể từ nguyên âm chính đến cuối âm tiết) hoàn toàn trùng hợp" (48,
45
tr.293). Như vậy, vần chính là những vần đọc theo một khuôn âm. Trong thơ Tế Hanh vần
chính được nhà thơ vận dụng khá phổ biến ở tất cả các thể loại. Nhờ vậy, thơ Tế Hanh mang
âm điệu gắn bó rõ rệt ở các dòng thơ. Có thể nói chính độ hòa âm cao này mà sự liên kết ở
các dòng thơ trở nên hài hòa trôi chảy, không gây ấn tượng gò ép lỏng lẻo. Khổ thơ sau
trong Cái giếng đầu làng đã sử dụng vần chính là vần ương như phương, đường, hương
tạo nên cảm giác liền mạch chặt chẽ, ngân vang.
Cái giếng đầu làng của người bốn phương
Lau giọt mồ hôi, dừng bên đường
Uống ngụm nước đựng trong lòng nón
Nghe thấm tràn tình nghĩa quê hương.
-Vần thông "là loại vần được tạo nên bởi sự hòa phối âm thanh giữa các tiếng được
gieo vần trong đó bộ phận vần cái (kể từ nguyên âm chính đến cuối âm tiết) khổng lặp lại
hoàn toàn mà có thể khác biệt nhau chút ít" (48, tr.293). Nói cách khác, vần thông là những
vẫn mang những khuôn âm tương tự.
Ở Tế Hanh nhất là ở thể lục bát vần thông ít được vận dụng hơn so với vần chính. Xen
kẽ với những câu thơ có vần chính, vần thông được sử dụng rải rác tạo không khí sinh động
trong bài thơ, tránh sự lặp lại đơn điệu đồng thời diễn tả được mạch cảm xúc của tác giả.
Trong Đi tìm mùa xuân bên cạnh bốn khổ thơ sử dụng vần chính thì có một khổ nhà thơ
gieo vần thông:
Lên đây gian khổ đã từng
Sắn khoai có bữa, giặc lùng mấy phen
Nhưng đời đã mới trong em
Lối đi chim gọi, trăng quen đến nhà.
Nhìn chung trong thơ Tế Hanh cách hiệp vần cũng đa dạng tùy theo mạch cảm xúc của
tác giả. Từ đó tạo sự biến đổi âm điệu làm cho lời thơ sinh động mà đạt độ hòa âm nhất định
để thể hiện nội dung. Vần lưng và vần chân cũng được nhà thơ chú ý khai thác và vận dụng
46
một cách độc đáo, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại tạo nên sự liên kết, gắn bó giữa các
dòng thơ đồng thời cũng làm cho lời thơ gợi cảm.
Tùy theo thể loại và chủ đề bài thơ khác nhau vần thơ cũng được vận dụng khác nhau.
"Nếu tiết tấu đã tạo nên nét khu biệt của thơ, thì vần chính đã làm nên sự khác biệt giữa các
thể loại" (10, tr. 170). Thơ lục bát thường dùng để diễn tả cảm xúc trìu mến ngọt ngào thân
thương, mang âm điệu trầm lắng sâu sắc. Nên ở thể loại này nhà thơ hoàn toàn hướng đến
chuẩn mực của thơ cách luật, nghĩa là hoàn toàn sử dụng vần bằng, vần lưng và vần chân
đều được chú trọng. Các thể thơ khác như: 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ,..,vần chân được vận dụng là
chủ yếu, vần lưng ít được dùng hơn phù hợp cho nhà thơ bày tỏ những cảm xúc một cách
mạnh với đối tượng. Lối hiệp vần ở các thể thơ này rất đa dạng theo nhiều cách vừa mang
tính truyền thống của dân tộc vừa mang đậm dấu vết của thơ Pháp. Trong một bài thơ cách
gieo vần ấy đan xen nhau góp phần tạo nên âm điệu phức hợp, giọng điệu riêng trong phong
cách Tế Hanh.
1.2. Hình ảnh:
Tế Hanh là một tâm hồn giàu cảm xúc. Có thể nói, tình cảm đã tạo nên sức mạnh chủ
yếu trong thơ Tế Hanh. Một trong những cách để nhà thơ biểu hiện cảm xúc của mình
thường là thông qua hệ thống hình ảnh. Hình ảnh có vai trò quan trọng trong quá trình sáng
tạo thơ. "Hình ảnh do vậy vừa là một đơn vị của nội dung có ý nghĩa thẩm mỹ khách quan
vừa là một nhân tố để biểu hiện cảm xúc" (68, tr.264). Bằng sức mạnh của tâm hồn, Tế
Hanh đã đem lại cho thơ mình một phong cách riêng, rất Tế Hanh. Khảo sát thơ Tế Hanh có
thể thấy ông là người coi trọng hình ảnh và có ý thức xây dựng một thế giới hình ảnh phong
phú, đa dạng để biểu hiện cảm xúc phức tạp trong tâm hồn. Trong thời kỳ chống Mỹ thơ Tế
Hanh nổi lên một số hình ảnh tiêu biêu:
1.2.1. Hình ảnh thực, khỏe khoắn, dung dị, nồng đượm hơi thở của cuộc sống.
Không phải đợi đến thời chống Mỹ thớ Tế Hanh mới có những hình ảnh thực gần gũi
với đời sống con người má ngay từ tập thơ đầu tay (Tập Hoa niên, 1944), Tế Hanh đã tạo
ấn tượng về thế giới nghệ thuật đầy hình ảnh. Bằng trí tưởng tượng và khả năng liên tưởng,
Tế Hanh đã bộc lộ năng lực tạo hình ảnh thơ sinh động. Đến thời kỳ chống Mỹ cứu nước
47
khi cảm xúc ngày thêm phong phú, đối tượng phản ánh ngày càng mở rộng, hiện thực đời
sống ùa vào thơ, thơ Tế Hanh đã có thêm những hình ảnh, màu sắc, đường nét mới của cuộc
đời, thế giới hình ảnh thơ Tế Hanh cũng đa dạng hơn.
Trước cách mạng, giữa lúc các nhà thơ Mới đang lạc vào thế giới của mơ mộng, cô
đơn, trốn tránh hiện thực thì Tế Hanh đã hướng về hiện thực của đời sống gần gũi với quê
hương vùng biển của ông. Ở Quê hương đã hiện lên khung cảnh làng chài lưới trong những
sinh hoạt náo nức:
Khỉ trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá...
...Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về...
...Những con cá tươi ngon thân bạc trắng...
Rõ hơn cả là hình ảnh người dân chài: "làn da đen rám nắng, cả thân hình nồng thở vị
xa xăm". Đây là những hình ảnh thực, khỏe khoắn được kết tinh từ cảm xúc chân tình, tinh
tế của nhà thơ, một tâm hồn có khả năng nhìn thấy hồn của sự vật "cánh buồm giương to
như mảnh hồn làng". Hay nhà thơ tìm về hình ảnh của người mẹ lặng lẽ ngồi vá bên Chiếc
rổ may với từng cái kim hư, sợi chỉ rối, hột nút mòn,...
Trong thời chống Mỹ, Tế Hanh đã xác định con đường của mình, thơ Tế Hanh đã
trưởng thành, đã đạt độ chín, càng gắn bó hơn với cuộc sống. Cái thực và cái thơ của cuộc
sống được tích tụ và bồi đắp nhiều hơn cho thơ ca. Vì vậy, thế giới hình ảnh của Tế Hanh
bấy giờ khỏe khoắn, chân thực hơn, mang tiếng nói của cuộc sống thực tế nhiều hơn. Nêu ở
Huy Cận cuộc sống mới đi vào thơ tạo nên những hình ảnh tuyệt vời, độc đáo của lối làm ăn
tập thể:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
48
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
(Đoàn thuyền đánh cá)
Thì trong thơ Tế Hanh hình ảnh Nông trường Mộc Châu cũng tràn đầy sức sống.
Thảo nguyên trông ngút tầm con mắt
Ngang dọc nhô lên những máy cày
Đất mở lòng tươi như ngực trẻ
Mầm non hạt mới ấm bàn tay.
Hình ảnh khỏe khoắn của cuộc sống đã đem đến cho thơ sức sống mới tràn ngập niềm
vui sống yêu đời hơn. Điều này chứng tỏ nhà thơ rất quan tâm đến hiện thực cuộc sống và
yêu cuộc sống. Mặt khác, Tế Hanh luôn day dứt trăn trở, đau xót cho cảnh đất nước còn
chìm trong biển lửa. Cho nên hình ảnh quê hương miền Nam đang chiến đấu chống kẻ thù
phải chịu bao mất mát đau thương cũng đi vào thơ Tế Hanh. Người đọc thơ Tế Hanh không
thể nào quên hình ảnh của Người đàn bà Ninh Thuận:
Vai mang gùi đầu quấn khăn tang
Chị đi từ dưới xóm làng
Lên thăm em chị ăn làm chiến khu
Thấy mắt chị sưng vu...
Cũng có những bà mẹ vượt giới tuyến để thăm con bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm như
trong Mẹ còn. Và làng quê giặc phá tan tành, cửa nhà ra bụi, thuyền mành ra tro. Trong
cảnh bạo tàn đó nhà thơ đã nhìn thấy hình ảnh của Bà mẹ già canh biển mắt lòa chân yếu
nuôi giấu bộ đội đánh Mỹ.
Giặc lên mẹ chạy đi kêu
Đồng bào nghe giặc thảy đều lảnh xa
Cùng dân quân mẹ ở nhà
49
Mẹ theo sát địch dò la tình hình.
Hình ảnh em Ái chết trên biển vì em bảo vệ làng quê, giết chết giặc Mỹ gây hoang
mang cho chúng.
Tấm thân trẻ nổi bập bềnh trên sóng
Những sợi tóc như sợi rong nước mọng
Mặt còn tươi tựa mảnh san hô
Máu láng lai đỏ thắm ven bờ.
( Cái chết của em Ái)
Tế Hanh đã ghi dấu phần lớn hiện thực vào trong thơ mình. Bằng tâm hồn yêu quê
hương cùng sự liên tưởng độc đáo, những hình ảnh thực được Tế Hanh dựng lên gây ấn
tượng rõ trong lòng người đọc. Bắt nguồn trên nền tảng của hiện thực cùng cái nhìn, cái cảm
của tác giả, các hình ảnh đi vào trong thơ Tế Hanh thường giữ nguyên dạng thức vốn có của
cuộc sống. "Dường như nhà thơ bứng nó từ cuộc đời, đem trồng nó vào nghệ thuật vào thơ
ca" (68, tr.264).
Nhớ con sông quê hương nhà thơ vẫn nhớ bằng chính cái hiện thực của cuộc sống
làng quê ngày nào chứ không chút gì là ảo cả, Hình ảnh này trở thành hình ảnh tiêu biểu của
làng quê Việt Nam trong lòng những người con yêu nước.
Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu
Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy
Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy
Bầy chim non bơi lội trên sông.
(Nhớ con sông quê hương)
Vào Mùa thu ở nông trường nhà thơ đã nhìn thấy hình ảnh đàn bò no cỏ đang trở về
chuồng rật thực chứ không hề cầu kỳ, làm người đọc hình dung rất cụ thể:
50
Đàn bò ăn cỏ no nê
Theo con đường nhỏ qua khe về chuồng.
Đọc đoạn thơ miêu tả hình ảnh mọi người Trong bệnh viện thiếu nhi, chúng ta tưởng
chừng như mình đang chứng kiến cái giờ phút gay go, chiến đấu từng giây giữa sống và
chết nơi bệnh viện cũng như nỗi lòng của nhân vật trữ tình. Nhà thơ nói rất tỉ mỉ, chân thực
nên ghi vào lồng người đọc hình ảnh khó phai:
Một căn phòng điện vẫn sáng trưng
Những cặp mắt lo âu, những tiếng nói ngập ngừng
Phòng cấp cứu - con tôi nằm thoi thóp
Cặp mắt đờ dần, đôi môi tái nhợt
Lạnh chân tay chỉ còn nóng quanh tim
Mùi ê te ngập không khí im lìm
Người bác sĩ già nếp nhăn hằn trán
Mở quyển sách như tìm bài toán
Cô y sĩ trực ban không rời máy nghe tim
Cô y tá trên tay chờ sẵn ống tiêm
Vợ tôi gục đầu thút thít
Con ơi! Cha tưởng chừng như chính cha sắp chết!
Hình ảnh chân thực không làm cho thơ Tế Hanh khô cằn mà nhờ đó tâm trạng, cảm
xúc của tác giả bộc lộ sâu sắc, chân thành, thắm thiết hơn. Chính hình ảnh chân thực ấy giúp
Tế Hanh thành công trong việc thể hiện nội dung, góp phần tạo nên phong cách thơ. Từ
những hình ảnh được cảm nhận, tinh lọc một cách sắc bén, độc đáo từ cuộc sống, thơ Tế
Hanh đã gợi lên ở người đọc niềm say mê và xúc động về cái đẹp gần gũi, giản dị của con
người, quê hương, đất nước cũng như những thử thách, gian khổ của dân tộc trong thời kỳ
51
kháng chiến chống Mỹ. Sau khi đất nước được thông nhất thơ Tế Hanh cũng gắn với hiện
thực như khi nhà thơ bất ngờ đưa vào thơ hình ảnh đun ấm nước vối và bầy trẻ ngủ lăn nơi
thềm nhà:
Thềm nhà bầy trẻ ngủ lăn
Nằm như cá xếp thẳng băng một hàng.
(Cây vối)
Tuy nhiên, với khả năng liên tưởng phong phú, sáng tạo cùng cái mạch huyền diệu của
cuộc sống, Tế Hanh đã đem lại cho thế giới hình ảnh thơ mình chất ảo. Nhờ đó làm bật lên
vẻ đẹp lôi cuốn, mở ra những liên tưởng sâu rộng cho người đọc. Dư âm của mùa thu đã để
lại nơi cây cỏ, đất trời được nhà thơ cảm nhận là hình ảnh "vàng trong nắng trong cây",
"buồn trong gió trong mây". Hình ảnh này không thể nắm bắt vì nó không thể hiện ra để
chúng ta thấy được.
Mùa thu đã đi qua còn gửi lại
Một ít vàng trong nắng trong cây
Một ít buồn trong gió trong mây
Một ít vui trên môi người thiếu nữ.
(Bài thơ tình ở Hàng Châu)
Và trong Giấc mộng diệu huyền để miêu tả cái huyền diệu của vịnh Hạ Long tác giả
đã sử dụng hình ảnh nửa thực nửa ảo mang những liên tưởng bất ngờ. Những hình ảnh ấy
quyện vào nhau tạo nên bức tranh thiên nhiên huyền diệu, ẩn hiện làm say đắm lòng người.
Khi nắng lóe hàng mi qua cửa động
Khi sóng trào tóc quấn đảo chon von
Khi mây chập chờn ẩn hiện đầu non
Khi mưa vẫn xanh trời và biếc bể.
52
Tế Hanh cũng có những tưởng tượng độc đáo tạo nên những hình ảnh bất ngờ. Con
người và thiên nhiên ở đây như hòa quyện vào nhau tạo nên một hình ảnh thống nhất. Tình
cảm, tâm hồn con người được nhà thơ ví như "bốn phía mưa rơi" nhưng khi có được em thì
cuộc đời "hửng nắng":
Anh như người bốn phía mưa rơi
Em bỗng đến và cuộc đời hửng nắng.
(Giữa anh và em)
Bên cạnh những điều đã đạt được trong việc tạo dựng hình ảnh, thơ Tế Hanh còn có
những một số hình ảnh chưa nhuần nhị bởi cảm xúc chưa đủ độ chín. Đó là những hình ảnh
chỉ mang ý nghĩa về một sự miêu tả đơn thuần. Như ở Trung thu, Ngợi ca, Ông lão trồng
cây,...
Đàn ong bay rộn ràng
Trên cành chim ríu rít
Sáng mở mắt trông ra
Rập rình bầy con nít.
(Ông lão trồng cây)
Tóm lại, thơ Tế Hanh trong giai đoạn chống Mỹ tràn ngập những hình ảnh thực, khỏe,
nồng đượm hơi thở của cuộc sống. Những hình ảnh đó đem đến cho thơ sức sống mới rất
chân thực và bình dị góp phần làm nên hơi thơ Tế Hanh. Hình ảnh thực trở nên thơ mộng và
giàu sức tưởng tương hơn bởi những hình ảnh mang tính chất ảo. Chất ảo chen vào trong
những hình ảnh thực như vậy làm cho thơ Tế Hanh bớt đi tính khô khan, nông cạn.
53
1.2.2. Hình ảnh so sánh, tượng trưng:
1.2.2.1. Hình ảnh so sánh :
So sánh là "phương thức biểu đạt bằng ngôn từ một cách hình tượng dựa trên cơ sở đối
chiếu hai hiện tượng có những dấu hiệu tương đồng nhằm làm nổi bật đặc điểm, thuộc tính
của hiện tượng này qua đặc điểm, thuộc tính của hiện tượng kia" (48, tr.190). So sánh tạo
nên sức mạnh nhận thức và phát hiện. Trong sáng tác văn học, các nhà văn, nhà thơ dùng
thủ pháp nghệ thuật so sánh nhằm khám phá và thể hiện nổi bật đặc điểm, thuộc tính của đối
tượng.
Tế Hanh là nhà thơ giàu cảm xúc, thơ ông là tiếng nói của tâm hồn, tình cảm. Thế giới
tâm hồn là lĩnh vực phức tạp rất khó diễn tả trên trang viết. Để cụ thể hóa chúng và đưa vào
tác phẩm thơ ca đòi hỏi nhà thơ phải có những liên tưởng độc đáo. Từ sự cảm nhận tinh tế,
sâu sắc một cách nghệ thuật về cuộc sống, Tế Hanh đã sáng tạo nên thế giới hình ảnh so
sánh phong phú, đa dạng xuất hiện một cách dày đặc trong thơ. Chính những hình ảnh so
sánh ấy làm cho thơ Tế Hanh cụ thể, gần gũi, bình dị hơn. Qua khảo sát 243 bài thơ của Tế
Hanh thời chống Mỹ chúng tôi có kết quả sau:
54
Như vậy, hình ảnh so sánh xuất hiện tương đối đều ở các tập thơ của Tế Hanh. Các
dạng thức so sánh cũng phong phú nhưng, giống như Huy Cận, phổ biến hơn cả ở là dạng so
sánh A như B. Trong 243 bài thơ của Tế Hanh dạng so sánh này xuất hiện 374 lần chiếm
83,3% tổng số các lần so sánh, Huy Cận chiếm 86,5% tổng số 125 bài thơ được khảo sát.
Nhìn chung, hình ảnh so sánh trong thơ Tế Hanh là cụ thể, gần gũi quen thuộc với
người dân, mức độ cụ thể hóa đối tượng rất rõ. Nhờ đó bài thơ thêm dễ hiểu, đậm đà bản sắc
dân tộc. Nhà thơ đã cụ thể hóa ngay cả những điều thầm kín khó nói nhất, những gì thuộc
lĩnh vực tinh thần bằng những hình ảnh cụ thể, quen thuộc dễ nhận biết. Đây là dạng so sánh
phổ biến nhất trong thơ Tế Hanh.
Bên cạnh những hình ảnh so sánh đã phổ biến từ trước trong thơ ca, hình ảnh so sánh
trong thơ Tế Hanh có những nét mới lạ. Nhà thơ không chỉ so sánh những cái trừu tượng
với cái cụ thể mà còn sò sánh từ những gì cụ thể đến trừu tượng. Nhờ đó mà hình ảnh so
sánh không đơn điệu, kích thích được sự hứng thú của người đọc. Lối so sánh từ cái trừu
tượng đến cụ thể rất nhiều trong thơ Tế Hanh nhằm cụ thể được những cái trừu tượng trong
cuộc sống. Nhờ đó lời thơ gần gùi dễ hiểu hơn.
55
Đời anh trước mồ côi như bọt nước
...Cái chết anh vang như hồi trông giục.
(Người Đảng viên dự bị)
Một nụ cười trước cái "án" hai mươi năm
Vẫn sáng trưng như ánh trăng rằm.
(Nụ cười Võ Thị Thắng)
Ngoài ra, có nhiều những hình ảnh được nhà thơ so sánh như bộ phận của cơ thể con
người: ngực trẻ, cánh vai, cánh tay,... Khảo sát thơ Tế Hanh chúng tôi thây có 13 lần nhà
thơ so sánh dưới dạng này trong những bài: Chị Duyên anh Hải, Đến Mộc Châu, Thăm đồi
A1, Chung bến chung lòng, Vì miền Nam ruột thịt, Cây mù như Vĩnh Linh, Bên bờ sông Đa-
nuýp, Món quà xuân tết, Người thủy thủ và con chim én, Ca ngợi.
Đất mở lòng tươi như ngực trẻ .
(Đến Mộc Châu)
Sông Trà Khúc như cánh tay khỏe mạnh.
(Chung bến chung lòng)
Cả dòng sông như khúc ruột chia lìa.
(Món quà xuân tết)
Những đơn vị phòng không giữ bầu trời như con ngươi giữa mắt.
(Ca ngợi)
Ngáy cả thế giới tinh thần: tấm lòng, tình cảm tình yêu là lĩnh vực khó giãi bày nhất
Tế Hanh cũng cụ thể chúng rõ ràng bằng những hình ảnh so sánh:
Anh yêu em như hoa nở không nghĩ đến giờ tàn
Anh yêu em như trăng tròn không nghĩ đến hồi khuyết
56
Anh yêu em như người vào bữa tiệc
Uống cốc rượu đầy không nghĩ đến khi tan.
(Không đề)
Yêu quá miền Nam còn máu chảy
Lòng anh như thể tiếng chuông ngân
(Đọc thơ bạn)
Lòng như cuộn chỉ yêu thương
Quấn theo mỗi một đoạn đường ra đi
(Dặm liễu)
Có những trường hợp nhà thơ đã đem những cái cụ thể để so sánh với những gì trừu
tượng. Đây là hiện tượng ít thấy trong thơ cũ. Nhưng nhờ đó hình ảnh trong thơ Tế Hanh
phong phú thêm, cảm xúc được bộc lộ chân tình, sâu sắc. Lối so sánh này đã có ngay từ tập
thơ đầu tay Hoa niên và xuyên suốt đến sau này. Ở Hoa niên nhà thơ đã thấy được:
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng.
(Quê hương)
Con đường như một mối tơ duyên.
(Có những con đường)
Đến giai đoạn chống Mỹ cứu nước những hình ảnh so sánh ấy càng phổ biến hơn như trong
những bài: Cửu Long ơi, Bài thơ tình ở Hoàng Châu, Hoa hồng Bun gari, Ngoài khơi gió
lộng, Cảnh 1 , ...
Sông Mê Kông như một dải tình thương.
(Cửu Long ơi)
Trời lại xanh như một niềm mong đợi.
57
(Ngoài khơi gió lộng)
Lá phong đỏ như mối tình đượm lửa
Hoa cúc vàng như nỗi nhớ day dưa,
(Bài thơ tình ở Hoàng Châu)
Cũng giống như Huy Cận, so sánh là một thủ pháp nghệ thuật rất thường trực, xuyên
suốt ở Tế Hanh. Hình ảnh so sánh ỏ Tế Hanh vừa bất ngờ thú vị vừa chân chất, giản dị
nhưng cũng mới lạ, giàu sức gợi cảm. Điều này làm nổi bật trí tưởng tượng phong phú, tinh
tế của nhà thơ, một hồn thơ giàu cảm xúc. Khai thác sâu vào thế giới hình ảnh nói chung,
hình ảnh so sánh nói riêng góp phần hiểu đúng, rõ hơn nội dung của bài thơ, cũng như giá
trị tư tưởng, tình cảm mà nhà thơ đã gởi vào đó. Đồng thời chúng ta cũng có dịp thấy được
sự phong phú trong cách thức thể hiện của ngôn từ nghệ thuật. Hình ảnh so sánh làm cho lời
thơ thêm đẹp giàu tính hình tượng, gởi cảm dễ đi vào lòng người.
Để ngôn ngữ thơ trong sáng, gợi cảm, dễ nhớ có sức tác động mạnh đến các giác quan
cũng như tâm trí của người đọc nhà thơ đã tận dụng tối đa các khả năng so sánh tạo nên
những hình ảnh đẹp, mới lạ.
Cá tập đoàn long lanh như bạc rắc.
(Tiếng sóng)
Anh yêu em trong mối tình Tổ quốc
Và anh thấy tình yêu như ngọn đuốc
Anh yêu em trong môi tình nhân dân
Và anh thấy tình yêu như mặt suối trong ngần.
(Nói chuyện với người yêu một ngày đầu năm)
Hình ảnh so sánh trong thơ Tế Hanh nhỏ gọn, gần gũi. Nhà thơ đã đưa vào thơ mình
hàng loạt những hình ảnh đơn giản, bình thường của cuộc sống hàng ngày thể hiện những
tìm tòi, liên tưởng bất ngờ, mới lạ nhưng cũng không kém vẻ hồn nhiên, chân thực. Cho nên
58
dù hình ảnh so sánh xa lạ, tạo nên những bất ngờ trong cảm nghĩ của người đọc nhưng lại
cũng dễ dàng chấp nhận và dễ nhớ.
Mặt em như mặt mùa xuân
(Mặt mùa xuân)
Miệng em cười tươi thắm
Như vườn xanh nắng ấm
Giọng nói em chan hòa
Như không khí quê ta
(Mặt quê hương)
Thời gian như sợi chỉ giăng
Không gian như bản nhạc dâng hài hòa
...Hoa là trăng đậu cành cong,
Trăng là hoa ngự trời trong ngời ngời.
(Hoa nở theo trăng)
Điều này khác với Huy Cận, đôi khi người đọc thấy hình ảnh trong thơ Huy Cận mang
tính triết lý sâu sắc về cuộc sống chứ không cụ thể như: Gặp một chị điên, Các vị La Hán
chùa Tây Phượng, Về thăm chùa Keo, ...
Hai người gỗ dường như gần tắt thở
Mang sức nặng như mang trời đau khổ
Bắp thịt nổi hai đầu vai, giữa cổ
Như bướu đau thương chẳng có ngày teo...
Hai người gỗ đằng xa cũng nhìn về phía họ
59
Như chúng sinh đau nhìn vì cứu khổ.
(Hai hình người gỗ)
Cũng như ở Huy Cận, thơ Tế Hanh có sự liên kết nhiều hình ảnh với nhau cùng diễn tả
một đối tượng so sánh. Lối so sánh này đem đến cho thơ ca sức mạnh của những liên tưởng
góp phần làm rõ hơn nhiều khía cạnh của vấn đề. Nếu ở Huy Cận lối so sánh này có trong:
Tiếng sáo anh Điều mù, Biển rộng sông dài, Tặng Đảng, .. .thì ở Tế Hanh là: Tên quê
hương, Giữa mùa xuân dâng Đảng bó hoa xuân, Chị Duyên anh Hải, Bữa cơm sơ tán, Mẹ
mãi còn,....
Chúng tôi tiến lên, sắc tựa dao mài
Tựa cây mùa xuân nối chuyền nhựa mới
Tựa dãy Trường Sơn núi liền với núi.
(Tặng Đảng)
Lòng anh như mảnh trăng đang mọc
Như ngọn đèn khêu bếp lửa nhen.
(Bữa cơm sơ tán)
Ôi con chim
Như bàn tay ve vuốt mẹ hiền
Như má vợ thơm tho ngày mới cưới
Như đầu con rúc vào lòng mát rượi
(Người thủy thủ và con chim én)
Quả thực, cũng như Huy Cận, thơ Tế Hanh rất giàu những hình ảnh so sánh. Tuy nhiên
khác với những hình ảnh mang màu sắc suy tưởng triết lý ở Huy Cận, hình ảnh so sánh
trong thơ Tế Hanh nhỏ gọn, cụ thể và phong phú, đa dạng. Nhà thơ đã thể hiện được sự cố
gắng tìm tòi và sáng tạo nên hình ảnh mới lạ gây bất ngờ thú vị nhưng cũng rất gần gụi quen
60
thuộc với cuộc sống của người dân. Từ đó chứng tỏ được tài năng nghệ thuật của nhà thơ
đối với ngôn từ qua lối so sánh bằng nhiều dạng thức khác nhau. Lối so sánh từ cụ thể đến
trừu tượng cũng trở nên quen thuộc trong thơ Tế Hanh. Nhờ đó mà nhà thờ đã nắm bắt và
diễn tả được một cách tinh tế những chi tiết thoáng qua trong cuộc sống cũng như những
cảm xúc của mình trong thơ. Hình ảnh so sánh đã tạo nên vẻ đẹp cho thơ Tế Hanh đồng thời
thể hiện sự cảm nhận tinh tế, giàu sức liên tưởng của nhà thơ trước cuộc sống.
1.2.2.2. Hình ảnh tượng trưng:
Thơ ca bắt nguồn từ trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo, tuyệt vời của tư duy con
người. Trên cơ sở sự liên tưởng, Tế Hanh đã tạo nên những hình ảnh tượng trưng làm cho
lời thơ thêm nhẹ nhàng, gợi cảm, tế nhị và sâu sắc hơn.
Tượng trưng là thủ pháp nghệ thuật ngôn từ dùng sự vật cụ thể để tượng trưng cho cái
trừu tượng nào đó. Tình yêu là trạng thái tình cảm muôn hình muôn vẻ rất khó bao quát của
con người. Mỗi nhà thơ có cách diễn đạt khác nhau nguồn cảm xúc ấy trong tác phẩm của
mình. Trong thơ Tế Hanh hình ảnh trăng có lúc là hình ảnh tượng trưng cho tình yêu của
người con gái với mình yêu mặc cho mọi thử thách:
Đêm nay trăng lại với mình
Trăng thơ bát ngát, trăng tình chơi vơi
Suốt đềm trăng sáng em ơi
Tưởng như trăng sáng suốt đời của anh.
(Không đề)
Hay từ cơn bão của tự nhiên làm cây "gãy cành bay lá" nhà thơ đã liên tưởng và đưa
người đọc đến "cơn bão lòng" tượng trưng cho nỗi đau chia cách trong tình yêu. Vì "em đã
xa xôi" để lại nỗi mất mát, buồn đau trong lòng âm ỉ như vết thương lòng rên rỉ mãi.
Cơn bão nghiêng đêm
Cây gãy cành bay lá...
61
Nhưng em đã xa xôi
Và cơn bão lòng ta thổi mãi.
(Bão)
Trong Câu chuyên quê hương hình ảnh cây mù u tượng trưng cho con người và làng
quê Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Cây gắn liền với làng, với bao thế hệ nhân dân.
Cây ấy mọc từ thời nào chẳng rõ
Ngọn cao vút như đưa mây đón gió
Bóng ngã dài che phủ cả cánh đồng...
...Gân guốc vững bền như tâm hồn xứ sở
...Đứng uy nghi sừng sững một góc trời.
Rồi khi: "Đồn lũ giặc bị quân ta đốt trụi, Thui tớ thầy bọn Mỹ ra tro” thì cây mù u lại đâm
chồi nẩy lộc trở thành cái màu xanh duy nhất nơi đây sau bao phen bị quân thù đốt cháy.
Cây mù u đó trở thành:
Cây mù u của quê hương, tuổi nhỏ
Cây mù u của tất cả chúng mình.
Thời kỳ trước cách mạng, cũng như một số nhà thơ cùng thời, thơ Tế Hanh có những
hình ảnh tượng trưng cho toàn bài thơ như một phúng dụ. Tiêu biểu như Lời con đường
quê của Tế Hanh, Tình tự của Huy Cận, Hy Mã Lạp Sơn của Xuân Điệu. Trong kháng
chiến chông Mỹ, hình ảnh mùa xuân tràn về trên quê hương miền Nam là hình ảnh tượng
trưng cho sức mạnh trong kháng chiến chống Mỹ dưới lời kêu gọi của Đảng và Bác Hồ. Lời
kêu gọi kháng chiến như mùa xuân tràn qua đồng nội đáp ứng lòng mong đợi của nhân dân.
Ôi mùa xuân đã vượt thác băng đèo
Như trận gió thổi tràn qua đồng nội
Vào lay động bao tấm lòng mong đợi
62
Cây bên đường thao thức bóng rung rinh.
Cuộc tổng phản công mùa xuân Mậu Thân 1968 trên khắp miền Nam như cơn bão, cơn
sóng thể hiện tinh thần, sức mạnh chiến đấu của quân dân miền Nam. Sức mạnh như vũ bão
đó sẽ còn tiếp diễn và lan rộng.
Bão đã nổi thì sẽ còn bão tiếp
Sóng dâng rồi sẽ có sóng dâng theo.
(Mùa xuân mới ở các thành thị miền Nam)
Bên cạnh những hình ảnh chân thực, cụ thể phản ánh hiện thực phong phú làm nên vẻ
đẹp của thơ Tế Hanh thì những hình ảnh tượng trưng làm cho bài thơ sâu sắc, giàu sức liên
tưởng, gợi cảm góp phần làm cho tứ thơ sâu sắc.
1.2.3. Hình ảnh đẹp, giàu sáng tạo:
Hình ảnh đã góp phần tạo nên thế giới nghệ thuật trong thơ Tế Hanh. Qua tìm hiểu
những điểm nổi bật về hình ảnh trong thơ Tế Hanh chúng tôi có thể kết luận hình ảnh trong
thơ Tế Hanh nói chung là đẹp và giàu sáng tạo. Với sức tưởng tượng, liên tưởng độc đáo từ
đời sống hiện thực, Tế Hanh đã tạo nên những nét đẹp bất ngờ, chất phác cho thế giới hình
ảnh trong thơ. Vốn có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, đôn hậu ngay từ mới xuất hiện trên thi
đàn, giữa lúc thơ Mới đang rên rỉ trong cô đơn lạc lỏng, Tế Hanh vẫn đứng vững ở những
bài thơ hấp dẫn, hình ảnh đẹp đầy sáng tạo. Trong khuôn mặt khiêm tốn của cậu học trò "dư
một ít lời thơ, dư thương sớm sẵn ngơ ngẩn chiều", hình ảnh thơ vẫn tràn đầy niềm vui cuộc
sống. Thơ Tế Hanh bấy giờ không khủng hoảng, tuyệt vọng như một số nhà thơ cùng thời.
Dù có lúc thi nhân vẫn "kéo nỗi buồn không" lang thang "dạo khắp làng" nhưng người đọc
vẫn gặp được những hình ảnh tươi sáng, trong trẻo, đầy sức sông, chứa chan thi vị.
Người đọc không thể nào không cảm thây thích thú, yêu đời hơn khi được trở về với
Quê hương ngắm cảnh sinh hoạt của người dân vùng biển. Những con người đương trai
khỏe mạnh đầy nhiệt quyết:
Khi trời trong gió nhẹ, sớm mai hồng
63
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Chiếc thuyền nhẹ băng như con tuấn mã
Phăng mái chèo vội vã vượt trường giang.
Hình ảnh con thuyền đẹp và hết sức chân thực. Nó được tạo nên bởi những hình ảnh so
sánh độc đáo dưới cái nhìn đầy sáng tạo của thi nhân. Và khi nhà thơ diễn tả cánh buồm thì
hình ảnh thơ càng thêm đẹp, giàu sức sáng tạo hơn. Bởi vì cái làng quê trong lao động sinh
hoạt lâu đời đã khẳng định sức sống bền vững từ đất lòng thẳm sâu và hồn hậu cho đến tâm
hồn của quê hương. Nhà thơ như thổi linh hồn vào trong cảnh vật.
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.
Cũng ở đó người ta được thấy hình ảnh người dân quê vùng sông nước khỏe đẹp chân
chất nhưng không kém phần thi vị:
Dân chài lưới làn da đen rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.
Tình yêu quê hương đất nước như một cảm hứng lớn bao trùm thơ Tế Hanh. Và trên
nhiều bình diện, nhiều thời điểm nhà thơ đã để lại nhiều bài thơ hay, nhiều hình ảnh đẹp.
Nhà thơ không chỉ cảm nhận cuộc sống một cách chân thực mà luôn có ý thức cùng cảm
xúc tinh tế để phát hiện ra nét thi vị. Vì thế thơ Tế Hanh trong cái hiện thực, trần trụi vẫn bất
ngờ xuất hiện những hình ảnh đẹp thể hiện sự tìm tòi đầy sáng tạo.
Ngay trong cảnh chia tay lặng lẽ trong đêm thu nhà thơ cũng tạo cho người đọc thấy
hình ảnh đẹp, gợi cảm:
Tiễn em trong cảnh thu này
Lòng ta muôn tiếng sao đầy lặng im
Ta về. Giữa khỏang trời đêm
64
Vành trăng như thể mắt em soi đường.
(Mùa thu tiễn em)
Hình ảnh vầng trăng trong thơ Tế Hanh hiện lên rất dày đặc. Trăng thường gắn với cái
gì đẹp và thơ mộng. Ở Tế Hanh vầng trăng hiện lên với nhiều vẻ đẹp khác nhau: Trăng đẹp
trong không gian bát ngát tạo nên hình ảnh phóng khoáng.
Nông trường ta rộng mênh mông
Trăng lên trăng lặn vẫn không ra ngoài.
(Nông trường cà phê)
Trăng tràn ngập trong không gian và như có hồn chan hòa với cuộc sống của con người:
Bốn bề bát ngát trăng ngân
Câu ca dân tộc nghìn năm lại về
Tâm hồn thơ dại đê mê
Đất trời đưa võng tràn trề trăng thu.
(Bé hát dưới trăng)
Vầng trăng của đôi trai gái yêu nhau là vầng trăng sáng, tỏa khắp và theo bên mình như một
người yêu.
Đêm nay trăng lại với mình
Trăng thơ Bát ngát, trăng tình chơi vơi
Suốt đêm trăng sáng em ơi
Tưởng như trăng sáng suốt đời của anh.
(Không đề)
65
Từ xưa, các thi nhân vẫn xem trăng, hoa là những hình ảnh đẹp, tinh khiết, thanh cao
mà mọi người hằng mơ ước. Đến Tế Hanh hình ảnh trăng và hoa đã hòa quyện vào nhau,
cùng nhau đua sắc thắm giữa bầu trời tạo nên hình ảnh thơ đẹp và giàu sức liên tưởng làm
xôn xao lòng người:
Trên hoa trăng sáng một vừng
Dưới trăng hoa nở bừng bừng nhụy bông
Hoa là trăng đậu cành cong
Trăng là hoa ngự trời trong ngời ngời.
(Hoa nở theo trăng)
Hình ảnh trong thơ Tế Hanh đẹp và gợi cảm không chỉ ở những hình ảnh so sánh sáng
tạo, độc đáo như trong Mặt quê hương mà còn thể hiện trong những hình ảnh tượng trưng.
Ngay những hình ảnh bình thường như cây mù ù trong Câu chuyện quê hương cũng hiện
lên rất đẹp. Cây mù u đẹp vì tác giả đã dùng nó làm biểu tượng sức sống của quê hương
đang chìm trong lửa đạn, Dù bão đạn mưa bom cây mù u vẫn dồi đào sinh lực: "Bóng ngã
dài che phủ cả cánh đồng", không còn ai biết cây mù u có từ bao giờ nhưng bao thế hệ đi
qua cây "vẫn đứng uy nghi sừng sững một góc trời". Cầy và con người như đã quyện chặt
với nhau. Con người vẫn đứng vững trước bom đạn kẻ thù thì cây "gân guốc vững bền như
tâm hồn xứ sở". Hình ảnh cây mù u cứ láy đi láy lại như một điệp khúc trong các cảnh trở
thành hình tượng có ý nghĩa góp phần nâng cao giá trị bài thơ.
Đặc biệt hình ảnh cái làng quê với con sông quen thuộc luôn xuất hiện xuyên suốt
trong thơ Tế Hanh. Trong thời chống Mỹ cách xa, con sông ấy vẫn hiện về rất đẹp ở Tế
Hanh. Bởi vậy, Nhờ con sông quê hương nhà thơ đã nhớ bằng những hình ảnh đẹp, gợi
cảm:
Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre.
Cái đẹp trong hình ảnh thơ Tế Hanh còn thể hiện ở nét sinh động, tràn đầy niềm vui sống:
66
Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu
Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy
Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy
Bầy chim non bơi lội trên sông.
(Nhớ con sông quê hương )
Hình ảnh con người Hà Nội trong Gặp xuân ngoại thành cũng là hình ảnh của sự
sống mới náo nhiệt, tươi vui. Mùa xuân về được nhà thơ cảm nhận rất cụ thể, từng bước.
Hình ảnh càng đẹp và thơ mộng hơn khi nhà thơ đã bắt gặp mùa xuân ấy đến trong buổi ban
mai:
Trong bó hoa thơm hái rạng đông
Mơn mởn hồng, đào, lan, thược dược
Trong gánh rau tươi đến chợ mai
Bắp cải su hào còn mọng nước.
Tế Hanh rất tinh tế trong việc nắm bắt những hình ảnh đẹp, nên thơ tràn đầy cảm xúc,
nơi mà chúng ta tưởng chừng như bộn bề và chẳng có gì thơ mộng. Trên Nông trường cà
phê, mọi người đang làm những công việc của mình, nhưng tác giả cũng khéo bắt được
hình ảnh rất thi vị:
Hai ta trong bóng cây che
Xa xa gió núi nước khe rì rào
Em đang ương giống anh chào
Bóng anh lái máy ngả vào tay em.
Còn Đến Mộc Châu nhà thơ đã cảm nhận được niềm vui ở vùng đất được gieo trồng tạo
nên hình ảnh tràn trề sức sống:
67
Đất mở lòng tươi như ngực trẻ
Mầm non hạt mới ấm bàn tay.
Nét đẹp trong hình ảnh thơ Tế Hanh còn thể hiện ở những hình ảnh gợi mở, giàu liên tưởng:
Đêm nay sẽ có văn công múa
Trời rộng chiều xanh sắp mở màn.
(Đến Mộc Châu)
Hình ảnh đẹp trong thơ Tế Hanh thường gắn với những gì gần gũi, bình thường.
Nhưng bằng sự tinh tế, nhạy cảm trong tư duy nhà thơ đã đưa người đọc đến với những hình
ảnh hết sức dễ thương, sinh tươi và rất chân thực. Còn gì đẹp và dễ cảm cho bằng một em
bé nằm dưới trăng, tự ru lấy mình;
Bé nằm ngửa mặt tròn xinh
Ngủ trong tiếng hát của mình dưới trăng.
(Bé hát dưới trăng)
Trong chiến tranh người đọc cũng bắt gặp hình ảnh trang nhã, hào hùng làm đọng lại
trong lòng mối cảm tình đối với một cô thợ dệt Việt Nam :
Thoăn thoắt con thoi, bông vải trắng ngần
Bay quanh chị như rào rào mưa tuyết
Còi báo động chị đứng lên lẫm liệt
Súng trên vai ra canh gác chiến hào
Mặt trăng tròn lấp lánh giữa trời cao.
( Chúng ta đi)
Ngay sau năm 1975 hình ảnh thơ Tế Hanh vẫn phong phú và gợi cảm. Tình cảm của
nhà thơ về Hà Nội đã được dồn về thành nỗi nhớ. Nỗi nhớ đã hòa quyện trong vẻ đẹp của
68
thiên nhiên. Hình ảnh Hà Nội giờ hiện lên với vẻ đẹp của chùa Một Cột, hồ Thuyền Quang,
hồ Hoàn Kiếm, những cây sấu xanh lá, hoa sữa ngát hương,...Tất cả nỗi nhớ đã dựng lên
bức tranh Hà Nội tuyệt đẹp:
Cuối thu trăng vẫn sáng trưng
Hoàng lan, hoa sữa thơm lừng không gian
Hồ Tây, Hoàn Kiếm, Thuyền Quang
Nước thu sóng sánh soi hàng mây bay.
(Nhớ về Hà Nội hôm nay)
Tóm lại, thế giới hình ảnh trong thơ Tế Hanh rất phong phú, giàu sức sáng tạo. Tất cả
được dựng lên bằng tư duy nghệ thuật độc đáo, bằng thi pháp mang dấu ấn tài hoa và tinh tế
của nhà thơ. Chính thế giới hình ảnh này đã tạo nên vẻ đẹp và sức truyền cảm của thơ đồng
thời góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật của Tế Hanh. Nhờ đó, thơ Tế Hanh có thể nói
được những điều hết sức thầm kín, lắng đọng kết tinh trong cuộc sống.
1.3. Nhịp điệu:
Thơ là sự diễn tả cái đẹp của ý, của tình trong cái đẹp của lời của tiếng. Tính gợi cảm
là một đặc trưng của ngôn ngữ thơ bởi thơ phản ánh cuộc sống qua những rung động của
tình cảm. Ngôn ngữ thơ tổ chức trên cơ sở của nhịp điệu: chúng hàm súc và gợi cảm. Các
trạng thái rung cảm, cảm xúc, xúc động đều ảnh hưởng đến việc chọn lựa nhịp thơ của câu
thơ, bài thơ.
Theo Bùi Công Hùng thì: nhịp trong thơ là nhịp trên cơ sở lao động dựa vào hơi thở
gắn liền với xúc cảm, dựa vào bản chất của chất liệu ngôn ngữ, nhịp thơ là nhịp điệu có tính
mỹ học do con người tạo ra để biểu hiện tư tưởng tình cảm của con người. Nhịp điệu là sự
nối tiếp nhau của các tiếng, cách sắp xếp thành từng khung đều đặn của giọng nói và theo
thời gian.
Mai-a-cốp-xki trong Làm thơ như thế nào đã nói rõ công việc của người làm thơ và
vai trò của nhịp: Nhịp đó là sức mạnh cơ bản, năng lượng cơ bản của câu thơ. Sự ngắt đoạn
69
và nhịp của bài thơ hệ trọng hơn sự chấm câu và sự chấm câu được dùng theo khuôn sáo cũ,
nó phải phục tùng ngắt đoạn và nhịp... Năng lượng sáng tạo ra những khoảng cách và tổ
chức thời gian phải được đưa vào như là qui tắc cơ bản của mọi thứ sách giáo khoa thực
hành về thơ. Nhịp điệu theo Ti-mô-phê-ép trước tiên là việc lập lại có tính qui luật các hiện
tượng giống nhau. Đơn vị đầu tiên của nhịp là âm tiết, và rộng hơn là một nhóm âm tiết.
Theo Hê ghen, nhịp trong thơ đưa cái trật tự vào tình trạng không có trật tự khi lựa
chọn sử dụng từ. Nhịp trong thơ giúp con người trong giây lát thoát khỏi sự trôi chảy liên
tục của thời gian, con người đánh dấu điểm đầu, điểm giữa và điểm cuối của sự tiếp tục
bằng nhịp thơ.
"Nhịp điệu là sự lặp lại cách quãng đều đặn và có thay đổi của các hiện tượng ngôn
ngữ, hình ảnh, mô típ,...Nhịp điệu của thể thơ và luật thơ tạo thành cái nền nhịp điệu riêng
cho thơ mình, gắn với các phương diện ý nghĩa" (48, tr.164). Nhịp điệu của câu thơ là dòng
thơ tương ứng với sự thụ cảm trong đời sống. Sự lặp lại các đơn vị chia cắt là cơ sở của các
dấu hiệu nhịp điệu. Nhịp điệu của thơ là do nhà thơ tạo ra và có tính mỹ học. Bên cạnh việc
xây dựng hình ảnh, hiệp vần thì nhịp điệu cũng là một yếu tố góp phần tạo nên hình thức
nghệ thuật của thơ ca. Nhờ có tính hình ảnh cùng lối hiệp vần, ngắt nhịp được chú trọng
trong sáng tác thơ ca mà tác phẩm thơ bao giờ cũng dễ đọc dễ nhớ và thậm chí bài thơ còn
được phổ nhạc thành bài ca hay vận dụng vào diễn xướng như ngâm, hò,...
Thế giới nội tâm của nhà thơ không chỉ biểu hiện ở ý nghĩa của từ ngữ mà còn ở cả âm
thanh, nhịp điệu của từ ngữ ấy. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhất trí xem tính có nhịp điệu là
nét đặc thù rất cơ bản của tác phẩm trữ tình. Thơ có thể không vần nhưng phải có nhịp điệu.
Nhịp điệu là những phân đoạn tiếp nhau của quá trình âm vang lời thơ trong những phân
đoạn này có độ cao thấp, sự nhanh chậm của các âm thanh lời thơ kể cả những chỗ ngắt dài
ngắn khác nhau. Năng lượng sống tạo nên tư tưởng của bài thơ không chỉ ở từ ngữ mà còn ở
cách ngắt nhịp. Trong thơ Việt Nam, nhịp điệu cơ bản là nhịp chẵn và nhịp lẻ (nhịp hai và
nhịp ba). Mỗi một câu thơ là một sự luân chuyển giữa hai nhịp cơ bản. Do tiếng Việt có xu
hướng kết hợp số lượng âm tiết chẵn hơn là số lượng âm tiết lẻ. Nhịp điệu chẵn hay lẻ ở mỗi
dòng thơ là góp phần biểu hiện nội dung của câu thơ. Cho nên nhịp điệu thể hiện trong từng
bài thơ, đoạn thơ cũng có những thay đổi phù hợp với nội dung cần diễn đạt.
70
Mặt khác những nhịp ngắt và chỗ nghỉ giọng trong câu thơ, ở mỗi dòng thơ cũng làm
nên nhịp điệu câu thơ. Ngắt nhịp liên quan đến cách xuống dòng thơ; điều này phụ thuộc
vào số lượng chữ của dòng thơ. Chẳng hạn thơ lục bát nhịp điệu của câu thơ được ngắt ở
dòng 6 và dòng 8. Thơ tự do nhiều khi dòng thơ chỉ vài chữ kết hợp với dòng 12, 13 chữ.
Từ đó tạo nên nhịp điệu riêng biệt phù hợp với hồn thơ, hơi thơ, mạch cảm xúc của nhà thơ.
Nhịp điệu trong thơ Tế Hanh thời chống Mỹ có những chuyển biến linh hoạt tùy thuộc vào
nội dung, thể loại,...góp phần tạo nên phong cách Tế Hanh.
1.3.1. Nhịp điệu đều đều, chậm rãi:
Khảo sát thơ Tế Hanh chúng tôi thấy lối thơ được ngắt nhịp chẵn chiếm số lượng
nhiều. Chính nhịp chẵn trong thơ tạo nên sự nhịp nhàng, uyển chuyển, đằm thắm. Đặc biệt ở
thể lục bát đằm thắm, da diết trong ngôn từ thêm cách ngắt nhịp chẵn làm cho bài thơ dịu
dàng, thiết tha, uyển chuyển hơn. Cảm xúc trước cảnh Mùa thu ở nông trường nhà thơ đã
gởi tâm tình vào đó bằng ngôn từ đẹp và giàu sức sống trong nhịp thơ lục bát nhịp nhàng,
dịu nhẹ, từ tốn:
Mùa thu / đã đến/ nông trường
Se se gió trở,/ hơi sương dịu trời
Nắng vàng / mây lững lờ trôi
Nét xanh sóng lượn / lưng đồi uốn cong.
Hay ở Con đường xe lửa thanh niên nhịp điệu bài thơ cũng đều đều mà như có sức ngân
vang:
Đồng xanh / sóng lúa / nhịp nhàng
Máy khu gang thép / rộn ràng ngày đêm.
Bằng tấm lòng đôn hậu, đằm thắm, từ tốn, thơ Tế Hạnh mang nhịp điệu chậm rãi rõ
nét. Bên cạnh nhịp điệu đều đều của thể lục bát những bài thơ ở thể thơ 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ
cũng mang nhịp điệu chậm, da diết như nỗi lòng nhà thơ. Bài thơ Ga được sáng tác theo thể
71
thơ 8 chữ, với lối ngắt nhịp 3/3/2 hay 3/5 tạo nên nhịp thơ êm dịu mà sâu lắng phù hợp với
việc bày tỏ niềm cảm xúc sâu kín của tâm hồn con người.
Nơi tập hợp/ những nỗi buồn / một thuở
Nơi vận chuyển / những chiều mong / sớm nhớ
Nơi con người / như chỉ có /xa nhau
Mấy chiếc toa đầy / nặng khổ đau.
Nhịp điệu thơ Tế Hanh thường chậm rãi thích hợp với giọng điệu tâm tình, giãi bày.
Rất hiếm thấy trong thơ ông có cái cuống quýt, vồ vập như ở XuânDiệu: "mau với chứ vội
vàng lên với chứ”, Trái lại cái chậm rãi trong thơ Tế Hanh nhiều lúc đến tha thẩn, dùng
dằng. Bài thơ tình ở Hoàng Châu nhịp điệu không chỉ đều và chậm mà còn có cái gì
vương vấn như "còn gửi lại", còn ngập ngừng như chính sự trôi đi chậm chạp của mùa thu
trên các cây cỏ, đất trời. Chính cái chậm rãi, đều đặn đó gợi lên cảm giác chan chứa suy tư
của tâm trạng luyến tiếc, vương vấn.
Trăng Tây Hồ / vời vợi thâu đêm
Trời Hàng Châu / bốn bề êm ái.
Mùa thu đã đi qua / còn gửi lại
Một ít vàng/ trong nắng/ trong cây
Một ít buồn / trong gió / trong mây
Một ít vui / trên môi người thiếu nữ.
Gặp xuân ngoại thành là bài thơ thể 7 chữ, diễn tả mùa xuân "từ nội thành ra ngoại
thành". Cách ngắt nhịp 4/3 đều đặn kết hợp với lối gieo vần liên tiếp từng cặp tạo âm. điệu
chậm. Mùa xuân từ nội thành ra ngoại thành cũng diễn ra đều từng bước, từng bước trong
từng hình ảnh, chi tiết: đôi chim tìm nhau, hoa tươi thơm, rau cải tươi đến chợ, người công
nhân đi làm, ô tô với những lá nguy trang từ chiến trường về và bầy em nhỏ bước đều theo
nhịp hát. Mùa xuân đã đến trên khắp đất trời hay chính trong lòng nhà thơ. Và cái chậm rãi,
từng bước như dồn ở cuối trong cách ngắt nhịp 2/2/3 thay đổi:
72
Xuân từ ngoại thành / vào nội thành
Từng bước,/từng bước / từng bước xanh.
Nhịp điệu từ tốn ở đây còn góp phần thể hiện vẻ điềm nhiên, suy tư của nhà thơ khi nhận ra
bao đổi thay nơi Vườn xưa.
Mảnh vườn xưa /cây mỗi ngày/mỗi xanh
Bà mẹ già/tóc mỗi ngày/ mỗi bạc
Hai ta/ ở hai đầu công tác
Có bao giờ/cùng trở lại vườn xưa?
Có thể nói, cái chậm rãi, từ tốn mà đằm thắm, đôn hậu là xuyên suốt trong thơ Tế
Hanh. Hình ảnh người mẹ ngồi khâu bên Chiếc rổ may thời Hoa niên cũng hiện lên trong
dáng vẻ điềm nhiên, cử chỉ dịu dàng gợi lên trong lòng người đọc niềm cảm thương sâu
lắng. Tất cả được diễn ra trong nhịp thơ đều đặn, khoan thai làm tăng ý nghĩa của hình ảnh,
đạt giá tri gợi cảm, gợi hình sâu sắc.
Lặng lẽ/ bàn tay / lặng lẽ đưa
Đắp từng miếng vá/ấm con thơ
Những mong/ đời mẹ,/ đời con mãi
Gần gũi nhau/cùng mối chỉ thưa.
Nhịp điệu chậm rãi, thâm trầm trong thơ Tế Hanh còn được tô đậm thêm bởi những
bài thơ sử đụng nhiều vần bằng. Mỗi nhịp ngắt giữa câu, ngắt dòng cũng thường dừng lại ở
vần bằng. Chính vì vậy làm cho bài thơ mang giọng điệu buồn, sâu lắng như chính tâm sự
khó giãi bày của nhân vật trữ tình.
Trời màu xanh nước cũng xanh màu (B)
Sợi gió đến se cùng sợi liễu
Sao ta vẫn một mình lẻ thiếu
73
Em ở đâu rồi em ở đâu? (B)
(Em ở đâu)
Tóm lại, nhịp điệu đều và chậm là thường trực trong thơ Tế Hanh. Nó như góp phần
thể hiện những tâm tư thầm kín của tâm hồn thi nhân.
1.3.2. Nhịp điệu biến đổi bộc lộ nỗi trăn trở, day dứt:
Bên cạnh nhịp đều đều, chậm rãi làm nên chất trầm lắng, thơ Tế Hanh còn có những
bài thơ mang nhịp điệu chắc và khỏe như ẩn chứa sức lực của nỗi trăn trở, lòng căm thù day
dứt trước cảnh đất nước bị chia cắt. Trong Em trả lời tuổi mỗi đoạn thơ có một câu thơ 6
chữ ngắt theo nhịp 3/3 và được tách xuống dòng tạo nên nhịp thơ thật gọn và rắn chắc góp
phần tạo nên nội dung bài thơ.
Chúng hỏi em / thấy cộng sản ở đâu?
Em trả lời:/
Tôi chỉ thấy
Chung quanh tôi / những người thân ái
Trong hòa bình / lại phải xa nhau.
Nhịp điệu thơ không chỉ ở lối ngắt nhịp mà còn ở chỗ ngắt dòng trong bài thơ. Chỗ
ngắt dòng không phải chỉ là ở chỗ nghỉ hơi lâu hơn các nhịp ở trong câu thơ mà còn là nơi
phân dòng, xuống dòng của câu thơ. Trên trang giấy in thơ, thơ có nhiều khoảng trắng.
Những khoảng trắng đó góp phần làm nên thi pháp thơ. Bởi vì "thơ không nói hết, thơ là
những bước nhảy về thời gian, quãng không, quãng trống, những cái lặng ấy chính là nơi
chất thơ lan tỏa" (50, tr.19) Những khoảng lặng đó là nỗi lòng thầm kín của thi nhân. Câu
chữ trong đó là tượng trưng cho một cái gì khác. Nó là "tiếng nói của thế giới, là khát vọng
tìm kiếm cái bí ẩn ở đằng sau, bao gồm bản chất thế giới, các hiện tượng của tâm linh con
người, của thế giới cảm giác và vô thức" (98, tr.68). Thơ ca nói chung đặc biệt là thơ tự do
chỗ ngắt dòng là nhịp quan trọng tạo nên nhịp điệu của bài thơ. Nó tạo nên những nhịp thơ,
dòng thơ dài ngắn khác nhau, mang âm hưởng nhịp điệu khác nhau góp phần thể hiện nội
74
dung, từ đó làm thành phong cách nhà thơ. Trong những bài thơ như: Mộ Bectôn Bơrêch,
Chị câm, Những con số,... lời thơ như những mệnh lệnh, mỗi nhịp ngắt lại được tách xuống
dòng tạo nhịp khẩn trương, thúc giục đầy gợi cảm.
Bảy năm
Chị nói bằng mắt
Chị nói bằng tay
Chị nói bằng im lặng
Bảy năm
Chị nói bằng việc làm.
Sáng nay
Súng nổ
Cửa tù mở rộng
Quân cách mạng tràn vào
Chị tiến lên hàng đầu:
-Anh em ơi! Đồng chí!
( Chị câm)
Nhịp điệu không chỉ làm cho dòng thơ thêm dễ đọc, dễ nhớ mà còn góp phần làm nên
giọng điệu bài thơ. Trong thơ Tế Hanh nhịp điệu mạnh, chắc còn tạo nên không khí sôi
động, làm nên sức mạnh và tình cảm âm vang cho bài thơ. Khi tình cảm đến dòng thơ tràn
đầy sức lực cảm xúc cũng đem đến cho thơ một nhịp điệu mới. Nhiều dòng thơ là những
nhịp dài đi liên tiếp nhau xen lẫn với dòng thơ chỉ có một nhịp như gợi lên nỗi xúc động trào
dâng của cái tôi trữ tình.
Ngoài ra, những biến đổi nhịp thơ một cách đa dạng trong một bài thơ làm cho nhịp
điệu thơ sinh động phù hợp với dòng cảm xúc phức tạp, tạo nên giọng điệu khỏe, tràn đầy
75
sức sống cho bài thơ. Đây cũng chính là những tìm tòi đổi mới bước đầu trong thơ Tế Hanh
thời chống Mỹ, Câu thơ mang nhịp 2/3/2 trong bài thơ bảy chữ như dồn lại niềm cảm xúc
đau nghẹn của bài thơ.
Nhớ ngày chào cha đi tập kết
Thầm hẹn hai năm trở lại nhà
Nghĩ đâu/có một ngày /cha mất (2/3/2)
Con chẳng ở gần vuốt mắt cha?
(Nghe tin cha mất)
Gặp em, /câu cuối cùng/ chưa nói (2/3/2)
Buổi sớm qua rồi sắp hết trưa.
(Hoa báo mưa) .
Cách ngắt nhịp 3/3 thay đổi đột ngột trong bài thơ lục bát cũng góp phần làm cho nhịp
thơ rắn chắc. Mặt khác, lối gieo vần cũng góp phần làm cho câu thơ trở nên có gân có cốt.
Toàn bài Có một chiếc tàu mang tên anh nhà thơ chỉ sử dụng có hai vần in (inh) và ức
càng làm tăng nỗi ám ảnh day dứt:
Nhớ sao đồng chí Pêpêninỉ
Thủy thủ nhiều đêm nằm thao thức
Biển bao nhiêu nước bấy nhiêu tình
Sóng vỗ từng hồi vào ký ức...
Ở những bài thơ 8 chữ trở lên nhịp thơ cũng đa dạng và biến đổi liên tục theo cảm xúc
của nhân vật trữ tình. Nhưng những bài thơ 10 chữ trở lên, ở thơ Tế Hanh nhịp điệu thường
nặng nề, ít uyển chuyển, qui luật về thanh điệu không rõ rệt. Có thể nói đây chỉ là những thể
nghiệm bước đầu của nhà thơ để tạo nên những hình thức mới nhằm tải cho được nhiều
những vấn đề của hiện thực cuộc sống.
76
Cùng với nhịp điệu dịu nhẹ thiết tha chất chứa tình yêu cuộc sống, nhịp điệu đầy trăn
trở, day dứt ở Tế Hanh đã góp phần làm nên giọng điệu trữ tình sâu lắng trong thơ. Bên
cạnh ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu trong thơ giúp nội dùng bài thơ thêm sâu sắc. Đặc biệt nó
kết hợp với cái ngân vang của cảm xúc và cái lắng sâu của trí tưởng tượng làm cho giá trị
bài thơ được nâng lên, sáng rõ.
1.4. Thể thơ:
Trong sáng tạo nghệ thuật, mỗi nhà thơ thường sử dụng phương thức chiếm lĩnh, thể
hiện cuộc sống khác nhau tùy theo năng lực và sở trường của mình. Song song đó, thực tiễn
lịch sử và nhu cầu thẩm mỹ mới của thời đại luôn đòi hỏi nhà thơ phải có những cách tân để
đáp ứng kịp thời. Theo Tế Hanh "thơ không theo qui luật chữ, mà phải theo qui luật hơi của
tác giả". "Thể thơ phải là tiếng nói của tình cảm mà tác giả muốn diễn đạt" (68, tr.457). Tế
Hanh đã vận dụng nhiều thể thơ khác nhau trong sáng tác để diễn tả niềm cảm xúc, tâm
trạng của mình. Nhưng nhìn chung thể tự do là phổ biến nhất.
Bên cạnh những sáng tác còn ở bước đầu tìm tòi thể nghiệm, thơ Tế Hanh cũng có
được sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống và hiện đại trên phương diện thể loại góp
phần đem lại hiệu quả nghệ thuật cao trong sáng tạo. Có thể nói, đây là kết quả của sự tìm
tòi trong suốt cả thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Khảo sát thơ Tế Hanh giai đoạn chống
Mỹ chúng tôi có được kết quả sau:
77
1.4.1. Thể thơ bốn chữ, năm chữ có những đổi mới:
Thể thơ bốn chữ là thể thơ ca cổ truyền Việt Nam. Đây là thể loại được dùng phổ biến
trong tục ngữ, ca dao, vè,...sử dụng hai loại vần chân và vần lưng đan xen nhau, ngắt nhịp
theo nhịp hai. Ở Tế Hanh, thể này mục đích vận dụng đã đổi mới và có mặt rải rác ở mỗi tập
thơ: thường mang đậm chất trữ tình, bộc lộ tình cảm ngợi ca, yêu mến đối với những vấn đề
của hiện thực đời sống mà nhà thơ nắm bắt được. Bài Muối là nỗi vui mừng, phấn khởi
trong lao động. Tình cảm cha con đã giúp nhà thơ có những suy tư khi Gòn tập đánh vần.
Ở Tế Hanh lối gieo vần chủ yếu trong thơ bốn chữ là vần chân, vần gián cách theo
cách hiệp vần mới chứ không dùng vần lưng hay vần chân nối đuôi nhau của thể nói lối và
bài thơ được chia ra từng khổ. Nhưng thể loại này Tế Hanh sử dụng chưa nhiều chiếm 2,8%
so với Huy Cận là 7,2% và chưa có được những bài thơ hay như ở Huy Cận.
So với thể thơ bốn chữ, thể thơ năm chữ thời chống Mỹ của Tế Hanh phổ biến hơn và
không cô đúc một cách gò bó như ngũ ngôn Đường luật. Khảo sát 243 bài thơ có 42 bài là
thể năm chữ chiếm 17,2%. Nhịp điệu thơ thường dồn dập, thắt lại rất khỏe để chuyển tải
78
tình cảm, xoáy sâu vào một tâm trạng. Điều này thể hiện rõ nhất trong những bài thơ gieo
vần theo kiểu vần liên tiếp từng cặp, mỗi cặp được tách ra như một khổ thơ và diễn đạt một
ý chắc, mạnh như : Mặt quê hương, Ai,...
Mặt em như tấm gương
Anh nhìn thấy quê hương.
Kìa đôi mắt, đôi mắt
Dòng sông yêu trong vắt.
(Mặt quê hương)
Đây cũng là điểm khác so với Huy Cận: Thể loại thơ năm chữ ở Huy Cận ít gặp hơn
chiếm 12% trong tổng số bài khảo sát. Nhưng Huy Cận còn vận dụng thể thơ sáu chữ tạo
nên bài thơ hay như Một buổi chiều thu mà không tìm thấy ở Tế Hanh.
Cách ngắt nhịp ở thể này cũng đổi mới cho phù hợp với giọng điệu của bài thơ. Bên.
cạnh những bài ngắt theo nhịp 3/2 có những bài ngắt theo nhịp 2/3. Ngắt theo nhịp 2/3 tạo
nên hơi thơ mang tính khẳng định mạnh mẽ, dồn dập làm cho tứ thơ bay bổng, thiết tha.
Hỏi em / em chỉ cười
Không nhớ / đánh bao trận
Nhớ nhất / trận Ba Gia
( Cô gái miền Nam)
Đặc biệt, trong thơ năm chữ ở Tế Hanh. có xen kẽ vào những câu thơ sáu chữ. Điều
này chứng tỏ thể thơ năm chữ ở Tế Hanh cấu trúc câu thơ không gò bó mà mở rộng theo ý
tưởng của tác giả. Câu thơ sáu chữ nằm trong bài thơ là để diễn đạt đúng và đầy đủ nội dung
cần diễn đạt. Thực tế nó không làm ảnh hưởng đến cấu trúc bài thơ cho lắm.
Cô em gái úp mặt
79
Lau nước mắt, gượng cười;
Em chỉ có một mơ ước (sáu chữ)
Được gặp Bác Hồ thôi.
(Cô gái miền Nam)
Như vậy, thể thơ năm chữ được Tế Hanh vận dụng nhiều hơn thể thơ bốn chữ và có
những đổi mới thể hiện những tìm tòi, sáng tạo. Trong đó chẳng những cách ngắt nhịp thay
đổi để phù hợp với nội dung mà cấu trúc câu thơ, bài thơ cũng có những cách tân và trở nên
dễ hơn:
1.4.2. Thể thơ 7 chữ, 8 chữ có những cách tân thể hiện sự nhuần nhuyễn:
Thơ Tế Hanh kế thừa những đặc điểm của thơ Mới và thể hiện được sự nhuần nhuyễn.
Số lượng thơ 7 chữ trong thơ Tế Hanh chiếm 16,8% trong tổng số 243 bài thơ được khảo
sát. Những bài thơ 7 chữ thường dài, được chia thành nhiều khổ hơn là bài thơ 4 khổ như ở
thơ Mới. Các khổ thơ chủ yếu là gồm 4 dòng nhưng cũng có bài xen những khổ thơ 2 dòng.
Những khổ thơ 2 dòng này thường có ý nghĩa mở đầu cho bài thơ như trong các bài: Ba
Gia, Bài thơ tháng bảy,... Tất cả đều được hiệp vần theo vần của thơ Mới.
Cách ngắt nhịp trong thơ 7 chữ ở Tế Hanh cũng có những thay đổi. Ngoài nhịp 4/3 hay
3/4 còn có câu thơ được ngắt theo nhịp 2/3/2 (2/5). Hiện tượng chấm câu, ngắt dòng cũng có
những đổi mới. Ở Tế Hanh có trường hợp chấm câu giữa dòng, nhằm diễn tả cho phù hợp
nội dung bài thớ đồng thời cũng nhằm góp phần hướng người đọc đến một cách đọc thích
hợp hơn. Cách ngắt nhịp đổi mới nhằm tránh sự đơn điệu đồng thời góp phần quan trọng
trong việc bày tỏ tình cảm trong bài thơ.
Ba Gia!/- Chào chiến thắng Ba Gia (2/5)
Ta gửi về quê/ một khúc ca
(Ba Gia)
Cấu trúc bài thơ cũng có những biến đổi. Bên cạnh những dòng thơ 7 chữ còn xen kẽ vào đó
những câu 5 chữ, 6 chữ, 8 chữ, 9 chữ, 10 chữ.
80
Cách mạng miền Nam như vu bão
Chiến công kế tiếp bản hùng ca
Áp Bắc đến Bình Giã (năm chữ)
Sân bay hai lượt cháy Biên Hòa.
(Ba Gia)
Câu thơ 5 chữ làm cho mạch thơ đi nhanh hơn thông thường, gợi cảm giác những
chiến công đến nhanh, lòng người đầy phấn chấn như nhịp điệu gấp gấp, nhanh gọn. Câu
thơ 10 chữ trong bài thơ gồm nhiều khổ thơ làm cho nội dung bài thơ được thể hiện đầy đủ
hơn. Chúng có sức ngân vang như lời kêu gọi mà không làm cho mạch thơ bị gián đoạn.
Tiến lên! Dải đất quê ta ơi!
Miền Bắc miền Nam súng sẵn rồi
Hãy làm quả bộc phá lao vào dinh lũy Mỹ (mười chữ)
Nghìn triệu đứng bên ta như tuyến thép ngời ngời. (mười chữ)
(Gửi Quảng Nam-Đà Nẵng)
Và câu thơ 6 chữ trong Mẹ có nghe thơ con được đặt ở đầu bài thơ tạo nhịp điệu nhẹ
nhàng, êm ái làm cho lời thơ có gì rất tự nhiên như chính dòng xức cảm của nhà thơ được từ
tốn phơi bày trên trang giấy.
Được thơ các đống chí xã (sáu chữ)
Cho biết quê hương giải phóng rồi.
Cha mất, mảnh vườn xưa giặc phá
Mẹ còn, nhắc nhở mãi không thôi.
81
Ngoài ra cặp câu sáu chữ xuất hiện trong bài thơ bảy chữ được tách ra từng cặp làm
cho nhịp thơ thay đổi, tránh được sự lặp lại nhàm chán đồng thời câu thơ được ngắt theo
nhịp 3/3 góp phần nhấn mạnh vào ý tưởng của tác giả trong bài thơ.
Có một gì / rất Thủ đô (sáu chữ)
Một cái gì / rất Hà Nội (sáu chữ)
Trong cả đất trời và trong tôi
Rạo rực niềm vui/ không cưỡng nổi.
(Gặp xuân ngoại thành)
Khi bài thơ có những câu thơ 8 chữ đứng cùng thì nhịp điệu bài thơ uyển chuyển, mềm
mại hơn, tình cảm đằm thắm, thiết tha hơn.
Ôi cuộc đời của một nhà nho!
Khổng Mạnh vài pho, dăm cậu học trò (tám chữ)
Ngồi bút sắt chép ngược dòng chữ Hán (tám chữ)
Khi quanh làng vang tiếng học a, o.
(Nghe tin cha mất)
Tùy theo cảm xúc mà những câu thơ ngoại lệ ấy góp phần thể hiện nội dung bài thơ.
Đây cũng là những sáng tạo nghệ thuật giúp nhà thơ phá vỡ những khuôn mẫu gò ép về câu
chữ của thể loại và đem lại những đổi mới đáng kể. Đôi khi nhà thơ đưa vào đó những dòng
thơ lục bát mà không ảnh hưởng đến kết cấu bài thơ. Từ đó thể hiện rõ hơn sự phóng
khoáng trong hình thức diễn đạt của Tế Hanh. Nhà thơ không làm cho tứ thơ mình cứng
nhất và cách diễn đạt trở nên chân thực hơn.
Những đêm hè khí trời oi bức
Cha ru con một giọng như buồn
82
"Chim khôn xuống đất ăn trùn
Anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than".
(Nghe tin cha mất)
Thời Hoa niên thơ 7 chữ cũng rất quen thuộc với Tế Hanh chiếm 52,5% trong tổng số
40 bài và có những bài thơ hay đi vào lòng người. Nhưng những bài thơ 7 chữ lúc đó còn
tuân thủ tuyệt đối vào hình thức câu chữ của thơ MỚI và thường từ 3 đến 4 khổ không có
hiện tượng ngoại lệ như giai đoạn thơ chống Mỹ.
Cũng như thể thơ 7 chữ, thể thơ 8 chữ trong giai đoạn chống Mỹ xuất hiện ít hơn thời
Hoa niên và không gò bó theo khuôn mẫu tạo nên không khí đều đều, êm dịu nữa mà bài
thơ có những phá thể . Bài thơ 8 chữ có chứa những câu 7 chữ, 9 chữ và có hiện tượng tách
dòng, chấm câu giữa dòng. Tất cả làm cho nhịp thơ có những thay đổi góp phần biểu hiện
nội dung bài thơ. Câu thơ 7 chữ xuất hiện trong những bài thơ Còn nóng giữa lòng tôi, Món
quà xuân tết,... tạo nên nhịp điệu chắc và mạnh mẽ hơn.
Mẹ quê hương nơi miền Nam ruột thịt
Đêm hôm nay, giữa miền Bắc chúng con
Kính dâng Mẹ món quà xuân tết: (bảy chữ)
Bó hoa tươi thắm thiết của tâm hồn.
(Món quà xuân tết)
Tách dòng, chấm câu giữa dòng ở thơ 8 chữ góp phần vào việc hiện đại hóa thể thơ;
hướng người đọc vào việc ngắt nhịp, nghỉ hơi nhằm thể hiện cảm xúc của nhà thơ.
Đến ngày nay, từ một miền đau khổ
Những đứa con của lưới rách, thuyền hư
Ra miền Bắc, sống trong lòng chế độ
Đã trưởng thành:
83
Người bác sĩ, kỹ sư
(Món quà xuân tết)
Bánh xe quay thời gian không đứng lại
Vừa sớm mai, trưa gõ cửa ta rồi
Ta sẽ giả từ đời. Thơ vẫn ở
Trong mùa xuân vĩnh viễn góp chung vui.
(Bên bờ sông Đa Nuýp)
Tóm lại, ở Tế Hanh những bài thơ 7 chữ phổ biến hơn thể 8 chữ. Và tất cả thể hiện sự
tìm tòi đáng kể trong sáng tác làm cho thể loại không còn gò bó nữa, góp phần làm tăng cảm
xúc trong thơ.
1.4.3. Thơ lục bát với những cách tân hiện đại:
Lục bát là thể thơ truyền thống. Trong thời kỳ hiện đại, lục bát vẫn duy trì được sức
sống của mình. Ở Tế Hanh, lục bát tồn tại dưới hai dạng cơ bản:
Lục bát nguyên thể là bài thơ mà trong đó các đòng thơ dắt nối nhau từ đầu đến cuối
tạo thành bài lục bát trọn vẹn. Bên cạnh những bài lục bát tuân thủ theo cách hiệp vần, phối
thanh truyền thống còn có những bài lục bát có những cách tân theo lối hiện đại.
Các dòng lục bát dùng phối hợp và xen kẽ với các thể thơ khác như thể 5 chữ, thể 7
chữ, thể tự do,...để làm thành bài thơ. Đó là lục bát phối xen. Cũng như Huy Cận ở Tế Hanh
lục bát phối xen này thường ít gặp hơn. Nếu Huy Cận là Trò chuyện với Kim Tự Tháp, ...thì
ở Tế Hanh là Người đàn bà Ninh Thuận, Liên Xô anh cả chúng ta mở đường, Hai lời rủa và
một khúc ca,...
Mặc đù đạt được sự hoàn chỉnh của cách luật nhưng lục bát ở Tế Hanh vẫn không gây
ra sự gò bó cứng nhất, nhàm chán. Trái lại, lục bát ẩn chứa nhiều khả năng khơi gợi những
cách xử lý mềm mỏng, uyển chuyển. Các bài thơ lục bát ở Tế Hanh thường ngắn gọn mềm
84
mại chứa đựng những tình cảm đằm thắm thiết tha. Trong bài thơ Nông trường cà phê,
những câu lục bát mềm mại cùng sức liên tưởng tuyệt vời đã tạo nên hình ảnh đẹp, gợi cảm.
Hay bằng những dòng lục bát uyển chuyển giàu tình cảm nhà thơ đã gởi vào Mùa thu
ở nông trường niềm xúc cảm chân thành trước hiện thực cuộc sống mới:
Tôi đi để mặc cỏ may
Hai bên bờ biếc gim dày quần tôi
Dừng chân dưới một quả đồi
Gỡ từng sợi cỏ, tôi ngồi nhìn thu.
Lục bát ở Tế Hanh cũng có những biến đổi mang tính thi pháp, diễn ra trên các dòng thơ
nhằm đưa lại một hiệu quả nghệ thuật nhất định. Đó là hiện tượng vắt dòng, chấm câu giữa
dòng, tách dòng,
Vắt dòng là hiện tượng dòng lục và dòng bát không còn là hai vế tách bạch của câu
hiểu theo nghĩa là đơn vị cú pháp hoàn chỉnh mà giữa các dòng có mối quan hệ cú pháp với
nhau; dòng lục chứa hơn một đơn vị cú pháp thường thì 3 hay 4 tiếng đầu của dòng lục là
một đơn vị cú pháp hoàn chỉnh còn 2 hay 3 tiếng cuối đứng độc lập, thuộc về đơn vị cú
pháp của dòng bát. Vắt dòng ở thể lục bát hướng tới một mỹ cảm cửa sự phá bỏ đối xứng
đều đặn, cố làm cho dòng thơ diễn ra tự nhiên theo lối nói thường. Từ ngữ và câu văn xuất
hiện theo trật tự tuyến tính vốn có của câu văn xuôi. Dòng thơ lục bát bắt đầu gần gũi với
câu thơ tự do như trong các bài: Bài ca trở về, Ba-tơ giải phóng, Những đoạn thơ tình,...
Nghìn năm sau chỗ hai ta
Gặp nhau đời lại nở hoa tưng bừng.
(Những đoạn thơ tình)
Ba-tơ giải phóng - Vui nay
Nhân lên cùng với những ngày vui xưa
(Ba- tơ giải phóng)
85
Chấm câu giữa dòng cũng là một hiện tượng khá phổ biến trong thơ Tế Hanh. Trong
một dòng thơ chứa hai đơn vị cú pháp ngữ nghĩa gần như độc lập với nhau. Đây là hiện
tượng mới trong các dòng thơ lục bát góp phần hiện đại hóa thể thơ.
Nắng lên. Trời đã đẹp rồi
Áo xuân con mặc chói ngời màu hoa
(Vườn xuân)
Ta về. Giữa khoảng trời đêm
Vành trăng như thể mắt em soi đường.
(Mùa thu tiễn em)
Nhiều khi ở Tế Hanh chỉ một câu lục bát lại chứa đến hai ba đơn vị cú pháp. Đó là
những câu đặc biệt góp phần hiện đại hóa thể lục bát như trong các bài; Đã nghe giọng hát,
Trước mộ LêNin, Hai lời rủa và một khúc ca, ...
Bỗng dưng cơn nước cuộn dòng
Pháp đi. Mỹ đến. Bão dông bốn bề.
(Hai lời rủa và một khúc ca)
Đây không gian. Đây thời gian
Đây là dòng máu nhịp nhàng về tìm
(Trước mộ Lênin)
Thể lục bát ở Tế Hanh cũng có hiện tượng tách dòng. Dòng thơ được tách ra thành bậc
thang có tác dụng gợi cách đọc sao cho thích hợp và tạo hứng thú thẩm mỹ trong hình thức
thơ ca .
Hai đầu Nam Bắc cùng ghi:
Trên bao đổ nát có gì mênh mông
86
Mang theo bóng tối cuối cùng
Giặc rút đi -
Sáng khắp vùng quê ta.
(29-3-1973)
Từ những cách tân dòng thơ lục bát hiện đại như vậy nẩy sinh ra cách xử lý mối quan
hệ giữa cấu trúc âm điệu của dòng thơ với cấu trúc cú pháp nghĩa của câu thơ. Đây là những
biến đổi quan trọng diễn ra trên dòng thơ mà Tế Hanh đã có công thể hiện trong nền thơ lục
bát hiện đại.
Phối điệu là một yếu tố khá quan trọng trong cơ cấu âm luật của thể thơ lục bát. Ở Tế
Hanh, các bài lục bắt không phối hợp hoàn toàn theo hình mẫu cổ điển. Trừ một vài lục bát
bốn dòng nhừ: Lá bàng non, Trên thế giới,... còn lại các bài lục bát ở Tế Hanh đã chứng tỏ
nhà thơ cũng tỏ ra triệt để sử dụng quyền tự do lựa chọn của mình đối với những tiếng nằm
ở vị trí lẻ, và cố gắng đặt vào đó những tiếng bằng hay trắc sao cho phù hợp với hình ảnh và
cấu trúc của câu thơ. Đặc biệt, người đọc bắt gặp một số trường hợp "vi phạm" luật bằng
trắc (so với hình mẫu cổ điển) phổ biến là:
Thanh bằng (B) ở tiếng thứ hai đổi thành thanh trắc (T). Trong thơ Tế Hanh có 3
trường hợp này.
-Người trước ngã có người sau. (BTTTBB)
(Bài ca trở về)
Có khi tiếng thứ hai đổi từ thanh bằng thành trắc và tiếng thứ tư đổi từ trắc thành bằng:
-Đồng Hới gọi Qui Nhơn thưa (BTTBBB)
(Bài ca trở về)
-Tôi đến thăm tim Sô Panh (BTBBBB)
(Trái tim Sô panh)
87
Hay thanh trắc ở tiếng thứ tư đổi thành bằng. Trường hợp này cũng phổ biến trong thơ
Tế Hanh: khảo sát các bài lục bát ở Tế Hanh có tới 7 trường hợp. Đây là những thay đổi
cũng có ở Huy Cận nhưng trong Tuyển tập Huy Cận 1 trường hợp này có 4 lần.
- Chị lên bốn, em lên ba (TBTBBB)
(Cha ngồi ở giữa)
-Bây giờ có hai ngôi sao (BBTBBB)
(Song song bay với hai tàu phương Đông)
Ở Tế Hanh có những trường hợp dòng thơ lục bát không trùng khít với "kích thước"
thông thường. Dòng bát dãn ra thành 9 tiếng. Ở đây nhà thơ đã tiếp cận với cách xử lý của
dân gian. Nhờ đó làm câu thơ rõ nghĩa, mang dáng dấp khẩu ngữ, cái âm điệu tự nhiên toát
ra từ không khí thân mật của những lời trò chuyện.
Thu qua rồi lại đến thu
Chiều xa nhau ấy gió sương mù rặng cây (chín tiếng)
( Cũng là có nhau)
Đây là những cách tân mới trong lục bát hiện đại mà Tế Hanh đã có công đóng góp.
Cũng như Huy Cận thơ lục bát của Tế Hanh có những trường hợp ngắt nhịp lẻ. Ngắt nhịp lẻ
ở Tế Hanh là do tiểu đối:
Miệng em cười / cánh hoa lay
(Mặt mùa xuân)
Hay do lối dùng hô ngữ:
Miền Nam ơi!/ mười một năm
...Các anh ơi/ tám năm xa
(Gặp em)
88
Như vậy, thể lục bát ở Tế Hanh vừa mang âm hưởng của lục bát cổ điển, vừa có dáng
dấp của lục bát dân gian, lại vừa mang hơi thở và màu sắc của thơ hiện đại.
1.4.4. Thơ tự do có những tìm tòi bước đầu:
Thơ tư do là thơ không bị ràng buộc vào các qui tắc nhất định về số câu, số chữ, niêm
đối, là thơ phân dòng nhưng không có thể thức nhất định. Nó có thể là hợp thể, phối xen các
đoạn thơ làm theo thể khác nhau, hoặc hoàn toàn tự do.
Ở giai đoạn 30 - 45 thơ tự do nói chung cũng như ở Tế Hanh còn ngập ngừng với
những câu 5 chữ, 8 chữ. Đến giai đoạn chống Mỹ câu thơ tự do của Tế Hanh đã có những
đổi mới. Đây cũng là xu hướng chung của thơ Việt Nam giai đoạn 45-75. Thơ tự do trở
thành thể thơ chủ đạo trong sáng tác chiếm 38% tổng số bài thơ, Huy Cận là 21,6%. Bên
cạnh những câu thơ ngắn một hai chữ thì có những câu thơ kéo dài đến hơn lơ chữ. Cấu trúc
câu thơ không chỉ là dừng lại ở hình thức câu thơ không vần mà có những tìm tòi đổi mới
theo dòng cảm xúc của nhà thơ. Câu thơ tự đo có khuynh hướng trở thành câu văn xuôi
Dòng thơ dài cũng được tách ra thành nhiều khoảng trắng như để diễn tả tâm trạng của
nhân vật trữ tình, hướng người đọc đến một cảm xúc đặc biệt.
Tôi đã đến những công trường cây xanh, những cánh đồng lúa biếc
Gặp nhiều cô như buổi sáng xuân tươi
Tôi hỏi thử: có tin vui cho biết?
Tôi đã ra mặt trận, bên những ụ pháo hiên ngang chĩa thẳng lên trời
Gặp nhiều anh ngực phồng tuổi trẻ
Tôi lại hỏi: bao giờ về thăm quê mẹ?
Ở đâu đâu cũng một tiếng trả lời như thốt tự tim ra.
Chờ
Đánh thắng giặc Mỹ
89
Thông nhất nước nhà.
(Đi suốt bài ca)
Bài thơ Cuộc hành quân đuổi quặng đã thể hiện những thành đạt trong tìm tòi của
mình. Bài thơ không vần chỉ có nhịp điệu nhưng vẫn là thơ. Cũng có những bài thơ tự do
được nhà thơ cô đúc lại rất ngắn gọn, cách dùng từ nói thẳng, nói mộc muốn phá vỡ những
hình thức thơ từ trước của mình để diễn đạt một ý nghĩ. Chính những tìm tòi suy nghĩ đó
góp phần tăng thêm giá trị nội dung cho thơ như bài: Mộ Béctôn Bơrêch, Chị câm, Những
con số, ...Tuy nhiên so với các nhà thơ cùng thời như Chế Lan Viên, Huy Cận thì Tế Hanh
chưa có được những bài thờ tự do hay. Thơ tự do của Chế Lan Viên đa dạng, linh hoạt, giàu
nhạc điệu nên không gây ấn tượng nặng nề. Còn Huy Cận cũng có được những bai thơ tự do
hay như: Trò chuyện với Kim Tự Tháp, Lời chào các dân tộc, cầu Hàm Rồng, Ngã ba Đồng
Lộc, Lúa mới,...
Mặc khác cũng có những tìm tòi làm mất đi sự nhuần nhị. Nhìn chung những tìm tòi
của tác giả ở đây chưa tạo thành những nét mới ổn định trong sự phát triển tất yếu của
phong cách thơ Tế Hanh. Bài thơ Một trang nhật ký còn thiếu nhạc điệu và vị thơ cần
thiết. Sự sáng tạo của nhà thơ chưa thật hoàn chỉnh; muốn thể nghiệm một lối thơ phá thể để
chứa cho hết nhưng chính vì chưa điều khiển nổi nên để ý lấn sang tình. Tế Hanh chưa tạo
được một thế hài hòa giữa lời và cảm xúc, giữa ý và tình. Có lúc lời dài mà ý cạn, tư tưởng
và cảm xúc chưa ngưng đọng.
Ngoài ra cũng như những "bài thơ sân khấu" ở Huy Cận, Tế Hanh đã có thể loại thơ
sân khấu trong Câu chuyện quê hương góp phần thể hiện những tìm tòi đáng kể làm phong
phú thêm hình thức thơ ca.
Tóm lại, nhà thơ đã sử dụng hầu hết các thể thơ trong thời chống Mỹ. Nhưng thể thơ
tự do được sử dụng nhiều nhất và thể hiện những tìm tòi bước đầu thể nghiệm. Sự tìm tòi
hình thức mới ở Tế Hanh cũng nằm trong quy luật vận động của thơ Việt Nam hiện đại.
Càng về sau thể thơ song thất lục bát ít được vận dụng. Chứng tỏ nhà thơ đã có ý thức tìm
đến thể loại nào có khả năng tối ưu cho việc biểu đạt tư tưởng tình cảm phù hợp nhu cầu
thẩm mỹ mới.
90
CHƯƠNG 2: KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT VÀ THỜI GIAN NGHỆ
THUẬT TRONG THƠ TẾ HANH.
Tác phẩm văn học là thành quả lao động của nghệ sĩ ngôn từ. Trong đó thế giới nghệ
thuật là một trong những yếu tố quan trọng làm nên giá trị tác phẩm. Tác phẩm văn học dù
là thơ ca hay văn xuôi thì tác giả đều muốn gửi vào đó tư tưởng, tình cảm của mình thông
qua đối tượng thể hiện ở một không gian và thời gian nhất định. Không gian và thời gian
trong tác phẩm văn học là không gian và thời gian nghệ thuật; không gian và thời gian đã
được lựa chọn, sắp xếp, tổ chức sáng tạo lại thông qua cảm xúc của nhà nghệ sĩ mang lại
một chất lượng mới, một nội dung thẩm mỹ mới tạo nên tư tưởng của tác phẩm.
2.1. Không gian nghệ thuật:
Văn học phản ánh đời sống của con người. Con người bao giờ cũng tồn tại trong một
không gian và thời gian nhất định. Không thể hiểu được con người nếu không hiểu được
không gian, thời gian tồn tại của nó. Không gian trong tác phẩm văn học là đối tượng nhận
thức và phương thức xây dựng tác phẩm. Nói cách khác, đó là không gian nhận thức, không
gian được nhà nghệ sĩ cảm nhận chiếm lĩnh trên cơ sở không gian hiện thực và thể hiện một
cách nghệ thuật trong tác phẩm. Không gian nghệ thuật giữ vai trò như một thành tố nghệ
thuật, một hình tượng không gian và tạo liên một cơ tầng tư tưởng thẩm mỹ trong tác phẩm.
Không gian nghệ thuật chính là hình thức tồn tại chủ quan của hình tượng. Dưới mắt của
mỗi tác giả khác nhau, không gian nghệ thuật trong tác phẩm hình thành cũng không giống
nhau, phương thức tổ chức không giống nhau. Khác với không gian sâu rộng trong thơ Huy
Cận, thơ Tế Hanh giai đoạn chống Mỹ nổi bật lên một số không gian nghệ thuật tiêu biểu
như:
2.1.1. Không gian địa lý:
Không gian địa lý trong thơ Tế Hanh gắn liền với những nơi mà nhà thơ từng sống và
đến thăm, nơi xảy ra những biến cố, sự kiện trong xã hội, những vùng đất gắn liền với cuộc
đời nhà thơ. Sinh ra và lớn lên trên vùng quê Quảng Ngãi, cái làng "vốn làm nghề chài lưỡi"
đã ghi dấu trong nhà thơ biết bao nhiêu kỷ niệm. Trong kháng chiến chống Mỹ đầy đau
91
thương mà anh dũng, làng quê Quảng Ngãi đã xuất hiện trong nhiều bài thơ của Tế Hanh
với những nét chân thực tràn đầy cảm xúc.
Ba Gia là một vùng đất của Quảng Ngãi, là khoảng không gian của núi Ấn, sông Trà,
chợ Ba Gia buổi sáng đầy sương tỏa, buổi chiều nắng ngã tà, một miền đất kiên cường đã
từng đánh Tây, đuổi Nhật,... Đến đây người đọc không chỉ thấy được địa thế lịch sử của
vùng quê Quảng Ngãi mà còn thấy được khung cảnh sinh hoạt của người dân trên miền biển
này.
Sớm đi mặt nước sương còn tỏa
Chiều lại bên sông nắng ngã tà.
...Cá đi lại thấy trầu cau lại
Dưới biển trên non sống cảm hòa.
(Ba Gia)
Vạn Tường là nơi Mỹ đã mở trận đổ bộ lớn nhất với sáu ngàn quân được trang bị hiện
đại và đã phải thiệt hại lớn nhất kể từ đại chiến lần hai. Điều đó khiến nhà thơ cất lên lời
Chào Vạn Tường và dựng lên không gian mảnh đất quê hương. Đây là một mảnh đất nhỏ
nằm trên bãi biển từ trước cách mạng vốn nghèo khó:
Lúa không mọc được ruộng chua phèn
Biển đầy tôm cá nghèo không lưới...
Sống bên bãi muối mà thiếu muối.
Nhưng cách mạng vùng lên: biển về ta tôm cá đầy thuyền.... Con người nơi đây anh
hùng, chiến đấu chống giặc quyết liệt: Núi thành gương dũng sĩ đâm lê. Quê hương Vạn
Tường đã ghi vào lòng nhà thơ như cái gì yêu thương, gắn bó:
Vạn Tường! Vạn Tường! Mảnh đất nhỏ
Từng tảng đá ong thêm ửng đỏ.
92
...Vạn Tường ôi mảnh đất quê hương
Đứng lên sáng ngời Thái Bình Dương.
Quê hương Quảng Ngãi trở thành cái nôi để nhà thơ bộc lộ nỗi lòng thầm kín: "Quảng
Ngãi ơi! Quê mẹ tôi ơi! Cho tôi gởi lòng tôi lần nữa". Không gian Quảng Ngãi còn được
nhà thơ dựng lên với quy mô rộng hơn, đầy đủ hơn. Đó là vùng quê vừa đồng vừa biển
"Đường phổi đường phèn, con cá con cua". Nơi có văn tế cụ Phan, vè chống thuế và đầy
những câu hò tiếng hát, điệu đò đưa, tiếng gà giục giã buổi hừng đông. Mảnh đất này đã
chịu nhiều đau thương, nơi giặc tập trung gây tội ác: "Máu chảy Bình Hòa, máu chảy Ba
Làng An, Sơn Mỹ". Nhưng nhà thơ vẫn tự hào với những chiến thắng Ba Gia, chiến thắng
Vạn Tường,... Có thể nói làng quê Quảng Ngãi trở thành hình tượng không gian trong thơ
Tế Hanh, chất chứa bao tâm tình của nhà thơ đồng thời ghi dấu ấn của thời đại.
Trong kháng chiến chống Mỹ, Ba Làng An là một miền quê của Quảng Ngãi đã chịu
nhiều đau thương. Nhà thơ đã ghi Mối thù Ba làng An và để lại trong lòng người đọc
không gian làng quê hiền hậu. Đó là ba làng nhỏ cùng trong một cái tên rất Việt Nam. Làng
An vùng đất quê hương yêu dấu này như bán đảo xinh xinh nằm giữa Bình Sơn, Sơn Tịnh.
Con sóng vỗ trắng ghềnh
Trời trong xanh lấp lánh.
...Trồng khoai lúa ngoài đồng
Chài cá tôm dưới biển.
Và nhà thơ cũng Gửi Quảng Nam - Đà Nẵng những tình cảm tha thiết như chính quê
hương mình, mảnh đất mà phía trước la biển Thái Bình Dương, sau lưng là Dãy Trường
Sơn. Từ trong kháng chiến những ngày đầu 47 nhà thơ đã chứng kiến Quảng Nam - Đà
Nẵng là không gian của thiên nhiên thắm đượm không khí chống Pháp.
Mây Sơn Trà thắm màu cờ đỏ
Dòng Thu Bồn rộn bước hành quân.
93
Pháp rút đi giặc Mỹ đến, đất Quảng Nam - Đà Nẵng thắm máu những người con vô tội.
Không gian nơi đây đã ghi dấu tội ác của quân giặc, không gian của miền đất trong chiến
tranh đầy đau thương tang tóc.
Chợ Được bãi cồn chưa ráo máu
Vĩnh Trinh nước đập rã thây người
Bốn lăm em bé Mân Quang học
Bom Mỹ ném bừa máu thịt rơi.
Nhưng miền đất anh hùng đã cùng nhân dân tiêu diệt và đánh lui cả một tiểu đoàn giặc với
những trận Điện Ngọc, Việt An, Núi Thành và đây:
Sân bay Đà Nẵng xác tơi bời
Hai mươi triệu lít xăng Liên Chiểu
Trừng phạt loài gian lửa ngút trời.
Chính không gian thắm màu cờ đỏ, thắm máu căm thù đã khơi dậy trong lòng nhà thơ
nhiều cảm xúc, ghi dấu một thời kỳ lịch sử. Không gian hiện thực này đã góp phần làm nên
tư tưởng của bài thơ.
Ngoài ra, cảnh núi đồi Sa Pa nên thơ đầy hoa tươi cỏ lạ hiện lên như một bức tranh sơn
thủy mênh mông tuyệt đẹp: đồi bát ngát núi bao la. Thiên nhiên như có hồn gắn chặt với
cuộc sống con người, với cuộc đời của cô gái chăn bò sữa nông trường tạo nên không gian
tràn đầy sức sống, tràn ngập niềm vui, gợi lên cảm giác thanh thản, yêu đời. Đây là không
gian mang sắc thái riêng của núi đồi Sa Pa.
Hoa đào thắm trước gió xuân
Đoá hoa bất tử héo không phai màu
Hoa mua chiều xuống tím au
Hoàng liên càng rét càng mau nở vàng
94
Cỏ hương cỏ sữa bạt ngàn
Đường đi con suối lượn ngay chân đèo.
( Cô gái chăn bò sữa Sa Pa)
Không gian nơi Hồ Ba Bể đi vào thơ Tế Hanh thật hùng vĩ chúng không thể lẫn vào
đâu được. Không gian này làm bật lên nỗi xúc động tự hào trước vẻ đẹp kỳ vĩ của đất nước
đồng thời có dịp ôn lại một thời kỳ chiến đấu oanh liệt, hào hùng của giải phóng quân thời
đánh Nhật đuổi Tây. Tất cả gợi lên lòng yêu nước, căm thù giặc quyết bảo vệ những gì vốn
có của tổ quốc.
Trời xanh xanh soi nước xanh xanh
Hai bên sừng sững núi giăng thành
Ba hồ khắng khít tình em chị
Bảy sắc hang Puông đá uốn mình
...Nhà thủy sản lung linh bóng nước.
Ánh bạc quanh thuyền cá quẫy đuôi
(Ba bài thơ về Ba Bể)
Giống như ở Tế Hanh , không gian hiện thực trong thơ Huy Cận cũng gắn liền với
những Cẩm Phả, Hồng Gai, Mai Lĩnh, Chúc Sơn, Đèo Nai,...Nếu Tế Hanh thấy tự hào yêu
mến với Hồ Ba Bể, Sapa,... thì Huy Cận cũng tràn đầy niềm vui trên vùng quê Đức Ân:
Về thăm quê xã Đức Ân
Êm êm đất cát bước lần bãi sông
Ngô non lá mượt màu nhung
Mía ken san sát, khoai vồng rậm dây.
(Về thăm quê xã Đức Ân)
95
Bên cạnh đó, thơ Tế Hanh còn nổi bật lên không gian của những con sông: sông Đáy,
sông Cửu Long, sông Trà Bồng,... với niềm yêu mến, thiết tha. Con sông Đáy nằm giữa hai
vùng Sơn Tây, Hà Đông phù sa bồi đắp "Sơn Tây đất rắn, Hà Đông mịn". Tắm nước của
dòng sông, trên bờ những đám ngô chen bãi mía, những gốc nhãn lên hương, những cây vải
đỏ màu. Con sông mang những nét riêng rất thực gắn liền với cuộc sống của những người
dân ở đây, trong khói lửa vẫn giữ được sức sống. Sông Đáy trở thành đối tượng để nhà thơ
gửi gắm niềm tin, hy vọng với quê hương, đất nước.
Từng bãi dâu xanh soi nước biếc
Tơ vàng tơ trắng quấn quanh nhau.
(Sông Đáy)
Sông Cửu Long hiện lên trong thơ Tế Hanh như một huyền thoại. "Sông Mê Kông như
một dải tình thương" ôm ấp ba dân tộc vào nhịp sống. Con sông trở thành không gian chung
của những con người yêu nước bảo vệ hòa bình. Khi giặc Mỹ đã gieo rắc căm hờn, nhà thơ
cảm thấy “lòng như máu ứa”
Mê Kông đó! Bắt nguồn từ Tây Tạng
Nơi Hy Mã Lạp Sơn tuyết phơi trắng xóa
Sông tràn qua dào dạt đất đai Lào
Nghe thác khôn nước rẻo sóng xôn xao
Sông đổ xuống nước Ăngco cánh đồng màu mỡ
Gặp Tông lê Sáp nối Biển Ho rộng mở
Chảy về ôm dải đất miền Nam
Trong hai cánh tay Tiền Giang, Hậu Giang
Rồi ra bể chào Thái Bình Dương bằng chín cửa.
(Cửu Long ơi)
96
Không gian địa lý trong thơ Tế Hanh còn nổi bật lên không gian làng quê gắn bó với
cuộc sống của con người. Đó là ngôi làng, mảnh vườn, ngôi trường, lũy tre, ngôi nhà, góc
sân, căn phòng, cái tủ, cái giếng nơi đầu làng,... Đặc biệt con đường, con sông là nơi chứa
đựng biết bao kỷ niệm, gắn với cuộc sống hàng ngày của nhà thơ, của người dân làng quê.
Con đường ở đây là đường làng đến trường: Đưa con đi học, con đường rợp bóng Hồ Chí
Minh; con đường quê: Trạm máy kéo; con đường ra mặt trận: Tình chiến đấu; con đường
cách mạng: Thời gian về ta,...Không gian ở đây không rộng lắm, ít biến đổi gắn với đời
sống người làng quê. Đó là nơi để nhà thơ gửi gắm tình cảm của mình với quê hương đất
nước. Nói chung đây là không gian của một làng quê thương nhớ.
Mảnh vườn là không gian quen thuộc xuất hiện nhiều trong thơ Tế Hanh. Mảnh vườn
ấy gắn với bao kỷ niệm, với cuộc sống con người, với nỗi lòng của nhân vật trữ tình. Trước
đây, mảnh vườn ở Tế Hanh là Vườn cũ chứa đầy kỷ niệm buồn, nhớ thương, héo hắt:
Ngôi nhà mái cũ rêu in lớp
Hè bức rèm đơn đỡ nắng mưa
Cỏ cây im lặng như từ thuở
Đôi lứa xa nhau vẫn đợi chờ.
Trong kháng chiến chống Mỹ, Vườn xưa là nơi in dấu tuổi trẻ, nơi chất chứa bao kỷ
niệm, nuôi lớn những tình cảm của con người. Mảnh vườn gắn với cảm xúc của nhà thơ,
thời gian trôi qua nhà thơ cảm nhận được:
Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc.
Hai ta ở hai đầu công tác
Biết bao giờ cùng trở lại vườn xưa.
Mảnh vườn còn là không gian đẹp, rộn ràng tươi thắm của những ngày đẹp trời nơi trại
nhi đồng. Đó là Vườn xuân gắn liền với thế hệ tuổi thơ, yêu đời và hướng tới cuộc sống tốt
đẹp. Hay vườn hoa Thống Nhất vào những ngày chủ nhật bầu trời trong dưới bóng cây
97
xanh, có hoa thơm, bướm lượn bên bờ hồ và những thảm cỏ xanh mát. Đây là không gian
của những ngày hạnh phúc và tin tưởng ở tương lai tươi sáng rộng mở:
Con ơi mai mốt con khôn lớn
Bước trẻ tha hồ dạo đó đây.
Vườn hoa thế giới trăm hương sắc
Con tàu vũ trụ vút từng mây.
(Chăn con)
Cái nhìn mới về cuộc sống giúp nhà thơ đã thấy được niềm tin tưởng yêu đời hơn.
Mảnh vườn xưa là "một mảnh đất cằn cỗi, bỏ hoang ở cuối thôn" dưới bàn tay của ông lão
người Se Đéc nay thành một khối xanh um với các loại cây miền Nam chen loại cây miền
Bắc. Mảnh vườn hiện lên tràn trề sức sống đem lại hạnh phúc cho con người.
Cây thay nhau bốn mùa
Thơm hương và ngọt quả.
Ông lão nhìn tháng ngày
Qua một trời hoa lá.
(Ông lão trồng cây)
Như vậy, mảnh vườn là không gian gần gũi, gắn bó trực tiếp với con người, nuôi con
người lớn lên không chỉ bằng những vật chất nơi đó mà còn nuôi lớn cả niềm tin, hy vọng.
Dù thời gian trôi đi, con người già đi nhưng mảnh vườn càng ngày càng xanh tạo nên không
gian quen thuộc đầy ý nghĩa. Đó là nơi để nhà thơ gửi gắm tâm sự, nơi chất chứa những gì
bình yên và những ước mơ trong cuộc sống. Đây không chỉ là không gian sinh hoạt của con
người mà còn là không gian của tình cảm, mơ ước, của chính nỗi lòng thi nhân. Nếu không
gian làng quê ở Tế Hanh gắn với mảnh vườn thì trong thơ Huy Cận những cánh đồng bao
la, bát ngát mang đậm hương vị của đất hiện lên xuyên suốt gắn với nỗi lòng của nhà thơ
như trong Đồng bát ngát, Gặt lúa đêm trăng, Xong buổi cày, Giờ trưa, Bài ca thủy lợi, Gà
gáy trên cánh đồng Ba Vì được mùa,...
98
Trời đất siêng năng chẳng trễ tràng
Cỏ cây chờ sẵn lối xuân sang
Ngô non dát ngọc bờ sông tạnh
Ruộng lót phù sa lúa mỡ màng.
(Ngày sáng dần lên)
Bên cạnh đó, không gian ngôi nhà cũng thường thấy trong thơ Tế Hanh như trong:
Thăm nhà một người đánh cá, Thăm nhà một nhà thơ Xô Viết, Túp lều cỏ,... mỗi ngôi nhà
hiện lên với những dáng vẻ khác nhau, chứa đựng cảm xúc, tình cảm của tác giả đồng thời
góp phần thể hiện tư tưởng tác phẩm. Thăm nhà một người đánh cá nhà thơ đã dựng lên
không gian ngôi nhà tiêu biểu cho cuộc sống lao động làm ăn tập thể, hứa hẹn một tương lai
tốt đẹp: nhà vắng vẻ, đơn sơ nằm trên bãi biển vắng vào buổi xế hè nắng chói chang. Nhưng
không gian đó đã gợi lên trong nhà thờ niềm tự hào, vui tươi, tin tưởng ở cuộc sống mới.
Nhà vắng vẻ nhưng vui hơn trước
Hai bằng khen nằm bên cạnh bức tranh.
Luống rau muống kề bên vại nước
Nắng chói chang lá vẫn tươi xanh.
Còn ngôi nhà của An-tô-kôn-xki, một nhà thơ Xô Viết mà Tế Hanh có dịp đến thăm
viếng hiện lên với lòng kính yêu, cảm phục. Ngôi nhà An-tô-kôn-xki hiện ra với những gì
vốn đã được đi vào trong thơ ca: con mèo, ảnh đứa bé chết trong chiến tranh, ảnh các bạn,
chiếc nón trắng, chiếc đèn cá chép. Không gian ở đây không chỉ ghi dấu kỷ niệm về một
chuyến đi, gợi lên niềm tôn kính nhà thơ cộng sản mà còn làm bật lên ở nhà thơ một bài học
về kinh nghiệm sống và làm việc. Ngôi nhà hiện ra trong một buổi chiều dưới cái nắng hạ
còn gay gắt:
Vừng dương nắng hạ còn gay gắt
Cây trắng phơi trong nắng chói lòa:
99
Ngôi nhà nằm giữa khu rừng lá biếc
Khóm hoa cuối mùa chưa nở hết
Cỏ mọc chen đầy những lối đi.
(Thăm nhà một nhà thơ Xô Viết)
Đến thăm ngôi nhà của LêNin nhà thơ không khỏi bùi ngùi xúc động trước Túp lều cỏ
đơn sơ. Đây là một túp lều nhỏ ở Ra-dơ-lip, được lợp bằng cỏ bốn bề bao kín, lối đi vào chỉ
lọt một người chui. Túp lều thật đơn giản nhưng nơi đó con người vĩ đại LêNin đã chuẩn bị
và kêu gọi giai cấp công nhân nổi dậy quét sạch bọn Sa Hoàng. Túp lều vừa kỳ lạ vừa giản
dị nhất trên đời. Túp lều tưởng như tổ chim ẩn chứa bầy chim diệu kỳ của tư tưởng LêNin
đã "Gieo mầm xanh của cách mạng tháng Mười". Không gian ngôi nhà ở đây vừa giúp
người đọc hình dung được ngôi nhà của LêNin vừa thấy được tư tưởng của bài thơ: tư tưởng
tiến bộ, độc đáo của con người không phải chỉ được cất lên từ những gì cao sang mà đôi lúc
chính nơi giản dị, bình thường nhất lại ẩn chứa những suy nghĩ cao sâu nhất. Đồng thời thấy
được lòng kính phục của nhà thơ với LêNin.
Tìm trong thơ Tế Hanh người đọc còn có dịp chứng kiến không gian hẹp của căn
phòng cấp cứu Trong bệnh viện thiếu nhi với một ca bệnh trong cơn nguy hiểm. Căn
phòng cấp cứu điện sáng trưng ngập mùi ête trong không khí im lìm với một em bé đang
nằm thoi thóp, cặp mắt đờ dần, đôi môi tái nhợt, lạnh tay chân chỉ còn nóng quanh tim.
Người bác sĩ già mở sách tìm phương pháp chữa trị, cô y sĩ trực ban không rời máy nghe
tim, cô y tá trên tay chờ sẵn ống tiêm, một bà mẹ đang gục đầu thút thít. Rồi bỗng căn
phòng trở nên rộn rip, sau khi người bác sĩ già cho tiêm thuốc đẩy lùi được cái chết, cô y tá
vội vàng gọi bác sĩ như reo, cô y sĩ trực ban suốt đêm không ngủ giờ trên khuôn mặt nở nụ
cười rạng rỡ. Dựng lên căn phòng cấp cứu như thế nhà thơ vừa lột tả được những vất vả, tận
tâm của các bác sĩ, y tá,... những người trong ngành y với lòng biết ơn thông cảm đồng thời
thấy được tấm lòng yêu thương con hết mực của những bậc làm cha mẹ. Căn phòng cấp cứu
là nơi chứng kiến những giây phút kinh hoàng của biết bao tấm chân tình đối với người
bệnh.
Không gian nơi Cái giếng đầu làng cũng đi vào thơ Tế Hanh với tràn ngập kỷ niệm,
niềm yêu thương gắn bó với con người, với làng quê. Cái giếng nơi đầu làng nằm dưới
100
khóm dừa xanh tỏa bóng mát êm dịu. Cái giếng đầu làng ở Tế Hanh không chỉ là nơi lấy
nước của người dân mà nơi ấy chứa đựng những kỷ niệm êm đềm, dịu ngọt của trai gái yêu
nhau, nơi hò hẹn của những người trong xóm, nơi đón nhận những bước chân xa với bao
tình nghĩa. Nơi đây trở thành không gian kỷ niệm ghi dấu tình yêu quê hương trong lòng
mỗi con người.
Nước giếng đã thắm vào máu thịt của người dân. Nhưng Mỹ đã rải thuốc độc vào giếng làm
cho lòng nhà thơ đầy căm phẫn và tố cáo tội ác của giặc.
Cái giếng đầu làng! Cái giếng đầu làng
Em như kỷ niệm trong như lọc
Một mảnh lòng tôi ở miền Nam.
Ngôi trường cũng là không gian quen thuộc trong thơ Tế Hanh. Ở Hoa niên, ngôi
trường hiện lên buồn thảm giống như tâm trạng của nhà thơ lúc này đang: "Tim héo hồn đau
tủi đọa đày". Không gian ấy thấm đẫm nỗi buồn cô đơn nằm trong quĩ đạo của giai đoạn thơ
lãng mạn 32-45.
Mái hư, vách lở buồn xơ xác...
Hăng liễu bơ phờ cảm động lây.
Trong giai đoạn chống Mỹ, ngôi trường đã khác: ngôi trường gắn với những người
cách mạng đầy nhiệt quyết, phấn khởi đang "Náo nức chờ mong buổi tựu trường". Vì thế
nhà thơ nhìn thấy:
Trường đẹp quá! Hàng cây tỏa bóng
Sáng thở đồng bên hương lúa tươi
Chiều lên gác thượng nhìn xa rộng
Thấy cả sông Hồng nước cuộn trôi.
(Đi học trường Đảng)
101
Không gian ngôi trường ở đây thoáng mát rất đẹp như chính tâm trạng vui tươi, phấn
khởi của thi nhân. Ngôi trường đã khác xa trước đó dù vẫn có những cây phượng, cây bàng
như Trường xưa. Rõ ràng không gian ở đây là không gian của nỗi lòng tác giả.
Cầm quyển sách lật từng tờ tôi thấy
Đời trẻ vui hơn thuở hai mươi
Nhìn qua cửa sổ như trang giấy
Bát ngát trời xanh nắng rạng ngời.
(Đi học trường Đảng)
Và nơi sân nhà vào một đêm trăng sáng, nhà thơ đã chứng kiến giây phút giao cảm của
thiên nhiên, vạn vật. Đó là không gian nơi vầng trăng mười chín đang hé mây hiện dần và
đóa hoa quỳnh bừng nở. Không gian trong Hoa nở theo trăng làm nên nét nửa hư nửa thực
của thiên nhiên, đất trời cũng như thể hiện được phút giao cảm tuyệt vời giữa vạn vật và con
người.
Trước hiên, một đóa hoa quỳnh
Chờ trăng, sắp nở, rung rinh búp đầy
Ngoài hiên lấp loáng sau cây
Mảnh trăng mười chín hé mây hiện dần...
Trên hoa trăng sáng một vừng
Dưới trăng hoa nở bừng nhụy bông.
(Hoa nở theo trăng)
Con đường làng quê trong thơ Tế Hanh gắn liền với bước chân, tâm trạng thiết tha,
giàu cảm xúc của nhà thơ. Đó là con đường đến trường khi nhà thơ Đưa con đi học. Một
con đường làng vào mùa thu, hai bên đường cỏ mọc xanh, nắng sáng chiếu lên những giọt
sương còn đọng lại long lanh ngời sáng như ngọc. Con đường men theo bờ lúa đang thời
102
ngậm sữa xanh mướt, tỏa hương bao la. Nỗi vui mừng khi đưa con đến trường cũng được
bộc lộ rõ hơn khi thiên nhiên nơi đây được nhà thơ cảm nhận đẹp hơn xưa, con đường
không còn cảm thấy xa nữa vì đã hiện ra trước mắt ngôi trường mới quét vôi rất đẹp.
Trời màu thu rất xanh
Nước màu thu óng ả.
Rõ ràng con đường đến trường bây giờ là con đường của tâm trạng nhân vật trữ tình.
Con đường gần hay xa, bằng phẳng, êm ả, rộng hay hẹp là tùy vào cảm xúc, tâm trạng của
người đang đi. Dù mang nét riêng của tâm trạng người đang đi nhưng tất cả đều là con
đường làng quê.
Cuộc sống mới tưng bừng rộn rã đã làm thay đổi rất nhiều bộ mặt quê hương. Tế Hanh
nhận thấy được niềm vui nơi ấy và thể hiện lòng mình trong không gian làng quê. Con
đường bây giờ đã rộng mở tiếp nhận bao niềm hân hoan của con người trong cuộc sống:
Đường quê mở rộng chân trời mới
Hợp tác hân hoan đón máy về
Thôn xóm tiếng gà xen điện nổ
Đồng chiều trâu mộng bước sau xe.
(Trạm máy kéo)
Không gian làng quê của Tế Hạnh còn là không gian của những con sông, bãi biển. Đó
là Con sông quê hương, con sông đã gắn với tuổi thơ của tác giả cũng như người dân vùng
biển. Con sông ấy nước trong như gương soi bóng những hàng tre bên bờ và "khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu, mặt nước chập chờn con cá nhảy”, con sông là nơi hò hẹn của bạn bè
“tụm năm tụm bảy” như "bầy chim non bơi lội trên sông". Con sông ấy gắn với bao nỗi
thâm tình đi sâu vào máu thịt của nhà thơ:
Tôi giơ tay ôm nước vào lòng
Sông mở nước ôm tôi vào dạ...
103
Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi
Tôi nhớ mãi mối tình mới mẻ
Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ
Sồng cửa miền Nam nước Việt thân yêu.
Con sông gắn với tình yêu quê hương tha thiết. Dù xa ở bất cứ nơi đâu lòng nhà thơ
vẫn không lúc nào nguôi nhớ "lòng tôi như mưa nguồn gió biển, vẫn trở về lưu luyến bên
sông". Con sông không chỉ chở nước mát tưới cho đất, cho cây mà còn chở nỗi lòng của nhà
thơ. Chứng tỏ con sông ở đây không chỉ là con sông của hiện thực cuộc sống mà còn là con
sông của tâm trạng, tình cảm, con sông của tình thương.
Hình ảnh còn sông quê mát rượi
Lai láng chảy vào lòng tôi như suối tưới
Quê hương ơi! Lòng tôi cũng như sông.
Nếu ở Tế Hanh con sông gắn với những kỷ niệm tuổi thơ thì ở Huy Cận ngôi chùa là
không gian nghệ thuật gắn bó nhiều với tuổi trẻ với những suy tưởng triết lý về đời sống.
Không gian đó thể hiện rõ trong; Về thăm chùa Keo, Cảnh địa ngục, Các vị La Hán chùa
Tây Phương,..
Không gian làng quê trong thơ Tế Hanh là không gian nhỏ hẹp, cụ thể gắn với cuộc
sống hàng ngày của con người như một chiếc giường. Nhưng nơi đây nhân vật trữ tình đã
tìm thấy tình cảm gia đình ấm cúng bên cạnh đứa con yêu. Không gian êm dịu, tràn ngập
tình thương.
Một chiếc giường nhỏ hẹp
Cha mẹ nằm hai bên
Khoảng giữa nôi êm
Con lật, con trường, con cười, con réo.
104
(Con nằm)
Hay không gian chỉ là một góc sân hẹp, nhỏ, một bức tường mà ánh nắng còn sót lại.
Không gian này giúp nhà thơ khắc họa được một cách tinh tế những khoảnh khắc ngắn ngủi
của hiện thực cuộc sống. Từ đó góp phần thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình trong tác
phẩm.
Góc sân ánh nắng như lưu luyến
Dừng lại trên cành hoa báo mưa.
(Hoa báo mưa)
Trên tường một tia nắng
Biết là đêm đã qua.
(Chiêm bao)
Tóm lại không gian địa lý trong thơ Tế Hanh chủ yếu là không gian làng quê: không
gian nhỏ, gắn với thôn xóm, đồng chiều, giếng giặt, con sông quê, ngôi nhà, con đường
làng, ngôi trường, mảnh vườn, căn phòng,... Không gian đó chất chứa tâm trạng, thể hiện
lòng yêu quê hương làng xóm, gắn chặt với quê hương, phản ánh kịp thời những gì xảy ra
trên quê hương. Trong đó không gian mảnh vườn được nhà thơ nhắc đến nhiều. Nếu ở Xuân
Diệu mảnh vườn đầy trăng cho đôi lứa tình tự thì ở Tế Hanh mảnh vườn gắn với cuộc sống
của con người, với bao kỷ niệm, tình cảm gia đình, bạn bè. Không gian cụ thể trong thơ Tế
Hanh gắn liền với những tên đất, tên sông cụ thể với làng quê thương nhớ và mang những
dấu ấn riêng. Đây là nguồn cảm hứng thôi thúc nhà thơ từng giờ, từng phút gắn chặt với quê
hương.
2.1.2. Không gian nỗi niềm:
Không gian nỗi niềm là một dạng không gian nghệ thuật trong sáng tác thơ ca. Đó là
không gian gắn liền với nỗi lòng, tâm trạng của nhân vật trữ tình cũng như của tác giả.
Không gian đó không diễn biến theo thực tại cuộc sống mà chủ yếu là diễn ra theo cảm xúc,
105
tâm trạng của nhân vật. Không gian nỗi niềm trong thơ Tế Hạnh nổi bật lên một số dạng
tiêu biểu là:
2.1.2.1. Không gian chia cắt, cách xa:
Bên cạnh không gian cụ thể, trong thơ Tế Hanh giai đoạn chống Mỹ còn nổi bật lên
không gian chia cắt, cách xa. Chính sự chia cách ấy đã tạo nên không gian nhớ nhung. Nỗi
nhớ như thường trực trong thơ Tế Hanh và được nhà thơ nói ra thành lời. Khảo sát 250 bài
thơ của Tế Hanh chúng tôi thấy từ nhớ được nhà thơ vận dụng 89 lần trong 56 bài thơ khác
nhau. Điều này chứng tỏ không gian xa cách là một dạng không gian phổ biến trong thơ Tế
Hanh. Nỗi nhớ trong thơ Tế Hanh thể hiện ở nhiều cung bậc, khía cạnh khác nhau: nhớ
nhung, mong nhớ, nhớ thương, nhớ làm sao, nhớ mãi, nhớ không nguôi,.. .xin đơn cử vài
dẫn chứng sau:
-Tôi thấy nhớ bạn bè văn nghệ. (Gửi miền Bắc)
-Điệu quê hương tràn đầy mong nhớ. (Điệu quê hương)
-Nhớ thương ai mong đợi bờ Nam.(Nước chảy ngang)
-Nhớ quê hương nghĩ đến cảnh phân chia. (Mẹ mãi còn)
Không gian xa cách ấy làm bật lên tình yêu quê hương, đất nước. Đây là tâm trạng
xuyên suốt và thường trực của nhà thơ trong sáng tác. Dù cách xa nhưng tình yêu quê hương
luôn gắn liền theo năm tháng không một lúc nào vơi:
Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến
Nhưng lòng tôi như mưa nguồn gió biển
Vẫn trở về lưu luyến bên sông.
(Nhớ con sông quê hương)
Không gian chia ly trong những ngày "tố cộng", mẹ con phải xa nhau đã làm tăng
thêm tội ác của giặc đồng thời thấy được tinh thần chiến đấu chống ngoại xâm anh dũng, bất
khuất của dân tộc ta.
106
Những ngày tố cộng xiềng gông
Bỏ nhà đi ở tập trung bên đồn
Cuối cùng mẹ phải xa con
Gái theo mặt trận lên vùng chiến khu...
(Hai lời rủa và một khúc ca)
Mặt khác, sự xa cách làm cho tình yêu, nỗi nhớ quê hương dâng trào đồng thời nung
nấu lòng căm thù giặc quyết tâm đánh đuổi chúng ra khỏi quê hương. Xa cách ở Tế Hanh
không làm cho con người bi lụy mà luôn vững tâm hành động để đem lại niềm hạnh phúc
cho gia đình, độc lập cho quê hương.
Mẹ quê hương miền Nam ruột thịt
Đêm hôm nay giữa miền Bắc chúng con
Kính dâng mẹ món quà xuân Tết
Bó hoa tươi thắm của tâm hồn.
(Món quà xuân Tết)
Sự xa cách ở Tế Hanh đã bộc lộ tình yêu quê hương, tin tưởng ở quê hương. Quê
hương như người bạn gắn bó, động viên, thúc giục nhân vật trữ tình hăng hái đánh giặc.
Tôi đi giữa thủ đô, trong những ngày tháng bảy
Cả không khí bừng bừng như lửa cháy
Nghe bên tai tha thiết quê hương
Đang nắm tay tôi cùng bước mạnh lên đường.
(Quê hương lớn mạnh)
107
Theo dõi chiến sự trên chiến trường chống Mỹ, nhà thơ đã gửi nỗi lòng thiết tha đau
xót cho vụ thảm sát trên quê hương. Không gian xa cách ở đây làm tăng sức tố cáo tội ác dã
man của giặc cũng như bộc lộ rõ tình yêu quê hương của tác giả.
Cho tôi gửi từ xứ sở của LêNin yêu quí
Lòng thiết tha
Về mảnh đất quê nhà
Sơn Mỹ.
(Sơn Mỹ)
Và không gian tĩnh nơi Lêningrát phù hợp cho việc khắc họa nội tâm nhân vật. Dù đi
đâu, ở đâu xa tận hai đầu trái đất, dù xa cách thế nào thì lòng người con quê hương vẫn
hướng về quê hương, nghe quê hương và gởi tất cả nỗi yêu thương về.
Đêm trắng tôi nằm thức trắng đêm
Nghe tin tàu giặc rụng hai nghìn
Hai đầu trái đất xa như thế
Mà vẫn đi về nhịp trái tim.
(Đêm trắng ở Lêningrát)
Xa cách không chỉ để lại nỗi nhớ quê hương mà còn lo lắng cho mối thâm tình trên
quê hương. Đó là tình cảm của con đối với mẹ, dầu không biết về nhau nhưng tình cảm
dành cho mẹ không một lúc phai nhạt. Không gian xa cách thường được nhà thơ khắc họa
cùng với khoảng thời gian ban đêm:
Nhiều đêm thức giấc giữa canh khuya
Nhớ quê hương, nghĩ đến cảnh phân chia
Con lại hỏi: Mẹ còn không hỡi mẹ ?
108
( Mẹ mãi còn)
Mùa thu chia xa ở đây cũng có cái buồn vắng, nhớ thương bởi ly cách. Không gian
chia cách ở đây là không gian tĩnh, vũ trụ như ngưng đọng lại trong phút giây chia ly của
đôi lứa. Nỗi lòng của nhà thơ như hòa quyện vào vẻ đẹp quyến rũ của mùa thu, mùa thu
mang đậm bản sắc dân tộc.
Em đi trăng sắp độ tròn
Mùa thu quá nửa, lá giòn khua cây.
Tiễn em trong cảnh thu này
Lòng ta muôn tiếng sao đầy lặng im
Ta về. Giữa khoảng trời đêm
Vành trăng như thể mắt em soi đường.
(Mùa thu tiễn em)
Xây dựng không gian xa cách, Tế Hanh đã thành công trong việc khẳng định sức mạnh
của tinh thần. Sức mạnh đó không có vũ khí, bạo lực nào ngăn cản được. Từ đó thấy được
niềm tin tưởng thắng lợi trong công cuộc chống Mỹ cứu nước. Tình yêu, ý chí quyết tâm
của con người sẽ xóa tan đêm đen của chiến tranh. Bởi vì thực tế chiến tranh con người
thường phải sống xa nhau nhưng niềm tin tưởng ở lòng người là tuyệt đối.
Mặc dù thư không thể nào nói hết
Em nghe tim anh qua từng chữ, từng câu
Năm tháng cách lòng anh càng tha thiết
Núi sông ngăn tình nghĩa lại càng sâu.
(Cảnh 2)
109
Để diễn tả không gian xa cách, Tế Hanh thường sử dụng những từ: hai bờ, ra đi, cách
xa, xa, cách, ngăn, ngăn cách, phân chia, giã từ, từ giã,... hay ngoài này...trong kia, em
đi...ta về,...
Em ở ngoài này cá nhân xuất sắc
Anh ở trong kia giết giặc lập công
Tình cảm lớn như lửa nồng không thể tắt
Chiếu hai miền hình ảnh Bác soi chung.
(Con đường rợp bóng Hồ Chí Minh)
Và tình yêu giữa em và anh trong xa cách gắn liền với tình yêu nước, tình yêu Hà Nội:
Em ra đi đem Hà Nội đi theo
Anh ở lại thấy em khắp cùng Hà Nội.
(Hà Nội và hai ta)
Những mẹ già, em thơ, người yêu trong cuộc chiến phải xa nhau, Và niềm khao khát
được gần nhau đã nung nấu lòng quyết tâm chống giặc. Nên không gian xa cách ở đây có ý
nghĩa, cách xa để cho được gần hơn ở ngày mai.
Mẹ già ơi! Mười ba năm chia sẻ
Cho con lại kề đầu bên gối mẹ
Các con ơi! Sơ tán đâu đây
Cha vẫn gửi lòng theo những làn mây
Và em yêu, núi non bốn phía
Tình ta lại càng thêm ý nghĩa
Khi nhập vào trong cuộc đấu tranh chung.
110
(Tiếng gọi Đông Xuân)
Có thể nói, không gian xa cách trong thơ Tế Hanh là không gian ở hai vùng trời tổ
quốc, không gian đó cách xa là do hoàn cảnh, con người tự giác xa nhau nhiều hơn để đem
lại ngày mai, tin tưởng ở ngày mai, tin tưởng trong xa cách. Xa cách ở đây là để phục vụ
cho chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Tình cảm trong xa cách là tình cảm nhớ thương lo lắng
không chỉ là nỗi lo cá nhân mà là nỗi lo cho vận mệnh của quê hương đất nước. Càng xa
cách càng thấy yêu nước hơn, gắn bó hơn chứ không phải là cảm giác sợ hãi bi lụy, xa là
chia biệt trọn đời như trong thơ Nguyễn Bính.
Mặt khác, không gian xa cách ở đây còn là không gian của dòng sông ngăn cách hai
bờ. Từ đó bật lên niềm nhớ nhung, ẩn chứa một niềm đau xót, căm giận, đánh thẳng vào kẻ
thù, vào quân xâm lược và thể hiện tinh thần đấu tranh thống nhất đất nước. Trong kháng
chiến, con sông Hiền Lương như là giới tuyến ngăn cách hai miền Nam Bắc gây ra biết bao
đau thương. Nói chuyện vởi Hiền Lương nhà thơ không khỏi ngậm ngùi, đau xót, lời con
sông hay chính là nỗi lòng nhà thơ.
Tôi chảy ngày đêm không nghỉ
Hai bờ Nam Bắc nhìn đau
...Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị
Tận chân trời mây núi có chia đâu.
Sự chia cách ở đây là vô lý, là nỗi đau xót vì nghịch cảnh, là điều trái với tự nhiên nên
gây trong lòng người nỗi đau uất hận, nghẹn ngào.
Sông Hiền Lương bên ấy bên này
Chống cửa giơ tay chừng với tới...
Như thế mà miền Nam, miền Bắc!
Trăm thước vì sao rộng quá chừng
Con sóng hay là dao kéo cắt
111
Đẳng cay hạt muối lệ rưng rưng.
(Nước chảy ngang)
Như vậy, khác với không gian chia cắt trong thơ Mới là không gian của chia ly gắn với
những bến tàu, sân ga, và xa cách chỉ toàn là sầu não làm cho con người cảm thấy buồn chứ
chưa biểu lộ một ý thức. Không gian xa cách trong thơ Tế Hanh giai đoạn này gắn với cuộc
chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Nhà thơ đã nhìn thấy sự chia xa là phi lý, là trái đạo.
Không gian ấy thể hiện nỗi lòng nhớ thương, yêu mến đất nước, mong muốn đất nước được
thống nhất. Không gian bến tàu, sân ga cũng có trong thơ Tế Hanh nhưng dưới mắt nhà thơ
đây không phải là nỗi buồn đau chia cắt mà đây là nơi con người bắt đầu một cuộc sống mới
đầy niềm tin tưởng ở ngày mai, là nơi:
Những đôi lứa đưa nhau đi kiến thiết...
Nơi tập hợp những bình minh phấn khởi
Nơi vận chuyển những nguồn sinh lực mới.
(Ga)
Không gian chia ly, xa cách ở đây là không gian của nỗi lòng, tâm trạng, gắn với
những tâm sự thầm kín trong lòng nhà thơ. Không gian nghệ thuật này làm nên nét tiêu biểu
trong thơ Tế Hanh và cũng gặp trong thơ Huy Cận. Không gian xa cách ở Huy Cận gợi nhớ
đến những kỷ niệm, đến những mối thâm tình nung nấu lòng quyết tâm chống giặc của nhân
vật trữ tình như trong Tổ quốc, Mẹ sinh con, Chiếc võng tơ em tặng,..
Xa đất nước, vẫn cành xuân phơi phới
Quyết đơm hoa góp mùa rộ quê nhà
Ánh dương sớm chân trời ta chiếu rọi
Theo đàn con vững gót nẻo đường xa.
(Tổ quốc)
112
Có thể nói suốt những năm tháng đất nước chia cắt, nỗi cách xa càng như khêu gợi nỗi
nhớ nhung, da diết. Cảm xúc nhớ thương trong xa cách ấy là thường trực trong tình cảm của
Tế Hanh, gặp mỗi hoàn cảnh cụ thể, nỗi đau ấy lại bùng lên với những mức độ khác nhau.
2.1.2.2. Không gian ký ức:
Từ nỗi chia ly, xa cách dẫn đến không gian ký ức trong thơ Tế Hanh. Bên cạnh không
gian chia ly, xa cách thì không gian ký ức là một dạng của không gian nỗi niềm trong thơ Tế
Hanh. Đó là khoảng không gian gắn với tuổi thơ, với những gì đã qua của nhân vật trữ tình
mà có thể từ một phần của không gian chia cắt, cách xa làm sống dậy. Biểu hiện của không
gian này trước hết là khoảng không gian hiện về trong quá khứ, trong nỗi nhổ. Nỗi nhớ
trong thơ Tế Hanh không chỉ là nỗi nhớ thương trong xa cách mà còn là nỗi nhớ về một thời
đã qua, tạo nên không gian ký ức.
Nỗi nhớ gắn liền với một vùng ký ức của tuổi thơ. Đây cũng là nét chung với Huy
Cận. Nếu Huy Cận nhớ những khi trốn cha mẹ lên chùa xem Cảnh địa ngục:
Nhớ những trưa hè tuổi bé thơ
Trốn cha theo bạn rủ lên chùa
Trèo nhăm quả muỗm chua chua lét
Phượng thắm ve sầu, nhịp mõ khua.
thì Tế Hanh tìm về nơi con sông quê hương với nỗi nhớ không chỉ bạn bè tuổi thơ mà còn
nhớ tất cả những con người trên quê hương làm cho niềm cảm xúc dâng tràn. Nhớ về tuổi
thơ gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết.
Tôi nhớ không nguôi ánh nắng màu vàng
Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc
Tôi nhớ cả những người không quen biết.
Nỗi lòng yêu quê hương, thương mẹ già trong xa cách khiến nhà thơ quay về với vùng
ký ức ngày xưa, khi còn được mẹ dẫn đến trường và khi nhà thơ mười tám, hai mươi tuổi.
113
Nhớ thời xưa đi học
Hết nghỉ hè sang thu
Con xa nhà mẹ khóc.
(Nhớ mẹ)
Mẹ công việc cả ngày mệt mỏi
Vẫn thức chờ con bên ánh đèn.
(Mẹ có nghe thơ con)
Và khi quê hương đang chìm trong gót giày quân xâm lược Mỹ, đất nước cỗi cần đi
nhà thơ đau xót nhớ về một thời xưa yên ấm, trù phú.
Nhớ quê hương dâu tươi, mía ngọt
Mai đường thơm, chiều óng ả tơ vàng.
(Bài thơ tháng bảy)
Trước không gian của buổi họp Chi bộ Đảng khang trang: "Cửa mở thênh thang, điện
sáng lòa, quạt máy trên trần bia giải khát", nhà thơ đã xúc động nhớ về thời gian qua; một
thời kỳ hoạt động bí mật, gian khổ đầy hy sinh anh dũng.
Những năm đánh Pháp ở trong rừng
Chỗ họp lùm cây, gốc tối bưng
Chỉ có cơm khô và nước suối
Còn lo canh gác giặc đi lùng.
(Bạn ơi hãy nhớ)
Không gian ký ức ở đây thể hiện tấm lòng biết ơn, tri ân của nhà thơ đối vội những
người đã cống hiến cho sự nghiệp xây dựng Đảng, sự nghiệp cách mạng. Đồng thời có ý
114
thức nhắc nhở những thế hệ hôm nay phải sống sao cho xứng đáng với những gì mà thế hệ
trước đã vun đắp và khẳng định sự vững mạnh của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc.
Kỷ niệm về Bình Định in sâu vào lòng nhà thơ tạo nên một không gian nghệ thuật thể
hiện lòng yêu thương gắn bó với mảnh đất Bình Định, mảnh đất đã bị quân thù giày xéo và
sắp được giải phóng.
Quên sao được những mối tình văn nghệ
Các anh Sỹ, Thao, Bổng, Dụng; Hổ, Linh, Long...
Một câu chuyện bên gốc dừa cùng kể
Một bài thơ cùng đọc dưới ánh trăng.
(Gửi Bình Định)
Không gian nghệ thuật ở đây hiện lên từ vùng ký ức sâu thẳm chất chứa tâm trạng.
Không gian này giúp nhà thơ khắc họa được hình ảnh trong quá khứ, làm sống lại một thời
xa xưa khi đang đứng ở hiện tại tạo nên sự đối sánh góp phần thể hiên nội dung bài thơ.
2.1.3. Hình tượng không gian:
Hình tượng không gian là không gian được nhà thơ xây dựng bằng nghệ thuật độc đáo
như một "ký mã thẩm mỹ" chứa đựng một tư tưởng nghệ thuật, biểu đạt một nội dung xã
hội, lịch sử, nội dung tư tưởng tình cảm nhất định.
Không gian nghệ thuật trong thơ Tế Hanh phong phú, đa dạng. ở những dạng khác
nhau tâm trạng của nhà thơ bộc lộ trong đó với những mức độ, khía cạnh không giống nhau.
Đặc biệt dòng sông là không gian đã được nhà thơ nhận thức và thể hiện một cách nghệ
thuật trong tác phẩm nhằm gửi gắm tình cảm, bộc lộ tư tưởng tác phẩm. Tế Hanh có đến
hàng chục bài thơ viết về con sổng: dòng sông êm đềm kỷ niệm, dòng sông giới tuyến đau
nhói nỗi chia cắt, sông Đanuýp biếc xanh tình ca, dòng sông Đáy phù sa dâng chín đỏ mùa
vải và óng ả tơ tằm... những dòng sông ấy chảy qua tâm hồn nhớ nhung, da diết, nghiến
răng căm hờn,...Nói tới sông là nói tới sự chảy trôi, nhưng con sông trong thơ Tế Hanh ở
115
đây lại nghẹn tắc. Đây là con sông chở nặng tâm trạng của con người: đau xót, uất nghẹn
khi đất nước đang trong khói lửa chiến tranh.
Muối xát lòng tôi trên bến cửa Tùng,
Nước chảy xuôi dòng bỗng chảy ngang.
(Nước chảy ngang)
Và con sông Hiền Lương trong thơ Tế Hanh bây giờ tiêu điều, xơ xác.
Bến vắng bơ phờ cây rũ bóng
Những con đò tắc lối sang ngang.
(Nói chuyện với Hiền Lương)
Đây là những dòng sông mang biểu tượng của một vùng ký ức về tuổi thơ, về quê
hương gây cảm giác đau buốt trong lòng người. Và sông Tiền Đường, sông Đa Nuỷp, sông
Đáy,...đã chuyển tải những dòng tâm sự của nhà thơ: những suy nghĩ đằm thắm, sâu sắc về
nhân thế, những niềm vui hồ hởi với cuộc sống đang đổi mới trên miền Bắc thân yêu:
Trời cao đất rộng sông sâu
Bóng Kiều thăm thẳm với màu xanh xanh.
(Sông Tiền Đường)
Đậm nhạt bãi dâu chen bãi mía
Gốc nhãn lên hương, vải đỏ màu
Từng bãi dâu xanh soi bóng nước
Tơ vàng tơ trắng quấn quanh nhau.
(Sông Đáy)
Hình tượng dòng sông trong thơ Tế Hanh có những sáng tạo làm rung động thấm sâu
vào lòng người. Con sông quê hương trong thơ Tế Hanh hiện lên với những nét vốn có của
116
quê hương, gắn liền với đời sống của con người, với tuổi thơ và những kỷ niệm khó phai.
Con sông ấy tuyệt đẹp, nên thơ, mà có lẽ trong lòng của những người con yêu quê hương
đều nhận thấy như thế dù nhà thơ đã khẳng định là con sông của "quê hương tôi". Con sông
xanh biếc, nước như gương soi bóng những hàng tre. Nơi đây đã in dấu những kỷ niệm khó
phai về tuổi thơ, về làng quê thương nhớ:
Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu
Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy
Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy
Bầy chim non bơi lội trên sông.
Con sông không chỉ chở nước ngọt phù sa cho làng quê Tế Hanh, gắn với tuổi trẻ vui đùa
mà con sông đã được mã hóa, nhà thơ đã gửi vào đó tình cảm. Nó trở thành con sông tình
thương, con sông của tâm tình, của nỗi nhớ:
Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ
Sông của miền Nam nước Việt thân yêu.
Con sông như người bạn thân, như con người tràn đầy cảm xúc, gắn bó với tâm hồn nhà
thơ:
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Tỏa nắng xuống dòng sông lấp loáng...
Tôi giơ tay ôm nước vào lòng
Sông mở nứơc ôm tôi vào dạ.
Để rồi khi xa cách con sông ấy vẫn trở về trong ký ức của nhà thơ:
Hình ảnh con sông quê mát rượi
Lai láng chảy vào lòng tôi như suối tưới.
117
Con sông rõ ràng đã gắn với cuộc đời của con người, của nhà thơ. Tình cảm nơi con
sông là tình cảm bất diệt.
Quê hương ơi! Lòng tôi cũng như sông
Tình Bắc Nam chung chảy một dòng
Không ghềnh thác nào ngăn cản được.
(Nhớ con sông quê hương)
Như vậy, con sông trong thơ Tế Hanh không chỉ là một hiện tượng địa lý mà con sông
này là sông của tình cảm, nó chở nặng tình người. Con sông quê hương của Tế Hanh đã trở
thành hình tượng chung cho con sông của quê hương, đất nước. Từ việc nhỏ con sông quê
hương, nhà thơ đã nâng lên thành nỗi nhớ quê hương da diết, nỗi "nhớ miền Nam": "nhớ
ánh nắng màu vàng, sắc trời xanh biếc, nhớ cả những người không quen biết”. Đây chính là
tấm lòng yêu quê hương, hướng về quê hương trong những ngày xa cách, Nỗi nhớ, tình yêu
quê hương ở đây không còn được giới hạn ở tâm trạng của một cá nhân mà nó luôn thường
trực, trở thành tiếng nói chung của con người Việt Nam trong chiến tranh. Con sông quê
hương ở đây dù nhà thơ miêu tả là con sông Trà Bồng nơi quê hương mình nhưng bằng tài
năng nghệ thuật độc đáo, con sông này trở thành con sông quê chung của người dân Việt
Nam. Như vậy, con sông ở đây không là con sông của thực tế cuộc sống mà đây là con sông
của tâm trạng, của nỗi lòng nhà thơ trở thành hình tượng con sông. Hình tượnng con sông
trong thơ Tế Hanh vừa thể hiện tình yêu quê hương gắn bó với quê hương, căm thù giặc sâu
sắc vừa ghi dấu một thời kỳ lịch sử của dân tộc.
2.2. Thời gian nghệ thuật:
Trong tác phẩm nghệ thuật cũng như trong thực tế đời sống hàng ngày, mọi biến cố
hay sự việc nào cũng đều diễn ra trong một khoảng không gian và thời gian nhất định.
Không gian và thời gian là hai chiều tồn tại của sự vật. Nói đến không gian không thể không
nói đến thời gian: "Không gian là thời gian trường tồn, thời gian là không gian đang lấn
bước" (Uxpenxki). Văn học thuộc loại hình nghệ thuật thời gian. Mọi sự kiện cũng như quá
trình phát triển của sự vật trong tác phẩm được triển khai tuần tự theo thời gian. Sự cảm
nhận của người đọc với các sự kiện, biến cố trong tác phẩm văn học không thể diễn ra đồng 118
thời trong cùng một lúc như khi cảm nhận tác phẩm hội họa mà phải diễn ra lần lượt trong
một khoảng thời gian nhất định. Thời gian trong tác phẩm văn học là thời gian nghệ thuật:
thời gian không vận động phát triển theo qui luật tự nhiên mà nó có thể đảo ngược, vận
hành theo chủ quan của tác giả. Đó là thời gian được quan niệm, được cảm nhận, lý giải
theo ý tưởng nghệ thuật của người nghệ sĩ Tìm hiểu thời gian nghệ thuật trong tác phẩm
cũng chính là tìm hiểu quan niệm, nhận thức của tác giả, của con người về thời gian. Cùng
với không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật làm nên "thế giới thời- không" trong tác
phẩm. Thời gian nghệ thuật là nhân tố giúp cho sự tiếp nhận thế giới nghệ thuật một cách
toàn vẹn cũng như đảm bảo cấu trúc hoàn chỉnh của tác phẩm. Tìm hiểu thời gian nghệ
thuật trong thơ Tế Hanh chúng tôi thấy nổi bật lên một số đặc điểm sau:
2.2.1. Thời gian hiện thực:
Trong tác phẩm văn học, thời gian nghệ thuật không chỉ là quan điểm của tác giả về
thời gian mà còn là sự cảm thụ, ý thức về thời gian làm hình thức nghệ thuật để phản ánh
hiện thực, tổ chức tác phẩm. Sự cảm thụ thời gian gắn liền với ý thức, với thế giới nội tâm
cũng như hoạt động của con người. Con người bao giờ cũng có ý thức về thời gian. "Ý thức
về thời gian là ý thức về sự tồn tại của con người, phát hiện về thời gian giúp người ta nhận
thức sâu hơn về cuộc sống" (97, tr.191). Với tài năng nghệ thuật của tác giả, thời gian nghệ
thuật là yếu tố quan trọng để thể hiện đời sống, thể hiện nội dung tác phẩm.
Là người có tâm hồn tinh tế, giàu cảm xúc, Tế Hanh có cảm thụ nhạy bén về thời gian.
Từ cảm thụ thời gian gắn liền với mối quan tâm hiện thực cuộc sống, đất nước trong chiến
tranh cũng như ý thức về sự biến chuyển của đời sống, xã hội, Tế Hanh đã xây dựng hình
tượng thời gian sinh động, gợi cảm, giàu tính hiện thực. Thời gian hiện thực trong thơ Tế
Hanh mang tính thời sự gắn liền với thời gian sự kiện, thời gian lịch sử xã hội. Thời gian ở
đây mang những kích thước khác nhau cả vi mô và vĩ mô.
Thời gian sự kiện đã để lại trong thơ Tế Hanh những điểm thời gian cụ thể của hiện
thực đời sống xã hội. Nhờ đó thơ Tế Hanh đã ghi dấu hiện thực đời sống một cách cụ thể
đồng thời phản ánh được hiện thực chân thực hơn, thuyết phục hơn. Những ngày, những
tháng, năm cụ thể của các biến cố, sự kiện xuất hiện dày đặc trong thơ Tế Hanh thời chống
119
Mỹ và được tính từng giây, từng phút nhằm khắc họa được bản chất của sự việc cũng như
thể hiện một cách cụ thể tính chất của nhân vật trữ tình.
9 giờ 59 phút
Ngày 15 tháng 10
Anh đi ra sân bắn
Trắng trong quần áo trắng.
(9 phút tấn công)
Ngày 26 tháng 12 năm 1972
Một ngày sau lễ Nôen.
(Sau lễ Nôen)
Đây là điểm khác của Tế Hanh so với thơ Huy Cận. Thời gian trong thơ Huy Cận chủ
yếu là thời gian của những câu chuyện kể, thời gian không cụ thể rõ ràng: chiều hôm ấy, một
đêm trăng mờ, chủ nhật qua, đầu năm nay... như trong các bài! Anh tài Lạc, Gặp một chị
điên, Năm người con gái anh hùng Cẩm Phả,...
Thời gian hiện thực ở Tế Hanh cũng đi những bước lớn. Đó là thời gian 23 năm, 14
năm, 3 năm, mấy nghìn ngày, thậm chí cả trăm năm, hay hàng thế kỷ,... Bước đi lớn của
thời gian tạo cho bài thơ sức khái quát cao góp phần thể hiện nội dung, nâng cao giá trị tác
phẩm.
Đấu tranh suốt cả trăm năm
Những ngày đẹp nhất bốn lăm đến rồi.
(Trái tim Sô panh)
Thể kỷ trước khi Gớt gieo tư tưởng
Chính ngày nay chế độ mới thêm mùa.
120
(Một bài thơ về Gớt)
Thời gian cá nhân trong thơ Tế Hanh được thể hiện gắn liền với thời gian lịch sử, xã
hội, mang tính lịch sử xã hội. Nhờ đó, nhà thơ đạt được tính chân thực trong việc phản ánh
cuộc sống, thể hiện tư tưởng tác phẩm. Thời gian này có mặt trong rất nhiều bài thơ của Tế
Hanh: Tiếng sóng, Cái chết của em Ái, Lênin và bản nhạc Béctôven, Thời gian về ta, ...
Cách mạng đến và tiếp liền kháng chiến
Đem trọn tuổi thanh xuân tôi hiến
Tôi gửi vào xứ sở của tình thương
Suốt chín năm ở miền Nam trung Bộ
Trong trường kỳ gian khổ tôi lớn lên.
(Gửi miền Bắc)
Cuộc đời Bác Hồ ta
Cao ngọn cờ chính nghĩa
Xóa nghìn năm nô lệ
Trời dân chủ cộng hòa.
(Những cuộc đời ánh sáng)
Cuộc đời của con người gắn với quê hương đất nước, với vận mệnh dân tộc. Đời sống
cá nhân nằm trong sự nghiệp của nhân dân, đất nước. Khi đất nước thoát khỏi cảnh tối tăm
thì con người cũng được tươi vui, cùng dắt nhau đi giữa trời tự do độc lập. Tế Hanh đem
gắn thời gian đời tư vào hệ qui chiếu của Đảng, của thời đại cách mạng mới. Thời điểm đời
tư được tính bằng sự kết nạp Đảng, bằng việc gia nhập kháng chiến đi làm cách mạng:
Tôi vào Đảng khi mặt trời rực rỡ
Sáng trên đồng. hoa nở giữa mùa xuân...
121
Một cuộc đời từ đấy mới trong tôi
Hoa lá đổi chín mùa đằng đẳng.
(Như sáng xuân nay)
Cách mạng đến. Con đi kháng chiến
Thay đổi tâm hồn thay đổi thơ
Sống trong quần chúng, yêu giai cấp
Xưa kia con có hiểu bao giờ.
(Mẹ có nghe thơ con)
Cũng như Huy Cận, thời gian đời sống xã hội trong thơ Tế Hanh gắn với lịch sử của
giai cấp, dân tộc.
Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thật: sáng hai bờ tư tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa.
(Đi trên mảnh đất này- Huy Cận)
Đảng chúng ta trong sức tuổi ba lăm
Dựng sự nghiệp dời non lấp bể
Đưa dân tộc từ đêm đen nô lệ
Đến dưới mặt trời thay đổi cả nghìn năm.
(Giữa mùa xuân dâng Đảng bó hoa tươi)
Thời gian cá nhân là một khâu của thời gian lịch sử làm nổi bật mối quan hệ của thời
gian cá nhân và thời gian lịch sử:
122
Đánh cho giặc Mỹ tan tành!
Con đường cách mạnh hoàn thành dài lâu
Người trước ngã có người sau
Máu ta muộn thuở một màu đỏ tươi.
(Bài ca trở về)
Có thể nói Tế Hanh luôn dành tình cảm sâu sắc về quê hương, luôn lắng nghe từng đổi
thay trên quê hương. Cho nên hiện thực cuộc sống đi vào thơ Tế Hanh ngày càng phong
phú. Những đổi mới trên quê hương miền Bắc sau cách mạng tháng Tám, cũng như công
cuộc chống Mỹ đầy gian lao mà anh dũng của nhân dân miền Nam làm cho thơ Tế Hanh
mang đậm cảm hứng ngợi ca, khẳng định cuộc sống mới. Vì vậy, thời gian hiện tại được
nhà thơ chú ý nhiều nhất. Khi nói đến hiện tại, Tế Hanh thường liên tưởng đến quá khứ. Đó
cũng là mạch liên tưởng phổ biến của thơ Việt Nam 1945- 1975.
Khác với thời Hoa niên, giai đoạn chống Mỹ nhà thơ nhận thấy hiện tại cuộc sống là
vui, phân khởi, tràn đầy niềm tin ở ngày mai. Còn quá khứ là những ngày vất vả, đau buồn.
Thời gian hiện tại được đặt bên cạnh thời gian quá khứ nhằm làm nổi bật lên ý nghĩa của
cuộc sống. Đồng thời thấy rõ hơn nhận thức của tác giả về hiện thực. Nếu trước cách mạng
nhà thơ nói đến quá khứ với sự hoài niệm vệ một làng quê dịu ngọt, với những kỷ niệm tuổi
thơ: nơi vườn cũ, trường xưa, con sông quê,... thì giờ đây nhà thơ còn nhận thấy quá khứ có
nhiều đau buồn, vất vả. Từ đó khẳng định hiện tại và tương lai tươi sáng.
Quan niệm này đưa đến mạch thơ hay những phát biểu cảm nhận thời gian về hiện tại
thường mang cấu trúc: xưa- nay, trước đây- bây giờ,.... Đây chính là thay đổi trong cách
nhìn, cách cảm của thi nhân đã chi phối nghệ thuật sáng tác và làm tăng giá trị của bài thơ.
Từ đó thấy được sự chuyển biến nhận thức theo hướng tích cực cũng như những đổi mới
cuộc sống của nhà thơ như ở: Con đường rợp bóng Hồ Chí Minh, Liễu, Ngoài khơi gió lộng,
Chung bến chung lòng, Liên Xô anh cả chúng ta mở đường, Một bài thơ về Gớt, Bên bờ
sông Đa Nuýp, ...Điều này cũng giống như ở Huy Cận. Nếu ở Huy Cận sự đổi thay của
Mưa mười năm sau là sự thay đổi trong cách nhìn nhận hiện thực cuộc sống:
Mưa xưa rời rạc tần ngần
123
Mưa nay ríu rít nhân quần tiếng vang...
Cũng là thức giữa năm canh
Mưa xưa lạnh lẽo, yên lành mưa nay.
Thì Tế Hanh cũng có cái nhìn đổi mới hẳn:
Xưa yêu cảnh, ngày nạy yêu đất nước
Mơ một lưng đèo, nhớ một dòng sông
Trái tim cũng khác xa buổi trước
Lần đầu tiên gắn bó với công nông.
( Con đường rợp bóng Hồ Chí Minh)
Và hiện thực cuộc sống vươn lên một cách nhanh chóng trong cảm nghĩ của con
người.
Ngày tháng đi nhanh
Yên nhìn ra thấy cuộc sống chung quanh
Tiến lên mau hơn cả tấm lòng mình:
Xưa bãi vắng nay cửa nhà san sát.
(Chung bến chung lòng)
Thời gian hiện thực trong thơ Tế Hanh cũng nhanh nhạy, năng động. Nhà thơ là người
bám sát dòng chảy sôi động của cuộc sống. Nếu ở Xuân Diệu, người được coi là nhà thơ
thời sự- thời việc thì Tế Hanh là nhà thơ thời sự- sự kiện, thời sự vấn đề và thời cuộc. Tế
Hanh lắng nghe, theo dõi từng sự kiện xảy ra trên quê hương đất nước cũng như trên thế
giới và phản ánh, bày tỏ tâm trạng kịp thời trong thơ như: chiến dịch Đông- Xuân 65-66,
Hè- Thu 67 đem đến ở nhà thơ Tiếng gọi Đông Xuân. Hay chiến dịch vào Tết Mậu Thân
1968 đã để lại trong nhà thơ niềm phấn chấn, hy vọng ở tương lai:
124
Ôi mùa xuân đã vượt thác băng đèo
Như trận gió thổi tràn qua đồng nội
...Xuân 68 là xuân đẹp nhất
Xuân mở đường cho tất cả xuân sau.
(Mùa xuân mới ở các thành thị miền Nam)
Năm 1961, Liên Xô phóng con tàu vũ trụ lên mặt trăng, Tế Hanh đã ghi nhận thời gian
đó bằng cảm xúc vui mừng, tự hào:
Mộng xưa nay hóa thực rồi
Giấc mơ nguyên tử chói ngời trăng sao.
...Mênh mông một cuộc du hanh
Nghìn năm cách trở nay thành bạn quen.
(Liên Xô anh cả chúng ta mở đường)
Xuất phát từ cảm quan lịch sử xã hội mạnh mẽ, ở Tế Hanh các biến cố, sự kiện lịch sử
xuyên thấm cách nhìn thời gian. Lịch sử trở thành đối tượng cảm xúc, suy tư và chiêm
nghiệm. Thời gian nghệ thuật do đó nồng đượm cảm xúc và mang nhiều tầng ý nghĩa. Thời
gian như nhân chứng cho lịch sử con người và cộng đồng xã hội.
Thêm một lần tháng bảy bạn ơi
Tim tôi cũng trở thành tháng bảy.
(Bài thơ tháng bảy)
Ngày đêm bể gầm thét...
Xuân 69 nhớ kỷ
Mối thù Ba Làng An
125
(Mối thù Ba Làng An)
Người chiến sĩ cách mạng đã hy sinh trong kháng chiến được nhà thơ ghi dấu vào cái
đêm cuối cùng:
Cái đêm anh gãy chân
Là cái đêm sáng suốt...
Đêm cuối cùng đời anh
Là cái đêm đẹp nhất.
(Đêm cuối cùng Nguyễn Văn Lịch)
Như vậy, thời gian hiện thực trong thơ Tế Hanh còn là đối chứng để làm nảy sinh vấn
đề, sự kiện. Thời gian ấy không chỉ gắn với quá khứ mà còn hướng tới tương lai. Khác với.
Tế Hanh, Huy Cận vốn có cảm xúc suy tưởng, triết lý sâu sắc cho nên trong thơ ông hiện
thực thường là cơ sở để bộc lộ thế giới của những liên tưởng sâu xa về cuộc đời. Thời gian
hiện thực được nhà thơ nói đến nhiều nhưng ít gắn với những biến cố, sự kiện lịch sử và
không được nhà thờ chú trọng khắc họa cụ thể. Thời gian trong thơ Huy Cận gắn với những
câu chuyện kể. Tế Hanh rất chú trọng khắc họa những: ngày hôm nay, bây giờ, hay, đêm
nay, ...cùng những ngày tháng cụ thể trong thơ với niềm cảm xúc chân tình, đằm thắm. Cái
hôm nay ấy là khoảng thời gian có ý nghĩa trong đời sống con người và xã hội: ghi dấu sự
kiện xảy ra và khẳng định vấn đề. Thời gian đó có mặt trong nhiều bài thơ của Tế Hanh
như: Qua những dòng sông hòa bình, Mẹ mãi còn, Chùm thơ dâng Bác, Từ giã, Hoa đừng
quên em, Như sáng xuân nay, Món quà xuân tết,...
Sáng hôm nay đầu xuân năm bảy
Em đến thăm anh phòng nhỏ có thêm trăng.
(Như sáng xuân nay)
Đến ngày nay, từ một miền đau khổ
Những đứa con của lưới rách thuyền hư
126
Ra miền Bắc sống trong lòng chế độ
Đã trưởng thành
người bác sĩ, kỹ sư.
(Món quà xuân Tết)
Trong thơ Tế Hanh, thời gian hiện thực là thời gian hành động. Thời gian thấm đẫm
tâm trạng, cảm xúc cá nhân. Chính thời gian này mà hiện thực cuộc sống đi vào thơ Tế
Hanh cụ thể, gần gũi, sống động hơn và mang tính thời sự. Từ đó làm cho thơ Tế Hanh chân
thực, cụ thể hơn. Thời gian gắn liền với quá khứ và tương lai: quá khứ và hiện tại đi cặp đôi
nhau, nhiều khi cả quá khứ, hiện tại và tương lai cũng đồng hiện,
Những ngày qua núi rừng nhắc mãi
Tôi thây đời trong biển chói ngày sau.
(Gửi miền Bắc)
Ta quyết xóa những ngày qua chia cắt
Sông Bến Hải ngày mai sẽ nối liền Nam Bắc
Trong khúc hát sum vầy
(Đất này, Vĩnh Linh)
Xa em mùa thu trước Thu này bong gặp em...
Gặp nhau trong giây lát Rồi công tác hai nơi
Ngày gặp lại sẽ bao nhiêu năm tháng
Bao nhiêu chiến công vang dội cả hai miền...
Lần gặp sau ta lại kể nhau nghe.
(Giữa đường công tác gặp em)
127
Sự vận động của thời gian trong thơ Tế Hanh là sự vận động của lịch sử xã hội. Sự vận
động đó được nhà thơ thể hiện thành cảm giác và bước đi của thời gian. Từ đó làm cho tứ
thơ thêm sâu sắc, giàu sức liên tưởng.
Đón một mùa xuân mới tựa tình yêu
Ôi mùa xuân đã vượt thác băng đèo
Như trận gió thổi tràn qua đồng nội.
(Mùa xuân mới ở các thành thị miền Nam)
Ghi lấy không gian! ghi lấy thời gian
Từ An Lão cuối sáu tư kết thúc
Đến Bình Giã đầu sáu lăm sáng rực
Đất anh hùng ơi miền Nam, miền Nam!
(Chào An Lão)
Nhịp thời gian trong thơ Tế Hanh không phải lúc nào cũng đều nhau: có khi êm đềm
đều đặn, có khi dồn dập tùy theo đặc điểm của thời gian khách quan và dòng cảm xúc của
nhà thơ. Thời gian vận động thể hiện hiện rõ trong sự chuyển hóa của quá khứ hiện tại và
tương lai. Tương lai như được nắm rõ, được khẳng định:
Thời gian ơi, ta nắm chắc tương lai
Bọn xâm lăng bây chẳng có ngày mai.
(Mùa xuân mới ở các thành thị miền Nam)
Giấc chiêm bao đêm trước
Soi sáng cả ngày sau.
(Chiêm bao)
Đôi khi tương lai chỉ là lời hứa hẹn đầy hy vọng:
128
Nơi ta ở mai đây tràn ánh điện
Máy phát thanh báo thời tiết kịp thời
Ta biết trước bão dông trên mặt biển
Vững con thuyền ta lướt sóng ra khơi.
(Chung bến chung lòng)
Cũng như Huy Cận, thời gian ở Tế Hanh gắn với niềm tin, mơ ước: tin vào Đảng, Bác Hồ,
vào chế độ và nhiệt tình yêu nước, yêu cuộc sống. Thời gian vận động chủ yếu theo chiều
hướng tương lai, chiều hướng càng ngày càng tốt đẹp hơn. Huy Cận đặt niềm tin chiến
thắng vào nỗi lòng của Mẹ sinh con:
Mẹ sẽ đón hai cha con chiến sĩ
Thắng trận trở về xây lại đất cha ông.
Tóm lại, thời gian hiện thực là một dạng thời gian khá phổ biến trong thơ Tế Hanh.
Khắc họa được những khoảng thời gian này giúp nhà thơ thể hiện vấn đề cụ thể hơn. Có thể
nói, chính thời gian hiện thực này giúp thơ Tế Hanh mang đậm tính thời sự, gắn liền với lịch
sử xã hội.
2.2.2. Thời gian hồi tưởng, thời gian hoài niệm:
Văn học là nghệ thuật ngôn từ, là sản phẩm của ý thức cá nhân về đời sống. Cuộc sống
của con người bao giờ cũng được diễn ra trong một khoảng không gian và thời gian nhất
định. Nhưng dưới cảm nhận của nhà thơ, cuộc sống đi vào tác phẩm không chỉ mang nét
hiện thực khách quan mà bao giờ cũng thấm đẫm ý tưởng chủ quan. Bên cạnh thời gian hiện
thực, thời gian tâm lý là yếu tố quan trọng tạo nên tư tưởng tác phẩm. Thời gian tâm lý là
thời gian gắn liền với cảm xúc, tâm trạng của tác giả: thể hiện sự cảm nghiệm, cách nhìn của
tác giả về con người, về thế giới, thể hiện tư tưởng, tình cảm của con người. Đó là thời gian
chan chứa tình cảm, suy nghĩ, cảm xúc, thái độ của tác giả góp phần bộc lộ tư tưởng của tác
phẩm. Tế Hanh thường hướng về quá khứ, hồi tưởng về những gì đã xảy ra với con người,
quê hương đất nước.
129
Hoài niệm về quá khứ là một trong những đặc điểm của thơ ca phương Đông. Trong
tiềm thức con người, những gì của ngày xưa cũng thường đẹp: vua hiền, tôi trung, anh hùng,
mỹ nhân,. . chỉ có trong thời xưa. Vì vậy, con người thường ngoái nhìn về quá khứ. Nói về
cuộc sống yên vui, ấm no, hạnh phúc người ta thường nhắc đến thời Nghiêu Thuấn. Ở Tế
Hanh hoài niệm không chỉ là một đặc điểm tâm lý chung của con người mà còn do: trong
cuộc chiến tranh chống Mỹ đầy gian khổ, đau thương mất mát nhưng cũng rất anh hùng,
oanh liệt thì hoài niêm về quá khứ còn là động lực để đứng vững ở hiện tại và vươn tới
tương lai. Từ đó góp phần phản ánh hiện thực đời sống rõ nét, cụ thể hơn. Khác với thơ Mới
(32-45) hoài niệm là do con người không tìm thấy lối thoát, muốn quay về quá khứ, bấu víu
quá khứ. Tế Hanh hoài niệm về quá khứ là để đối sánh với hiện tại nhằm nổi bật lên hiện
tại, khẳng định hiện tại, hướng tới tương lai. Đồng thời thấy được niềm cảm xúc phấn khởi,
yêu đời trước hiện thực cuộc sống đã đổi mới: con người đi vào sản xuất và chiến đấu,
không còn chịu cảnh bế tắc, quanh quẩn.
Dưới ánh sáng của Đảng, từ hiện thực cuộc sống nhà thơ nhìn về quá khứ để khẳng
định cuộc sống hiện tại. Quá khứ ở Tế Hanh bấy giờ không phải chỉ là quá khứ êm đềm tươi
đẹp mà còn là quá khứ tối tăm, quá khứ của mơ ước tuỳ theo hiện thực được phản ánh. Con
người trong thơ Tế Hanh đứng ở hiện tại luôn liên tưởng đến những thời điểm: ngày xưa,
ngày hôm ấy, hôm qua, thuở xưa,... nói chung là liên tưởng đến những gì đã qua. Khảo sát
250 bài thơ của Tế Hanh thời gian quá khứ có trong 43 bài khác nhau.
Nơi xưa máu đọng xương phơi tuyết
Nay chén trà thơm đón khách vui.
(Vạn lý trường thành)
Ngoài việc góp phần đối lập với thực tại, làm sáng rõ hiện tại, thời gian hoài niệm ở Tế
Hanh còn làm cho con người hướng tới tương lai. Quá khứ trước đây không chỉ toàn là khổ
đau, đen tối mà cũng có lúc quá khứ ấy là khoảng trời yên lặng với cuộc sống tốt đẹp. Nhà
thơ hoài niệm về quá khứ không phải chỉ để đối lập với thực tại mà để thể hiện tính quá
trình của vấn đề. Tính quá trình đó thể hiện ở: đêm qua- sáng hôm nay, năm qua- năm nay,
mới ngày nào-nay, đêm qua-sáng nay,...
Đêm qua gặp mẹ ở chiêm bao
130
Sáng hôm nay trong không khí ngọt ngào
Con cảm thấy dạt dào thêm sức mạnh
Mẹ đã chắp cho con thêm cánh.
(Mẹ mãi còn)
Năm qua dâng Bác những chiến thắng Khe Sanh
Một trăm bảy mươi ngày đêm vây hãm giặc...
Năm nay, lại dâng Bác chiến thắng Khe Sanh
Bốn mươi ngày đêm uy hiếp giặc.
(Dâng Bác những chiến thắng Khe Sanh)
Với mục đích khẳng định thực tại, dự cảm tương lai thời gian quá khứ trong thơ Tế
Hanh đi những bước dài được tính bằng thế kỷ, bằng hàng chục năm chứ không phải chỉ là
đêm qua, năm qua,... Thời gian quá khứ được nhà thơ nhắc đến góp phần thể hiện nội dung
bài thơ cũng như bộc lộ cảm xúc của tác giả:
30 năm trước
Cha đi đến trường
Nắng hè vừa tắt
Bắt đầu thu sương
(Con tập đánh vần)
10 năm về trước chửa sinh con
Khắp cả vùng đây đất xói mòn
Đá sỏi đồi hoang cây chẳng mọc
Xuân về không hé chút mầm non.
131
(Cây Bác Hồ)
Khác với Tế Hanh, Huy Cận thường khẳng định hiện tại bằng quá khứ tối tăm, đau
khổ như trong: Mưa mười năm sau, Đến Tây Hồ nhớ Bạch Cư Dị, Nửa mùa xuân, Thơ tặng
Béctôn Bresơ, Các vị La Hán chùa Tây Phương, ...
Hoàng hôn thế kỷ phủ bao la
Sờ soạng cha ông tìm lối ra
Có phải thế mà trên gương mặt
Nửa như khói ám, nửa sương tà.
( Các vị La Hán chùa Tây Phương)
Ở Tế Hanh hoài niệm về quá khứ là một biểu hiện tích cực của cá nhân đứng ở vị trí
hiện tại biết nhớ về quá khứ và nghĩ đến tương lai, tin tưởng ở tương lai. Thời gian đó góp
phần thể hiện nỗi lòng, tình cảm của nhà thơ. Thời gian là một nhân tố tích cực làm cho
lòng người phấn chấn tin tưởng ở cuộc sống mới, tin tưởng ở tương lai. Hiện tại ở Tế Hanh
thường là hiện tại tốt đẹp, dù có lúc đầy thương đau nhưng nỗi đau thương chỉ làm cho
người ta thấy rõ hơn sức mạnh, lòng căm thù giặc, yêu mến cuộc sống chứ không phải là
hiện tại đau buồn như mọt số nhà thơ trước đây trong phong trào thơ Mới. Và cũng không
phải là hiện tại u ám, lòng người hoài cổ về kỷ niệm như chính Tế Hanh những ngày Hoa
niên.
2.2.3. Cảm thức về thời gian trong thơ Tế Hanh:
Trong giai đoạn chống Mỹ, con người thường sống trong sự xa vắng nên luôn khắc
khoải đợi chờ gặp gỡ từng giây từng phút và lo lắng nhớ thương. Cảm nhận được điều này
Tế Hanh luôn ý thức và lo lắng về thời gian, lo cho vận mệnh dân tộc.
Đêm đêm tiếng nhạc gió luồn
Đứa con xa nước gửi hồn về thăm
Đấu tranh suốt cả trăm năm
132
Những ngày đẹp nhất bốn lăm đến rồi.
(Trái tim Sô Panh)
Thời gian đã gợi lên nỗi lòng nhớ thương, lo lắng, trăn trở của đứa con xa với người mẹ nơi
quê hương khói lửa.
Mẹ già thế, quân thù hung bạo thế
Tám năm rồi chẳng biết mẹ còn không?
(Mẹ mãi còn)
Những lúc được gần nhau Tế Hanh cảm thấy thời gian rất ngắn và trôi nhanh. Nhà thơ
cũng lo lắng và đón trước bước đi của thời gian với những gì sắp đến cho nên tìm cách níu
giữ lại những khoảnh khắc đó bằng sự lưu luyến của chút ánh nắng nơi góc sân.
Gặp em câu cuối cùng chưa nói
Buổi sớm qua rồi, sắp hết trưa
Góc sân ánh nắng như lưu luyến
Dừng lại trên cành hoa báo mưa.
(Hoa báo mưa)
Lòng yêu đời, yêu cuộc sống khiến nhà thơ luyến tiếc khi thời gian đến và đi. Dù thời
gian đã đi qua nhưng trong cảm thức của mình nhà thơ vẫn còn thấy như vương vấn đâu đó.
Mùa thu đã đi qua còn gửi lại
Một chút vàng trong nắng trong cây
Một chút buồn trong gió trong mây
Một chút vui trên môi người thiếu nữ.
(Bài thơ tình ở Hàng Châu)
133
Tế Hanh cũng cảm nhận được rằng thời gian luôn vận động biến đổi không ngừng.
Thời gian cứ đi mãi một chiều rất nhanh chóng và vô hạn. Con người nằm trong qui luật của
thời gian, của đất trời. Đời người là hữu hạn nhưng giá trị tinh thần của con người tồn tại
vĩnh viễn.
Bánh xe quay thời gian không đứng lại
Vừa sớm mai, trưa gõ cửa ta rồi
Ta sẽ từ giã đời, thơ vẫn ở
Trong mùa xuân vĩnh viễn góp chung vui.
(Bên bờ sông Đa Nuýp)
Ý thức được sự chảy trôi của thời gian cũng như lo lắng cho những tác động của thời
gian, Tế Hanh thường gạt bỏ thời gian trong cảm nghĩ. Quê hương là mối quan tâm sâu sắc,
thường trực. Tình cảm với quê hương ở nhà thơ luôn thắm thiết. Nhà thơ đã dành trọn lòng
mình "không tính đến thời gian", không cần biết sớm hay chiều. Thời gian ở đây như bị triệt
tiêu, không còn có ý nghĩa. Nhờ đó nỗi lòng nhà thơ đối với quê hương được thể hiện rõ nét.
Ta như người chỉ biết có tình yêu
Còn ngoài ra không rõ sớm hay chiều.
( Quê hương lớn mạnh)
Hỡi em rất yêu, em có biết?
Tình chúng ta không tính đến thời gian.
(Vì miền Nam ruột thịt)
Tình yêu là đề tài muôn thuở, là mạch máu chảy suốt trong mỗi con người. Trong tình
yêu con người thường hay lo sợ về thời gian, sợ sự phai tàn, bào mòn của thời gian. Đồng
thời sợ sự vận động của thời gian làm thay đổi mọi thứ trong cuộc sống. Với Tế Hanh nỗi lo
sợ đó được thể hiện bằng cảm giác gạt bỏ thời gian, không nghĩ đến thời gian để tình yêu
được trọn vẹn. Từ đó góp phần khắc họa tâm trạng nhân vật:
134
Anh yêu em như hoa nở không nghĩ đến ngày tàn
Anh yêu em như trăng tròn không nghĩ đến hồi khuyết.
(Không đề)
Em chờ anh không nghĩ đến thời gian ...
Em chờ anh không biết có hoa tàn,
Có trăng khuyết có sương chiều mưa tối
Em chỉ biết có nỗi lòng mong đợi
Em chờ anh không ngại kém dung nhan.
(Em chờ anh)
Trong thơ Tế Hanh thời gian không chỉ vận động một chiều theo thời gian của hiện
thực, thời gian vũ trụ mà khi cảm xúc dâng trào con người cảm thấy "thời gian như chạy
ngược". Bằng sức liên tưởng tuyệt vời, kỳ diệu trước thiên nhiên Liên Xô, nhà thơ nhận
thấy thời gian không còn diễn ra theo bốn mùa xuân, hạ, thu, đông nữa mà các mùa diễn ra
theo cảm xúc thi nhân.
Sớm từ Mátxcơva
Mùa đông hay tuyết trắng
Chiều đã đến Yanta
Mùa thu còn hửng nắng
...Sớm: đông Mátxcơva
Chiều lại thu Yan ta
Thời gian như chạy ngược
Trên Liên Xô bao la.
(Mùa thu Yanta)
135
Và trong không khí trang nghiêm đầy tôn kính khi đứng trước mộ Lê Nin nhà thơ nhận thấy
thời gian bây giờ thật kỳ diệu. Đó là thời gian không hoạt động mà thời gian đứng im, cả
trai đất như đứng im.
Diệu kỳ thay những phút giây
Tưởng như trái đất lúc này đứng im.
(Trước mộ Lê Nin)
Và từ trong hiện thực nhà thơ có khả năng nhìn thấy tương lai. Thời gian tương lai ấy
thể hiện niềm tin ở ngày mai:
Ta thấy trước một mùa đông thắng lợi
Ánh quang vinh soi sáng khắp năm châu
Mở đường cho những thế kỷ mai sau.
(Mùa thu thắng lớn)
Tế Hanh thường gắn thời gian nghệ thuật với các mùa: xuân, hạ, thu, đông. Các mùa
trong thơ Tế Hanh mang đậm dấu ấn cá nhân của nỗi lòng nhà thơ.Cho nên mỗi mùa mang
những dáng dấp riêng, rất Tế Hanh. Đó là thời gian khép kín của vòng tuần hoàn:
Thu qua rồi lại đến thu
Chiều xa nhau ấy gió sương mù rặng cây.
(Cũng là có nhau)
Giống như ở Huy Cận mùa xuân là thời gian rất phổ biến trong thơ Tế Hanh. Mùa
xuân bao giờ cũng tươi vui, mơn mởn, tràn đầy nhựa sống... Tất cả gắn với những chiến
công, với niềm vui, tin tưởng, hạnh phúc. Một đêm Trăng Xuân Huy Cận nhận thấy:
Đầu năm gió mát tựa hè
Nứt bông hoa gạo bốn bề trăng xuân
136
Sông là người đẹp khỏa thân
Núi xanh mơn mởn bước gần bước xa.
Mùa xuân rải rác ở khắp các bài thơ của Tế Hanh. Đó không chỉ là xuân của đất trời mà chủ
yếu là mùa xuân của tâm trạng, của nỗi lòng nhà thơ. Đến Mộc Châu, để bày tỏ niềm vui
đổi mới trên nông trường Mộc Châu, nhà thơ đã đưa vào đây ngọn gió mùa xuân làm cho
nông trường bừng thêm sức sống mới.
Thảo nguyên trông ngút tầm con mắt
Ngang dọc nhô lên những máy cày
Đất mở lòng tươi như ngực trẻ
Mầm non hạt mới ấm bàn tay...
Đôi hàng rào mận vây sân biếc
Đón gió mùa xuân thổi Điện Biên.
Mùa xuân làm hồi sinh vạn vật và khẳng định sức sống bất diệt góp phần bộc lộ niềm tự hào
của nhân vật trữ tình.
Cây mù u của quê ta đó
Sau bao phen bị quân thù đốt cháy
Mùa xuân này nó lại mọc chồi lên.
(Câu chuyện quê hương)
Ngay hè sang sức sống của mùa xuân được nhà thơ nhìn thấy vẫn còn rực rỡ:
Lần đầu tôi đến đất anh hùng
Hè mới về còn rực rỡ sắc xuân.
(Thăm đồi A 1 )
137
Mùa xuân ở Tế Hanh còn là yếu tố tô đậm thêm nét đẹp của quê hương, thể hiện niềm phấn
khởi, tin tưởng, yêu đời, yêu cuộc sống .
Thăm con ở trại nhi đồng
Một ngày xuân đẹp nắng hồng thướt tha.
(Vườn xuân)
Tôi vào Đảng khi mặt trời rực rỡ
Sáng trên đồng hoa nở giữa mùa xuân.
(Như sáng xuân nay)
Bên cạnh mùa xuân biểu hiện sức sống mạnh mẽ thì mùa thu trong thơ Tế Hanh là thời
gian vạn vật được thanh thản khoe hương sắc. Giống như ở Huy Cận, mùa thu không phải
buồn như trong thơ cổ mà mùa thu ở đây rất đẹp, mùa thu gắn với niềm yêu đời, yêu quê
hương trong cuộc sống mới như các bài thơ: Chiều thu, Đưa con đi học, Mùa thu Yan ta,
Trung thu,...
Thủy tinh trong suốt từng không khí
Rót mật bầy ong trải nắng vàng.
(Thu)
Trời xanh một màu xanh mênh mông
Chiều thu lúa gặt phẳhg phiu đồng
Phương tây ánh nắng vừa chia biệt
Đã thấy trăng chào sáng phía đông.
(Chiều thu)
138
Ở Tế Hanh mùa hè cũng rực rỡ gắn với hiện thực cuộc sống mới nhưng mùa hè ít được
nhắc đến hơn, rải rác trong một số bài thơ: Bài thơ tháng bảy, Thăm nhà một nhà thơ Xô
Viết, Thăm nhà một người bạn đánh cá,...
Luống rau muống kề bên vại nước
Nắng chói chang lá vẫn tươi xanh...
Nắng nghiêng xế bông hoa tý ngọ
Đã khép môi bé nhỏ hồng hồng
(Thăm nhà một người bạn đánh cá)
Khác với Huy Cận, buổi chiều là thời gian phổ biến và thường là những buổi chiều
đẹp, hiện thực cuộc sống sinh sôi nẩy nở: Chiều xanh tiếng sáo, Chiều xuân bên đường,
Hoa sầu bầy ong,Về thăm chùa Keo...
Chiều xuân nắng mịn lá khoai lang
Hoa bí bò leo nở cánh vàng.
(Chiều xuân bên đường)
Chiều nay mây tạnh nắng lên
Đàn ong quen, lại đến tìm lùm hoa.
(Hoa sầu bầy ong)
Thơ Tế Hanh nổi bật lên thời gian ban đêm. Đây là thời gian gắn với tâm trạng của nhân vật.
Cũng như các nhà thơ Mới, ban đêm là khoảng thời gian yên lặng, nghỉ ngơi sau một ngày
lao động mệt nhọc. Lúc đó con người có dịp quay về với thực tại lòng mình, sống với những
cảm xúc vốn có của mình. Và thường đây là thời gian của nỗi nhớ làm bật lên tâm trạng của
nhân vật.
Mười năm tập kết ra miền Bắc
Đêm nào không nghĩ đến quê nhà
139
Tên đất, tên người không kể hết
Hơn một lần nhắc đến Ba Gia.
(Ba Gia)
Đêm đêm tiếng nhạc gió luồn
Đứa con xa nước gởi hồn về thăm.
(Trái tim Sô Panh)
Nhất là những đêm trăng Tế Hanh thường thức để nhìn đời, nhìn vào nỗi lòng mình.
Cho nên ánh trăng hiện lên trong nhiều bài thơ: Điệu quê hương, Tùy bút về một trạm thủy
điện, Bài thơ tình ở Hàng Châu, Chúng ta đi, Bé hát dưới trăng, Mùa thu tiễn em, ... Ánh
trăng trong đêm như gợi lên tất cả nỗi lòng suy tư của nhà thơ.
Đêm nay trăng sáng Bắc Kinh
Nhớ trăng Hà Nội thắm tình quê hương ,
Lòng như cuộn chỉ yêu thương
Quấn theo mỗi một đoạn đường ra đi
(Dặm liễu)
Những đêm trăng nhìn hàng cây gió thổi
Anh nhớ rặng dừa xưa sóng bước tóc em xòa.
(Hà Nội và hai ta)
Đêm trăng trong thơ Tế Hanh không hoàn toàn là buồn xa vắng mà khi lòng nhà thơ
cảm thấy rạo rực một niềm vui thì ánh trăng trong đêm trở nên êm đềm, gợi bao điều tốt
lành, làm cho lòng nhà thơ tràn trề hạnh phúc.
Đêm nay anh ở xa em
Nhìn trăng thu rải êm đềm canh thâu
140
Tưởng mình vẫn ở bên nhau
Song song bay với hai tàu Phương Đông.
(Song song bay với hai tàu Phương Đông)
Đêm nay trăng lại với mình
Trăng thơ bát ngát trăng tình chơi vơi.
Suốt đêm trăng sáng em ơi
Tưởng như trăng sáng suốt đời của anh.
(Không đề)
Bên cạnh những đêm trăng thì khoảng thời gian đêm tối trong thơ Tế Hanh thường là
thời gian của đau khổ, tan thương, tai họa đối với con người.
Cơn bão nghiêng đêm
Cây gãy cành thay lá.
(Bão)
Những năm giặc chiếm càng cơ cực
Bóng tối tràn lan chẳng ánh đèn.
(Tiếp tục giấc mơ Nguyễn Công Trứ)
Cũng như Huy Cận, thời gian trong thơ Tế Hanh không chỉ được miêu tả, cảm nhận
mà nhà thơ còn nhìn thấy, lắng nghe một cách rõ ràng bước đi của thời gian. Điều. này giúp
người đọc thấy được sự tinh tế, giàu cảm xúc của tác giả đồng thời góp phần bộc lộ tư tưởng
của tác phẩm. Nếu trong Trò chuyện với Kim Tự Tháp Huy Cận cảm nhận: "Tôi thấy thời
gian rúng lạnh dưới chân tôi" thì trong nhiều bài thợ Tế Hanh cũng nhận thấy bước đi, sắc
thái của thời gian: thời gian đi từng bước từ ngoại thành vào nội thành, thời gian trong vắt,
thời gian bước những bước mới trong tâm hồn mà thi nhân nghe được.
141
Xuân từ ngoại thành vào nội thành
Từng bước, từng bước, từng bước xanh.
(Gặp xuân ngoại thành)
Chúng ta cùng xứ sở lớn lên
Chân trời rộng thời gian trong vắt.
(Buồn riêng, vui chung, vui riêng)
Tôi ngồi đây dưới mái trường của Đảng
Nghe bước xuân mới mẻ trong tâm hồn.
(Giữa mùa xuân dâng Đảng bó hoa xuân)
Đây chính là thời gian của nỗi lòng nhà thơ, những cảm nhận của nhà thơ về thời gian
gắn với những tâm tư thầm kín của con người. Khắc họa được thời gian nghệ thuật này làm
cho ý thơ thêm sâu sắc giàu súc liên tưởng, gợi cảm.
2.2.4. Phương thức tổ chức thời gian:
Xuất phát từ tình yêu quê hương đất nước, luôn theo sát bước đi của thời gian trên quê
hương cũng như những gì liên quan đến vận mệnh dân tộc, Tế Hanh có nhiều cách thể hiện
thời gian chủ quan của mình trong thơ. Với tấm lòng đằm thắm, tinh tế, nhạy cảm, tràn đầy
niềm thiết tha yêu cuộc sống, thời gian tâm lý trong thơ Tế Hanh được biểu hiện ở những
khía cạnh khác nhau. Thời gian không chỉ được thể hiện là một vòng tuần hoàn khép kín mà
còn nổi lên khoảng thời gian liên tiếp, xuyên suốt diễn ra không có khoảng cách. Thời gian
này đã góp phần khắc sâu nỗi lòng chịu đựng của nhân vật trữ tình cũng như thể hiện tính
chất của sự việc.
Ngày lại ngày mỗi lần thức dậy
Tôi nghe tin tức dội trong đài
Bao nhiêu tội ác quân thù đó
142
Mảnh đất miền Nam máu láng lai.
(Bài thơ tháng bảy)
Nơi hàng ngày hẹn hò gặp gỡ
Câu chuyện làm ăn chuyện xóm thôn.
(Cái giếng đầu làng)
Quanh năm suốt tháng chỉ đọc kinh
Cầu chúa ban cho được phước lành.
(Tiếp tục giấc mơ Nguyễn Công Trứ)
Khảo sát thơ Tế Hanh chúng tôi thấy thời gian liên tiếp, xuyên suốt gắn liền với nhân
vật trữ tình còn bộc lộ trong từ suốt. Đó là khoảng thời gian liên tục chứa đựng tâm sự.
Khắc họa được thời gian như thế nhà thơ đã thành công trong việc thể hiện nội tâm nhân vật
cũng như tính chất của vấn đề. Ở thời gian đó con người nằm trong một trạng thái, hoàn
cảnh, căng thẳng suy tư không ngừng. .
Tôi thức suôt đêm, nhìn trăng như người đồng chí
Trăng theo tôi trong ý nghĩ triền miên
(Chúng ta đi)
Đời em suốt mấy mùa thu
Thịt da rướm máu sưng vù tay chân.
(Đã nghe giọng hát)
Như vậy, thời gian nghệ thuật ở đây giúp Tế Hanh diễn tả được những nét thầm lặng,
sâu sắc của vấn đề một cách dễ dàng. Từ đó góp phần thể hiện được nội dung bài thơ.
Một đặc điểm nổi bật trong thơ Tế Hanh là khắc họa những giây phút hiện tại của sự
việc, cảm xúc. Những trạng từ chỉ thời gian hiện tại được sử dụng nhiều: hôm nay, bây giờ,
143
nay, sáng nay, chiều nay,... Khảo sát tập thơ tiêu biểu Gửi miền Bắc gồm 26 bài thơ chúng
tôi thấy thời gian hiện tại xuất hiện trong 10 bài khác nhau. Khắc họa thời gian như thế Tế
Hanh làm cho thời gian nảy sinh cảm xúc đồng nhất với thời gian kể chuyện và thời gian
người nghe câu chuyện. Điều này làm cho cảm xúc trong thơ luôn mới như đang xảy ra.
Kế thừa và phát huy trên nền tảng của thơ Mới, thời gian nghệ thuật trong thơ Tế Hanh
cũng đa dạng. Nhà thơ cũng đã thành công trong việc khác họa những khoảnh khắc ngắn
ngủi của thời gian cũng như đã diễn tả được những bước đi chậm chạp, đều đặn của chúng.
Nếu Huy Cận tinh vi phát hiện ra sự đổi thay của không khí buổi trưa:
Đây là giờ trưa. Những con gà cục tác
Nắng âm âm không khí nở nang nhiều.
...Cả trời đất giữa lòng trưa rạo rực
Đang trùm ôm, đang thai nghén điều chi.
(Giờ trưa)
thì Tế Hanh cũng rất độc đáo trong việc ghi lại khoảnh khắc đóa hoa quỳnh nở tạo nên bức
tranh lung linh, ấn tượng:
Trước hiên một đóa hoa quỳnh
Chờ trăng sắp nở rung rinh búp đầy
Ngoài hiên lấp loáng sau cây
Mảnh trăng mười chín hé mây hiện dần...
Bỗng từng cao trăng hiện ra
Cũng là vừa lúc đóa hoa nở bừng.
(Hoa nở theo trăng)
Nhà thơ cũng rất tài trong việc diễn tả những sự việc, những vấn đề đang diễn ra làm
cho người đọc như chứng kiến được ngay trước mắt.
144
Mùa xuân về những cuộc sống tơ non
Đang nẩy nở những cành tơ nụ biếc.
(Thơ viết cho con từ nước Đức)
Đang truy điệu Bác, nghe tin
Giặc vào xâm phạm lễ thiêng của mình
Gạt dòng nước mắt long lanh
Đoàn quân xuất trận tan tành lũ gian
(Ở miền Nam)
Ngoài ra, nhà thơ còn vận dụng phương thức kết nối các thời trong thời gian nghệ
thuật. Và thời gian của hiện thực khách quan cũng được nhà thơ đưa vào bằng chính cảm
xúc, tâm trạng của mình một cách nghệ thuật tạo nên những đặc điểm riêng. Đó là thời gian
vận động theo nhiều kiểu khác nhau: quá khứ, hiện tại, tương lai. Thường nhân vật trữ tình
trong thơ Tế Hanh đứng ở hiện tại nhớ về quá khứ nhằm đối sánh với hiện tại, khẳng định
hiện tại như trong các bài: Còn nóng giữa lòng tôi, Đu đủ và cam, Ga, Bóng anh, Sao ba lại
đánh em, ... Và nhiều khi từ hiện tại nhân vật trữ tình nghĩ đến tương lai và đặt vào đó niềm
tin, hy vọng: Thăm đồi A1, Chăn con, ...
Đặc biệt nhân vật trữ tình trong thơ Tế Hanh còn đứng ở hiện tại nhớ về quá khứ và
nghĩ đến tương lai. Ở Nhớ con sông quê hương nhân vật trữ tình đang đứng ở hiện tại cuộc
sống: "Tôi hôm nay sống trong lòng miền Bắc" nhớ về quá khứ, về những kỷ niệm tuổi thơ
gắn bó với con sông :
Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu
Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy
Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy
Bầy chim non bơi lội trên sông.
145
Và từ nỗi nhớ dâng trào nhân vật trữ tình nghĩ đến tương lai, khẳng định lòng quyết tâm của
mình.
Tôi sẽ lại nơi tôi hằng mơ ước
Tôi sẽ về sông nước của quê hương
Tôi sẽ về sông nước của tình thương.
Tình cảm càng sâu nặng, con người càng như quan tâm đến thời gian. Thời gian là
người bạn tri kỷ của tình cảm, cảm xúc. Khi gần nhau họ cảm thấy thời gian trôi nhanh, khi
xa nhau họ thấy thời gian trôi chậm, lê thê từng bước. Xây dựng thời gian nghệ thuật này
cũng như để diễn tả sâu sắc tâm trạng của nhân vật, Tế Hanh đã vận dụng phương thức kéo
giãn thời gian. Việc kéo căng khoảng thời gian trong thơ giúp tác giả diễn đạt được đến mức
cao tình cảm của nhân vật trữ tình trong tác phẩm.
Ta xa nhau bốn năm
Mà tưởng chừng thế kỷ.
(Cảnh 3 )
Hiền Lương ơi!
Lần thứ hai tôi đến
Bốn năm qua
Như trải mấy cuộc đời.
(Nói chuyện với Hiền Lương)
Có những giây phút ngắn ngủi, lời nói được phát ra làm nên ý nghĩa mãi nghìn năm
sau không mất: thời gian kéo dài vô tận.
Ôi lời Bác những ngày đầu kháng chiến
Vang trong lòng dân tộc đến nghìn năm.
146
(Bài ca trở về)
Thời gian tâm lý là thời gian của nỗi lòng con người, thời gian của tình cảm. Cho nên
trong thơ Tế Hanh có lúc cảm nhận thời gian của con người lại hoàn toàn trái ngược với
thực tế. Sự trái ngược này làm tăng ý nghĩa, giá trị cho bài thơ.
Hai năm thì dài, 15 năm lại ngắn!
(Thời gian về ta)
Mặt khác dồn nén thời gian là một cách thể hiện nghệ thuật nhằm góp phần làm tăng
cảm xúc cho câu thơ. Có những khoảng thời gian dài nhưng tác giả cảm nhận và ghi lại
trong giây lát. Dồn nén thời gian như vậy giúp nhà thơ khắc họa được nỗi xúc động dâng
trào của nhân vật trữ tình, góp phần thể hiện nội dung tác phẩm.
Tôi cảm thấy tám năm đợi chờ mong nhớ
Như dồn lại trong phút giây gặp gỡ.
(Cả ngày mai là một với miền Nam)
Thời gian nghệ thuật trong thơ Tế Hanh không diễn ra đều đặn mà có nhiều khi cũng
đi những bước nhảy vọt: năm năm, 8 năm, 13 năm, 16 năm, hàng trăm năm, hàng thế kỷ,...
Năm năm sau
trong thắng lợi hòa bình
Ra miền Bắc anh lại về với biển.
(Người thủy thủ và con chim én)
Trong những bước nhảy vọt, những khoảng thời gian dài tiềm ẩn đó chúng ta không
thể biết rõ được những gì đã diễn ra. Nhưng đặc biệt theo dõi chuyển biến của bước đi thời
gian trong thơ Tế Hanh người đọc sẽ thấy nhà thơ rất tài tình trong việc thể hiên những
bước đi bất ngờ, gấp khúc đánh dấu những sự kiện quan trọng trong cuộc sống. Thời gian
bất ngờ đó là ngẫu nhiên, là đột biến làm thay đổi mọi sự tự nhiên vốn có trước đây.
147
Cũng tương tự như ở Huy Cận, khoảng thời gian gấp khúc trong thơ Tế Hanh thường
được thể hiện bằng từ bỗng. Đây là sự xâm nhập của thời gian sự kiện xã hội vào thời gian
tâm trạng, thời gian tự nhiên. Từ bỗng cho thấy sự kiện xảy ra là không được định sẵn,
không được cố định và sắp xếp trước mà là bất ngờ, đột biến. Khắc họa thời gian này nhà
thơ đã cho thấy được sự chuyển biến trong nhận thức tình cảm của con người đồng thời biểu
hiện tính ngẫu nhiên của sự kiện. Từ đó góp phần làm rõ tính chân thực, tự nhiên của vấn
đề, thấy được sự phức tạp của tâm trạng cũng như cuộc sống của con người. Thời gian này
xuất hiện trong thơ Tế Hanh cũng khá phổ biến. Khảo sát 250 bài thơ chúng tôi thấy thời
gian gấp khúc xuất hiện với từ bỗng có mặt 37 lần trong 34 bài thơ của Tế Hanh. Nhưng ở
Huy Cận thời gian này ít được vận dụng hơn. Trong 125 bài thơ được khảo sát từ bỗng có
mặt 11 lần trong 9 bài khác nhau. Từ đó chúng tôi có thể kết luận thời gian gấp khúc là một
điểm khá nổi bật trong thời gian nghệ thuật của Tế Hanh giai đoạn chống Mỹ.
Phòng cấp cứu bỗng trở nên rộn rịp...
(Trong bệnh viện thiếu nhì)
Bỗng dưng cơn nước cuộn dòng
Pháp đi. Mỹ đến bão dông bốn bề.
(Hai lời rủa và một khúc ca)
Thời gian gấp khúc như thế trong thơ Tế Hanh tạo nên ranh giới trong đời sống của
con người: ranh giới cho khoảng thời gian trước và sau đó. Đây là hai khoảng thời gian khác
nhau, hai giai đoạn chứa những sự kiện không xuôi chảy mà gấp khúc, nhất là sự chuyển đổi
rõ trong tâm hồn con người. Thời gian gấp khúc giống như thời gian bản lề cho sự đổi thay
của sự kiện, vấn đề trong cuộc sống cũng như trong chính thế giới nội tâm của con người.
Nhờ những khoảnh khắc này mà tâm trạng của nhân vật trữ tình được bộc lộ rõ hơn, vấn đề
diễn đạt mang đậm nét tự nhiên, chân thực không gò ép, gượng gạo. Người đọc như được
chứng kiến được con người đang đi trong những bước thời gian bằng phẳng chợt gặp những
biến đổi bất ngờ.
Tế Hanh ít gắn thời gian với không gian. Tuy nhiên với cảm hứng phấn chấn nhà thơ
cũng nói lên được sự quyện hòa:
148
Thời gian như sợi chỉ giăng
Không gian như bản nhạc dâng hài hòa.
(Hoa nở theo trăng)
Có thể nói Tế Hanh đã vận dụng phong phú nhiều phương thức tổ chức thời gian trong
tác phẩm tạo nên thời gian nghệ thuật độc đáo, đa dạng.Từ đó góp phần thể hiện tư tưởng
bài thơ cũng như khắc họa được những khía cạnh thầm kín sâu xa trong thế giới nội tâm của
con người.
Nhìn chung, về nghệ thuật biểu hiện Tế Hanh không biểu lộ rõ sự sắc sảo tài hoa.
Nhưng sự phát triển tự nhiên trong nghệ thuật sáng tạo mà nhiều khi đạt độ chín và tinh tế.
Những bài thơ hay của Tế Hanh thường được cấu tạo chặt chẽ, triển khai rất sáng tạo và thi
vị từ hệ thống hình ảnh, ngôn từ đến việc xây dựng thế giới hình tượng.
149
KẾT LUẬN
Tế Hanh là một trong vài ba nhà thơ của phong trào thơ Mới còn lại đến ngày nay.
Cuộc hành trình sáng tạo không mệt mỏi của ông hơn 50 năm, không gây ấn tượng mạnh
mẽ, ồ ạt như nhiều nhà thơ cùng thời. Nhưng thơ ông nổi lên những nét trung thực, tinh tế,
giàu cảm xúc có khả năng thấm dần vào người đọc.
Nói đến thơ ca hiện đại Việt Nam không thể không nói đến Tế Hanh. Điều này chứng
tỏ Tế Hanh đã có một phong cách riêng trong nền thơ hiện đại. Để tạo được phong cách
riêng đứng vững trong hàng ngũ những cây đại thụ thơ ca trong hàng mấy mươi năm nay tất
nhiên nhà thơ đã có những tìm tòi trong sáng tạo nghệ thuật của mình. Thơ Tế Hanh trải qua
nhiều chặng đường sáng tác khác nhau nổi lên những nét riêng góp mặt cùng thơ ca đương
đại. Nhưng có thể nói, trước cách mạng thơ Tế Hanh chỉ mới ánh lên những tía sáng đầu
tiên hứa hẹn ở tài năng sau này bởi linh hồn tinh tế, phong phú, rung động sâu sắc "Chờ thời
gian để có thể gặp được nhiều cảnh và viết thêm được nhiều bài hay" (68, tr.284).
Qua 15 năm cách mạng, dưới ánh sáng của Đảng thơ Tế Hanh đã trưởng thành một
cách vững chắc. Nhà thơ đã bám sát hiện thực với những vấn đề nóng bỏng của thời sự xã
hội. Có thể nói đỉnh cao trong sáng tạo nghệ thuật của Tế Hanh là giai đoạn sáng tác từ í954
đến 1975. Ở đó người đọc sẽ tìm thấy Tế Hanh tế nhị, ngọt ngào hơn, thực và khỏe hơn.
Thơ Tế Hanh giai đoạn này đã góp tiếng nói quan trọng trong nền thơ Việt Nam hiện đại,
làm nên gương mặt thơ Tế Hanh. Nhìn chung, thơ Tế Hanh là một hồn thơ đôn hậu, đằm
thắm, chân thật. Hiện thực cuộc sống đi vào thơ ông rất phong phú, đa dạng tạo nên một thế
giới cuộc sống sinh động tràn đầy sức sống.
Thơ Tế Hanh nở rộ trong giai đoạn chống Mỹ đã để lại dấu ấn trong cuộc đời sáng tác
của chính bản thân nhà thơ trước hết là do sự cố gắng tìm tòi và phát huy năng lực sáng tạo
của mình. Sự cố gắng đó đã thể hiện tài năng nghệ thuật của tác giả trong cách vận dụng
ngôn từ, thể thơ cũng như việc tạo dựng thế giới hình tượng.
Nói đến ngôn từ thơ Tế Hanh thời chống Mỹ là nói đến ngôn từ giản dị, chân thực,
khỏe khoắn gần với ngôn ngữ trong đời sống hàng ngày của người dân. Tất cả được nhà thơ
thổi vào đó hơi thở của tâm hồn, tình người một cách tinh tế, độc đáo làm cho ngôn từ ấy trở
150
nên giàu sức gợi và đẹp. Nhờ đó lời thơ Tế Hanh không chỉ mộc mạc, dễ hiểu như trong ca
dao mà còn trong sáng, thi vị. Thơ Tế Hanh giai đoạn này rất thiết thực, có sức tác động
mạnh mẽ vào nhiều tầng lớp nhân dân trong chiến tranh. Nhờ đó nhà thơ chuyển tải một
cách hiệu quả nội dung bài thơ đến công chúng. Cho nên thơ Tế Hanh đã góp tiếng nói quan
trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, nhất là trong việc đấu tranh giành lại sự thống
nhất, độc lập cho đất nước.
Mặt khác, với cách nói giản dị, truyền cảm cùng những liên tưởng bất ngờ thú vị, nhà
thơ đã đưa vào thơ mình thế giới hình ảnh phong phú, sinh động, tươi đẹp thấm đẫm tình
cảm. Đọc thơ Tế Hanh người ta có thể ngắm được những bức tranh thiên nhiên làng quê nên
thơ cũng như hình ảnh những con người Việt Nam anh hùng "đem máu đào giữ miếng đất
thiêng liêng" bấy giờ.
Có thể nói, thơ Tế Hanh giai đoạn chống Mỹ là tiếng nói thẳng thắn, khỏe khoắn, bộc
trực mà chan chứa cảm xúc của một tâm hồn thơ chân thực, yêu đời, yêu cuộc sống gắn liền
sự nghiệp thơ ca với sự nghiệp cách mạng. Tiếng nói ấy đã tạo nên những hình ảnh nên thơ
trữ tình, sâu lắng của thiên nhiên và con người Việt Nam trong những năm chiến tranh đầy
đau thương mà anh dũng.
Thế giới nghệ thuật thơ Tế Hanh luôn gắn với hiện thực cuộc sống một cách chân
thực, tràn đầy cảm xúc. Không gian trong thơ Tế Hanh thường không trực tiếp là những bức
tranh xã hội, những môi trường rộng rãi của dân tộc, thời đại mà đó là những khoảng không
gian nhỏ, hẹp gắn với cuộc sống của người dân nơi thôn xóm. Không gian ấy cụ thể là
không gian làng quê với mảnh vườn, ngôi nhà, con đường, cánh đồng,... Đây là không gian
sinh hoạt của con người. Không gian ấy ít biến động mà mỗi bài thơ thường được nhà thơ
cố định trong một không gian địa lý nào đó như: Ba Gia, Quảng Ngãi, Vạn Tường,... Tất cả
đều được gợi lên bởi hiện thực cuộc sống, mang tính sự kiện rõ rệt.
Tuy nhiên điều quan trọng là không gian nằm sau lớp ngôn từ, không gian tâm tưởng,
không gian gắn với nỗi lòng của nhà thơ. Ở Tế Hanh nổi bật lên đó là không gian chia cắt,
cách xa. Từ sự xa cách nhà thơ đã đưa người đọc đến với nỗi lòng nhớ thương và lo lắng về
những mối thâm tình về quê hương đất nước. Mặt khác, một phần do xa cách mà nhân vật
trữ tình trong thơ Tế Hanh thường tìm về vùng ký ức của những ngày qua tạo nên không
gian ký ức góp phần biểu lộ cảm xúc đồng thời làm nổi rõ nội dung tác phẩm.
151
Đặc biệt Tế Hanh đã thành công trong việc xây dựng hình tượng không gian nghệ
thuật: không gian con sông. Xây dựng không gian này nhà thơ đã thành công trong việc bày
tỏ tâm trạng nhân vật trữ tình góp phần nâng cao giá trị tư tưởng trong tác phẩm.
Gắn liền với không gian là thời gian. Thời gian nghệ thuật là nhân tố giúp cho sự tiếp
nhận thế giới nghệ thuật một cách toàn vẹn cũng như đảm bảo cấu trúc hoàn chỉnh của tác
phẩm. Trong thơ Tế Hanh, cùng với thời gian hiện thực gắn liền với những ngày tháng năm
cụ thể thì mảng thời gian tâm lý: thời gian nỗi lòng nhà thơ có ý nghĩa sâu sắc góp phần tạo
nên tư tưởng tác phẩm.. Thời gian trong thơ Tế Hanh thường chảy xuôi dòng thuận chiều
với qui luật phát triển của sự sống, của hiện thực cách mạng. Tuy nhiên, bằng tài năng nghệ
thuật của mình, việc vận dụng tài tình những phương thức tổ chức thời gian khác nhau Tế
Hanh đã tạo nên nét nổi bật trong nghệ thuật sáng tạo. Thời gian tâm lý ở Tế Hanh nổi lên là
thời gian hồi tưởng, thời gian hoài niệm. Nhà thơ thường hồi tưởng về quá khứ khi đang
đứng ở hiện tại. Điều đặc biệt là sự hồi tưởng đó không dẫn đến bi quan mà giúp nhà thơ
đứng vững hơn ở thực tại; Có thể nói quá khứ hiện lên trong thơ Tế Hanh giúp nhân vật trữ
tình có cái nhìn toàn diện và bám sát với hiện thực cuộc sống. Quá khứ ấy hiện lên trong tác
phẩm là nhằm đối sánh với hiện tại, khẳng định hiện tại và vươn tới tương lai.
Bằng tài năng độc đáo và những tìm tòi không ngừng, Tế Hanh luôn mang đến cho đời
sống của thơ mình những hình thức thơ mới mẻ, phù hợp. Vì thế, ngoài việc vận dụng thể
thơ một cách đa dạng, Tế Hanh còn thể hiện rõ sự cách tân của mình trong sáng tạo nhằm
chuyển tải cho đúng và đủ hơn những nội dung cần thiết và góp phần hiện đại hóa thể loại.
Nói chung thơ Tế Hanh đã thể hiện những đóng góp đáng kể cho nền thơ ca Việt Nam hiện
đại cũng như góp phần quan trọng trong nền thơ ca chống Mỹ của dân tộc.
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.
2. Vũ Tuấn Anh (1995), Sự vận động cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1945 - 1995,
Luận án tiện sĩ ngữ văn, Viện văn học, Hà Nội.
3. Vũ Tuấn Anh (1997), Cuộc gặp mặt và trao đổi ý kiến của những nhà thơ mới, Tạp chí
văn học số 2.
4. Vũ Tuấn Anh (2001), Quá trình văn học đương đại nhìn từ phương diện thể loại, Tạp
chí văn học số 3.
5. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại nhận thức và thẩm định, Nxb Khoa
Học Xã Hội, Hà Nội.
6. Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
7. M.Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du xuất
bản, Hà Nội.
8. Lê Bảo (1999), Thơ Việt Nam tác giả, tác phẩm, lời bình, Nxb Giáo Dục.
9. Huy Cận, Hà Minh Đức (1993), Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca, Nxb Giáo
Dục, Hà Nội.
10. Nguyễn Phan Cảnh (2001), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn Hóa Thông Tin.
11. Nguyễn Hữu Chỉnh (2001), Thế giới nghệ thuật thơ Hoàng Cầm, Luận văn thạc sĩ ngữ
văn, Trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
12. Trúc Chi (1999), 30 năm một nền thơ cách mạng, Nxb Thanh Niên.
13. Nguyễn Đăng Diệp (2000), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.
14. Xuân Diệu, Nguyễn Xuân Nam (1986), Tuyển tập Huy Cận 1, Nxb Văn học, Hà Nội.
153
15. Lê Tiến Dũng (1994), Loại hình câu thơ trong thơ Mới, Tạp chí văn học số 1.
16. Lê Tiến Dũng (1998), Những cách tân nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu, Nxb Giáo
Dục.
17. Đại học Quốc gia Hà Nội (1996), Năm mươi năm văn học Việt Nam sau cách mạng
tháng tám.
18. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
19. Phan Cự Đệ (2001), Tuyển tập lý luận phê bình văn học miền trung thế kỷ XX Nxb Đà
Nẵng.
20. Nguyễn Lâm Điền (2002), Đặc trưng nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Luận văn tiến sĩ
ngữ văn, Thành Phố Hồ Chí Minh.
21. Trinh Đường (1991), Tế Hanh 70 năm tuổi đời và tuổi thơ, Tạp chí văn học số 3.
22. Trinh Đường (1999), Thơ Việt Nam thế kỷ XX chọn lọc và bình, Nxb Thanh Niên.
23. Hà Minh Đức (1996), Tế Hanh và những chặng đường thơ cách mạng, Tạp chí văn
học số 6.
24. Hà Minh Đức (1998), Khảo luận văn chương, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.
25. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo Dục.
26. Hà Minh Đức (2001), Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, Nxb Khoa Học Xã
Hội, Hà Nội.
27. Hà Minh Đức (1998), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Văn Hóa, Hà Nội.
28. Hà Minh Đức (1979), Nhà văn Việt Nam Tập 2, Nxb Đại học và Trung học Chuyên
nghiệp, Hà Nội.
29. Nguyễn Văn Hạnh (1998), Suy nghĩ về thơ Việt Nam từ sau năm 1975, Tạp chí văn
học số 9.
154
30. Nguyễn Văn Hạnh (1997), Mấy vấn đề ngôn ngữ và văn học, Nxb Khoa Học Xã Hội,
Hà Nội.
31. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1999), Lý luận văn học vấn đề và suy nghĩ,
Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
32. Tế Hanh (1992), Hoa niên (tái bản), Nxb Hội nhà văn, Hội nghiên cứu giảng dạy văn
học Thành Phố Hồ Chí Minh.
33. Tế Hanh (1960), Tiếng sóng, Nxb Văn học, Hà Nội.
34. Tế Hanh (1962), Gửi miền Bắc, Nxb Văn học, Hà Nội.
35. Tế Hanh (1963), Hai nửa yêu thương, Nxb Văn học, Hà Nội.
36. Tế Hanh (1966), Khúc ca mới, Nxb Văn học, Hà Nội.
37. Tế Hanh (1970), Đi suốt bài ca, Nxb Văn học, Hà Nội.
38. Tế Hanh (1973), Câu chuyện quê hương, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
39. Tế Hanh (1974), Theo nhịp tháng ngày, Nxb Văn học, Hà Nội.
40. Tế Hanh (1985), Bài ca sự sống, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
41. Tế Hanh (1985), Con đường và dòng sông, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
42. Tế Hanh (1989), Trò chuyện về một nhà thơ lớn, Tạp chí văn học số 9.
43. Tế Hanh (1997), Giữa những ngày xuân, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
44. Tế Hanh (1997), Tuyển tập thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.
45. Tế Hanh (2002), Nhớ lại những chặng đường thơ, Tạp chí văn nghệ số 9.
46. Lê Thị Hải (1997), Tìm hiểu nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử, Luận văn thạc sĩ ngữ văn,
Trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
47. Lê Bá Hán (1998), Tinh hoa thơ mới thẩm bình và suy nghĩ, Nxb Giáo Dục.
155
48. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
49. Hêghen (1999), Mỹ học tập 1 Nxb văn học, Hà Nội.
50. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, Nxb Mũi Cà Mau.
51. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
52. Đặng Trọng Hộ (1997), Hồn quê Việt Nam trong thơ Nguyễn Bính, Luận văn thạc sĩ
ngữ văn, Trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
53. Nguyễn Thái Hòa (1994), Đi tìm cái mới trong biểu đạt thơ Việt Nam hơn nửa thế kỉ
qua, Tập chí văn học số 7.
54. Mai Hương (2000), Hành trình cách mạng - Hành trình thơ, Tạp chí văn học số 12.
55. Mai Hương (2001), Thơ Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh cách mạng, Tạp chí văn
học số 6.
56. Bùi Công Hùng (1982), Góp phần tìm hiểu câu thơ, Luận văn tiến sĩ ngữ văn, Viện
văn học, Hà Nội.
57. Bùi Công Hùng (2000), Sự cách tân thơ văn Việt Nam hiện đại, Nxb Văn Hóa Thông
Tin, Hà Nội.
58. Bùi Công Hùng (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội.
59. Đoàn Trọng Huy (1995), Thời gian nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Tạp chí Văn học số
11.
60. R.Jakobson (1996), Thơ là gì?, Tạp chí văn học số 12.
61. Nguyễn Thị Dư Khánh (1995), Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp, Nxb
Giáo Dục, Hà Nội.
62. Lê Đình Kỵ (1969), Đường vào thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.
156
63. M.Khrapchenkô (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, Nxb
Tác phẩm mới, Hà Nội.
64. Chu Lai (1994), Nghĩ về một hơi văn vùng sông nước, Tạp chí văn học số 4.
65. Mã Giang Lân (1995), "Đặc trưng thẩm mỹ của thơ 45 - 54", Thơ Việt Nam 1945 -
1954, Nxb Giáo Dục, tr. 1-60.
66. Mã Giang Lân (1997), Tuyển tập Tế Hanh (2 tập), Nxb Văn hóa Hà Nội.
67. Mã Giang Lân (2000), Chữ và nghĩa trong thơ, Tạp chí văn học số 4.
68. Mã Giang Lân (2000), Tế Hanh về tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo Dục.
69. Mã Giang Lân (2001), Thơ kháng chiến chống thực dân Pháp những định hướng -
những bước đi, Tạp chí văn học số 3.
70. Mã Giang Lân (2001), Thơ Tế Hanh những lời bình, Nxb Văn Hóa Thông Tin, Hà
Nội.
71. Mã Giang Lân (2000), Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
72. Vĩnh Quang Lê (1997), Tế Hanh nhà thơ của hy vọng, Báo văn nghệ số 31.
73. Nguyễn Tấn Long (2000), "Tế Hanh", Việt Nam thi nhân tiền chiến toàn tập, Nxb Văn
Hóa, Hà Nội, tr. 1664-1672.
74. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb
Giáo Dục, Hà Nội,
75. Ngô Quân Miện (2000), Thơ Tế Hanh chặng đường cuối thế kỷ, Báo Văn nghệ số 40.
76. Đỗ Thái Minh (1995), Tinh xứ sở quê hương, Báo văn nghệ số 17.
77. Nguyễn Thị Hồng Nam (1996), Thời gian nghệ thuật trong thơ (thơ mới 1932 - 1945),
Tạp chí văn học số 6.
78. Nguyễn Thị Hồng Nam (1999), Quan niệm nghệ thuật của các nhà thơ thuộc phong
trào thơ mới 1932 - 1945, Luận văn tiến sĩ ngữ văn, Thành phố Hồ Chí Minh.
157
79. Anh Ngọc (2000), Từ thơ đến thơ, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
80. Bùi Văn Nguyên (1971), Các thể thơ ca và sự phát triển của hình thức thơ ca trong
văn học Việt Nam, Nxb Khoa Học Xã Hội.
81. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1999), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại, Nxb
Thành Phố Hồ Ghi Minh.
82. Phùng Quý Nhâm (1991), Thẩm định văn học, Nxb Văn Nghệ, Thành phố Hồ Chí
Minh.
83. Nhiều tác giả (1996), Một thời đại mới trong văn học, Nxb Văn học.
84. Nhiều tác giả (1999), Thơ mới 1932 - 1945 tác giả và tác phẩm, Nxb Hội Nhà Văn, Hà
Nội.
85. Nhiều tác giả (2000), Bàn về thơ: đến với bài thơ hay, Nxb Văn Hoá Thông Tin Hà
Nội.
86. Bùi Mạnh Nhi (1998), Thời gian nghệ thuật trong ca dao- dân ca trữ tình, Tạp chí văn
học số 4.
87. Lê Lựu Oanh (1991), Sự thức tỉnh những nhu cầu xã hội và cá nhân của cái tôi trữ tình
trong thơ hiện nay, Tạp chí văn học 4.
88. Lê Lựu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nam 1975 - 1990, Nxb Đại Học Quốc Gia, Hà
Nội.
89. Phan Diễm Phương (1988), Thơ lục bát ở một thế hệ nhà thơ hiện đại, Tạp chí văn học
số 2.
90. Phan Diễm Phương (1998), Lục bát và song thất lục bát, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà
Nội.
91. Phan Diễm Phương (2000), Lời giãi bày của văn chương, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà
Nội.
92. Ngô Văn Phú (2000), Tuyển tập thơ Việt Nam 1975 - 2000, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
158
93. Ngô Văn Phú (2000), Văn chương và người thưởng thức, Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội.
94. G.N.Pôxpêlôp (1998), Dân luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
95. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học. Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh.
96. Trần Đình Sử (1994), Hành trình thơ Việt Nam hiện đại, Báo văn nghệ số 41.
97. Trần Đình Sử (1995), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
98. Trần Đình Sử (2001), Những thế giời nghệ thuật thơ, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
99. Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam (1987), Lý luận văn học, Nxb Giáo
Dục.
100. Vũ Văn Sỹ (1995), Thơ 1975- 1995 biến đổi của thể loại, Tạp chí văn học số 4.
101. Vũ Văn Sỹ (1996), Yếu tố tự sự trong thơ trữ tình Việt Nam từ sau 1945, Luận văn tiến
sĩ ngữ văn, Hà Nội.
102. Vũ Văn Sỹ (1999), Về một đặc trưng thi pháp thơ Việt Nam 1945 - 1995, Nxb Khoa
Học Xã Hội, Hà Nội.
103. Vũ Văn Sỹ (2000), Thơ Việt Nam trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc, Tạp
chí văn học số 12.
104. Vũ Văn Sỹ (2000), Thơ cách mạng 1930- 1945 bước chuẩn bị ban đầu của nền văn
học mới, Tạp chí văn học số 2.
105. Hữu Thỉnh (2000), Nhìn lại văn học thế kỉ XX; nhập cuộc và hành động vẻ đẹp của
thơ ca kháng chiến, Tạp chí văn học số 2.
106. Hoài Thanh, Hoài Chân (2000), Thi Nhân Việt Nam, Nxb Văn Học, Hà Nội.
107. Nguyễn Bá Thành (1995), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Văn Hóa,
Hà Nội.
108. Trần Khánh Thành (1996), Huy Cận với sự cảm nhận thời gian, Tạp chí văn học số 10.
159
109. Trần Khánh Thành, Lê Dục Tú (2001), Huy Cận về tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo
Dục, Hà Nội,
110. Lưu Khánh Thơ (1995), Nghệ thuật cấu tứ trong thơ tình Xuân Diệu, Tạp chí văn học
số 4.
111. Hoàng Trung Thông (1986), Cảm hứng và cảm xúc trong thơ, Tạp chí văn học số 3.
112. Vũ Duy Thông (2000), Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945- 1975, Nxb
Giáo Dục.
113. Lý Hoài Thu (1996), Thế giới không gian nghệ thuật của Xuân Diệu qua Thơ thơ và
Gửi hương cho gió, Tạp chí văn học số 1.
114. Đỗ Lai Thúy (2000), Mắt thơ, Nxb Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội.
115. Đỗ Lai Thuý (1990), Huy Cận sự khắc khoải không gian, Tạp chí văn học số 5.
116. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ Thành Phố Hồ Chí Minh.
117. Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc gia (1995), Cách mạng kháng chiến
và đời sống văn học 1945 - 1954, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.
118. Võ Văn Trực (1998), Gương mặt những nhà thơ, Nxb Văn Hóa.
119. Cù Đình Tú (1983), Phong cách học và các đặc điểm tu từ Tiếng Việt, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp.
120. Bùi Quang Tuyến (2001), Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật trong thơ Việt Nam hiện
đại, Luận văn tiến sĩ ngữ văn, Thành phố Hồ Chí Minh.
121. Trần Đăng Xuyền (1998), Về một đặc điểm của thơ Việt Nam từ 1955 đến 1975, Tạp
chí văn học số 9.
160