ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------------- o0o ----------

NGUYỄN THỊ MỸ GIÁ TRỊ VÀ VỊ TRÍ TẬP THƠ "VIỆT BẮC"

TRONG HÀNH TRÌNH THƠ TỐ HỮU

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ : 60.22.34: LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

m· sè : 60. 22. 34

Người hướng dẫn khoa học: GS. Phong Lê

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. Phong Lê

Thái Nguyên - 2009

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến GS. Phong Lê, thầy đã tận

tình giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian làm luận

văn tốt nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ Văn, cùng gia

đình, bạn bè người thân đã tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận văn này.

Thái Nguyên, ngày... tháng... năm 2009

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Nguyễn Thị Mỹ

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ 2

2.1. Những bài nghiên cứu về thơ Tố Hữu nói chung ......................... 2

2.2. Những bài nghiên cứu về các tập thơ của Tố Hữu ........................ 3

2.3. Xung quanh tập thơ "Việt Bắc" .................................................... 4

2.4. Khảo sát văn bản tập thơ Việt Bắc ............................................... 6

3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................ 10

5. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 10

6. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 10

7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................... 10

Chƣơng 1: "VIỆT BẮC" TRONG NỀN THƠ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 ............ 11

1.1. Tổng quan về thơ Việt Nam 1945 đến 1954....................................... 11

1.2. Con đường thơ Tố Hữu từ tập thơ Từ ấy sang tập thơ Việt Bắc ......... 18

1.2.1. Từ tập thơ "Từ ấy"... ............................................................. 18

1.2.2... đến tập thơ "Việt Bắc" ......................................................... 21

Chƣơng 2: GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA TẬP THƠ“ VIỆT BẮC” ................................... 25

2.1. Khát vọng và niềm vui giải phóng Đất nước qua các chặng đường .... 25

2.1.1. Cách mạng Tháng Tám năm 1945.......................................... 25

2.1.2. Kháng chiến chín năm ............................................................ 27

2.1.3. Chiến thắng Điện Biên phủ ..................................................... 29

2.2. Cái "tôi" tác giả gắn với cái "ta"quần chúng trong bức tranh nhân dân

kháng chiến .............................................................................................. 31

2.2.1. Hình ảnh người lính ................................................................ 31

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

2.2.2. Hình ảnh người phụ nữ ........................................................... 45

2.3. Tình yêu quê hương đất nước ............................................................ 53

2.4. Tình cảm gắn bó với lãnh tụ và quê hương cách mạng ...................... 59

Chƣơng 3: GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TẬP THƠ “ VIỆT BẮC” ............................ 72

3.1. Sự gắn bó khăng khít giữa tính dân tộc và tính đại chúng .................. 72

3.1.1. Thể thơ, câu thơ ...................................................................... 72

3.1.2. Nhạc điệu ................................................................................ 78

3.1.3. Ngôn ngữ, hình ảnh ................................................................ 88

3.1.4. Niêm luật và vần ..................................................................... 92

KẾT LUẬN................................................................................................................... 100

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 102

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

3.2. Sự kết hợp giữa tính dân tộc và âm hưởng hiện đại ........................... 96

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Tố Hữu là tác gia có vị trí đặc biệt trong nền thơ ca cách mạng Việt

Nam thế kỷ 20. Trong hơn nửa thế kỷ qua, thơ ông gắn liền với các giai đoạn, các

mục tiêu của cuộc đấu tranh cách mạng, có sức cổ vũ to lớn với đông đảo quần

chúng và thu hút sự quan tâm sâu sắc của giới phê bình, nghiên cứu văn học ở

Việt Nam. Bộ tuyển tập Tố Hữu - Về tác giả và tác phẩm, do Nhà xuất bản Giáo

dục in năm 2003 gồm 929 trang, thuộc loại lớn nhất, đã tuyển chọn những bài

viết, những công trình nghiên cứu về giá trị tư tưởng, giá trị giáo dục và giá trị

nghệ thuật trong thơ ông.

Thế nhưng sau khi chiến tranh kết thúc (1975), cho đến khi đất nước bước

sang thời kỳ đổi mới dường như thơ Tố Hữu có nhạt dần đi vị trí và vai trò của

mình trong nền thơ ca dân tộc. Từ tập thơ Một tiếng đờn (1992), cho đến Ta với

ta (2000) trong đời sống học đường hầu như không có một luận văn nào nghiên

cứu về thơ ông. Các tác phẩm trước đó trong hành trình sáng tác của ông cũng ít

được nhắc tới. Để bù đắp vào chỗ trống thiếu đó chúng tôi muốn góp một phần

nhỏ bé để nhìn nhận lại giá trị của thơ Tố Hữu nói chung và tập thơ Việt Bắc nói

riêng trong nền thơ ca dân tộc.

1.2.Trong hành trình thơ Tố Hữu, tập thơ Việt Bắc (1954) và tập thơ Từ ấy

lúc tái bản lần thứ nhất (1959), đã tạo nên hai cuộc tranh luận sôi nổi trong giới

sáng tác và phê bình. Đáng chú ý là cuộc tranh luận về tập thơ Việt Bắc diễn ra

ngay sau 1954, với những ý kiến nghiêng về phủ định nhằm hạ thấp giá trị thơ Tố

Hữu, trên vấn đề đánh giá giá trị hiện thực, tính giai cấp, tính đảng của tập thơ, và

cũng có nhiều ý kiến khẳng định giá trị cơ bản của tập Việt Bắc theo chiều hướng

ngược lại. Do vậy chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu để định lại giá trị của tập thơ với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

tiêu đề: Giá trị và vị trí của tập thơ" Việt Bắc" trong hành trình thơ Tố Hữu.

1

1.3. Tôi được sinh ra và lớn lên ở chiếc nôi quê hương cách mạng, gắn

với cảnh quan thiên nhiên, và những con người bình dị đã làm nên lịch sử. Đó

là mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào; là rừng cọ, đồi chè, bến nước Bình

Ca…những địa danh in đậm dấu ấn lịch sử của dân tộc ta trong chín năm

kháng chiến chống thực dân Pháp. Lịch sử nơi đây đã trở thành kỷ niệm gắn

bó sâu nặng với Tố Hữu, và được kết đọng lại trong các vần thơ của ông, trước

hết là tập thơ Việt Bắc.

Là người con của quê hương cách mạng, và là giáo viên một trường phổ

thông mang tên địa danh lịch sử Tân Trào, tôi rất yêu thích và có nhiều cảm xúc

đối với thơ Tố Hữu, đặc biệt là tập thơ Việt Bắc, bởi ông đã ghi lại một cách chân

thực những nét đẹp mộc mạc, giản dị của con người và cảnh quan thiên nhiên một

miền sơn cước - nơi tôi sống và công tác. Vì vậy nếu đề tài được thực hiện thành

công, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần để tác phẩm Việt Bắc mãi mãi nhận được

sự đón đợi và mến mộ của đông đảo bạn đọc, trong đó có người đọc là các thế hệ

trẻ của quê hương tôi.

2. Lịch sử vấn đề

Trong hơn năm thập kỷ qua, thơ Tố Hữu đã trở thành một đối tượng

nghiên cứu lớn của giới học thuật, thu hút đông đảo các nhà nghiên cứu, phê bình

tên tuổi.

2.1. Những bài nghiên cứu về thơ Tố Hữu nói chung

Ngay từ khi thơ Tố Hữu mới xuất hiện rải rác trên báo chí cách mạng vào

những năm cuối thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương, cùng với sự đón nhận

nồng nhiệt của công chúng, giới văn học cách mạng đã đánh giá cao thơ ông.

Trong bài viết đầu tiên giới thiệu về thơ Tố Hữu ( báo Mới, số 1, ngày 1-5-1939)

tác giả K và T đã khẳng định:“ Thơ Tố Hữu là cả một nguồn sinh lực đem phụng

sự cho lý tưởng”, “ Với Tố Hữu, chúng ta có một nhà thơ cách mạng có tài”, “nhà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

thơ chiến sĩ”, “ nhà thơ của tương lai”…

2

Từ sau 1954 cho đến sau 1975, có rất nhiều bài viết về thơ Tố Hữu. Đặc

biệt có ba công trình biên khảo chuyên sâu về thơ ông. Đó là: Thơ Tố Hữu của Lê

Đình Kỵ (1979), Thơ Tố Hữu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí của

Nguyễn Văn Hạnh (1985) và Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử (1987). Hai

công trình đầu tiếp cận thơ Tố Hữu theo phương pháp truyền thống, kết hợp khảo

cứu công phu, khoa học với cảm thụ nghệ thuật tinh tế. Hai tác giả đã lần đầu tiên

nghiên cứu thơ Tố Hữu như một chỉnh thể toàn vẹn, có hệ thống, với nhiều phát

hiện và đánh giá quý báu theo phương pháp nghiên cứu mác xít.

Công trình Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử tiếp cận thơ Tố Hữu

theo hướng thi pháp học đem đến những cảm nhận và đánh giá mới mẻ về thơ Tố

Hữu khác với cách phân tích truyền thống.

Hà Minh Đức, cũng là một người bền bỉ, chuyên tâm nghiên cứu về thơ

Tố Hữu qua hai Lời giới thiệu công phu cho hai Tuyển tập thơ Tố Hữu vào các

năm 1979 (Nxb Văn học) và 1995 ( Nxb Giáo dục).

Ngoài ra còn có rất nhiều bài nghiên cứu về thơ Tố Hữu ở trong và ngoài

nước, tiêu biểu như của Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông,

Nguyễn Đăng Mạnh, Vũ Đức Phúc,...Nhìn chung các bài nghiên cứu đều có sự

nhìn nhận đánh giá những giá trị cơ bản và nổi bật của thơ Tố Hữu.

2.2. Những bài nghiên cứu về các tập thơ của Tố Hữu

Từ tập thơ đầu tay Từ ấy, đến các tập Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và

Hoa,…đã có hàng trăm bài viết, công trình nghiên cứu phê bình phong phú, đa

dạng dọc theo đời thơ Tố Hữu suốt nửa thế kỷ qua.

Tập thơ Từ ấy có các bài viết tiêu biểu của Đặng Thai Mai, Phan Cự Đệ,

Vũ Đức Phúc, Hoài Thanh,…

Tập thơ Việt Bắc có các bài viết tiêu biểu của Vũ Đức Phúc, Hoài Thanh,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Hoàng Trung Thông,..

3

Tập thơ Gió lộng có các bài viết tiêu biểu của Hoài Thanh, Lê Đình Kỵ,

Nguyễn Văn Long, Hà Xuân Trường…

Các tập thơ khác có các bài viết của Hà Minh Đức, Nguyễn Văn Hạnh,

Hoài Thanh, …

2.3. Xung quanh tập thơ "Việt Bắc"

Có nhiều bài phê bình, đánh giá về tập Việt Bắc, đặc biệt xuất hiện tập

trung trong cuộc tranh luận diễn ra vào năm 1954- 1955 với hai luồng cảm hứng.

Luồng cảm hứng phủ định với những bài viết của Hoàng Yến, Hoàng Cầm, Lê

Đạt… Hoàng Yến phủ định“chủ nghĩa hiện thực trong tập thơ Việt Bắc". Nhận

xét về bài thơ Bắn Hoàng Yến viết:“ Tác giả đã tổng kết sự việc trên tài liệu chứ

chưa kinh qua thực tế của cuộc sống để tổng kết chất thơ”. “ Khi Tố Hữu nói về

cái Việt Bắc oai hùng, cái đất thần thánh, thiêng liêng của cách mạng thì hơi thơ

đuối, khí thơ đoản, cái nhiệt tình nóng cháy trên kia tưởng như giảm sút đi”...

Cũng như Hoàng Yến, Hoàng Cầm nhận xét:“ Tập thơ Việt Bắc thiếu chất sống

thực tế”, là“ thùng nước loãng”, là“ không hiện thực”, cụ thể khi nhận xét về bài

Cá nước Hoàng Cầm viết: “Tình cảm gặp gỡ giữa anh cán bộ và anh bộ đội cũng

chỉ nhẹ nhàng lớt phớt”. Ở bài Bắn“ Bài thơ tuy có vẻ sôi nổi giục bắn, mà thực ra

bàng quan lạnh lùng”… Lê Đạt nhận xét:“ Tính chất tiểu tư sản và xa thực tế là

hai khuyết điểm căn bản nó cản trở khả năng hiện thực của Tố Hữu. Nó là nguyên

nhân của cái buồn, cái công thức, cái hời hợt rải rác trong tập thơ".

Bác lại các ý kiến trên là những bài viết khẳng định giá trị cơ bản và nổi

bật của tập thơ Việt Bắc, như của Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, Vũ Đức Phúc,

Xuân Diệu,… cùng một số bạn đọc. Vũ Đức Phúc nhận xét về tập thơ Việt Bắc,

cụ thể bài thơ Em bé Triều Tiên “những dòng thơ của Tố Hữu, ngoài việc tả

những cảnh thảm thiết, điển hình, có thực, cũng không có một chữ nào nói quá đi

để làm cho người đọc ghê rợn”. Hoài Thanh khẳng định “Cả tập thơ Việt Bắc xây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

dựng trên một tình yêu lớn: tình yêu nước. Giá trị tập thơ, tác dụng tập thơ là ở

4

đó”. Nguyễn Đình Thi cũng đánh giá cao thơ Tố Hữu“ Thơ Tố Hữu đi vào thực

tế quần chúng”. Xuân Diệu rất nhạy cảm để chỉ ra nét riêng của thơ Tố Hữu là“

Tiếng thơ của tình thương mến” làm nên“ hương vị của thơ Tố Hữu” và là nét

chủ đạo trong phong cách nghệ thuật của ông.

Cuộc thảo luận kết thúc với bài tổng kết của Hoàng Trung Thông về tập

thơ Việt Bắc ( Báo Nhân dân, 11-1955).

Năm 2005, Lại Nguyên Ân tập hợp những bài viết trong cuộc thảo luận,

thành một ấn phẩm sưu tầm và biên soạn có tên: Tư liệu thảo luận 1955 về tập

thơ" Việt Bắc".

Nhìn chung, trong quan niệm văn học và cách phê bình lúc này, tính chất

xã hội học là nét khá đậm, ở cả những ý kiến đề cao lẫn những ý kiến hạ thấp giá

trị tập thơ. Qua hai luồng cảm hứng phủ định và khẳng định giá trị cơ bản của tập

thơ, ta thấy những bài viết mang quan điểm phủ định quy chiếu tác phẩm văn học

vào các nội dung xã hội, chính trị, đồng nhất văn học với chính trị, vận dụng quan

điểm giai cấp một cách máy móc để phân tích văn học. Thậm chí đôi khi còn

cường điệu, không nói đúng những gì tác phẩm vốn có, dẫn đến nhận định mang

tính chủ quan cho rằng thơ Tố Hữu là“ bản chất tiểu tư sản cách mạng, chủ nghĩa

ái quốc trong tập thơ Việt Bắc là chủ nghĩa ái quốc lãng mạn tiểu tư sản”.

Trong cuộc thảo luận này ngoài hai luồng ý kiến ngược nhau như trên,

cũng đã có nhiều bài phê bình thực sự có giá trị, khám phá và phân tích những giá

trị nổi bật của tập thơ Việt Bắc. Để nhìn nhận đúng giá trị, vị trí của tập thơ, ta

phải đặt tập thơ trong hoàn cảnh lịch sử xã hội lúc đó. Cụ thể là trong thời kỳ

kháng chiến chống thực dân Pháp (1946- 1954), thơ Tố Hữu giữ một vị trí quan

trọng trong thơ kháng chiến, và được phổ biến rộng rãi, bởi thơ ông đáp ứng được

sớm nhất và tốt nhất cho hai yêu cầu cơ bản của văn học cách mạng và kháng

chiến- đó là dân tộc hoá và đại chúng hoá như đã được đặt ra trong Đề cương về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

văn hoá Việt Nam 1943; và hai phương châm: Cách mạng hoá tư tưởng và quần

5

chúng hoá sinh hoạt, trong những năm sau đó khi cả dân tộc bước vào cuộc

kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp. Trong nền thơ kháng chiến chống

Pháp không có một tên tuổi nhà thơ nào có được vị trí xứng đáng như nhà thơ Tố

Hữu. Các tác giả khác tên tuổi họ thường chỉ gắn với một hoặc vài bài thơ như

Hoàng Lộc với Viếng bạn, Hồng Nguyên với Nhớ, Tân Sắc với Lên Cấm Sơn,

Trần Hữu Thung với Thăm lúa, Hồ Vi với Lời quê, Quang Dũng với Tây

tiến…Riêng Tố Hữu là sự xuất hiện liên tục, đều đặn những bài thơ được quần

chúng yêu mến, cho đến bài thơ dài Việt Bắc được chọn làm tên chung cho tập

thơ gồm 37 bài được ấn hành ngay sau hoà bình lặp lại 1954.

2.4. Khảo sát văn bản tập thơ Việt Bắc

Tìm hiểu giá trị tập thơ Việt Bắc, trên từng bài riêng lẻ, hoặc chung cho cả

tập thơ, chúng ta không thể không kháo sát quá trình nhà thơ sửa chữa trên từng

bài, và thêm bớt qua mỗi lần tái bản; qua đó thấy nhà thơ đã dụng công như thế

nào để cho Việt Bắc luôn luôn đạt được sự hoàn thiện tối ưu trong tiếp nhận và

cảm xúc thẩm mỹ của người đọc. Chưa có điều kiện khảo sát kỹ tất cả các bài; ở

đây chúng tôi mới chỉ nêu hai trường hợp ghi nhận sự sửa chữa cẩn trọng của tác

giả, từ khi in báo, và được đưa vào sách- đó là bài Lên Tây Bắc và bài Lượm.

● Bài Lên Tây Bắc, đăng lần đầu trên Tạp chí Văn nghệ (số 8, 9 ), tháng 1,

2 năm 1949; với mở đầu:

Các anh đi trước, tôi đi sau

Cũng lá che lưng lá lợp đầu

Bỡ ngỡ anh trông người lính lạ

Theo anh không biết để đi đâu

Sáng nay ra trận lên Tây Bắc

Hai đứa ta cùng đi đánh giặc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Tay anh cắp súng vai đeo dao

6

Tôi có gì đâu, chỉ cái xắc

Tôi đi như đứa trẻ thơ ngây

Được mẹ cho theo dự cỗ đầy...

Khi đưa vào tập thơ Việt Bắc, theo văn bản in xong ngày 15.4.1955 bốn

câu thơ đầu đã bị lược bỏ và sáu câu thơ sau rút lại còn bốn câu thơ:

Sáng nay ra trận lên Tây Bắc

Hai đứa ta cùng đi đánh giặc

Tay dao tay súng, gạo đầy bao

Chân cứng đạp rừng gai đá sắc.

● Bài Lượm, đăng lần đầu trên báo Cứu quốc ngày 15.4.1948, với đoạn mở

đầu như sau:

Cháu Nha Trang ra

Gặp chú ở Huế

Chú hỏi : Còn ba?

Cháu rằng: Mặc kệ !

Cháu không thương ba?

Có. Nhưng ba sợ

Ba chẳng chịu ra

Ba làm cho nó.

Cháu theo ông nội

Cháu lên Xuân Trường

Ông theo bộ đội

Ông nội, cháu thương!

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Rồi Huế đổ máu...

7

Khi đưa vào tập Việt Bắc theo văn bản in xong ngày 15.4.1955, thì 12 câu

thơ đầu được cắt bỏ và bài thơ được bắt đầu từ câu thơ:

Ngày Huế đổ máu

Chú Hà Nội về

Tình cờ chú cháu

Gặp nhau Hàng Bè...

Phần cuối bài Lượm in xong ngày 15.4.1948 như sau:

Thư đề "thượng khẩn"

Chú ngã : Ruột phèo

Chú đã chết

Chết.

Chết thật rồi...

Lượm ơi!

A chú cười

Híp mí

Chú đồng chí

Chắc bây giờ

Chú nửa ngờ

Chú chưa biết

Chú chết...

Chú bé loắt choắt

Phần cuối bài Lượm in xong ngày 15.4.1955 được thay bằng một đoạn thơ khác:

Vụt qua mặt trận

Đạn bay vèo vèo

Thư đề" Thượng khẩn"

Sợ chi hiểm nghèo!

Đường quê vắng vẻ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Lúa trổ đòng đòng

8

Ca- lô chú bé

Nhấp nhô trên đồng...

Bỗng loè chớp đỏ

Thôi rồ, Lượm ơi!

Chú đồng chí nhỏ

Một dòng máu tươi!

Cháu nằm trên lúa

Tay nắm chặt bông

Lúa thơm mùi sữa

Hồn bay giữa đồng.

Lượm ơi còn không?

● Số lượng bài của Việt Bắc từ lần in đầu đến các lần in sau cũng có thay đổi.

* Văn bản in xong ngày 15.4.1955, gồm 24 bài thơ.

* Văn bản in xong tháng 12 năm 1998, gồm 27 bài thơ.

- Thêm: 7 bài thơ ( Đêm xanh, Tình khoai sắn, Trường tôi, Lạnh lạt, Sợ, Bà

bủ, Mưa rơi)

- Bỏ : 4 bài thơ ( Em bé Triều Tiên, Bao giờ hết giặc, Bài ca tháng Mười,

Đời đời nhớ Ông)

Nhìn vào sự thay đổi này, chúng ta cũng có thể thấy những biến động lớn

của thời cuộc đã quy định chặt chẽ giá trị của tác phẩm như thế nào.

Trên đây là khảo sát bước đầu của chúng tôi (chưa thật đầy đủ) về văn bản

tập thơ Việt Bắc đã được in và sửa chữa ở những thời gian khác nhau. Khi nghiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

cứu chúng tôi dựa theo văn bản in xong tháng 12 năm 1998.

9

3. Mục đích nghiên cứu

Luận văn nhằm chỉ rõ những giá trị về nội dung và nghệ thuật của tập

thơ Việt Bắc, đồng thời khẳng định vai trò của tập thơ Việt Bắc trong nền thơ

ca kháng chiến chống Pháp và rộng ra là nền thơ ca hiện đại Việt Nam.

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

Để thực hiện luận văn, chúng tôi đã được tham khảo và nghiên cứu các tài

liệu sau.

- Toàn bộ thơ ca kháng chiến chống Pháp (1945- 1954)

- Tập thơ Việt Bắc từ văn bản 1 đến văn bản cuối cùng.

- Trong khi tập trung khảo sát tập thơ Việt Bắc, chúng tôi chú ý hai tập thơ

có mối liên hệ kề cận là tập thơ Từ ấy và tập thơ Gió lộng.

- Các công trình, bài viết xung quanh giá trị tập thơ Việt Bắc và về thơ Tố

Hữu nói chung.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Luận văn chỉ ra những giá trị nội dung và nghệ thuật của tập thơ Việt Bắc.

- Khẳng định vị trí của tập thơ trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam.

6. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp so sánh- đối chiếu.

- Phương pháp phân tích- tổng hợp.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn có cấu trúc gồm 3 chương:

Chương 1: Việt Bắc trong nền thơ Việt Nam từ 1945->1954.

Chương 2: Giá trị nội dung của tập thơ Việt Bắc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Chương 3: Giá trị nghệ thuật của tập thơ Việt Bắc.

10

CHƢƠNG I

"VIỆT BẮC" TRONG NỀN THƠ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954

1.1. Tổng quan về thơ Việt Nam 1945 đến 1954

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chấm dứt ngót tám mươi năm nô lệ

dưới ách chủ nghĩa thực dân Pháp, mở ra một kỷ nguyên mới- kỷ nguyên Độc lập

Tự do cho dân tộc. Đồng thời giải phóng cho văn học thoát khỏi những quẩn

quanh, bế tắc, chán chường, tuyệt vọng, đem lại một nguồn cảm hứng sáng tạo

lớn lao cho thơ ca. Trước hết đó là nguồn cảm hứng giải phóng, hồi sinh. Trong

bầu không khí những ngày đầu cách mạng, hầu hết các nhà thơ từ các xu hướng

nghệ thuật khác nhau đã tập hợp dưới ngọn cờ cách mạng. Chưa nhiều ý thức

nhưng lại rất nhiều cảm xúc, bằng sự nhạy cảm của người nghệ sĩ, các nhà thơ đã

nhanh chóng nhận ra ý nghĩa lớn lao của thời điểm lịch sử đánh dấu sự hồi sinh dân

tộc trong độc lập tự do.

Cảm hứng nổi bật và bao trùm thơ ca thời kỳ này là niềm vui sướng, tự hào

đến mức say mê, nồng nhiệt trước cuộc“ tái sinh mầu nhiệm”( chữ dùng của Hoài

Thanh) của đất nước và con người Việt Nam. Nguồn sống của thời đại mới khơi

dậy sức sáng tạo cho các nhà thơ. Với hai khúc tráng ca Ngọn quốc kỳ, Hội nghị

non sông, Xuân Diệu đã mở ra chặng đường thơ cách mạng trong sự nghiệp sáng

tác của mình. Với Tố Hữu, nhà thơ hàng đầu của nền thơ cách mạng, thì thắng lợi

của Cách mạng Tháng Tám là một luồng gió lớn cuốn mạnh hồn thơ lên đỉnh cao

của cảm hứng lãng mạn sôi trào. Hơn bất cứ nhà thơ nào khác, ở tác giả Từ ấy, đó

là niềm vui lớn như được dồn tụ vào một điểm hẹn không gian và thời gian: Huế

Tháng Tám (1945). Một năm sau, hòa trong dòng người cuồn cuộn của đêm hội

hoa đăng giữa lòng Hà Nội chào đón một năm ngày độc lập, Tố Hữu lại tràn ngập

một niềm Vui bất tuyệt (1946). Trần Mai Ninh cũng là một cây bút tài năng, giàu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

nhiệt huyết từ thời kỳ Mặt trận Dân chủ. Nhà thơ da diết những cảm xúc về Tổ

11

quốc trong Tình sông núi, dữ dội trong Nhớ máu."Trần Mai Ninh người đón trước

và làm kết đọng hai tình cảm lớn của dân tộc, cũng là người đi đầu và sớm nhất

trong việc tự do hóa và làm mới câu thơ..."( Lưu Khánh Thơ )

Đứng trước sự đe dọa của thù trong giặc ngoài, nền thơ ca mới đã thể hiện

rõ nhiệt tình yêu nước chiến đấu, cổ động toàn dân tham gia vào công cuộc dựng

nước và giữ nước, đả kích các thế lực tay sai phản động đang điên cuồng tấn công

chính quyền cách mạng. Nền thơ kháng chiến đã thực sự bắt đầu cùng với khí thế

giết giặc cứu nước và phong trào Nam tiến sôi nổi ngay sau khi thực dân Pháp

quay lại xâm lược Miền Nam. Theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, cả nước bước

vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp. Trên chặng đường chín

năm ấy, thơ ca đã góp phần tích cực vào công cuộc kháng chiến của dân tộc và

xây dựng nên nền móng vững chắc và hết sức cơ bản cho sự phát triển của nền

thơ ca hiện đại.

Trong nền thơ ca kháng chiến, thơ Hồ Chủ tịch có vị trí và ý nghĩa tiêu

biểu. Thơ Bác hướng tới mọi tầng lớp quần chúng nhân dân, khơi dậy sức mạnh

của toàn thể dân tộc. Trong lời kêu gọi của vị lãnh tụ như đã vang vọng lời đáp

của nhân dân. Những bài thơ trữ tình của Bác trong kháng chiến, kết thành chùm

thơ đặc sắc, mở ra một thế giới phong phú, những xúc động tâm tình của vị lãnh

tụ cách mạng, của nhà thơ trong một bối cảnh không gian và lịch sử rộng lớn: đất

nước kháng chiến, thiên thiên đất nước hiện lên đẹp đẽ với những rung cảm trữ

tình, nhưng trung tâm của khung cảnh vẫn là con người, là hình ảnh cuộc kháng

chiến: một tiếng chuông báo tin thắng trận, đội quân du kích đánh giặc trở về, tin

báo tiệp dập dồn chân ngựa...Thơ Bác là sự kết tinh cao nhất hiện thực kháng

chiến, tinh thần kháng chiến.

Cả dân tộc bước vào cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện suốt chín năm

để giành lại và bảo vệ chủ quyền, độc lập của dân tộc. Cũng như mọi lĩnh vực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

hoạt động văn hóa tinh thần khác, thơ ca đã được huy động vào cuộc chiến đấu

12

của nhân dân, trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của

con người Việt Nam kháng chiến. Hoài Thanh nhận xét:" Con người kháng chiến

lo lắng, hồi hộp, chờ đợi, hy vọng, phấn khởi, sống dồn trong một hai năm nhiều

hơn những cuộc sống nhạt kéo dài trong hàng thế kỉ. Do đó thấy cần phải có thơ.

Các nhà thơ làm thơ, anh cán bộ chính trị, anh thông tin, anh đội viên binh nhì,

các chị phụ nữ, các em thiếu nhi, hết thẩy đều làm thơ. Hầu hết những con người

mang ba lô lặng lẽ đi trên các nẻo đường kháng chiến, trong một cuốn sổ tay nào

đó cũng có ít bài thơ, trong các buổi họp mặt, các buổi liên hoan... trên báo tay,

báo tường, thơ có khi lại còn nhiều hơn văn xuôi và thơ cũng là phần được công

chúng những tờ báo ấy đọc nhiều hơn cả. Trong cuộc chiến tranh nhân dân của

chúng ta, tiếng súng, tiếng nhạc, tiếng thơ, cùng hòa điệu".

Phong trào sáng tác thơ, ca dao, hò, vè của quần chúng phát triển sôi nổi và

rộng khắp: Có thơ của từng giới, từng ngành; có thơ bộ đội, thơ dân công, thơ

quân giới, thơ nông binh…; thơ kết thành từng mảng đề tài: thơ phát động, thơ

trong chiến dịch sông Thao, thơ chiến dịch Điện Biên Phủ… Phong trào thơ quần

chúng là cái nền vững chắc của thơ kháng chiến, là điểm tựa vạm vỡ nâng đỡ cho

mọi tìm tòi của nhà thơ. Hướng đi của thơ kháng chiến là nhằm theo cái hướng

sống chắc nịch được thể hiện giản dị và lành mạnh trong thơ ca quần chúng.

Trong phong trào thơ ca quần chúng nổi bật lên vai trò thơ bộ đội, thơ

“đội viên”, thơ của những người lính thực sự. Thơ trở thành một công cụ tự nhận

thức, tự giáo dục, trở thành một hình thức tuyên truyền đầy sức mạnh, khi người

đội viên, chiến sĩ, chủ yếu là những người lính nông dân ý thức được bản thân

mình, cũng ý thức được quyền làm chủ của mình. Và trong sinh hoạt, thơ bộ đội

đã diễn ra sự giao thoa và đan kết kỳ lạ giữa cuộc sống và văn thơ, giữa ý thức tự

giác và bản năng sáng tạo hồn nhiên, giữa chức năng giáo dục và chức năng giải

trí, giữa yêu cầu kháng chiến hóa văn hóa và yêu cầu văn hóa hóa kháng chiến mà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Hồ Chủ tịch đã đúc kết thành phương châm. Trong những năm đầu của nền thơ

13

ca dân chủ cộng hòa trẻ tuổi, thơ bộ đội, thơ của người lính là một phong trào thơ

sôi nổi mạnh mẽ, đóng vai trò khai phá, xung kích của nền thơ kháng chiến.

Phương châm dân tộc hoá, đại chúng hóa là xu hướng mà nhiều nhà thơ

đã tìm đến ngay từ những năm đầu của cuộc kháng chiến và nó sớm trở thành

khuynh hướng chủ đạo trong thơ ca giai đoạn này, đã thu hút nhiều cây bút thuộc

nhiều thế hệ khác nhau.

Thế hệ nhà thơ trước Cách mạng Tháng Tám cũng chuyển hẳn sang viết

những bài thơ theo lối thơ đại chúng. Xuân Diệu có Bà cụ mù lòa, Tặng làng

Còng và tập thơ Mẹ con được viết trong thời gian đi tham gia phát động quần

chúng ở Thanh Hóa. Chế Lan Viên viết Bữa cơm thường trong bản nhỏ, Nhớ lấy

để trả thù. Lưu Trọng Lư dựa trên các điệu dân ca hát giặm, để viết những bài O

tiếp tế, Tiếng hát tăng gia, Ngò cải đơm hoa... Nguyễn Bính ở Nam Bộ có hai bài

thơ dài Đồng Tháp Mười và Ông lão mài gươm. Tế Hanh kể chuyện Người đàn

bà Ninh Thuận…Ở thế hệ nhà thơ này diễn ra bước ngoặt chuyển biến với rất

nhiều dằn vặt đớn đau của một qúa trình “lột xác”. Mỗi nhà thơ đều gánh vác

những công tác kháng chiến với tinh thần công dân tích cực. Những chuyến đi

cùng dân công, cùng bộ đội, những đợt tham gia đấu tranh giảm tô và cải cách

ruộng đất, phương châm “cách mạng hóa tư tưởng, quần chúng hóa sinh hoạt”

được hưởng ứng một cách tự giác, đã từng bước làm chuyển biến tư tưởng và tình

cảm nhà thơ, tuy nhanh chậm khác nhau. Nhìn chung, ở lớp nhà thơ này, quá

trình nghiền ngẫm tìm tòi để đổi mới hồn thơ còn kéo dài trên suốt chặng hành

trình kháng chiến, có người viết nhiều, viết khỏe nhưng chưa thật nhuần nhuyễn;

có người viết còn cầu kỳ, rắc rối; có người viết rất ít, hoặc gần như im lặng. Điều

nhận ra ở đây là thơ của họ đã đến với cuộc sống, phản ánh tâm tư nguyện vọng

của quần chúng một cách chân thành. Tuy thành quả chưa nhiều, nhưng mỗi nhà

thơ đều có những bài thơ có ý nghĩa đánh dấu sự chuyển biến của nhận thức, xúc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

cảm và bút pháp, góp phần vào thành tựu chung của thơ ca cách mạng.

14

Bộ phận các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến sớm từng bước

khẳng định sức sáng tạo của mình. Họ đã đến được với tiếng nói trữ tình của quần

chúng và đóng góp cho thơ kháng chiến nhiều tác phẩm tiêu biểu. Hoàng Trung

Thông với tập Quê hương chiến đấu, Trần Hữu Thung với Đồng tháng năm và

Dặn con, Minh Huệ với bài Đêm nay Bác không ngủ, Hồng Nguyên với Nhớ, Hồ

Vi với Lời quê... Các nhà thơ dân tộc thiểu số như Nông Quốc Chấn, Bàn tài

Đoàn, và nhiều nhà thơ khác đã đem đến cho thơ kháng chiến tiếng thơ độc đáo,

hồn nhiên, mang bản sắc riêng của mỗi dân tộc... Phần lớn trong số họ được rèn

luyện và trưởng thành từ công tác kháng chiến, từ phong trào văn nghệ quần

chúng. Thực tế lớn lao của kháng chiến, vẻ đẹp lớn lao của những con người đánh

giặc là cảm hứng chủ đạo, thôi thúc họ cầm bút với những trang viết tràn đầy cảm

xúc về tình đồng chí, đồng đội, lòng yêu quê hương, tinh thần chiến đấu, trách

nhiệm công dân và lòng trung thành với Tổ quốc.

Thơ kháng chiến tập trung biểu hiện những tình cảm cộng đồng và tinh

thần công dân mà bao trùm là tình yêu nước, với những biểu hiện phong phú,

thấm sâu vào mọi mặt trong đời sống của con người kháng chiến. Thế giới của

cái"tôi" trở nên chật hẹp, thậm chí bị coi là lạc lõng, vô nghĩa khi nó không hòa

nhập vào cái "ta" cộng đồng. Con người kháng chiến sống với những biến cố dữ

dội, những sự kiện lịch sử, những rung động mạnh mẽ và mới lạ, họ chỉ thực sự

tìm thấy sức mạnh, niềm vui và niềm tin tưởng ở trong đội ngũ đông đảo của tập

thể, của giai cấp và dân tộc.

Cách mạng không chỉ giải phóng cho đông đảo quần chúng nhân dân mà

còn phải dựa hẳn vào lực lượng quần chúng, phát huy sức mạnh vĩ đại và tiềm

năng cách mạng của quần chúng để thực hiện những sự nghiệp lớn. Quần chúng

nhân dân, mà trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp chủ yếu là công nông binh,

đã trở thành nhân vật chính yếu của lịch sử, do đó trở thành những nhân vật chủ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

chốt và tiêu biểu của nền văn học mới. Trong thơ kháng chiến, hình ảnh con

15

người quần chúng đã xuất hiện ngay từ buổi đầu và ngày càng đông đảo, đa dạng,

chân thực. Làm biến đổi hẳn các dạng thức của cái "tôi" trữ tình và nhân vật trữ

tình trong thơ lãng mạn trước đây.

Cách mạng và kháng chiến đưa thơ trở về với hiện thực cuộc sống của đất

nước và nhân dân. Giúp các nhà thơ tìm thấy chất thơ trong cuộc sống hàng ngày,

trong sinh hoạt, lao động và đấu tranh của quần chúng. Con đường đi của phong

trào thơ mới trước Cách mạng là con đường thoát ly thực tại, tìm đến cảnh tiên

hay tìm về quá khứ vàng son và còn bao nhiêu những lối thoát ly khác nữa, trong

tình và mộng, trong vũ trụ siêu hình, hoặc trong cái "tôi" cô đơn, cô độc. Nhà thơ

của thời đại mới trước hết là một công dân, một cán bộ, hay chiến sĩ, sống với

cuộc đời thực, với mọi gian khổ, buồn vui, lo lắng, hy vọng của con người kháng

chiến, cùng với đông đảo mọi người. Đời sống như vậy đã tác động và làm biến

đổi cách nhìn, cách nghĩ, điệu cảm xúc của người làm thơ.

Các nhà thơ Việt Nam thời kỳ này tề tựu đông đủ trở thành một lực lượng

mạnh, tràn đầy khí thế sôi nổi, đem hết tâm hồn và nghị lực của mình hòa chung

vào dòng thác lớn thời đại, cố gắng nắm bắt hiện thực mới. Họ đã xây dựng nhiều

hình ảnh đẹp về anh bộ đội, những người lính giản dị mà vô cùng anh dũng; về

những người mẹ, người phụ nữ cần cù chịu khó và giàu lòng yêu thương; về

những em bé gan dạ, quên mình vì kháng chiến; về lòng biết ơn sâu sắc với Chủ

tịch Hồ Chí Minh; về những tên đất, tên làng, những trận đánh được phản ánh khá

chi tiết; về những sự việc, chính sách, đường lối kháng chiến được thể hiện khá

nhuần nhị, làm nên diện mạo mới cho nền thơ ca kháng chiến.

Trong nền thơ kháng chiến, tập thơ Việt Bắc là thành công lớn nhất, tiêu

biểu nhất." Chỉ có nhà thơ lớn mới có thể hiểu thấu chất thơ của thời đại mình vì

chất thơ của mọi thời đại trước đó bao giờ cũng dễ hiểu hơn"( H. Hainơ). Tố Hữu

là nhà thơ lớn trước hết theo ý nghĩa ấy. Vậy điều gì đã khiến nhà thơ có được sự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

thành công. Đó là: Ông tiếp thu truyền thống thơ ca dân gian, cổ điển của dân tộc,

16

một sự tiếp nhận sâu và đa diện, tiếp nhận một cách sáng tạo đầy bản lĩnh những

tinh hoa của thơ ca truyền thống, để góp phần diễn tả một cách sinh động những

tư tưởng, tình cảm mới của thời đại. Những sự kiện lịch sử, cảm xúc rất mới đã

được ghi lại trong tập thơ Việt Bắc với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, tự nhiên, chứa

đựng lối nói, lối nghĩ của quần chúng.

Ngòi bút của Tố Hữu tiến lên nối tiếp truyền thống của các nhà thi hào cổ

điển ở bút pháp hết sức tinh tế, chất trữ tình tha thiết, khêu gợi nhiều hơn diễn tả,

chữ đúc lại với nhau. Là nhà thơ tiếp thu những tinh hoa của các thế hệ nhà thơ

nổi tiếng từ trước 1945 như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Xuân Diệu, Huy

Cận, Lưu Trọng Lư...và thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến như

Chính Hữu, Hoàng Trung Thông, Trần Hữu Thung...Ông là người có tư cách

cùng lúc đại diện cho cả hai thế hệ nhà thơ trong sự gắn bó những gì ưu tú nhất.

Sự kế tục dòng thơ cách mạng của các chiến sĩ cộng sản, nhưng đã được

đổi mới trên cơ sở vận dụng những thành tựu hiện đại hoá thơ ca đương thời, đem

đến cho văn học cách mạng một tiếng thơ mới mẻ. Âm hưởng hùng tráng, trong

không khí lạc quan hừng hực đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng, hình ảnh,

ngôn ngữ, nhịp điệu câu thơ đều thể hiện tình cảm thiết tha gắn bó với non sông

đất nước và lòng căm thù giặc. Thơ giàu chất liệu hiện thực, cuộc sống đời

thường tràn vào thơ, và làm cho lời thơ gần gũi với tiếng nói hàng ngày, ở giọng

thơ tâm tình, ngôn ngữ giản dị của bản thân hiện thực. Những con người thật đi

vào thơ ông như những nguyên mẫu nhưng vẫn lung linh những nét sáng tạo của

riêng Tố Hữu. Nhà thơ học cách viết lấy người thực, việc thực làm hạt nhân tìm

tứ thơ trong đời sống của nhân dân.

Tố Hữu sử dụng những vần thơ 5 tiếng, 7 tiếng, các loại thơ tự do, cùng

với việc sử dụng vần liên tục... Tố Hữu đã nói: "Ở họ, Thế Lữ, Xuân Diệu, Chế

Lan Viên, Huy Cận, tôi đã học những sinh lực mới, những hình thức mới để biểu

hiện, những hình thức diễn đạt mới, một ngôn ngữ trực tiếp hơn, thơ hơn, nhân

tình hơn, uyển chuyển hơn". Nhưng cái khác là ở Tố Hữu còn có những nét mạnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

dạn, những điều đặc sắc mà người khác không thấy. Tác giả nhìn thẳng vào thực

17

tế, để tâm hồn mình rung cảm sâu sắc với thực tế, rồi nói lên cảm xúc ấy bằng

những lời tự nhiên, không kiểu cách, đầy sức mạnh của sự thật để diễn tả đúng

nguyện vọng, tâm tình của nhân dân.

Tố Hữu đã thực sự nắm bắt được chất thơ của thời đại và điều quan trọng

đã thể hiện được nó bằng nghệ thuật, thông qua sự sáng tạo riêng mình. Chất thơ

của hiện thực kháng chiến, Tố Hữu đã lĩnh hội được sớm nhất, nói lên được một

cách giản dị và thấm thía nhất. Xuân Diệu đã nói cảm tưởng của mình khi đọc bài

thơ Cá nước của Tố Hữu:" Tôi còn nhớ cái cảm tưởng đầu tiên của tôi khi đọc bài

thơ Cá nước trong số 1 này, một chất gì đó đã sinh ra, cái chất đó chỉ có thể sinh

ra được do tâm hồn người:" Tôi ở Vĩnh Yên lên- Anh trên Sơn Cốt xuống- Gặp

nhau lưng đèo Nhe- Bóng tre trùm mát rượi". Đó là chân thành, chân thành. Đó là

Tố Hữu, Tố Hữu. Chúng tôi, một số thi sĩ đã viết thơ từ trước Cách mạng Tháng

Tám, không phải là chúng tôi không biết sào nấu cho thơm điếc mũi lên, nhưng

chúng tôi đứng lặng trước cái chất tình người này: "Một thoáng lặng nhìn nhau-

Mắt đã tìm hỏi chuyện- Đôi bộ quần áo nâu- Đã âm thầm thương mến...". Tố

Hữu còn tìm đến một tâm thế trữ tình mới hướng vào khẳng định, ngợi ca nhân

vật quần chúng bằng cách sáng tạo kiểu trữ tình nhập vai hoặc để cái“ tôi” nhà

thơ lùi lại phía sau làm nổi bật hình ảnh quần chúng".

Vì vậy, Tố Hữu là nhà thơ thời sự thành công nhất trong nền thơ Cách

mạng, có sự khởi đầu tuyệt đẹp từ sau 1945. Chuyện đời vào thơ với tất cả vẻ tươi

tắn, vừa đậm tính dân tộc vừa hiện đại đã truyền cảm trực tiếp vào hàng triệu trái

tim. Điều đó được ghi nhận trong tập thơ Việt Bắc như một bước phát triển mới

sau Từ ấy.

1.2. Con đƣờng thơ Tố Hữu từ tập thơ Từ ấy sang tập thơ Việt Bắc

1.2.1. Từ tập thơ "Từ ấy"...

Từ ấy (1937- 1946) là chặng đầu mười năm thơ Tố Hữu cũng là mười năm

hoạt động sôi nổi, say mê từ giác ngộ qua thử thách đến trưởng thành của một

người thanh niên cách mạng trong một giai đoạn lịch sử sôi động của xã hội Việt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Nam. Toàn bộ tập thơ thể hiện cuộc đời của một chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi lao vào

18

cuộc đấu tranh cách mạng với tất cả tâm hồn và bầu nhiệt huyết của mình. Là sự

biểu hiện một cách chân thực cái " tôi” hết sức trong sáng, hồn nhiên của một thế

hệ thanh niên khát khao lý tưởng, tự ca hát niềm vui lớn của mình khi bắt gặp lý

tưởng cộng sản chủ nghĩa. Nhà thơ hình dung đó là" mặt trời chân lý" và nguyện

được chiến đấu hy sinh cho lý tưởng ấy:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim.

( Từ ấy, 1938)

Ánh sáng lý tưởng chiếu rọi vào tâm hồn trẻ làm bừng nở một thế giới đầy

hương sắc, tràn trề sức sống và niềm vui. Sự giác ngộ lý tưởng ấy tạo nên một

cái“ tôi” trữ tình kiểu mới trong thơ: cái“ tôi” gắn bó với muôn người, ở giữa mọi

người" Tôi buộc lòng tôi với mọi người. Để tình trang trải với trăm nơi. Để hồn

tôi với bao hồn khổ. Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời". Niềm vui tràn trề của

một tâm hồn trong trạng thái bừng ngộ, hòa vào niềm hân hoan của cả một thế hệ

thanh niên cách mạng tạo nên một cảm xúc ngây ngất say mê:

Ồ vui quá! Rộn ràng trên vạn nẻo

Bốn phương trời vào theo dấu muôn chân

Cũng như tôi, tất cả tuổi đương xuân

Chen bước nhẹ trong gió đầy ánh sáng

( Hy vọng, 1938 )

Những bài thơ đầu của Tố Hữu đã bộc lộ một tâm hồn giàu cảm thông, sẵn

sàng chia sẻ với cảnh ngộ và số phận những con người nhỏ bé. Nhà thơ xúc động

trước cảnh khổ của nhân dân, từ em bé đến cụ già đều phải sống trong cực nhục,

trong đêm tăm tối. Nhờ giác ngộ lý tưởng, nên Tố Hữu nhìn rõ thực trạng bất

công, ngang trái của xã hội. Nhà thơ không dừng lại ở sự cảm thông chia sẻ mà

còn muốn thức tỉnh ở những con người lao khổ ấy lòng căm hận, ý chí đấu tranh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

và niềm tin ở ngày mai.

19

Trong những năm tháng bị giam cầm, người thanh niên ấy luôn thấm thía

nỗi cô đơn vì phải xa phong trào, xa những người đồng chí. Với Từ ấy, ta được

thấy tâm hồn nhạy cảm của ông khi đang nằm lắng nghe sau tầng tầng cửa sắt

những tiếng dội thưa thớt của đời sống hằng ngày bên ngoài:" Dưới đường xa nghe

tiếng guốc đi về”; khi nhà thơ gửi gắm những lời tâm huyết với người bạn tù“ đồng

chí”; khi bâng khuâng“ nhớ người” và “ nhớ đồng”; hoặc khi thét lên cái ý chí đấu

tranh trong những ngày tuyệt thực… Tất cả đều cháy bỏng nỗi khát khao tự do để

được hoạt động.

Suốt ba năm bị giam cầm đày ải trong các nhà tù thực dân, nếm trải nhiều

gian nguy, có lúc đã cận kề bên cái chết, tinh thần và ý chí của người thanh niên

cách mạng được tôi rèn để càng trở nên vững vàng, kiên định. Con cá chột nưa

thể hiện chân thực cuộc đấu tranh nội tâm của người tù để giữ vững khí tiết cách

mạng, được trình bày như một màn kịch với sự xung đột giữa một bên là“ cái bụng”

với một bên là lương tâm của người chiến sĩ, cho dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào thì

người chiến sĩ vẫn phải giữ cho được ý chí, phẩm chất của người cách mạng.

Trải qua cảnh tù đầy khắc nghiệt, tâm hồn người cách mạng trẻ tuổi vẫn

nguyên vẹn sự nhạy cảm, tinh tế, giàu tình thương và luôn tha thiết với cuộc sống.

Nằm trong xà lim Quy Nhơn, tâm hồn nhạy cảm của ông luôn hướng vào cuộc

sống bên ngoài nhà tù, lắng nghe và đón nhận những âm thanh của cuộc sống,

thiên nhiên và con người, từ một tiếng dơi chiều đập cánh, tiếng guốc đi về, một

tiếng rao đêm ...lọt vào qua cánh cửa nhà tù. Niềm căm hận kiếp tù đày, khát

vọng tự do và ham muốn được hoạt động, tất cả đã dồn tụ để thổi bùng lên một

quyết tâm hành động vượt ngục:

Núi hỡi! Từ đây băng xuống đó

Chừng bao nhiêu dặm, mấy đêm trường?

( Tiếng hát đi đày, 1942)

Sau khi thoát tù, nhà thơ kêu gọi lứa tuổi trẻ hãy mạnh dạn dấn thân vào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

cuộc đấu tranh trong thời điểm mà khí thế cách mạng đang sục sôi.

20

Đi, bạn ơi, đi! Sống đủ đầy

Sống trào sinh lực, bốc men say

Sống tung sóng gió thanh cao mới

Sống mạnh, dù trong một phút giây

( Đi, 1944 )

Trong những ngày sôi sục của Cách mạng Tháng Tám và trong niềm vui

tưng bừng của độc lập tự do, hồn thơ Tố Hữu như được chắp cánh bay bổng trong

cảm hứng lãng mạn say sưa với niềm vui lớn của dân tộc. Huế tháng Tám ghi lại

hình ảnh kinh thành Huế trong giờ phút lịch sử trọng đại ngày 23- 8-1945, khi

chính quyền về tay nhân dân, một hình ảnh thật lớn lao, bay bổng" Ngực lép bốn

nghìn năm, trưa nay cơn gió lạnh, Thổi phồng lên, tim bỗng hóa mặt trời"

Ở Từ ấy Tố Hữu đặt ra nhiều vấn đề trước cuộc đời. Người thanh niên trí

thức, khi tâm hồn bừng sáng lý tưởng cách mạng, đã nhìn cuộc đời từ nhiều phía,

trong tầm xa và chiều sâu, trong quan hệ giữa sự sống và cái chết, cái riêng và cái

chung; dân tộc và thời đại,… Từ ấy mang theo hơi thở và máu thịt của cuộc đời

chung, nhưng trước hết là của tác giả: sôi nổi, trẻ trung và thanh khiết, cái đẹp, cái

cao cả của lý tưởng, của cuộc đời đang đẩy lùi mọi cái xấu xa, vẩn đục. Từ ấy có

phần là tiếng hát, có phần là nỗi niềm tâm sự và có cả tiếng nói quyết tâm của ý

chí trên con đường đấu tranh. Cái“ tôi” của người cộng sản trẻ tuổi ghi dấu ấn

đậm nét. Nói như Hoài Thanh Từ ấy là“ Tiếng ca của một thanh niên, một người

cộng sản”

1.2.2... đến tập thơ "Việt Bắc"

Tập thơ Việt Bắc (1946-1954) thể hiện sự chuyển biến mạnh mẽ của thơ

Tố Hữu theo hướng dân tộc và đại chúng, phù hợp với phương châm của nền văn

nghệ mới, như được ghi trong Đề cương về văn hoá Việt Nam- 1943.

Nếu như ở Từ ấy nổi bật và kết tinh giá trị của tập thơ là hình tượng cái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

"tôi" trữ tình tác giả - người thanh niên cộng sản, thì đến Việt Bắc là bước chuyển

21

từ cái "tôi" sang cái "ta" chung của dân tộc, của giai cấp. Là bản hợp ca của một

dân tộc anh hùng không chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù nào, trước bất cứ khó

khăn, gian khổ nào để dành cho được độc lập, tự do. Bản hợp ca đó được xây

dựng trên một nền trữ tình phong phú, nổi bật là hình tượng quần chúng nhân dân

kháng chiến. Có thể nói tập thơ Việt Bắc là hình ảnh, tâm tình, tiếng nói của quần

chúng kháng chiến. Nhà thơ tập trung thể hiện hình ảnh những con người đại diện

cho quần chúng với những chi tiết chân thực mà bình dị của đời sống, trong mọi

hoạt động kháng chiến với tâm tình, ý nghĩ và tiếng nói của họ. Đó là anh Vệ

quốc quân đã làm nên chiến thắng Việt Bắc vang dội:

Giọt giọt mồ hôi rơi

Trên má anh vàng nghệ

Anh Vệ quốc quân ơi

( Cá nước, 1947)

Sao mà yêu anh thế!

Là chị nông dân con mọn vượt lên những gian khổ, thiếu thốn, hăng hái

tham gia tiêu thổ kháng chiến," phá đường" chặn bước đi của giặc:

Nhà em phơi lúa chửa khô

Ngô chửa vào bồ sắn thái chưa xong

Nhà em con bế con bồng

Em cũng theo chồng đi phá đường quan

(Phá đường, 1948)

Là những người mẹ nông dân chất phác gắn bó tình nghĩa với kháng chiến,

hòa làm một tình thương con với lòng yêu nước:

Bà bủ không ngủ, bà nằm

Càng lo càng nghĩ, càng căm càng thù

Ngoài phên gió núi ù ù

Mưa đêm mưa tự chiến khu mưa về…

( Bà bủ, 1948)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

22

Là em bé liên lạc hồn nhiên, anh dũng ngã xuống trên cánh đồng quê tháng

mười dưới làn đạn giặc mà linh hồn và hình ảnh của em vẫn còn mãi với quê

hương đất nước:

Cháu nằm trên lúa

Tay nắm chặt bông

Lúa thơm mùi sữa

Hồn bay giữa đồng…

(Lượm, 1949)

Trong Việt Bắc, cái "tôi” trữ tình nhà thơ đã hóa thân vào các nhân vật

quần chúng hoặc có hiện diện cũng chỉ là đường viền làm nổi bật hình ảnh những

con người quần chúng. Những con người bình thường, cụ thể đó bỗng được nâng

lên thành biểu tượng của Nhân dân, của Tổ quốc. Lịch sử thơ ca Việt Nam từ cổ

điển đến hiện đại, có lẽ chưa đâu có những hình ảnh sinh động và thấm thía yêu

thương như thế về những con người bình thường mà làm nên lịch sử.

Tình cảm bao trùm và sâu đậm nhất trong tập thơ Việt Bắc là lòng yêu quê

hương đất nước. Tình cảm ấy được biểu hiện phong phú, sâu sắc trong nhiều

trạng thái đa dạng. Đó là tình nghĩa gắn bó giữa hậu phương với tiền tuyến, là

mối tình gắn bó thân thiết giữa người miền xuôi với người miền ngược, là lòng

biết ơn sâu nặng của người cán bộ với đồng bào Việt Bắc, và trên hết là lòng

kính yêu của nhân dân với lãnh tụ... Tất cả được thể hiện trong một mối tình

"cá nước" thắm thiết tình nghĩa, cùng hoà trong niềm tự hào dân tộc và niềm

vui chiến thắng.

Thiên nhiên đất nước hiện lên với nhiều cảnh sắc đa dạng, phong phú khi

thì" hắt hiu lau xám đậm đà lòng son", khi lại "trăng lên đầu núi nắng chiều lưng

nương", khi lại có những cảnh rộn rã, tấp nập trong sinh hoạt kháng chiến của cơ

quan, những cảnh hào hùng của từng đoàn dân công, bộ đội đi chiến dịch... tạo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

nên bức tranh thật sinh động, phong phú.

23

Việt Bắc, là chặng đường có vị trí quan trọng trên hành trình thơ Tố Hữu.

Đến tập thơ này, cái"tôi” của nhà thơ đã thực sự hoà nhập vào đời sống nhân dân,

thấu hiểu và gần gũi với cuộc đời, tâm tình, ước nguyện của quần chúng kháng

chiến. Thơ Tố Hữu đã bắt được vào nguồn mạch sâu xa và bền bỉ của truyền

thống văn hóa dân tộc, đồng thời thể hiện được lý tưởng cách mạng, tinh thần của

thời đại trong việc làm, hành động, ý thức và tinh thần của đông đảo quần chúng.

Cái"tôi” ấy hầu như mất hẳn cái riêng để trở thành cái "ta” của Đảng, của nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

dân và của dân tộc.

24

CHƢƠNG II

GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA TẬP THƠ“ VIỆT BẮC”

2.1. Khát vọng và niềm vui giải phóng Đất nƣớc qua các chặng đƣờng

2.1.1. Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc bùng nổ long trời lở đất, chấm

dứt ách đô hộ tám mười năm của thực dân Pháp, mở ra một thời đại vẻ vang cho

dân tộc: thời đại Hồ Chí Minh, thời đại của độc lập, tự do, và chủ nghĩa xã hội.

Cách mạng Tháng Tám đã đáp ứng nguyện vọng sâu xa của toàn thể dân tộc, mở

ra trước mắt mọi người những chân trời bao la, niềm phấn khởi dâng trào, khí thế

của quần chúng thật là hào hùng quyết liệt khi nước nhà dành được chính quyền.

Từ những bài thơ ra đời ngay sau ngày Cách mạng thành công cho đến

bài thơ cuối cùng: Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, chào đón hoà bình, từ biệt Việt

Bắc về xuôi, có thể nói Tố Hữu đã giương cao lá cờ chiến đấu của thơ, tô thắm

cho nó và giữ thắm cho nó trong suốt chín năm, để nói lên những tình cảm lớn

của con người cách mạng và kháng chiến; là tiếng thơ sớm nhất và lớn nhất nói

lên thấm thía những sự đổi đời của dân tộc.

Một số bài thơ tiếp nối Từ ấy và Việt Bắc như: Huế tháng Tám (1945),

Xuân nhân loại (1946), Vui bất tuyệt (1946) là những bài được Tố Hữu viết trong

niềm vui chiến thắng khi nước nhà giành được chủ quyền dân tộc. Sự ra đời của

tập thơ Việt Bắc tiếp nối cảm hứng giải phóng dân tộc của tập thơ Từ ấy. Cái vui

của thơ Tố Hữu trong những ngày Tháng Tám vẫn lôi cuốn chúng ta rất mãnh

liệt, và cảm hứng giải phóng khi nước nhà độc lập được ghi lại sâu đậm trong

những vần thơ mới:

Đi, đi, đi ! ôi nhịp đời phơi phới

Trăng sáng, đường dài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Ta đều chân : Một ! Hai !

25

Ta đều ca

Lời ca bất tuyệt

Ôi đất Việt

Yêu dấu

Ngàn năm…

(Đêm xanh, 1946)

Đó cũng là lời thiêng, là tình cảm kết đọng trong bản nhạc Diệt phát xít của

Nguyễn Đình Thi - "Ôi đất Việt yêu dấu ngàn năm".

Tiếp đó là những ngày toàn dân tộc hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chí

Minh chống ba loại giặc: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Ở khắp mọi nơi, toàn

dân sôi nổi tham gia phong trào tăng gia sản xuất, những ngày khoai sắn mọc

xanh khắp mọi nơi, con người vui say trong công việc, với tinh thần đoàn kết, thi

đua lao động không biết mệt mỏi:

Rồi từ hôm đó, bọc hoàng cung

Lớp lớp khoai xanh mượt vạn vồng

Lòng đất kiêu kiêu nghe nặng củ

(Tình khoai sắn, 1946)

Khách dừng âu yếm, ngẩn ngơ trông…

Sau chống đói là chống dốt với phong trào Bình dân học vụ, mà tất cả các

tầng lớp quần chúng nhân dân đều tích cực hưởng ứng:

Nghiêng đầu trên tấm bảng chung

Phơ phơ tóc bạc, bạn cùng tóc xanh

Này em, này chị, này anh

Chen vai mà học, rách lành sao đâu !

(Trường tôi, 1946)

Không đầy một tháng sau, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Kháng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

chiến Nam Bộ, rồi toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Lời kêu gọi của Hồ chủ tịch

26

vang dậy thấm sâu vào trái tim của mỗi người dân Việt Nam.“Chúng ta thà hy

sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô

lệ…Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm. Không có gươm thì dùng

cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước… Dù phải

gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định

về dân tộc ta”.

Trong những ngày đầu phòng ngự với chủ trương tiêu thổ những thành

phố, thị trấn, phá cầu đường để cản bước tiến công của giặc, một bài thơ được

truyền tụng đến thuộc lòng, là bài Phá đường ghi tạc không phai công sức của

nhân dân vào lịch sử:

Đêm nay gió rét trăng lu

Rộn nghe tiếng cuốc chiến khu phá đường...

( Phá đường, 1948)

Vậy, chúng ta có thể nhận thấy đây là chặng đường đầu tiên, những ngày

đầu phòng ngự của của cuộc kháng chiến đã được Tố Hữu ghi lại bằng những vần

thơ hết sức chân thực. Cùng với diễn biến lịch sử của dân tộc, thơ Tố Hữu luôn

theo sát cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.

2.1.2. Kháng chiến chín năm

Cuộc kháng chiến chống Pháp đã tỏ rõ sức mạnh và sức sáng tạo lớn lao

của quần chúng- cái sức mạnh trước kia còn ẩn tàng, mai phục, chưa có dịp bộc lộ

hết thì nay đã trở thành sự thật hiển nhiên, hàng ngày, đập vào tai mắt, vào suy

nghĩ và tưởng tượng của mỗi người. Với Việt Bắc, thơ Tố Hữu đã thực sự chín và

ngang tầm với đề tài như được thể hiện qua bốn câu thơ đề từ:

Nhân dân là bể

Văn nghệ là thuyền

Thuyền xô sóng dậy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Sóng đẩy thuyền lên

27

Cái bể nhân dân được cách mạng lay dậy tự đáy sâu, dâng lên cuồn cuộn

đã đẩy sáng tác thơ ca lên một trình độ cao. Có một sự chuyển hướng rõ rệt

trong sáng tác của Tố Hữu. Cuộc kháng chiến bùng nổ, bài thơ xuất sắc đầu tiên

trong giai đoạn này của Tố Hữu là bài Cá nước không còn những câu thơ trực

tiếp trình bày ý nghĩ của tác giả mà là sự thâm nhập tự nhiên vào những suy tư,

cảm nghĩ của quần chúng:

Tôi ở Vĩnh Yên lên

Anh trên Sơn Cốt xuống

Gặp nhau lưng đèo Nhe

Bóng tre trùm mát rượi.

(Cá nước, 1947)

Không cần giảng giải, thuyết lý, bài thơ có sự thuyết phục của cái hiện

thực trực tiếp, như thể tai nghe mắt thấy. Với Việt Bắc, nhà thơ không còn tự nói

về mình, việc tự biểu hiện trực tiếp hầu như không còn nữa, thay vào những trữ

tình riêng tư là sự thể hiện trực tiếp cảm nghĩ của quần chúng cách mạng. Anh

Vệ quốc quân lần đầu xuất hiện trong thơ dễ thương đến lạ lùng; tiếp xúc với anh

ai mà không cùng đồng lòng thốt lên như Tố Hữu:

Anh Vệ quốc quân ơi

Sao mà yêu anh thế!

(Cá nước, 1947)

Cuộc kháng chiến ở hậu phương được tái hiện qua hình ảnh những người

nông dân bình dị. Đó là bà mẹ Việt Nam; bà mẹ đẻ những người Vệ quốc quân,

bà mẹ nuôi các anh cán bộ. Tố Hữu đã ca ngợi bà mẹ đó trong hình ảnh bà bủ

Việt Bắc ngồi kể" chuyện nhà chuyện cửa" bên bếp lửa, trên nhà sàn; trong hình

ảnh "bà bủ nằm ổ chuối khô" nhớ con đi bộ đội; bà bầm suốt đời thắt lưng buộc

bụng. Là chị nông dân con mọn vượt lên những gian khổ thiếu thốn hăng hái

tham gia công tác kháng chiến. Tố Hữu đã tạo ra điển hình chú Lượm tượng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

trưng cho các cháu bé nhỏ và anh dũng của Bác Hồ.

28

Tố Hữu là nhà thơ của thời đại, hành trình thơ Tố Hữu luôn là sự vận động

không ngừng, phát triển. Tác giả nhìn theo con mắt sử thi để thấy được tầm vóc to

lớn, trách nhiệm nặng nề của con người thời đại. Do đó việc chuyển sang thể tài

sử thi đánh dấu một bước tiến trong tư duy nghệ thuật và tiếng thơ Tố Hữu. Mặc

dù ở Từ ấy đã có yếu tố sử thi, như trong hình ảnh Mã Chiếm Sơn" buông cương

và ngẫm nghĩ", như hình ảnh" Những người không chết", nhưng sang Việt Bắc thì

chất liệu này mới chiếm địa vị chủ đạo. Các vấn đề của thơ Tố Hữu thời kỳ này

bao giờ chủ yếu cũng là các vấn đề đặt ra giữa "ta" và "nó","chúng ta" và"chúng

nó"...chứ không còn là vấn đề giữa" anh" và" em", giữa cá nhân này với cá nhân

khác. Nếu có khi nhà thơ nêu vấn đề giữa" mình" và "ta" thì đó là"mình" và"ta"

với tầm vóc dân tộc.

2.1.3. Chiến thắng Điện Biên phủ

Với chiến thắng Điện Biên phủ, hồn thơ Tố Hữu như được nâng bổng,

vươn xa trong cảm hứng sử thi hào hùng và tầm khái quát lịch sử. Bài Hoan hô

chiến sĩ Điện Biên mang đậm tính thời sự, ghi lại một cách đậm nét khí thế của

thời đại trong bước ngoặt đi lên của lịch sử dân tộc.

Kế tiếp, Tố Hữu viết Ta đi tới với khí thơ hùng mạnh, tương ứng với bước

đi không có gì ngăn nổi của dân tộc. Những bước đi hào hùng từ “ Bắc Sơn, Đình

Cả, Thái Nguyên”, những chặng đường dài chín năm vượt mọi gian khổ hy sinh

để hôm nay đến được niềm vui lớn:

Ta đi giữa ban ngày

Trên đường cái, ung dung ta bước

Đường ta rộng thênh thang tám thước…

(Ta đi tới, 1954)

Trong không khí náo nức, hào hùng, càng tự hào về Tổ quốc và nhân dân,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

ta càng yêu quê hương, đất nước:

29

Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi !

Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt

Nắng chói Sông Lô, hò ô tiếng hát

Chuyến phà dào dạt, bến nước Bình Ca.

(Ta đi tới, 1954 )

Bài Việt Bắc mang tên chung của tập thơ là thi phẩm xuất sắc nhất của thơ

Tố Hữu thời kỳ kháng chiến chống Pháp và là một trong những bài thơ hay nhất

của thơ ca hiện đại. Bài thơ là cuộc đối thoai giữa mình và ta, ta và mình, giữa

người cán bộ về xuôi với Việt Bắc ở lại:

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

(Việt Bắc, 1954)

Mười lăm năm ấy với biết bao sự kiện, biết bao cảm xúc, bao kỷ niệm dạt

dào tình nghĩa. Việt Bắc với sinh hoạt ở chiến khu, thời kỳ Việt Minh, kháng

Nhật, với mái đình HồngThái, cây đa Tân Trào, với biết bao địa danh không thể

nào quên. Dưới ngòi bút của Tố Hữu, Việt Bắc hiện lên rất chân thực và xúc động

cùng với niềm tự hào đã chiến thắng kẻ thù xâm lược khép lại một trang sử vẻ

vang. Đúng như Xuân Diệu nhận định:" Đến bài Việt Bắc, lại là đỉnh thơ cao nhất

mà Tố Hữu đã bước lên. Với bài này, hồn thơ cũng như nghề thơ của Tố Hữu

chín rộ (...), không phải một cây bút trong tay Tố Hữu nữa, mà nhiều ngọn bút nở

cùng một lúc, bút tả tình, bút tả cảnh, bút tả người. Người ta thấy văn chương

cách mạng chí nghĩa, chí tình, cái văn chương nên thơ, nên nhạc.[33]

Nếu như ở phần đầu Việt Bắc cái"tôi" trữ tình của nhà thơ thường nhập vai

nhân vật quần chúng hoặc trực tiếp làm nổi bật những con người quần chúng, thì

ở những bài thơ viết vào giai đoạn cuối cuộc kháng chiến lại nổi bật cái "tôi" sử

thi, mang tính khái quát và đại diện cho nhân dân, dân tộc, cách mạng; đi liền với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

cái "tôi' sử thi ấy là giọng hào sảng, kiêu hãnh và đầy tin tưởng.

30

Như vây, trên hành trình lịch sử của cách mạng, của dân tộc, hồn thơ của

Tố Hữu đều có những tiếng ngân vang xứng đáng, có sự vận động không ngừng

và luôn phát triển theo đà đi lên của cách mạng. Đọc tập thơ Việt Bắc người đọc

có thể hình dung được bước đi của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến trường kỳ

đến với chiến thắng Điện Biên Phủ- chặng đường đầu tiên trong sự nghiệp

giải phóng đất nước kéo dài 30 năm( 1945-1975)

2.2. Cái "tôi" tác giả gắn với cái "ta"quần chúng trong bức tranh nhân dân

kháng chiến

Việt Bắc ra đời vừa như sự khởi đầu, vừa như là kết thúc chặng đường vẻ

vang 9 năm văn nghệ kháng chiến. Cùng với thực tiễn cách mạng vĩ đại của dân

tộc, lý tưởng thẩm mỹ của nhà thơ đã có sự phát triển. Nếu trước kia nhà thơ muốn

kêu to lên, muốn chia sẻ với mọi người cái mới lạ, cái đẹp của lý tưởng, thì giờ

đây lý tưởng ấy đã biến thành đời sống hằng ngày mà dân tộc, quần chúng đã thực

hiện, đã sống với lý tưởng đó một cách bình dị và thật cảm động. Cái đẹp của lý

tưởng, của ước mơ đã biến thành cái đẹp của quần chúng kháng chiến, cái đẹp của

con người và cuộc sống thực.

Tố Hữu đã thấy rõ những bước tiến của lịch sử, nhận thức đầy đủ quy luật

phát triển của dân tộc, của con người Việt Nam chiến đấu và trưởng thành. Đó là

những người nông dân lao động, từ anh bộ đội nghỉ chân trên lưng đèo Nhe đến

anh pháo binh vác voi ra trận, từ bà mẹ trên nhà sàn Việt Bắc đến bà bủ nằm ổ

chuối khô, từ chị phụ nữ phá đường, đến em bé liên lạc,..Tất cả góp phần làm hiện

lên toàn cảnh cuộc chiến tranh nhân dân với sự sống hồn nhiên, chân thực, có

chiều sâu của đời sống hiện thực, và đi vào lòng người.

2.2.1. Hình ảnh người lính

1. Mở đầu Việt Bắc, ai cũng nhận thấy anh bộ đội cụ Hồ chiếm một vị trí

quan trọng trong tập thơ. Kể từ Cách mạng Tháng Tám thành công cho đến những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

năm đầu kháng chiến, hình ảnh anh bộ đội chưa xuất hiện trong thơ ca, hay chỉ

31

hiện ra một cách thấp thoáng, thì nay hình ảnh anh Vệ quốc kháng chiến được thể

hiện rõ nét trong thơ, với tư cách là những người nông dân nghèo khổ:

Bữa đói bữa no

Chạy quanh chẳng đủ

Ngày hai bát ngô

Lên rừng đào củ...

(Bà mẹ Việt Bắc, 1948 )

Khi có tiếng gọi của dân tộc, của cuộc kháng chiến trường kỳ, họ tự các

phương trời sẵn sàng đến với cuộc kháng chiến, bởi những người nông dân mặc

áo lính đó chan chứa tình yêu nước. Quyền lợi giai cấp, quyền lợi dân tộc nhất trí,

đời họ gắn chặt với cách mạng và kháng chiến. Từ nhân dân mà ra, họ anh dũng vì

nhân dân chiến đấu.

Bài thơ xuất sắc đầu tiên ở tập Việt Bắc viết về anh Vệ quốc quân kháng

chiến là bài Cá nước. Nhà thơ ghi lại cuộc gặp gỡ trò chuyện giữa" tôi" và anh Vệ

quốc quân:

Tôi ở Vĩnh Yên lên

Anh trên Sơn Cốt xuống

Gặp nhau lưng đèo Nhe

Bóng tre trùm mát rượi.

(Cá nước, 1947 )

Hồi đầu kháng chiến, đã có nhiều nhà thơ viết về người lính, nhưng thường

với cái nhìn lãng mạn. Trần Mai Ninh ghi lại hình ảnh anh Vệ quốc quân vào cuối

năm 1946 trong Nhớ máu:

Những con người

Đã bước vào bất tử !

Ô, những người!

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Đen như mực, đặc thành keo

32

Tròn một củ

Hay những người gầy sắt lại

Mặt rẹt một đường gươm

Lạnh gáy...

( Nhớ máu, 1946 )

Cũng tương tự là Quang Dũng trong Tây Tiến:

Tây Tiến, đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

( Tây Tiến, 1948 )

So với họ, Tố Hữu đã tiến một bước dài trong nhận thức cũng như trong

thể hiện chiến tranh. Nhà thơ đã ghi lại thực tế quyết liệt của kháng chiến, những

cuộc hành quân vất vả của pháo binh, hay nỗi lo âu thắt ruột của bà mẹ chiến sĩ.

Sự lay động đến gốc rễ tâm hồn người làm thơ và trách nhiệm sâu xa mà người

làm thơ cảm thấy nặng trên vai, khi nhìn vào những sống chết hàng ngày của

quần chúng, tất cả những cái đó đã giúp cho Tố Hữu không còn viết những câu

thơ lãng mạn cũ:

Nhân loại trườn lên trên biển máu

Đang mơ xuân đến với môi cười.

( Xuân, 1946 )

Mà sớm đến với những chất liệu mới có ngay trong hiện thực:

Tôi ở Vĩnh yên lên

Anh trên Sơn Cốt xuống

Gặp nhau lưng đèo Nhe

Bóng tre trùm mát rượi.

( Cá nước, 1947 )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

33

Đi cùng pháo binh, Tố Hữu nhìn ngay bằng con mắt của anh pháo binh

thân mật, chăm chút, mến thương với pháo:

Ta bế ta bồng

Voi lên ta hát

Vai ta vai sắt

Chân ta chân đồng

Ta đi qua rừng

Lau tre san sát

Voi nghe ta hat

Núi rội vang lừng...

( Voi, 1948 )

Một bài thơ thật hay trong thơ ca Việt Nam. Trong tiếng hát của anh pháo

binh, chúng ta nghe như vang dội tiếng hò của người kéo gỗ. Bài thơ vui đùa mà

chắc nịch, thật lạc quan. Nó đã đem đến cho thơ ca tiếng hát khoẻ mạnh và tự hào

của quần chúng, trên hai âm hưởng, hai giai điệu, đó là lao động và chiến đấu.

Tố Hữu đã từng mặc áo bộ đội, vai nặng ba lô, chân đạp rừng gai đá sắc,

trèo đèo lội suối, cùng ăn cơm vắt thấm nước, dãi gió dầm sương với anh bộ đội.

Tố Hữu đã giúp ta hiểu cách mạng, hiểu cuộc sống nơi rừng sâu của anh Vệ quốc.

Người lính ở rừng núi bị sốt rét dày vò. Tố Hữu đã nói hộ tình cảm của nhân dân

đối với anh:

Giọt giọt mồ hôi rơi

Trên má anh vàng nghệ

Anh Vệ quốc quân ơi

Sao mà yêu anh thế !

(Cá nước, 1947)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

34

Với tư thế:

Tỳ tay trên mũi súng.

(Cá nước, 1947)

Tố Hữu cho ta thấy- người lính đó là người nông dân mặc áo lính. Anh bộ

đội của chúng ta là người đến từ ruộng đồng, là những người bạn hiền lành"

người lính trường chinh áo mỏng manh", những ngày đi của anh là những ngày

"vắt với sương":

Ngô bung xôi nhạt, nước lưng bương

Đêm mưa rình giặc tai thao thức

Mùa lại mùa qua, rét nhức xương.

( Lên Tây Bắc, 1948 )

Thế mà qua anh, cuộc kháng chiến đã dành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác:

Anh kể chuyện tôi nghe

Trận chợ Đồn, chợ Rã

Ta đánh giặc chạy re

Hai đứa cười ha hả....

( Cá nước, 1947)

Cuộc gặp gỡ tình cờ, câu chuyện chiến thắng sôi nổi, dáng dấp hiền lành

của người chiến sĩ được ghi lại trong vần thơ Tố Hữu không khoa trương mà lắng

đọng, không xôn xao mà thấm thía; người thi sĩ cán bộ gặp anh Vệ quốc quân

trên lưng đèo Nhe, chưa nói với nhau lời nào mà đã hiểu, đã yêu. Và cái tình cảm

âm thầm đằm thắm, cũng như cái miếng thuốc lào đã gắn bó họ lại với nhau.

Trưa nay trên đèo Nhe

Ta say sưa vài phút

Chia nhau điếu thuốc lào

Nào anh hút tôi hút

( Cá nước, 1947 )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

35

Những cử chỉ tưởng như là nhỏ nhặt, bình thường chẳng có gì đáng nhớ";

chia nhau điếu thuốc lào", mà ngụ một tình cảm thật thắm thiết, bao la. Thơ Tố

Hữu thật tài tình và lý thú. Ông lấy tên bài thơ là Cá nước, dựa theo cách nói quen

thuộc của Giải phóng quân Việt Nam trong thời kỳ bí mật" Dân là nước, du kích

là cá". Tố Hữu đã lấy sức mạnh của thơ làm cho tình "Cá nước" trở thành điển

hình tình cảm mới của thời đại. Đó là tình quân dân thắm thiết, nguồn gốc của

tinh thần và sức mạnh của chiến tranh nhân dân.

Viết về anh Vệ quốc, Chính Hữu cũng có những hình ảnh chân thực về

những người lính gặp gỡ nhau trong chiến tranh:

Tôi với anh đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ.

( Đồng chí, 1948 )

Những người"tứ xứ" hôm qua còn xa lạ, hôm nay đã trở thành" tri kỷ".

Cách mạng làm nảy sinh nhiều thứ tình cảm trước kia rất ít thấy: tình đồng đội,

tình đồng chí, tình đại gia đình dân tộc gắn bó mọi người lại với nhau:

Gặp nhau mới lần đầu

Họ tên nào chẳng biết?

Anh người đâu, tôi đâu?

Gần nhau là thân thiết.

(Cá nước, 1947 )

Gian khổ bao nhiêu họ cũng quyết tâm vượt qua, càng gian khổ họ càng

hăng hái tin tưởng:

Con đường gieo neo

Là đường Vệ quốc

Tha hồ đèo dốc

Ta hò ta reo !

(Voi, 1948 )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

36

Nếu cuộc sống cực nhọc trước kia đè nặng lên con người và tâm hồn dân

tộc, thì bây giờ ý thức vì Tổ quốc mà vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Họ sẵn

sàng hy sinh tất cả, chính điều đó tạo nên vẻ đẹp riêng của anh bộ đội trên đường

lên Tây Bắc:

Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều

Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo

Núi không đè nổi vai vươn tới

Lá nguỵ trang reo với gió đèo.

( Lên Tây Bắc, 1948 )

Cái đẹp của anh bộ đội trong tư thế oai vệ, được nhìn qua cặp mắt của bà

mẹ nghèo:

Bộ nó rõ oai

Vai thì đeo súng

Ngực chéo hai quai

Áo thì thắt bụng.

Đầu nó đội mũ

Có cái sao vàng

Trước nó lam lũ

Bây giờ thấy sang!

( Bà mẹ Việt Bắc, 1948)

Đi tới đâu," Người lính trường chinh áo mỏng manh" ấy cũng mang lại

nguồn vui cho nhân dân tới đó." Mỗi bước vàng theo đồng lúa chín- Lửa vui từng

mái nứa tươi xanh"... Quân thù bị xua đuổi, cuộc sống lại yên vui:

Anh về cối lại vang rừng

Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân

Anh về sáo lại ái ân

Đêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca.

( Lên Tây Bắc, 1948 )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

37

Nhưng vì ở nơi xa kia, giặc còn đang đốt phá làng mạc, gieo rắc tang

thương, nên anh lại phải ra đi, khiến bà con ngậm ngùi lưu luyến :

Nhưng rồi khói từ xa gió thổi

Núi kêu anh bộ đội lên đường.

( Lên Tây bắc, 1948 )

Người cách mạng không có giận ghét gì hơn giận ghét địch .Tố Hữu đã tả

cái căm thù nét đặc trưng của một người "lính cụ Hồ" khi nghe bà mẹ kể lại tội ác

của quân địch:

Mắt nó đỏ nọc

Nó cầm tay tôi:

"Mé ơi đừng khóc

Nước độc lập rồi !"

(Bà mẹ Việt Bắc, 1948)

"Cặp mắt đỏ nọc ấy" còn có tác dụng góp vào việc nâng cao ý chí chiến

đấu không ngừng, không mỏi mệt của người chiến sĩ, và bằng mọi giá phải tiêu

diệt hết quân xâm lược. Cái căm thù ấy nổi bật trong lời của người chiến sĩ quyết

tâm tiêu diệt giặc, bằng một lời thơ thật mạnh và rất" bộ đội":

Chúng bay chui xuống đất

Chúng bay chạy đằng trời

Trời không của chúng bay

Đạn ta rào lưới sắt!

Đất không của chúng bay

Đai thép ta thắt chặt!

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954)

Người lính- anh bộ đội cụ Hổ trở thành nỗi kinh hoàng của kẻ thù, làm cho

kẻ thù phải khiếp sợ. Nhưng tình cảm người bộ đội trong thơ Tố Hữu không phải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

máy móc, một chiều chỉ biết đạn lửa chiến trường, mà cũng da diết nhớ nhà, nhớ

38

làng mạc, nhớ tất cả những cái gì làm nên cuộc sống cần cù, giản dị của nông

thôn Việt Nam, nơi anh và những người thân đã sinh ra và lớn lên, với biết bao kỷ

niệm thiết tha:

Chắc có lúc lòng anh

Nhớ nhà anh nhớ lắm

Ôi người bạn hiền lành

Mắt nhìn xa đăm đắm...

( Cá nước, 1947 )

Tố Hữu thấu hiểu nỗi lòng người chiến sĩ. Khi đi sâu vào tình cảm của

người "nông dân mặc áo lính", đi sâu vào cái nguồn bồi đắp tinh thần dồi dào, vô

tận của người chiến sĩ, cái tình gửi về hậu phương, nơi chôn nhau cắt rốn. Ở đó có

người mẹ già tóc bạc hoa râm, thì câu thơ trở nên thắm thiết, ấm cúng lạ lùng.

Không phải thơ Tố Hữu nữa mà là nỗi lòng nhớ thương của người chiến sĩ đang

thánh thót. Tình cảm đó diễn ra sâu sắc trong bài Bầm ơi! chứa đựng tình yêu gia

đình, yêu đồng chí, yêu nước đã quyện lấy nhau. Đó chính là tình cảm sâu sắc,

cao quý của người chiến sĩ Việt Nam, đã được nhà thơ nâng niu, thấu hiểu:

Bầm ơi có rét không bầm ?

Heo heo gió núi lâm thâm mưa phùn

Bầm ra ruộng cấy bầm run

Chân lội dưới bùn tay cấy mạ non

Mạ non bầm cấy mấy đon

Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.

Mưa phùn ướt áo tứ thân

Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu !

( Bầm ơi, 1948 )

Những câu thơ thấu tận nhân tình, thật là thấm thía, có lẽ chưa ai viết được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

như Tố Hữu. Những câu thơ chảy nước mắt, cái nước mắt không bi thảm, mà là

39

cái nước mắt sung sướng của tâm hồn khi được nghệ thuật động tới chỗ cao

sâu. Cả bài thơ đi vào lòng người và ở luôn trong đó như một dòng suối ngọt

ngào. Trên nguồn mạch tình cảm ấy bài Bầm ơi ! thật xứng đáng với tình mẹ

con muôn thuở.

Viết về tình cảm của anh bộ đội dành cho mẹ, cho những bà bủ, bà bầm,

tiếng thơ của nhà thơ Lê Đức Thọ cũng thật mến thương, nhưng ở đây là nỗi nhớ

một bà mẹ bên một quán nghỉ chân dọc đường kháng chiến" miếng trầu bát nước

tiễn đưa con" luôn sống mãi trong hoài niệm tác giả:

Hôm nay nhớ mảnh lòng vàng

Nhớ người mẹ với muôn vàn yêu thương.

( Người mẹ )

Anh bộ đội đối với mẹ già thì hiền lành, thủ thỉ như thế. Nhưng đó chỉ là

một góc lòng của anh, một khía cạnh của con người anh. Khi ở chiến trường

đối diện với quân giặc thì hình ảnh anh bộ đội càng nổi bật trong những hy

sinh cao cả:

Những đồng chí thân làm giá súng

Đầu bịt lỗ châu mai

Băng mình qua núi thép

Ào ào vũ bão,

Những đồng chí chèn lưng cứu pháo

Nát thân, nhắm mắt, còn ôm.

Những bàn tay xẻ núi lăn bom

Nhất định mở đường cho xe ta tiến lên chiến trường tiếp viện

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954)

Ý chí quyết chiến quyết thắng, nghị lực và tài trí của cả dân tộc, biết bao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

tấm gương kiên cường, anh dũng của quân và dân ta, của những ai có tên hoặc

40

không tên, cuối cùng đã giành được thắng lợi quyết định làm rạng rỡ cho đất

nước, đưa Tổ quốc lên đỉnh vinh quang chói lọi:

Đêm lịch sử, Điện Biên sáng rực

Tên đất nước, như huân chương trên ngực

Dân tộc ta, dân tộc anh hùng !

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954 )

Từ những người chiến sĩ chân đất, đầu trần những năm đầu chống Pháp,

đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, người chiến sĩ" bộ đội cụ Hồ" tiếp tục được Tố

Hữu miêu tả là con người mang vẻ đẹp thần thoại:

Anh đi, xuôi ngược tung hoành

Bước dài như gió, lay thành chuyển non

Mái chéo một chiếc xuồng con

Mà sông nước dậy sóng cồn đại dương !

(Tiếng hát sang xuân, 1965)

Những vần thơ rất gợi cảm với những liên tưởng sáng tạo:

Ôi cái mũ vải mềm dễ thương như một bàn tay nhỏ

Chẳng làm đau một chiếc lá trên cành

Sáng trên đầu như một mảnh trời xanh

Mà xông xáo, mà tung hoành, ngang dọc

Mạnh hơn tất cả đạn bom, làm run sợ cả Lầu năm góc !

(Bài ca xuân 1968)

Những anh hùng trong thời đại chống Mỹ cứu nước, cũng được nhà thơ

xây dựng từ những con người có thật trong đời sống. Nhưng ở họ mang vẻ đẹp

tượng trưng cho một thời đại, tiêu biểu như Nguyễn Văn Trỗi hoặc Mẹ Suốt, bà

mẹ Việt Nam anh hùng trong những năm chống Mỹ. Tố Hữu đã từ cái riêng của

những cuộc đời cụ thể, khái quát lên thành cái chung của cả một lớp người, một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

thế hệ.

41

Trở lại anh bộ đội trong kháng chiến chống Pháp. Họ là những người nông

dân cầm súng, thật thà, chất phác, giản dị cả trong lời nói, cử chỉ và trong tư thế.

Nhà thơ viết về họ với bản chất vốn có, mà vẫn tiềm tàng ẩn chứa những nét đẹp

đại diện cho thời đại. Những con người kháng chiến và hiền lành ấy tiêu biểu cho

toàn thể nhân dân lao động Việt Nam căm thù trước tội ác của giặc, đoàn kết yêu

thương nhau trong một mối tình "cá nước", ra sức chiến đấu, bảo vệ cuộc sống,

bảo vệ quê hương. Họ là những người nông dân bình dị mà làm nên lịch sử vẻ

vang cho dân tộc.

2. Đặc trưng của chiến tranh nhân dân, chiến tranh chính nghĩa là ai cũng

sẵn sàng ra trận. Trẻ em cũng ra trận, cũng biết đảm nhận những công việc thích

hợp nhất với lứa tuổi mình. Lượm là hình ảnh được ghi nhận đầu tiên về em bé

liên lạc trong thơ kháng chiến. Tâm hồn em hồn nhiên, nhưng lòng em thấm sâu

tình yêu nước, em là những chú" đồng chí nhỏ" làm nhiệm vụ giao thông vượt

qua mặt trận, không sợ đạn của giặc, không sợ hiểm nghèo.

Tố Hữu yêu chú bé liên lạc, điển hình của những con cháu trung dũng của

Bác Hồ. Ngay trong những nét phác tả chú bé ấy ta đã thấy thật mến yêu:

Chú bé loắt choắt

Cái xắc xinh xinh

Cái chân thoăn thoắt

Cái đầu nghênh nghênh...

(Lượm, 1947)

Chú bé làm công tác liên lạc, vai đeo xắc, đầu đội mũ bộ đội, vẫn trẻ con

trong bước đi nhảy nhót của tuổi nhỏ, xa nhà nhưng em không thấy sợ, lại thấy" ở

đồn Mang Cá. Thích hơn ở nhà". Đó chính là niềm vui được ở trong đoàn thể,

được sống bên cạnh các chú bộ đội, các chú cán bộ, được góp một phần nhỏ bé

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

của mình cho cách mạng. Tố Hữu đã miêu tả em Lượm như một đồng chí nhỏ:

42

Thôi chào đồng chí !

Cháu đi xa dần...

(Lượm, 1949)

Tố Hữu không hề" nâng cao" em lên thành người chiến sĩ cách mạng như

trong Từ ấy:

Em mạnh dạn chống bất công, tàn ác.

Không cầu xin, không cất tiếng kêu ca.

( Hồn chiến sĩ, 1938)

Em Lượm trong Việt Bắc vẫn cứ là trẻ con như thường. Em đi kháng chiến

với một tâm hồn trẻ thơ, hồn nhiên, nhí nhảnh là vậy, thế mà những viên đạn kẻ

thù đã cướp đi sự sống của em. Nhà thơ đã dành cho em một lòng thương yêu đặc

biệt. Khi em ngã xuống, không ai quên được chú Lượm của Tố Hữu, không ai

không thắt lòng khi Tố Hữu hạ xuống hai chữ:

Ra thế

Lượm ơi !

( Lượm, 1949)

Kháng chiến có biết bao tấm gương hy sinh của những em nhỏ anh hùng

như thế. Còn gì xúc động hơn cảnh ấy nữa. Dường như nhà thơ của chúng ta đã

đau nhói tận tim và lặng đi không nói được khi biết tin em ngã xuống:

Bỗng loè chớp đỏ

Thôi rồi, Lượm ơi !

Chú đồng chí nhỏ

Một dòng máu tươi !

( Lượm, 1949)

Lượm, em bé giao thông anh dũng đã hy sinh vì nhiệm vụ. Thi sĩ lặng

người lại trước" một dòng máu tươi", và hình ảnh" chú bé loắt choắt, cái xắc xinh

xinh" cứ nhói mãi trong lòng chúng ta. Lượm đã hy sinh, nhưng hình ảnh của em

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

thì còn lưu mãi trên đồng đất quê hương:

43

Cháu nằm trên lúa

Tay nắm chặt bông

Lúa thơm mùi sữa

Hồn bay giữa đồng.

( Lượm, 1949)

Đó là sự sống không tắt của Lượm, của cả một lớp thiếu nhi tham gia

kháng chiến ngay từ những ngày đầu cả đất nước lên đường vào trận, theo lời kêu

gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất

nước, nhất định không chịu làm nô lệ''. Cũng đồng thời là sự thể hiện sức sống

của văn thơ, khi bằng sức mạnh của cảm xúc và ngôn từ, Tố Hữu đã làm cho một

hình ảnh Lượm cá biệt bỗng sống hẳn lên và mang trong nó giá trị phổ quát, và

nói lên được phẩm chất và gương mặt của cả một thế hệ.

Nói tới các em bé liên lạc, nhiều nhà thơ cũng đã có những vần thơ thật

xúc động. Lê Đức Thọ cũng dành tình cảm mến yêu cho một em bé liên lạc,

nhưng ở trong một hoàn cảnh khác không hẳn như em Lượm:

Đêm nay gió táp mưa xa

Mái lều xơ xác dăm ba lá gồi

Gió lùa chi mấy gió ơi

Em đi trốn gió lại ngồi bên anh.

( Em liên lạc )

Viết về các em nhỏ, từ tập thơ Từ ấy, Tố Hữu đã có những vần thơ về các

em, lời thơ có khi nghẹn ngào như muốn khóc:

Con chim non không đợi chờ cánh mọc

Cơ khổ em mới ngần ấy tuổi đầu!

( Hồn chiến sĩ, 1938 )

Trong kháng chiến cũng sớm có thơ của các em. Em Nguyễn Bá Dậu,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

thiếu sinh quân, nhân ngày sinh nhật Bác đã làm một bài thơ gửi đến Bác. Cả bài

44

thơ là niềm tự hào của một em bé được" theo anh Vệ quốc", được đi cùng anh,

qua các địa danh rồi đây sẽ đi vào lịch sử:

Bác Hồ ơi!

Cháu là em bé phương xa

Theo anh Vệ quốc xa nhà từ lâu

Cháu qua Sông Đuống, Sông Cầu

Phủ Thông, Đèo Khách, An Châu, Lũng Vài.

Đến Lượm của Tố Hữu thì hình ảnh một thế hệ trẻ thơ gắn bó với sự

nghiệp kháng chiến mới được thể hiện trong những đường nét linh hoạt, sống

động và thật xúc động. Có thể nói Lượm là bài thơ hiếm hoi để lại một ấn tượng

sâu sắc cho thiêú nhi Việt Nam qua bao thế hệ; có lẽ cũng là bài thơ dài đầu tiên

nói về sự hy sinh, cái chết của người lính trên chiến trường, trong một âm điệu

hào hùng, bi tráng và cũng đầy chất thơ.

Hơn hai mươi năm sau, trong chống Mỹ, cũng Tố Hữu là người mở đầu

dựng một tượng đài thiếu nhi qua truyện thơ Em Hoà, kể chuyện Hoà, 15 tuổi,

quê ở Thừa Thiên, là dũng sĩ diệt Mỹ. Từ Lượm đến Em Hoà vừa là một khoảng

cách, vừa là một bước tiến của dân tộc và thời đại. Nếu Lượm là những nét trữ

tình bi tráng trong chống Pháp, thì Em Hoà là chất sống hiện thực sử thi của

những ngày đồng khởi chống Mỹ.

Vậy là, trong cuộc chiến vĩ đại của dân tộc chống các thế lực ngoại xâm,

gần như luôn luôn, các thế hệ thiếu nhi Việt Nam đều để lại hình ảnh và dấu ấn

trong văn thơ.

2.2.2. Hình ảnh người phụ nữ

1. Những bà mẹ lao động Việt Nam được Tố Hữu thể hiện với lòng mến

yêu đằm thắm. Đó là những bà mẹ nông dân nghèo khổ, cần cù, chất phác, thắt

lưng buộc bụng nuôi con. Những bà mẹ ở hậu phương luôn hướng về tiền tuyến,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

theo dõi từng bước chân của những đứa con đi giết giặc. Trong thơ Tố Hữu, họ là

45

bà mẹ Việt Bắc, là bà bầm, bà bủ. Tuy không có bà mẹ nào nổi hẳn lên như Bà má

Hậu Giang trong Từ ấy hoặc Mẹ Suốt trong Gió lộng, nhưng họ đều là những hình

ảnh rất đẹp. Một bà mẹ lo lắng nghĩ đến từng bước đi của đứa con trai và thương

đồng đội của con:

Bà bủ không ngủ, bà nằm

Càng lo, càng nghĩ, càng căm càng thù

Ngoài phên gió núi ù ù

Mưa đêm mưa tự chiến khu mưa về.

( Bà bủ, 1948 )

Tố Hữu đã ghi lại rất chân thực tình cảm của người mẹ có con đi đánh

giặc cứu nước. Người mẹ không buồn rầu, đau khổ mà người mẹ chỉ yêu thương,

tình thương đó thật thấm thía sâu sắc, nhìn thấy những vật quen thuộc quanh

mình, những miếng ngon, người mẹ không thể không nhớ đến việc để dành phần

con. Đó là phẩm chất "nhân văn" trong thơ Tố Hữu, và những hình ảnh bà mẹ

nông dân nghèo khổ đã được vẽ lên bằng những nét đậm đà không thể phai nhạt:

Nó đi đánh giặc đêm nay

Bước run, bước ngã, bước lầy bước trơn

Nhà còn ổ chuối lửa rơm

Nó đi đánh giặc đêm hôm sưởi gì?

(Bà bủ, 1948)

Tố Hữu đã mến yêu rất mực bà mẹ Việt Nam, bà mẹ đẻ những người Vệ

quốc quân, bà mẹ nuôi các anh cán bộ. Bà mẹ mà tấm lòng yêu thương như biển

cả, là nguồn an ủi động viên vô hạn cho các con. Hình ảnh Bà mẹ Việt Bắc ngồi

kể" chuyện nhà chuyện cửa" bên bếp lửa, trên nhà sàn; "bà bủ nằm ổ chuối khô"

nhớ con đi bộ đội đã trở thành những biểu tượng gần gũi và cao đẹp cho con

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

người Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh:

46

Năm xưa cơm củ ngon chi

Năm nay cơm gié nhà thì vắng con

( Bà bủ, 1948 )

Từ chỗ thương con, bủ thương tất cả bộ đội. Hình ảnh con và hình ảnh toàn

thể bộ đội đã hoà làm một trong lòng bủ:

Đêm nay bộ đội rừng khe

Mưa ướt dầm dề, gió buốt chân tay

( Bà bủ, 1948 )

Thời đại đổi thay, các bà mẹ cũng khác xưa. Mẹ Suốt với ý thức chống Mỹ

khác bà bủ nằm ổ chuối khô hồi kháng chiến chống Pháp:

Sợ chi sóng gió tàu bay

Tây kia mình đã thắng, Mỹ này ta chẳng thua !

Kể chi tuổi tác già nua

Chống chèo xin cứ thi đua đến cùng !

( Mẹ Suốt, 1965)

Mẹ Suốt, Bà mẹ Việt Nam anh hùng trong những năm kháng chiến chống

Mỹ, can trường, sẵn sàng làm công việc nguy hiểm đưa đò cho các anh bộ đội

qua sông. Ở người mẹ này là sự quyện hoà giữa cái bình thường và cái vĩ đại,

giữa bản năng tự nhiên và phần giác ngộ sâu xa của ý thức. Còn "Bà bủ" trước đó

20 năm thì đúng là một bà mẹ nông dân còn có một vẻ cũ kỹ, đêm đêm bà còn

"khấn thầm", nhưng cái hình thức mê tín ấy thể hiện một ước mơ thiết thực và

tiến bộ: bủ khấn thầm cho con: '' bao giờ hết giặc, về quê", bởi bủ thương con,

nhớ con. Thương nhớ đến xót xa, nhưng "Càng lo càng nghĩ, càng căm, càng

thù". Đọc những vần thơ của Tố Hữu, càng thấy hay và thầm thía, bởi đó là thơ

chân thực, thơ của nội tâm con người. Mỗi câu nói đơn sơ của Bà mẹ Việt Bắc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

nhưng lại lắng đọng một ý nghĩa thật sâu xa, da diết đi vào lòng người đọc:

47

Tôi ôm lấy nó

Tôi kể trước sau

Nỗi nhà mất bố

Nỗi anh chết tù

Mắt nó đỏ nọc

Nó cầm tay tôi

Mé ơi đừng khóc

Nước độc lập rồi!

( Bà mẹ Việt Bắc, 1948)

Bà mé miền núi (Bà mẹ Việt Bắc) tràn ngập niềm vui khi con đi bộ đội về

thăm nhà, một niềm vui rất chất phác khi thấy con đã lớn lên cả về thân thể, cả về

tinh thần:

Thoạt trông thấy nó

Tôi chẳng biết ai

Nó cao hơn bố

Tôi chỉ bằng vai

... Bộ nó rõ oai

....Trước nó lam lũ

Bây giờ thấy sang...

( Bà mẹ Việt Bắc, 1948)

Mỗi bà mẹ trong thơ Tố Hữu có một cảnh ngộ, tính cách và tâm trạng

riêng. Bà mẹ Việt Bắc thì như vậy. Còn Bà má Hậu Giang trước đó trong Từ ấy

lại có một vẻ cứng cỏi, hiên ngang đặc biệt Nam Bộ:

Má hét lớn tụi bay đồ chó

Cướp nước tao, cắt cổ dân tao

Tao già không sức cầm dao

Giết bay có các con tao trăm vùng...

( Bà má Hậu Giang, 1941)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

48

Hay cuộc đời của bà mẹ Tơm sau này trong Gió lộng một cuộc đời lặng lẽ,

âm thầm mà rất đẹp:

Sống trong cát, chết vùi trong cát

Những trái tim như ngọc sáng ngời.

( Mẹ Tơm, 1961)

Có thể nói, với Việt Bắc và trước đó là Từ ấy và về sau là Gió lộng, Tố

Hữu là nhà thơ đầu tiên thể hiện rất đẹp hình ảnh người mẹ trong thơ hiện đại.

Gắn với từng thời kỳ lịch sử, từng miền đất, từng cảnh ngộ khác nhau, tuy mang

những dấu ấn riêng, nhưng các mẹ đều có những đặc điểm chung của bà mẹ cách

mạng Việt Nam là: hy sinh, nhẫn nại, chịu đựng mọi gian khổ, can trường, yêu

thương cán bộ, bộ đội, một lòng vì đất nước.

2. Bên cạnh những bà mẹ, Tố Hữu cũng ghi lại hình ảnh những cô gái"

phá đường". Những người phụ nữ nông thôn theo lời kêu gọi của Chính phủ, đi

phá đường để chặn xe cơ giới của địch. Đó là chị phụ nữ Bắc Giang:

Nhà em phơi lúa chửa khô

Ngô chửa vào bồ, sắn thái chưa xong

Nhà em con bế con bồng

Em cũng theo chồng đi phá đường quan.

( Phá đường, 1948)

Người phụ nữ nông thôn đó đã đấu tranh và giải quyết được mâu thuẫn

một cách vui vẻ giữa việc nước và việc nhà, và công tác với một tinh thần thi

đua phấn khởi. Tố Hữu viết rất thực, đúng như những gì vốn có ở tinh thần, ý

chí của người phụ nữ.

Hì hà hì hục

Lục cục lào cào

Anh cuốc em cuốc

Đá lở đất nhào !

( Phá đường, 1948)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

49

Vĩ đại thay, cuộc kháng chiến đã làm cho họ lớn lên. Trong công tác, phụ

nữ đã không thua nam giới. Họ thách nhau" thử ai tài hơn ai" trong bất cứ nhiệm

vụ nào, nhằm góp sức cho kháng chiến:

Ta thi nhau thử, ai tài hơn ai?

Anh tài thì em cũng tài

Đường dài ta xẻ, sức dai ngại gì!

( Phá đường, 1948)

Có lẽ để vơi đi nỗi vất vả, mệt nhọc trong lao động, các chị vừa đào hố trên

đường đi, vừa như ôn lại bài học bình dân mới học:

Đường đi ngoắt ngéo chữ chi

Hố ngang hố dọc chữ i chữ tờ

( Phá đường, 1948)

Các chị, cũng như tất cả người con đất Việt luôn có một tình yêu nước,

căm thù giặc sâu sắc. Trong công tác phá đường, họ như được đối diện với kẻ thù.

Thằng Tây mà cứ vẩn vơ

Có hố này chờ chôn sống mày đây.

Ớ anh ớ chị nhanh tay

Nhanh tay ta cuốc, chôn thây quân thù !

( Phá đường, 1948)

Công việc phá đường diễn ra vào thời gian đêm khuya gió rét, khiến ta

càng cảm thấy nỗi gian nan, vất vả của các chị phụ nữ. Nhưng không, thời tiết

khắc nghiệt đó không làm các chị nản lòng, tiếng cuốc vẫn vang lên đều đều với

một tinh thần lao động vui say:

Đêm nay gió rét trăng lu

Rộn nghe tiếng cuốc chiến khu phá đường...

( Phá đường, 1948)

Bài Phá đường là thành công hoàn hảo đầu tiên của thơ kháng chiến, thật là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

mới, thật là trẻ, gân guốc thanh xuân, nhịp đi thoăn thoắt, lời thơ trong trẻo, điệu

50

thơ nhanh nhẹ, vui tươi, để làm nổi bật hình ảnh chị dân công phá đường trong

ngày đầu kháng chiến.

Kháng chiến ba ngàn ngày - từ phòng ngự, cầm cự, đã chuyển sang tổng phản

công. Tố Hữu không ngừng theo dõi từng bước tiến của người phụ nữ trong toàn cảnh

bức tranh kháng chiến, mới đó mà biết bao thay đổi. Lần này sau Phá đường chúng ta

gặp chị không phải ở quê nhà, mà trên những nẻo đường xa bất chấp mọi mưa to, gió lớn

và vào lúc này thì tiếng hát của chị ngân vang:

Và những chị, những anh ngày đêm ra tiền tuyến

Mấy tầng mây, gió lớn mưa to

Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ

Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát.

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954)

Các chị thật đáng khâm phục, mới ngày nào con bế con bồng, việc nhà bề

bộn mà vẫn sẵn sàng đi làm công tác dân công. Nay lại lên tiền tuyến làm công tác

tiếp vận cho các anh bộ đội, chiến sĩ không quản khó nhọc. Họ lại tiếp tục vui say

trong công việc của người dân công hoả tuyến, cùng với tiếng hò, điệu hát. Và

không ít người trong họ đã ngã xuống thật vinh quang:

Hỡi các chị các anh

Trên chiến trường ngã xuống !

Máu của anh chị, của chúng ta không uổng:

Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954)

Cùng với Tố Hữu, ta cũng bắt gặp hình ảnh các cô gái đi tiếp vận trong

những lời thơ của Trần Hữu Thung:

Quê em ở cuối Hà Nam

Gửi con sắp sửa nhập đoàn dân công

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

...

51

Từ Gò Tra mưa ra Phố Sấu

Từ Phố Sấu mưa thấu Chi nê

Mưa quây rừng núi mưa về

Đường trơn, gánh nặng đêm khuya sá gì !

Với Tố Hữu, từ tập thơ Từ ấy luôn là thái độ hết sức trân trọng với người

phụ nữ. Bao nhiêu hình ảnh phụ nữ trong thơ Tố Hữu đã trở nên thân thiết đối với

người đọc. Từ cô gái sông Hương, đến chị đắp đê trong thời Nhật thuộc, từ chị

dân công phá đường trong hồi đầu kháng chiến chống Pháp, đến chị Lý trong thời

kỳ kháng chiến chống Mỹ... Mỗi hình ảnh người phụ nữ đều có nét đẹp riêng

trong sự mến thương và kính trọng của nhà thơ.

Chị Lý trong kháng chiến chống Mỹ, là con người vốn rất bình thường mà

lại phi thường, như một nhân vật siêu nhiên. Viết về chị, Tố Hữu đã ghi lại một

nét đẹp lý tưởng của người con gái Việt Nam, hoàn toàn khác người phụ nữ thời

kháng chiến chống Pháp:

Em là ai ? cô gái hay nàng tiên

Em có tuổi hay không có tuổi

Mái tóc em đây là mây hay là suối

Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm giông

Thịt da em hay là sắt là đồng ?

( Người con gái Việt Nam, 1958)

Các cô dân quân ngày trước trong chống Pháp tham gia phá đường và tải

lương, tải đạn thì giờ đây trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, họ lại trực tiếp cầm

súng, cầm cày:

Chào cô dân quân tay súng tay cày

Chân lội bùn mơ hạ máy bay

( Chào xuân 1967)

Như vậy, hình ảnh người phụ nữ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

được Tố Hữu viết nên bằng những lời thơ thật chân thực như bản chất vốn có. Tố

52

Hữu không xây dựng họ lên như một đại diện cho một thế hệ. Nhưng ở họ luôn có

một tình yêu nước sâu sắc, khi cần họ không quản khó khăn gian khổ, sẵn sàng

gác công việc riêng vì mục đích chung của cuộc kháng chiến với niềm vui say vô

bờ, từ trong suy nghĩ, lời nói, hành động, ước mơ, đều hết sức giản dị, nhưng

chính sự giản dị này đã làm nên lịch sử đáng ghi nhớ cho dân tộc.

2.3. Tình yêu quê hƣơng đất nƣớc

1. Tập thơ Việt Bắc xây dựng trên một tình yêu lớn: Tình yêu nước. Yêu

nước với Tố Hữu trước hết là yêu những người lao động và chiến đấu cho đất

nước. Yêu nước cũng là yêu quê hương đất nước, yêu tất cả những cảnh vật gắn

liền với đời sống của nhân dân. Có thể nói tình yêu đối với con người và yêu cảnh

quan thiên nhiên trong tập thơ Việt Bắc luôn đan cài vào nhau tạo nên một vẻ đẹp

độc đáo của con người và núi rừng Việt Bắc.

Trong tập thơ Việt Bắc, cũng như trong ca dao, trong Truyện Kiều và trong

nhiều áng thơ xưa, cảnh luôn gắn bó mật thiết với con người.

Trong câu ca dao:

Trăm năm vì lỗi hẹn hò

Cây đa bến cũ, con đò khác đưa

Cây đa và bến đò là những "nhân vật" cần thiết trong câu chuyện trăm năm

lỗi hẹn. Nhà thơ Tố Hữu cũng vậy, ông không nói cảnh để mà nói cảnh, mà gợi

cảnh là để gắn nó với người. Từ cái "bóng tre trùm mát rượi" trên câu chuyện

thân thiết giữa hai người đến cái hình ảnh:

Xa xôi đầu xóm tre xanh

Có bà ru cháu nằm khoanh lòng già

( Cá nước, 1947)

Cảnh với người luôn hoà quyện, đi đôi với nhau. Nhà thơ đã lồng hình ảnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

anh bộ đội :"mồm nở tươi, mặt vàng thắm" vào cái khung cảnh:

53

Cánh đồng quê tháng mười

Thơm nức mùa gặt hái.

( Cá nước, 1947)

Tạo nên một không gian rất quen thuộc, rất đầm ấm trong tâm trí mọi

người Việt Nam, hình ảnh" Chú bé loắt choắt, cái xắc xinh xinh..." mà chúng ta

đều nhớ cũng hiện lên trong nền cảnh những đồng lúa:

Đường quê vắng vẻ

Lúa trổ đòng đòng

Ca-lô chú bé

Nhấp nhô trên đồng.

(Lượm, 1949)

Em bị một viên đạn của quân thù giết chết. Trong phút chốc, tưởng chừng

như quân giặc đã thắng. Nhưng mà không:

Cháu nằm trên lúa

Tay nắm chặt bông

Lúa thơm mùi sữa

Hồn bay giữa đồng

(Lượm, 1949)

Hình ảnh em Lượm hy sinh giản dị mà anh dũng tuyệt vời, trên cánh đồng

ngát mùi hương lúa cũng là hình ảnh chính nghĩa thắng phi nghĩa, cái sống thắng

cái chết ngay giữa lúc chính nghĩa và sự sống đang bị quân thù đe doạ và chà đạp.

Cho nên liền sau đó hình ảnh "chú bé loắt choắt, cái xắc xinh xinh..." lại hiện lên

trong bài thơ và sẽ ghi mãi trong lòng người, không một viên đạn nào giết nổi.

Cũng như không một sức mạnh tàn bạo nào ngăn được những cánh đồng lúa của

ta mỗi mùa lại một lần thơm mùi sữa và mãi mãi còn xanh.

Cảnh gắn bó với người. Người đi xa, cảnh nhắn lời chờ đợi. Mấy câu sau

đây là của nhà thơ Liên Xô Xi- mô- nốp nhưng cũng là thơ Tố Hữu, vì nhà thơ đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

chuyển nó thành những câu thơ rất Tố Hữu và cũng rất Việt Nam:

54

Chúng tôi đợi các anh về

Rừng xanh vọng tiếng đồng quê nhắn lời

Rừng xưa quê cũ xa rồi

Đêm đêm còn vọng giọng lời thiết tha.

( A-liêu-sa nhớ chăng?, 1949)

Người về, cảnh vui mừng rộn rã. Anh bộ đội "lên Tây Bắc” mỗi bước

anh đi là:

Mỗi bước vàng theo đồng lúa chín

Lửa vui từng mái nứa tươi xanh

( Lên Tây Bắc, 1948)

Tố Hữu lấy cảnh tả người, thật là đẹp. Anh bộ đội được dựng lên như một

nhân vật thần thoại, mỗi bước đi là trăm hoa đua nở. Anh đi tới đâu cũng đem lại

niềm vui cho mọi người, cảnh vật. Hình ảnh ấy tuyệt nhiên không có gì là huyền

hoặc. Nó hoàn toàn đúng với sự thực vĩ đại trong thời đại chúng ta:

Anh về, cối lại vang rừng

Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân

Anh về, sáo lại ái ân

Đêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca...

(Lên Tây Bắc, 1948)

Nhưng trong tập thơ Việt Bắc không phải chỉ có những cảnh đầm ấm tươi

vui. Tố Hữu còn gợi lên những cảnh cơ cực trước đây ít biết đến. Từ cái cảnh ngô

khoai bề bộn, con bế con bồng của chị dân công phá đường, cái cảnh" phên nan

gió lọt lạnh lùng" của bà mẹ Việt Bắc, cái "ổ chuối khô" của bà bủ trằn trọc nhớ

con đến cảnh bà bầm"vừa cấy, vừa run" giữa mưa phùn gió núi, ướt dầm manh áo

tứ thân, tất cả những cảnh cơ cực ấy đã nói lên cái thực tế nông thôn trước đây và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

tấm lòng yêu mến lo lắng của nhà thơ đối với người nông dân lao động.

55

2. Cảnh sắc miền núi Việt Bắc, vẫn là sự khăng khít giữa người và cảnh.

Những năm kháng chiến chống Pháp đã khiến cho chúng ta thấy gần gũi, gắn bó

với núi rừng Việt Bắc, chính nơi rừng thiêng, nước độc này lại là nơi chở che cho

bộ đội của ta, Tố Hữu đã nói lên được sự thống nhất giữa người và cảnh:

Núi giăng thành luỹ sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng

(Việt Bắc, 1954)

Việt Bắc- quê hương cách mạng, đầu não kháng chiến - cố nhiên hình ảnh

trung tâm, nổi bật sẽ là hình ảnh “Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công”.

Và trung tâm của trung tâm, ở vị trí nổi bật nhất là hình ảnh Lãnh tụ. Do vậy mà

nỗi nhớ sâu đậm nhất là nhớ Bác.

Nhớ Ông cụ mắt sáng ngời

Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường

(Việt Bắc, 1954)

Người đi qua rồi mà rừng núi vẫn chưa hết ngạc nhiên sung sướng, vẫn tha

thiết trông theo. Bức tranh hiện lên như một câu chuyện thần tiên mà vẫn rất thật,

vì nó nói lên được một sự thực rất lớn là lòng nhân dân tha thiết hướng về lãnh tụ.

Nhớ Người những sáng tinh sương

Ung dung yên ngựa trên đường suối reo

Nhớ chân Người bước lên đèo

Người đi, rừng núi trông theo bóng Người

( Việt Bắc, 1954)

Những câu thơ nói cảnh trong tập Việt Bắc không nhiều. Cảnh gợi lên

cũng chỉ gợi bằng một vài nét. Nhưng chỉ vài nét mà rất đậm đà, rất phong phú và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

chan chứa tình người. Cảnh in dấu bàn tay người, do sức lao động, sức chiến đấu

56

của con người sáng tạo ra. Tố Hữu miêu tả cánh đồng Điện Biên sau chiến thắng,

một cảnh thật đẹp.

Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam

Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng

( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954)

Phải vượt qua bao nhiêu gian khổ, hy sinh, mới lại có được cảnh tươi sáng ấy:

Đêm lịch sử, Điện Biên sáng rực

Trên đất nước, như huân chương trên ngực

Dân tộc ta, dân tộc anh hùng.

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954)

Nói đến cái đẹp vô cùng của Tổ quốc, những cảnh Tố Hữu nghĩ đến nhiều

nhất cũng là những cảnh do sức người xây dựng:

Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt.

(Ta đi tới, 1954)

Ngay trên bến nước Bình Ca, cái phần đẹp nhất cũng là những chuyến phà

dào dạt tình người kháng chiến:

Nắng chói Sông Lô hò ô tiếng hát

Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca.

(Ta đi tới, 1954)

Kháng chiến thắng lợi, Trung ương Đảng và Bác Hồ về lại thủ đô, Tố Hữu

viết về Việt Bắc như là cái nôi của quê hương cách mạng. Nhà thơ nói ngay đến

mười lăm năm gắn bó, đến ngọn nguồn tình nghĩa:

Mười lăm năm ấy ai quên

Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà

Mình về mình lại nhớ ta

Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.

(Việt Bắc, 1954)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

57

Càng thân thiết gấp bội là những hình ảnh đặc sắc của Việt Bắc. Bên cạnh

cảnh thiên nhiên rực rỡ: "Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi" là con người đẹp: "Đèo

cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Bên cái cảnh đầm ấm:" Ngày xuân mơ nở trắng

rừng", gắn liền với cái hình ảnh đậm đà: "Nhớ người đan nón chuốt từng sợi

giang", "Ve kêu rừng phách đổ vàng". Cùng với hình ảnh "Nhớ cô em gái hái

măng một mình", là cảnh nên thơ" Rừng thu trăng rọi hoà bình", "Nhớ ai tiếng hát

ân tình thuỷ chung"... Những câu thơ viết tự nhiên, như tuôn chảy từ tấm lòng, có

nỗi nhớ của bốn mùa, lúc vắng lặng, hiu hắt, lúc rộn ràng tươi xanh. Nhà thơ phải

có cái tình thiết tha với con người và thiên nhiên Việt Bắc mới ghi được những

hình ảnh ấm áp ngời sáng như vậy.

Thiên nhiên nếu có lúc kém phần tươi tắn, thì tình người lại càng thắm

thiết hơn để bù đắp và hoà quyện với thiên nhiên:

Mình đi có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son.

( Việt Bắc, 1954)

Cảnh gắn với người, cùng với người là một cơ thể không thể phân chia.

Chúng ta không chỉ là chúng ta, chúng ta còn là nhà cửa, ruộng đồng, sông núi,

trời biển của chúng ta. Cái chân lý ấy, tập thơ Việt Bắc nêu rất rõ, đất nước chúng

ta là một phần của chúng ta. Cái ý thức chủ nhân luôn luôn thấm nhuần trong câu

thơ Tố Hữu. Cái tự hào về dân tộc bao gồm cả cái tự hào về đất nước:

Ngẩng đầu lên: trong sáng tuyệt trần

Tháng Tám mùa thu xanh thắm

Mây nhởn nhơ bay

Hôm nay ngày đẹp lắm

Mây của ta, trời thắm của ta.

( Ta đi tới, 1954)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

58

Niềm vui chiến thắng là niềm vui đến nghẹn ngào. Ta đi tới là một bài thơ

nói lên rất đúng nguồn phấn khởi của quần chúng nhân dân sau khi hoà bình đã

được lập lại. Đó là được "đi giữa ban ngày", được bước ung dung “trên đường

cái", được nhìn ngắm ôm trọn tất cả trời mây, sông biển của mình:

Mây của ta, trời thắm của ta

Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà !

( Ta đi tới, 1954)

Những câu thơ như thế, đọc lên ai mà không cảm thấy mênh mông

một niềm vui vừa ấm áp vừa hào sảng. Đó là niềm vui của con người làm

chủ đất nước.

Bức tranh quê hương đất nước trong Việt Bắc thật đa dạng, cảnh sắc quê

hương có lúc đầm ấm, rực rỡ tươi vui, có lúc u ám, xót xa, nhưng tất cả đều đáng

yêu, đáng quý. Vì nó luôn gắn với những hình ảnh thân yêu nhất của chúng ta, đó

là: hình ảnh lãnh tụ, anh bộ đội, nhân dân ta. Đó là bóng tre trên đèo, ánh sao đầu

súng, cánh đồng lúa thơm, rừng nứa, bờ tre, gió ngàn lồng lộng... đến cả cái hắt

hiu lau xám, đáy nước bóng thông, tất cả cảnh sắc quê hương gắn bó với con

người như "hình với bóng", luôn đan cài, hoà quyện với nhau không có gì có thể

tách chia ra được.

2.4. Tình cảm gắn bó với lãnh tụ và quê hƣơng cách mạng

1. Ca ngợi Hồ Chủ tịch là một trong những chủ đề lớn và thân thiết nhất

của Tố Hữu. Từ Cách mạng tháng Tám đến nay, nhà thơ đã nhiều lần viết về Bác

với tất cả tấm lòng yêu kính, biết ơn, và như là để nói hộ hoặc nói cùng chúng ta

những tình cảm mãnh liệt không nén nổi của toàn thể dân tộc ta đối với lãnh tụ vĩ

đại của mình.

Có thể nói gắn với từng mốc thời gian quan trọng của lịch sử, Tố Hữu luôn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

dõi theo hình bóng lãnh tụ để ghi lại những nét đẹp của Bác. Hình ảnh Hồ Chí

59

Minh- 1945 để khép lại Từ ấy, và Việt Bắc là sự tiếp nối của Từ ấy. để có những

hình ảnh mới về Bác càng thân thiết và gần gũi hơn.

*Hồ Chí Minh - 1945

Bài thơ Hồ Chí Minh được viết vào tháng Tám năm 1945, chưa hẳn là một

bài thơ xuất sắc. Nhưng đó là viên gạch đầu tiên đặt nền móng xây dựng lâu đài

thi ca Việt Nam ca ngợi lãnh tụ:

Hồ Chí Minh

Người lính già

Đã quyết chiến hy sinh

Cho Việt Nam độc lập

Cho thế giới hoà bình...

( Hồ Chí Minh, 1945 )

Bác Hồ đi vào lòng người Việt Nam trước hết trong tư cách người chiến sĩ

đấu tranh cho độc lập dân tộc và hoà bình cho nhân loại. Lịch sử yêu nước, chống

ngoại xâm ròng rã của dân tộc đã quy định cảm xúc thẩm mỹ này. Suốt chặng

đường dài nửa đầu thế kỷ, dân tộc ta rên xiết trong đau thương đòi hỏi cấp thiết

một con đường đúng đắn để cứu nước, cứu nòi. Chính vì vậy, sự đáp ứng nhu cầu

cấp thiết ấy của Người, tấm lòng của Người, ý chí và nhiệt tình cứu nước của

Người, cũng như tên gọi của Người làm xúc động không chỉ toàn thể dân tộc, mà

còn là cả một phần nhân loại đang chìm đắm trong nghèo khổ:

Hồ Chí Minh

Hỡi ngọn đuốc thiêng liêng

Trên đầu ta, ngọn cờ dân tộc

Trăm thế kỷ trọng tên người: Ái Quốc

Bạn muôn đời của thế giới đau thương.

(Hồ chí Minh, 1945)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

60

Lời thơ chưa đạt đến cái giản dị hàm xúc. Giọng thơ chưa có được cái

thắm thiết, đậm đà rất tiêu biểu đối với Tố Hữu về sau này. Nhưng bài thơ vẫn có

một ý nghĩa lớn: đúng lúc và cần thiết hơn lúc nào hết. Phải đề cao nhiệt tình cách

mạng, tinh thần đoàn kết dân tộc, tinh thần hy sinh, quyết chiến, quyết thắng của

quần chúng, xây dựng lòng tin tưởng tuyệt đối của nhân dân đối với lãnh tụ trong

buổi đầu cách mạng. Tố Hữu đã làm được điều ấy. Và khi miêu tả Bác như một

vị "anh hùng dân tộc", "bạn muôn đời của thế giới đau thương", mà lại là "người

Cha anh dũng", "người Lính già", là "tên quân cảm tử", cái nhìn của nhà thơ đã

kết hợp được khá nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và dân tộc, thấm nhuần tính

chất dân chủ đến mức hồn nhiên.

* Hồ Chí Minh- 1951

Sáu năm sau, Tố Hữu viết bài thơ Sáng tháng Năm. Đây là một bài thơ trữ

tình hoàn chỉnh ca ngợi Bác, thể hiện một chuyển biến quan trọng trong quan

niệm, trong nghệ thuật viết về Bác. Lúc này Tố Hữu đã là tác giả những bài thơ

nổi tiếng như Cá nước, Phá đường, Bà mẹ Việt Bắc, Lên Tây bắc, Lượm, Voi và

những bài thơ dịch cũng nổi tiếng không kém như Đợi anh về, Bài ca của người

du kích, A- liêu - sa nhớ chăng?, Nếu thầy mẹ chết... Nhà thơ đã có nhiều kinh

nghiệm xây dựng tính cách, biểu hiện đặc điểm dân tộc trong thơ. Có thể nói, đến

đây, tâm hồn trữ tình của Tố Hữu đã tìm ra được cách nói độc đáo để miêu tả

khuynh hướng sử thi của hiện thực cách mạng rộng lớn.

Mở đầu Sáng tháng Năm, Tố Hữu giới thiệu rất tự nhiên cảnh sắc, đất trời

và tâm trạng tác giả một lần gặp Bác. Lòng người xao xuyến, mong đợi, mà thanh

thản, sáng trong. Không, nhà thơ sẽ không đứng từ xa, không dựa chủ yếu vào

tưởng tượng, vào yêu cầu tất yếu của cách mạng và từ góc độ chính trị để dựng

lên hình ảnh lãnh tụ. Nhà thơ đến thăm Bác Hồ, ngắm nhìn Bác và lắng nghe Bác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

nói, miêu tả Bác trong sinh hoạt bình thường, ước mơ, suy tưởng gắn liền với

61

những cảm giác, cảm xúc cụ thể. Chính vì rất thật, rất sống, cho nên hình ảnh Bác

trong Sáng tháng Năm mới mẻ, đa dạng, vừa có chiều sâu lại vừa bay bổng:

Bàn tay con nắm tay cha

Bàn tay Bác ấm vào da vào lòng

Bác ngồi đó, lớn mênh mông

Trời xanh, biển rộng, ruộng đồng, nước non...

( Sáng tháng Năm, 1951)

Hình ảnh Bác hoà vào đất nước, lớn lao, nhưng đồng thời cũng rất gần gũi,

thân mật, ấm áp. Sức cảm hoá kỳ lạ của Bác chính là đức tính giản dị, tấm lòng

hiền từ, nhân hậu, phong độ, thanh thản, ung dung. Bác là một lãnh tụ hiền minh.

Người là" Hồ Chí Minh vĩ đại", là "mặt trời cách mạng", nhưng cũng "là Cha, là

Bác, là Anh". Ở Bác, nhà thơ đặc biệt nhấn mạnh đức tính giản dị, như tất cả

những người dân lao động khác. Bên cạnh những nét hùng tráng cao cả của Hồ

Chủ tịch, là những nét thật giản dị như Tố Hữu đã từng nói: "Tất cả đều là những

tình cảm rất chân thật từ đáy lòng. Trong đời làm thơ của tôi, đây là lần đầu tiên

tôi viết được một bài thơ về Bác như vậy. Sự giản dị, hồn nhiên của Bác trong

phong cách, từ quần áo, giọng nói, cử chỉ, không một chút gì cao siêu, mà rất gần

gũi, bình thường...". Với Sáng tháng Năm Tố Hữu đã viết nên những vần thơ đầy

tự hào và kính yêu Bác vô hạn, từ cử chỉ và dáng hình cụ thể:

Bác kêu con đến bên bàn

Bác ngồi Bác viết nhà sàn đơn sơ

Con bồ câu trắng ngây thơ

Nó đi tìm thóc quanh bồ công văn.

Đến những khái quát:

Bác Hồ đó, chiếc áo nâu giản dị

Màu quê hương bền bỉ đậm đà

( Sáng tháng Năm, 1951)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

62

Hồ Chí Minh hiện ra thật đơn giản, gần gũi, thật nhân hậu. Trong thơ Việt

Nam cho đến lúc này và có lẽ cho đến hôm nay những phát hiện như thế ở Tố

Hữu, vẫn giữ nguyên sức khám phá mới mẻ:

Ôi người Cha đôi mắt mẹ hiền sao

Giọng của Người không phải sấm trên cao

Thấm từng tiếng, ấm vào lòng mong ước

...

Người là Cha, là Bác, là Anh

Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ.

( Sáng tháng Năm, 1951)

Phong thái ung dung, thanh thản:

Bác Hố đó, ung dung châm lửa hút

Trán mênh mông, thanh thản một vùng trời.

( Sáng tháng Năm, 1951)

Và cái cảm giác choáng ngợp khi đứng bên Bác, cũng không phải là khó

hiểu, bởi người ta vẫn có thể cảm thấy gần gũi mà vẫn không thôi kinh ngạc, sửng

sốt. Nhưng quan trọng là ngay sau đó nhà thơ đã nói được sự thật này:

Ta lớn cao lên, bay bổng diệu kỳ

Trên đường dài, hai cánh đỡ ta đi

...

Ta bên Người, Người toả sáng trong ta

Ta bỗng lớn ở bên Người một chút.

( Sáng tháng Năm, 1951)

Bên Bác có giây phút ta bàng hoàng, nhưng không hề thấy mình nhỏ bé.

Bác truyền sức cho ta, sưởi ấm trong ta, ta không chỉ là ta, lại lớn lên, bay bổng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Tài đức của Bác đã giải phóng con người, đúng hơn là giúp con người tự giải

63

phóng, tự nhân sức mình lên. Người kết tinh những ước vọng lớn lao, sâu kín của

quần chúng, định hình cho những ước vọng ấy:

Hồn biển lớn đón muôn người thủ thỉ

Lắng từng câu, từng ý chưa thành.

( Sáng tháng Năm, 1951)

Nhà thơ phát hiện và đề cao khả năng kết hợp nhân tâm, thấu hiểu tình

người ở lãnh tụ. Vì tấm lòng yêu thương, chăm chút, bao dung ấy sẽ cảm hoá sâu

sắc từng người, khiến cho mỗi con người trong đội quân cách mạng được người

dìu dắt đã làm nên lịch sử vẻ vang cho dân tộc.

Sáng tháng Năm là một cái mốc lớn trên quá trình" xây dựng" hình tượng

Bác trong thơ Tố Hữu. Nhà thơ đã đến được cách gọi đúng nhất về lãnh tụ: rất tôn

kính, rất gần gũi, rất Việt Nam. Thơ ca viết về Bác trước đây và sau này, ở trong

nước và nước ngoài đã nhiều, và không ít bài hay, nhưng quả chưa có bài nào có

sức vang động sâu xa như Sáng tháng Năm của Tố Hữu.

* Hồ Chí Minh- 1954

Viết về Tổ quốc và Cách mạng, Tố Hữu luôn nghĩ đến Bác. Trong những

bài: Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Ta đi tới, Việt Bắc chúng ta luôn bắt gặp những

đoạn, những câu ca ngợi công đức trời biển, chiêm ngưỡng trí tuệ tuyệt vời và tâm

hồn rộng lớn của Bác. Cùng với chiến thắng Điện Biên, "nước non", "ruộng đồng",

"trời xanh", "biển rộng" bỗng dõng dạc cất cao lên thành tiếng. Và lần đầu tiên trong

thơ Tố Hữu niềm vui vinh quang đã được khoác vào Tổ quốc, và lãnh tụ:

Vinh quang Tổ quốc chúng ta

Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà !

Vinh quang Hồ Chí Minh, Cha của chúng ta ngàn năm sống mãi

( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Quyết chiến, quyết thắng, cờ đỏ sao vàng vĩ đại !

64

Lời thơ đang sảng khoái, đanh thép ở đoạn miêu tả chiến công của các

chiến sĩ Điện Biên và sự thất bại nhục nhã của kẻ thù, bỗng chuyển sang thiết tha,

quấn quýt khi nói về Bác:

Tiếng reo núi vọng sông rền

Đêm nay chắc cũng về bên Bác Hồ

Bác đang cúi xuống bản đồ

Chắc là nghe tiếng quân hò quân reo...

Từ khi vượt núi qua đèo

Ta đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngày

Tin về mừng thọ đêm nay

Chắc vui lòng Bác, giờ này đợi trông

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954)

Tám câu thơ làm thành hai đoạn cân đối, bổ sung cho nhau, nêu bật lên

quan hệ mật thiết giữa lãnh tụ và quần chúng. Mỗi đoạn gồm hai cặp câu trong đó

ý nghĩa, hình ảnh, âm thanh cùng đi về, đối đáp như tình nghĩa, như thuỷ chung.

Vẫn là hình ảnh lãnh tụ hiền minh đêm ngày lo toan việc nước, suy nghĩ về chúng

ta, nhưng sự chăm sóc bây giờ như càng cụ thể, tỉ mỉ thêm: "Ta đi Bác vẫn nhìn

theo từng ngày". Câu thơ mang âm hưởng thời gian, mang tình nghĩa của cuộc

kháng chiến kéo dài nhiều năm, có khởi đầu từ niềm tin trước lúc chiến thắng:

Bác bảo đi là đi

Bác bảo thắng là thắng.

( Sáng tháng Năm, 1951)

Đến Ta đi tới, lịch sử đã sang trang mới.Giọng thơ gấp rút, sôi nổi đã

chuyển sang trầm hùng, chững chạc, tuôn chảy. Lần đầu tiên sau chín năm kháng

chiến và cũng là lần đầu tiên trong đời thơ của mình, Tố Hữu ngoái nhìn lại cả

con đường cách mạng mà dân tộc đã đi qua. Tất cả bây giờ đã là của ta. Đất nước

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

lại đẹp tuyệt trần, hình ảnh Bác thật lộng lẫy lạ thường:

65

Cờ đỏ bay quanh tóc bạc Bác Hồ !

(Ta đi tới, 1954)

Khung cảnh đơn sơ, ríu rít, tươi sáng và đầm ấm biết bao! Đọc câu thơ ta

có thể hình dung cả màu trời, sắc nắng, cả không khí phơi phới ngày ta về lại thủ

đô. Hình ảnh mái tóc bạc của Bác còn xuất hiện nhiều lần trong thơ Tố Hữu,

nhưng có lẽ chỉ trong Ta đi tới (Cờ đỏ bay quanh tóc bạc bác Hồ)và Mười năm

(Phơ phơ tóc bạc trên đài nắng lên) ngòi bút của Tố Hữu đã để lại ở người đọc ấn

tượng mạnh mẽ hơn cả. Ở đây ta thấy rõ năng lực tạo hình của nhà thơ cùng với

trí tuệ sáng suốt và tình cảm thấm thía.

Chân dung Bác trong bài Việt Bắc là sự kết hợp tuyệt đẹp giữa hình, tình và nhạc:

Mình về nhớ Bác đường xuôi

Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người

Nhớ Ông cụ mắt sáng ngời

Áo nâu túi vải đẹp tươi là thường !

Nhớ Người những sáng tinh sương

Ung dung yên ngựa trên đường suối reo

Nhớ chân Người bước lên đèo

Người đi, rừng núi trông theo bóng Người...

(Việt Bắc, 1954)

Tố Hữu đã dựng nên một bức tranh đầy chất thơ, chất nhạc, rất trữ tình

và giàu sức gợi tả. Hình ảnh, phong độ của Bác rất mực giản dị, ung dung,

thanh thoát.

Hình ảnh Bác được Tố Hữu viết lên ở những thời kỳ khác nhau, do đó hình

ảnh Bác cũng biến đổi theo nhiệm vụ cách mạng từng giai đoạn, theo sự nhận

thức của nhà thơ về những vấn đề lớn do thời sự đặt ra. Nhưng dù ở bất kỳ giai

đoạn nào thì trong thơ Tố Hữu hình ảnh Bác luôn hiện lên như sự kết hợp giữa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

cái vĩ đại và cái bình thường làm cho hình tượng Bác vừa đồ sộ và chói lọi, vừa

66

thân thuộc và bình dị lạ thường. Qua thơ Tố Hữu ta không chỉ thấy Bác, và tâm

hồn nhà thơ, mà thấy cả vóc dáng và bước đi của dân tộc.

Sau Việt Bắc, qua Gió lộng, đến Ra trận, Tố Hữu còn nhiều bài, nhiều câu

về Bác. Cũng vẫn Tố Hữu đứng ở hàng đầu nền thơ hiện đại Việt Nam khắc hoạ

chân dung Bác, ghi nhận“ muôn vàn tình thương yêu” Bác dành cho dân, cho

nước. Cũng vẫn Tố Hữu là người đại diện tiêu biểu nhất cho tình cảm của toàn

thể dân tộc Việt Nam, cho hàng triệu nhân dân Việt Nam đối với Bác- trong và

sau ngày Bác mất, qua Bác ơi (1969) và Theo chân Bác (1970).

2. Sau chín năm kháng chiến, những người kháng chiến từ miền núi về

đồng bằng, Trung ương, Chính phủ từ chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Tố Hữu

đã rất kịp thời nói lên tình nghĩa đối với quê hương cách mạng, đối với kháng

chiến để mọi người trong niềm vui hiện tại không quên chặng đường gian khổ

đầy tình nghĩa vừa qua. Cái nhìn của Tố Hữu đối với căn cứ địa Việt Bắc, là cách

nhìn của một nhà thơ cách mạng, đầy tình thương yêu, chung thuỷ, quý trọng và

biết ơn.

Trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học người Pháp là Mi.reille

Gánel, Tố Hữu tâm sự: Anh" phải lòng" đất nước và nhân dân mình, tình yêu đó

đã biến thành tình nghĩa, và Việt Bắc trở thành tiếng hát ân tình chung của những

người kháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm đáng ghi nhớ của dân tộc.

Bài thơ cấu tạo theo lối đối đáp thường gặp trong văn học dân gian, đối đáp

giữa hai người yêu thương nhau, tình nghĩa mặn nồng nay phải chia tay nhau, kẻ

ra đi người ở lại:

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

( Việt Bắc, 1954)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

67

Thiết tha và ân tình. Mười lăm năm ấy... Bao nhiêu sự kiện lịch sử trọng

đại là bấy nhiêu tình nghĩa. Người về cũng cùng một tâm trạng, cũng tình nghĩa

thuỷ chung không kém:

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình,

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu.

(Việt Bắc, 1954)

"Ta" và "mình" không phải lúc nào cũng là hai nhân vật tách biệt, mà có sự

đan cài vào nhau hoà làm một. Cho nên bên cạnh hình ảnh "ta" và "mình" tách

biệt nhau, nhà thơ còn sử dụng hai từ "mình" trong câu thơ:

Mình đi mình có nhớ mình

Hoặc:

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu.

( Việt Bắc, 1954)

Kháng chiến thắng lợi, trên đường về lại thủ đô, trong suy nghĩ của Tố

Hữu và của mỗi chúng ta lúc đó, nổi bật lên hình ảnh Việt Bắc là quê hương cách

mạng. Mở đầu bài thơ Tố Hữu nói ngay tới mười lăm năm ấy, đến ngọn nguồn,

tình nghĩa. Việt Bắc với sinh hoạt ở chiến khu, thời kỳ Việt Minh, kháng Nhật,

với mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào. Rồi Việt Bắc nơi Trung ương, Chính

phủ làm việc, là đầu não cuộc kháng chiến chống Pháp với những hoạt động sôi

nổi, với bao nhiêu kỷ niệm không thể nào quên được. Ý nghĩa lớn lao của Việt

Bắc được nhà thơ thâu tóm lại trong đoạn thơ cuối - phần nói về những ngày

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

kháng chiến đã qua:

68

Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền

Mười lăm năm ấy ai quên

Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà.

Mình về mình lại nhớ ta,

Mái đình, Hồng Thái, cây đa Tân Trào.

( Việt Bắc, 1954)

Dưới ngòi bút của Tố Hữu, Việt Bắc hiện lên rất chân thực và xúc động:

Mình đi có nhớ những ngày,

Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù.

Mình về có nhớ chiến khu,

Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai.

Mình về rừng núi nhớ ai,

Trám bùi để rụng măng mai để già.

Mình đi có nhớ những nhà,

Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son.

( Việt Bắc, 1954)

Nét đặc sắc cao quý của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo cực mà chân tình,

rộng mở mà son sắt, thuỷ chung với cách mạng. Người đã vậy mà thiên nhiên

cũng vậy. Những câu thơ như " Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai", hay

"Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son", vừa dân dã, vừa cổ điển, cân đối, cô đúc, lại

ngân vang, dìu dặt, thắt buộc, thân thuộc mà mới mẻ lạ lùng.

Nhưng không phải chỉ có thế. Tố Hữu còn đem đến cho ta bức tranh "tứ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

bình" bốn mùa tuyệt diệu về quê hương cách mạng Việt Bắc:

69

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Ve kêu rừng phách đổ vàng,

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Rừng thu trăng rọi hoà bình,

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

( Việt Bắc, 1954)

Kháng chiến và cách mạng đã xua tan bớt nét hiu hắt âm u của Việt Bắc,

làm tăng thêm cảnh thơ mộng của nó và đưa vào đó không khí chiến đấu hào

hùng của dân tộc. Rừng núi tình nghĩa cũng là rừng núi chiến đấu kiên cường và

tâm hồn con người ngọt ngào, chung thuỷ giản dị trong cuộc sống hàng ngày cũng

hân hoan, rộng mở trước những cảnh tượng hùng vĩ của cuộc chiến đấu, của hoạt

động cách mạng. Chất hùng tráng cũng là nét đáng nhớ của Việt Bắc trong những

câu thơ:

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng,

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.

Dân công đỏ đuốc từng đoàn,

Bước chân nát đã muôn tàn lửa bay.

( Việt Bắc, 1954)

Như vậy, với Tố Hữu, Việt Bắc là khúc hát ân tình của con người kháng

chiến với quê hương cách mạng,với đồng bào các dân tộc miền núi, với nhân dân.

Những tình cảm này đan dệt với nhau mang đến cho bài thơ một sắc thái mới:

tình cảm công dân, tình cảm chính trị là nguồn thơ chủ yếu của Tố Hữu. Nhưng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

ông đã thể hiện một cách tự nhiên, đầy cảm hứng, bằng giọng điệu tâm tình dịu

70

ngọt trong bài thơ. Ông đã dùng lời của những người yêu nhau trong lối đối đáp

giao duyên của ca dao dân ca để nói lên đạo lý dân tộc, tình nghĩa nhân dân và

nhất là tình nghĩa với kháng chiến và cách mạng. Bài thơ là một lời nhắc nhở:

Đừng quên những tấm lòng son đã hiến dâng tất cả cho cách mạng trong những

ngày gian khổ nhất. Đừng quên những mái nhà hắt hiu lau xám, đừng quên những

địa danh đã đi vào lịch sử: mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào...Tố Hữu nhắc

nhở mọi người cũng chính là nhắc mình, và những tình cảm chính trị đã đến với

họ như những tiếng ru ngọt ngào, sâu lắng.Vì thế, quê hương cách mạng Việt Bắc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

đã trở thành quê hương chung của tất cả mọi người Việt Nam yêu nước.

71

CHƢƠNG III

GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TẬP THƠ “ VIỆT BẮC”

3.1. Sự gắn bó khăng khít giữa tính dân tộc và tính đại chúng

3.1.1. Thể thơ, câu thơ

Nếu như ở Từ ấy Tố Hữu sử dụng phần lớn là thể thơ 7 chữ, 8 chữ, thậm

chí nhiều bài có vẻ trau chuốt để "thành thơ", thì đến Việt Bắc phong cách

thơ của Tố Hữu đã bám sát đời sống quần chúng: phản ánh sinh hoạt của

nhân dân, với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, tự nhiên, chứa đựng lối nói, lối

nghĩ của quần chúng, với hình ảnh đậm đà màu sắc ca dao dân ca, với thể

thơ phong phú, linh hoạt.

Tố Hữu thường dùng nhiều nhất là thể lục bát của văn học dân tộc, kết hợp

đặc sắc của thơ ca dân gian và cổ điển. Nó vừa kết hợp được điệu lục bát cổ của

bình dân vừa phảng phất lối đối theo từng vế giống như những câu thơ cổ điển của

Truyện Kiều, hoặc Chinh phụ ngâm:

Nhà em phơi lúa chửa khô

Ngô chửa vào bồ, sắn thái chưa xong

Nhà em con bế con bồng

Em cũng theo chồng đi phá đường quan.

( Phá đường, 1948)

Hay:

Anh về, cối lại vang rừng

Chim reo quang mái, gà mừng dưới sân

Anh về, sáo lại ái ân

Đêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca...

(Lên Tây Bắc, 1948)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

72

Tình cảm mặn nồng, sự vỗ về của tình bà cháu, tình mẹ con trong sự hoà

hợp với tình yêu đất nước được Tố Hữu sử dụng bằng thể thơ lục bát như lời hát

ru ngọt ngào thật yêu thương:

Xa xôi đầu xóm tre xanh

Có bà ru cháu nằm khoanh lòng già

Cháu ơi cháu ngủ với bà

Bố mày đi đánh giặc xa cha về.

( Cá nước, 1947)

Phần lớn các câu thơ lục bát của Tố Hữu đều uyển chuyển. Những câu thơ

lục bát hay nhất của Tố Hữu đã tiếp nối và gắn nối được cái truyền thống của ca

dao và thơ ca cổ điển Việt Nam, khai thác triệt để khả năng diễn đạt của câu thơ

lục bát trong truyền thống văn học dân tộc để miêu tả cuộc sống của nhân dân một

cách sinh động.

Gắn với truyền thống cổ điển Việt Nam, Tố Hữu luôn tìm cách làm mới

mình trước những trang thơ. Ông viết những vần thơ 7 chữ mà ta thấy nhiều lúc

có bề thế của câu thơ 8 chữ nhằm thể hiện không khí dồn dập, sôi nổi trong cuộc

kháng chiến của nhân dân:

Nghe trưa nay tháng năm mùng bảy

Trên đầu bay thác lửa hờn căm

Trông: Bốn mặt lũy hầm sụp đổ

Tướng quân bay lố nhố cờ hàng

Trông: chúng ta cờ đỏ sao vàng

Rực trời đất Điện Biên toàn thắng

( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

73

Hay mấy câu thơ mở đầu Ta đi tới. Ở đây Tố Hữu đã vận dụng một cách

linh hoạt việc sử dụng niêm luật, phối thanh, nhạc điệu khiến cho câu thơ khi

đọc lên ta nghe thật thoải mái, phù hợp với tâm hồn con người đã được làm

chủ đất nước:

Trên đường cái ung dung ta bước

Đường ta rộng thênh thang tám thước

Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên

(Ta đi tới, 1954)

Qua Tố Hữu, những câu thơ vốn hiền lành như bốn chữ, năm chữ cũng nói

lên được cái đồ sộ, hoành tráng, hùng vĩ:

Voi là voi ơi

Voi đi đánh nhé

Voi gầm voi ré

Voi xé tơi bời !

(Voi, 1948)

Ở bài Lượm ta lại cảm nhận được cái nhanh nhẹn, tháo vát, mạnh bạo,

không sợ hiểm nguy của bé Lượm giữa làn đạn của kẻ thù:

Vụt qua mặt trận

Đạn bay vèo vèo

Thư đề" thượng khẩn"

Sợ chi hiểm nghèo ?

(Lượm, 1949)

Để có đủ khả năng biểu hiện nội dung mới, thể thơ nhiều khi phải phá luật.

Trong mỗi bài thơ, Tố Hữu không chỉ sử dụng một thể thơ lục bát, song thất lục

bát, hay ngũ ngôn... mà còn sử dụng linh hoạt tất cả các thể thơ trong cùng một bài

để nhịp thơ ăn khớp với nhịp suy nghĩ, tình cảm của nhân dân. Bài thơ Phá đường

là minh chứng khá rõ việc Tố Hữu phối hợp các thể thơ, làm cho bài thơ thật dồi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

dào tính nhạc:

74

Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế

Gió qua rừng đèo Khế gió sang

Em là con gái Bắc Giang

Rét thì mặc rét nước làng em lo

Nhà em phơi lúa chửa khô

Ngô chửa vào bồ sắn thái chưa xong

...

Trên đồi quê

Trăng non mới hé

Đường thì dài, Hố xẻ chưa sâu

Chưa sâu thì cuốc cho sâu

Có anh có chị cùng nhau ta đào !

Hì hà hì hục

Lục cục lào cào

Anh cuốc em cuốc

Đá lở đất nhào !

( Phá đường, 1948)

Chỉ trong một đoạn thơ, Tố Hữu đã sử dụng các thể thơ khác nhau, khi thì

dàn trải, khi trở nên mềm mại uyển chuyển, khi lại sôi nổi hào hứng... khiến cho

nhịp điệu phong phú, linh hoạt theo cảm xúc, sự việc, mà tác giả muốn bộc lộ.

Thành công của bài Phá đường được củng cố bởi hàng loạt các bài thơ khác, như

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên:

Tin về nửa đêm

Hoả tốc hoả tốc

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên

Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp !

75

Vinh quang Tổ quốc chúng ta

Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà

Vinh quang Hồ Chí Minh, Cha của chúng ta ngàn năm sống mãi...

Tiếng reo núi vọng sông rền

Đêm nay chắc cũng về bên Bác Hồ...

(Hoan hô chiến sĩ Điện biên, 1954)

Tố Hữu sử dụng rất linh hoạt những câu thơ tự do, ngắn dài khác nhau, để

diễn đạt những nội dung tư tưởng, tình cảm biến đổi. Đọc đoạn thơ trên ta như hiểu

được sau những trận đánh dữ dội của quân và dân ta là một niềm xúc động trào

dâng khi nhận được tin quân ta chiến thắng, câu thơ thật ngắn gọn, dồn dập, bỗng

được ghi lại bằng những câu thơ dài khi nói tới niềm vui chiến thắng, và trong niềm

vui chiến thắng ấy là chúng ta nghĩ ngay đến hình ảnh Tổ quốc, hình ảnh Bác Hồ

kính yêu của dân tộc. Câu thơ dài, nhịp thơ sôi trào, thể hiện niềm vui vô bờ của

quân và dân ta sau chín năm gian khổ trông đợi để có được ngày hôm nay.

Khi cần gợi khí thế sục sôi của chiến dịch Điện Biên, muốn ghi lại những

gian khổ hy sinh nhưng đầy ý chí kiên cường của quân và dân ta, Tố Hữu cũng sử

dụng những câu thơ ngắn dài khác nhau:

Chiến sĩ anh hùng

Đầu nung lửa sắt

Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt.

Máu trộn bùn non

Gan không núng

Chí không mòn

Những đồng chí thân chôn làm giá súng...

( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954)

Hoặc khi cần nói tới các miền đất khác nhau của Tổ quốc, nhắc đến chiến công

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

của chiến khu cách mạng, nhà thơ cũng sử dụng đắc địa việc phối hợp các thể thơ:

76

Ai đi Nam Bộ

Tiền Giang, Hậu Giang

Ai về thành phố

Hồ Chí Minh

Rực rỡ tên vàng

Ai về thăm Bưng Biền Đồng Tháp

Việt Bắc miền Nam, mồ ma giặc Pháp...

(Ta đi tới, 1954)

Tố Hữu sử dụng những câu thơ liền mạch, thường theo diễn biến của tình

cảm, theo lối "các câu thơ gọi nhau", nên "tiếng gọi" của câu đầu có ý nghĩa rất

lớn đối với toàn bài thơ:

Ta đi giữa ban ngày

Trên đường cái ung dung ta bước

Đường ta rộng thênh thang tám thước

Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên...

(Ta đi tới, 1954)

Trong bài thơ Việt Bắc nhà thơ cũng tạo nên sự liền mạch của hơi thơ, các

câu thơ "ríu rít" gọi nhau, hai nhân vật "Mình" và "Ta" cứ xoắn xít, đan cài từ đầu

đến cuối bài thơ:

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn ?...

(Việt Bắc, 1954)

Nhìn chung, Tố Hữu rất thành thạo trong các thể thơ truyền thống. Đối với

ông tất cả đều là thơ điệu nói- đúng như nhận xét của Giáo sư Trần Đình Sử. Đó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

là thơ của người Việt Nam hiện đại, là kiểu thơ dân tộc hiện đại.

77

3.1.2. Nhạc điệu

Khi nói đến nhạc điệu trong thơ Tố Hữu, thì ta cảm nhận được trong những

vần thơ của ông luôn chứa đựng một thứ nhạc đặc biệt đó là nhạc điệu tâm hồn

nhà thơ. Nó là sự kết tinh hiện thực phản ánh trong thơ, chất suy nghĩ, sự xúc

động và sức tưởng tượng của tác giả. Nhạc điệu tâm hồn nhà thơ được toát ra

từ toàn bộ hình tượng thơ, từ cấu tứ, hình ảnh, kết cấu ... Nhờ có nhạc điệu của

tâm hồn nhà thơ mà những vần thơ của ông luôn theo sát và đến thẳng tâm hồn

bạn đọc.

Thơ Tố Hữu là tiếng nói của lẽ sống lớn, tình cảm lớn. Tâm hồn thơ ông

thật trong sáng, giàu có và đa dạng. Do luôn chứa đựng một tình yêu thương rất

lớn, nhiều người đã gọi ông là "thi sĩ của tình thương". Tình yêu thương của Tố

Hữu không chỉ được thể hiện qua câu, chữ, hình ảnh mà còn được thể hiện qua

hình tượng âm nhạc của thơ, cố nhiên nhạc điệu của câu thơ không chỉ ở chữ

nghĩa mà còn ở những khoảng trống, những chỗ im lặng giữa các chữ, các dòng.

Và nhạc của thơ cũng không chỉ là nhạc của âm thanh, của lời mà quan trọng là

thứ nhạc của tâm tình, như Xuân Diệu đã nhận xét: "Đọc thơ Tố Hữu, người ta

nhận thấy một dấu hiệu riêng như nét mặt của những bài thơ, làm cho thơ Tố Hữu

không trộn lẫn được với thơ người khác, cảm thấy một thứ nhạc tâm tình riêng

bàng bạc thấm lấy các câu nhiều khi thành một thứ "thi tại ngôn ngoại" của Tố

Hữu. Cái nền nhạc đặc biệt đó, theo ý tôi, là lòng thương mến" .Ta có thể nhận

thấy thứ nhạc đặc biệt đó trong bài Lên Tây Bắc:

Lại những ngày đi, vắt với sương

Ngô bung, xôi nhạt, nước lưng bương

Đêm mưa rình giặc, tai thao thức

Mùa lại mùa qua rét nhức xương.

( Lên Tây Bắc, 1948)

Những câu thơ chứa chan tình cảm đối với anh bộ đội trong hoàn cảnh

chiến đấu gian khổ hồi bấy giờ. Và tình cảm đó đã truyền được đến người đọc qua

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

cách gieo vần của nhà thơ, qua âm hưởng của những chữ sương, bương, xương,

78

đọc lên thật xúc động. Nhưng điều quan trọng hơn còn là phần thơ ở ngoài lời,

phần không thể nói ra được bằng lời, cũng không thể nói hết bằng âm thanh nhịp

điệu vì bao trùm lên hết thảy là tâm hồn nhà thơ. Tố Hữu cũng đã có lần nói: "Thơ

là cái đó, sự im lặng giữa các từ. Nếu người ta lắng nghe cái im lặng đó thì có

những tiếng dội rất đa dạng và rất tinh tế".

Thơ Tố Hữu có rất nhiều bài đạt tới sự hoà hợp giữa thứ "nhạc bên trong"

của tâm hồn và "thứ nhạc bên ngoài" của bài thơ như mấy câu thơ trong Sáng

tháng Năm:

Vui sao một sáng tháng Năm

Đường về Việt Bắc, lên thăm Bác Hồ

Suối dài xanh mướt nương ngô

Bốn phương lồng lộng thủ đô gió ngàn...

(Sáng tháng Năm, 1951)

Tố Hữu là nhà thơ nhạy cảm đặc biệt với nhạc tính của tiếng Việt và biết

phát huy cao độ khả năng biểu cảm của nó. Vì vậy trong thơ ông tính nhạc rất giàu

có, chất dân tộc sâu đậm, đặc biệt là giọng mộc mạc, đằm thắm của ca dao.

Xa xôi đầu xóm tre xanh

Có bà ru cháu nằm khoanh lòng già:

Cháu ơi cháu lớn với bà

Bố mày đi đánh giặc xa chưa về

(Cá nước, 1947)

Đọc thơ Tố Hữu, ta cảm thấy có cái gì như muốn ca lên, hát lên và ngân

nga mãi trong lòng:

Con ơi con ngủ cho ngoan

Sang canh trăng lặn, buổi tan mẹ về…

(Phá đường, 1948)

Giữa bao nhiêu giọng điệu thơ Việt Nam hiện đại, thơ Tố Hữu có giọng

điệu riêng, độc đáo. Đó là giọng tâm tình, ngọt ngào, thiết tha, giọng của tình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

thương. Đọc thơ ông người đọc luôn bị cuốn hút trong cái đằm thắm, da diết

79

thường trực, tràn đầy từ sâu xa đáy lòng của nhà thơ. Có thể nói, phần lớn các bài

trong tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu được viết bằng giọng điệu này. Lưu Trọng Lư

đã nhận xét: "Thơ anh nhiều phong vị dân gian, giàu âm nhạc, nên dễ vào lòng

quần chúng, nhất là quần chúng nông thôn. Nhiều câu thơ trong Truyện Kiều đã

biến thành lời ru bên nôi, thì nhiều câu thơ trong Việt Bắc đã biến thành tiếng hát

ruộng đồng. Thơ anh dân tộc, dân gian chỉ vì anh muốn nó đại chúng", ta bắt gặp

trong bài Voi âm hưởng điệu hò của người kéo gỗ:

Ta bế ta bồng

Voi lên ta vác

Vai ta vai sắt

Chân ta chân đồng...

(Voi, 1948)

Ở Bà mẹ Việt Bắc, lại là điệu vè kể chuyện của quần chúng:

Con mé có ba

Trai hai gái một

Giá gả chồng xa

Trai còn đứa rốt

(Bà mẹ Việt Bắc, 1948)

Với Phá đường lại có cách xưng hô ngọt ngào, nhịp điệu uyển chuyển

ngay trong lời nhân vật tự giới thiệu:

Em là con gái Bắc Giang

Rét thì mặc rét, nước làng em lo

Nhà em phơi lúa chửa khô

Ngô chửa vào bồ sắn thái chưa xong

( Phá đường, 1948)

Trong thơ Tố Hữu ta còn bắt gặp nhiều cách xưng hô thân thương trìu

mến: bác, bầm, em, cha, mình, ta...Đặc biệt với bài Việt Bắc, chúng ta như được

tiếp xúc với một bài ca dao dài, là cuộc đưa tiễn nhau của hai người yêu nhau. Từ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

cảnh chia ly đến nỗi nhớ, từ điều tâm sự, nhắn nhủ đến nỗi ước mong, hò

80

hẹn…đều in rõ dấu vết của lối đối đáp nam nữ trong ca dao, dân ca. Nhưng ở đây

không phải là đôi trai gái, Tố Hữu mượn mối tình nồng thắm của đôi trai gái trong

ca dao, dân ca để nói đến tình nghĩa keo sơn của người cán bộ cách mạng với

nhân dân, với kháng chiến, cụ thể là đối với chiến khu Việt Bắc. Tố Hữu muốn

nhắn nhủ những người cán bộ khi hòa bình trở lại thủ đô thì đừng bao giờ quên

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng, rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”, đừng quên

những ngày gian khổ kháng chiến "miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”. Tố

Hữu muốn khẳng định tình đoàn kết khăng khít giữa đồng bào miền xuôi và nhân

dân miền ngược.

Bên cạnh giọng trữ tình tha thiết, trong tập thơ Việt Bắc không thể

thiếu giọng anh hùng ca. Nhưng ngay cả "những bài vang dội giọng anh

hùng ca vẫn đậm đà giọng trữ tình tha thiết. Nhiều khi hai giọng đó vẫn

quyện lấy nhau nhuần nhuyễn và vẫn nổi bật cái nền trữ tình nồng thắm"

(Nguyễn Trung Thu). Điều đó đã giúp ta cảm nhận được cái nhạc điệu ngọt

ngào trong tập thơ Việt Bắc:

Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều

Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo

Núi không đè nổi vai vươn tới

Lá nguỵ trang reo với gió đèo

( Cá nước, 1947)

Hay:

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên

Chiến sĩ anh hùng

Đầu nung lửa sắt

Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa rầm, cơm vắt.

Máu trộn bùn non

Gan không núng

Chí không mòn !

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

81

Cái ngọt ngào trong thơ Tố Hữu còn ở hơi thở dân tộc. Nhiều câu thơ Tố

Hữu kế thừa rất sáng tạo vốn cổ điển và vốn dân gian. Câu thơ hiện đại mà nghe

có hơi của điệu ngâm:

Mười lăm năm ấy ai quên

Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà

Mình về mình có nhớ ta

Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.

(Việt Bắc, 1954)

Tố Hữu biết học cách sáng tạo trong Kiều và ca dao, cái hơi vè dân gian

được sống dậy và nâng lên thành nghệ thuật:

Bà bủ nằm ổ chuối khô

Bà bủ không ngủ, bà lo bời bời

Đêm nay tháng chạp mồng mười

Vài mươi bữa nữa Tết rồi hết năm.

(Bao giờ hết giặc, 1948)

Hơi thở dân tộc đã tạo cho thơ Tố Hữu giàu chất nhạc. Mỗi tiếng "Ai" cất

lên như xoáy vào mỗi chúng ta một lòng yêu nước tha thiết.

Ai về Hưng Hoá

Ai xuống khu Ba

Ai vào khu Bốn

Đường ta đó, tự do cuồn cuộn

Bốt đồn Tây đã cuốn sạch rồi!...

(Ta đi tới, 1954)

Một trong những yếu tố để tạo nên chất nhạc trong tập thơ, đó còn là việc

chọn lọc từ. Tố Hữu "là một nhà thơ đã vận dụng âm điệu và âm hưởng của tiếng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Việt một cách hết sức tài tình". "Tiếng nói Việt Nam luôn luôn hát lên thành âm

82

nhạc trong thơ Tố Hữu" [33]. Nhà thơ sử dụng từ tượng thanh một cách chính xác

và thích hợp với hoàn cảnh mô tả, góp phần làm tăng tính nhạc cho câu thơ:

Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi

Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt

Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát

Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca...

(Ta đi tới, 1954)

Tố Hữu sử dụng từ lấp láy với những biện pháp đa dạng và sáng tạọ.

Thơ dân gian và các nhà thơ lớn của văn học Trung đại như Hồ Xuân Hương,

Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến...đã sử dụng thành thục loại từ này. Tố Hữu đã

học tập được cách sử dụng ngôn ngữ đó của ca dao, của các nhà thơ lớn. Nhà

thơ đã vận dụng một cách thành công, và nâng cao nhạc điệu thơ lên, điển hình

như trong bài Lượm.

Chú bé loắt choắt

Cái xắc xinh xinh

Cái chân thoăn thoắt

Cái đầu nghênh nghênh

(Lượm, 1949 )

Vần trong thơ Tố Hữu, cũng góp một phần khá quan trọng làm giàu nhạc

điệu của thơ. Dù ở bất kỳ thể thơ nào Tố Hữu luôn quan tâm đến vần. Nhiều đoạn

thơ Tố Hữu vần thơ cứ nối tiếp, quấn quýt với nhau.

Bà bủ không ngủ, bà nằm

Càng lo càng nghĩ, càng căm càng thù

Ngoài phên gió núi ù ù

Mưa đêm mưa tự chiến khu mưa về...

(Bà bủ, 1948)

Việc chọn từ giàu âm thanh và gieo vần rất quan trọng đối với nhà thơ,

nhưng quan trọng hơn nữa là việc phân phối, hoà hợp âm thanh của từ để tổ chức

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

nên tiết tấu, âm điệu thơ, tức là tổ chức nên nhịp điệu. Trong thơ Tố Hữu nhịp

83

điệu không gò gượng mà biến hoá tinh tế theo mạch cảm xúc, góp phần biểu hiện

tâm tình một cách tài tình uyển chuyển.

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

(Việt Bắc, 1954)

Thơ Tố Hữu rất tinh tế, tiêu biểu như đoạn thơ lục bát trong bài thơ Phá

đường, mang nhạc điệu của dân ca xứ Huế, khiến cho thơ Tố Hữu có nhạc điệu

dân tộc ấm áp và phóng khoáng.

Em là con gái Bắc Giang

Rét thì mặc rét, / nước làng em lo

Nhà em phơi lúa chửa khô

Ngô chửa vào bồ, / sắn thái chưa xong

Nhà em con bế con bồng

Em cũng theo chồng/ đi phá đường quan.

Con ơi/con ngủ / cho ngoan

Sang canh/ trăng lặn,/ buổi tan/ mẹ về...

(Phá đường, 1948)

Tố Hữu sử dụng nhịp thơ 4-4 trong các câu 8 ở sáu dòng trên, đã góp phần

thể hiện không khí khẩn trương của việc đi phá đường với tinh thần dứt khoát gác

việc gia đình để đi làm việc công của người phụ nữ Bắc Giang. Nhưng đến ngay

dòng 8 tiếp theo thì nhịp thơ chậm lại và chuyển theo nhịp 2-2-2-2, đó là điệu ru

con ngọt ngào, đầm ấm nặng tình người mẹ. Nhịp thơ, ngay trong cùng một thể

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

lục bát, đã có sự chuyển đổi nhịp điệu rất nhanh mà rất hợp khiến ta có cảm giác

84

như thấy được bước thời gian đi và bước chân người mẹ về, cùng với phong thái

thanh thản của người mẹ bên con.

Hoặc trong bài thơ Việt Bắc cũng với cách ngắt nhịp chẵn 2/2/2 hoặc 4/4,

cách ngắt nhịp này tạo nên một cảm giác bâng khuâng, nhẹ nhàng, tha thiết:

Mình về/ mình có/ nhớ không

Nhìn cây/ nhớ núi/ nhìn sông/ nhớ nguồn?

( Việt Bắc, 1954)

Và:

Mình về/ mình lại /nhớ ta

Mái đình Hồng Thái/ cây đa Tân Trào.

(Việt Bắc, 1954)

Nhiều đoạn thơ, Tố Hữu đã ngắt nhịp táo bạo làm cho tâm trạng tác giả nổi bật

hẳn lên và tác động rất sâu vào tình cảm của người đọc. Lượm là một ví dụ tiêu biểu:

Ngày Huế đổ máu

Chú Hà Nội về

Tình cờ chú cháu

Gặp nhau Hàng Bè...

(Lượm, 1949 )

Từ đầu bài thơ, Tố Hữu sử dụng thể thơ bốn chữ, bốn dòng một khổ để kể

chuyện về chú Lượm, nhí nhảnh, hồn nhiên và những kỷ niệm vui tươi giữa chú

Lượm và tác giả. Nhịp thơ dí dỏm, nhảy nhót tươi tắn. Nhưng đến khi nhận được

tin nhà thì Tố Hữu đột ngột cắt đôi dòng thơ bốn chữ và để riêng thành một khổ,

thể hiện sự đau xót, mất mát khi Lượm hy sinh.

Ra thế

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Lượm ơi !

85

Tố Hữu còn rất điêu luyện trong việc phân phối âm thanh, tăng sức biểu

hiện của nhịp điệu. Bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, có những câu thơ Tố Hữu

sử dụng thanh trắc liên tiếp, thể hiện nhịp điệu dồn dập, không khí chiến thắng của

quân và dân ta trong chiến dịch Điện Biên.

Vinh quang Hồ Chí Minh, cha của chúng ta

ngàn năm sống mãi

Quyết chiến, quyết thắng, cờ đỏ sao vàng vĩ đại.

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954)

Hay trong bài Việt Bắc, Tố Hữu lại sử dụng câu thơ liên tiếp vần bằng, để

thể hiện tình cảm thắm thiết của con người.

Đường về, đây đó gần thôi !

Hôm nay rời bản về nơi thị thành

Nhà cao, chẳng khuất non xanh

Phố đông, càng giục chân nhanh bước đường

( Việt Bắc, 1954)

Nhịp điệu mô phỏng cũng góp phần tạo nên tính nhạc. Đọc những câu thơ

trong bài Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, chúng ta như nghe thấy rõ tiếng vó ngựa

dồn dập trên núi rừng Việt Bắc đưa tin chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ:

Tin về nửa đêm

Hoả tốc hoả tốc

Ngựa bay lên dốc

Đuốc cháy sáng rừng...

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954)

Nhiều lần Tố Hữu đã đưa vào thơ nhịp điệu lao động và chiến đấu của quần

chúng một cách tinh tế và đầy sáng tạo. Từ nhịp điệu lao động khẩn trương, vất vả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

của người dân công phá đường giai đoạn đầu kháng chiến:

86

Hì hà hì hục

Lục cục lào cào

Anh cuốc em cuốc

Đá lở đất nhào!

(Phá đường, 1948)

Đến nhịp điệu chuyển pháo căng thẳng, chắc nịch, lạc quan của đơn vị

pháo binh:

Ta đi lên đèo

Ta leo lên dốc

Voi ơi khó nhọc

Khó nhọc cũng trèo !

(Voi, 1948)

Cùng với nhịp điệu mô phỏng, Tố Hữu còn vận dung nhịp điệu trùng điệp

trong những khúc thơ :

Ta đi tới trên đường ta bước tiếp

Rắn như thép,/ vững như đồng

Đội ngũ ta trùng trùng điệp điệp

Cao như núi, / dài như sông

(Ta đi tới, 1954)

Có khi Tố Hữu cho trùng điệp từ:

Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam

Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng.

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954)

Thơ Tố Hữu luôn có sự hào quyện giữa nhạc và ý. Đúng như Hoài Thanh

đã nhận xét: "Nhạc thơ quyện lấy lòng ta ngay khi ta chưa kịp nhận rõ ý thơ". Quả

thật thơ Tố Hữu "vừa ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý" [33].

Nhạc điệu trong tập thơ Việt Bắc mang tính quần chúng, tính dân tộc sâu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

sắc, vừa bình dị, vừa nâng cao. Những tư tưởng tình cảm, những hiện thực của đời

87

sống quyện với sự hài hoà của âm thanh, tiết tấu, nhịp điệu phù hợp với nếp thẩm

mỹ quen thuộc của quần chúng, khiến thơ Tố Hữu dễ gần gũi, dễ đi sâu vào tâm

hồn người đọc, đông đảo quần chúng đã nhớ, đã thuộc thơ Tố Hữu điều đó là

minh chứng cho sự thành công của nhà thơ.

3.1.3. Ngôn ngữ, hình ảnh

Tố Hữu không cố công tìm tòi ngôn ngữ mới lạ mà ông sử dụng ngay thứ

ngôn ngữ rất phong phú, giản dị, trong sáng của quần chúng nhân dân. Mai

Hương và Phong Lan đã có lý khi nhận xét: "Thơ Tố Hữu không cầu kỳ, không

kỹ xảo, hầu như không dùng điển tích, điển cố, từ Hán - Việt mà chỉ dùng tiếng

nói thường ngày của nhân dân. Ta có cảm giác Tố Hữu làm thơ rất dễ dàng, mạch

thơ ông cứ trào lên và cuốn đi cuồn cuộn, thế nhưng thơ ông vẫn cứ hay, vẫn cứ

đọng lại trong lòng người lâu dài" [25].

Trước hết cần thừa nhận thơ Tố Hữu rất bình dị. Bình dị ngay cả những lúc

ông chủ tâm nói đến những vấn đề lớn lao của thời đại. Trong thơ ông gần như

tràn ngập những hình ảnh quen thuộc, thường ngày; như: lúa, ngô, khoai, sắn, mạ

non, cơm dé, áo tứ thân, cơm chấm muối, rừng nứa bờ tre, hoa chuối...Ông có ý

thức trong việc đưa những hình ảnh, lớp từ ngữ bình dị gần với cuộc sống của

người dân vào trong thơ để thơ ông cũng trở nên bình dị gần gũi với họ:

Khoai mãn mùa đi, đến sắn về

Say màu hương mới, dậy hồn quê

Rướn thân lên trải ngàn tay rộng

Như những chàng trai đón bốn bề.

(Tình khoai sắn, 1946)

Hay trong bài Bầm ơi:

Bầm ra ruộng cấy bầm run

Chân lội dưới bùn tay cấy mạ non

Mạ non bầm cấy mấy đon

Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.

(Bầm ơi, 1948)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

88

Tố Hữu sử dụng ngôn ngữ địa phương như: mé, ông ké, bủ, ... Có thể nói

thơ Tố Hữu rất bình dị, vì thế mà người ta nói thơ Tố Hữu mang tính đại chúng

cao, được nhiều người ưa thích, một thời đã đi vào lòng người đọc như lời ăn

tiếng nói hàng ngày của họ:

Con mé có ba

Trai hai gái một

Gái gả chồng xa

Trai còn đứa rốt...

(Bà bủ, 1948)

Thơ Tố Hữu còn thấm nhuần ngôn ngữ trong văn học dân gian, một ngôn ngữ

sống động. "Nó không chỉ là chữ a, chữ b, mà là cả cái tiếng vang lên trong từng chữ,

tiếng vọng của cả cái khoảng cách giữa những chữ, những dòng..." [33]. Chúng ta có

thể bắt gặp rất nhiều câu thơ có lối so sánh ví von kiểu ca dao trong thơ ông:

Mưa phùn ướt áo tứ thân

Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu

(Bầm ơi, 1948)

Hay:

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

(Việt Bắc, 1954)

Tố Hữu còn sử dụng nhiều thành ngữ, quán ngữ, tục ngữ như:

Lạnh tay, lạnh chân

Đứng trơ như đá

Hồn bay vía bay

(Bà mẹ Việt Bắc, 1948) Có những câu thơ Tố Hữu lấy một phần của câu tục ngữ cộng thêm một

phần lời thơ của mình:

Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn

Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhoà.

(Việt Bắc, 1954)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

89

Như vậy, ngôn ngữ thơ rất Tố Hữu, rất dân gian, đại chúng. Sự có mặt của

ngôn ngữ dân gian, của đời sống hàng ngày khiến cho thơ ông trở nên bình dị, gần

gũi thân thương. Đằng sau lớp ngôn ngữ bình dị ấy, nhà thơ muốn diễn tả một nội

dung lớn lao, gắn với các vấn đề của cộng đồng, của thời đại, là nguồn cổ vũ động

viên nhân dân đấu tranh, tin tưởng vào tương lai đất nước.

Cùng với ngôn ngữ, hình ảnh trong thơ Tố Hữu rất đa dạng, có những hình

ảnh hiện lên rõ nét nhìn là thấy:

Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi !

Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt

Nắng chói Sông Lô, hò ô tiếng hát

Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca.

(Ta đi tới, 1954)

Có những hình ảnh cụ thể gây xúc động, thấy là lòng người rung lên nhớ

mãi: Hình ảnh em bé Lượm dũng cảm mà đáng thương bị chết dưới làn đạn của

giặc nhưng hình ảnh của em vẫn sống mãi trong lòng nhà thơ.

Bỗng loè chớp đỏ

Thôi rồi, Lượm ơi

Chú đồng chí nhỏ

Một dòng máu tươi !

(Lượm, 1949 )

Hay những bài thơ viết về người mẹ, đọc lên khiến ta thấy xúc động trước

tấm lòng yêu nước, yêu con, hy sinh bản thân cho cách mạng:

Bà bủ không ngủ bà nằm

Càng lo, càng nghĩ, càng căm càng thù

Ngoài phên gió núi ù ù

Mưa đêm mưa tự chiến khu mưa về.

(Bao giờ hết giặc, 1948)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

90

Và hình ảnh Bà mẹ Việt Bắc:

Tôi ôm lấy nó

Tôi kể trước sau

Nỗi nhà mất bố

Nỗi anh chết tù...

(Bà mẹ Việt Bắc, 1948)

Song thơ Tố Hữu bao giờ cũng là hình ảnh thật của đời sống, những hình

ảnh sinh động, là sự hoà quyện giữa người và cảnh tạo nên một khung cảnh thật

ấm áp tình người:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi dang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

(Việt Bắc, 1954)

Khi nói đến Tổ quốc, hình ảnh thật "hồn nhiên", nên thơ có những gam

màu, âm thanh,... lắng sâu vào tâm hồn.

Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi !

Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt

Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát

Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca...

(Ta đi tới, 1954) Tố Hữu còn thiên về loại hình ảnh "động" đang diễn biến, đang tiến triển.

Ngay khi nhà thơ cảm xúc, một nét, lại một nét cứ bồi thêm vào nhau để dựng

nên hình. Không ai khác đó là Hồ Chí Minh, "Người là Cha, là Bác, là Anh" của

dân tộc:

Nhớ Người những sớm tinh sương

Ung dung yên ngựa trên đường suối reo

Nhớ chân Người bước lên đèo Người đi rừng núi trông theo bóng Người...

(Việt Bắc, 1954)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

91

Bài thơ Phá đường cũng biểu hiện khá rõ biệt tài của Tố Hữu trong việc

xây dựng những hình ảnh động, gợi lên không khí lao động khẩn trương của chị

dân công phá đường.

Hì hà hì hục

Lục cục lào cào

Anh cuốc em cuốc

Đá lở đất nhào...

(Phá đường, 1948)

Nhịp thơ náo nức, trầm hùng khi miêu tả cảnh tượng hùng vĩ của cuộc

chiến đấu, của hoạt động cách mạng. Chất hùng tráng trong những câu thơ:

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng,

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.

Dân công đỏ đuốc từng đoàn,

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay.

(Việt Bắc, 1954)

Ngôn ngữ, hình ảnh trong thơ Tố Hữu thật phong phú, đa dạng, gần gũi,

bình dị, Ông không tìm tòi ở đâu cao xa mà có ngay trong đời sống kháng chiến,

trong lời ăn tiếng nói của nhân dân. Đó là những đóng góp đáng quý của thơ ông

trên xu hướng tìm tòi bản sắc dân tộc đại chúng.

3.1.4. Niêm luật và vần

Tố Hữu là nhà thơ chịu ảnh hưởng nhiều của dân ca nên thơ ông thường

mang hơi thở của truyền thống. Xuân Diệu đã từng nói: "Không học ca dao từ nhỏ

thì làm sao học giỏi thơ được". Vì vậy vần thơ của ông mang đặc điểm của thơ

truyền thống. Đó là tôn trọng lệ “nhị, tứ, lục, phân minh” trong thể thơ truyền của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

văn học cổ truyền:

92

Xa xôi đầu xóm tre xanh

Có bà ru cháu nằm khoanh lòng già

Cháu ơi cháu lớn với bà

Bố mày đi đánh giặc xa chưa về.

(Cá nước, 1947)

Sử dụng trong cách hiệp vần. Các âm tiết hiệp vần thường có phụ âm đầu

khác nhau, phần vần lặp lại và các vần thường mang thanh bằng. Đặt những câu

thơ của Tố Hữu bên cạnh những câu ca dao lục bát thì ta khó có thể phân biệt

được đâu là thơ Tố Hữu và đâu là câu ca dao.

Nếu ca dao có câu:

Mình về có nhớ ta chăng

Ta về ta nhớ hàm răng mình cười

Thì thơ Tố Hữu cũng góp phần vào vốn ca dao ấy những lời thơ thật ngọt

ngào, tha thiết:

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

(Việt Bắc, 1954)

Cách hiệp vần không chỉ mang thanh bằng mà còn mang thanh trắc, hoặc

phối hợp hai thanh bằng- trắc. Những cách hiệp vần này trong thơ Tố Hữu ít gặp

ở những nhà thơ khác. Điều đó ghi nhận nét độc đáo trong thơ ông, khác với

Xuân Diệu, Nguyễn Bính sau này.

Trong thơ Nguyễn Bính ta cũng bắt gặp kiểu gieo vần lạ, bất thường:

Trên giời có vẩy tê tê

Đôi bên ước thề duyên hãy tròn duyên

Nhưng không thể giống với Tố Hữu ở những vần được gieo kết hợp giữa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

âm tiết mang thanh bằng và âm tiết mang thanh trắc như:

93

Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng

Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà

(Việt Bắc, 1954)

Cách hiệp vần này còn xuất hiện ngay trong câu lục và câu bát, đó chính là

dụng ý nghệ thuật của nhà thơ:

Bà bủ nằm ổ chuối khô

Bà bủ không ngủ bà lo bời bời

(Bà bủ, 1948)

Các âm tiết gieo vần với nhau đều mang thanh trắc cũng đã chứa đựng

trong nó một nội dung, đó là khát vọng thay đổi quê hương đất nước. Hàng loạt

âm tiết mang thanh trắc ấy dường như để diễn tả sự uất ức, hận thù và đầy nước

mắt trước cảnh điêu tàn, tan nát của quê hương bị giặc dày xéo. Song bên cạnh đó

lại là tiếng hát lên đường, tiếng hát theo vần thơ ngân dài đến tận cuối bài thơ:

Bàn tay đã nắm lời thề

Ra đi quyết phá ngày về sẽ xây

Từ trong đổ nát hôm nay

Ngày mai đã đến từng giây, từng giờ...

(Giữa thành phố trụi, 1947 )

Tố Hữu học cách gieo vần trong ca dao, tiếng thứ 6 của câu lục vần với

tiếng thứ 6 của câu bát, tiếng thứ 8 của câu bát vần với tiếng thứ 6 của câu lục

tiếp sau thường là gieo vần bằng, ở các bài thơ tiêu biểu như: Bà bủ, Bầm ơi,

Việt Bắc...

Bà bủ không ngủ bà nằm

Càng lo càng nghĩ, càng căm càng thù

Ngoài phên gió núi ù ù

Mưa đêm mưa tự chiến khu mưa về...

(Bà bủ, 1948)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

94

Tố Hữu là nhà thơ không chỉ dừng lại ở việc học tập những nét tinh hoa

của văn học truyền thống, mà ở nhà thơ luôn có sự tìm tòi, phát hiện mới mẻ.

Ngoài việc gieo vần ở những vị trí thông thường Tố Hữu còn gieo vần ở những vị

trí bất thường. Tố Hữu đã tạo ra một sợi dây liên kết vô hình (qua vần điệu) giữa

những địa danh lịch sử để gọi về "chín năm nắng núi mưa ngàn" của Việt Bắc-

một thời kỳ gian khổ nhưng oanh liệt.

Ai về có nhớ ai không ?

Ta về ta nhớ Phủ Thông Đèo Giàng

Nhớ sông Lô nhớ Phố Ràng

Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà

(Việt Bắc, 1954)

Tố Hữu sử dụng nhiều vần liên tiếp tạo nên âm hưởng ngân vang đồng

vọng. Hai câu lục bát trên gieo vần ở vị trí 6-8 thông thường, nhưng đến hai câu

sau Tố Hữu gieo vần bất thường, vị trí thứ 6 của câu lục gieo vần với vị trí thứ 4

của câu bát khiến câu thơ đột ngột chuyển giọng như khắc sâu nỗi nhớ, nỗi nhớ

theo chiều sâu và lan toả từ vùng này sang vùng khác, từ những hy sinh gian khổ

đến những chiến công vang dội ...một nỗi nhớ dào dạt, tha thiết. Tố Hữu đã vận

dụng sáng tạo trong đoạn thơ này cách gieo vần bất thường làm cho những câu

thơ không chỉ là trang ký sự chiến trường mà còn gợi lên vẻ đẹp thẩm mỹ trong

lòng độc giả.

Ngoài ra còn có một số bài thơ Tố Hữu gieo vần ở tiếng thứ 4 của câu tám.

Bầm ra ruộng cấy bầm run

Chân lội dưới bùn tay cấy mạ non.

(Bầm ơi, 1948)

Hay:

Nhà em phơi lúa chửa khô

Ngô chửa vào bồ sắn thái chưa xong

Nhà em con bế con bồng

Em cũng theo chồng đi phá đường quan

(Phá đường, 1948)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

95

Có thể nói những bài thơ gieo vần ở tiếng thứ 4 này đều là những bài viết

về những người thôn quê mộc mạc dân dã. Đó là một dụng ý nghệ thuật của Tố

Hữu mang lại hiệu quả thẩm mỹ cao.

Tố Hữu thường dùng vần Đường luật mềm mại, có nhiều khả năng biểu

hiện cái liên tục thích ứng với hơi thở liền mạch.(chữ cuối câu thứ nhất, câu thứ

hai, và câu thứ tư, thanh bằng và vần với nhau):

Ai biết trưa nay giữa bụi bờ

Anh nằm sưởi nắng mắt lơ mơ

Tôi ngồi, không ngủ nghe anh thở

Khe khẽ lòng ngâm lên tiếng thơ

(Lên Tây Bắc, 1948)

Tìm hiểu quá trình sáng tạo nghệ thuật của Tố Hữu, ta thấy ông không bao

giờ nô lệ vào câu chữ hay gò ép, khiên cưỡng trong niêm luật và cách gieo vần.

Thơ ông vừa mang nét tinh hoa của văn học truyền thống, vừa mang tính hiện

đại, nên những bài thơ của ông vừa giàu tính nhạc, vừa mang tính hình tượng cao.

3.2. Sự kết hợp giữa tính dân tộc và âm hƣởng hiện đại

Tố Hữu đã lấy dân tộc làm nền tảng cho thơ mình. Ông tiếp thu truyền

thống thơ ca dân gian, cổ điển của dân tộc, một sự tiếp nhận sâu và đa diện, tiếp

nhận một cách sáng tạo đầy bản lĩnh. "Ông tiếp thu phần hồn, đón lấy cái hương,

cái “nhụy” của nó", đúng như Nguyễn Đình Thi nhận xét.

Nhìn lại các bài thơ gắn với truyền thống nhất của Tố Hữu, đều có một sự

hài hoà hiếm có giữa tính dân tộc và tính hiện đại. Hiện đại không chỉ nội dung

mà cả hình thức thể hiện, hiện đại ngay trong các thể thơ cổ điển của dân tộc,

trong cách biểu hiện rất gần với thơ ca dân gian.

Phong vị dân gian đậm đà trong thơ Tố Hữu, đặc biệt trong nhiều bài thơ

đặc sắc như hàng loạt các bài thơ Việt Bắc, Bầm ơi, Phá đường...Những câu thơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

được ủ chặt giữa hương vị dân gian rất phổ biến. Chính nó là sợi dây bền chặt, kết

96

bện thơ Tố Hữu với truyền thống thơ ca dân tộc, tạo nên sức hấp dẫn, sức cảm

hoá, sức nặng, sức bền của thơ ông trong lòng nhiều thế hệ độc giả.

Tố Hữu đã tiếp thu triệt để khai thác, sử dụng và phát triển một cách sáng

tạo những tinh hoa của thơ ca truyền thống, góp phần diễn tả một cách sinh động

những tư tưởng tình cảm mới của thời đại. Chính sự tiếp nhận sáng tạo ấy của nhà

thơ đã đem lại dáng vẻ và âm hưởng hiện đại cho thơ ca truyền thống." ... làm cho

cái hồn dân tộc nhập vào với cái hồn thời đại”,“ Tố Hữu đã giữ được hiện đại

ngay trong hình thức biểu hiện tưởng là cổ điển nhất” (Lê Đình Kỵ).

Tố Hữu đã đưa câu thơ lục bát cổ điển đến một hình thức phát triển

cao nhất và phong phú nhất, những câu thơ ngọt ngào, uyển chuyển, thướt

tha, mà vẫn nói lên được những điều cần nói về hiện thực cách mạng, về

tình cảm cách mạng:

Em là con gái Bắc Giang

Rét thì mặc rét nước làng em lo

Nhà em phơi lúa chửa khô

Ngô chửa vào bồ sắn thái chưa xong.

(Phá đường, 1948)

Hay bài Bầm ơi với âm điệu gần gũi với ca dao, Tố Hữu đã diễn tả được

tình cảm ân tình tha thiết của người con đối với người mẹ, gợi lên được hình ảnh

chân thực của bà mẹ nông dân Việt Nam vất vả và tình cảm của mẹ thật cảm

động. Nhưng ở đây tình cảm của người mẹ đối với con rất đỗi thiêng liêng khi

gắn với tình đồng bào, đồng chí, tình anh em, tình đất nước nó là sản phẩm mới

của thời đại:

Bầm ơi liền khúc ruột mềm

Có con có mẹ có thêm đồng bào

Con đi mỗi bước gian lao

Xa bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm.

(Bầm ơi, 1948 )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

97

Việt Bắc ngọt ngào, đằm thắm như lời ru, lời thủ thỉ đã đưa người đọc vào

một thế giới sâu nặng ân tình, rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách của Tố

Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm, tình yêu nhưng là tình yêu đối với quê hương

đất nước, đối với cách mạng, đối với nhân dân. Và tình yêu ấy đã biến thành tình

nghĩa, và Việt Bắc trở thành tiếng hát ân tình thuỷ chung của những người kháng

chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm đáng nhớ.

Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muố,i mối thù nặng vai?

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già...

(Việt Bắc, 1954)

Thuộc trong số câu thơ hay nhất của bài Việt Bắc là:

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

Trong ca dao, không gặp kiểu đại từ đổi ngôi như vậy. Câu thơ vốn có gốc

rễ sâu xa trong ca dao của dân tộc bỗng vụt lớn lên, mới mẻ, hiện đại. Câu hỏi

thật sâu nặng, đầy ý nghĩa.

Bên cạnh đó bài Việt Bắc còn có những câu đọc lên như một bài ca dao

hiện đại:

Muối Thái Bình ngược Hà Giang

Cày bừa Đông Xuất, mía đường tỉnh Thanh

Ai về mua vại Hương Canh

Ai lên mình gửi cho anh với nàng

Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng

Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông

(Việt Bắc, 1954)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

98

Ở Tố Hữu cái hơi dân tộc kết hợp khéo léo với màu sắc hiện đại tiếp tục

được thể hiện và càng dồi dào, đậm nét hơn trong tập Gió lộng như trong Em

ơi...Ba lan, Bài ca mùa xuân 61:

Em ơi, Ba lan, mùa tuyết tan

Đường bạch dương, sương trắng nắng tràn

Anh đi, nghe tiếng người xưa gọi

Một giọng thơ ngâm, một giọng đàn

Và:

Gà gáy sáng. Thơ ơi mang cánh lửa

Hãy bay đi. Con chim kêu trước cửa

Thêm một ngày xuân đến. Bình minh

Cành táo đầu hè quả ngọt rung rinh

Bỏ âm nhạc đi, đó là những câu thơ rất Tây, lồng âm nhạc vào, đó là

những câu rất Việt. Âm nhạc như cái hồn dân tộc theo sát các ý của thi sĩ khiến

cho mỗi câu thơ; cùng toàn bài thơ vừa ẩn chứa tính dân tộc vừa mang âm hưởng

hiện đại.

Gió lộng, là sự rộng mở đến bát ngát, mênh mông của đất trời tự do, với

một nửa nước đang bước vào kế hoạch 5 năm đầu tiên xây dựng chủ nghĩa xã

hội; với Tổ quốc" dẫu chưa toàn vẹn đã bay cờ hồng"; với "mắt nhìn bốn hướng.

Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau"; với tầm cao thời đại "trông Bắc, trông

Nam, trông cả địa cầu". Thể thơ tự do được vận dụng linh hoạt, lúc thì rắn rỏi như

Tiếng chổi tre, lúc thì rừng rực căm giận như Thù muôn đời muôn kiếp không tan,

lúc thì mềm mại uyển chuyển như Em ơi...Ba lan...Những cách gieo vần mới mẻ

như "Đường bạch dương, sương trắng, nắng tràn" tạo một bâng khuâng và ngân

nga không dứt trong tâm tưởng làm nối dài những liên tưởng giữa truyền thống

và hiện đại. So với Việt Bắc, Gió lộng là một bước tiến mới trong quan hệ dân tộc

và hiện đại, nhưng vẫn không xa rời ngọn nguồn dân tộc như trong Quê mẹ,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Người con gái Việt Nam, Tiếng ru...

99

KẾT LUẬN

1. Với Tố Hữu, chúng ta có một nhà thơ - chiến sĩ, biết gắn bó đời mình và

hoạt động thơ ca của mình với lý tưởng cao cả vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Thơ

ông là thơ "mang cánh lửa", "đốt cháy trái tim con người vào ngọn lửa thần của

đại nghĩa" (Xuân Diệu). Đã có bao nhiêu người cảm động vì thơ ông và từ thơ

ông mà đến với cách mạng. Hơn nửa thế kỷ qua, thơ Tố Hữu trở thành tấm gương

phản ánh những lẽ sống lớn của dân tộc, trở thành tiếng hát của thời đại.

2. Tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu thực sự có giá trị và giữ vị trí xứng đáng

trong nền thơ ca kháng chiến, bởi nó đã góp phần giải quyết những vấn đề cơ bản

đặt ra cho nền văn nghệ mới Việt Nam sau 1945. Đó là vấn đề dân tộc và đại

chúng, vấn đề nghệ thuật và tuyên truyền, vấn đề vốn sống và kỹ năng nghề

nghiệp, vấn đề hiện thực và lãng mạn, vấn đề nội dung và hình thức…Tố Hữu

trong tập thơ Việt Bắc đã góp phần của mình không bằng lý luận mà bằng sáng tác,

để giải quyết các vấn đề đó, và trở thành ngọn cờ tiêu biểu, đứng ở hàng đầu nền

thơ ca cách mạng sau 1945- Từ Việt Bắc chúng ta có thể rút ra nhiều bài học quý

báu về con đường đi của thơ đó là con đường gắn bó với nhân dân phục vụ lợi ích

của cách mạng.

3. Giá trị nội dung lớn của Việt Bắc- đó là một tình yêu nước, được thể

hiện một cách thiết tha và cụ thể, qua tình yêu những con người đứng ở hàng đầu

sự nghiệp kháng chiến - đó là anh bộ đội cụ Hồ, là những bà mẹ, những phụ nữ,

những em bé…sẵn sàng hy sinh tất cả để đánh thắng giặc; là sự phát hiện những

giá trị nhân văn cao cả trong những con người bình thường, “ nhỏ bé” làm nên g-

ương mặt chung của nhân dân, vừa được cách mạng giải phóng, vừa làm nên sức

mạnh giải phóng của cách mạng. Là tình cảm gắn bó với quê hương cách mạng

mang tên Việt Bắc“ thủ đô gió ngàn” với cây đa Tân Trào, mái đình Hồng Thái-

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

những địa danh đã đi vào lịch sử và bây giờ tiếp tục cuộc kháng chiến chín năm“

100

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”, với Trung ương, Chính phủ và Bác Hồ lãnh

đạo quân dân cả nước tiến hành một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường

kỳ đi tới chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại.

Có thể nói, Việt Bắc bằng tiếng nói thơ ca, đã ghi nhận được những dấu ấn

cụ thể cho một“ toàn cảnh” những tình cảm lớn của dân tộc trong 10 năm mở đầu

nền văn học mới sau 1945, 10 năm kỷ nguyên dân chủ cộng hoà, chấm dứt 80

năm cả dân tộc chìm đắm trong tình cảnh nước mất.

4. Với Việt Bắc, Tố Hữu là nhà thơ đi đầu và có thành tựu lớn nhất trong

việc đi sâu vào hình thức dân tộc, phát triển và nâng cao tiếng nói và hình thức

dân tộc để cho nhịp điệu của thơ chứa đựng được nội dung tư tưởng tình cảm của

thời đại. Trong khi đi vào phương hướng dân tộc, nhà thơ luôn có ý thức hướng

tới đại chúng, để cho thơ có sức phổ cập rộng rãi. Đồng thời biết gắn tính dân tộc

với âm hưởng hiện đại, để cho thơ luôn luôn có ý nghĩa thời sự. Điều đó làm nên

vai trò mở đầu và dẫn dắt nền thơ ca cách mạng Việt Nam của Việt Bắc nói riêng,

làm nên giá trị và sức cuốn hút mạnh mẽ của thơ Tố Hữu nói chung.

Kết luận. Có thể khẳng định Việt Bắc là tập thơ có đóng góp lớn nhất cho

nền thơ ca kháng chiến chống Pháp nói riêng và có giá trị, vị trí xứng đáng trong

nền văn học hiện đại Việt Nam nói chung. Hoàn toàn dễ hiểu khi Việt Bắc nhận

được Giải nhất Hội văn nghệ Việt Nam (1954-1955); sau Từ ấy, nó tiếp tục tạo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

nên một chuyển biến căn bản trên hành trình hơn nửa thế kỷ thơ Tố Hữu.

101

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trọng Anh (1955), Đồng bào Miền Nam với thơ Tố Hữu, Báo Nhân dân.

2. Nguyễn Bao (1998), Tố Hữu, nhà thơ- chiến sĩ. Nxb, H.

3. Nguyễn Cừ (1980), Tố Hữu, nhà thơ cách mạng, Nxb khoa học xã hội, H.

4. Hoàng Cầm (1955), Bổ sung ý kiến của tôi về tập thơ“ Việt Bắc”, Báo Văn

nghệ (số 70).

5. Hoàng Minh Châu (1959), Về giá trị tập thơ"Từ ấy" và phương pháp sáng tác

của Tố Hữu, Báo Văn nghệ ( số71).

6. Xuân Diệu (1955), Tập thơ" Việt Bắc của Tố Hữu, Báo Văn nghệ (số 28,64).

7. Xuân Diệu (1960), Dao có mài mới sắc, Tạp chí Văn học (số73).

8. Xuân Diệu (1964), Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ, Nxb Văn học, H.

9. Lê Đạt (1955), Giai cấp tính trong thơ Tố Hữu, Báo Văn nghệ ( số 68).

10. Hà Minh Đức (1977), Những bài học lớn và sự cổ vũ chân thành, Nxb Văn

học, H.

11. Hà Minh Đức (1994 ), Từ Từ ấy đến Một tiếng đờn, Nxb Văn học, H.

12. Hà Minh Đức (1995), Một tài năng thơ ca thuộc về nhân dân và dân tộc- Nxb

Giáo dục.

13. Phan Cự Đệ (1959), Một bông hoa tươi thắm nhất của vườn thơ cách mạng,

Tạp chí Văn học (số 30).

14. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, H.

15. Tế Hanh (1959), Đọc tập thơ"Từ ấy" của Tố Hữu, Báo Văn học (số 49, 50).

16. Nguyễn Văn Hạnh (1970), Phong cách nghệ thuật của Tố Hữu, Nội san

nghiên cứu Văn học, Trường ĐHSP, H.

17. Đông Hoài (1955), Góp ý kiến về tập thơ“ Việt Bắc”, Báo văn nghệ (số 70).

18. Phạm Hổ (1964), Thơ Tố Hữu với Miền Nam thành đồng Tổ Quốc, Báo Văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

nghệ ( số72).

102

19. Tố Hữu ( 1946), Thơ, Hội văn hoá cứu quốc Việt Nam.

20. Tố Hữu (1961), Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí, Tạp

chí Văn nghệ (số 48).

21. Tố Hữu (1963), Việt Bắc, Nxb Văn học, H.

22. Tố Hữu (1972 ), Câu chuyện về thơ, Văn phòng Bộ văn hoá, H.

23. Tố Hữu (1980),Văn học là cuộc đời, Báo Văn nghệ (số 44).

24. Tố Hữu (1998), Tuyển tập thơ, Nxb Văn học, H.

25. Thơ Tố Hữu, (1998) - Nxb Giáo dục.

26. Tố Hữu ( 2002), Nhớ lại một thời, Nxb Văn hoá thông tin,

27. Mai Hương (1975), Ý kiến của Tố Hữu về thơ, Tạp chí Văn học (số 4)

28. Mai Hương (1975), Quan niệm của Tố Hữu về thơ, Tạp chí Văn học (số 4)

29. Lê Đình Kỵ (1979), Việt Bắc, Nxb đại học và trung học chuyên nghiệp.

30. Phùng Ngọc Kiếm ( 1987), Những biểu hiện tính dân tộc trong những bài thơ

của Tố Hữu viết về Bác Hồ, Thông báo khoa học Đ.H.S.P 1987.

31. Phong Lan và Mai Hương, Tố Hữu" Người đốt lửa" và " Người gieo hạt", H.

32. Mã Giang Lân (1995), Thơ Việt Nam (1945-1954), Nxb Giáo dục, H.

33. Mã Giang Lân ( 2004), Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, H.

34. Nguyễn Viết Lãm (1955), Đặc tính sáng tạo trong tập thơ Tố Hữu, Báo Độc

lập (số 98).

35. Thẩm Lăng (1955),“Việt Bắc” và Tố Hữu, Báo Độc lập ( số 97).

36. Nguyễn Văn Long (1996), Thơ Tố Hữu trong đời sống phê bình, nghiên cứu

văn học ở Việt Nam 50 năm qua, Nxb Hội nhà văn.

37. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo

dục, H.

38. Phong Lê ( chủ biên), Văn học Việt Nam kháng chiến chống Pháp ( 1945-

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

1954), Nxb Khoa học xã hội, H.

103

39. Phong Lê (biên soạn), Tố Hữu- thơ và cách mạng. Nxb Trẻ, Hội nghiên cứu

& giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh.

40. Vũ Đình Liên (1955), Mối tình dân tộc trong tập thơ“ Việt Bắc”của Tố Hữu,

Tổ Quốc (số 12).

41. Lưu Trọng Lư (1971), Tố Hữu, Báo Văn nghệ (số 381).

42. Huỳnh Lý (1959), Nhận xét thơ Tố Hữu như một thực thể động, Báo Văn học

(số73).

43. Thời Nhân (1946), Thơ Tố Hữu, Tạp chí Tiên phong (số 23).

44. Đặng Thai Mai (1964), Khi nhà nghệ sĩ“ Tham gia” vào cuộc đấu tranh với

tất cả tâm hồn mình, Báo Văn nghệ (số 87).

45. Đặng Thai Mai (1959), Mấy ý nghĩ, Nxb Văn học, H.

46. Hoàng Như Mai (1961), Văn học Việt Nam 1945-1960, Nxb Giáo dục, H.

47. Hoàng Như Mai (1965), Con mắt thần chủ nghĩa trong thơ Tố Hữu, Báo Văn

nghệ (số 98).

48. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường thơ Tố Hữu, Nxb Giáo Dục.

49. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), Lịch sử văn học Việt Nam, tập III, Nhà xuất

bản Đại học sư phạm ( 2002).

50. Tú Mỡ (1955), Góp ý kiến về tập thơ“Việt Bắc”của Tố Hữu, Báo Văn nghệ,

(số 75).

51. Như Phong (1959), Cái mới của"Từ ấy"- những bài thơ đầu tiên của Tố Hữu,

Nxb Văn học, H.

52. Vũ Đức Phúc (1955), Phản đối cái buồn của Hoàng Cầm khi đọc thơ Tố

Hữu. Nxb Văn Học.

53. Vũ Đức Phúc (1967), Người Việt Nam và lòng yêu nước trong thơ Tố Hữu

thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Pháp (1946-1954), Tạp chí Văn học

(số 6).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

54. Vũ Đức Phúc (1984), Tố Hữu (trích)- Nxb Khoa học xã hội, H.

104

55. Vũ Quần Phương (1997), Tố Hữu- Người mở đường của nền thơ cách mạng,

Báo Nhân dân.

56. Nguyễn Đức Quyền (1970), “Ta” với “ Mình” trong bài thơ"Việt Bắc" của

Tố Hữu, Tạp chí Ngôn ngữ ( số3).

57. Lê Bá Suý ( 1955)," Góp ý kiến về tập thơ Việt Bắc", Báo Văn học ( số 71).

58. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn

Việt Nam.

59. Thanh Tịnh (1959), Vài cảm nghĩ về tập thơ" Từ ấy" của Tố Hữu, Tạp chí

Văn nghệ quân đội ( số 8).

60. Minh Tranh (1955), Tình yêu trong tập thơ" Việt Bắc", Báo Văn nghệ (số 66).

61. Nguyễn Phú Trọng (1960), Phong vị ca dao dân ca trong thơ Tố Hữu. Nxb

Văn học.

62. Hà Xuân Trường (1955), Đọc tập thơ“ Việt Bắc”của Tố Hữu, Báo Nhân

dân,( số 329).

63. Nguyễn TrungThu (1968), Nhạc điệu thơ Tố Hữu, Tạp chí Văn học, (số 11).

64. Hoài Thanh (1955), Tình yêu quê hương đất nước trong tập thơ“ Việt Bắc”,

Báo Văn nghệ ( số 74).

65. Hoài Thanh ( 1955), Nói chuyện thơ kháng chiến, Nxb Văn nghệ, H.

66. Hoài Thanh (1960), “Từ ấy” tiếng hát của một người thanh niên, một người

cộng sản, Tạp chí Nghiên cứu Văn học.

67. Hoài Thanh (1962), Gió lộng, một bước tiến mới của thơ Tố Hữu, một tập thơ

mang khí thế mới của cách mạng Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Văn học(

số 8).

68. Hoài Thanh (1978), Một số ý kiến ngắn về thơ Tố Hữu, Nxb Tác phẩm mới.

69. Lê Quang Thành (1955), Góp ý kiến thảo luận về tập thơ“ Việt Bắc” của Tố

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

Hữu, Báo Nhân dân.

105

70. Lưu Khánh Thơ (2005), Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại,

Nxb khoa học xã hôi, H.

71. Hoàng Trung Thông (1955), Ý kiến kết thúc cuộc thảo luận về tập thơ“ Việt

Bắc”, Báo Văn nghệ, (số 81).

72. Nguyễn Đình Thi (1955), Thơ Tố Hữu đi vào thực tế quần chúng, Báo Văn

nghệ ( số 77).

73. Nguyễn Đình Thi (1955), Lập trường giai cấp và Đảng tính, vấn đề hiện thực

và lãng mạn, Báo Văn nghệ (số 79).

74. Nguyễn Đình Thi (1955), Nhà thơ lớn lên với thời đại, Báo Văn nghệ ( số 79)

75. Nguyễn Đình Thi (1968), Tập thơ Việt Bắc- Nxb Văn hóa, H.

76. Chế Lan Viên (1963), Thơ Tố Hữu, Nxb Văn học, H.

77. Chế Lan Viên (1968), Tổ Quốc Việt Nam, con người Việt Nam trong thơ Tố

Hữu, Báo Nhân dân.

78. Hoàng Việt (1955), Không đồng ý với Hoàng Yến và Hoàng Cầm, Báo Văn

nghệ ( số 69).

79. Hồ Sĩ Vịnh (1970), Đọc tập thơ“Bác Hồ”của Tố Hữu, Báo Văn nghệ(

số 360).

80. Hoàng Yến ( 1955), Tập thơ“ Việt Bắc” có hiện thực không?, Báo Văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn

nghệ (số 65).

106