ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM --------- --------- DƢƠNG THỊ HỒNG LIÊN NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN - 2008
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM --------- --------- DƢƠNG THỊ HỒNG LIÊN NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
CHUYÊN NG ÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: T.S. MAI THỊ NHUNG
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN - 2008
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới TS. Mai Thị Nhung - người đã
tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu khoa học và hoàn thành
luận văn.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo
khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học - Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên,
Viện Văn học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã giảng dạy và giúp đỡ tôi
hoàn thành khoá học.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp
đã quan tâm động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và
nghiên cứu.
Mặc dù đã nỗ lực cố gắng, song do thời gian thực hiện không nhiều,
năng lực bản thân có hạn nên luận văn chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Kính
mong nhận được sự lượng thứ và góp ý chân thành của các thầy, cô giáo cùng
bạn bè đồng nghiệp để được học hỏi, rút kinh nghiệm cho các công trình sau.
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2008
Dương Thị Hồng Liên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 7
4. Mục đích nghiên cứu........................................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 7
6. Đóng góp của luận văn ....................................................................................... 8
7. Cấu trúc luận văn ................................................................................................. 8
NỘI DUNG
Chƣơng 1. Cái nhìn nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời
kỳ Đổi mới ................................................................................................ 9
1.1. Khái niệm cái nhìn nghệ thuật............................................................................... 9
1.2. Những yếu tố tạo nên cái nhìn nghệ thuật của Ma Văn Kháng ....................... 10
1.2.1. Tố chất thông minh sắc sảo và cá tính sáng tạo của nhà văn ................ 10
1.2.2. Sự chuyển mình mạnh mẽ của một cơ chế xã hội mới ............................. 13
1.3. Cái nhìn nghệ thuật của Ma Văn K háng trong tiểu thuyết thời kỳ
Đổi mới ............................................................................................15
1.3.1. Cái nhìn hiện thực sắc sảo hướng thẳng vào những vấn đề nhức
nhối trong cuộc sống .................................................................................. 15
1.3.2. Cái nhìn con người tinh tường nghiêng về những giá trị văn hoá
truyền thống .................................................................................................. 28
Chƣơng 2. Giọng điệu nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời
kỳ Đổi mới ................................................................................................. 46
2.1. Khái niệm giọng điệu nghệ thuật .......................................................................... 46
2.2. Các sắc thái giọng điệu nghệ thuật trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của
Ma Văn Kháng ........................................................................................................ 48
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
2.2.1. Giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng ...................................................... 50
2.2.2. Giọng điệu triết lý, triết luận ...................................................................... 59
2.2.3. Giọng điệu mỉa mai, châm biếm ................................................................ 67
2.2.4. Giọng điệu thương cảm, xót xa .................................................................. 74
Chƣơng 3. Ngôn ngữ nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết
thời kỳ Đổi mới ....................................................................................... 80
3.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật ............................................................................ 80
3.2. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Ma Văn Kháng............................................. 82
3.2.1. Ngôn ngữ dung dị đời thường tươi rói sự sống........................................ 83
3.2.2. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm giản dị mà trong sáng .............................. 98
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 107
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 110
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Ma Văn Kháng là một trong những nhà văn có công đầu tiên mở đường
cho sự nghiệp đổi mới văn học. Vào những năm đầu 80 của thế kỷ XX, nhiều sáng
tác của Ma Văn Kháng đã "nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật", từ đó tạo nên
những cuộc tranh luận sôi nổi trên các diễn đàn văn học. Ông cũng là một trong số
các nhà văn Việt Nam hiện đại sáng tác thành công ở cả hai thể loại truyện ngắn và
tiểu thuyết. Qua từng tiểu thuyết, truyện ngắn, Ma Văn Kháng không ngừng tìm
kiếm những cách thể hiện mới. Thời gian và kinh nghiệm nghệ thuật đã tôi luyện
ngòi bút Ma Văn Kháng khiến ông luôn gặt hái được những thành tựu đáng kể.
1.2. Toàn bộ tiểu thuyết của Ma Văn Kháng nhìn chung được sáng tác theo hai
mảng đề tài lớn với hai cảm hứng chủ đạo: Đề tài về dân tộc miền núi với cảm hứng
sử thi và đề tài về thành thị với cảm hứng thế sự đời tư. Trong đó có những tác
phẩm được giải thưởng trong nước, quốc tế và được dịch ra tiếng nước ngoài như:
Truyện ngắn Xa phủ đoạt giải nhì (không có giải nhất) trong cuộc thi truyện ngắn
của Tuần báo Văn nghệ 1967 - 1968, tập truyện ngắn Trăng soi sân nhỏ giải thưởng
Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995, giải cây bút vàng cho truyện SanChaChải trong
cuộc thi truyện ngắn và ký 1996 - 1998 do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam tổ
chức. Ngoài Mùa lá rụng trong vườn được giải thưởng Hội Nhà văn năm 1984, Ma
Văn Kháng còn vinh dự nhận được giải thưởng văn học Đông Nam Á (1998) và giải
thưởng Nhà Nước về văn học nghệ thuật (2001). Với những thành tựu kể trên, Ma
Văn Kháng đã tự khẳng định vị thế của mình trong nền văn học Việt Nam
đương đại.
1.3. Lâu nay, đã có khá nhiều bài viết, các công trình nghiên cứu về Ma Văn
Kháng và các tác phẩm của ông. Nhưng hầu hết là những đánh giá, nhận định chung
về từng tác phẩm cụ thể, về hình tượng nghệ thuật, thậm chí là khen chê một tác
phẩm hoặc một khía cạnh nào đó của tác phẩm ngay khi nó ra mới ra đời. Với các
công trình nghiên cứu công phu như các luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ tuy đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
hướng vào những khía cạnh chuyên biệt như: kiểu nhân vật, đặc trưng cuả thể loại,
2
cảm hứng nghệ thuật hoặc những dấu hiệu đổi mới văn học qua sáng tác của ông và
một số nhà văn tiêu biểu cùng thời, nhưng việc đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu, khám
phá nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng từ góc độ cái nhìn, giọng điệu và ngôn
ngữ nghệ thuật để thấy sâu sắc hơn quan niệm của nhà văn về hiện thực cuộc sống và
con người trong một giai đoạn phát triển đầy phức tạp của xã hội thì vẫn còn bỏ ngỏ.
Với những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn vấn đề Nghệ thuật tiểu
thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới làm đề tài nghiên cứu của mình. Việc
nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề này sẽ giúp chúng ta thấy rõ vị thế của các
yếu tố nghệ thuật (cái nhìn, giọng điệu và ngôn ngữ) trong việc thể hiện tư tưởng
nghệ thuật của nhà văn. Từ đó khẳng định đóng góp to lớn của Ma Văn Kháng về
phương diện sáng tạo nghệ thuật tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới, đồng thời đề tài cũng
góp phần làm tư liệu tham khảo cho các sinh viên, học viên và những người yêu
thích văn học Việt Nam hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
Ma Văn Kháng là một trong số những nhà văn có đóng góp đáng kể vào công
cuộc đổi mới văn xuôi giai đoạn sau 1975. Một trong những đóng góp ấy là sự đổi
mới về cái nhìn, giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật. Ông "đã cố gắng đổi mới tư
duy nghệ thuật tiểu thuyết, tìm hướng đi mới trong lao động sáng tạo nghệ thuật".
Ngay từ khi truyện ngắn Phố cụt ra đời (1959) và đặc biệt là những tác phẩm xuất
hiện trong giai đoạn đầu những năm 80 của thế kỷ XX, Ma Văn Kháng đã được
đông đảo dư luận, độc giả và các nhà phê bình quan tâm. Nhiều công trình nghiên
cứu, phê bình của các nhà văn, nhà thơ và các nhà nghiên cứu như: Giáo sư Phong
Lê, Lã Nguyên, Tô Hoài, Trần Đăng Xuyền, Nguyễn Bích Thu đã được đăng tải
trên nhiều sách báo và tạp chí… Để phục vụ cho những vấn đề mà đề tài nghiên
cứu, chúng tôi tập trung tìm hiểu ý kiến của những người đi trước về cái nhìn, giọng
điệu và ngôn ngữ nghệ thuật.
2.1. Về cái nhìn nghệ thuật
Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới đã thật sự gây được sự chú ý,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
quan tâm đặc biệt của đông đảo độc giả cũng như giới nghiên cứu, phê bình văn học
3
và đã trở thành hiện tượng văn học một thời. Các tiểu thuyết Mưa mùa hạ, Mùa lá
rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú, Côi cút giữa cảnh đời... đã tạo ra
cuộc tranh luận sôi nổi làm cho đời sống văn học đương đại trở nên phong phú và
đa dạng hơn.
Tác giả Trần Đăng Xuyền, trong bài viết Một cách nhìn cuộc sống hôm nay
đăng trên báo Văn nghệ số 15 - 19 - 1983 đã đưa ra nhận định xác đáng về tiểu
thuyết Mưa mùa hạ: "Giá trị của Mưa mùa hạ không chỉ là chỗ mạnh dạn lên án cái
tiêu cực mà chủ yếu là xây dựng được cách nhìn, thái độ đúng đắn trước những cái
xấu, trước những bước cản đi lên Chủ nghĩa xã hội".
Sau Mưa mùa hạ, tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn xuất hiện. Trong cuộc
hội thảo về tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn do Câu lạc bộ Báo Người Hà Nội và
Nhà xuất bản Phụ nữ phối hợp tổ chức, các nhà văn, nhà lý luận phê bình đã có
nhiều ý kiến đánh giá về những thành công cũng như những hạn chế của tác phẩm.
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân khẳng định: "Mùa lá rụng trong vườn biểu hiện
cho xu thế văn học đang vươn tới những vấn đề cốt yếu"; Hoàng Kim Quý lại nhấn
mạnh: "Tác giả Mùa lá rụng trong vườn đã nhìn thẳng vào cuộc sống của những gia
đình với mỗi người".
Nói về cái nhìn của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết Đám cưới không có giấy
giá thú, trong bài viết: "Đọc Đám cưới không có giấy giá thú" của Lê Ngọc Y, tác
giả đã nhận thấy "Bằng cách nhìn tinh tế vào hiện thực đời sống tác giả đã mô tả
những người giáo viên sống và làm việc gặp quá nhiều khó khăn. Những vui buồn
của thời thế đã phản ánh vào những trang tiểu thuyết trở nên sống động". Từ đó, tác
giả nhấn mạnh Ma Văn Kháng "đã có cái nhìn hiện thực, tỉnh táo nên không bị thói
xấu, cái bất bình thường vốn nảy sinh trong xã hội đang vận động lấn át, hoặc chỉ
thấy một chiều này u ám mà không thấy chiều khác đầy nắng rực rỡ".
Cùng với ý kiến đó, tác giả Lê Thanh Hùng cũng đưa ra nhận xét: "Có lẽ Ma
Văn Kháng muốn bộc lộ một cái nhìn tiến bộ và khá mới mẻ, một nhận định khá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
chính xác về hiện thực đời sống đương thời - cái xấu, cái ác vẫn tồn tại, hoành hành
4
và sinh sôi trong đời sống, còn cái thiện, cái tốt mặc dù có nhưng có lẽ chưa đủ
mạnh để có thể chiến thắng" [12,77].
Đến với tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời (1998) - tác phẩm mà nhà văn tâm
đắc nhất, đã có không ít ý kiến xung quanh tác phẩm. Giáo sư Phong Lê trong cuốn
Vẫn chuyện Văn và Người - Nhà xuất bản Văn hoá thông tin năm 1989 cho rằng:
"Cuốn sách của Ma Văn Kháng đã vục vào cái sự thật tối tăm oan khổ đó như nhiều
cuốn sách khác. Nó thật lạ, anh lại đưa con người vào quỹ đạo những tình cảm nhân
hậu tốt lành. Có thể nói, đó là hiệu quả thanh lọc, tẩy rửa. Cái hiệu quả thanh lọc
này vốn dành cho nghệ thuật và dường như cũng chỉ có nghệ thuật đích thực, nghệ
thuật cao hơn cuộc đời mới có thể làm nổi"…
Nhận xét về cái nhìn trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới, nhìn
chung các tác giả đã thấy rõ cái nhìn tiến bộ, mới mẻ của nhà văn. Tuy nhiên, đây
chỉ là những nhận xét lẻ tẻ trên các công trình của các nhà nghiên cứu. Chúng tôi
thấy vấn đề này cần phải nghiên cứu sâu hơn và có hệ thống hơn.
2.2. Về giọng điệu nghệ thuật
Trong quá trình sưu tầm tài liệu tham khảo chúng tôi nhận thấy, có những
công trình nghiên cứu, những ý kiến đánh giá liên quan đến khía cạnh này như
trong bài viết Mùa lá rụng trong vườn và những vấn đề của đời sống gia đình hôm
nay (Báo phụ nữ Việt Nam số 17 - 1986) tác giả Trần Bảo Hưng nhận xét: "Về mặt
bút pháp, qua tác phẩm này, Ma Văn Kháng bộc lộ thêm một số sở trường mới; khả
năng biện giải, triết lý, phân tích một cách khúc chiết thông minh"
Nghiên cứu về tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú (1989), tác giả Mai
Thục cho rằng: Đám cưới không có giấy giá thú có tính luận đề về mối quan hệ giữa
những giá trị văn hóa với đời sống của con người; Vũ Dương Quý với bài viết Phải
chăng đời là một vại dưa muối hỏng?...đặc biệt là cuộc hội thảo về tiểu thuyết Đám
cưới không có giấy giá thú do báo Văn nghệ tổ chức ngày 11- 1- 1990 với sự tham
gia đông đảo của các nhà văn, nhà lý luận phê bình nổi tiếng đã đánh giá khái quát
và bổ ích, lý thú về giá trị đích thực cũng như những hạn chế của tác phẩm trên mọi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
phương diện.
5
Khi bàn về Ma Văn Kháng với Côi cút giữa cảnh đời trong Vẫn chuyện Văn và
Người, Giáo sư Phong Lê tiếp tục nhận xét: "Truyện ngắn Ma Văn Kháng quả là
một hiện tượng nổi bật trong văn học những năm 90, tuy vẫn chỉ một giọng điệu
nhưng không gây nhàm tẻ. Biết thế trước rồi mà vẫn ham đọc. Một giọng điệu vẫn
là nằm trong trong mạnh ngầm tuôn chảy từ một nguồn chung của nền truyện ngắn
hiện đại. Rõ ràng Ma Văn Kháng vẫn chưa tách ra được thật rõ một lối riêng, nhưng
vẫn không bị nhoè mờ trong diện mạo chung đó… Côi cút giữa cảnh đời đối với
tôi, đó là một cuốn sách đọc không thôi cảm động và đầy ấn tượng. Trên hai trăm
trang sách, đọc một thôi, không có gì khúc mắc, tất cả đều dễ hiểu, tưởng như
không có nghệ thuật… Cuốn sách của Ma Văn Kháng ai đọc cũng hiểu, đọc một lần
là hiểu, và xem ra cũng chỉ một tầng nghĩa thôi. Ấy vậy mà, tôi lại nghĩ, đó mới là
hoặc vẫn là nghệ thuật đích thực".
Về các luận văn, luận án tiến sĩ chúng tôi thấy luận văn cuả Phạm Mai Anh
(1997) - Đặc điểm truyện ngắn Ma Văn Kháng; Lê Thanh Ngọc (2004) - Nghệ thuật
trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng sau 1975; Đỗ Phương Thảo (2006) -
Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn Kháng…
Đây là những công trình đã nghiên cứu và có những nhận xét, đánh giá khá sâu
sắc, khách quan một số khía cạnh về phương diện nghệ thuật trong các tiểu thuyết
của Ma Văn Kháng và là những gợi ý vô cùng quan trọng cho quá trình nghiên cứu
của chúng tôi.
2.3. Về ngôn ngữ nghệ thuật
Với sự đóng góp của mình về thể loại tiểu thuyết, Ma Văn Kháng được coi là
một trong những người có thành tựu đáng kể trong quá trình đổi mới tư duy tiểu
thuyết, tìm hướng đi mới trong sự sáng tạo nghệ thuật, đặc biệt là sự sáng tạo về
ngôn ngữ. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi thấy có một vài công trình nghiên
cứu về vấn đề này. Trong bài viết Một vài suy nghĩ khi đọc Côi cút giữa cảnh đời
của Ma Văn Kháng, tác giả Vũ Thị Oanh đã cho rằng: "Côi cút giữa cảnh đời -
cuốn sách viết theo đề nghị cho lứa tuổi sắp vào đời, không đề cương, không hợp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
đồng, được xuất bản bởi sự hợp tác của Nhà xuất bản Kim Đồng và Nhà xuất bản
6
Văn học là một cuốn sách như thế… Đặc biệt, viết cho lứa tuổi sắp vào đời nhưng
tác giả không hề né tránh cái xấu, cái ác; những yếu tố tồn tại khách quan làm rõ
thêm bức tranh cuộc sống với những cuộc đấu tranh thể hiện ở nhiều bình diện, sắc
thái khác nhau. Đó là cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác... Tất cả được thể hiện
bằng ngòi bút mềm mại, uyển chuyển, ngôn ngữ hóm hỉnh, phong phú sắc màu: kết
cấu có hậu kiểu truyện cổ dân gian của tác giả Ma Văn Kháng".
Khi bàn về tác phẩm Ngược dòng nước lũ theo tác giả Hồ Anh Thái, "Ngược
dòng nước lũ chứa đựng những điển tích được gài cắm cẩn thận, khi được huy động
đã chuyển tải được những gửi gắm của tác giả từ trong chiều sâu suy tư ra bên
ngoài, trong một khoảng không gian mở rộng nhiều chiều kích. Nếu không có công
dụng tài hoa ấy, cuốn sách ấy chắc khó đọc với những tranh giành đấu đá đầy công
thức". Nghiên cứu tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn tác giả Trần Cương đã đưa ra
nhận định: "Nghệ thuật viết tiểu thuyết của Ma Văn Kháng đã có bề dày, kết quả
của một quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ và ở tác giả đã có định hình rõ nét phong
cách nghệ thuật của mình".
Gần đây còn có những công trình nghiên cứu ít nhiều đề cập đến ngôn ngữ
nghệ thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng như luận văn Thạc sĩ của Lê Thanh
Hùng (2006) - Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ đầu Đổi mới (Giai đoạn sáng tác
1980 - 1989); Lê Minh Chung (2007) - Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới;
Đỗ Thị Thanh Quỳnh (2006) - Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết cuả
Ma Văn Kháng; và luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thi Huệ (2000) - Những dấu hiệu
đổi mới trong văn xuôi của Việt Nam từ 1980 đến 1986 - Qua bốn tác giả: Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Mạnh Tuấn...
Từ việc tìm hiểu các bài viết, công trình nghiên cứu sáng tác của Ma Văn
Kháng ở từng khía cạnh cụ thể có liên quan đến những vấn đề mà luận văn nghiên
cứu, chúng tôi nhận thấy: Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi
mới ít nhiều đã được tìm hiểu, đề cập đến. Tuy nhiên, những công trình đó mới chỉ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
dừng lại ở những ý kiến, nhận định có tính khái quát, tổng hợp. Mặc dù vậy, trong
7
mức độ nhất định, các tài liệu kể trên sẽ là những gợi ý, định hướng, là nguồn tư
liệu quý báu và cần thiết cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu của mình.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Vì thời gian có hạn, luận văn không đi sâu nghiên cứu tất cả các vấn đề nghệ
thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng mà chỉ tập trung vào 3 vấn đề đặc sắc: Cái nhìn
nghệ thuật, giọng điệu nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết thời kỳ
Đổi mới của Ma Văn Kháng.
Trong quá trình nghiên cứu những vấn đề đặt ra, chúng tôi tập trung vào một
số tiểu thuyết tiêu biểu của nhà văn như Mùa lá rụng trong vườn, Côi cút giữa cảnh
đời, Đám cưới không giấy giá thú, Chó Bi- đời lưu lạc và Ngược dòng nước lũ. Tuy
nhiên, để thấy rõ sự chuyển hướng trong nghệ thuật của nhà văn, chúng tôi có đề
cập đến sáng tác của nhà văn trước đổi mới và có so sánh với những nhà văn khác.
4. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ những vấn đề nghiên cứu đã được đặt ra chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: "Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới"
nhằm hướng tới mục đích cụ thể như sau:
4.1. Cảm thụ tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới một cách sâu sắc
hơn, đồng thời chỉ ra được những nét đặc sắc riêng trong thế giới nghệ thuật của
nhà văn, từ đó góp phần khẳng định phong cách nghệ thuật Ma Văn Kháng.
4.2. Nâng cao khả năng cắt nghĩa, lý giải, truyền thụ cho giáo viên trong quá
trình giảng dạy tác phẩm của Ma Văn Kháng ở trường THPT.
4.3. Chỉ ra yếu tố chi phối thế giới nghệ thuật của Ma Văn Kháng, qua đó
khẳng định mối quan hệ thống nhất hữu cơ giữa các yếu tố nổi trội: cái nhìn, giọng
điệu và ngôn ngữ nghệ thuật Ma Văn Kháng. Khẳng định sự đóng góp to lớn của
Ma Văn Kháng trên thi đàn văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên
cứu chúng tôi sử dụng các phương pháp:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Phương pháp thống kê, khảo sát
8
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp khái quát, tổng hợp
6. Đóng góp của luận văn
- Góp thêm tiếng nói mới về phương diện nghệ thuật trong tiểu thuyết của Ma
Văn Kháng thời kỳ đương đại, cũng như có cái nhìn toàn vẹn về quá trình vận động
tư tưởng nghệ thuật của nhà văn.
- Khẳng định những thành tựu và đóng góp to lớn của Ma Văn Kháng trong
nền văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới.
- Ở một mức độ nào đó, luận văn sẽ làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, giảng dạy văn học ở trường PTTH và Đại học cũng như người yêu thích văn
học Việt Nam.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn được triển khai 3 chương:
Chương 1. Cái nhìn nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ
Đổi mới
Chương 2. Giọng điệu nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ
Đổi mới
Chương 3. Ngôn ngữ nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đổi mới
9
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CÁI NHÌN NGHỆ THUẬT CỦA MA VĂN KHÁNG
TRONG TIỂU THUYẾT THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1.1. Khái niệm cái nhìn nghệ thuật
Chúng ta đã biết, cái nhìn là một năng lực tinh thần đặc biệt của con người,
qua cái nhìn người ta "có thể thâm nhập vào sự vật, phát hiện ra đặc điểm của nó mà
vẫn ở ngoài sự vật, bảo lưu sự toàn vẹn thẩm mỹ của sự vật". Do đó, cái nhìn được
vận dụng muôn vẻ trong nghệ thuật và là một vấn đề dặc biệt quan trọng, đối với
một nhà văn có tư tưởng và sự sáng tạo không thể không có cái nhìn nghệ thuật.
Khrápchencô trong cuốn Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của
văn học đã nhận xét: "Chân lý cuộc sống trong sáng tác nghệ thuật không tồn tại
bên ngoài cái nhìn nghệ thuật có tính cá nhân đối với thế giới, vốn có ở từng nghệ sĩ
thực thụ" [106]. Bởi qua cái nhìn mỗi nhà văn mới tìm ra chất liệu để sáng tác và
sáng tạo nghệ thuật. Những nhà văn có tài là những nhà văn nhìn thấy cái mà người
khác không thấy hoặc khó thấy.
Nhận thấy tầm quan trọng của cái nhìn nghệ thuật, nhà văn Pháp M.Proust có
nói: "Đối với nhà văn cũng như đối với hoạ sĩ, phong cách không phải là vấn đề kỹ
thuật mà là vấn đề cái nhìn". Như vậy là, các nhà nghiên cứu lý luận và sáng tác
nghệ thuật đều khẳng định vai trò đặc biệt của cái nhìn trong sáng tạo nghệ thuật dù
ở bất cứ lĩnh vực nghệ thuật nào. Khi nghiên cứu về cái nhìn, Giáo sư Trần Đình Sử
cho biết "Cái nhìn được thể hiện trong tri giác, cảm giác, quan sát, do đó nó có thể
phát hiện ra cái đẹp, cái xấu, cái hài, cái bi... Đó là một cái nhìn bao quát của người
nghệ sĩ" [59,130]. Vậy cái nhìn đó được hình thành từ đâu? và nó được thể hiện
trong sáng tác của nhà văn như thế nào? Cái nhìn nghệ thuật được hình thành từ
trong quá trình tập trung năng lực tinh thần đặc biệt của nhà văn trước thực tiễn của
cuộc sống. Khi nhà văn có cái nhìn sâu sắc, bao quát thì nó sẽ mở ra khả năng nhìn
thấy rõ tính cách, quan hệ của con người và còn thấu hiểu được các mối liên hệ giữa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
những hiện tượng phức tạp của hiện thực. Sự nhận thức, vốn sống của nhà văn về
10
thế giới được thể hiện chủ yếu trong cái nhìn nghệ thuật. Trong sáng tác của nhà
văn, cái nhìn nghệ thuật được thể hiện qua hình tượng nghệ thuật, qua các chi tiết,
sự kiện và chi phối thế giới nghệ thuật của tác phẩm.
Cũng trong cuốn Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học,
Khrápchencô đã phát biểu rằng: "Một nhà văn tài năng có thể tích luỹ những kiến
thức lớn có liên quan tới phạm vi này hay phạm vi nọ của cuộc sống, có thể là một
con người hiểu biết trong lĩnh vực này hay một lĩnh vực khác, song nếu thiếu một
nhãn quan rộng rãi về cuộc sống thì anh ta sẽ đâm ra bất lực trong việc khám phá ra
cái chủ yếu trong hiện thực" [15]. Qua đó có thể thấy, cái nhìn nghệ thuật có ý
nghĩa quan trọng như thế nào trong việc phản ánh và khám phá hiện thực. Như vậy,
trong nghệ thuật, chân lý cuộc sống không thể tồn tại bên ngoài cái nhìn nghệ thuật
của người nghệ sỹ. Thực tế sáng tác, mỗi nhà văn đều có cái nhìn riêng, độc đáo
biểu hiện trong thế giới nghệ thuật của mình. Chính cái nhìn ấy đã góp phần tạo nên
phong cách nghệ thuật cuả nhà văn.
1.2. Những yếu tố tạo nên cái nhìn nghệ thuật của Ma Văn Kháng
1.2.1. Tố chất thông minh sắc sảo và cá tính sáng tạo của nhà văn
Ma Văn Kháng sinh ngày 01 tháng 12 năm 1936, tên thật là Đinh Trọng Đoàn,
người dân tộc Kinh, quê gốc ở Phường Kim Liên, Quận Đống Đa, Thành phố Hà
Nội, nay ở Quận Ba Đình - Hà Nội. Ông là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, hội
viên Hội Nhà văn Việt Nam. Sinh ra trong một gia đình hiếu học, Ma Văn Kháng
được bố mẹ rất quan tâm đến chuyện học hành. Vốn có tố chất thông minh cùng với
năng khiếu và sự ham tìm tòi trong sáng tạo nghệ thuật ông đã thành công trên con
đường sự nghiệp. Ông được đánh giá là một trong những "cây bút văn xuôi lực
lưỡng" của văn học Việt Nam hiện đại nửa cuối thế kỷ XX.
Là một chàng trai Hà thành chính hiệu nhưng Ma Văn Kháng có một thời gian
khá dài sống ở miền núi Tây Bắc. Ma Văn Kháng đã từng tham gia quân đội từ tuổi
thiếu nhi và được cử đi học ở Khu học xá Nam Ninh, Trung Quốc. Năm 1960, ông
vào học tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp Đại học, Ma Văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Kháng lên dạy học ở Lào Cai và đã lần lượt trải qua nhiều cương vị công tác. Ông
11
đã từng làm giáo viên dạy Văn, hiệu trưởng trường cấp 2, cấp 3 phổ thông Lào Cai,
về sau ông được Tỉnh uỷ Lào Cai điều về làm thư ký cho Bí thư Tỉnh uỷ, rồi làm
phóng viên, Phó tổng biên tập báo Đảng bộ Tỉnh. Suốt 20 năm gắn bó với mảnh đất
Tây Bắc, Ma Văn Kháng am hiểu lối sống, phong tục tập quán của đồng bào các
dân tộc thiểu số. Cái tên Ma Văn Kháng phần nào đã nói lên tình yêu thương mà
ông dành cho mảnh đất giàu tình nghĩa ấy. Từ trong tâm khảm, nhà văn đã coi Tây
Bắc là quê hương thứ hai của mình.
Sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, từ năm 1976 đến nay, Ma Văn
Kháng về sống và công tác tại Hà Nội. Ông từng làm Tổng biên tập, Phó Giám đốc
Nhà xuất bản Lao động. Đến tháng 3 năm 1995, ông là Uỷ viên Ban chấp hành
Đảng - Đoàn Hội Nhà văn Việt Nam khoá IV, trưởng ban sáng tác của Hội và là
Tổng biên tập Tạp chí Văn học nước ngoài. Ở cương vị công tác nào, ông cũng là
người dễ mến, sống chan hoà với mọi người.
Trải qua gần năm mươi năm cầm bút, Ma Văn Kháng đã chứng tỏ khả năng tung
hoành ngòi bút của mình trên nhiều lĩnh vực và đề tài khác nhau. Đức tính kiên trì, tố
chất thông minh của nhà văn đã giúp ông trong việc tìm tòi nghệ thuật biểu hiện và
mạnh dạn phanh phui trực diện những vấn đề phức tạp, gai góc của đời sống hiện tại.
Sau nhiều năm miệt mài tâm huyết với sáng tạo nghệ thuật cho đến nay, Ma
Văn Kháng đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam hiện đại gần 20 truyện ngắn, 10
tiểu thuyết và 8 tập truyện viết cho thiếu nhi. Với khối lượng tác phẩm đồ sộ và bề
thế, cùng với chất lượng nghệ thuật trong từng trang viết của mình, Ma Văn Kháng
đã khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn xuôi Việt Nam đương đại.
Ở những sáng tác thời kỳ đầu người ta có thể thấy ngay chỗ mạnh và cũng là
đặc điểm trong các sáng tác của Ma Văn Kháng là tính chất tập trung đề tài và nội
dung phản ánh cuộc sống của con người miền núi. Đây chính là "đặc khu" mà Ma
Văn Kháng đã dồn tâm, dồn sức trong suốt cuộc đời trai trẻ của mình. Có thể nói
cùng với nhà văn Tô Hoài - người đặt nền móng xây dựng nền văn học viết về đề tài
miền núi, Ma Văn Kháng đã góp sức mình khẳng định tầm cao mới trong những sáng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
tác viết về đề tài miền núi của nền văn học hiện đại Việt Nam.
12
Ma Văn Kháng đã từng tâm sự "Có sự tương hợp giữa thành nhân và đắc đạo
văn chương". Chặng đường dài mấy chục năm qua của Ma Văn Kháng đã chứng
minh cho sự tương hợp ấy. "Tự rèn luyện mình để viết văn. Viết văn để tự rèn luyện
mình" chu kỳ chuyển đổi đó không ngừng vận hành trong cuộc sống hàng ngày của
Ma Văn Kháng. Từ một Đinh Trọng Đoàn ngơ ngác giờ đây đã trở thành nhà văn
Ma Văn Kháng được bạn đọc mến mộ. Hàng ngàn trang sách của ông quện đặc tình
yêu con người, tình yêu thiên nhiên và tình yêu cuộc sống.
Trải qua nhiều môi trường công tác, giữ nhiều chức vụ khác nhau, Ma Văn
Kháng đã phát huy mọi khả năng của mình để quan sát cuộc sống ở nhiều góc cạnh.
Làm việc không mệt mỏi sau mỗi chuyến đi, Ma Văn Kháng lại chắt lọc lại từng
mẩu nhỏ của cuộc đời để tái hiện vào trong tác phẩm của mình. Bởi vậy, nhiều
người đọc tác phẩm của Ma Văn Kháng cứ ngỡ rằng tác giả viết cho mình - Ma Văn
Kháng là "nhà văn của mình".
Đến với văn học bắt đầu bằng thể loại truyện ngắn, được người đọc yêu mến
qua những tập truyện ngắn đặc sắc, nhưng Ma Văn Kháng chưa hài lòng với phạm
vi phản ánh của thể loại này. Ông nhận ra rằng: "Chỉ có tiểu thuyết viết theo quy
luật sáng tạo nghệ thuật mới cho phép tôi chuyển hoá khối lượng vốn sống khá dày
dặn sau nhiều năm tích luỹ, cho phép tôi phản ánh hiện thực một cách sâu sắc, cho
phép tôi gửi gắm vào đó những suy nghĩ, những tình cảm, những kinh nghiệm của
cá nhân tôi" [30]. Như vậy, có thể thấy Ma Văn Kháng đã biến tất cả những cái mà
mình đã thu lượm được, thành năng lượng tâm hồn và trào chảy ra đầu ngọn bút để
tạo dựng cho mình một cái nhìn riêng đầy phong cách của một cây bút hiện thực,
cảm thương, từng trải, tinh tế, gan ruột mà đằm thắm.
Nằm trong dòng chảy của văn học thời kỳ Đổi mới, các sáng tác của Ma Văn
Kháng cũng có những thay đổi đáng kể với những bước đột phá về tư duy nghệ
thuật. Nếu như những trang viết của Ma Văn Kháng trước thập kỷ 80 thể hiện cái
nhìn mang tính sử thi, thì ở giai đoạn sau nhà văn đã chuyển sang cái nhìn thế sự
đời tư. Cuộc sống hiện lên trong tác phẩm của ông giờ đây không còn đơn tuyến mà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
đa tuyến, nhiều chiều, cái xấu xen lẫn cái tốt, ma quỷ chen lẫn với thánh thần. Ông
13
quan tâm, phản ánh đến số phận con người trong nhiều quan hệ, nhiều hoàn cảnh
khác nhau và cố gắng nắm bắt mọi khía cạnh của cuộc sống để lột tả nó một cách
đầy đủ nhất trong tính đa dạng, toàn vẹn của nó…
Đó là một thách thức lớn đối với tất cả các nhà văn, kể cả những nhà văn luôn
gắn mình với đô thị. Thách thức đó còn lớn hơn đối với một nhà văn có thời gian
lâu dài sống xa nơi phố phường, đô hội như Ma Văn Kháng. Nhưng bằng tài năng,
bằng sức sáng tạo và cả tấm lòng của mình, Ma Văn Kháng đã thổi vào văn học
Việt Nam thời kỳ Đổi mới một luồng sinh khí mới với cái nhìn tinh tế, sắc sảo,
hướng thẳng vào những vấn đề nhức nhối trong cuộc sống hôm nay.
1.2.2. Sự chuyển mình mạnh mẽ của một cơ chế xã hội mới
Cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi năm 1975 đã đưa đất nước và
nhân dân ta bước sang một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa
xã hội. Khi tiếng súng đã thật sự chấm dứt, thì hậu quả nặng nề của ba mươi năm
chiến tranh chống Pháp và Mỹ vẫn để lại những ảnh hưởng của nó, vì thế thời kỳ
hậu chiến vốn đã khó khăn lại càng khó khăn. Công cuộc cải tạo và xây dựng xã hội
chủ nghĩa đã bắt đầu bộc lộ những khiếm khuyết cả trong nhận thức lẫn và thực
tiễn, bên cạnh đấy là tình trạng suy thoái về kinh tế, tệ nạn xã hội phát triển… Để
đưa đất nước thoát ra khỏi cơn khủng hoảng và tình trạng bế tắc đó, Đảng ta đã lựa
chọn con đường đổi mới, có thể nói đây là con đường phát triển tất yếu, có ý nghĩa
sống còn của đất nước. Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta
đã kêu gọi "Đổi mới tư duy" trên tất cả mọi phương diện và "Nhìn thẳng vào sự
thật". Sự đổi mới ấy đã đem đến cho văn học một không khí mới - không khí dân
chủ hoá, nói như PGS Nguyễn Văn Long "Dân chủ hoá đã thấm sâu và được thể
hiện ở nhiều cấp độ bình diện của đời sống văn học" [42]. Các nhà văn được viết
những gì họ nhìn thấy, cảm thấy kể cả những mặt trái của đấu tranh, mặt trái của
cuộc sống. Có thể nói, dân chủ hoá đã tạo điều kiện cho văn học đề cập đến hiện
thực trong và sau chiến tranh một cách toàn diện và sâu sắc hơn ở nhiều khía cạnh.
Các nhà văn đã nhấn mạnh tư tưởng tôn trọng sự thật, nhìn thẳng vào sự thật vì "Sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
thật luôn luôn là linh hồn của nghệ thuật chân chính" [43].
14
Thực tế công cuộc đổi mới của văn học diễn ra không hoàn toàn đơn giản một
chiều mà hết sức phức tạp, có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược
nhau nhưng cũng chính điều này lại làm cho đời sống văn học sau Đại hội Đảng VI
trở nên náo động hơn. Xét cho cùng, yếu tố quan trọng nhất để quá trình đổi mới
văn học thành công là cái tâm trong sáng và trách nhiệm của người cầm bút. Nói
như Hà Xuân Trường: "Đổi mới văn học, điều quan trọng nhất, quyết định là cái
nhìn và cái tâm của lòng trong sáng nhân ái, cộng với ý thức đầy đủ và chức trách
cao cả của văn học đối với con người, đối với cuộc đời, với nhân dân mình. Không
có những cái đó thì không có đổi mới" [dẫn theo72,27].
Xuất phát từ một cảm hứng mới, tiểu thuyết thời kỳ này cũng có những thay
đổi cơ bản về phương diện nghệ thuật. Từ chỗ lấy sự kiện làm đối tượng hàng đầu
để miêu tả hiện thực xã hội, tiểu thuyết đã hướng vào tâm hồn, tính cách số phận
con người để soi chiếu trở lại lịch sử và xã hội. Cái nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết
có những bước chuyển biến rõ rệt, tiểu thuyết đã trở thành thể loại đóng vai trò chủ
đạo trong đời sống văn học. Đây chính là thể loại thích hợp, uyển chuyển và giàu
khả năng nhất trong việc bám sát hiện thực cuộc sống và khám phá số phận, tính
cánh con người. "Con mắt" tiểu thuyết trở thành công cụ soi chiếu cả bề rộng những
vấn đề xã hội và bề sâu với từng số phận con người.
Nếu điểm những gương mặt tiêu biểu cho văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới,
Ma Văn Kháng phải là một trong những người được ghi công hàng đầu. Cùng với
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn... Ông đã dũng
cảm tiên phong mở đường cho sự đổi mới của văn học Việt Nam. Đúng như đánh
giá của PGS - TS Lã Nguyên "Trước làn sóng đổi mới dâng lên mạnh mẽ trong đời
sống tinh thần của dân tộc, trong những điều kiện cực kỳ khó khăn của đất nước,
sáng tác của Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Mạnh Tuấn…đã đốt lên nhiệt
tình tìm kiếm chân lý. Hứa hẹn khả năng đổi mới văn học Việt Nam khi nó dám
sòng phẳng với quá khứ, bất chấp mọi thế lực ngăn cản" [49,158]. Sự đổi mới trong
tiểu thuyết của Ma Văn Kháng nói riêng và trong sáng tác của ông nói chung đều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
bắt đầu bằng cái nhìn nghệ thuật.
15
1.3. Cái nhì n nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ
Đổi mới
1.3.1. Cái nhìn hiện thực sắc sảo hướng thẳng vào những vấn đề nhức nhối
trong cuộc sống
Khi chuyển hướng ngòi bút sáng tác của mình, Ma Văn Kháng đã nhanh chóng
tiếp cận một hiện thực phong phú, ngổn ngang, bộn bề, phải trái trắng đen lẫn lộn,
xen cài trong đó biết bao biến động.
Quả thực, nhiều chục năm nay, khi nói đến hiện thực trong văn học bên cạnh
những mặt tích cực, phấn chấn hào hùng luôn được các nhà văn miêu tả một cách hào
phóng, thì những mảng tối, những bóng đen nhiều khi còn quá gượng nhẹ, hoặc né
tránh. Trong khi cái xấu, cái ác không biết từ lúc nào từ bóng tối đã lấn dần ra ánh
sáng và biết bao con người lao động lương thiện đã lâm vào đau khổ, thậm chí tuyệt
vọng. Cũng như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn… Ma Văn
Kháng đã "vục" vào cái sự thật tối tăm, oan khổ trong hầu hết các sáng tác của mình.
Đất nước ta vừa trải qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc, nay trở về cuộc sống
đúng với quy luật bình thường của nó, nhưng thực tế đó không hề diễn ra bình yên.
Vốn đã quen với đời sống trong chiến tranh, nơi chỉ có mục tiêu duy nhất là đấu
tranh giành độc lập tự do, giờ đây trước cuộc sống mới con người trở nên bỡ ngỡ,
khó bề hoà nhập ngay được với cơ chế mới, hoàn cảnh sống mới. Đời sống của nền
kinh tế thị trường lúc này là một thứ thuốc thử về năng lực và phẩm hạnh con
người. Con người phải đứng trước những thử thách nghiệt ngã của cuộc sống mà
cuộc đấu tranh với chính bản thân là cuộc đấu tranh nhiều cam go nhất. Thử thách
này không chỉ diễn ra với đại bộ phận người dân mà còn diễn ra ngay trong bộ máy
chính quyền, quản lý Nhà nước. Trước thực tế không ít những kẻ được Đảng và
Nhà nước giao trách nhiệm quản lý, giúp đỡ nhân dân đã thừa cơ hội "đục nước béo
cò", đục khoét của Nhà nước, chèn ép, hành hạ những người dân lương thiện, Ma
Văn Kháng đã nhanh chóng đưa hiện tượng đó lên từng trang sách của mình. Với
cái nhìn sắc sảo và mới mẻ nhà văn đã nhìn hiện thực cuộc sống ở tầm vĩ mô để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
phát hiện nguyên nhân của sự thật đau lòng đấy chính là sự bất cập trong việc lựa
16
chọn cán bộ chủ chốt ở từng cơ quan, công sở, trường học. Ma Văn Kháng đã đưa
ra ánh sáng sự ấu trĩ của xã hội ta một thời, đó là lý lịch hoá trong việc lựa chọn cán
bộ lãnh đạo. Hơn thế, nhà văn còn nhìn thấu để leo lên được vị trí, để có được chức
quyền, không ít người đã dùng thủ đoạn, kể cả những thủ đoạn trắng trợn, bỉ ổi nhất.
Trước những thói hư tật xấu đang hoành hành ngang nhiên tồn tại và ngày
càng nảy nở, sinh sôi trong đời sống xã hội, làm tha hoá biến chất biết bao con
người, đặc biệt là những hiện tượng tiêu cực của Cán bộ, Đảng viên trong một số cơ
quan Nhà nước có thể trở nên nguy hiểm như "những tổ mối tiềm tàng trong lòng
những con đê mà không trừ được tận gốc". Ma Văn Kháng cảm thấy lo âu, trăn trở
và muốn cất lên lời kêu cứu khẩn thiết cần phải chấn chỉnh lại cơ chế cũ của một
nhà văn có cái tài, cái tâm trong sáng, có trách nhiệm với cuộc đời trên những
trang văn của mình.
Trong Mưa mùa hạ bằng mọi thủ đoạn hèn hạ và bất nhân, Hưng leo lên được
quyền trưởng phòng. Có quyền Hưng hiện nguyên hình là một kể tha hoá. Toàn bộ
động cơ sống của con người này toát lên mục đích thực dụng vị kỷ. Trước mặt đồng
nghiệp ở cơ quan, Hưng đã trơ trẽn tuyên bố rằng: "Con người ta, anh quái nào
chẳng vụ lợi… và nói chung ai cũng chính vì mình mà thôi" [25]. Biết Trọng là một
kỹ sư giỏi, giầu nhiệt huyết, đầy hứa hẹn trong công tác chuyên môn, nghiên cứu
khoa học và biết chắc một điều những thành công của Trọng là một điều vô cùng
bất lợi đối với mình. Hưng đã lợi dụng quyền trưởng phòng để trù dập, để cản bước
tiến của Trọng. Kết cục Trọng phải ở lại cơ quan chờ án kỷ luật. Hành vi thấp hèn
của Hưng đã đẩy một con người tự tin, yêu đời đầy lý tưởng sống, một tâm hồn
trong sáng nhiệt thành, một ý chí vươn lên mạnh mẽ rơi vào bi kịch xót xa khiến
anh có lúc thầm chua chát "Nam đã chết còn anh đang chết mòn…".
Ông Lại, vốn là đồ tể ở cái ba toa cuối phố, vì "có công" "chạy ra đón bộ đội
vào giải phóng thị xã" [21,102] thế là đương nhiên ông trở thành một người đã tham
gia cách mạng. Đó là xuất thân và cũng là "thành tích" của Bí thư Thị uỷ của một
thị xã miền cao trong Đám cưới không có giấy giá thú. Chỉ là một gã đồ tể, đi theo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
cách mạng có hai năm, tức hơn bảy trăm ngày cũng đã đủ vốn liếng để trở thành
17
một Bí thư Thị uỷ - kẻ có quyền hành tuyệt đối bao trùm lãnh địa, thực hiện quyền
lực vào tất cả ngõ ngách của đời sống. Chính vì thế, ông càng tỏ uy quyền bao nhiêu
thì lại càng thể hiện sự ấu trĩ, vô văn hoá bấy nhiêu. Hãy nghe ông phát biểu trong
buổi khai giảng năm học đầu tiên của một trường Trung học: "Hôm nay, thị xã ta
khai giảng trường cấp 3, rồi đây chúng ta sẽ mở trường cấp 4, cấp 5, cấp 6. Cũng
giống như Tỉnh ta có giống lợn lai kinh tế nhiều nạc, tăng trọng nhanh " [21,101-
102]. Công việc mở mang dân trí, khai sáng văn minh lại được Bí thư Thị uỷ ví như
việc phát triển những giống lợn, khiến cho học sinh và những người thầy đứng ra
gánh vác cái trọng trách to lớn ấy phải tủi hổ. Chưa hết, cực điểm của màn bi hài là
ông đã hùng hồn tuyên bố trước toàn thể giáo viên và học sinh "Trí thức không
bằng cục cứt chó khô đâu các người hãy nhớ lấy" [21,103] và tầng lớp trí thức tiểu
tư sản chỉ là "cái sinh thực khí tức là cái của thằng đàn ông. Nghĩa là xung trận thì
nó được kích thích thì nó cương cứng lên. Rồi sau đó lại ỉu xìu như thằng đã chết
trôi" [21,103]. Làm sao có thể tưởng tưởng được những lời mạt sát vừa vô học, vừa
bỉ ổi đó lại được phát ngôn từ một người đại diện cho Đảng. Đó quả thật là một thảm
kịch cho một nền văn hoá mới.
Dưới cái nhìn sắc sảo và mới mẻ của Ma Văn Kháng, chân dung của ông
"quan Lại" được hiện lên một cách sống động, chân thực và sắc nét. Chân dung đó
một lần nữa lại đươc tái hiện một cách rõ ràng hơn qua cuộc đối thoại giữa ông với
thầy giáo dạy giỏi văn Đặng Trần Tự tại trường trung học số 5:
"- Anh có được người ta dạy chủ nghĩa Mác không? Có hiểu linh hồn chủ
nghĩa Mác là gì không?
- Chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa nhân đạo hoàn thiện, là chủ nghĩa tự nhiên
hoàn bị. Lịch sử là một dòng chảy tự nhiên, ở ngoài ý chí cá nhân. Là dòng chảy vô
thức xã hội.
- Ngu! linh hồn chủ nghĩa Mác là chuyên chính!
- Người xưa nói: Ngựa vì buộc nó bằng giàm, ách nên nó mới lồng lên hung
hăng. Trị người như trị ngựa, làm trái nhân tính sẽ gây rối loạn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Im đi! vừa phong kiến mà sặc mùi tư bản là anh! Cút! " [21,107-108].
18
Có thể nói đây rõ ràng là một cuộc quyết đấu giữa quyền lực và tri thức, nhưng
đây là một cuộc chiến không cân sức khi tri thức và nhân cách chỉ là số ít mà quyền
lực vừa đông, vừa mạnh lại có cả cái gan làm liều, do tự thị và vô học, để rồi đi đến
một kết cục đau thương, khi cái đẹp, cái tốt, cái cao cả bị chà đạp.
Cái nhìn sắc sảo của Ma Văn Kháng còn nhận thấy hậu quả khôn lường của sự
ấu trĩ và bất cập ấy. Nhà văn nhìn rõ khi cái dốt, cái ác nắm quyền lực thì hậu quả
của nó thật khôn lường. Thầy giáo Tự (Đám cưới không có giấy giá thú) còn khốn
đốn vì Bí thư Dương và Hiệu trưởng Cẩm. Từ một bí thư Đoàn xã trình độ văn hoá
lớp 7, nhờ sức vóc, đạt giải chạy 1000 mét ở Huyện, Cẩm được đề bạt làm cán bộ
Đoàn, và được mời vào dạy thể dục ở một trường cấp II. Do có một vài năm thâm
niên trong nghề, Cẩm được cử đi học Đại học theo ý đồ vạch sẵn.
Lợi dụng kẽ hở trong quản lý cùng với năng lực "chạy", Cẩm nghiễm nhiên trở
thành một hiệu trưởng trường cấp III. "Cẩm là loại trí thức giả danh dốt nát và bần
tiện". Hiệu trưởng Cẩm của cái trường cấp III bất hạnh ấy, "chính là sản phẩm của
một thời lấy lý lịch ba đời nghèo khổ, lấy tấn phân xanh phân chuồng làm thước đo
giá trị của mỗi con người". Với lối đề bạt như vậy, lại thêm cái thói tham lam vô độ,
bần tiện, liều lĩnh và luôn thèm khát địa vị, Cẩm đã làm điêu đứng, tổn thương biết
bao nhiêu người chân chính như ông Thống, như Tự…
Cũng như Cẩm, Dương đã đạt lên tới đỉnh cao của danh vọng, tuy nhiên con
đường tiến thân của Dương nhanh gọn hơn. Trình độ văn hoá mới chỉ là lớp nhì
năm thứ nhất nhưng Dương tốt nghiệp lớp lý luận cấp cao nên ông ta được Bộ Giáo
dục đưa sang làm giáo viên dạy chính trị - Bí thư chi bộ nhà trường. Là giáo viên
dạy chính trị nhưng ông Bí thư chi bộ của nhà trường này đã trở nên bất hủ với lời
giải thích: Mác xít là tên gộp của hai vị lãnh tụ cộng sản C.Mác và Xíttalin ghép lại.
Ông còn đồng hoá với chức vụ và càng thâm niên đảm nhiệm chức vụ ông càng xa
cách con người bình thường tự nhiên, càng bộc lộ rõ trình độ văn hoá cấp I của
mình. Ông cho rằng: "Văn chương tự cổ vô bằng cứ. Văn chương là tư tưởng. Mà tư
tưởng thì nó như con lươn rúc bùn, như anh chàng Tôn Ngộ Không bảy mươi hai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
phép biến hoá thần thông, sai đấy, đúng cũng đấy, lập lờ phản trắc cũng là ở đấy…"
19
[21,176]. Dương còn một thói xấu nữa là nhân danh cán bộ Đảng, tự cho mình có
quyền bóc thư người khác để xem trộm. Thật là một hiện tượng kỳ quặc, một sự
thiếu văn hoá lạ lùng. Đặc điểm của người ít học, kém trí tuệ được ông "phát huy"
một cách triệt để. Ông hay quan trọng hoá và lên mặt cường điệu về vai trò của
mình…Tiếc thay công tác Đảng, các động lực vĩ đại của cộng sản, cái linh hồn sống
động của sự phát triển, thông qua ông Dương đã biến thành một chuỗi công việc đối
phó vặt vãnh, ngờ nghệch. Có những khi ông Dương được miêu tả là một ông lão cổ
hủ, dốt nát, lúc lại hiện nguyên hình là một gã cảnh sát chỉ nhằm phạt vi cảnh người
bộ hành, lại có lúc hành tung của một tên mật thám quỷ quyệt.
Đó là những kẻ "bất tri" nhưng lầm tưởng là "tri" và tự giao cho mình cái
quyền dạy cách làm người cho giáo viên và học sinh. Ấy thế mới nảy sinh ra những
nghịch lý, cái xấu ngồi trên cái tốt, cái vô văn hoá dẫm đạp lên cái có văn hoá, cái
ngu dốt ngự trị tài năng. Sự đảo ngược các giá trị đó đã làm cho những người tâm
huyết như Ma Văn Kháng dằn vặt đến đau đớn. Viết về nhà trường đấy nhưng thực
ra Ma Văn Kháng muốn đề cập đến một vấn đề xã hội rộng lớn hơn. Câu chuyện
tiêu cực ở trường Trung học số 5 này, mang dấu ấn và là sản phẩm của một giai
đoạn xã hội mang nặng tính chất giáo điều, máy móc áp đặt, lối làm việc chạy theo
thành tích giả dối trong công việc, trong quan hệ đối xử giữa con người với con
người. Những kẻ nắm quyền lực đã tỏ ra không xứng đáng với trách nhiệm của
mình và là những kẻ tồi tệ, không thể chấp nhận được.
Hướng thẳng cái nhìn sắc sảo, tinh vi của mình vào những vấn đề nhức nhối
trong cuộc sống, Ma Văn Kháng còn chỉ ra cái ác, cái xấu không chỉ tồn tại ở một
cá nhân mà là một liên minh những kẻ cầm quyền tha hoá, lợi dụng chức quyền
hãm hại người dân lương thiện. Trong Chó Bi - đời lưu lạc, liên minh đó bao gồm;
Viễn cụt, mụ Lên, Xuân Chương và gã y sỹ nửa mùa… Viễn là chủ tịch phường,
Lên là chủ nhiệm cửa hàng kinh doanh tổng hợp, Xuân Chương được phân công
chuyên trách tư tưởng của cả phường. Cả ba đều thuộc diện ưu đãi của chính sách.
Viễn khai là thương binh què chân, Xuân Chương khai là thương binh loại nhẹ, lý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
lịch ghi có thời đi thanh niên xung phong tuyến lửa, còn mụ Lên khai là vợ liệt sĩ.
20
Nhưng thực chất Viễn chính là một tên lưu manh đảo ngũ, đã tự chặt ngón tay để
khỏi phải ra chiến trường. Vốn là một anh lính bị kỷ luật trong chiến tranh do giết
bạn, rồi do ăn cắp lý lịch của bạn mà Viễn được thăng tiến… Còn mụ Lên "tính khí
hoa nguyệt đến mức gây rối loạn chức sắc địa phương" phải tha hương lên thành
phố. Xuân Chương thì là một tướng khỉ, không nghề nghiệp, bỏ quê ở miền Trung
đi làm phu hồ ở công trường xây dựng nhà ở của phường. Được ví là "gã trai đàng
điếm" nên chẳng bao lâu hắn đã nhanh chóng quen hơi bén tiếng với mụ đàn bà
"hừng hực bản năng giống cái" để trở thành "cô cháu" rồi ở cùng một nhà. Cả ba
người, nắm ba mặt quan trọng nhất của đời sống: chính quyền, kinh tế, văn hoá…
và cả ba đều cùng một duộc, kết bè kết đảng với nhau để đục khoét, vơ vét, của cải
của người dân lương thiện về tay mình, về nhà mình. Những kẻ lãnh đạo như thế,
bộ mặt của phường và đời sống nhân dân được chăm lo như thế nào là điều ai cũng
có thể tưởng tượng ra.
Trước một cái nhìn sâu sắc, đa diện, Ma Văn Kháng nhận thấy nạn nhân của
liên minh ma quỷ này không ai khác là gia đình ông Thuần, một gia đình vốn rất
hạnh phúc, vui vẻ, đầm ấm. Vợ ông Thuần là giáo viên ở một trường Trung học, là
người đôn hậu, hiền lành hết lòng vì chồng vì con. Họ có hai cậu con trai thông
minh, học giỏi, ngoan ngoãn. Một gia đình tuyệt vời như thế lại trở thành cái gai
trong mắt những kẻ độc ác, bất nhân như Viễn, Lên, Xuân Chương... Hơn nữa ông
Thuần lại có một "trọng tội" là thủ trưởng cũ của ông Chủ tịch phường, người đã kỷ
luật và nắm rõ sự tích ngón tay cụt của lão, điều mà xưa nay ông Chủ tịch Phường
không muốn ai biết. Vì lẽ đó, lão ta đã báo cáo ngầm lên trên để vu oan ông, khiến
cho gia đình ông Thuần - một trí thức tiếng tăm và được trọng vọng bỗng chốc đã
tan nát, lâm vào cảnh khốn đốn: Chồng con bị tù tội; vợ bị xúc phạm kỳ thị của
hàng xóm và sự bức hiếp của những kẻ cầm quyền đến nỗi đau ốm suy sụp.
Đa dạng trong cái nhìn, nếp cảm, lối nghĩ, Ma Văn Kháng đã nhìn rõ chân
dung của những nhà cầm quyền một thời. Họ không hề có ý thức vì dân, phục vụ
dân. Trái lại, họ lợi dụng chức quyền để bóc lột và chèn ép người dân. Mục đích
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
duy nhất của những nhà cầm quyền trong Côi cút giữa cảnh đời là làm sao vơ vét
21
được càng nhiều tiền của cho bản thân mình càng tốt cho dù phải dùng thủ đoạn gì
chăng nữa. Ông Luông - Chủ tịch phường Ngọc Sinh, vốn sống trong một ngôi nhà
"kín cổng cao tường, qua ba lớp cửa sắt mới vào được tới sân. Mảnh chai tua tủa sắc
rợn trên vòng tường vi, trên nữa là giây thép gai đan lưới mắt cao. Ông có một
chùm chìa khoá hai mươi mốt chiếc… vào đến buồng ngủ phải qua bẩy lần cửa
khoá nổi khoá chìm" [23,35] là những người như thế. Ma Văn Kháng đã để cậu bé
Duy, mười năm tuổi nhìn lại cái thời thơ ấu của mình mà ghê sợ nhận ra rằng: "Thì
ra con người ta là vậy, nó, chính nó nhiều khi lại là thủ phạm gây bao nỗi oan khổ
đau đớn cho đồng loại. Con người mang tiếng là con người mà sao nó lại có thể
nhẫn tâm, đểu cáng thế" [23,134]. Không chỉ ông Luông mà tên Hứng cũng không
từ thủ một đoạn nào để cướp đoạt tài sản của ba bà cháu đang sống trong cảnh đau
buồn, tuyệt vọng. Khi một bà lão già nua gần 70 tuổi do hoàn cảnh đưa đẩy phải
chăm lo nuôi dạy hai đứa trẻ côi cút. Cuộc sống của ba bà cháu đã phải trải qua
những ngày nguy khốn, tuyệt vọng, phải đem bán cả đồ đạc, ăn bữa rau bữa cháo,
bữa đói bữa no… Quả thật, nếu ai đã từng đọc và chứng kiến tình cảnh đau thương
này không khỏi không xót xa, đau đớn. Thế mà hắn hàng ngày sống và chứng kiến
tình cảnh đó lại không sẻ chia, giúp đỡ mà ngược lại còn lợi dụng chức quyền, lợi
dụng gia cảnh của ba bà cháu để chèn ép, để vơ vét cho mình. Chúng đã liên minh lại
với nhau để thực hiện dã tâm chiếm đoạt ngôi nhà của ba bà cháu, chỉ để lại cho một
bà già và hai đứa trẻ côi cút một căn buồng vẻn vẹn 6m vuông. Càng không ai có thể
ngờ, một người giàu có như Chủ tịch phường Luông, đã từng công tác trong ngành
ngoại giao 30 năm, lại có thói quen "ăn bẩn" khi ăn chặn, ăn quỵt của trẻ con từng
đồng từng hào mà mẹ chúng gửi về. Ông ta đã trắng trợn cướp đi từng miếng cơm
manh áo của con trẻ, thậm chí cả sinh mệnh chúng. Không những tham lam, độc ác,
ăn bẩn một cách vô độ, ông Chủ tịch phường Ngọc Sinh còn là một kẻ cửa quyền độc
ác và ngu dốt. Ông ta cho rằng mình là người nắm "công tắc điện", cho ai sáng người
ấy được sáng. Ngu dốt đến mức cho rằng Tây du ký là cuốn sách viết về chuyện Đặng
Tiểu Bình đi Mỹ, cấm mọi người đọc, rồi ông ta căn cứ vào hai cái họ: họ Lã (nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Duy) và họ Đổng (mẹ Duy) để ngang nhiên buộc tội dân lành, ông còn cố tình cho
22
rằng cái món tiền hàng tháng được bí mật gửi cho bà cháu Duy là tiền của bọn gián
điệp nó trá hình cấp cho cụ (mà sau này xác minh được đó là tiền mẹ Duy gửi). Và
tất nhiên là ông ta giữ luôn số tiền hàng tháng đó vào trong túi mình, biến thành tài
sản của mình…
Đặc biệt là Tổng cục trưởng Nguyễn Văn Phô trong Ngược dòng nước lũ - vốn
là một học sinh nổi tiếng dốt nát và bỉ tiện, quá kém cỏi nên bị thầy Khiêm (lúc ấy
là hiệu trưởng) đuổi học, đi làm công nhân bốc vác ở nhà ga xe lửa, rồi "nhảy tót lên
ghế cục trưởng". Cũng leo lên bằng cơ chế lý lịch hoá, Tổng cục trưởng Phô không
cần học hành, không mất xương máu, chỉ cần có một lai lịch nghèo khó, một vẻ
ranh mãnh trên đường đời, đã khiến cho con đường thăng tiến của Phô trở nên dễ
dàng. Nhưng càng đứng ở vị trí cao thì sự kém cỏi về năng lực càng được bộc lộ.
Từ diện mạo "lạnh lẽo cô hồn, vừa nham hiểm" [26,158]. Khi có quyền lực tối cao
hắn "ỷ vào quyền hành... hay trả thù cá nhân". Để giữ được cái địa vị tối cao, Phô
luôn tìm cách loại bỏ những đồng nghiệp không tuân phục cách quản lý của mình.
Đặc biệt là khi phát hiện ra Khiêm là thầy giáo cũ - người biết quá rõ lai lịch mình
lại xuất sắc và cao đẹp trong nhân cách đạo đức, vì lẽ đó hắn luôn tìm mọi cách để
loại bỏ Khiêm. Phô thực hiện triệt để chủ trương "tôi không cần người có tài, tôi chỉ
cần đoàn kết" [26,159], không cần người có tài và biết làm việc, mà chỉ cần những kẻ
biết tuân phục nên hắn đã đạo diễn hết màn kịch này đến màn kịch khác hòng dồn đẩy
những con người như Khiêm đến tận cùng bi kịch đau xót.
Trong Ngược dòng nước lũ không chỉ có Phô mà Ma Văn Kháng còn nhìn thấu
đến tâm can sự đen tối của những kẻ hám danh, hám lợi đến cạn tình ráo máng như
Đức, Hiển, Quanh lé... Khi biết Khiêm bị Phô đánh bật ra khỏi vị trí công tác của
mình, Quanh xum xoe nịnh nọt Phô để hòng được cân nhắc lên ghế chủ nhiệm thay
Khiêm. Kẻ a dua này theo lệch chủ phản bội lại Khiêm không từ thủ đoạn nào. Cái
đám đông bất tài vô nghĩa lý ấy, được Phô dựng lên bằng quyền lực, động cơ cá
nhân của mình để giữ bằng được cái chỗ ngồi của mình, Phô đã dựng quanh mình
một liên minh ma quỷ, những kẻ dốt nát, vô đạo đức, nhằm chống lại Khiêm và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
củng cố địa vị của mình.
23
Ma Văn Kháng vốn là một cây bút đầy nhiệt thành, tâm huyết và trách nhiệm.
Vì vậy, những chuyện tiêu cực trong các sáng tác của ông không toát ra sự thoả
thuê, cay cú mà nổi bật lên là thiên hướng nhạy cảm với mặt trái của cuộc sống, là
khả năng đồng cảm của tác giả với nỗi đau của đồng loại. Nhân loại vượt qua không
ít đắng cay và tồn tại đến ngày nay, trước hết là nhờ ở đó có những con người chưa
bao giờ đánh mất đi khả năng đồng cảm với nỗi đau của đồng loại.
Trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới, Ma Văn Kháng đã không hề cường điệu khi
nhìn thấy không ít kẻ tha hoá mục ruỗng trong bộ máy quản lý nhà nước, không ít
những kẻ lợi dụng chức quyền "tích cực" tham ô, bóc lột vơ vét của nhân dân.
Chính cái nhìn ấy đã thức tỉnh những người có lương tri để cải tạo xã hội. Lênin đã
từng khẳng định: "Chỉ khi nào chúng ta không thừa nhận những thiệt hại, và những
thiếu sót của mình, chỉ khi nào chúng ta nhìn thẳng vào sự thật, dù là sự thật đáng
buồn nhất đi nữa - chỉ khi đó ta mới học được cách chiến thắng". Có thể khẳng định
Ma Văn Kháng đã học được cách chiến thắng để nhìn thẳng vào hiện thực của đời
sống lúc bấy giờ.
Trong giới phê bình, nghiên cứu văn học có nhiều ý kiến khác nhau xung
quanh cái nhìn hiện thực của nhà văn Ma Văn Kháng. Có ý kiến cho rằng, Ma Văn
Kháng có một cái nhìn quá bi đát về hiện thực. Ý kiến ấy không phải không có cơ
sở, bởi nhà văn có cái nhìn ở nhiều góc khuất cuộc sống và chuyển tải lên trang văn
của mình. Có điều như đã trình bày, nhà văn đưa cái xấu, cái ác không ngoài mục
đích để mỗi chúng ta nhìn thẳng vào sự thật của cuộc sống dũng cảm đối diện với
nó, cải tạo nó để cuộc sống này có ý nghĩa hơn.
Bằng cái nhìn sâu sắc, bằng lương tri và trách nhiệm của người cầm bút, Ma
Văn Kháng không chỉ nhìn thấu sự ấu trĩ và những điều bất cập bất ổn trong cơ
quan quản lý, mà ông còn thấy rõ những tôn ti trật tự trong các mối quan hệ xã hội
và gia đình đang chao đảo trước nền kinh tế thị trường hôm nay.
Xuất phát từ một trái tim nặng trĩu ưu tư, Ma Văn Kháng luôn lo lắng cho
những giá trị văn hoá và đạo đức truyền thống đang bị đảo lộn và dần bị mai một.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ma Văn Kháng đã có cái nhìn khá mới mẻ, đa diện trong việc khám phá và đào sâu
24
các vấn đề của đời sống gia đình trước cơ chế mới đang có nguy cơ lung lay, bật rễ,
chao đảo.
Khác với cái nhìn của Nguyễn Khắc Trường trong Mảnh đất lắm người nhiều
ma, Ma Văn Kháng không đi sâu tìm hiểu các vấn đề bộn bề của gia đình, dòng họ
ở mảnh đất nông thôn vốn bình yên nay cũng đang chao đảo, mà ông hướng cái
nhìn của mình về khu đô thị, nơi lâu nay vẫn được coi là tiến bộ, là văn minh.
Ngay từ những năm đầu của nghiệp cầm bút, Ma Văn Kháng đã tái hiện đời
sống trong gia đình Việt Nam hiện nay, bởi gia đình vốn là một mắt lưới cơ bản của
xã hội, là nền tảng vững chắc cho xã hội phát triển. Gia đình cái vùng tưởng như
yên ổn, cái mà có lúc tác giả gọi đó là "vùng an lạc" trong vòng xoáy của cơ chế thị
trường và đời sống xã hội thời hiện đại có ai ngờ lại là vùng chứa nhiều sóng gió
nhất. Lối sống ích kỷ buông thả theo những dục vọng thấp hèn, coi đồng tiền là trên
hết, bất chấp những nguyên tắc, luật lệ của truyền thống lan toả vào từng gia đình
làm đảo lộn cả những giá trị truyền thống thiêng liêng cao cả.
Về vấn đề này, Lê Lựu trong Thời xa vắng cũng đã đề cập. Nhưng dường như
cái nhìn của nhà văn vẫn chưa soi tỏ được hết hiện thực cuộc sống trên tất cả các
bình diện. Với Ma Văn Kháng, thành thị đã thực sự trở thành một môi trường mà
mở ra cho ông một tầm quan sát và khả năng bao quát rộng lớn trên nhiều bình diện.
Qua cái nhìn của nhà văn, cuộc sống nơi thành thị lẽ ra là cái nôi của nền văn minh,
nhưng nó cũng chính là cái tổ của những thói hư tật xấu, thói hám tiền, hám danh,
tham quyền lực... Nơi đây, đồng tiền có sức mạnh vạn năng. Có thể làm thay đổi
nhân cách, lối sống của không ít gia đình, con người ở nhiều giai tầng khác nhau.
Ma Văn Kháng nhìn rõ sự chao đảo trong gia đình ông Bằng trong tác phẩm
Mùa lá rụng trong vườn. Vốn là gia đình xưa nay nổi tiếng mẫu mực gia giáo, đạo
đức, với năm anh con trai, năm hòn ngọc quý, các cô con dâu đều là những con
người đảm đang, hết lòng vì chồng con và gia đình. Vậy mà, những quan niệm về
lối sống mới lại đang từng ngày, từng giờ xâm nhập vào cái gia đình giầu truyền
thống đó. Với ông Bằng, mỗi gia đình là một tế bào nhỏ nhoi của xã hội "nhỏ nhoi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
là vậy mà là nền móng, mà kết hợp nó trong bao quan hệ: Tình cha con, tình vợ
25
chồng, anh em, những quy tắc luân lý bất thành văn, bám rễ sâu vào huyết mạnh,
tâm cảm, giằng níu mọi người trong những giao kết, liên hệ vừa nghiêm chỉnh vừa
thân mật" [22,87]. Tự hào về gia đình mình, ông Bằng cũng rất hy vọng những ngày
cuối đời mình sẽ trôi qua trong hạnh phúc đầm ấm của gia đình. Thế nhưng sở
nguyện của ông giờ đây trở nên bấp bênh hơn bao giờ hết, bởi gia đình ông không
còn là một vùng yên ổn nữa, nó đã phản chiếu tất cả cuộc sống ở ngoài đời "cái
vùng tưởng là tĩnh lặng, cái vùng hay bị lãng quên trong mối quan tâm hàng ngày,
có ai ngờ lại là nơi khơi thuỷ, chung cục của lắm điều bất hạnh" [22,345]. Những
điều bất hạnh đó là do sự tác động của đời sống xã hội đang ngày một đổi thay, là
do sức mạnh của đồng tiền chi phối mà con người không làm chủ được.
Trước hết là Cừ con trai ông Bằng, vì không chịu hấp thu nền giáo dục truyền
thống gia đình, nên đã bị những cám dỗ xấu xa của xã hội lôi kéo ra khỏi nề nếp gia
phong. Cừ coi thường tất cả những giá trị tinh thần cao quý, coi đạo đức và các mối
quan hệ tình cảm thiêng liêng với tổ quốc, gia đình, bố mẹ, anh chị… là con số
không vô nghĩa. Với Cừ cuộc đời là một sự lừa lọc "đạo đức giả cả thôi". Quay lưng
lại với những lời dạy của bố mẹ, lại bị bạn bè xấu lôi kéo, Cừ đã bỏ mặc gia đình, từ
bỏ quê hương xứ sở ra nước ngoài sinh sống, để rồi phải chấp nhận một kết cục bi
thảm nơi đất khách quê người. Khi đã nhận thức ra thì đã quá muộn "Xa rời những
tiêu chuẩn đạo đức con người thành thú dữ tàn bạo ngay. Đó là điều giờ đây con
mới hiểu" [22,224]. Trong sự tuyệt vọng, Cừ đã kết thúc cuộc đời mình bằng một
liều thuốc ngủ.
Đặc biệt là Lý con dâu ông Bằng. Là một người phụ nữ xinh đẹp, giỏi giang,
đảm đang tháo vát khi không thắng nổi sự cám dỗ, vì muốn theo đuổi những ham
muốn vật chất nhất thời, chị đã trở thành người hoàn toàn khác. Để chạy theo những
ham muốn và khát vọng làm giàu, Lý đã khước từ trách nhiệm làm dâu, thiên chức
làm vợ, làm mẹ để sống một cuộc sống buông thả với gã trưởng phòng xấu trai giầu
có, làm gia đình tan nát, công việc dang dở… Lý đã trở thành nạn nhân của chính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
mình và phải đón nhận một kết cục bất hạnh. Cùng với nó là cuộc sống khó khăn
26
của vợ con Cừ, tất cả những biến động dồn dập đến với gia đình ông Bằng, khiến
ông không thể trụ vững được và đã ra đi.
Gia đình vốn là tổ ấm, là chỗ dựa tinh thần vững chắc để mỗi người trong tổ
ấm đó được trú ngụ, được che chở, được nâng niu, an ủi mỗi khi gặp bất trắc tai
ương trong cuộc sống. Vậy mà, nhiều lúc gia đình lại đẩy chính mình vào những bi
kịch đau thương, tan tác.
Tự (Đám cưới không có giấy giá thú) và Khiêm (Ngược dòng nước lũ) chính
gia đình để lại trong họ biết bao vết thương lòng. Trước kia căn nhà này của họ
cũng đã là nơi yên ấm, vậy mà giờ đây nó luôn phơi bày mọi mâu thuẫn vợ chồng.
Đau xót hơn là nơi ấy lại diễn ra những cuộc tình bất chính của những người vợ mà
họ đã từng yêu thương. Không biết bao nhiêu lần Tự phải nằm trên gác xép, giả
câm, giả điếc để tránh phải nghe những lời chì chiết của vợ vì cái tội không làm ra
tiền và để tránh cho mình khỏi phải chứng kiến cảnh dâm ô bỉ ổi của vợ với Quỳnh
ma cô (Quỳnh đĩ đực). Cũng như Tự, gia đình trở thành một nỗi đau đời lớn với
Khiêm. Thoa, vợ anh, "người đàn bà có cấu trúc sinh học vô cùng hám chuyện mây
mưa" chỉ cần một người chồng là một thằng đàn ông dồi dào sức lực và kiếm được
nhiều tiền nên với Khiêm, chị ta không thoả mãn. Đó là nguyên nhân để chị không
ngần ngại cùng với lão thầy thuốc Lang băm làm những chuyện bỉ ổi ngay bên cạnh
giường bệnh của chồng mình. Thoa đã quên đi cái tình nghĩa vợ chồng gắn bó bấy
lâu nay chỉ vì lạc thú của bản thân. Trong lúc ốm dài nằm trên giường bất động như
thế không ai hết, Khiêm cần được nương tựa vào gia đình, cần được những người
yêu thương chăm sóc biết bao, nhưng oái oăm thay đó lại là những ngày khổ hình,
cực nhục nhất đời của mình.
Ma Văn Kháng đã nhìn vào thẳng cuộc sống của từng gia đình, của mỗi nhà để
suy nghĩ về những vấn đề khẩn thiết đang đặt ra trước mỗi con người. Theo ông
"Rác rưởi không chờn vờn ngoài cửa mà đã vào tận buồng, làm bụi bặm bầu không
khí trong lành, yên ấm của mọi gia đình". Sự chao đảo của từng gia đình trong cái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhìn của Ma Văn Kháng có nhiều nguyên nhân, hoặc là do chính thành viên trong
27
gia đình do không làm chủ được bản thân mà tan nát, hoặc phần lớn là do khách
quan đem lại.
Gia đình bà cụ Lãng (Côi cút giữa cảnh đời), gia đình ông Thuần (Chó Bi - đời
lưu lạc) vốn là hai gia đình hạnh phúc ấm êm theo đúng nghĩa. Nhưng rồi cuộc sống
với đầy rẫy những bất công, những thâm hiểm đã lấy đi tất cả hạnh phúc họ đáng
được hưởng. Trong gia đình ông Thuần những giờ phút vui vẻ, tràn ngập tiếng cười
giờ đây đã thiếu vắng, thay vào đó là sự chờ đợi nhớ mong. Mọi biến cố xảy đến
với gia đình đã làm thay đổi số phận của mỗi thành viên, dẫn đến sự phân tán chia
ly. Do sự hèn hạ của những kẻ chức quyền ông Thuần phải vào tù và bặt vô âm tín,
sự nghiệp, ước mơ đành dang dở; người con cả giỏi giang cũng phải chịu cảnh tù
tội, nỗi đau đó đã khiến cho người mẹ tê liệt, rơi vào những cơn giao động khủng
hoảng tinh thần. Gia đình bà cụ Lãng vốn tràn ngập niềm vui ấm áp trong tình mẹ
con, bà cháu, giờ đây là sự ly tán với bao nỗi khó khăn, vất vả cực nhọc, thậm chí
có cả những phút giây mà sinh mệnh con người cũng mong manh như sợi tóc bởi
những mưu sâu kế hiểm của bao kẻ gian ác, tham lam như lão Luông, tên Hứng…
Khám phá mối quan hệ gần gũi, thân thiết với tất cả mọi người, mọi quan hệ
cá nhân - gia đình - xã hội, nhà văn đã đặt ra được những vấn đề bức thiết "mỗi con
người, mỗi gia đình phải sống như thế nào và xã hội phải quan tâm như thế nào?
Đọc xong những trang văn của ông, mỗi con người phải tự nhìn lại mình, nhìn lại gia
đình mình, nhìn ra xã hội với ý thức trách nhiệm và sự lo lắng nghiêm túc." [44]
Có thể khẳng định vấn đề gia đình là vấn đề xuyên suốt trong tiểu thuyết của
Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới. Ông thể hiện lên trang văn của mình niềm mong
ước cao cả, sao cho "Gia đình, cái hình thái kết hợp lạ nhất của loài người, nơi thu
nhỏ của đời sống của xã hội, rồi đây có nhiều sắc thái mới mà trong các mối quan
hệ, những ước mong yên vui cho mọi gia đình sẽ là mong muốn muôn thủa, mong
cho con người mỗi ngày một phong phú về cá tính, được phát triển trong môi
trường lành mạnh, thuận lợi, ngày càng giỏi giang, một tốt đẹp lên, dẫu còn gian
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
nan nhọc nhằn, dẫu kẻ thù còn độc ác, còn kế hiểm mưu sâu" [44]. Như vậy, Ma
28
Văn Kháng đã nhìn rất rõ sự chao đảo của mỗi gia đình trong xã hội hôm nay và
nhà văn cũng nhận thấy vai trò của gia đình trong sự phát triển chung của xã hội.
1.3.2. Cái nhìn con người tinh tường nghiêng về những giá trị văn hoá truyền thống
Cũng như các nhà văn thời kỳ đổi mới, tự nhận thấy dòng văn học chỉ hướng
tới quần chúng để phát hiện ra con người mới với những phẩm chất công dân, phẩm
chất cách mạng vì cái "ta" chung lúc này không còn phù hợp nữa nên Ma Văn
Kháng đã có sự đổi mới tư duy nghệ thuật để bắt kịp với xu thế chung của thời đại.
Trong thời kỳ Đổi mới, nếu Nguyễn Mạnh Tuấn tạo dựng hình mẫu người cán
bộ tương lai trong bối cảnh cực kỳ sôi động; Nguyễn Khải có ý thức đi tìm vẻ đẹp
của con người trong mỗi cuộc lựa chọn…thì Ma Văn Kháng lại săn tìm vẻ đẹp của
con người trong các giá trị đạo đức truyền thống. Để rồi trong thập kỷ chuyển mình
của văn học Việt Nam đương đại, tiểu thuyết Ma Văn Kháng đã ẩn chứa dấu hiệu
đổi mới, mở ra những bình diện mới trong phương thức chiếm lĩnh hiện thực, trong
sự lý giải và thể hiện con người.
Kể từ Mưa mùa hạ (1982) "tác phẩm là kết quả của những cơn ngẫu hứng dài
chứa chan thi vị và hạnh phúc làm người". Ma Văn Kháng đã chuyển từ cái nhìn sử
thi từ các tiểu thuyết viết về đề tài miền núi sang cái nhìn thế sự, đời tư, miêu tả con
người ở chiều sâu tâm hồn với những ước vọng tốt lành và cả những toan tính tầm
thường, nhỏ nhen ích kỷ. Với Ma Văn Kháng cuộc sống hôm nay không hề đơn
giản, nó chứa đựng bao nhiêu bất cập, phức tạp và bất trắc ngay từ những việc nhỏ
nhặt xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Cái nhìn sắc sảo đã hướng Ma Văn Kháng
vào từng ngõ ngách của đời sống hiện thực để soi rọi, phân tích lẽ đời, thói đời với
tất cả các cung bậc của tình cảm và các mối quan hệ ở mọi góc cạnh, mọi phương
diện, nhất là thế giới nội tâm trong mỗi con người.
Khác với cái nhìn sử thi về con người, con người lúc này không chỉ đơn thuần
có nghĩa vụ công dân đối với đất nước mà còn có nghĩa vụ đối với gia đình, với mọi
người và với chính bản thân mình. Ma Văn Kháng nhìn thấu con người trong cuộc
sống hôm nay nhiều khi cái xấu, cái tốt, cái thiện, cái ác đan xen vào nhau khó tách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
bạch, thậm chí cái xấu, cái ác còn ẩn náu sau cái thiện, cái tốt để phá hoại cái tốt,
29
cái thiện. Trong thực tế có cái ác thuộc về bản chất, có cái ác, cái xấu lại được sinh
ra từ sự tác động của môi trường, hoàn cảnh… hoàn cảnh nhiều khi chi phối và tạo
ra bi kịch cho con người.
Thế giới con người trong cái nhìn của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới đông đủ
các giai tầng trong xã hội và vì thế kiểu nhân vật cũng vô cùng phong phú, đa dạng
và phức tạp. Với cái nhìn đầy trách nhiệm của mình, trước hết Ma Văn Kháng đã
thấy rõ con người trước mọi bão táp vẫn giữ được giá trị đạo đức, văn hoá truyền
thống, đó là những con người trí thức chân chính, những con người thị dân chân
chính. Cái nhìn tinh vi sắc sảo, nhà văn cũng đã phát hiện không ít những con người
bị tác động của cơ chế thị trường đánh mất đi nhân cách làm người của mình…
Xuất phát từ cái nhìn nhân đạo, mong tìm kiếm những điều tốt đẹp cho sự phát
triển nhân cách con người, Ma Văn Kháng đã đặt con người trong mối quan hệ
nhiều chiều, nhiều bình diện đó là con người của đời sống riêng tư, của xã hội, của
tự nhiên. Cái nhìn đó thể hiện một tư duy rất mềm dẻo, linh hoạt của Ma Văn
Kháng. Ông đã thể hiện một tư duy nghệ thuật về con người của riêng mình.
Đọc các tác phẩm của Ma Văn Kháng có một điều dễ nhận thấy là, ông
nghiêng hẳn về những giá trị tinh thần cội nguồn của truyền thống dân tộc mà phân
loại đánh giá con người. Có thể nói, ngay từ đầu sự nghiệp văn chương, Ma Văn
Kháng đã ý thức được sứ mệnh ngòi bút của mình viết là để khẳng định, bảo vệ giá
trị chân chính của con người. Không ngừng tìm tòi, đổi mới ngòi bút của mình
nhưng tất cả sự đổi mới ấy đều được dựa trên những giá trị nhân văn chân chính.
Bởi vậy, trong sáng tác của Ma Văn Kháng người đọc nhận thấy có không ít nhân
vật biết vượt qua mọi bão táp cuộc đời để gìn giữ những giá trị ấy.
Ngay trong những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, Ma Văn Kháng đã dành
nhiều tâm huyết, tình cảm để xây dựng những con người trí thức chân chính. Nhân
vật Trọng trong Mưa mùa hạ - vốn là một trí thức trẻ, tài năng, tâm hồn trong sáng
được kế thừa những đức tính tốt đẹp của người cha. Tốt nghiệp Đại học "loại xuất
sắc", giỏi chuyên môn, rất thông thái và năng động, say mê đến cuồng nhiệt với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
khoa học nhưng lại bị "va vấp liên tục" bởi lẽ lúc bấy giờ cuộc sống có một luồng
30
gió độc từ bên ngoài thổi vào, len lỏi từng góc cạnh của gia đình, thậm chí của từng
con người. Trước những thói tệ tầm thường, đang ghen ghét, vây bủa và vùi dập
nhưng anh vẫn vững vàng để thực hiện khát vọng và hoài bão của mình. Là người
con của sông nước, Trọng đến với ngành thuỷ lợi bằng tất cả niềm say mê, nhiệt
tình và tâm huyết. Yêu những con đê xanh có hàng ngàn năm tuổi, Trọng gắn bó
với nó như máu thịt của đời mình. Ma Văn Kháng thực sự rung động khi miêu tả
nhân vật Trọng, miêu tả cuộc chiến đấu của anh và đồng đội để bảo vệ con đê, hay
nói đúng hơn là để bảo vệ đạo lý, nền văn minh dân tộc.
Trước những bủa vây của tệ nạn tiêu cực và sự bức bách của vấn đề cơm áo
hàng ngày, Ma Văn Kháng đã nhìn thấy sự hoài nghi, phân vân ở mỗi người, nếu
chỉ một thoáng do dự, hoặc không tỉnh táo, quyết đoán là con người có thể sa ngã.
Ý thức sâu sắc được điều này, Trọng đã lấy niềm say mê của mình, lấy công việc
làm vui, vật lộn với mưa gió bão lụt, chiến đấu với quỷ thần không một chút đắn đo
do dự. Gặp biết bao khó khăn, trở ngại trong quá trình nghiên cứu và tham gia trực
tiếp vào cuộc đấu tranh giữa cái xấu, cái tốt người kỹ sư trẻ tuổi này nhận ra rằng:
"Cuộc đấu tranh trên những con đê có cái gì để gần gũi lắm với đời sống hiện nay".
Bởi vậy, anh đã trực tiếp xuống hiện trường, tìm hiểu nguyên nhân, nghiên cứu gốc
rễ của vấn đề để từ đó tìm ra hướng giải quyết, khắc phục hòng tiêu diệt lũ mối đục
khoét trong lòng đê. Biết Hưng đố kỵ và lợi dụng quyền hành để loại anh ra khỏi
công việc mà anh hằng say mê, gián tiếp phủ nhận công trình khoa học của mình,
Trọng đã không đầu hàng. Không chỉ vậy, lá đơn xin vào Đảng bị kẻ xấu cố tình
xuyên tạc, đặt điều nhưng Trọng không nản chí, anh đã trả lời thẳng với ông Chánh:
"Tôi sẽ tiếp tục công việc của tôi, cũng như tôi sẽ vào Đảng" [25,280].
Ở Trọng luôn thể hiện một lý tưởng sống đứng đắn, một tâm hồn trong sáng
nhiệt thành, một ý chí vươn lên mạnh mẽ đối lập hoàn toàn với những con người
tiêu cực, những thấp hèn đang hoành hành trong xã hội.
Cũng như Trọng, ông giáo Cần - cha Trọng trong Mưa mùa hạ, một trí thức tài
năng và tâm huyết, vì bị thói đời chèn ép, vì cảnh ngộ riêng phải xin nghỉ hưu sớm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trước những hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội, ông đã sống những ngày đêm tâm
31
trạng rối bời, u ám, ngọn lửa niềm tin hắt hiu muốn tắt, nhìn cuộc đời như một bức
tranh xám xịt. Lương tâm trong sạch và ý thức dân tộc vẫn còn chưa nguội lạnh đã trào
lên trong ông những trăn trở triền miên để phản ứng lại những cái xấu xa ngoài đời.
Những mẫu hình nhân vật này còn được Ma Văn Kháng tiếp tục khám phá ở
các cấp độ cao hơn, với cái nhìn đa diện hơn, trong sáng tác của mình sau này. Đó
là những mẫu người như ông Bằng, Luận (Mùa lá rụng trong vườn); thầy giáo Đặng
Trần Tự (Đám cưới không có giấy giá thú); Khiêm (Ngược dòng nước lũ); và kiểu
người lý tưởng như ông Thuần (Chó Bi - đời lưu lạc)…Họ là những trí thức chân
chính suốt đời theo đuổi lý tưởng cao đẹp nhưng lại bị ném chìm vào một xã hội
thực dụng, trong sự băng hoại về đạo đức và nhân cách nhưng vẫn cố gắng dùng
sức lực nhỏ bé của mình để giữ gìn những giá trị đạo đức tốt đẹp của truyền thống
dân tộc Việt.
Là một trí thức cũ sống hết mình với đạo đức truyền thống, ông Bằng (Mùa lá
rụng trong vườn) luôn ung dung tự tại, ý chí nghị lực một cách thâm trầm, lấy sự
bình ổn cân bằng làm căn bản, dùng thiện tâm để đối xử, bằng sự giúp ích cho đời
để hiện diện. Ông sống theo phương châm "Coi trọng đạo lý, rời xa phù phiếm, kết
hợp với đạo đức cuộc sống và tinh hoa của cha ông" [22,51]. Với cốt cách và chí
hướng ấy, cả đời ông là một quá trình phấn đấu không mệt mỏi. Ông đã từng sống
những ngày tháng hào hùng của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở thành Nam, đã
từng gương cao lá cờ đỏ sao vàng vác ba lô đi kháng chiến ở Yên Bái, Tuyên
Quang, rồi cũng đã có lúc hai vợ chồng phải xay lúa giã gạo thuê kiếm thêm tiền lưng
gạo nuôi con… Hành trình của ông trên cõi đời lắm chông gai là thế nhưng cốt cách
tinh thần riêng của ông không vì gặp khó khăn trở ngại mà nao núng, lu mờ.
Không phải là người có tài năng xuất chúng nhưng ông Bằng luôn chỉnh chu,
đức độ và luôn có tinh thần cầu thị, được đồng nghiệp và mọi người nể trọng và tin
cậy. Đối với gia đình, ông luôn lấy đạo đức, nhân cách, tình yêu và niềm tin của bản
thân đối với văn hoá, đạo đức truyền thống của dân tộc để giáo dục con cái: "Phải
giữ gìn các con ạ. Giữ gìn từ những cái nho nhỏ, vì từ cái nho nhỏ cộng lại thành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
văn hoá, nền tảng đạo lý đấy…" [22,60]. Suốt cuộc đời, ông vẫn luôn giữ được
32
phẩm giá cao ngạo, cứng cỏi cho mình mà không một thế lực hay thói hư tật xấu
nào có thể làm ông lung lay chao đảo, ngược lại, như ngày càng được củng cố một
cách vững chắc hơn. Ông dường như chính là hiện thân của ý thức hướng về cội
nguồn dân tộc và giữ gìn truyền thống.
Nếu như ông Bằng là hình mẫu của lớp trí thức cũ thì Luận là hình mẫu của
lớp trí thức hôm nay. Là một nhà báo, Luận luôn tỏ ra năng nổ, thông minh, trí tuệ
sắc sảo, có lý tưởng, có trách nhiệm, có tình yêu thương tận tuỵ và biết xây dựng
hạnh phúc gia đình trong điều kiện đời sống còn nhiều khó khăn. Vốn coi nhẹ giá trị
vật chất, Luận chỉ chăm lo đến việc bồi bổ giá trị tinh thần, bồi dưỡng kiến thức để
hoàn thiện kho tàng học vấn của anh và phục vụ cho nghề nghiệp. Luận "mê say
đuổi theo sự làm giàu về một phương diện khác: Trí tuệ, tình cảm, đạo đức (…)
hướng hoàn toàn về vẻ đẹp tinh thần, vẻ đẹp bên trong" [22,158]. Ta thấy, dường
như không lúc nào Luận được nghỉ ngơi thực sự, anh làm việc cả khi đang ngủ, cả
khi đang ăn. Trằn mình vào cuộc sống, ý thức được mối quan hệ cá nhân - gia đình-
xã hội, ở nhà báo Luận luôn toả sáng một vẻ đẹp truyền thống với lòng nhân hậu,
đằm thắm bao dung. Trước sự xói mòn khá nghiêm trọng về đạo đức trong nền kinh
tế thị trường, những con người như Luận là một phần nhỏ để ngăn chặn những cơn
sóng dữ không cho nó len lỏi vào từng cá nhân trong gia đình.
Với một nhãn quan tinh tường, Ma Văn Kháng đã hướng cái nhìn của mình
vào số phận con người ở những cảnh đời khác nhau, để bầy tỏ sự xúc động chân
thành trên mỗi trang văn của mình. Là một thầy giáo tài năng và tâm huyết, đã có
hai mươi năm thâm niên trong nghề dạy học, Tự (Đám cưới không có giấy giá thú)
chính là hình ảnh của một nhà giáo lý tưởng "Mô phạm mà vẫn không mờ nhạt lòng
nhiệt thành nhiệt thành, tinh thần triệt để, cùng chiều sâu tri thức, sự phong phú của
tình cảm và sức lan toả của tư duy đã tạo nên một anh giáo Tự mực thước mà vẫn
sâu sắc, đôn hậu mà vẫn uyển chuyển, đa cảm mà vẫn rắn rỏi, không dễ uốn mình,
cảm thông với mỗi sa sảy, yếu đuối của học trò" [70]. Thế nhưng Tự lại bị thói đời
ngu dốt, vụ lợi và thói tham quyền cố vị của những kẻ đội lốt trí thức như Bí thư
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Dương, Hiệu trưởng Cẩm… chèn ép, trù dập không một lối thoát. Hơn nữa Tự còn
33
phải sống với một thực trạng cay đắng về sự phản trắc của vợ - một người đàn bà
chỉ biết chạy theo đồng tiền và quên đi thiên chức làm vợ, làm mẹ, thậm chí cả
những đạo lý trên đời.
Tìm hiểu kỹ về vấn đề này chúng tôi thấy, Nam Cao cũng đã hướng cái nhìn
của mình vào tầng lớp trí thức như Hộ trong Đời thừa, suốt đời ôm mộng văn
chương những mong "chỉ viết một quyển thôi, nhưng quyển ấy sẽ ăn giải Nobel và
dịch ra mọi thứ tiếng trên toàn cầu" nhưng mộng không thành vì miếng cơm manh
áo ghì sát đất. Cũng như Hộ, Thứ trong Sống mòn khát khao hoài bão và khát vọng
về lý tưởng nghề nghiệp. Bao nhiêu mơ ước, mộng tưởng đẹp đẽ là thế, vậy mà rốt
cuộc, Thứ cũng chỉ là một ông giáo sống lay lắt mà đến không khí để thở cũng phải
dè xỉn. Như vậy, Thứ và Hộ đều là những trí thức giàu nghị lực, lắm khát vọng
nhưng rốt cuộc cũng chỉ là những kẻ sống mòn, sống trong đời thừa, ngay cả khi
chết vẫn chưa làm được gì.
Khác với Nam Cao, bằng cái nhìn tinh tế sâu sắc và mới mẻ về người trí thức,
Ma Văn Kháng không những thấy Tự nghèo, mà còn phải đối mặt với biết bao bỉ ổi,
thô bạo và độc ác tinh quái cả trong gia đình và nơi công sở. Mặc dù phải sống
trong những môi trường nhố nhăng đồi bại ấy, Tự vẫn có ý thức giữ gìn nhân cách
người thầy để trở thành một tấm gương sáng về đạo đức trước biết bao thế hệ học
sinh. Hết lòng truyền tải kiến thức và chăm lo vun xới những mầm xanh tương lai
của tổ quốc, Tự đã dũng cảm lên tiếng để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các em
để rồi bị quy chiếu là phần tử về tư tưởng có vấn đề. Đó là điều mà không phải bất
kỳ người thầy nào cũng làm nổi. Thuật giáo viên dạy toán cùng trường với Tự đã
nói: "Thầy phải ra thầy, khẩu hiệu hay tuyệt, nếu vậy, ở đây, anh Tự ở lại trường.
Còn thì: tôi cút, ông cút, ông Dương cút, bà Thảnh cút". Chưa hết Thuật cũng từng
nói trước hội đồng nhà trường rằng: "Thầy Tự đây được 10 điểm, tôi chỉ đáng 5, bà
Thảnh 2. Còn ông, ông Cẩm điểm1 hay là dêzô". Như vậy, ở cái trường Trung học
số 5 này, chỉ có một mình Tự mới xứng đáng được gọi là thầy mà thôi.
Không chỉ ở người thầy chân chính, Ma Văn Kháng còn nhận thấy phẩm chất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
của tầng lớp trí thức chân chính trong nhiều lĩnh vực. Là người lãnh đạo giỏi, ông
34
Thuần (Chó Bi - đời lưu lạc) đã mạnh dạn cải cách trong sản xuất kinh doanh, đưa
xí nghiệp vào con đường lớn. Chính vì thế những kẻ bảo thủ, bất lương đã ghen
ghét tìm cách hãm hại ông, dẫn đến quãng đời bảy năm tù tội chất chứa bao oan
khốc cay đắng. Nhưng ông vẫn tỏ thái độ tự tin bình tĩnh, bởi ông tin vào lẽ sống
của mình cũng như đã tin vào chân lý vĩnh cửu. Trước sự nghi vấn của cơ quan
chức trách, ông còn là con người thấu tình đạt lý, hiểu được đến tận cùng lẽ đời khi
thường khi biến, thế nên cái thất bại của ông cũng chỉ là nhất thời thất thế của người
quân tử trước kẻ tiểu nhân mà thôi. Vì xác định cho mình có một cách sống, ông
luôn giữ được một phong thái đàng hoàng tự tin.
Cùng với Tự, Trọng, ông Thuần, nhà văn Khiêm trong "Ngược dòng nước lũ"
cũng chất chứa trong mình bao phẩm chất tốt đẹp. Sống giữa đám đông tầm thường
giả dối Khiêm đã biết tự vượt lên để bảo toàn khí tiết. Anh đã trải đời mình trên
những trang viết để cho ra đời cuốn tiểu thuyết "Bến bờ". Nghiệt ngã thay khi "Bến
bờ" hoàn thành thì cũng là lúc Khiêm bị cách chức, bị tước đoạt, do sự trả thù cá
nhân hèn hạ của những kẻ vô học nắm quyền lực. Nhưng với cách sống thanh cao,
trong sáng, luôn coi nhẹ địa vị quyền lực, anh đã tỉnh táo đề nhìn thấu đáo sự đốn
mạt, bán rẻ nhân cách, tham lam quyền hành của một đám đông hỗn loạn trong cơ
quan văn hoá.
Bằng cái nhìn tinh tế và mới mẻ, nhân vật trí thức lý tưởng của Ma Văn Kháng
đều có những nhân cách đáng trân trọng. Họ không bị tiền bạc danh lợi cám dỗ,
không bị cuốn vào xu thế thực dụng của số đông, luôn đấu tranh vượt lên hoàn cảnh
số phận, để bảo toàn nhân phẩm. Họ không bị tha hoá, không chịu nhuộm đen, dù
phải một mình "ngược dòng nước lũ". Họ dường như vượt lên trên mọi toan tính
tầm thường.
Với một nhãn quan tinh tường Ma Văn Kháng không chỉ thấy ở tầng lớp trí
thức chân chính hôm nay có những cái tốt, cái cao cả, mà nhà văn còn nhìn thấy mặt
hạn chế, nhược điểm ở họ, điều đó cho thấy cái nhìn của Ma Văn Kháng rất đa diện,
đa chiều. Nhìn chung những trí thức của Ma Văn Kháng đều là những người có lý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
tưởng, có nhân cách cao thượng, nhưng đôi khi họ lại nhu nhược, dễ đầu hàng và
35
chấp nhận hoàn cảnh. Tự, Khiêm, ông Thuần đều là những người như thế. Bi kịch
của cuộc đời họ một phần cũng là do sự nhu nhược của chính họ tạo nên. Qua
những nhân vật trí thức này, Ma Văn Kháng muốn gửi tới một thông điệp, người trí
thức lý tưởng không chỉ cần có cái tài, cái tâm mà còn phải biết hành động, dám
hành động để tự khẳng định mình trong mọi hoàn cảnh.
Không chỉ tập chung khám phá tìm hiểu, con người và cuộc sống của tầng lớp
trí thức chân chính, cái nhìn đa chiều của Ma Văn Kháng thấy cả những tri thức tha
hoá, tri thức lưu manh. Thuật giáo viên dạy Toán của trường Trung học số 5 đại
diện tiêu biểu cho giới trí thức tha hoá. Được xếp vào bậc tài trí trong giáo giới
trong thành phố. Thuật vốn là một tài năng đích thực nhưng cuộc đời Thuật lại rơi
vào vết trượt dài trên con đường tha hóa và bị lôi cuốn vào vòng xoáy đời thường
với lối sống thực dụng, coi trọng lợi ích vật chất. Thuật đã ngang nhiên tuyên bố
rằng: "Tôi không có động cơ khác nào là… tiền! Tiện đây, tôi xin công khai tô i dạy
thêm một cua năm mươi giờ, bất kể giá cả trượt lên, hay trượt xuống, chỉ biết thu về
đúng một chỉ" [21,152]. Học trò đã đặt biệt hiệu cho anh "Thuật… chó" không chỉ
bởi Thuật nuôi và kinh doanh chó giống mà còn có một nguyên nhân khác xuất phát
từ tư cách của anh. Cái biệt danh này vô tình đã khái quát sự tha hoá của Thuật.
Thuật đã đánh mất nhân cách, từ bỏ tư cách của một người thầy, anh ta thông thuộc
chuyện buôn bán chó hơn là nghiệp vụ giảng dạy. Kể cả cô giáo Thảnh, là một trí
thức nhưng đã để những khát vọng vật chất, những khát vọng tầm thường lôi cuốn,
trở thành trơ tráo, không còn nhân cách. Cũng như tầng lớp trí thức, tầng lớp thị dân
trong cái nhìn của Ma Văn Kháng gồm đủ loại người tốt có, xấu có và những kẻ tha
hoá cũng có.
Tiếp cận hiện thực, nghiên cứu khám phá hiện thực và con người nhiều tầng,
ngòi bút của Ma Văn Kháng đã phát hiện ra vẻ đẹp của những giá trị đạo đức truyền
thống. Trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới ta còn thấy xuất hiện
rất nhiều những người tốt, những công dân lương thiện luôn quan tâm đến mọi
người, sẵn sàng sẻ chia và cứu giúp nhau trong những lúc khó khăn như bà Lãng, cô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Quyên, cô Đại Bàng…(Côi cút giữa cảnh đời). Cuộc đời của hai đứa trẻ côi cút
36
tưởng chừng sẽ chìm vào vực sâu của sự thất vọng nếu không có bàn tay, không có
tấm lòng che chở của người bà cũng như sự cưu mang giúp đỡ của cô giáo Quyên,
của cô Đại Bàng và những người dân chân chính của phường Ngọc Sinh. Họ đã
dang tay ra cứu giúp số phận bi thảm, côi cút của Duy và Thảm, trong khi chính
cuộc sống của họ cũng có lúc khốn khó tưởng chừng không qua nổi. Ma Văn Kháng
đã xây dựng thành công một câu chuyện cổ tích giữa đời thường, mà phép mầu
nhiệm lại được xuất phát từ tấm lòng nhân hậu của những con người chân chính ấy.
Họ như là những vị tiên giáng trần dang cánh tay của mình cứu giúp linh hồn ngây
thơ của những đứa trẻ như bé Duy, bé Thảm. Đồng thời đây cũng chính là nơi tác
giả muốn ấp ủ tiếp nối truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã thấu tỏ nhiều chân dung
cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nổi bật lên
giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật bà lang Chí, chị Hoài, Phượng, Vân…
trong Mùa lá rụng trong vườn hay chị Trang trong Chó Bi - đời lưu lạc. Bà lang
Chí, một đời thiệt thòi mà vẫn nhân hậu. "Coi việc nâng đỡ người khác như một nhu
cầu tự thân"; chị Hoài nết na thuỳ mị sống có trách nhiệm với mọi người; Phượng
hiền từ, chân thật, hài hoà đầy lòng thương yêu, sẵn sàng chia sẻ mọi niềm vui với
người khác, làm tất cả những gì có thể để mọi người vui vẻ sung sướng, ở Phượng
dường như có một "cơ chế" chịu đựng. Bao nhiêu điều không may, thiệt thòi dồn
xuống vai chị: công tác không như ý, mất cắp xe dạp, rồi phải chịu đựng tính đồng
bóng của bà trưởng phòng, cưu mang vợ con Cừ… Vậy mà, Phượng chịu đựng
được hết, chịu đựng với sự tự nguyện gần như là bản năng. Không một khó khăn
nào, một biểu hiện xấu nào của cuộc sống có thể khiến Phượng đánh mất lòng tin
yêu, lòng thương người ở chị. Phượng đã từng nói "tôi yêu tất cả mọi người", điều
đó khiến nhiều người băn khoăn về việc Phượng có phải là nhân vật hiện thực
không? Nhà văn đã khẳng định Phượng chính là nhân vật hiện thực. Trong Phượng
có bóng dáng những người thân yêu nhất của nhà văn. Phượng chính là sự nối tiếp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
những truyền thống trung hậu, đảm đang của người phụ nữ Việt Nam.
37
Ở gần cuối tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn xuất hiện đôi bạn trẻ Cần - Vân.
Tác giả đã dành những dòng tâm sự yêu thương, niềm tin tưởng vào đôi bạn trẻ này,
bởi họ mang tính cách truyền thống của một dân tộc. Nếu như Đông ù ì, bất lực
trước những biểu hiện tiêu cực của đời sống, thì Cần nhìn mọi việc một cách thanh
thoát, không thờ ơ nhưng cũng không bi quan. Anh cho rằng: "Công nghiệp hoá
xong thì sẽ thanh toán hàng loạt cái xấu" [22,354]. Còn Vân là người biết trân trọng
những tập tục của dân tộc, nhưng cũng kiên quyết chối bỏ việc sắp xếp hôn nhân vì
đồng tiền của cha, mẹ để bảo vệ tình yêu đến cùng. Đó là những hình tượng nhân
vật mà nhà văn Ma Văn Kháng đã thể hiện mong ước và tình cảm nồng hậu của
mình vào thế hệ trẻ hôm nay.
Với cách nhìn nhận sáng suốt và công bằng, cùng với tâm huyết của mình, Ma
Văn Kháng đã dồn vào, đã xây đắp cho mỗi nhân vật, mỗi con người, mỗi cảnh đời
trên trang viết đầy ắp sự chân thành xúc động của mình
Không chỉ nhìn rõ những con người trước mọi bão táp của cuộc đời vẫn giữ
được những giá trị đạo đức văn hoá truyền thống. Ma Văn Kháng còn nhìn thấy cả
những con người tha hoá về đạo đức và nhân phẩm trước sự tác động của cơ chế thị
trường. Tiêu biểu là những kẻ vụ lợi cơ hội như Hướng, Liệu, Tý Hợi, Hiển…
những kẻ "luôn theo đóm ăn tàn", chúng ton hót, nịnh nọt lấy lòng để mong được
chú ý cân nhắc che chở.
Hiển (Ngược dòng nước lũ) nguyên là một lái xe do ngủ gật làm xe đổ, bị hỏng
mắt, được điều về làm cán bộ Đoàn thanh niên, mắc tội nhìn trộm nữ công nhân
thay quần áo, bị mọi người khinh bỉ, nhưng vì giỏi nịnh nọt, giỏi cơ hội nên Hiển
được Phô quét cho một lớp sơn mới bằng trang lý lịch viết lại rồi đưa lên làm
Trưởng ban điều hành. Lợi dụng chức quyền, hắn luôn trù dập, hạ bệ người tài giỏi
mặc cho đó là những người đã từng dìu dắt nâng đỡ mình.
Cái Tý Hợi (Ngược dòng nước lũ) một kẻ xấu xí về ngoại hình, luôn là đối
tượng soi mói của bất cứ ai trong cơ quan. Cảm thương với kẻ tật nguyền, hơn ai
hết Khiêm rất thương nó, anh thường che chở cho nó trước mọi người. Ấy vậy mà,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
khi chỉ mới nghe tin Khiêm thôi giữ chức chủ nhiệm, nó liền trở mặt ngay với chính
38
người đã từng dang tay cứu vớt, yêu thương, chở che cho nó. Nó luồn cúi, nịnh nọt,
ô hợp với lũ người sâu mọt chống lại Khiêm. Chưa hết, nó đã tọc mạch về chuyện
Hoan với Khiêm, hậu quả là Hoan bị sỉ nhục, bị rạch mặt, bị mất việc làm và rơi
vào bi kịnh, trong khi Hoan luôn quan tâm, bao dung nó, coi nó như là em mình.
Cũng như Tý Hợi, trước đây Hiển đã từng coi Khiêm là người anh tin cậy nhất của
mình. Vậy mà giờ đây cái đám đông này được sống trong "vương quốc quyền hành"
đã quên đi tất cả. Họ trở nên tự tung tự tác, tỏ ra lạnh lùng vô cảm với Khiêm. Càng
ngày cái đám đông này càng toả ra một sức mạnh áp đảo, nó hình thành như một
cơn lũ nhấn chìm Khiêm - kẻ ngược dòng. Ta thấy, ở đây mỗi con người đều mang
một vẻ, nhưng đều là những kẻ dị hình, dị tướng, vì quyền lợi của bản thân, họ có
thể bán rẻ cả lương tâm và tình nghĩa thiêng liêng của con người.
Ma Văn Kháng đã có một cái nhìn trực diện, thẳng thắn vào những con người
này, họ đã đánh mất chính mình cũng như đang dần làm mất đi những truyền thống
quý báu của dân tộc chỉ vì quyền lợi và danh vọng. Không chỉ dừng lại ở khía cạnh
ấy, Ma Văn Kháng còn cho chúng ta thấy trong hiện nay còn có một loại người cậy
quyền, cậy thế hoành hành ngang dọc, đại diện cho những kẻ này không ai khác là
Tuẫn - con trai Bí thư Thị uỷ Lại trong Đám cưới không có giấy giá thú. Khi còn
ngồi trên ghế nhà trường, Tuẫn đã ngang nhiên đóng vai trò là một thằng phá đám
"là tên Juđa phản nghịch", và là nhân tố trực tiếp làm hỏng đời thầy giáo Tự. Vì
Tuẫn cậy mình là con "quan lớn" nên tác oai tác quái không coi ai ra gì. Hãy nghe
hắn ngang nhiên bộc lộ thái độ trong giờ dạy văn với một nhà giáo tâm huyết với
nghề như Tự "Ôi, chó chết hết chuyện. Chứ có đếch gì mà cao cả với vĩnh hằng!
Lằng nhằng!" [21,208]. Với một thầy giáo tâm huyết, điều đó không thể chấp nhận
và Tự đã nổi giận. Nhưng có ngờ đâu lời nói của một học trò vô giáo dục kia, lại mở
đầu cho bi thảm cuộc đời anh chỉ vì anh dám tát con "quan Lại": "Ông Tự! Còn ông
thì hết đời chó chết cũng không được làm Đảng viên dự bị đâu!" [21,209]. Và quả
thật lời nói của một học trò hư đốn đã trở thành hiện thực. Dựa vào quyền lực của
cha mình Tuẫn đã đánh mất tư cách của một học sinh, và làm cho cuộc đời của thầy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
giáo Tự trượt dài, trên con đường đời đầy đau khổ.
39
Xuất phát từ một tấm lòng nặng trĩu ưu tư trước những nỗi bất công, tha hoá
trong cuộc đời thực tại cái nhìn của Ma Văn Kháng chưa dừng lại, nhà văn còn rất
nhức nhối khi tầng lớp thị dân còn không ít người đang tự đánh mất mình, đang
trượt dài trên con đường tha hoá. Tiêu biểu là Lý, Xuyến, Thoa, Trình…
Lý (Mùa lá rụng trong vườn) là sản phẩm điển hình của lối sống kinh tế thị
trường, vị kỷ, hám lợi…, là một người phụ nữ đẹp trẻ trung, rực rỡ đầy sức sống
"khuôn mặt tròn, hồng nõn… cặp gò má cao được san đều về phía dưới, má ửng lên
một sắc hồng đẫm… Hai con mắt lá răm sắc, nhóng nhánh sáng, đong đưa một cái
nhìn vừa vui tươi vừa lẳng" [22,69]. Vốn là một phụ nữ thông minh đảm đang tháo
vát và đầy ý chí tự lập. Suốt những năm tháng chiến tranh, Lý đã là một người vợ
tốt, người mẹ hiền, một cô con dâu đảm đang theo đúng nghĩa "lấy chồng gánh cả
giang sơn nhà chồng". Chị đã một mình nuôi dạy con ngay từ khi nó còn trứng nước
và không hề nhờ cậy bố mẹ chồng. Chị làm dâu, làm mẹ dù vất vả vì thiếu vắng
chồng nhưng với tài tháo vát của chị, mọi việc đều rất suôn sẻ. Hiếu thuận với cha
mẹ chồng, nuôi dạy con cái, chăm lo, lo lắng cho em chồng rất chu đáo, chị thực sự
là trụ cột trong gia đình và là hậu phương vững chắc cho chồng nơi tiền tuyến.
Nhưng ở chị, cái tốt cái xấu pha trộn vào nhau. Chị lo toan chăm sóc mọi người
trong gia đình nhưng lại cũng có thể ích kỷ, tham lam nhỏ nhen với mọi người. Có
những lúc chị như bỗng hoá thân, biến thành một kẻ khác hết sức giữ tợn, kiêu ngạo
và thách thức, chị đã thay đổi "vì thiếu nền tảng, dễ bị kích động tức hứng nhất thời
bởi các ý tưởng cuồng nhiệt hoang đường" [22,314]. Là "nạn nhân của lửa đèn
thành phố", Lý đã chênh vênh bên ngưỡng cửa giữa cái xấu và cái tốt.
Trong cái thời buổi mà cuộc sống đang ở vào thời kỳ xây dựng với muôn vàn
những thiếu thốn và khó khăn này, có thể làm ngời lên những phẩm chất anh hùng
của những con người anh hùng, dũng cảm chiến dấu với chính nó, nhưng cũng rất
dễ là tác nhân kích thích mạnh mẽ tâm lý hưởng thụ vật chất, thói ích kỷ vô luân.
Lý lao xuống bờ vực của lầm lẫn. Chị nhìn thấy "đời bây giờ tệ lắm", "Có tiền là
xong hết". Chị quan niệm "Đời chỉ là một chữ T thôi" từ đó Lý bất chấp tất cả,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
buông thả mình theo những dục vọng thấp hèn. Tính tháo vát, sự táo bạo, sắc sảo, ở
40
chị giờ đây đã biến thành thói lừa bịp dối trá, điêu toa, mặc sức cho dục tình thiêu
đốt. Mang trong mình những đặc tính cần thiết của con người ở thời kỳ lắm sự biến
động, thiếu sự bảo trợ của những giá trị tinh thần, Lý đã dần khước từ bản chất tốt
đẹp vốn có của mình để trở thành kẻ xa lạ.
Đất nước đang trên đà phát triển, nền kinh tế thị trường đang mở ra môi trường
lớn lao và tạo cơ hội, động lực thúc đẩy để mỗi cá nhân trong xã hội có thể thực
hiện khát vọng làm giàu, được thực hiện ước muốn ăn ngon mặc đẹp rất chính đáng
của mình. Bản chất của con người vốn đã phong phú, phức tạp, cuộc sống lại nhiều
biến động và bất ngờ, bởi thế, ngòi bút của Ma Văn Kháng đã hướng tới việc nghiên
cứu, phát hiện con người phức tạp, đa chiều "con người không trùng khít với chính
mình". Ma Văn Kháng đã không nhìn con người một cách đơn giản cứng nhắc như
giai đoạn trước, mà ở thời kỳ này ông đã đi sâu phân tích mổ xẻ con người trong
từng nỗi niềm, từng bước ngoặt cuộc đời họ. Điều đó thể hiện một cách nhìn khá
linh hoạt, uyển chuyển về con người của nhà văn Ma Văn Kháng.
Lý không phải là sản phẩm tiêu cực duy nhất, cá biệt của đời sống kinh tế thị
trường, mà sản phẩm của nó là cả một lớp người chạy theo đời sống vật chất và
hưởng thụ. Cũng như Lý, Xuyến (Đám cưới không có giấy giá thú) đã nhảy cóc
sang một bước phát triển nguy hiểm về phương diện đạo đức. Là một phụ nữ bản
năng kém thích ứng trước đời sống, sống thực dụng, nhanh chóng bị loá mắt trước
sự cám dỗ của vật chất, Xuyến đã trở nên tàn nhẫn, chà đạp nên hạnh phúc gia đình,
coi thường chồng, khinh rẻ đời sống gia đình và từ chỗ phản bội chồng Xuyến đã
trơ tráo tố cáo chồng là người phản bội và tự huỷ đi nhân cách làm người của mình.
Với cái nhìn tinh tường của mình, Ma Văn Kháng còn nhận thấy rằng con
người ta trong hoàn cảnh ngặt nghèo, ít tình người thì sẽ trở nên lưu manh hoá hoặc
chí ít khái niệm đạo đức cũng trở nên xa xỉ đối với họ. Cho nên cô nữ sinh Trình
(Đám cưới không có giấy giá thú) vốn ngoan ngoãn, vì bệnh tật, vì bị bỏ rơi, vì bị
nghèo đói… bỗng trở nên đáo để, cong cớn, chụp giật để trả thù đời…
Nghiên cứu tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới, chúng ta còn có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
thể kể ra hàng loạt những nhân vật tương tự như gã tình nhân của Lý (Mùa lá rụng
41
trong vườn); Hứng và chị em Vàng Anh, Vành Khuyên…(Côi cút giữa cảnh đời);
Thoa và lão tình nhân Lang băm trong Ngược dòng nước lũ…" tiền" là câu nói cửa
miệng của những con người này. Vì tiền chị em sẵn sàng đánh chửi nhau, vì tiền
con sẵn sàng chửi rủa, thậm chí còn đuổi mẹ ruột của mình, vì tiền vợ chồng coi
thường khinh rẻ nhau… Họ không có ý thức bảo vệ, giữ gìn đạo đức, gia đình.
Trong quan niệm của họ đạo đức chính là "cái gì hợp với mình" và cuộc đời "chỉ là
chữ T thôi". Đồng tiền quả thật làm cho cuộc sống con người đầy đủ hơn, sung túc
hơn nhưng nó còn có sức mạnh làm tha hoá con người một cách ghê gớm. Xa rời
những tiêu chuẩn đạo đức, họ đã biến thành những con thú dữ. Đồng tiền và nhục
dục đã khiến Thoa cùng gã tình nhân Lang băm trong Ngược dòng nước lũ trở thành
những con thú đích thực "Bữa tiệc của những con quỷ dâm đãng" diễn ra hết lần
này đến lần khác, bất chấp Khiêm đang nằm trên giường bệnh - đau đớn đến tê liệt
cả thể xác và tâm hồn.
Nhãn quan của nhà văn không chỉ phát hiện thấu đáo nhiều loại người trong xã
hội - người tốt, kẻ xấu, người bằng mọi giá bảo vệ cho được nhân phẩm, kẻ vì nhu
cầu vật chất tầm thường làm băng hoại đạo đức xã hội, mà ông còn quan tâm khẳng
định bản năng và nhu cầu tự nhiên với khát vọng chân chính của con người đó là
nhu cầu tình dục.
Trong văn học, vấn đề dục vọng cá nhân đã ít nhiều được đề cập, nhưng phải
thực sự đến giai đoạn văn học sau 1975, nhất là sau thời kỳ đổi mới (1986), khi con
người là đối tượng phản ánh của văn học nên không có gì thuộc về con người lại xa
lạ với văn học, nhu cầu về dục vọng của con người tự nhiên mới thực sự được quan
tâm thể hiện một cách chân thực, đầy đủ.
Tiếp thu, kế thừa những tư tưởng tiến bộ của văn hoá, văn học nhân loại và
văn học dân tộc, vấn đề bản năng tính dục đã được thể hiện nổi bật trong một cái
nhìn mang đầy tính nhân bản sâu sắc của Ma Văn Kháng về con người. Ma Văn
Kháng là nhà văn đầu tiên viết được những cảm xúc hả hê, sung sướng, khoái hoạt
nhất về lòng ái dục của con người. Theo ông, con người là sản phẩm của tự nhiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
luôn biết hướng đến và theo đuổi những trạng thái sung sướng, vui vẻ và cố gắng
42
tránh xa, vượt lên mọi đau khổ, nhọc nhằn của cuộc sống bằng đời sống tình dục,
mà tình dục lại là một niềm đam mê, một mạch sống thầm kín của con người. Tuy
là lĩnh vực vẫn bị coi là "vùng cấm kỵ" nhưng Ma Văn Kháng đã mạnh dạn và
thành công khi đưa vấn đề này vào trong sáng tác của mình với một tần số lớn. Ông thể
hiện chúng một các tự nhiên không lộ liễu, sống sượng mà phản ánh một cách chân
thực những trạng thái, cảnh huống khác nhau của tâm lý thực, xuất phát từ đáy sâu bản
thể, từ nhu cầu tự nhiên, chính đáng của con người. Ma Văn Kháng là một trong số
không nhiều các nhà văn hiểu và ý thức sâu sắc, triệt để, toàn diện vấn đề này.
Ở Ma Văn Kháng, ông đã phát hiện trong bản năng đời sống tình dục của con
người thể hiện rõ hai mặt của cuộc sống. Đối với những con người chân chính dục
vọng khiến cho họ người hơn, tình dục như một vẻ đẹp thể hiện mặt văn hoá, đạo
đức xã hội. Nhưng bên cạnh đó, Ma Văn Kháng còn khám phá, phát hiện mặt bi hài
của cuộc sống, sự thô tục tham lam, nhếch nhác, dâm ô của những kẻ vô đạo đức,
thiếu văn hoá xoay quanh vấn đề dục vọng cá nhân của con người.
Bản chất cuộc sống vốn đa chiều phức tạp, nên ngay từ những tác phẩm viết về
đề tài mền núi trong cảm hứng sử thi, Ma Văn Kháng đã đề cập vấn đề này. Có thể
nói đây là cái nhìn nhất quán của tác giả về con người. Ma Văn Kháng đã viết khá
nhiều về hiện tượng này trong hầu hết các sáng tác của mình. Nếu như đứng ở góc
độ luân lý đạo đức thì những chuyện tình kiểu "ngoài luồng" không thể chấp nhận
được, nhưng khi đặt chúng vào từng hoàn cảnh, từng con người cụ thể thì những
trường hợp này rất đáng được cảm thông. Bởi chính cuộc tình "ngoài luồng" này đã
đem đến cho Khiêm (Ngược dòng nước lũ) niềm hạnh phúc thực sự. Với Khiêm,
tình yêu mà Hoan dành cho anh đã đẩy lùi được cơn đau ốm do làm việc quá sức,
giúp anh vượt qua cái thực tế nặng nề cố hữu với Thoa trong gia đình. Hoan như là
người tri âm, tri kỷ của đời anh, hiểu tận sâu thẳm, tâm hồn cá tính, nâng đỡ tâm
hồn anh và là nguồn vui sống vô tận của anh giữa cuộc đời đầy đen bạc, trắc trở.
Hơn ai hết Hoan chính là nguồn động lực giúp Khiêm vượt qua được những khó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
khăn của cuộc sống và hoàn thành ước nguyện của đời mình.
43
Tự (Đám cưới không có giấy giá thú) cuộc ái ân với Xuyến đã để lại cho anh
một khí vị đặc biệt không thể nào quên, cho dù ngọn lửa tình ấy được khơi gợi
trong cái ổ rơm nhặm nhuội rối bời. Lúc ấy anh cảm thông và thương cô xiết bao,
anh thấy cô là đàn bà thực sự, cô yêu thích nhục dục, cũng khao khát làm mẹ, làm
vợ như bao người phụ nữ khác…
Tất nhiên, đề cập đến vấn đề này nhà văn không ngợi ca hay khích lệ mà muốn
nhìn nhận nó như bản chất thực đang tồn tại trong cõi đời này, qua đó nhà văn
muốn người đọc nhìn nhận thấy mặt tự nhiên, của con người và nhu cầu cần được
thoả mãn của cuộc sống đời thường mà xưa nay người ta vẫn che đậy, giấu giếm.
Đó là những quan niệm đúng, biểu hiện tốt đẹp, lành mạnh mà Ma Văn Kháng đã đi
sâu khám phá, thể hiện đời sống bản năng này của con người. Chính cái nhìn đa
chiều, sâu sắc, về mọi phương diện của con người khiến vấn đề tình dục được quan
tâm đúng đắn, tự nhiên. Nó không hề gây cảm giác phản thẩm mỹ, phản giáo dục
mà còn thấm đẫm tính nhân văn trong cái nhìn mang chiều sâu nhân bản về con
người của nhà văn.
Phát hiện đời sống tình dục ở nhiều cung bậc, Ma Văn Kháng tỏ thái độ phê
phán những hiện tượng dâm ô, đồi bại như Xuyến (Đám cưới không có giấy giá
thú), Thoa (Ngược dòng nước lũ), Lý (Mùa lá rụng trong vườn)… và trân trọng
những tình cảm mặn nồng của Khiêm - Hoan, Luận - Phượng…
Xuyến (Đám cưới không có giấy giá thú), đã ngoại tình với "Quỳnh đĩ đực"
ngay trong nhà của mình. Xuyến đã chà đạp lên mối quan hệ vợ chồng thiêng liêng
để quan hệ xác thịt với những kẻ trơ tráo đồi bại như Quỳnh. Với những kẻ chỉ biết
có tiền thì giữa họ làm gì có tình yêu. Chúng trao cho nhau thể xác như kiểu mua
bán một thứ hàng hoá, theo thói quen buôn bán mà thôi. Chúng đến với nhau không
hề xuất phát từ sự ngưỡng mộ, trân trọng cái đẹp hay từ một tình yêu chân thành mà
chỉ để thoả mãn nhu cầu nhục dục, thói dâm ô. Vì thế chúng bộc lộ hành vi sàm sỡ
buông tuồng, vô đạo đức. Không chỉ những thế, khi bị chồng phát hiện cô ta còn cất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
lên những lời chửi rủa tai ác, thể hiện rõ sự vô văn hoá.
44
Còn Lý (Mùa lá rụng trong vườn), một phụ nữ tháo vát đảm đang nhưng lại dễ
thay đổi vì thiếu sự bảo trợ của những giá trị truyền thống. Lý đã phản bội chồng -
người sỹ quan mà chị đã từng yêu tha thiết để chạy theo tiếng gọi của đồng tiền, của
một lối sống buông thả… Để thoả mãn dục vọng của riêng mình, Lý đã chà đạp lên
những truyền thống tốt đẹp của gia đình, dân tộc.
Cũng như Lý, Xuyến, Thoa trong Ngược dòng nước lũ là một người đàn bà liều
lĩnh, luôn ham muốn nhục dục, đã phản bội chồng một cách công khai. Thoa đã từng
quan hệ với một gã phụ trách nhà ăn ở xí nghiệp, một gã phóng viên nhiếp ảnh, một tên
lang băm. Năm năm xa chồng, ở nhà Thoa ba lần đi nạo thai. Thật sự Thoa là người
không biết hề biết đến liêm sỉ, cô ta sẵn sàng quan hệ xác thịt với một lão lang băm ngay
cả khi người chồng ốm yếu nằm bên cạnh.
Ma Văn Kháng đã phơi bày mặt trái của tình dục, ông đã nghiêm khắc lên án
những kẻ chà đạp lên đạo lý truyền thống. Đối với những con người này, dục vọng là
khoái thú bất tận, dục vọng đã biến chúng trở thành những con quỷ dâm đãng đội lốt
người. Tình dục vốn thiên về yếu tố tố bản năng, là một nhu cầu sinh lý nhưng cũng là
một mặt của tình yêu đôi lứa, đời sống vợ chồng. Nó phải được xuất phát trên cơ sở
của tình yêu chân chính, bình đẳng tôn trọng giữa con người với con người. Khi đó, nó
mới thực sự mang lại niềm hạnh phúc cho con người và mới thực sự thấm nhuần chất
văn hoá.
Như vậy, Ma Văn Kháng đã nhìn nhận và biểu hiện vấn đề này ở mọi khía cạnh,
mọi phương diện, xem dục vọng không chỉ là bản năng tự nhiên mà còn là hành vi biểu
hiện thái độ văn hóa, nhân tính của con người. Cái nhìn, sự thể hiện ấy không phải chỉ là
sự kế thừa và phát huy văn hoá dân tộc mà còn thể hiện được những vấn đề có tính thời
đại mang tính dân chủ, nhân bản sâu sắc.
Là một trong những người khơi đường cho văn học trở về với cuộc sống hàng
ngày, quan tâm đến đời sống riêng tư, cá nhân, Ma Văn Kháng lấy chủ nghĩa nhân bản
làm nền tảng để khám phá con người ở những vấn đề, những khía cạnh mới. Đó thật sự
là một đóng góp nổi bật, độc đáo, đặc sắc của Ma Văn Kháng về cái nhìn nghệ thuật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới. Mọi mặt của đời sống, con người hôm nay đi vào
45
trang sách của nhà văn cho thấy Ma Văn Kháng là nhà văn có một nhãn quan sắc sảo,
tinh tường. Nó thể hiện ý thức sâu sắc của ông về chất liệu của thứ nghệ thuật mà ông đã
"đặt cược" cả đời mình. Đồng thời chính cái nhìn linh họat, sâu sắc của Ma Văn Kháng
trước hiện thực cuộc sống và con người là nhân tố quan trọng chi phối và làm nên giọng
điệu và ngôn ngữ trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của ông. Vấn đề này, sẽ được chúng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
tôi nghiên cứu kỹ ở những chương sau.
46
CHƢƠNG 2
GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT CỦA MA VĂN KHÁNG
TRONG TIỂU THUYẾT THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1. Khái niệm giọng điệu nghệ thuật
Giọng điệu nghệ thuật là một phạm trù thẩm mỹ của văn học, là một trong
những yếu tố có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình sáng tạo nghệ thuật góp
phần tạo nên phong cách và cá tính sáng tạo của nhà văn. Trong đời sống hằng
ngày, ta thường chỉ nghe giọng nói là đã nhận ra người nói. Như vậy giọng điệu
được hình dung trước hết như một tín hiệu âm thanh có âm sắc, trường độ, cao độ...
nó gắn liền với môi trường giao tiếp và có khả năng tạo tính khu biệt. Nhưng khi cất
lên một tiếng nói, người nói bao giờ cũng muốn biểu thị một cảm xúc, một ý nghĩ nào
đó. Do vậy, giọng điệu không chỉ tồn tại như một tín hiệu âm thanh có âm sắc đặc thù
mà còn hàm chứa thái độ, tình cảm, ứng xử của người nói trước các hiện tượng của
đời sống. Khi trở thành một trong những thành tố của tác phẩm văn học, giọng điệu
nghệ thuật trở nên phức tạp hơn rất nhiều so với giọng điệu ngoài cuộc sống.
Tìm hiểu công trình nghiên cứu về giọng điệu văn chương của các nhà lý luận
văn học, các nhà văn, chúng ta thấy có rất nhiều quan niệm về giọng điệu. Trước hết
tác giả Nguyễn Thái Hoà trong Những vấn đề thi pháp truyện khẳng định rằng:
"Giọng kể là cảm nhận đầu tiên và cũng là ấn tượng cuối cùng, dư vị cuối cùng của
người đọc (nghe) truyện" [149]. Thật vậy, giọng kể có vai trò vô cùng quan trọng
không chỉ trong văn chương nghệ thuật mà còn cả trong đời sống hàng ngày. Lời
nói, câu văn chứa giọng kể làm cho người đọc người nghe dễ tiếp thu và cảm nhận
hơn. Chính vì vậy, tác giả Nguyễn Thái Hoà tiếp tục khẳng định "giọng kể quả
nhiên là mối giao lưu cảm nhận giữa người kể và người đọc bên ngoài tác phẩm, là
hiệu quả người đọc cảm nhận được khi đọc (nghe) truyện" [150]
Đối với tác phẩm văn học, giọng điệu là một phạm trù mang tính thẩm mỹ
riêng. Nhưng điều đáng nói ở đây là không phải bất cứ tác phẩm nào cũng có giọng
điệu giống nhau, tức là mỗi nhà văn có một giọng điệu của riêng mình, theo tính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
cách, khẩu khí của mình để diễn đạt những điều mình muốn nói.
47
Tác giả Trần Đăng Xuyền cũng đã cho rằng: "giọng điệu là thái độ tình cảm
của nhà văn đối với sự vật hiện tượng được miêu tả mà người đọc có thể cảm nhận
qua các sắc thái biểu cảm của lời văn. Thái độ, tình cảm ấy được bộc lộ qua nhiều
yếu tố, nhiều phương diện khác nhau của lời văn nghệ thuật" [79].
Tác giả cuốn Dẫn luận ngôn ngữ cũng đã xác định: "Giọng điệu là biểu hiện
của thái độ, xúc cảm của chủ thể đối với đời sống. Đối với các sự vật thấp kém bình
thường, người ta thường có giọng điệu mỉa mai, cười cợt; đối với các sự vật đáng
tiếc, mất mát thương tổn, người ta có giọng buồn thương ngậm ngùi…" [124]. Qua
đây ta thấy nền tảng của giọng điệu là cảm hứng chủ đạo của nhà văn.
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học các tác giả cũng đã quan niệm "Giọng
điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với các hiện
tượng được miêu tả, thể hiện trong các lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng
từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa, gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi
ca hay châm biếm. Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ và thị hiếu thẩm
mỹ của tác giả"[112-113] và các tác giả cũng đi đến một kết luận rằng: "Giọng điệu
trong tác phẩm gắn liền với cái giọng "trời phú" của mỗi tác giả, nhưng mang nội
dung khái quát nghệ thuật, phù hợp với đối tượng thể hiện" [135]
Dựa vào các định nghĩa đã nêu, ở cuốn Tạp chí số 9, trong bài nghiên cứu
Giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, tác giả Lê Huy Bắc đã tổng kết "giọng điệu là
âm thanh xét ở góc độ tâm lý, biểu hiện thái độ buồn, vui, giận hờn, hờ hững...". Để
phân biệt với giọng là âm thanh đựơc xét ở góc độ vật lý, M.H. Abrams cũng cho
rằng: "giọng điệu là thái độ người phát ngôn văn học đối với người nghe của anh
ta". M.B.Kharpchenkô cũng đã dành một số lượng trang đáng kể để bàn về giọng
điệu. Theo ông "giọng điệu hiểu theo nghĩa rộng của từ đó không phải chỉ là màu
sắc xúc cảm của thiên truyện hay của hành động kịch mà là một cái gì đó lớn hơn
thế. Do chỗ giọng điệu gắn liền với những việc dùng hình tượng để miêu tả đối
tượng của sáng tác cho nên nó có những đặc điểm cách nhìn nhận của cá nhân đối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
với cuộc sống" [32,171].
48
Giọng điệu trong văn chương vốn là một hình tượng nghệ thuật mang tính cá
nhân cao độ, nó chịu sự quy định, ảnh hưởng bởi giọng điệu chung của thời đại.
Tuy nhiên, ở những cá nhân tài năng, giọng điệu của họ đã góp phần làm phong phú
thậm chí làm thay đổi cấu trúc giọng điệu của cả một thời đại. Cho nên, giọng điệu
bao giờ cũng mang tính chất mới mẻ nếu nó là một sáng tạo thực sự. Và một nhà văn
tài năng bao giờ cũng phải tạo ra giọng điệu chủ đạo - giọng điệu"trời phú" làm nên
bản sắc riêng.
Ở đây, chúng ta nhận thấy có nhiều khái niệm, nhiều quan niệm khác nhau về
giọng điệu trong tác phẩm văn học. Nhưng nhìn chung, chúng ta vẫn thấy một điểm
hết sức thống nhất giữa tất cả các ý kiến đó là về vai trò và các yếu tố cấu thành
giọng điệu. Về phương diện này, giọng điệu có vai trò vô cùng quan trọng trong tác
phẩm văn học. Có thể nói, giọng điệu là cái mà chủ thể tiếp nhận đọc (nghe) xong
tác phẩm khi gấp sách lại vẫn thấy văng vẳng bên tai tiếng nói của tác giả với nhiều
cung bậc khác nhau và cả những hình ảnh, hình tượng, những sự việc mà giọng điệu
ấy đem lại. Vậy yếu tố nào tạo nên giọng điệu? chúng ta thấy rằng, giọng điệu được
hình thành từ những cảm hứng sáng tác, từ quan điểm lập trường của nhà văn trước
hiện thực cuộc sống. Trên mỗi trang văn, giọng điệu được hiện diện qua từ ngữ, câu
văn và các hình ảnh, chi tiết. Từ những sắc thái giọng điệu trong từng tác phẩm mà
nhà văn bộc lộ thái độ của mình trước cuộc sống. Do vậy giọng điệu là một hiện
tượng "siêu ngôn ngữ".
Như vậy, ta có thể khẳng định giọng điệu trong văn chương là một yếu tố nghệ
thuật thuộc phạm trù thẩm mỹ thể hiện thái độ, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ, sở trường
ngôn ngữ của tác giả. Nó chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khác nhau như cái nhìn hiện
thực, cảm hứng chủ đạo, thái độ của tác giả...
2.2. Các sắc thái giọng điệu nghệ thuật trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của
Ma Văn Kháng
Như chúng ta đã biết, giọng điệu trong tác phẩm văn chương chính là tiếng nói
của tác giả muốn gửi gắm tới bạn đọc thông qua đối tượng được phản ánh trong mỗi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
tác phẩm. Nó chứa đựng trong đó tất cả thái độ, quan điểm lập trường, tư tưởng của
49
nhà văn. Chính vì vậy, mỗi tác phẩm văn học chứa đựng những sắc thái giọng điệu
riêng của tác giả. Giọng điệu ấy góp phần tạo nên giá trị thẩm mỹ của tác phẩm và
là yếu tố quan trọng đặc biệt tạo nên phong cách nhà văn. Hiểu được vai trò của
giọng điệu trong tác phẩm văn chương, các nhà văn khi tạo nên đứa con tinh thần
của mình đã phải lựa chọn giọng điệu phù hợp để chuyển tải tư tưởng mà nhà văn
muốn gửi gắm qua tác phẩm. Ma Văn Kháng cũng không nằm ngoài dòng chảy ấy,
nhận thấy "giọng điệu là một yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả trong tác
phẩm", trong quá trình sáng tác của mình Ma Văn Kháng luôn thể hiện một phong
cách khá ấn tượng, một giọng điệu khá hấp dẫn qua một hệ thống ngôn từ vô cùng
phong phú. Chính điều ấy đã góp phần làm nên một hiện tượng Ma Văn Kháng.
Giọng điệu vốn là yếu tố quan trọng khi tạo dựng tác phẩm, thiếu giọng điệu,
nhà văn không thể tạo ra tác phẩm dù có đầy đủ các chất liệu cần thiết. Các nhà văn
nói chung thường có một giọng điệu chủ đạo phù hợp với tư tưởng nghệ thuật của
mình. Nếu giọng điệu nghệ thuật Nguyễn Công Hoan là giọng điệu châm biếm, hài
hước nhằm phê phán sự lố bịch, giả dối của xã hội thực dân phong kiến; giọng điệu
nghệ thuật của Nam Cao là giọng cay đắng, chua chát trước những bi kịch của con
người; giọng điệu nghệ thuật của Nguyên Hồng là giọng cảm thương thống thiết
trước sự thống khổ của kiếp người… Khi nghiên cứu giọng điệu nghệ thuật trong
tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của Ma Văn Kháng chúng tôi nhận thấy, để chuyển tải
nhiều vấn đề đặt ra trong cuộc sống hôm nay, nhà văn đã sử dụng nhiều sắc thái
giọng điệu khác nhau. Mỗi sắc thái giọng điệu này vừa tham gia chuyển tải hiện
thực cuộc sống nhiều chiều lên trang sách, vừa bày tỏ thái độ của nhà văn trước con
người và cuộc sống.
Đến với Ma Văn Kháng ta bắt gặp giọng điệu trữ tình thiết tha sâu lắng; giọng
điệu triết lý, triết luận; giọng điệu mỉa mai châm biếm và giọng điệu thương cảm
xót xa. Cũng giống như bao tác giả khác, Ma Văn Kháng không chỉ có một giọng
điệu duy nhất mà ông còn sử dụng rất nhiều giọng điệu khác nhau. Tất cả những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
giọng điệu ấy, hoà quện trong tác phẩm góp phần quan trọng tạo nên sức hấp dẫn
50
riêng trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của ông, đồng thời còn góp phần quan trọng
khẳng định phong cách nghệ thuật Ma Văn Kháng.
2.2.1. Giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng
"Thôi thúc tôi viết bao giờ cũng là cái đẹp thật xúc động, cao cả, thật khiêm
nhường và lớn lao trong hoàn cảnh đau buồn nhất. Tôi gửi gắm niềm tin yêu của tôi
vào tất cả những cay đắng xót xa của các thân phận. Bằng cách đó tôi biểu lộ tình
yêu với cái đẹp của cuộc sống" [30]. Ma Văn Kháng đã bộc bạch sự khởi nguồn
dòng chảy văn chương của ông như thế. Bắt nguồn từ những cái đẹp nhà văn đã
đem đến cho người đọc những tác phẩm mang tính hướng thiện, những giá trị đích
thực của văn chương bằng giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng.
Có thể nói, làm nên sức hấp dẫn, lôi cuốn trong sáng tác của Ma Văn Kháng
không chỉ bởi chiều sâu tư tưởng, ý nghĩa nhân sinh ẩn chứa trong giọng điệu triết
lý, suy tư mà còn bởi chất thơ, cảm xúc chứa chan, thấm đẫm trong giọng điệu trữ
tình thiết tha, sâu lắng.
Với giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng, tác phẩm của Ma Văn Kháng đã đưa
người đọc tới những vùng đất nguyên sơ mà đẹp đẽ, những thân phận, những cảnh
đời đầy biến động mà vẫn trong trẻo hồn nhiên như: Gió rừng, Đồng bạc trắng hoa
xoè, Mưa mùa hạ ở thời kỳ đầu và trong nhiều sáng tác sau này. Xuất phát từ cái
nhìn hiện thực cuộc sống và con người một cách tinh tế sâu sắc, giọng điệu trữ tình
của Ma Văn Kháng thể hiện tình cảm thiết tha của nhà văn về cái đẹp trong cuộc
sống. Giọng điệu ấy đã đưa người đọc đến với những bức tranh sinh động, phong
phú của đời sống hiện thực mới.
Vốn là nhà văn có cảm xúc trước cái đẹp, giọng điệu trữ tình của Ma Văn
Kháng thường là vẻ đẹp tự thân của các đối tượng, đó là vẻ đẹp của những con
người say mê lý tưởng, luôn yêu cái đẹp như thầy giáo Đặng Trần Tự trong Đám
cưới không có giấy giá thú. Có thể nói thầy giáo Đặng Trần Tự tạo dấu ấn sâu sắc
trong lòng độc giả không chỉ vì đây là một nhân vật đẹp, cao thượng mà còn vì tác
giả đã dành chất giọng đặc biệt khi khắc hoạ nhân vật này. Ngòi bút ấy cẩn thận,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
nắn nót mà cũng xiết bao hào phóng, yêu thương khi viết về anh. Một thân thể yếu
51
ớt mảnh mai nhưng đầy tự tin, tự hào khi đứng trước bục giảng, một gương mặt
thanh thoát, nho nhã, luôn phải đối mặt với biết bao đau đớn, một giọng nói sang
sảng mà tròn trịa, ấm áp như chính tấm lòng người nói vậy, đó chính là thầy giáo
Tự - người truyền bá kiến thức và cũng là kẻ "cùng đinh" nhất trong xã hội. Và lạ
thay, sống trong một môi trường biết bao thói đời thấp hèn, đê tiện mà thầy giáo Tự
vẫn cứ là một thầy giáo sạch đến chân tơ kẽ tóc.
Cũng giống với Nam Cao, trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới, Ma Văn Kháng
đã sử dụng rất hiệu quả giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng để bày tỏ tình cảm yêu
thương của mình với những nhân cách cao đẹp.
Chúng ta có thể thấy giữa Tự và Thứ trong Sống mòn của nhà văn Nam Cao
có những nét thật tương đồng. Cũng sống trong một cuộc sống quá nghèo khổ như
Thứ, Tự quanh năm suốt tháng phải "trốn" lên gác xép để điềm nhiên "đánh cái
quần đùi vá rúm ró, mặc cái áo bộ đội sã vai..." để nghiền ngẫm văn chương. Cái
nghèo cứ suốt ngày day dứt Tự. Sống trong hoàn cảnh như thế nhưng cả Thứ và Tự
cùng có tài, cùng có ước mơ làm việc có ích vì học trò của mình. Nếu như Thứ của
Nam Cao ôm mộng xây dựng ngôi trường của mình sao cho "trường sạch hơn, có
vẻ hơn, nhà trường phải có phòng giấy tiếp khách. Học sinh có tủ sách..." [5], thì Tự
của Ma Văn Kháng ngày đêm ngụp lặn trong bể kiến thức mêng mang để hết lòng
truyền thụ những kiến thức cho học sinh của mình, giúp học sinh của mình trở
thành những con người có ích cho xã hội. Không chỉ có thế, tâm hồn Tự còn luôn có
sự thăng hoa, cất cánh trước một bài thơ hay, một vẻ đẹp của thiên nhiên cũng như
tình yêu của anh với lũ học trò ngây thơ đáng yêu - những mầm xanh cuả đất nước.
Khi viết về cái đẹp, ca ngợi cái đẹp trong cuộc sống Ma Văn Kháng đã dành
nhiều sự ưu ái của mình vào những trang văn bằng giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu
lắng. Trước một bài thơ hay Tự đã hoá thân thành thi sĩ, suốt đời đi theo một lý
tưởng đẹp. Bắt gặp một ý thơ hay, tâm hồn Tự như được bay bổng vào một cõi
mộng mơ, thơ mộng với những sắc màu lung linh huyền ảo. Có những lần đàm
thoại văn chương với Kha trên căn gác xép nhỏ, ta có cảm giác như Tự đang hoá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
thân vào những gì tinh tuý nhất của câu thơ "Tự nâng cuốn sổ tay. Vẫn cơn say của
52
một kẻ nhập cuộc hết mình, nhưng lúc này là một sức cảm thông thần diệu và một
trực giác cực khởi. Tự bỗng như run rẩy cả đến mỗi đầu ngón tay" [21,9]. Có thể
nói căn gác nhỏ như là nơi thanh lọc tâm hồn của thầy giáo nghèo. Ở đây Tự xa
lánh cái phồn tạp trần ai, tách ra khỏi đời sống đang bị tước dần những giá trị đích
thực, không giao tiếp với những câu chuyện tầm phào, thói sùng bái đồng tiền và sự
tráo trở thô bạo. Và cũng ở chính nơi đây từ sáng đến tối, Tự có thể dành hết tâm
huyết cho việc nghiên cứu, soạn bài, chấm bài và lặn ngụp thoả chí trong cái đại
dương mênh mông của nghề sư phạm và nghệ thuật ngôn từ. Thoả chí lặn ngụp
trong đại dương mênh mông đó, Tự còn mở rộng lòng mình để đón nhận những
điều tuyệt vời mà nhiên nhiên ban tặng cho cuộc sống con người "Đã có lúc Tự chợt
buông trang sách, nằm nghe gió mùa về đập cành cành quả me trên cành khô nơi
sân thượng, ngẩn ngơ một nuối tiếc hoặc phiêu diêu vào đám sương hồi ức hoặc
lãng đãng buồn lo về thực tại. Nằm một chỗ mà tâm hồn toả bốn phương. Còn thú
thẩm mỹ nào bằng! còn hạnh phúc nào hơn" [21,14]. Cho dù, đó chỉ là một cơn gió
mùa về nhưng với tâm hồn nhạy cảm yêu cái đẹp của Tự đã vẽ lên trước mắt người
đọc một bức tranh thiên nhiên vô cùng nên thơ. Thiên nhiên ấy đã đem đến cảm
giác nồng nàn say đắm cho con người. Điều đó cho thấy, Ma Văn Kháng không chỉ
có cái nhìn ở nhiều tầng, nhiều vỉa mà còn có khả năng quan sát tinh tế nhạy cảm
trước những biến động của thiên nhiên, của cuộc sống xung quanh chúng ta. Vì vậy
khi miêu tả dù là cuộc sống của Tự hay sự cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên của nhân
vật này thì tất cả đều được hiện lên thật lung linh, sôi động và nổi rõ cái thần của
đối tượng.
Trang văn của Ma Văn Kháng luôn đem đến cho người đọc những điều bất
ngờ. Trong bất cứ hoàn cảnh nào ở Tự vẫn toả ra một tâm hồn nhạy cảm, biết cảm
nhận, say mê cái đẹp như một điều hiển nhiên. Niềm say mê đó được cất cánh ở mọi
lúc, mọi nơi kể cả khi anh thấy học trò của mình phấn khởi làm bài trong kỳ thi tốt
nghiệp, rồi ngay cả khi Tự đứng trên bục giảng. Lúc đó ở Tự dường như có sự
chuyển hoá bản thân, để bỏ lại tất cả những gì thô ráp của cuộc đời. "Trong những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
giây phút như thế Tự giao tiếp với học trò ngắm mình qua mấy chục tấm gương
53
phản chiếu. Khi ấy Tự thấy đẹp, hùng mạnh và cao quý biết bao, Tự thấy nghề giáo
đẹp xiết bao. Tâm hồn Tự toả sáng đẹp một cách lạ lùng" [21,42]
Ma Văn Kháng đã đưa người đọc đến với một thế giới hiện thực đầy cảm hứng
lãng mạn mộng mơ bằng giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng. Hiện thực đời
thường vốn đang ngổn ngang nhiều vấn đề bất cập của cuộc sống thời hậu chiến,
không áp đặt cái nhìn một chiều, Ma Văn Kháng luôn tôn trọng dòng chảy tự nhiên
của cuộc sống, trong đó vẫn tiềm tàng ẩn chứa những vẻ đẹp vĩnh hằng.
Giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng cho dù được tạo nên bởi chính bản thân
của đối tượng thẩm mỹ, nhưng trước hết nó phải được xuất phát từ một tấm lòng
yêu cái đẹp của nhà văn. Tiếp nhận hiện thực và con người ở nhiều tầng, nhiều vỉa
khác nhau, ngòi bút của Ma Văn Kháng không chỉ phê phán những mặt tiêu cực của
đời sống mà ông còn phát hiện ngợi ca vẻ đẹp của những giá trị đạo đức truyền
thống, cội nguồn thiêng liêng của những giá trị văn hoá, nền tảng của mọi nền văn
hoá. Điều đó được Ma Văn Kháng gửi gắm vào hình tượng nhân vật chính diện
trong các sáng tác của mình.
Nhân vật Luận trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn luôn toả sáng vẻ đẹp
của chính mình với lòng nhân hậu, đằm thắm bao dung. Luận sống thiết tha với nó
và coi đó như một niềm vui sống của mình. Đối với anh, cái cho đi không bao giờ
mất, ngược lại anh nhân mình lên trong sự giầu có của tình đời, tình người. Mang
cái nhìn nhân hậu và thấu tình hợp lý, anh đã thuyết phục mọi người hướng đến cái
nhìn độ lượng. Ở anh, tất cả mọi người không ai là xấu ngay cả Lý. Anh không
những cảm nhận nỗi vất vả, vẻ đẹp của nhiều người quanh mình, mà rất thấu hiểu
vẻ đẹp thánh thiện của người vợ mà anh hết lòng yêu thương. Anh thấy ở vợ mình
khả năng nhạy cảm với nỗi đau của kẻ khác và sẵn sàng đền bù cho người khác. Sự
chịu đựng của vợ khiến anh có lúc phải kinh ngạc. Khi cưu mang vợ con Cừ không
biết bao nhiêu lần chị phải nhịn nhường vì cuộc sống quá khốn khổ. Luận đã cảm
nhận được sự khó nhọc trên gương mặt của chị và ở bộ quần áo vá cuả chị. Trước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
vẻ đẹp thánh thiện đó của Phượng, Luận nhìn vợ lòng tràn ngập yêu thương "Cùng
54
với tiếng nước chảy xè xè, Luận nghe tiếng nói của Phượng trong mùi thơm dậy
nồng nàn của hoa hoàng lan trước đêm hè" [22,244].
Trong những ngày đất nước còn muôn vàn khó khăn và ngổn ngang nhiều vấn
đề bất cập, bất ổn đó, tình yêu thương của Phượng khiến cho Luận cảm giác như
được bồi bổ thêm sức mạnh từ bên trong. Anh tâm sự "Phượng à, cuộc sống chung
của chúng mình đã được mười năm và trong mười năm đó ba nghìn sáu trăm ngày
vất vả của em. Anh tự hỏi: cái gì tạo nên sức mạnh của em trong những ngày đó?
Có phải đó là lòng nhân hậu, sự kiên nhẫn chịu đựng, đức hy sinh cao quý và sức
chống chọi cứng cỏi, bền bỉ của em không? Từ em đang toả ra vẻ đẹp mạnh mẽ,
bình dị và tự nhiên. Anh cảm thấy tin yêu cuộc sống hơn, vì có em bên cạnh,
Phượng à" [22,327].
Xúc động trước cái đẹp đầy tình người của con người hôm nay, Luận đã kể
cho Phượng câu chuyện của một lão đồng chí, phải tạm biệt người vợ trẻ với đứa
con thơ ra nước ngoài hoạt động. Khi cách mạng thành công đồng chí ấy trở về
thăm gia đình thì người vợ đã có thêm ba đứa con nữa với người chồng khác vừa
chết vì bệnh. Ông có thể lấy người vợ khác mà không ai trách cứ. Vậy mà ông lại
trở về với vợ, chăm sóc ba đứa con của người vợ y như đối với đứa con duy nhất
của mình cho đến khi trưởng thành. Chứng kiến câu chuyện xúc động ấy Luận đã
trào nước mắt.
Trước những cảnh đời éo le, những biến động của cuộc sống, Luận đã có một
cái nhìn không chỉ bó hẹp trong một gia đình, một cơ quan…mà vượt lên tầm bao
quát lớn để hoà vào mạch ngầm truyền thống của dân tộc. Trong cuộc sống đầy biến
động, những thói xấu xa, bụi bẩn của thời kỳ đổi mới đang xâm nhập vào cuộc
sống, vào mỗi con người thì truyền thống đạo đức của dân tộc Việt là dòng nước
mát trong lành cần được lưu giữ, lưu truyền. Qua trang sách của mình, Ma Văn
Kháng đã ý thức rất rõ điều đó.
Hãy nghe Luận tâm sự với vợ qua giọng điệu trữ tình đầy cảm xúc: "Em ạ! dân
mình khổ quá. Những chuyện tình xưa như Tống Trân - Cúc Hoa, Phạm Công - Cúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Hoa. Truyện nào cũng đẫm cơ cực! cơ cực quá! có lẽ không có dân tộc nào khổ như
55
dân tộc mình. Trong hoàn cảnh ấy con người muốn sống được phải có tình yêu
thương lớn lao, cao thượng lắm em ạ" [22,174].
Khác với các nhà văn cùng thời khi viết về cái đẹp, Ma Văn Kháng đã ngợi ca
cái đẹp trong cuộc sống bình dị, hồn nhiên, trong trẻo. Theo tác giả cái đẹp phải được
xuất phát từ trong niềm hạnh phúc được làm người với ý nghĩa đích thực của nó.
Trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời Ma Văn Kháng đã đứng ở vị trí của
cậu bé Duy - 15 tuổi, ngây thơ vụng dại mà trí tuệ thông minh, sắc sảo với một bản
năng tự nhiên hướng về cái thiện để tái hiện lại quãng đời tuổi thơ đầy nước mắt của
mình. Ở cái tuổi mà đó Duy đã cảm nhận được sự hy sinh vô bờ của bà. Hơn ai hết,
Duy biết ơn bà và thương em biết bao. Cảm nhận được sâu sắc công lao to lớn của
bà với mình, Duy đã bộc lộ suy nghĩ chân thành mà cảm động. Suy nghĩ ấy được
tác giả diễn tả bằng giọng điệu trữ tình sâu lắng: "Nhưng bà ơi, vắng bà rồi, mà
cháu vẫn có bà. Ơn bà mãi mãi cháu để hai vai. Bà nhịn cho chúng cháu ăn, bà lạnh
cho chúng cháu ấm. Bà bế bồng, dìu dắt chúng cháu đi qua những năm tháng cách
trở lừa lọc, phản trắc, bất công. Bà đưa chúng cháu qua nơi hỗn độn đến an bằng"
[23,275]. Những đau khổ buồn tủi, đơn côi của anh em Duy thời ấu thơ, nhờ có
người bà thân yêu của mình đã được gột rửa để bước qua vùng tủi hổ, đến với hy
vọng và tình yêu. Duy cảm nhận được tất cả những điều đó "Ở bà là sự nhẫn nhịn,
là lòng hỉ xả, là tuyết sạch giá trong, là tình thương, là lẽ phải, là sự cứng cỏi kiên
trinh. Bà là tiên giáng trần đã che chở cưu mang chúng cháu bằng tình thương yêu
và phép huyền nhiệm, thần kỳ!" [23,275]. Giọng điệu thiết tha sâu lắng từ con tim
của nhà văn đã cho người đọc cảm nhận sâu sắc lòng hiếu thảo của cậu bé Duy
trong những ngày tháng côi cút.
Bằng giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng Ma Văn Kháng đã đem đến cho
người đọc nhiều sự cảm nhận đặc biệt, từ đó Ma Văn Kháng đưa con người vào quỹ
đạo những tình cảm thanh lọc, tẩy rửa để tạo niềm tin cho con người vào một tương
lai tốt đẹp hơn.
Quá trình dân chủ hoá trong văn học đã tạo ra một không khí mới. Ý thức dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
chủ đã cho phép các nhà văn thể hiện cái tôi, cái bản sắc riêng độc đáo của mình.
56
Khác với cảm hứng sử thi, giọng điệu trữ tình mang âm hưởng ngợi ca trở thành
phương tiện khẳng định vẻ đẹp lý tưởng của con người Việt Nam anh hùng một thời
lửa đạn, giọng điệu trữ tình của Ma Văn Kháng dưới cảm hứng thế sự đời tư đưa
người đọc đến với vẻ đẹp tự thân của con người và cuộc sống hôm nay.
Điều đáng nói là, ở Ma Văn Kháng, sắc thái giọng điệu ấy được hiện diện từ
chính vẻ đẹp tự thân của nhân vật. Do vậy giọng điệu này thường được nhà văn ưu
ái khi viết về những nhân vật mang vẻ đẹp chân chính.
Ông Bằng (Mùa lá rụng trong vườn) một trí thức cũ sống hết lòng với đạo đức
truyền thống dân tộc, luôn lấy tấm gương của mình cho con cháu noi theo đã dâng
trào cảm xúc khi đứng trước bàn thờ tổ tiên, khói hương nghi ngút và bỗng thấy
mình như được phân thân. Quên hết xung quanh, "Trong giây lát, nhập vào vòng
xúc động tri âm tổ tiên, ông Bằng lâng lâng những hoài niệm phiêu diêu, lãng đãng
gần xa, ẩn hiện tầng tầng lớp lớp những hình ảnh khi tỏ khi mờ chập chờn như trong
chiêm bao" [22,86]. Đứng trước bàn thờ tổ tiên, ông như tìm được sự thanh thản
trong tâm hồn và có lẽ chính cội nguồn, tổ tiên là chỗ dựa tinh thần giúp ông đứng
vững trong những lúc gian nguy, hụt hẫng. Trong dòng vô thức đó bỗng tuôn trào
trong suy nghĩ khiến cho ông như được đối thoại với cha mẹ, tổ tiên mình: "Thưa
thầy mẹ, đã cách trở ngàn trùng mà vẫn hằng sống cùng con cháu. Con vẫn văng
vẳng nghe đâu đây lời giáo huấn của ông cha, tổ tiên" [22,86]
Ma Văn Kháng đã đi sâu khám phá và khơi rộng vào thế giới tâm linh của con
người thời hiện đại, tạo nên tinh thần lạc quan vĩnh hằng có thể đủ sức chiến thắng
vượt qua tất cả.
Bà nội Duy (Côi cút giữa cảnh đời) vốn kiên cường chống lại mọi thế lực tàn
ác ở địa phương để bảo vệ hai đứa trẻ côi cút của mình, vậy mà trong những lúc gặp
cơn bĩ cực, lao lung bà vẫn viện cầu và trò chuyện trước bàn thờ chồng. Lúc đó bà
chẳng giấu giếm ông điều gì cho dù giữa bà và ông giờ đây là hai phương trời cách
biệt: "Bà ngồi ngẩn, mặt thẫn thờ theo làn khói toả, như tìm kiếm giao hoà, như có
một hình bóng rất gần gũi thân thương thấp thoáng xa gần trong cảm nhận thầm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
lặng của bà" [23,26]. Trong những phút giây đắm mình trong một thế giới tâm linh
57
đó, bà như có thêm nghị lực và tình yêu đủ để chở che cho hai đứa cháu côi cút tội
nghiệp của mình.
Trên con đường đi tìm "vẻ đẹp ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người" cũng
giống như các nhà văn cùng thời, Ma Văn Kháng miêu tả thế giới tâm linh của con
người vừa cụ thể, vừa siêu thoát. Với mong mỏi khi quay trở về quá khứ con người
có thêm sức mạnh, có thêm điểm tựa, có niềm tin rũ bỏ những bụi bặm của của cuộc
sống, thanh lọc tâm hồn, giúp con người trở nên đẹp đẽ hơn, cao quý hơn.
Ngay những năm đầu của thời kỳ đổi mới, Ma Văn Kháng đã có xu hướng
nghiêng về xây dựng, thể hiện các giá trị nhân cách, phẩm giá và số phận cá nhân.
Đấy có thể được coi là một sự phát triển trong tư duy nghệ thuật của nhà văn, một
cơ sở cho giọng điệu trữ tình sâu lắng cho tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của ông.
Không tham gia trực tiếp vào các biến cố, các sự kiện của câu chuyện, của các
nhân vật, nhưng giọng điệu trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng lại đóng một vai
trò rất quan trọng. Nó không những đem đến cho tác phẩm chất trữ tình bay bổng,
lãng mạn, dào dạt, sâu lắng mà còn thể hiện cái nhìn sắc sảo, tinh vi c ủa một Ma
Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới.
Không chỉ viết về con người với sự cảm nhận sâu sắc ở mọi phương diện, Ma
Văn Kháng còn rất nhạy cảm với thiên nhiên. Thiên nhiên với những hình ảnh đẹp
đi vào trang văn của ông mang một màu sắc thật đặc biệt. Khi miêu tả vẻ đẹp huyền
diệu của thiên nhiên, giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng một lần nữa lại được
vang lên trong những trang văn của Ma Văn Kháng. Nó đã tạo nên những dư vị nhẹ
nhàng, tinh tế mà lắng đọng trong tâm hồn người đọc. Mỗi lần thưởng thức những
đoạn văn đặc tả khu vườn trong tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của nhà văn, ta
tưởng như lại nghe tiếng ve kêu râm ran, tiếng lá cây xào xạc hoà cùng âm thanh êm
ái, dịu dàng của bản nhạc Vườn khuya. Khu vườn nhỏ xinh xắn, toả bóng mát quanh
năm ấy được Ma Văn Kháng nhắc đi nhắc lại 12 lần trong tác phẩm. Mỗi lần khu
vườn hiện lên với một nét đẹp quyến rũ riêng. Xuân về, cây "bật nẩy chồi non, khu
vườn toả một làn không khí tươi lành và thanh tịnh". Chớm hạ, cây "xanh đầm lá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
non". Thu sang, hoa táo nở bung "trắng ngà cả góc vườn". Đông đến, cây "thu mình
58
gọn ghẽ", vườn cây đang đón đợi ánh trăng non ghé xuống tâm tình. Khu vườn đã
trở thành người bạn đồng hành chứng kiến, sẻ chia, an ủi từng con người trong gia
đình ông Bằng để họ lấy lại là niềm tin, sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn và
bước tiếp. Mỗi khi miêu tả khu vườn, nhà văn sử dụng nhiều từ ngữ giàu hình ảnh vừa
tươi mới, vừa trong trẻo đưa người đọc lạc bước vào khu vườn với nguồn cảm mới.
Giọng điệu trữ tình, thiết tha sâu lắng đã tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn riêng
cho các sáng tác của Ma Văn Kháng. Nó còn góp phần không nhỏ trong việc thể
hiện một cái nhìn mới của nhà văn. Mặt khác giọng điệu này cũng làm cho văn xuôi
thu hẹp lại khoảng cách hơn với thơ ca, làm văn xuôi giầu sức truyền cảm, rung
động lòng người hơn.
Ngay từ những trang đầu tiên của tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ, Ma Văn
Kháng đã miêu tả cảnh bình minh trên biển bằng giọng điệu ấy "Rạng đông lặng lẽ
như một trang sách mở. Gió huýt nhẹ giọng nữ trầm trong yên tĩnh. Yên tĩnh đến
mức có thể nghe được tiếng vòng sóng đang lớn dần, rì rầm tràn vào bờ, rồi thì
thầm rút ra, lỉm dỉm sủi bọt, ngấm xuống vùng cát khô ở phía trong, để lại những
vệt bọt trắng bã ngoằn ngoèo như những bí hiệu lạ lùng. Vọng từ xa, tiếng chân giật
lùi chầm chậm của những ngư dân đánh cá đêm, đang ngửa ngực kéo vòng lưới vào
bờ với tiếng giọt nước giỏ tóc tách từ mắt lưới và cú nhảy vọt đáng kinh tởm kinh
hồn hòng thoát thân của những con cá bị lưới vây. Yên tĩnh như được tôn thờ. Yên
tĩnh có hình mẫu một ngôi đền lớn trang nghiêm, ngăn nắp và trật tự". Mặc dù miêu
tả hành động, nhưng Ma Văn Kháng vẫn đem đến cho người đọc ấn tượng về sự
yên tĩnh rạng đông của biển. Có được điều đó chính là sự kết hợp một cách hiệu quả
với tiết điệu nhịp nhàng của câu chữ.
Những trang viết trữ tình, đằm thắm, đặc biệt là những đoạn miêu tả nhiên
nhiên của Ma Văn Kháng đã tạo nên một không gian nghệ thuật mới, một tình điệu
thẩm mĩ làm cho câu chuyện chính, làm cho những tình tiết trong tác phẩm mềm
mại đi rất nhiều, người đọc cảm thấy bớt nặng nề, căng thẳng trước cuộc sống hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
thực bộn bề.
59
Xuất phát từ những cảm xúc sâu lắng trong tâm hồn của nhà văn, cũng như tài
sử dụng từ ngữ một cách linh hoạt, Ma Văn Kháng sử dụng giọng điệu trữ tình với
mong muốn thể hiện niềm tin yêu của mình vào cuộc sống, con người và hướng con
người tới cái chân - thiện - mỹ. Chính sự mong mỏi này đã đem lại vẻ đẹp trên từng
trang văn của tác giả và tâm huyết của nhà văn trước cuộc đời.
2.2.2. Giọng điệu triết lý, triết luận
Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, Ma Văn Kháng là nhà văn luôn dị ứng với
kiểu viết công thức, rập khuôn theo những lối mòn quen thuộc. Ông không bằng
lòng với chính mình và luôn tự đổi mới để vượt lên chính mình. Vào đầu những
năm 80 của thế kỷ XX, Ma Văn Kháng đã mạnh dạn đổi mới tư duy nghệ thuật,
chuyển mạch văn ngợi ca giàu chất trữ tình, rưng rưng hào sảng sang khuynh hướng
phê phán. Chính vì vậy, khi đến với tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới ta
còn bắt gặp giọng điệu mang đậm tính triết lí, triết luận. Cũng như nhiều cây bút
văn xuôi thời kỳ này, Ma Văn Kháng luôn có xu hướng tìm kiếm ý nghĩa triết lí
nhân sinh qua việc miêu tả hiện thực cuộc sống đem lại cho tác phẩm chiều sâu
chính luận, triết luận.
Sau 1975, đặc biệt là sau 1986, đất nước ta có nhiều đổi thay. Những cách viết
đơn giản, công thức, sơ lược như trước đây không còn được độc giả chấp nhận. Sứ
mệnh của nhà văn lúc này là phải tự đổi mới mình để làm mới văn học. Vì thế,
trong sự nghiệp đổi mới văn học nói chung, đổi mới tư duy tiểu thuyết nói riêng,
cảm hứng khám phá, suy ngẫm, tìm kiếm những vẫn đề có ý nghĩa triết lý nhân sinh
trở thành dòng mạch chính của văn xuôi Việt Nam đương đại. Không ít sáng tác của
Lê Lựu, Tạ Duy Anh, Nguyễn Huy Thiệp… mang tính triết lý sâu sắc. Chính chất
triết lý, triết luận trong sáng tác của Ma Văn Kháng đã đem đến cho ông một giọng
điệu riêng (giọng tranh luận, tranh biện) góp phần quan trọng tạo nên phong cách
nghệ thuật văn xuôi Ma Văn Kháng.
Giọng điệu triết lý, triết luận là thế mạnh của văn xuôi Ma Văn Kháng. Bằng
giọng điệu này, tác giả đã đặt ra trong tác phẩm của mình hàng loạt các vấn đề cuộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
sống hôm nay để nhân vật, nhà văn và độc giả cùng bình luận: vấn đề truyền thống
60
và hiện đại, vấn đề cá nhân - gia đình, vấn đề lý tưởng và hiện thực, vấn đề đạo đức
giữa con người với con người… Bởi với Ma Văn Kháng, bạn đọc không phải là
người tiếp thu một cách thụ động, không phải là đối tượng để "mách nước", "chỉ
bảo" mà là đối tượng độc thoại chân lý. Mặt khác chân lý cũng chỉ có thể nảy sinh
trong quá trình cọ sát, va xiết giữa các ý kiến khác nhau. Điều này đã tạo nên tính
chất dân chủ, bình đẳng, gần gũi trong mối quan hệ giữa nhà văn và bạn đọc, một sự
đổi mới so với văn học giai đoạn trước.
Với Ma Văn Kháng, văn chương là "chuyện đời", là "dòng đời, mạch sống với
những dòng chìm nổi, mạch ngầm, mạnh lộ thiên". Để nắm bắt được chiều sâu hiện
thực ấy, nhà văn luôn có ý thức nâng cao tầm triết luận trong sáng tác của mình.
Đã từng sống và làm việc ở nhiều môi trường khác nhau, hơn ai hết Ma Văn
Kháng là người chứng kiến những éo le trái ngang của cuộc đời nên ông hiểu sâu
sắc những nghịch cảnh trong xã hội đương thời. Mỗi chi tiết của câu chuyện, mỗi
lời nhân vật hay chính toàn bộ tác phẩm là sự khái quát về một khía cạnh nào đó
của cuộc sống. Giọng điệu triết lý, triết luận được thể hiện hầu hết qua các tác phẩm
thời kỳ Đổi mới Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy
giá thú… Thời kỳ này quan điểm nghệ thuật của Ma Văn Kháng đã có sự chuyển
biến rõ rệt. Không gồng mình lên để phê phán cái ác, cái xấu ở đời như Vũ Trọng
Phụng, Nguyễn Công Hoan…, Ma Văn Kháng đã theo một cách riêng của chính
mình để suy ngẫm về lẽ đời, về cuộc sống, để bảo vệ những giá trị thiêng liêng của
cuộc sống.
Trong các sáng tác viết về gia đình, Ma Văn Kháng đã khai thác thành công
ngôn ngữ độc thoại nội tâm để nhân vật bộc lộ tình cảm, nghĩ suy, quan niệm về
cuộc sống của mình. Nắm vững quy luật phát triển, nhà văn để cho nhân vật lý giải
các mối quan hệ trong cuộc sống gia đình. Luận (Mùa lá rụng trong vườn) khi bàn
về tương lai của gia đình đã khẳng định: "Gia đình, cái hình thái kết hợp lạ nhất của
loài người, hình ảnh thu nhỏ của đời sống xã hội, rồi đây trong bước phát triển vũ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
bão của cuộc sống còn nảy nở thêm bao sắc thái mới mẻ trong các mối quan hệ,
61
nhưng với nó, ước mong no ấm, yên vui, hạnh phúc có bao giờ thôi là ước mong
muôn thủa vĩnh hằng" [22,63].
Giọng điệu triết lý, triết luận của đoạn văn trước hết được tạo bởi sự am hiểu
sâu sắc của tác giả về gia đình. Theo ông, gia đình - "Cái hình thái kết hợp lạ nhất
của loài người" ấy luôn vận động và phát triển không ngừng. Chính nó là tiêu điểm
đánh dấu sự vận động của xã hội loài người. Nhưng cái đích cuối cùng mà nó
hướng tới bao giờ cũng là sự yên ấm hạnh phúc.
Khi chứng kiến tấn bi kịch gia đình, nhìn thấy những thay đổi ngoài xã hội
đường phố, Luận đã tỏ rõ cơn bi phẫn từ vị trí nạn nhân "Có bao giờ con người hài
lòng với mặt tối của hịên thực. Căm phẫn là cần nhưng không khó với bất cứ ai có
lương tri. Chửi rủa càng là sự dễ dàng. Một chỗ đứng cao hơn, mà vẫn không là kẻ
trong cuộc, mà không phải là bàng quan, là chai lỳ, vô cảm là thế nào" [22,266].
Trong cơn nhiễu loạn nhiều chiều của cuộc sống, Luận điềm nhiên phân tích và có
những kết luận thuyết phục từ sự đối chiếu giữa hai thái độ ở hai hoàn cảnh khác
nhau "Cái thiện, cái hợp lý bao giờ cũng có sức mạnh tự thân. Và thiên hướng trở
về với cái thiện cái hợp lý là mạnh mẽ, ở ngay cả trong lúc cái xấu còn mạnh"
[22,267]. Trước bất kỳ sự việc gì Luận cũng dành thời gian để suy ngẫm và rút ra
một điều gì đó, một kết luận nào đó cho riêng mình. Mỗi một sự quan sát của Luận
đều có thể trở thành một trải nghiệm, một kinh nghiệm quý báu đối với anh. Luôn
luôn phân tích, lý giải là cách để Luận tìm ra những biện pháp tốt nhất, hữu ích nhất
cho công việc của mình cũng như cho những vấn đề của anh và gia đình.
Trong sáng tác của mình, Ma Văn Kháng thường sử dụng giọng điệu triết lý,
triết luận rất tự nhiên. Giọng điệu đó có khi từ lời của người kể chuyện, có khi từ
chính nhân vật trong chuyện. Qua đó làm tăng ý vị hấp dẫn và chiều sâu tư tưởng
của tác phẩm.
Không phải là thường xuyên, nhưng có lúc Ma Văn Kháng còn sử dụng giọng
điệu triết lý triết luận để bộc lộ quan điểm của mình về nghề văn. Ông cho rằng,
"Văn là văn. Văn không phải là chính trị, kinh tế học được hình ảnh hoá. Văn cũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
chẳng phải là cỗ đại xa mang nhãn hiệu Komatsu hay Côccum có sức chở ba chục
62
tấn hay chiếc xe bò bánh gỗ chở lổng chổng trên nó mấy thứ hàng tư tưởng rẻ tiền
hay đắt giá. Văn là chính nó, ở chỗ nó chỉ có mỗi một nhiệm vụ là miêu tả con
người một cách văn chương. Nó tự nhiên như đời sống vì chính nó là đời sống. Chi
phối nó chỉ có một sức mạnh duy nhất của đời sống" [26,149]. Tác phẩm văn học
vốn là sản phẩm sáng tạo của nhà văn, bởi vậy, theo Ma Văn Kháng văn học phải
phản ánh cuộc sống nhưng phản ánh theo kiểu của nó. Cái lối thưởng thức tác phẩm
dùng gương soi vào đời sống để xem nó đúng hay sai với nguyên mẫu rồi từ đó định
giá cho nó giờ không còn phù hợp nữa. Ma Văn Kháng đã thực hiện những điều tâm
niệm của mình, thông qua việc bày tỏ quan niệm về văn chương và nghề văn. Ông
luôn nỗ lực sống thực với cuộc sống, dùng ngay đời sống, chứ không phải một cái
gì khác ở ngoài đời sống. Chính điều đó đã đem lại cho văn chương của Ma Văn
Kháng sự gần gũi với cuộc đời và con người.
Thực ra không phải đến Ma Văn Kháng tính triết lý trong văn chương mới
xuất hiện. Tính triết lý trong văn chương đã xuất hiện ngay từ những năm đầu thế
kỷ XX, đặc biệt là giai đoạn 1930 - 1945. Các nhà văn thường qua hình tượng nhân
vật của mình để phát biểu những chiêm nghiệm, những nhân sinh quan, những khát
vọng lý tưởng mà họ đam mê ôm ấp, ước mơ. Lý tưởng ước mơ vốn đẹp mà cuộc
đời lại khắc nghiệt vô cùng. Trong số những nhà văn giai đoạn này, Nam Cao được
coi là người thành công hơn cả. Xoáy sâu vào bi kịch tinh thần của những con
người trí thức, những con người có tài năng, có nhân cách, có lý tưởng xã hội cao
cả, muốn sống bằng lao động sáng tạo của mình, nhưng vì gánh nặng cơm áo mà
cuộc sống của họ trở nên vô nghĩa, họ đều phải trăn trở, xót xa vì cho đến chết mà
vẫn chưa làm được gì cả "Chết mà vẫn chưa sống".
Nhân vật Thứ trong Sống mòn từng ôm mộng vào Đại học, được sang Tây,
được nhìn xa biết rộng, để tu luyện thành tài và phụng sự cái lý tưởng của mình - lý
tưởng đó "đem những sự thay đổi lớn lao cho cái xứ sở của mình". Bao nhiêu ước
mơ, mộng tưởng đẹp đẽ, cao xa là thế, vậy mà, Thứ cũng chỉ là ông giáo nghèo khổ
sống lay lắt. Có những lúc Thứ phải thốt lên một cách đau đớn "Sao mà cái đời nó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
tù túng, chật hẹp, nó bần tiện thế! Không bao giờ dám nhìn cao một tí. Chỉ những lo
63
ăn, lo mặc. Hình như tất cả nguyện vọng, tất cả mong ước, tất cả mục đích của đời
chỉ là mỗi ngày hai bữa. Bao nhiêu tài trí, sức lực đều chỉ dùng vào việc ấy, khổ sở
cũng vì thế, mòn mỏi tài năng cũng vì thế nốt" [5].
Nếu trong các sáng tác của Nam Cao giọng điệu triết lý của ông tập trung đi
sâu phản ánh và tố cáo bản chất của xã hội cũ, bằng cách để những nhân vật này rơi
vào bi kịch đứng giữa ngã ba đường, giữa lý tưởng nghề nghiệp và nhu cầu cơm áo,
gạo tiền, thì ở Ma Văn Kháng, ông đã để cho nhân vật của mình được soi chiếu
nhiều chiều, nhiều góc độ trong nhiều mối quan hệ của đời sống. Nhân vật của Ma
Văn Kháng nhiều khi trở thành nạn nhân của cái ác, cái xấu, cái bỉ ổi đê tiện và
quyền lực. Chính vì vậy, giọng điệu triết lý, triết luận của Ma Văn Kháng mang một
sắc thái mới với một độ sâu lắng cần thiết trong tác phẩm.
Ma Văn Kháng đã mở rộng, đào sâu bằng những trực cảm, dự báo những suy
tư triết luận về cuộc đời về số phận trí thức Việt Nam. Tiểu thuyết Đám cưới không
có giấy giá thú của Ma Văn Kháng ngay từ đầu đã cuốn hút người đọc bởi những
suy nghĩ, những chi tiết mới mẻ, sống động, qua cách thể hiện đầy tâm huyết của
nhà văn. Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là thầy giáo dạy giỏi văn - Đặng Trần
Tự. Trải qua hai mươi năm thực hiện cuộc hành trình tâm hồn để đi tới ngày "thành
hôn" của mình với những điều mình tôn thờ, Tự đã phải trải qua bao gian truân vất
vả, Ma Văn Kháng nhiều lần triết luận về vấn đề này: "Cuộc hoà hợp của thi sĩ với
đối tượng yêu dấu của mình là một cuộc hôn phối tuyệt đẹp. Đó là cuộc hôn nhân
của thi sĩ với lý tưởng"; "Vì sao Tự không gặp được lý tưởng, cuộc kết hôn của anh
với cái đẹp của chủ nghĩa mà anh tôn thờ không thành? Một đám cưới không thành
một hành trình trắc trở" [21,331]. Trước số phận, bi kịch của mỗi nhân vật trí thức
trong tác phẩm, nhà văn không tố khổ, không kêu cứu một chiều mà ông đã đối
thoại với bạn đọc: "Trách ai bây giờ. Phải ngồi lại với nhau để bàn bạc cho ra nhẽ.
Vở bi kịch còn đang tiếp diễn và không chỉ là cá biệt. Việc này có quan hệ với tất
cả. Mỗi người trong tất cả, hãy cất tiếng nói của mình từ thực nghiệm của chính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
mình" [21,367].
64
Trong cái nhìn của Ma Văn Kháng, cuộc sống hôm nay còn nhiều điều bất ổn,
cái xấu đang xâm nhập vào từng gia đình, từng cá nhân làm ảnh hưởng không ít đến
sự phát triển chung của dân tộc. Trước sự thật nhức nhối, Ma Văn Kháng luôn trăn
trở day dứt về những thực trạng đau lòng: "Học sinh cứ đỗ nhiều đi, nhưng kỹ sư ra
trường xây cầu thì đổ. Huân chương thì mỗi năm một nhiều, nhưng xã hội mỗi năm
một thêm suy đồi, thân phận con người bé nhỏ vẫn không thoát khỏi vòng khốn
đốn" [21,331].
Khái quát cuộc sống bằng giọng điệu triết lý, triết luận với những lý giải sâu
sắc, chứng tỏ trách nhiệm của các nhà văn trước cuộc đời. Nỗi trăn trở lớn nhất của
nhà văn là căn bệnh thành tích. Ma Văn Kháng nhìn thấy rõ hậu quả khôn lường của
nó. Sự phân tích lý giải của ông như một lời cảnh báo cho tất cả chúng ta. Tác giả
muốn cùng người đọc nhìn nhận lại hiện thực của cuộc sống từ đó nhìn lại chính
con người mình, xét lại toàn bộ những suy nghĩ, hành động của mình, để thay đổi
theo tinh thần mới của Đảng.
Vốn là một nhà văn luôn có xu hướng tăng cường đậm đặc giọng điệu triết lý,
đối thoại trong sáng tác của mình, trong các tác phẩm của Ma Văn Kháng nhiều khi
người đọc bắt gặp từ những câu chuyện tưởng chừng như rất vặt vãnh, bé nhỏ
nhưng qua sắc thái giọng điệu triết lý, bàn luận, nhận xét của nhà văn hay của nhân
vật trong tác phẩm, đã làm tư tưởng, chủ đề mở rộng, tầm triết lý, khái quát của tác
phẩm được nâng cao. Đúng như Phó giáo sư - Tiến sĩ Lã Nguyên từng nhận xét:
"Mang chiều sâu của triết luận nhân bản về đời sống, nội dung xã hội của tác phẩm
Ma Văn Kháng bao giờ cũng vượt ra ngoài ý nghĩa đề tài, chất liệu".
Bên cạnh những vấn đề được phản ánh trong các tác phẩm, Ma Văn Kháng
còn chú ý đến những nghịch cảnh ở đời, từ đó nhà văn suy nghĩ, nghiền ngẫm về
những lẽ đời trớ trêu vô nghĩa. Giọng điệu triết lý trong sáng tác thời kỳ này của Ma
Văn Kháng đã mang lại những hiệu quả thể hiện cao.
Trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời ngoài sự thành công trong việc xây
dựng hình tượng nhân vật bà Lãng, Ma Văn Kháng còn đặt ra nhiều vấn đề khác:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
vấn đề đạo đức, đạo lý truyền thống, vấn đề "bung ra" của cơ chế mới, vấn đề đồng
65
tiền trong các mối quan hệ. Để được cùng độc giả luận bàn, thể hiện suy nghĩ,
chiêm nghiệm của mình về những vấn đề đó, Ma Văn Kháng đã cho nhân vật người
bà một giọng điệu triết lý sắc sảo: "Giàu có mà không dạy nhau ăn ở cho ra con
người thì cũng dễ tan cửa nát nhà"; "Hoàng kim hắc thế tâm", Các cụ đã dạy như
vậy, "Còn nghèo túng mà không giữ lòng kiên trinh thì thành phường luồn cúi, nô
bộc cả". Đó là những vấn đề rất xưa nhưng không bao giờ cũ cả.
Trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời tác giả đã cho nhân vật bà Lãng cùng
gia đình chịu đựng biết bao nhiêu khó khăn, cùng cực. Có nhiều lúc bà đã phải phẫn
uất kêu trời vì nỗi cơ cực ở đời, mọi cơ cực ấy đều đè nặng trên đôi vai gầy mỏng
manh của bà. Ở cái tuổi gần bẩy mươi bà phải cưu mang hai đứa trẻ côi cút, chấp
nhận mọi nỗi tủi nhục nhưng không bao giờ tuyệt vọng vì bà luôn tin rằng: "Ở hiền
gặp lành" và quả thật trong quãng đời khốn khó của bà, bà luôn được giúp đỡ, cảm
thông của những người lương thiện, nhân hậu. Cho dù có những lúc bà cùng hai đứa
cháu côi cút sống trong giây phút cảm tưởng không thể vượt qua được để giành giật
sự sống, lúc đó bà vẫn kiên cường chống chọi với mọi thế lực để đem lại niềm tin
cho các sinh linh bé nhỏ, chênh vênh giữa dòng đời đen bạc. Cuối cùng "Sự sống đã
chiến thắng. Em Thảm đã sống nhờ nội lực tiềm tàng, nhờ nghị lực chống trả phi
thường và nhất là nỗi khát khao muốn cho đời hiểu rằng: Sự sống của những kẻ vùi
dập là bất diệt chăng?" [23,161].
Không chỉ những thế bà Lãng, còn cho những người xung quanh mình niềm
tin để đến với những hạnh phúc ngọt ngào thương yêu. Như cô Quyên khi xa
phường Ngọc Sinh vào Nam chăm sóc chồng, cô luôn mang trong mình câu nói từ
cuộc đời bình dị tháng ngày của bà: "Dẫu có thế nào thì cũng cứ phải cứng cỏi gánh
vác, chống trả, vì đã có một chân lý được đúc thành vàng thoi: hết cơn bĩ cực đến
tuần thái lai. Trong vận động đời sống, điều vô lý sẽ bị chính ngay đời sống xoá bỏ"
[23,167]. Cho dù, cuộc đời khó có thể đạt tới sự công bằng hoàn toàn, nhưng không
thể có chuyện cứ mãi bất công, lộn xộn, bê bối. Bà luôn tin vào một ngày mai, xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
hội có sự thay đổi, con cái, gia đình rồi sẽ đoàn viên sum họp và hạnh phúc như
66
ngày tháng vốn có. Niềm tin của bà đã chiến thắng, ngày đó đã đến, hạnh phúc lại
trở về với gia đình, bà đã tìm lại được sự công bằng từ chính cuộc đời này.
Qua hình tượng bà Lãng ta thấy, Ma Văn Kháng vẫn luôn tự tin vươn tới cái
tốt đẹp bằng niềm tin ở mỗi người "Người ta sống, hành động có niềm tin. Niềm tin
vào sức mạnh lớn lao", Chính từ niềm tin ấy, mà các nhân vật của Ma Văn Kháng
đều là những con người có lòng tin mãnh liệt vào tương lai, tư duy hành động của
họ đều hướng vào mục đích cao cả. Họ đã xây dựng cho mình lý tưởng tôn thờ,
niềm đam mê khát vọng, thái độ sống giữa rất nhiều quan niệm nhân sinh của người
đời, để rồi suốt đời họ trung thành với lý tưởng mà mình đã cống hiến. Ma Văn
Kháng thể hiện rất rõ điều này trong quá trình xây dựng nhân vật Khiêm (Ngược
dòng nước lũ), ông Thuần (Chó Bi - đời lưu lạc)…
Khiêm (Ngược dòng nước lũ) là một nhà văn, hơn ai hết anh ý thức về quyền
cá nhân rất rõ rệt. Đó là ý thức quyền tự do sáng tạo của người nghệ sĩ. Anh đã nói
một cách thẳng thắn "Tôi trước hết là một nhà văn. Tôi sống thành thật với mình,
tôi trung thành cảm xúc của mình". Bằng sự trải nghiệm cuộc sống, đặc biệt trong
chiến tranh, Khiêm đã xác định được lý tưởng sự nghiệp của mình. Với anh văn
chương phải phục vụ cho mục đích cao nhất là cuộc sống con người, phải giúp cho
người đọc "Nhìn rõ hơn cái nguyên cớ khuất chìm của tình trạng suy đồi nhân thế"
[26,150] và Khiêm đã đạt đến đỉnh cao của vinh quang mà bất cứ người cầm bút
nào cũng mơ ước.
Với ông Thuần trong Chó Bi - đời lưu lạc cũng vậy, cả cuộc đời ông luôn tin
vào lẽ sống mà mình đã định, tự tin vào chân lý vĩnh cửu của cuộc đời. Trước
những bi kịch xảy đến gia đình, ông vẫn hết sức bình thản, tự tin vì ông luôn tâm
niệm một điều rằng "Đi trên đường lớn thì không một sức mạnh trần thế nào chống
lại được" [24,413]. Bởi vậy, khi đối mặt với bi kịch ông không hề buông xuôi, tuyệt
vọng mà ngược lại, vẫn giữ cho mình một cốt cách không đổi "Không lẽ người anh
hùng lại bó tay trước các thế lực đương quyền tha hoá". Ông trở nên mạnh mẽ hơn
bao giờ hết, vững chãi như cây tùng, cây bách mà cường quyền bạo lực không thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
lay chuyển, ông đã dồn hết tâm trí cùng bạn bè để đưa ra ánh sáng sự thật.
67
Giữa dòng đời vẫn đang cuộn chảy, Ma Văn Kháng đã có một cái nhìn đầy
nhân văn, đầy tình hữu ái với mong mỏi đem đến cho xã hội những điều tốt đẹp
nhất. Chính vì vậy, mỗi trang văn của Ma Văn Kháng như một bức thông điệp nóng
bỏng của cuộc đấu tranh diễn ra ở từng lúc, từng nơi để giành lại giá trị thiêng liêng
của cuộc sống. Ngòi bút của Ma Văn Kháng đầy đau đớn, day dứt trước cuộc sống
thực tại, nhưng không u ám, không hằn học vì tác giả vẫn tin tưởng và trân trọng
vào điều thiện.
Với giọng điệu triết lý, triết luận, nhà văn đã tạo hiệu quả cao trong việc bộc lộ
nhân sinh quan và thể hiện sự tổng kết của bản thân mình về cuộc đời về con người,
về xã hội hôm nay. Ngoài ra, Ma Văn Kháng còn muốn gửi gắm một nhận định:
"Chân lý có thể nảy sinh trong quá trình va chạm giữa các ý kiến khác nhau, là cách
người cầm bút được nối lời, tiếp lời để tranh luận, để đối thoại với ý thức xã hội, ý
thức nghệ thuật". Qua đó, nhà văn muốn giãi bày bằng suy tư, chiêm nghiệm, lý giải
về con người nói chung.
Như vậy, bằng sự am hiểu và suy ngẫm của nhà văn về cuộc đời, các sáng tác
của Ma Văn Kháng mang đậm màu sắc triết lý, triết luận, có lúc thì hiện diện rõ
ràng, có khi bảng lảng trong lời trần thuật. Chính giọng điệu triết lý, triết luận trong
sáng tác của Ma Văn Kháng đã cuốn hút người đọc vào mạch truyện, gợi lên trong
lòng chúng ta những suy tư, trăn trở về cuộc đời. Đồng thời, nhờ có giọng điệu này
mà người đọc có cơ hội soi lại mình qua mỗi trang văn của ông.
Với giọng điệu triết lý, triết luận, tác phẩm của Ma Văn Kháng đã đem đến
một sức nặng nghệ thuật riêng, một sức hấp dẫn riêng về mặt trí tuệ. Giọng điệu
triết lý còn thể hiện một cái nhìn tích cực và nghiêm túc, một khao khát muốn vươn
tới cái đẹp, muốn tìm chân lý của nhà văn. Tất cả, đều cho chúng ta thấy một Ma
Văn Kháng hiểu đời, hiểu người và hiểu hoàn cảnh.
2.2.3. Giọng điệu mỉa mai, châm biếm
Như chúng ta đã biết, khi đất nước đang trong giai đoạn chuyển mình cùng với
những cái mới, cái tiến bộ là những tàn dư của xã hội cũ, cái lạc hậu, mà ngày một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngày hai không thể xoá bỏ được. Điều này đã tạo ra những kẽ hở, tạo cơ hội thuận
68
lợi cho những kẻ tiểu nhân, thực dụng, trục lợi lộng hành. Tiêu biểu là sự bỉ ổi, nanh
nọc lố bịch trơ tráo, cạn tầu ráo máng, lối thực dụng chạy theo danh vọng, tiền tài;
là sự xuống cấp, suy tho ái về đạo đức và nhân phẩm của một số lãnh đạo... Viết về
những bọn người ấy, Ma Văn Kháng lại thể hiện bằng giọng điệu mỉa mai, châm
biếm đôi khi kèm theo cả sự phẫn uất.
Khi mô tả chân dung vị của giáo sư, trưởng khoa của một trường Đại học có
tiếng trong tác phẩm Mưa mùa hạ, Ma Văn Kháng viết: "Trường Đại học! lâu đài
của trí tuệ! Vậy mà làm sao lại có một thằng cha bất tài, vô đạo nghiễm nhiên đóng
vai trưởng khoa? Cái thằng cậy mình là Đảng viên" [25,26]. Giọng điệu mỉa mai,
châm biếm được sử dụng một cách hữu hiệu và bộc lộ trực tiếp qua từ ngữ thông
tục, câu hỏi tu từ và ngữ điệu câu văn.
Sắc thái giọng điệu này vừa mỉa mai châm biếm những nhân vật trí thức
"rởm", vừa tỏ ra lo ngại cho nền giáo dục nước nhà. Sự lo ngại đó như thấm vào
từng câu chữ khi nhà văn phơi bày sự dốt nát của nhân vật trí thức "rởm" trong sáng
tác của mình. Ngay từ việc miêu tả ngoài hình và lời diễn thuyết của một Bí thư đầy
quyền lực trong Đám cưới không có giấy giá thú nhà văn đã viết: "Nắng sớm tháng
tám nhuộm đỏ, khuôn mặt sần sùi trứng cá của ông. Ông to như hộ pháp trong chùa,
nhưng dài trên, ngắn dưới, tai bẹp, mắt gườm gườm. Ông chẳng có được ánh cười
trên đôi môi dày như đắp nặn" [21,101]. Rồi ngay cái câu đầu tiên cho lời phát biểu
trong buổi lễ khai giảng, vị Bí thư đã hiện lên là một kẻ dốt nát "Hôm nay, thị xã ta
khai giảng trường cấp 3, rồi đây chúng ta sẽ mở trường cấp 4, cấp 5, cấp 6. Cũng
như hiện tỉnh ta có giống lợn Mường Khương, nhiều mỡ, rồi đây ta sẽ có giống lợn
kinh tế nhiều nạc, tăng trọng nhanh" [21,102]. Vào cái ngày mở đầu một tiến trình
văn hoá mới trang trọng là vậy mà ông Bí thư Thị uỷ lại gây nên nỗi buồn đau và tủi
nhục trước một thế hệ học sinh. Với giọng điệu mỉa mai, châm biếm, Ma Văn
Kháng đã xây dựng thành công và sống động về một kẻ cầm quyền đại diện cho
Đảng, cho dân, nhưng lời lẽ, ngôn ngữ lại biểu hiện của kẻ chợ búa, vô học, vô đạo
đức. Những kẻ như thế chỉ làm hại cho dân, cho nước và cho những con người có lý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
tưởng như thầy giáo Đặng Trần Tự và lớp học sinh ham hiểu biết mà thôi.
69
Không chỉ ông Bí thư Thị uỷ Lại, Khi miêu tả con đường thăng tiến và trình
độ nhân cách của ông hiệu trưởng Cẩm, Ma Văn Kháng cũng sử dụng rất đắc địa
sắc thái giọng điệu này. Vốn là sản phẩm của một thời lấy lý lịch ba đời nghèo khổ,
lấy tấn phân xanh phân chuồng làm thước đo giá trị duy nhất của mỗi người, thực
sự là cơ hội để Cẩm đổi đời. Với "lý lịch ba đời của Cẩm khỏi chê" ấy, Cẩm trở
thành "của hiếm" và được cử đi học Đại học. Nếu những kẻ khác việc trở thành
Đảng viên khó như leo lên đỉnh ngọn Clomôluma chọc trời thì với Cẩm việc đó lại
"dễ dàng như được mời đi ăn cỗ". Bởi vậy, mà con đường đi đến với chức vụ hiệu
trưởng của Cẩm cũng chỉ là việc đơn giản như trở bàn tay. Mặc dù được cử đi học
Đại học, được làm Hiệu trưởng nhưng "Cẩm vẫn cứ là kẻ dở ông dở thằng. Vẫn cứ
không sao xoá được cái cốt cách mõ làng của mình" [21,125]. Bằng giọng điệu mỉa
mai, châm biếm qua cách kể và tả, nhà văn đã phê phán, bóc trần bản chất dốt nát
của những nhà trí thức "rởm" như Bí thư Thị uỷ Lại và Cẩm...
Giọng điệu châm biếm, mỉa mai tiếp tục được sử dụng khi tác giả miêu tả "tài
năng" văn chương của Cẩm. Trên bục giảng Cẩm luôn biến bài giảng văn của mình
thành bài chính trị, luân lý đạo đức ngô nghê, có lần dạy bài Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc, giảng hết bài rồi mà còn những năm phút nữa mới hết tiết, Cẩm liền lấp chỗ
trống bằng cách bảo học sinh đứng dậy mặc niệm các nghĩa sĩ năm phút để tỏ lòng
tri âm. Chẳng những thế, Cẩm còn thiếu cả năng lực nghiệp vụ sư phạm, trước câu
hỏi của một học sinh trong giờ lên lớp, Cẩm đã trả lời một cách ngô nghê và thể
hiện ngay sự dốt nát của mình:
"Học trò : Thưa thầy, tại sao Nguyễn Du viết: "Vầng trăng ai xẻ làm đôi ?"
- Thầy Cẩm: Thế mới hay chứ!
- Học trò: Thế thưa thầy vì sao lại: "Nửa in gối chiếc?"
- Thầy Cẩm : Thế mới gọi là thơ!
- Học trò: Thế còn "Nửa soi dặm trường" là thế nào ạ?
-Thầy Cẩm: Cái cậu này dốt bỏ mẹ! Thế thì mới gọi là đại thi hào Nguyễn Du
chứ!" [21,116]. Thật đúng là một trò cười cho thiên hạ, một ông hiệu trưởng, một giáo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
viên dạy văn mà lại buông ra nhưng lời thô lỗ, thiếu văn hoá và ấu trĩ đến mức ấy.
70
Giọng điệu ấy còn thâm cay hơn khi nhà văn nhận xét và thẩm bình công việc
mà Bí thư Dương đảm nhiệm và những thành tích mà ông ta giành được "Chà trí
thức những kẻ mang sẵn cái mầm bất phục tùng và thói tự phụ cùng các nhược điểm
thâm căn cố đế như hay hoang mang dao động, xa rời đời sống... Thế mà làm cách
nào Dương lại đoàn kết được họ, kìm chế khuyết tật ở họ, khiến họ trở thành những
người thầy XHCN, hết lòng vì học sinh thân yêu? Dương vất vả đây. Nhưng công
việc sẽ rất thú vị. Bởi vì, đó chính là phần thưởng. Ôi những phần thưởng, những
danh hiệu những tấm bằng khen, những lá cờ la liệt trên bức tường ở phía sau chiếc
ghế Dương vẫn ngồi" [21,329-330]. Ở đây, giọng điệu chủ đạo vẫn là giọng điệu
mỉa mai châm biếm. Giọng điệu này được tạo bởi từ ngôn ngữ nửa trực tiếp. Lời kể
của tác giả nhuốm màu suy nghĩ của nhân vật đem lại sự thâm thuý mỉa mai sâu
cay. Từ đó, nhà văn lật tẩy những việc làm của ông ta "Nhưng, đó sẽ là một trò ảo
thuật đại lừa bịp, và vô sỉ bậc nhất. Bởi vì đó là sự trang điểm mỹ miều cho một tấm
thân đã dơ dáy nhuốc nhơ, đang cần phải chà xát kĩ càng cho bật hết ghét bẩn"
[21,330]
Đọc nhưng trang văn của Ma Văn Kháng ta thấy nổi lên một loạt những hiện
tượng kỳ quặc. Những con người ít học, kém trí tuệ như ông Dương lại tự giao cho
mình cái quyền dạy cách làm người cho giáo viên và học sinh. Có thể nói, những
hiện tượng kỳ quặc đó làm nảy sinh trong xã hội một loạt những nghịch lý. Giờ đây,
cái xấu ngồi trên cái tốt, cái vô văn hoá dẫm đạp lên cái có văn hoá, cái ngu dốt ngự
trị tài năng. Sự đảo ngược các giá trị đó đã làm cho những người tâm huyết như Ma
Văn Kháng dằn vặt, đến đau đớn.
Nghiêng về những giá trị đạo đức thiêng liêng của dân tộc, trước những hành
vi xấu xa, đê tiện của con người luôn coi trọng đồng tiền và danh vọng, giọng điệu
châm biếm, mỉa mai của Ma Văn Kháng còn tiếp tục phơi bày bản chất của những
con người đó. Hành vi độc ác của Chủ tịch Luông ở phường Ngọc Sinh trong Côi
cút giữa cảnh đời được nhà văn không ngần ngại đưa lên trang sách. Ngay từ những
trang đầu của tác phẩm, ông Chủ tịch phường đã được hiện lên với gương mặt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
"choăn choắt, da ông sắt seo và mũi ông tóp nhọn như sắt, còn hai con mắt ti hí như
71
rắn ráo liên hồi", có lúc "Mắt lại chíp lại như mắt người ngủ gà, ông ta mím môi,
chíp chíp trong miệng như chuột kêu" [23,46].
Bằng cách sử dụng đậm đặc và chuẩn xác những từ láy và nhiều kiểu câu đa
dạng, Ma Văn Kháng không chỉ cho người đọc chiêm ngưỡng gương mặt và dáng
hình xấu xí của ông Chủ tịch phường, mà còn lột tả hành vi đểu cáng, độc ác và ngu
dốt của ông ta. Sự ngu dốt đó được thể hiện rõ hơn khi ông Chủ tịch phường đã có
thâm niên tới ba mươi năm công tác ở ngành ngoại giao mà lại cho rằng: Tây du ký
là câu chuyện Đặng Tiểu Bình du hí ở bên Tây tức bên Mỹ. Bởi vậy, ông ta cấm
mọi người không được đọc cuốn sách đó. Chẳng ý thức được sự dốt nát của mình,
ông ta còn luôn tự hào, hãnh diện kể rằng hồi còn đương chức thủ trưởng cơ quan,
có một nhân viên gọi phở không có thịt là phở không người lái, và ông cho rằng đó
là dụng ý xấu chê trách sự lãnh đạo. Để "xử lý" hành động này, "Tôi đã bắt hắn
đứng trước mặt tôi, nói liên tục bốn tiếng đồng hồ cái câu phản động ấy, đến kỳ hắn
mệt rã, bỏng họng, gục xuống trước mặt tôi để hắn nhớ đời". Nói xong ông chủ tịch
"nuốt nước bọt đánh ực" [23,102]. Giọng điệu mỉa mai, châm biếm của Ma Văn
Kháng được hiện diện qua từng câu, từng chữ. Nó như là một phương tiện vạch trần
tâm địa độc ác, ngu dốt của lão Chủ tịch. Ma Văn Kháng khinh bỉ hắn lôi hắn ra ánh
sáng rồi lần lượt vạch trần bộ mặt bẩn thỉu, tâm địa xấu xa của hắn.
Cũng như Tô Hoài, Ma Văn Kháng cũng nhằm vào tất cả những thói hư tật
xấu, những suy thoái biến chất của con người trong cuộc sống đời thường mà phê
phán. Đối tượng phê phán của họ là tất cả những gì xa lạ với con người theo quan
điểm đạo đức văn hoá. Nhưng Tô Hoài chỉ dùng giọng điệu này phê phán những gì
xa lạ với con người bình thường trong cuộc sống đời thường, thì Ma Văn Kháng lại
dùng giọng điệu này để lật tẩy mọi sự xấu xa nhức nhối của những kẻ trí thức
"rởm", lãnh đạo "rởm", sự xuống cấp đạo đức nghiêm trọng, trước sự đảo lộn trong quy
luật của đạo đức tình cảm ở mỗi người trong cuộc sống đa dạng đa chiều hôm nay.
Khi đọc sáng tác của Tô Hoài ta thấy, cái nhìn tinh quái của nhà văn khiến mọi
việc mờ ám trong cuộc sống không qua nổi mắt ông. Hãy nghe Tô Hoài miêu tả tình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
cảnh của mợ Phán (Bóng đè) - "con dâu ngoan" của ông bà trưởng Luỹ bị bệnh
72
bóng đè - cứ "vào quãng nửa đêm lại thấy ngực nặng trình trịch như đeo đá, chân
tay nhuôi ra, muốn cựa cũng không được, mồm cứng quai hàm không kêu được",
khiến cho ông bà Trưởng Luỹ lo lắng lắm. Ông bà tìm đủ mọi cách để cứu chữa cho
cô con dâu nhưng cũng chỉ yên được một dạo, bệnh của mợ Phán lại đâu vào đấy.
Chỉ đến khi đích thân ông trưởng Luỹ kê chõng ngủ ngay cạch cửa phòng mợ thì
bệnh của mợ khỏi hẳn. Thật "hạnh phúc cho ông bà trưởng". Giọng điệu mỉa mai,
châm biếm, nhẹ nhàng của Tô Hoài đã vén bức màn che đậy hành động ngoại tình
bấy lâu nay của cô "con dâu ngoan" nhà ông bà trưởng Luỹ.
Rồi từ dáng vẻ thoả mãn, hãnh diện của cô Mây (Vàng phai) vì lấy được người
chồng "sộp và mạnh bạo, và mốt mới", Tô Hoài đã mỉa mai: "Cô quyền Vực vận cái
áo vải rồng mới, đeo trên vai cái tay nải to tướng miệng nhai trầu tủm tỉm, đi ve vẩy
nhẹ nhàng bên cạnh chồng - người chồng bảnh bao có đôi giầy to mỗi chiếc có nhẽ
bằng con lợn con, bước nghe cồm cộp đến vui tai". Giọng điệu mỉa mai, phê phán
lúc này trở nên nhẹ nhàng, "tình cảm". Nó không tạo ra khoảng cách mang tính đối
kháng căng thẳng quyết liệt
Ma Văn Kháng cũng dùng giọng điệu này để nhằm vào những thói tật, những
suy thoái biến chất của con người nhưng Ma Văn Kháng không đơn thuần nhằm
vào những con người bình thường, mà sâu sắc hơn là nhà văn sử dụng giọng điệu
này để tập trung phơi bày sự dốt nát của những nhân vật trí thức "rởm", cũng như
vạch trần con đường thăng tiến và thói quen "đục nước, béo cò" của những kẻ háo
danh, cơ hội. Với những đối tượng như Quanh lé, Tý Hợi, Cục trưởng Phô (Ngược
dòng nước lũ)…
Cục trưởng Nguyễn Văn Phô (Ngược dòng nước lũ), ngay từ lúc nhỏ đã nổi
danh là một học trò hư. Năm 17 tuổi vì học kém và hư đốn nên Phô bị đuổi, sau đó
Phô xin vào làm công nhân khuân vác ở nhà ga xe lửa. Sớm khôn ngoan, tìm đường
bay nhảy một năm sau thì Phô được làm thư ký đội khuân vác ở nhà ga xe lửa. Năm
sau Phô làm cán bộ lao động tiền lương bán chuyên. Năm sau nữa Phô được đi học
trường công đoàn tỉnh hệ sơ cấp... Khi viết về con đường thăng tiến của Phô, Ma
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Văn Kháng đã mỉa mai: "lạ lùng, sao có những con đường thăng tiến dễ đến thế", và
73
"không mất xương máu, cũng không cần học hành, chỉ cần có một lai lịch nghèo
khổ, một vẻ ranh mãnh trên đường đời và thói đần độn dễ bảo với cấp trên. Ai cũng
biết, dễ bảo là đặc tính của kẻ thiểu năng" [26,158]. Thế rồi, ngay cả khi Phô làm
Cục trưởng, y vẫn được xếp vào loại cán bộ kém cỏi về cả lý luận và thực tiễn. Điều
khiển một cuộc họp không xong, kết luận một hội nghị không nổi, ăn nói thì luôn
hớ hênh, thậm chí còn lỗ mãng ngớ ngẩn. Không những thế hắn còn hay ỷ vào
quyền hành, nhỏ nhen, lắm mưu mẹo để trả thù cá nhân. Nhà văn thấu hiểu từng
chân tơ kẽ tóc và sử dụng giọng điệu này để tố cáo sự tráo trở trên con đường thăng
tiến của mỗi người.
Ma Văn Kháng tiếp tục dùng giọng điệu mỉa mai châm biếm, để vạch trần một
cách hiệu quả con đường thăng tiến của "Quanh lé" hay "Con cóc cụ mắt lé" một
trong những "bản sao của Phô". Nhà văn miêu tả "Chàng lé học hết lớp 7 Trường
Bổ túc văn hoá ở huyện hồi 1954, rồi đi học sáu tháng tiếng Quảng Đông, tốt
nghiệp được điều về làm thông dịch viên ở Tổng cục T. Nghề thông dịch viên của
ông chỉ kéo dài được hơn một năm. Vì ông được đào tạo cấp tốc, chữ Hán chỉ ở
mức thoát nạn mà chữ của người Trung Hoa… nên chỉ nói miệng được chứ không
dịch văn bản được" [26,124]. Khi chàng lé 59 tuổi, theo gợi ý của Tổng cục, Khiêm
đề bạt làm Phó chủ nhiệm phụ trách việc hành chính. Có thể nói đây "là rắn mà giả
lươn, ngậm miệng che đậy cái gian hiểm bên trong" [26,125]. Một con người ranh
ma quỷ quyệt và hám danh đến mức lố bịch, mọi người trong cơ quan đều khinh
ghét. Đúng như lời nhận xét của nhà văn "Thầy nào thì trò vậy. Bất tài thì vô đạo
đức, đó là thông lệ" [26,162].
Là một nhà văn chân chính, Ma Văn Kháng không thể làm ngơ trước những
phần tử xấu xa, cơ hội và đê hèn như Quanh lé. Bằng cách sử dụng hiệu quả giọng
điệu mỉa mai, châm biếm, Ma Văn Kháng đã lột tẩy, tố cáo những bộ mặt giả dối
của một đội ngũ trí thức "rởm" và con đường thăng tiến của chúng. Vì muốn tiến
thân trong sự nghiệp mà chúng bất chấp cả truyền thống đạo đức tốt đẹp, chúng sẵn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
sàng bán rẻ cả lương tâm, nhân phẩm của mình.
74
Với giọng điệu này, Ma Văn Kháng đã khắc hoạ thành công bức chân dung
của những kẻ cầm quyền một cách chân thực và sắc nét. Họ đều giống nhau ở chỗ là
đục khoét, ngu dốt và vô văn hoá… nhà văn đã ném cả cái nhìn khinh bỉ vào tất cả
hệ thống những kẻ cầm quyền ấy và lột trần cái vỏ bọc trí thức "rởm" hào nhoáng
của chúng. Rất nhẹ nhàng, Ma Văn Kháng đã phơi bày tất cả sự thật, và với cái nhìn
sắc sảo Ma Văn Kháng còn nhận ra rằng, hiện tượng đó chẳng riêng gì ở một cơ
quan, xí nghiệp nào, mà đã trở thành vấn nạn chung trong toàn xã hội.
2.2.4. Giọng điệu thương cảm, xót xa
Không chỉ là giọng điệu mỉa mai, châm biếm, đến với thế giới nghệ thuật của
Ma Văn Kháng ta còn cảm nhận rõ giọng điệu thương cảm, xót xa đến tái tê lòng.
Đi sâu vào tìm hiểu giọng điệu ấy, người ta thấy một trái tim nhân hậu, một tấm
lòng chan chứa tình yêu thương đối với mỗi số phận bất hạnh. Cùng với giọng điệu
triết lí, triết luận, giọng điệu thương cảm, xót xa trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng đã trở
thành những giọng điệu chủ yếu trong sáng tác thời kỳ Đổi mới của Ma Văn Kháng.
Giọng điệu thương cảm, xót xa trước hết thể hiện ở sự cảm thương những con
người có nhân cách, có văn hoá nhưng lại luôn bị đè nén, trù dập, cuộc đời phải đón
nhận và gánh chịu những rủi ro bất hạnh, như bà cháu Duy (Côi cút giữa cảnh đời),
Tự (Đám cưới không có giấy giá thú), Khiêm (Ngược dòng nước lũ)… Những con
người đang quằn quại đau thương, vật lộn với cuộc sống, chống trả, trước sự ức
hiếp của một bộ phận lãnh đạo vô đạo đức, vô văn hoá được nhà văn vô cùng
xót xa, thương cảm.
Là một nhà văn chân chính có tấm lòng nhân hậu cao cả, Ma Văn Kháng
không thể làm ngơ trước hiện thực phũ phàng đó. Bằng giọng điệu thương cảm, xót
xa nhà văn đã theo sát bước đi của những con người đó để hiểu rõ hơn về nỗi khổ
cực, cay đắng của họ, để cảm thông và chia sẻ phần nào cho những khổ đau mà
họ phải gánh chịu.
Giọng điệu thương cảm, xót xa của nhà văn cũng có nhiều sắc thái cung bậc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
khác nhau, khi là giọng trầm lắng xót xa thống thiết, khi thì vút cao tỏ vẻ lạnh lùng
75
nhưng ẩn sâu trong đó vẫn là nỗi đau đớn xót thương. Nó ngấm vào từng mạch văn, lan
toả ra từng câu, từng chữ, có khi quện lại thành một nỗi buồn lớn cần được giãi bày.
Số phận của bà cháu Duy (Côi cút giữa cảnh đời) đã thực sự thay đổi kể từ
ngày mẹ Duy bỏ mặc đứa con nhỏ bé của mình. Trước tình cảnh ấy bà Lãng thảng
thốt trách cứ: "Thuỵ ơi! thật không ai như con đâu, con ạ!" [23,8]. Lời trách cứ nhẹ
nhàng mà sức nặng như tiếng kêu xé ruột. Trong trí óc non nớt của cậu bé Duy lời
nói ấy cứ vang vọng mãi không sao xoá nhoà trong suốt cuộc đời mình.
Quá khứ cứ hiện lên qua dòng hồi tưởng chua xót của cậu bé, có ai ngờ cái gia
đình mà trước đây luôn sống cảnh trong ấm ngoài êm, trên kính dưới nhường "được
sống trong gia đình như thế còn gì bằng" [23,10] giờ đây lại thành ra tan tác, chia
ly. Cuộc đời trớ trêu đã đùa với số phận của bà cháu Duy bởi ngày hôm nay lại là sự
ra đi của cô con dâu vẫn được coi là hiền lành, chăm chỉ. Trước hành động ra đi ấy
của người mẹ, Ma Văn Kháng đã đi vào từng chi tiết cụ thể, tìm ra những cái nhỏ
nhất để thể hiện niềm xót thương, cảm thông của mình. Hình ảnh người mẹ trong
buổi ra đi ấy đã làm cho cậu bé day dứt mãi không nguôi: "Cái áo mưa xanh cứng
quèo mẹ khoác khe khẽ quẫy động trong màn mưa thu xám nhờ. Một tay xách cái
túi quần áo lép kẹp, một tay đưa gạt nước mắt. Một phút ngần ngừ. Một phút xót xa.
Rồi sau đó mẹ tôi quay ngoắt đi, cắm cúi bước rồi rún chân chạy… cái chạy như
trốn lẩn, đau đớn vật vã. Cực chẳng thế nào" [23,8-9]. Lời miêu tả phút giây nghiệt
ngã ấy khiến người đọc cảm giác Ma Văn Kháng không hề lên án, hay chê trách
hành động ra đi của mẹ Duy mà ông dành tình yêu thương, sự cảm thông của mình
cho con người đáng thương ấy bằng giọng điệu thương cảm, xót xa.
Trước bao cơn tai biến ập đến, nỗi khốn khổ cuả bà Lãng tưởng chừng như vô
tận, nhiều khi cảm thấy bất lực và bà đã tìm đến nức nở bên mộ người chồng xa
cách nghìn trùng để tìm sự giãi bày nương tựa. Chưa hết nỗi tai ương, bà Lãng lại
một lần nữa gồng mình lên che chở cho những lỗi lầm của con cái mình. Một chiều
tháng năm, kết thúc năm học, cậu bé Duy trở về nhà và thấy một người "phụ nữ
xanh xao, tóc xoã mắt ậng nước" - đó chính là cô Quỳnh. Trước tình cảnh nghiệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngã ấy, "Bà tôi đưa mu bàn tay gạt nước mắt còn in vệt trên đôi gò má gầy nhăn
76
nheo" để chấp nhận sự thật đau thương từ sự lầm lỡ của con gái mình. Lúc ấy "Cô
tôi vắt nước mũi, gài mái tóc mai, búi lại tóc. Đứa bé nấc nấc mấy tiếng rồi ập mặt
vào ngực bà tôi. Tựa như đang trôi nổi, bơ vơ giữa muôn điều kinh hãi, một con
thuyền nhỏ cô đơn đã đậu lại một bến bờ yên ả, an toàn, em nhỏ thu hai bàn tay lại,
mắt gà gà đi vào giấc ngủ" [23,126]. Không một lời trách cứ, bà Lãng lại chất chứa
lên đôi vai khô gầy của mình nỗi khổ đau vô bờ bến. Từ lâu bà đã phải gánh chịu tất
cả nỗi khổ đau dằng dặc, một mình, phải chống chọi với mọi sự nham hiểm ở đời,
giờ đây trên lưng bà lại chất thêm nỗi nhọc nhằn không gì sánh nổi "Bà tôi chìa đôi
tay đón đứa nhỏ với sự tự nguyện lĩnh nhận cái gánh nặng trách nhiệm là cứu vớt
đứa nhỏ và mẹ nó đang trong tình trạng vô cùng bi thảm" [23,127]. Hình ảnh ấy in
đậm mãi trong tiềm thức của Duy như một vệt xám nhờ thăm thẳm trong ký ức tuổi
thơ của cậu "Mọi chiều tối bà tôi vẫn bế em Thảm ra chỗ ngã ba dốc đỏ chờ người
đi chợ qua xin cho em bú nhờ. Em nhớ sữa mẹ lắm. Nhiều bà thấy em thế, rất
thương em. Nhất là lúc nó nấp vào vú các bà, nún lấy nún để, nức lên sung sướng,
đến nỗi nghẹn sặc, ho trớ một hồi, rất tội nghiệp. Vừa nựng nó vừa ứa nước mắt
thương xót nó" [23,144]. Miêu tả tình cảnh này, giọng điệu thương cảm xót xa tỏ ra
đắc địa hơn bao giờ hết. Giọng điệu thương cảm, xót xa được hiện diện qua lòng
thương yêu vô hạn của Duy với đứa em gái nhỏ hết sức đáng thương và tội nghiệp.
Nhiều lúc không ghìm nén được lòng mình, Duy đã phải thốt lên "Trời! tôi thương
em gái tôi quá".
Âm điệu trầm buồn, sâu lắng qua giọng của cậu bé mười năm tuổi hay cũng
chính là tấm lòng xót xa và trái tim đang nhỏ máu của nhà văn, bởi còn gì đau đớn
hơn khi trên cuộc đời này vẫn đang tồn tại những kiếp người đau khổ lay lắt như bà
cháu Duy .
Giọng điệu xót xa, thương cảm của Ma Văn Kháng được tiếp tục sử dụng khi
thể hiện tình cảnh, đau thương tuyệt vọng của Tự (Đám cưới không có giấy giá thú).
Là một nhà giáo đầy nhân cách và tài năng nhưng Tự luôn bị trù dập và phải gánh
chịu bi kịch vì tài năng và nhân cách vượt trội của mình. Thật trớ trêu sống và làm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
việc trong một môi trường văn hoá mà tài năng của Tự lại là "đối tượng của lòng
77
ghen ghét đố kỵ và thù hận" của những kẻ lãnh đạo bất tài, bất lương. Vì bảo vệ học
trò, bảo vệ lẽ phải mà Tự đã bị Bí thư Thị uỷ Lại làm cho điêu đứng, anh bị đối xử
như một kẻ thù giai cấp. Sức khoẻ yếu mà anh phải ra trận, rời quân ngũ trở về với
công việc giảng dạy anh vẫn không thoát khỏi nỗi bất hạnh. Anh là nạn nhân của
những kẻ dốt nát, đội lốt trí thức, tham quyền cố vị. Những cố gắng cống hiến của
anh trong giảng dạy lại là cái cớ để chúng hành hạ, trù dập. Tự "bị đầy đoạ, bị bủa
vây bốn bề, bị bít các lối, bị dồn đến chân tường, bị chà dạp, bị phản bội, bị vu cáo,
bị cướp bóc mất hết. Tiền tài không, quyền lực không…" [21,391]. Ngòi bút của
Ma Văn Kháng đã khêu gợi đến tận cùng nỗi đau đớn của Tự để cảm thông chia sẻ.
Bằng việc sử dụng hàng loạt những động từ đặc tả hành động trù dập, bủa vây
không một lối thoát của bọn họ đối với anh.
Đau đớn vì lý tưởng không thực hiện được, Tự thấy mình là người sinh lầm thế
kỷ. Hơn thế, niềm tin tan vỡ khi Xuyến vợ anh, một người đàn bà thực dụng đã bỏ
chồng chạy theo đồng tiền. Bị vợ dè bỉu, chê bai là "ngu hèn", "vô tích sự" và công
khai ngoại tình một cách trơ trẽn. Sự nghiệp không thành, hạnh phúc rạn nứt, bi
kịch liên tiếp đến với cuộc đời Tự khiến anh không sao gượng dậy được nữa. Tự đã
phải nếm trải hết nỗi đau này đến nỗi đau khác, mà nỗi đau nào cũng động tới tận
cùng sâu thẳm trái tim anh.
Càng đi sâu vào thảm cảnh của những người trí thức như Tự, giọng điệu
thương cảm, xót xa của Ma Văn Kháng càng trở nên thống thiết hơn, da diết hơn.
Hãy xem nhà văn miêu tả chân dung thầy giáo Tự khi mọi tai hoạ ập đến khiến anh
không sao gượng dậy được nữa: "Tự nằm nghiêng, hai con mắt nhắm nghiền. Mái
tóc mềm bạc phếch ôm một khuôn mặt hóp hép như một ông già. Chân gập, hai bàn
tay gầy gùa kẹp giữa hai đầu gối nổi u. Co quắp như đứa trẻ ốm yếu trong cảnh
thiếu chăn ấm" Chứng kiến một thân hình tiều tụy của Tự, Kha - bạn Tự "Chợt quay
đi vì kinh sợ". Anh không thể tin nổi "đây là hình xác của một con người đẹp nhất
mà Kha tìm thấy ở cõi đời này?" [21,390]. Từng câu chữ , từng hình ảnh trong đoạn
văn làm tê tái những người có lương tâm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Giọng điệu xót xa, thương cảm của Ma Văn Kháng vừa thể hiện sự xót thương,
78
cảm thông, chia xẻ của những người cùng giới trí thức chân chính, vừa thể hiện
lòng xót thương vô hạn của nhà văn. Với tình yêu thương trìu mến của người cùng
giới, hay cũng chính là của nhà văn Ma Văn Kháng dành cho Tự nói riêng và những
người trí thức chân chính nói chung.
Ngược dòng nước lũ là cuốn tiểu thuyết của Ma Văn Kháng viết về cuộc sống
và số phận của Khiêm - một nhà văn tài hoa uyên bác, một nhân cách cao thượng
giầu lòng vị tha. Cũng không tránh được cái bi kịch của "kẻ sĩ" không gặp thời,
Khiêm phải gánh chịu bao nhiêu đau đớn, bất hạnh. Là "nạn nhân của thói đời đê
mạt, là cái đẹp bị vùi dập đớn đau", Khiêm đã nếm đủ mùi cơ cực. Cuộc đời Khiêm
đã phải trải qua không ít gian truân vì lòng đố kỵ. Phục viên trở về công tác tại một
trung tâm văn hoá thuộc Tổng cục T, Khiêm những tưởng cuộc sống của mình đã an
bài. Vậy mà trớ trêu thay Khiêm đã chạm trán với Phô - một kẻ trí thức "rởm" đã
từng bị anh thi hành án kỷ luật, đuổi ra khỏi trường vì nhân cách bỉ ổi. Thế là liên
minh ma quỷ đứng đầu là Phô đã lật đổ Khiêm buộc phải rời khỏi chiếc ghế chủ
nhiệm. Anh bị bôi nhọ, bị vu khống, "Lúc ấy thật đột ngột Khiêm bỗng thấy nhói
buốt ngực trái và cả vùng ngực như có một vành thép quàng vào, xiết chặt khiến
cho anh nghẹn thở, mặt tối sầm và ngục ngay xuống mặt bàn. Cơn đau ốm nấp sẵn
ở đâu đó bất thần giăng một tấm vải đen dầy úp chụp anh" [26,171] . Chưa hết, cuộc
đời vẫn chưa buông tha Khiêm, nỗi đau kéo dài, không những anh không còn vị trí
ở cơ quan, mà đến cả chốn nương thân trong gia đình cũng không có. Chứng kiến
cảnh vợ ngoại tình một cách hết sức trơ trẽn và bỉ ổi, chứng kiến sự phản bội một
cách hèn hạ, bẩn thỉu, vô liêm sỉ của những người trong cơ quan đã từng được
Khiêm cưu mang, giúp đỡ, Khiêm đã cảm nhận tận cùng của nỗi đau. Giờ đây
Khiêm "như một khúc xương khô, tay chân sờ chỉ thấy làn da mỏng nhẽo xanh nhợt
bởi các đầu mấu xương gồ ghề. Nằm dán trên gường có lúc anh không thấy mình
thở… Vẫn là cơn sốt âm ỉ. Và những cơn đau như dùi như đâm sâu hoắm ở những
điểm quanh vùng ngực, lưng, ở gần con tim đau đến nghẹn thở. Đã thế lại thêm
chứng mất ngủ liên tục. Hai mắt Khiêm cứ chong chong cả ngày lẫn tối đêm. Miệng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
anh khô ráp và đắng ngắt. Ngày gẳng gỏi lắm anh chỉ ăn được hai lưng bát cháo
79
trắng. Sức lực Khiêm hao cạn dần từng ngày như đo đếm được" [26,236].
Giọng điệu xót xa, thương cảm của nhà văn không chỉ để miêu tả, cảm thông
cho số phận bất hạnh của Tự, Khiêm hay bà cháu Duy… mà còn dùng để đặc tả nỗi
đau của những số phận bất hạnh khác. Trong Đám cưới không có giấy giá thú, bên
cạnh bi kịch của Tự là bi kịch của ông Thống. Trong Ngược dòng nước lũ cùng với
bi kịch của ông Thuần còn có bi kịch của ông Tuệ, nhà văn cách mạng hiện đang
thất thế. Đặc biệt là bi kịch của Thịnh - một bác sĩ giỏi đầy tâm huyết mà phải đem
trí tuệ đi bán xứ người, mong kiếm được đồng bạc nuôi vợ con và đã từ giã cuộc đời
nơi viễn xứ… Số phận của những con người này với hàng loạt bi kịch đã gợi lên nỗi
ám ảnh khôn nguôi trong lòng người đọc. Bằng giọng điệu xót xa, thương cảm Ma
Văn Kháng đã khắc hoạ từng nét đời rất riêng của mỗi nhân vật trên cái nền chung
nhất của bức tranh đời một thời biến động.
Trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng đã viết về số phận của những con người bất
hạnh bằng giọng điệu thương cảm, xót xa. Giọng điệu này đã góp phần làm thành
một bản hợp tấu đa giọng điệu của nhà văn, đồng thời cũng lý giải vì sao, những
tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới luôn cuốn hút độc giả. Đây là một
trong những sắc thái giọng điệu giúp người cảm nhận rõ tâm hồn và trái tim nhân
hậu, trong sáng của nhà văn.
Tác phẩm của Ma Văn Kháng có một đặc trưng nghệ thuật riêng biệt trộn lẫn
với tác phẩm của bất cứ tác giả đương thời nào. Chính sự tâm huyết và thái độ với
đời, với người của tác giả đã tạo nên bản hợp tấu đa giọng điệu trong các tác phẩm
của ông. Nghiên cứu giọng điệu trong tác phẩm của Ma Văn Kháng nói chung và
trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới nói riêng là một việc cần thiết, bởi đây là yếu tố
quan trọng làm nên sự thành công trong tác phẩm, cũng như thấy được cái nhìn tinh
vi sắc sảo của Ma Văn Kháng trước cuộc sống. Bằng cái nhìn đa diện, đa chiều,
bằng giọng điệu này, ông đã đi sâu phản ánh hiện thực muôn màu, muôn vẻ hôm
nay. Tiểu thuyết trong thời kỳ Đổi mới của Ma Văn Kháng không những đặc sắc ở
giọng điệu nghệ thuật mà còn rất đặc sắc ở nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Chúng tôi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
dành chương ba nghiên cứu vấn đề này.
80
CHƢƠNG 3
NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT CỦA MA VĂN KHÁNG
TRONG TIỂU THUYẾT THỜI KỲ ĐỔI MỚI
3.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật
Ngôn ngữ nghệ thuật là một thuật ngữ dùng để chỉ các phươg tiện được sử
dùng trong một ngành nghệ thuật, một sáng tác nghệ thuật. Chúng ta đều biết rằng,
mỗi loại hình nghệ thuật đều có một ngôn ngữ nghệ thuật làm phương tiện thể hiện
riêng. Người ta có thể nói ngôn ngữ âm nhạc, ngôn ngữ điện ảnh, ngôn ngữ ba lê,
ngôn ngữ điêu khắc…, ngôn ngữ văn học. Vậy ngôn ngữ nghệ thuật chính là "một
hệ thống các phương thức, phương tiện tạo hình, biểu hiện, hệ thống quy tắc thông
báo bằng tín hiệu thẩm mỹ của một ngành, một sáng tác nghệ thuật" [54,185].
Thực tế cho thấy mỗi loại hình nghệ thuật có một đặc điểm riêng và một
phương tiện sáng tác riêng. Nếu âm thanh là phương tiện sáng tác trong âm nhạc;
màu sắc và đường nét là phương tiện sáng tác trong hội hoạ, thì ngôn ngữ nghệ
thuật được xem là phương tiện sáng tác tác phẩm văn học. Phương tiện này có
những đặc sắc riêng. Với tài năng sáng tạo, nhà văn hướng sự chú ý cấu trúc văn
bản, tìm mọi cách cho hai mặt ngữ âm và ngữ nghĩa của ký hiệu ngôn ngữ hòa phối với
nhau cùng phát huy tác dụng đối với cấu trúc hoàn chỉnh của tác phẩm văn chương.
Nhà văn M.Gorki đã khẳng định rằng "ngôn ngữ nghệ thuật là yếu tố thứ nhất
của văn học". Nó là công cụ giúp nhà văn xây dựng hình tượng, miêu tả đời sống
con người trong tác phẩm. Ngoài ra, ngôn ngữ nghệ thuật còn là công cụ tư duy, là
phương tiện truyền đạt tư tưởng, tình cảm… của nhà văn qua mỗi hình tượng nghệ
thuật trong tác phẩm của mình. Thông qua ngôn ngữ văn học các nhà văn thể hiện
tài năng của mình. Ngôn ngữ nghệ thuật là loại ngôn ngữ đặc biệt, hoàn toàn khác
biệt với khẩu ngữ, và từ ngữ trong giao tiếp hằng ngày.
Theo Eagleton viết trong cuốn Nhập môn Lý luận văn học: "văn học là một loại
ngôn ngữ "đặc biệt", đối lập với thứ ngôn ngữ "thực dụng" chúng ta thường dùng…" [6].
Tác giả Phương Lựu cũng đã cho rằng, ngôn từ văn học "là ngôn từ của một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
tác phẩm văn học, của thế giới nghệ thuật, kết quả sáng tạo của nhà văn. Đó là ngôn
81
từ giầu tính hình tượng và giầu sức biểu hiện nhất, được tổ chức một cách đặc biệt
để phản ánh đời sống, thể hiện tư tưởng, tình cảm và tác động thẩm mỹ tới người
đọc" [54,185]. Cùng với Phương Lựu, Huỳnh Như Phương quan niệm: "ngôn từ
trong tác phẩm văn học là kiểu lời nói nghệ thuật do nhà văn sáng tạo trên cơ sở sản
phẩm ngôn ngữ của một xã hội mà ông ta đã tiếp thu được" [54,170].
Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học là một hiện tượng nghệ thuật do nghệ sĩ
sáng tạo theo quy luật chung của nghệ thuật. Văn bản nghệ thuật phải truyền đạt
một ý nghĩa mà "không một phát ngôn nào có thể thay thế được" (G.V.Xtapanôp).
Ngôn ngữ nghệ thuật có nhiệm vụ thể hiện tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm. Chức
năng quan trọng nhất của ngôn ngữ nghệ thuật là chức năng thẩm mĩ. Chức năng
này được xác định trong hệ thống các hình tượng tác phẩm và phong cách tác giả,
bởi ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện tài năng của nhà văn.
Như vậy, ngôn từ muốn được hoàn thiện thành ngôn ngữ nghệ thuật phải nhờ
khả năng lao động sáng tạo của nhà văn. Khác với ngôn ngữ toàn dân, ngôn ngữ văn
học mang một dấu ấn màu sắc riêng nếu không tạo được điều đó nhà văn sẽ bị chìm
khuất trong đám đông, trong lớp sóng xô bồ của chữ nghĩa. Ngôn từ nghệ thuật
không chỉ là những từ mang giá trị tự thân mà còn là một đơn vị lời nói mang phẩm
chất thẩm mỹ. Vì thế M.Gorki đã cho rằng: Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Nhận
thấy vai trò vô cùng quan trọng của ngôn ngữ trong tác phẩm văn học, nhà văn Nga
V.Kôrôlenkô đã tâm sự: "Tôi muốn rằng mỗi một từ, mỗi một câu phải đúng với
giọng điệu, phải đúng chỗ và trong mỗi câu, thậm chí nếu có thể được, trong câu
tách riêng ra, có thể lắng nghe thấy được tâm trạng trung tâm, nếu có thể nói như
vậy được" [dẫn theo 32,192]. Như vậy ngôn ngữ nghệ thuật có một vai trò đặc biệt
quan trọng bởi nó là yếu tố "vật chất" duy nhất của tác phẩm văn học. Qua ngôn
ngữ, người đọc khám phá thế giới hình tượng, tư tưởng, quan niệm… mà nhà văn
gửi gắm trong tác phẩm. Bên cạnh đó, ngôn ngữ nghệ thuật lại chứa đựng cả thế
giới nghệ thuật mà nhà văn sáng tạo, từ cảnh vật, con người đến cốt truyện, kết cấu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
chủ đề… Trong mối quan hệ chặt chẽ ấy, ngôn ngữ nghệ thuật trở thành phương
82
thức tồn tại, phương tiện biểu hiện nội dung, đồng thời có thể biểu hiện trực tiếp và
rõ nét phong cách, tài năng của nhà văn.
3.2. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Ma Văn Kháng
Chuyển đổi từ đề tài dân tộc miền núi sang đề tài đời sống đô thị, thành công
của tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới là một bước chuyển đổi mạnh mẽ,
bắt đầu bằng tư duy nghệ thuật. Sự chuyển hướng trong tư duy nghệ thuật tiểu
thuyết Ma Văn Kháng không chỉ dừng lại ở đề tài, thể loại, cấu trúc, điểm nhìn…
mà còn đổi mới trong việc sử dụng ngôn ngữ. Việc đổi mới tư duy nghệ thuật ấy đã
tạo nên trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng nhiều giọng điệu khác nhau. Để thể hiện
các sắc thái giọng điệu của mình, Ma Văn Kháng đã nỗ lực tìm tòi và sáng tạo một
hệ thống ngôn ngữ phong phú, đa dạng.
Cùng với sự đổi mới về cái nhìn và giọng điệu nghệ thuật, ngôn ngữ trong tiểu
thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới cũng đã có những chuyển biến tích cực góp
phần làm nên một tên tuổi Ma Văn Kháng. Nói đến nghệ thuật tiểu thuyết của Ma
Văn Kháng, chúng ta không thể không nói đến ngôn ngữ nghệ thuật - một trong
những thành tựu đặc sắc góp phần không nhỏ cho sự nghiệp đổi mới nghệ thuật tiểu
thuyết Việt Nam hiện đại. Điều đáng nói là kể từ Mưa mùa hạ trở về sau Ma Văn
Kháng đã làm nên một dấu ấn riêng khu biệt với nhiều người, một chất liệu hiện
thực kiểu Ma Văn Kháng, một cách khai thác kiểu Ma Văn Kháng, một giọng điệu
riêng và ngôn ngữ riêng của Ma Văn Kháng. Đặc biệt là ngôn ngữ, nghiên cứu về
phương diện này Giáo sư Phong Lê trong cuốn "Người trong văn" đã khẳng định:
"Nếu muốn tìm đến sự phong phú của ngôn ngữ - áp cận được vào thì hiện tại tôi
nghĩ cần đọc Ma Văn Kháng và trước đó là Tô Hoài. Đó là hai trong số ít người viết
có được cả một kho chữ thật rủng rỉnh để tiêu dùng. Và do có cả một cái kho, nên
anh là người không ưa dùng chữ mòn. Dẫu là quen hay lạ, chữ nghĩa khi đã qua tay
Ma Văn Kháng là cứ ánh chói lên cái nội lực bên trong của nó".
Quả đúng như vậy, giở những trang tiểu thuyết của Ma Văn Kháng người đọc
như được lặn ngụp, thoả thích trong dòng ngôn ngữ vô cùng phong phú mà không hề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
thấy trùng lặp. Ngôn ngữ tiểu thuyết Ma Văn Kháng không cầu kỳ, hoa mỹ, diễm lệ mà
83
là thứ ngôn ngữ ngồn ngộn chất sống dung dị đời thường. Đời thường là thế nhưng lại
luôn tươi rói sự sống, giàu tính biểu cảm giản dị mà trong sáng một cách lạ lùng.
3.2.1. Ngôn ngữ dung dị đời thường tươi rói sự sống
Đến với tiểu thuyết Ma Văn Kháng, đặc biệt là những tiểu thuyết ông sáng tác
vào những năm 80 của thế kỷ XX, người đọc như có được cơ hội chiêm ngưỡng tài
năng diễn xuất bằng ngôn ngữ của một nghệ sĩ lớn, một người nghệ sĩ có biệt tài
cùng lúc sắm vai nhiều nhân vật có tính cách và ngôn ngữ khác nhau. Ở đây, nhà
văn như nhập vai, hoá thân vào mỗi nhân vật để ông thoả mãn tung hoành trong thế
giới nội tâm vô cùng phong phú và phức tạp của từng số phận, từng kiểu loại nhân
vật trước hiện thực ngổn ngang, bộn bề của cuộc sống hôm nay.
Một điều dễ nhận thấy trong ngôn ngữ tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ
này là, ngôn ngữ sử thi, trang trọng trong những tác phẩm viết dưới cảm hứng sử thi
trước đây được thay thế bằng thứ ngôn ngữ dung dị đời thường như chính cuộc
sống vậy. Hướng ngòi bút của mình vào việc khám phá mọi mặt của cuộc sống
thường nhật ngôn ngữ mang tính sử thi giờ đây không còn phù hợp, mà thay vào đó
là ngôn ngữ đời thường. Ngôn ngữ này chính là phương tiện tốt nhất để chuyển tải
tư tưởng nghệ thuật của tác giả và đi sâu khắc hoạ tính cách, cũng như giãi bày tình
cảm của con người. Càng đi sâu khám phá hiện thực và đời sống con người, ngôn
ngữ tiểu thuyết Ma Văn Kháng càng trở nên phong phú và đa dạng.
Khai thác một cách triệt để về khả năng miêu tả và biểu hiện của ngôn ngữ
dung dị đời thường, Ma Văn Kháng đã mang đến cho người đọc một cái nhìn khá
mới mẻ và toàn diện về mọi mặt của đời sống, với đầy đủ cách sống, cách cảm,
cách nghĩ trong mỗi cá nhân con người như những gì vốn có. Nó không chỉ là sự
trong sáng tươi đẹp, giản dị mà còn cả những cái thô nhám và dung tục. Qua đó thể
hiện khát vọng được nói thật, nhìn thẳng vào sự thật của các nhà văn tiên phong
trong hàng ngũ lực lượng tiền trạm của nền văn học thời kỳ Đổi mới.
Vốn là một trong số ít nhà văn luôn có ý thức sâu sắc về vai trò quan trọng của
thành ngữ, tục ngữ dân gian trong giao tiếp, trong sáng tác của mình Ma Văn Kháng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
đã sử dụng chúng một cách đậm đặc và hiệu quả. Kết hợp thành ngữ, tục ngữ với
84
phong cách ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày vô cùng phong phú và đa dạng, hệ thống
ngôn ngữ của Ma Văn Kháng mang một sắc thái riêng.
Mỗi khi lật những trang văn của Ma Văn Kháng ta dễ nhận thấy một điều, các
nhân vật của ông từ già đến trẻ, từ những người thị dân bình thường đến các bậc trí
thức đều có khả năng sử dụng ngôn ngữ dân gian một cách nhuần nhuyễn và điêu
luyện theo cách riêng của mình. Chính điều đó làm cho hiệu quả biểu đạt của nó
được phát huy một cách tối đa, tính chất đa nghĩa của ngôn ngữ tiếng Việt càng
được thể hiện rõ rệt, và nhất là tính cách nhân vật được bộc lộ.
Để miêu tả cuộc sống một cách chân thực nhất trong tác phẩm của mình, Ma
Văn Kháng cũng đã khai thác tối đa kho tàng thành ngữ, tục ngữ của nhân dân. Đây
vốn là thứ ngôn ngữ suồng sã, thô nhám nhưng rất đỗi gần gũi thân thiết đối với
cuộc sống sinh hoạt hàng ngày mà vẫn tươi rói sự sống.
Bước đầu khảo sát, thống kê số lượt sử dụng thành ngữ, tục ngữ dân gian trong
một số tiểu thuyết tiêu biểu của Ma Văn Kháng và so sánh với một số nhà văn khác,
chúng tôi nhận thấy (xem bảng 3.1):
Thành ngữ, tục ngữ
Tác phẩm
Tác giả
Số trang
Mùa lá rụng trong vườn Ma Văn Kháng
Số lần Số lƣợng
Tỷ lệ tính trê n trang văn bản 0,20
Ma Văn Kháng
359 68 72
Đán cưới không có giấy giá thú
Côi cút giữa cảnh đời Ma Văn Kháng
397 165 179 0,45
Quê nhà
Tô Hoài
278 129 135 0,48
Thời xa vắng
Lê Lựu
290 111 131 0,45
405 20 22 0,05
Bảng 3.1. Tần số xuất hiện thành ngữ, tục ngữ trong tiểu thuyết th ời kỳ Đổi
mới của Ma Văn Kháng.
Nhìn vào bảng thống kê, chúng tôi thấy, tần số hệ thống thành ngữ, tục ngữ và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
cách nói dân gian trong sáng tác của Ma Văn Kháng xuất hiện tương đối dày đặc và
85
tăng lên không ngừng. So với nhà văn Tô Hoài tần số ấy chưa phải là cao, nhưng so
với Lê Lựu thì tần số xuất hiện hệ thống thành ngữ, tục ngữ mà Ma Văn Kháng sử
dụng nổi trội hơn hẳn. Trong khi Lê Lựu cứ 18,1 trang văn bản lại xuất hiện một
thành ngữ, tục ngữ; thì Ma Văn Kháng trung bình cứ khoảng 2,6 trang văn bản ta lại
thấy xuất hiện một thành ngữ, tục ngữ. Tuy nhiên, vấn đề chúng tôi quan tâm chưa
hẳn là tần số xuất hiện và sự gia tăng không ngừng của thành ngữ, tục ngữ. Điều
đáng chú ý là không những tần số xuất hiện thành ngữ, tục ngữ khá đậm đặc mà
những thành ngữ, tục ngữ dưới ngòi bút của Ma Văn Kháng mang một giá trị sử
dụng cao. Nó luôn là phương tiện đắc địa để nhà văn phản ánh hiện thực cuộc sống
muôn màu muôn vẻ và sự đa dạng trong tính cách con người.
Cũng như Tô Hoài, Ma Văn Kháng sử dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao và lối
nói dân gian để góp phần nâng cao chất lượng nghệ thuật cho tác phẩm, đồng thời
phản ánh bức tranh hiện thực muôn màu muôn vẻ của cuộc sống sinh hoạt, tạo ngữ
cảnh cho câu chuyện, cũng như để khắc hoạ cá tính nhân vật, nhưng cách sử dụng
của hai nhà văn lại khác nhau. Nếu Tô Hoài sử dụng một cách nhuần nhuyễn và linh
hoạt các thành ngữ, tục ngữ để miêu tả cuộc sống lam lũ, vất vả và số phận của
những người dân lao động thủ công nghèo qua "những thành ngữ có trong tiếng phổ
thông đến những thành ngữ chỉ dùng trong tiếng nói hàng ngày ở vùng Nghĩa Đô, từ
đó "tạo màu sắc bình dị, gần gũi trên từng trang sách của nhà văn" [62,160], thì Ma
Văn Kháng với cái nhìn hiện thực ở tầng sâu nhân bản, ông đã sử dụng nhiều thành
ngữ, tục ngữ để phản ánh nhiều phương diện với những gam màu tối sáng khác
nhau của con người và cuộc sống. Qua đó, người đọc thấy được hiện thực nhức nhối
trong cuộc sống đầy biến động của cơ chế thị trường hôm nay.
Trong Đám cưới không có giấy giá thú, chúng tôi thấy có 179 lượt thành ngữ,
tục ngữ được sử dụng. Tuy nhiên mức độ sử dụng ấy lại không hề gây cảm giác khó
chịu cho người đọc, ngược lại nó còn tạo nên sự cuốn hút hấp dẫn, lôi cuốn riêng.
Trên nhiều trang văn của mình, Ma Văn Kháng đã đưa hệ thống thành ngữ, tục ngữ
vào lời ăn tiếng nói của từng nhân vật để họ có thể tự giãi bày tình cảm và tâm tư
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
tình cảm của mình. Bộc lộ tâm trạng xót xa cao độ của Tự trước hiện thực khắc
86
nghiệt của cuộc sống với khát vọng anh hằng đeo đuổi tác giả viết: "Chao ôi! vào
cái thời buổi gạo châu củi quế, người người đang lao đầu quyết tử vào cuộc giành
giật danh lợi hỗn mang, ở cái gác xép chật chội… mà lại còn cao đàm khoát luận về
cái sâu xa, thâm thuý của văn chương lại còn say sưa, mày mò tìm kiếm cái gọi là
ngữ pháp nghệ thuật…" [21,7]. Chỉ trong một câu văn mà tác giả dùng tới hai thành
ngữ: gạo châu củi quế và cao đàm khoát luận. Thành ngữ gạo châu củi quế nói về
giá cả đắt đỏ qua đó thể hiện sự cảm nhận sâu sắc của Tự về cuộc sống thiếu thốn
của gia đình; thành ngữ cao đàm khoát luận để chỉ tâm hồn người thưởng thức vẻ
đẹp văn chương trong những giây phút thăng hoa.
Sử dụng thành ngữ, tục ngữ này nhà văn tiếp tục để Tự thể hiện suy nghĩ và
hoàn cảnh nghiệt ngã của bản thân: "Nhưng cái gì có thể cưỡng lại sự thắng thúc
ghê gớm của miếng cơm manh áo lúc này? Giá cả tăng như nhảy cóc. Đồng tiền
cháy vèo trên lòng bàn tay. Chẳng ngày nào Xuyến không lời ra tiếng vào". Đứng
trước muôn ngả của dòng đời xuôi ngược, trước sự phát triển phong phú phức tạp
của đời sống xã hội, con người phải đối mặt với biết bao nỗi lo lắng đời thường, nỗi
lo ấy, lúc nào cũng thường trực trong cuộc sống của họ. Trước sức ép của cuộc sống
áo cơm trước giá cả ngày một tăng cao "tăng như nhảy cóc" Tự thấy rõ sự vất vả
trong cuộc mưu sinh. Chính vì điều này, mà Xuyến - vợ Tự suốt ngày cằn nhằn, chì
chiết, đay nghiến "lời ra tiếng vào " với Tự. Nhưng không vì thế mà anh tỏ ra bất
bình, rồi buông ra những lời lẽ thô lỗ, tục tằn. Mà trái lại, anh vẫn đức độ, vẫn nhẹ
nhàng, hiểu và cảm thông những khó khăn của vợ. Có thể nói, bằng việc sử dụng
thành ngữ, tục ngữ phù hợp với văn cảnh nhà văn đã phản ánh bức tranh hiện thực
của cuộc sống một cách nhẹ nhàng mà sâu sắc đồng thời qua đó tính cách của nhân
vật được bộc lộ rõ.
Không chỉ sử dụng thành ngữ, tục ngữ để phản ánh cuộc sống ngày một khó
khăn vật chất, không chỉ sử dụng thành ngữ để bộc lộ tâm trạng và sự bất lực của
nhân vật hiện thực, tác giả còn dùng ngôn ngữ này đề khắc hoạ tính cách nhân vật
một cách hiệu quả. Có thể nói trong quá trình xây dựng nhân vật, nhà văn đã sử
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
dụng nó như một trong những thủ pháp đắc địa nhất.
87
Lý (Mùa lá rụng trong vườn) vốn là một phụ nữ thành thị, xuất thân từ một cô
gái thôn quê nghèo, ít học nhưng lại sắc sảo và nhanh nhạy bén với thời cuộc.
Người phụ nữ ấy "cứ như từ cuộc đời bước vào trang sách và từ trong trang sách
bước ra thế giới". Để khắc hoạ nhân vật này, nhà văn đã cho nhân vật sử dụng khá
đậm đặc thành ngữ, tục ngữ và lời nói thông tục. Hơn nữa với mỗi đối tượng, Lý lại
sử dụng thành ngữ, tục ngữ một cách linh hoạt và uyển chuyển. Khi nói chuyện với
chồng - thiếu tá Đông trong ngày tết, Lý xới xới, bốp chát: "Quý hoá chưa kìa! Ngủ
như hổ ngủ... Năm hết tết đến rồi không dậy nhúc nhắc chân tay một tý, còn định
nằm ăn vạ đến bao giờ? Rõ thật hết ngày dài lại đến đêm thâu" [22,17]. Khi nói
chuyện giá cả chợ búa với Phượng, ngôn ngữ chợ búa cũng được chị sử dụng rất tự
nhiên: "Năm ngàn rưỡi, giá hữu nghị đấy. Nó hò một câu, mình hét một tiếng"; "Cô
gói bánh hộ lão cột nhà cháy đấy à"; "Thế là đi đời nhà ma cả bộ comple giờ phải
đến ngàn bạc. Ông Đông thì cứ như ngậm hột thị"; "Rõ đau đẻ còn chờ sáng trăng";
Chị em chúng tôi đang bận, sẽ quyết định ăn chơi xả láng, ông có chịu không? Còn
cười, cười cái lão rậm râu sâu mắt"…
Còn khi cong cớn với Luận thì ngôn ngữ của Lý đúng là ngôn ngữ của kẻ vô
học, vô văn hoá: "Vểnh tai mà nghe cho rõ nhé. Tiên trách kỷ, hậu trách nhân. Anh
có biết rằng, con vợ anh nó có được chỗ chui ra chui vào là nhờ cái con quỷ sa tăng
nào không? Và vợ anh cùng với anh đã ăn cháo đá bát như thế nào không? Định
mồi chài ai?... Đừng nên có cơm lại muốn ăn quà nhé! Đừng khỏi vòng cong đuôi
nhé!… Bỏ tao ra!... Đồ chó ghẻ có mỡ đằng đuôi"… [22,255-256].
Có thể thấy, ngôn ngữ của Lý không phải là thứ ngôn ngữ quan phương mà là
thứ ngôn ngữ phồn tạp, thô ráp trong cuộc sống sinh hoạt đời thường vô cùng sặc sỡ
sắc màu và đầy góc cạnh. Với cách sử dụng ngôn ngữ này, tính cách của Lý đã
được bộc lộ rõ nét.
Với kẻ ít học, thực dụng trắng trợn bỉ bai chồng - nhà giáo nghèo, như Xuyến
trong Đám cưới không có giấy giá thú nhà văn tiếp tục sử dụng thành ngữ, tục ngữ
để khắc hoạ nhân vật và bộc lộ bản chất của nhân vật. Hãy nghe Xuyến đay nghiến,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
mỉa mai chồng: "Người ta khôn cậy khéo nhờ. Mình thì cứt nát còn đòi có chóp.
88
Đói dài đói rạc lại còn xe với pháo" [21,78]. Có thể thấy Ma Văn Kháng đã rất chủ
động lựa chọn thành ngữ, tục ngữ phù hợp cho từng nhân vật của mình. Để bộc lộ
sự vô học, kém hiểu biết của Xuyến tác giả dùng thành ngữ cứt nát còn đòi có chóp,
ngoài ra, thông qua những thành ngữ, tục ngữ, Xuyến đã hiện lên một cách đầy đủ
và rõ ràng là một con người xấu xa, thô lỗ. Chị chê bai, dè bỉu, khinh miệt, coi
thường chồng, thành ngữ khôn cậy khéo nhờ, đói dài đói rạc một phần nào đó đã
thể hiện được tính cách của cô ta.
Khác với Xuyến, nhân vật bà Xuất trong tác phẩm Quê nhà của nhà văn Tô
Hoài cũng vào tình cảnh éo le - chồng, con chết trận, một mình đứng mũi chịu sào
đảm đang công việc nuôi con, nuôi cháu, tiếp tục sự nghiệp của chồng con để lại.
Bà không khỏi lo lắng, trăn trở. Dưới đây là lời tâm sự của bà với ông Tư: "Tôi bây
giờ ngổn ngang quá ông ạ. Bố con ông nó thế là đi việc nước cả rồi. Trong nhà chỉ
còn lại hai mẹ con với thím nó và một lũ cháu dại, có nhớn chưa có khôn. Nhà thì
vừa việc ruộng vườn, vừa canh cửi, đằng nào cũng phải có người chạy chợ, người
hồ cháo. Việc trong nhà không như việc đồng còn mùa bận mùa nhàn, lúc nào cũng
tối mặt tối ngày. Từ khi thằng cả nó đi việc nước với bố nó, khung cửi đành để
trống đấy. Buổi đực buổi cái, nhà đã neo lại càng neo. Mà trời còn tao loạn thế
này…". Đoạn văn có 8 câu mà tác giả sử dụng 5 thành ngữ. Mỗi thành ngữ, thể hiện
nỗi lo lắng, trăn trở của bà Xuất trước bao công việc ngổn ngang bộn bề, qua đó độc
giả thấy được bản chất nhân hậu của người phụ nữ Việt Nam.
Trở lại với nhân vật Xuyến trong Đám cưới không có giấy giá thú, trước cuộc
sống khó khăn chị đã không tránh khỏi sự cám dỗ của vật chất. Chính vì thế mà chị
đã phá tan mái ấm gia đình. Đã thế khi phản bội chồng, chị còn la ối, quát tháo và
nói những lời lẽ thật thô thiển, trắng trợn của kẻ vô học, vô giáo dục. "Im đi để ông
vu vạ tôi, hả! Sao cái thân tôi khốn khổ khốn nạn thế này! Một thân tôi lo toan gánh
vác. Một thân tôi đầu tắt mặt tối để cái quân ăn cháo đá bát nó chửi rủa, móc máy
tha hồ. Này, tôi truyền đời báo danh cho ông biết từ nay ông đi đâu thì cứ đi! Của
anh anh mang. Của nàng nàng xách. Ông đừng bén mảng đến cái nhà này nữa" [21,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
296]. Mỗi thành ngữ trong đoạn văn đó đều rất quen thuộc, nhưng chỉ thích hợp cho
89
những loại người xỉa xói, móc máy, đanh đá, chua ngoa. Từng lời Xuyến nói ra như
muốn nuốt chửng Tự, cô ta đay nghiến, chì chiết chồng không tiếc lời. Từ những lời
nói ấy Xuyến hiện nguyên hình là một người đàn bà thực dụng, lăng loàn vô lối. Đó
quả thật là một sự tha hoá rất đáng buồn.
Trong Chó Bi - đời lưu lạc ở một cuộc đối thoại với ông Mệnh, chỉ một câu
đối đáp phóng viên Đạt đã vận dụng triệt để vai trò của thành ngữ, tục ngữ: "Tôi thì
tôi lại quý chó ta. Nó là con chó đẹp, con chó khôn, con chó hiếm, con chó thảo .
Con chó đã đi vào đời sống người mình. In dấu vào cả văn chương trở thành ẩn dụ,
kinh nghiệm của bao kinh nghiệm nhân sinh: Chó đâu chó có sủa không. Chẳng
thằng ăn trộm cũng ông ăn mày. Chó chê nhà giột ra nằm bụi tre. Chó quê đòi ăn
mắm mực. Chó ngáp phải ruồi. Chó cậy gần nhà. Chó cùng cắn dậu. Chó già giữ
xương, hoặc Làm người thì khó, làm chó thì dễ. Chó dại theo mùa, người dại quanh
năm. Chó gặm xương chó!" [24,384]. Cách ứng đối như vậy của phóng viên Đạt đã
giúp anh tạo ra một trò chơi tâm lý, một bài toán thử để dò la tính cách và phẩm giá
của người đối diện một cách khéo léo tế nhị.
Có thể thấy Ma Văn Kháng đã rất thành công trong việc sử dụng thành ngữ,
tục ngữ một cách khéo léo, linh hoạt, luôn phù hợp với từng ngữ cảnh, với từng
nhân vật, góp phần khắc hoạ tính cách, bản chất nhân vật.
Đến với tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời, nhân vật gây ấn tượng và giàu sức
sống nhất là nhân vật bà Lãng. Nhân vật bà Lãng có sức sống mạnh mẽ trong lòng
người đọc ngoài phẩm chất kiên cường, lòng nhân hậu bao dung của bà còn là cách
nói sắc sảo với việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ đậm đặc. Được ví như một bà tiên
trong truyện cổ tích, nhân vật này được thể hiện trên từng trang văn của Ma Văn
Kháng qua một hệ thống ngôn ngữ rất đỗi quen thuộc, gần gũi và mang đậm màu
sắc đời thường mà không kém phần sắc sảo của một con người thấu hiểu lẽ đời. Khi
đối thoại với ông Luông - Chủ tịch phường một con người nham hiểm, tàn nhẫn, bà
cụ đã thể hiện được một cách khéo léo dứt khoát khiến cho kẻ chủ động câu chuyện,
cuối cùng lại là người rơi vào cảnh thất bại với ý định xấu xa của hắn: "Ông Luông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
ạ! Phải duyên thì dính như keo. Trái duyên đểnh đoảng như kèo đục vênh; ông ạ…
90
không thì thiên hạ người ta bảo là thói đời giậu đổ bìm leo". Hoặc "Trình ông trẻ thì
bé dại ngây thơ, già thì lẫn lộn biết ngày nào khôn. Ông nói vậy thì bây giờ tôi mới
biết. Tôi cũng không ngờ thằng gián điệp nó biết cái câu tốt lễ dễ van…". Với ngôn
ngữ ấy, bà đã làm cho ông Chủ tịch phường, người có kinh nghiệm và thâm niên
trong ngành ngoại giao phải lúng túng. Khi đối đáp với Hứng - tay chân của ông
Luông, kẻ rắp tâm đến chiếm nhà của bà, ngôn ngữ ấy lại thể hiện được cái sắc sảo,
đáo để nhưng vẫn rất thấu tình hợp lý: "… Nhưng mà dò sông, dò biển dò nguồn.
Biết sao được bụng lái buôn mà dò; Thì đêm rủ rỉ, rù rì, tiếng nặng bằng bấc, tiếng
chì bằng bông; Nghĩa là chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi!...".
Sử dụng thành ngữ, tục ngữ, một cách khéo léo tự nhiên, bà Lãng đã ngang
nhiên chỉ mặt đặt tên mọi thủ đoạn hèn hạ và bất lương của những kẻ chức quyền
mà lòng lang dạ thú.
Với cái nhìn đa diện, đa chiều sâu sắc, bằng việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ
một cách điêu luyện để phản ánh hiện thực và xây dựng hình tượng nhân vật, Ma
Văn Kháng đã đưa sự sống vào văn chương, thể hiện mối quan hệ máu thịt giữa văn
chương với cuộc đời. Điều đó khiến cho người đọc có cảm giác Ma Văn Kháng
không chỉ gần gũi người dân trong ngôn ngữ mà gần gũi họ trong cả nếp nghĩ và
đời sống tâm tư tình cảm.
Không những Ma Văn Kháng sử dụng đậm đặc thành ngữ, tục ngữ trong tiểu
thuyết thời kỳ Đổi mới, mà nhà văn còn sử dụng rất hiệu quả từ ngữ thông tục trong
sáng tác của mình. Rất dễ dàng nhận thấy trong tiểu thuyết của nhà văn một hệ
thống từ ngữ thông tục xuất hiện, nó tạo nên giá trị mới trong tác phẩm của ông.
Trong cuốn 99 phương tiện và biện pháp tu từ Tiếng Việt, Giáo sư Đinh Trọng
Lạc quan niệm rằng: "Từ thông tục là những từ chỉ được dùng trong lời nói miệng
thoải mái, thậm chí còn thô lỗ tục tằn". Như vậy, từ thông tục có thể được hiểu ở hai
cấp độ; cấp độ thứ nhất là những từ sử dụng thông thường mà quần chúng dễ hiểu,
dễ tiếp thu; cấp độ thứ hai là những từ thô lỗ tục tằn chỉ trong lời nói miệng thoải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
mái. Cả hai cấp độ này đều được xuất hiện trong môi trường giao tiếp sinh hoạt
91
hằng ngày. Khảo sát hệ thống từ ngữ thông tục trong một số tiểu thuyết thời kỳ Đổi
mới của Ma Văn Kháng và một số tác giả khác chúng tôi thấy (xem bảng 3.2):
Từ ngữ thông tục
Tác phẩm
Tác giả
Số trang
Số lần
Số lƣợng
Mùa lá rụng trong vườn Ma Văn Kháng
Tỷ lệ tính trê n trang văn bản 0,50
Đán cưới không có
Ma Văn Kháng
359 155 180
giấy giá thú
Côi cút giữa cảnh đời Ma Văn Kháng
397 198 209 0,53
Quê nhà
Tô Hoài
278 149 160 0,57
Thời xa vắng
Lê Lựu
290 96 112 0,39
405 87 98 0,24
Bảng 3.2: Từ ngữ thông tục trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của Ma
Văn Kháng.
Hệ thống từ thông tục được khá nhiều các nhà văn hiện thực làm phương tiện
sáng tạo nghệ thuật, Ma Văn Kháng cũng không nằm ngoài quy luật đó. Ngay từ
những tác phẩm đầu tay Ma Văn Kháng đã sử dụng một cách có hiệu quả vốn từ
ngữ thông tục của mình. Bởi thế, hệ thống từ ngữ thông tục đã được Ma Văn Kháng
sử dụng một cách thường xuyên và có nét sáng tạo độc đáo.
Nhìn vào bảng khảo sát chúng tôi nhận thấy, sự xuất hiện từ thông tục trong
sáng tác của Ma Văn Kháng chiếm một tỷ lệ cao (so với các tác giả mà chúng tôi so
sánh). Tác phẩm Thời xa vắng của Lê Lựu chúng tôi thấy cứ 4,1 trang văn bản mới
xuất hiện một từ thông tục. Trong cuốn Phong cách nghệ thuật Tô Hoài, Tiến sĩ
Mai Thị Nhung đã thống kê, khảo sát về từ ngữ thông tục của nhà văn Tô Hoài và
một số tác phẩm của một số nhà văn khác và có kết quả như sau; Nếu ở Ngô Tất Tố
cứ 6,2 trang văn bản mới xuất hiện một từ ngữ thông tục; Nam Cao 3,3 trang văn
bản mới xuất hiện một từ ngữ thông tục; Tô Hoài có tần số xuất hiện cao hơn cả
khoảng 2 trang văn bản có một từ ngữ thông tục, thì Ma Văn Kháng chúng tôi nhận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
thấy cứ trung bình 1,9 trang văn bản lại xuất hiện một từ thông tục. Như vậy, ta thấy
92
Ma Văn Kháng và Tô Hoài là hai nhà văn sử dụng từ thông tục với mật độ tương
đối dày đặc. Đúng như nhận xét của Giáo sư Phong Lê: "… Nếu muốn tìm đến sự
phong phú của ngôn ngữ - áp cận được vào thì hiện tại tôi nghĩ cần đọc Ma Văn
Kháng và trước đó là Tô Hoài…".
Cũng giống như Tô Hoài, Ma Văn Kháng đã sử dụng những từ ngữ thông tục
một cách sáng tạo để tạo sự gần gũi, thân mật cũng như để tạo ấn tượng khó quên
trong lòng người đọc về bức tranh hiện thực muôn màu, muôn vẻ. Nhưng có một
điều khác biệt dễ nhận thấy giữa Ma Văn Kháng và một số nhà văn khác (đặc biệt
là Tô Hoài), là càng những tác phẩm sáng tác sau thì tần số xuất hiện những từ ngữ
thông tục càng đậm đặc. Những từ thô lỗ, tục tằn quen dùng trong lớp ngôn ngữ gọi
là kém văn hoá hay còn gọi là từ ngữ thô tục được nhà văn sử dụng để phản ánh
hiện thực một cách sống động nhất.
Trước hết, đó là thứ ngôn ngữ sặc mùi chợ búa, "phe phẩy" của một lớp thị dân
mới đang tồn thờ chủ nghĩa đồng tiền coi vật chất là trên hết. Đó là ngôn ngữ của
Xuyến trong Đám cưới không có giấy giá thú. Hãy nghe những lời Xuyến nói với
Tự - người chồng đã có lúc cô từng tôn thờ: "Không về thì lấy gì đổ vào mồm. Rõ
chết đến đít mà còn sĩ. Thanh với chả bạch. Ông thích ôm cái nghèo đói thì cứ việc"
[21,24]. Hoặc "Tiên nhân nhà nó chứ. Ra cái thời buổi này đứa nào có Xípvôtơ là
đứa đấy tha hồ ăn cướp điện của người khác. Hoạt, mày có dựng cái xe thổ tả này ở
ngoài hiên không tao đập gãy cha nó ra cho biết tay bây giờ. Người ta thì khôn cậy,
khéo nhờ. Mình thì… rõ cứt nát còn đòi có chóp. Đói rài đói rạc lại còn xe với
pháo…" [21,78]. Xuyến đã sử dụng ngôn ngữ của "kẻ chợ búa" để chì chiết và đay
đả chồng con không tiếc lời, chính vì vậy Tự cảm thấy đau đớn hơn bao giờ hết.
Không chỉ với chồng với đứa con dứt ruột đẻ ra Xuyến cũng không một chút tình
nghĩa. Hãy nghe lời nói của Xuyến với con gái mình:
"… Nhà này như có kẻ ăn trộm. Mày đi đâu về, hả con ranh?
- Con đi học thêm ạ.
- Học thêm cái mả mẹ mày. Tao đã khoá cái hòm gạo hôm kia rồi mà. Cứ rủ rê
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
bố mẹ mày vào chơi cho lắm vào, rồi dã họng con ạ" [21,10]. Không ai có thể ngờ
93
đây là lời của một người mẹ - tấm gương cho con cái mình học tập noi theo.
Khi lao vào con đường làm ăn, Xuyến không còn giữ chút nhân cách, từ lời ăn
tiếng nói đến những mối quan hệ. Chị quan hệ với đủ loại người, mà chủ yếu là loại
vô học, vô giáo dục. Đây là cuộc chuyện trò tại nhà của Xuyến của đủ loại người
trong một Hội bát họ.
"… Cái gác quý nhẩy!
(…)
- Gớm toàn sách là sách.
- Chuyện, ông giáo không có sách thì lấy cứt mà dạy à.
- Kín đáo nhỉ! Bồ bịch mà kéo nhau lên đấy hú hí thì còn gì bằng!
- Cho bà thuê đấy!
- Dễ tao sợ! Đã chơi thì gầm cầu, nhà xí tao cũng đ. sợ…" [21,275].
Chưa hết chúng còn bày tỏ quan niệm sống một cách thật trắng trợn, bỉ ổi. Với
chúng có tiền là có tất cả, đồng tiền là mục đích sống, là hạnh phúc của chúng:
"… Ăn nhau là ở chỗ dầm vốn, cô Xuyến ạ!
- Thời buổi này có tiền là có tất cả.
- Thì vưỡn là vậy. Kim ngần còn phá cả luật lệ nữa cơ. Tư bản, cộng sản, anh
chó nào chả thích tiền!
- Có tiền khắc có bướm
- Tiền và bướm, bà ạ.
- Hí hí!... thật thế…" [21,277]
Đó là thứ ngôn ngữ chợ búa, vô văn hoá của lớp người thị dân tầm thường.
Với một con người có nhân cách, có văn hoá như Tự, thì những lời nói đó không
thể chấp nhận được.
Cùng chung với số phận của Tự còn có Khiêm (Ngược dòng nước lũ). Trong
lúc đang ốm đau phải nằm liệt gường, mơ màng trong cơn mê tỉnh, Khiêm cũng
phải choàng thức khi nghe tiếng Thoa - vợ anh trò chuyện với những kẻ đồng hành.
"... Thấp cơ thua trí đàn bà hết! Chúng mày có thấy cái thằng mặt lờ nó ngay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
ra khi mẹ mày đưa phong bì xịn ra không?
94
- Chịu chị cả rồi!
- Thằng đ. nào mà chả thế. Được cái lờ xỏ, bỏ cái lờ chui là một. Thấy cái mặt
lờ bẩy vía mất cả bẩy là hai. Từ chóp bu tới thằng xế lô, thằng nào cũng vậy. Chính
vì thế nên con giám đốc xí nghiệp cũ của tao mới đem cái mẹt của nó lên được chức
Cục, chức hòn chứ!". Đọc những trang văn như thế, người đọc thấy ngôn ngữ thời
đại này quả đúng "sắc lạnh, thô bạo, y như người". Không biết còn bao nhiêu kẻ có
đầu óc tư duy giản đơn, kém phát triển, ham hố quyền lực danh vọng, bạc tiền, nhục
dục như Thoa, Xuyến?… Họ nói năng, chửi bới, đi lại ồn ã trên trang sách, giữa
cuộc đời, trong cơ quan, trường học, thậm chí ở ngay trong chính gia đình nơi được
coi là tổ ấm bình yên giữa cuộc đời ồn ã hôm nay.
Trước sự chi phối mạnh mẽ của đồng tiền, giờ đây mối quan hệ giữa con người
với con người đang có nguy cơ bị rạn nứt. Chỉ vì của cải mà con cái chửi bới mẹ,
chị em rủa xả lẫn nhau. Cảnh tượng của gia đình chị em Vàng Anh và Vành Khuyên
(Côi cút giữa cảnh đời) đã phơi bày được tất cả sự thật về các mối quan hệ bất ổn
đó. Hãy nghe ngôn ngữ của những kẻ coi đồng tiền là tất cả:
"... Chúng bay giết tao đi! Giời ơi là giời ơi! Giàu có làm gì cho nó khổ thế
này, ông Đại ơi là ông Đại ơi!
Rồi tiếng Vàng Anh rít.
- Câm mẹ mồm đi. Việc gì đến bà nào. Bà là cái đinh gỉ gì trong nhà này nào.
Nó có tội, tôi phải xử nó.
- Tao đ. có tội với đứa nào hết!
- Đ. có tội hả? Cái cát xét đâu? Mày đưa cho thằng ma cô nào rồi, hở con đĩ dại?
- Này, chị không có quyền hỏi cái cát xét ấy nhé. Của chị hả?
- Của tao! của tao.
- Đ. phải của chị.
- Ối giời ơi, nó ăn cướp của tôi. Tôi đi vắng, nó mở khoá lẻn vào buồng tôi,
xách cái cát xét đi cho thằng nhân tình!
- Mày câm ngay!
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Tao đ. câm. Bêu bêu... thằng nhân tình vẩu.
95
- Tao phải giết mày! rồi tao đốt cả cái nhà này! Cho tất cả của cải ra tro
bụi hết." [23,202]
Đồng tiền đã biến chị em Vàng Anh, Vành Khuyên thành những đứa trẻ vô
giáo dục, thành những đứa con bất hiếu, phá hoại đến tan cửa nát nhà. Mối quan hệ
trong gia đình khi những đứa con bất hiếu không còn coi trọng đạo ý thông thường
ngày càng bị rạn nứt.
Trong quá trình xây dựng nhân vật Hứng (Côi cút giữa cảnh đời) - trưởng
phòng hành chính tại xí nghiệp B - nơi cô con dâu của bà cụ Lãng từng làm việc,
Ma Văn Kháng không quên trang bị cho hắn một phong cách ngôn ngữ khá đặc
trưng. Với lối ăn nói "bặm trợn", ngôn ngữ thô tục hoàn toàn lột tả bản chất của một
tên lưu manh như hắn. Ví như khi rắp tâm đến chiếm đoạt nhà ở của ba bà cháu
Duy, hắn buông lời khen người già: "Phải nói là vô cùng khôn ngoan, khôn ngoan
thật! Thật đúng là lão bang sinh châu, trai già có ngọc"; khi quát nạt bọn trẻ: "Mụ
già đâu? mẹ kiếp! dòng giống nhà này là cứng cổ lắm"; trước tiếng khóc của trẻ thơ
thì hắn sẵn sàng văng tục: "Thông cảm cái cục cứt ấy. Đúng là giống đốn mạt, đục
từ đầu sông đục xuống"… "Câm mẹ mồm đi!... ". Thực tế ta thấy, Ma Văn Kháng
không cần phải miêu tả chi tiết, tỉ mỉ, cụ thể về nhân vật này, mà chỉ qua lời ăn
tiếng nói người đã đọc nhìn thấu không những về ngoại hình mà còn thấy rõ bản
chất lưu manh côn đồ của chúng.
Đối với những nhân vật trí thức "rởm", trí thức lưu manh, Ma Văn Kháng đã
cho họ sử dụng loại ngôn ngữ đặc thù - đó là lớp ngôn ngữ rất đời thường với hàng
loạt khẩu ngữ, kết hợp lối so sánh ví von thô thiển, tục tằn chuyên dùng cho bọn lưu
manh, vô văn hoá, du thủ du thực, cặn bã của xã hội. Lớp ngôn ngữ ấy giờ đây lại
được đặt vào miệng lưỡi của những kẻ quyền cao chức trọng rất phù hợp với bản
chất hèn hạ, ti tiện, vô văn hoá của lũ người này.
Nhân vật Quan lớn Lại (Đám cưới không có giấy giá thú) là một trong số loại
người ấy. Nằm trong giới lãnh đạo cấp cao, đại diện cho dân, cho Đảng nhưng lại
vô liêm sỉ và ngu dốt vô cùng. Đứng trước hơn hai nghìn học sinh, đại biểu có, nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
dân và các thầy cô giáo trong trường cũng có, trong ngày khai giảng - ngày mở đầu
96
cho tiến trình văn hoá mới ở một vùng quê hẻo lánh vậy mà ông ta lại lấy cương vị
của cấp trên để đe doạ: "Và hãy liệu hồn chớ có nhi nhoe, cậy dăn ba cái kiến thức
để vênh váo; trí thức không bằng một cục cứt chó khô đâu, các người hãy nhớ lấy!"
[21,102-103].
Thế rồi ông ta còn trơ trẽn kể lại "chiến công hiển hách" của mình trong Hội
nghị Quan Dân chính Đảng: "Tôi dẫn một tiểu đội xông vào dinh thằng tỉnh trưởng.
Cửa đóng. Tôi đạp một phát nhảy vào. Bàn giấy nó còn tung toé giấy tờ, tài liệu.
Khoái quá! Đã bao giờ được vào đến đây. Vinh hoa lúc phong trần. Tôi liền vạch
chim tương luôn một bãi trên mặt bàn giấy của nó. Cho nó sướng!" [24,102]. Thật
như một kẻ vô học, vô văn hoá. Ông Quan lớn Lại hiện ra trước mắt người đọc là
một con người như thế!
Cùng nằm trong hệ thống những kẻ cầm quyền ngu dốt ấy, Cẩm, Dương trong
Đám cưới không có giấy giá thú cũng được Ma Văn Kháng cho sử dụng một lớp
ngôn ngữ đời thường - những từ ngữ thô tục. Với những từ ngữ này đôi khi chỉ một
câu nói, mà có sức lột tả bản chất một cách rõ ràng, cụ thể. Trong bất cứ hoàn cảnh
nào Cẩm cũng nói: "Như thế là rất tốt", mà đằng sau cái "rất tốt" là sự dốt nát và bỉ
tiện. Khi ông Thống xuất huyết não, nằm ở bệnh viện chưa biết sống chết thế nào,
Cẩm vẫn điềm nhiên báo cáo trước hội đồng giáo viên trong trường: "Tình hình
chữa bệnh cho ông Thống như thế là rất tốt". Cho dù ông ta biết rõ sự nguy hiểm về
tính mạng còn đang chờ đợi ông Thống. Đối với những người có một trái tim nhân
hậu thì xót thương cho ông nhưng với Cẩm việc ông Thống bị xuất huyết não và
cấm khẩu lại là một tin vô cùng vui, vì việc làm bỉ ổi của hắn giờ đây được chôn vùi
mãi mãi. Với nhân cách và việc làm như thế, ông Cẩm luôn bị mọi người trong
trường khinh bỉ, coi thường. Trong một lần xô xát với Thuật giáo viên dạy Toán,
bản chất ấy một lần nữa lại được hiện lên một cách rõ rệt thông qua những từ ngữ
của chính ông ta.
"… Đồ chó! đồ khốn!
- Mày bảo ai là đồ chó, hở thằng mõ?
- Mày! Mày là đồ chó! Đồ chó đểu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
(…)
97
- Cẩm! Cẩm! Thằng mõ! Mày dám hành hung ông hả! Mày chết với ông! ối
anh em ơi! Bắt hộ tôi thằng mõ kia với!" [21,261].
Bằng cách tận dụng hiệu quả sự biểu đạt của lớp từ ngữ này, Ma Văn Kháng
vừa lột tả bản chất của nhân vật, vừa bày tỏ thái độ của mình trước những con người
đội lốt trí thức mà ngu dốt, bỉ tiện. Thái độ đó không chỉ là biểu hiện của tư tưởng
bình đẳng, tiến bộ, dám nhìn thẳng vào hiện thực nói rõ hiện thực một cách chân
thực và sinh động, mà còn thể hịên cao độ tính chiến đấu trong ngòi bút của Ma
Văn Kháng trước những xấu xa, ti tiện trong xã hội. Bên cạnh đó nó còn chứng tỏ
tài năng, tinh thần dũng cảm và trách nhiệm của Ma Văn Kháng trước cuộc đời.
Như vậy, chính việc sử dụng ngôn ngữ dung dị đời thường mà tươi rói sự sống
trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của mình, Ma Văn Kháng đã phản ánh muôn mặt
của cuộc sống lên trang sách. Nhà văn không né tránh những điều còn nhức trong
cuộc sống hôm nay. Qua đó làm nên sự đa dạng, phong phú trong nhiều phương diện
nghệ thuật, đặc biệt là sự đa dạng nhiều màu sắc cho ngôn ngữ tiểu thuyết của mình.
3.2.2. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm giản dị mà trong sáng
Như chúng ta đã biết, văn học vốn là nghệ thuật của ngôn từ. Ngôn ngữ văn
học không chỉ giúp nhà văn xây dựng xây dựng hình tượng, miêu tả đời sống và con
người mà còn là công cụ của tư duy, là phương tiện truyền đạt tư tưởng tình cảm
của nhà văn.
Tìm hiểu, nghiên cứu tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới chúng
tôi thấy, bên cạnh việc tận dụng triệt để vai trò và tác dụng của ngôn ngữ dung
dị, đời thường, Ma Văn Kháng còn sử dụng một hệ thống ngôn ngữ giàu tính
biểu cảm giản dị mà trong sáng vô ngần. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, giản dị
mà trong sáng trong tác phẩm của Ma Văn Kháng trước hết được biểu hiện ở
việc xuất hiện hàng loạt những từ ngữ lạ và khả năng làm mới chữ tiếng Việt.
Điều mà cho đến nay, dường như ít có nhà văn nào có được hoặc nếu có thì cũng
chỉ là một vài trường hợp nhỏ lẻ và ít ỏi, chứ chưa thể dày dặn và nhuận nhị, đạt
trình độ nghệ thuật cao như Ma Văn Kháng .
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Bằng cách cô đúc rút gọn, hoặc có khi là đảo đổi vị trí các từ tố mà trong
98
tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ này, nhiều từ ngữ vốn đã quen thuộc,
thậm chí còn cũ kỹ, nhưng qua bàn tay của người nghệ sĩ tài năng này từ ngữ đó
lại trở nên mới mẻ, vừa có sức hấp dẫn ấn tượng vừa tạo ra những nét đặc sắc và
giàu tính sáng tạo và biểu cảm cao. Điều này góp phần khẳng định tài năng nghệ
thuật và sự giàu có về ngôn ngữ của Ma Văn Kháng trong đổi mới tư duy nghệ
thuật tiểu thuyết.
Ma Văn Kháng vốn là một trong số ít tác giả không ưa dùng chữ mòn, bởi
vậy, từ ngữ khi qua tay ông, dẫu quen hay lạ vẫn cứ "ánh chói lên cái nội lực bên
trong của nó".
Đúng vậy, đến với tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, người đọc như lạc vào
vườn hoa ngôn ngữ đa hương sắc, được lặn ngụp thoả thích và không khỏi không
sửng sốt, ngỡ ngàng trước thế giới ngôn ngữ vô cùng phong phú, mới lạ, vừa
dung dị, vừa rạng rỡ, long lanh. Có lẽ, với Ma Văn Kháng, việc giữ gìn sự trong
sáng và làm giàu thêm cho tiếng Việt là một việc làm vô cùng cần thiết và
thường xuyên. Vì thế, hầu hết sáng tác của Ma Văn Kháng, người đọc dễ dàng
nhận thấy số lượng từ ngữ lạ và những từ ngữ thông dụng được làm mới không
ngừng tăng lên. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi khảo sát một số tác phẩm
tiêu biểu của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới và nhận thấy (xem bảng 3.3):
Từ lạ
Ma Văn Kháng
Tác phẩm Tác giả Số trang Số lần Số lƣợng Tỷ lệ tính trên trang văn bản
Mùa lá rụng trong vườn
Ma Văn Kháng
359 99 106 0,29
Đán cưới không có giấy giá thú
Côi cút giữa cảnh đời Ma Văn Kháng
397 108 125 0,31
Ngược dòng nước lũ Ma Văn Kháng
278 79 82 0,29
Thời xa vắng
Lê Lựu
497 139 162 0,32
405 17 17 0,04
Bảng 3.3. Ngôn ngữ lạ trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của Ma Văn Kháng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
99
Nhìn vào bảng khảo sát chúng tôi thấy, cứ trung bình khoảng 3,2 trang văn bản
lại thấy xuất hiện một từ lạ. Ở đây chúng tôi khảo sát bốn cuốn tiểu thuyết tiêu biểu:
Mùa lá rụng trong vườn - 1985; Đám cưới không có giấy giá thú - 1989; Côi cút
giữa cảnh đời - 1989; Ngược dòng nước lũ - 1999 và nhận thấy tỷ lệ tính trên trang
văn bản ở tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn là 0,29; ở Đám cưới không có giấy
giá thú là 0,31; ở Côi cút giữa cảnh đời là 0,29; ở Ngược dòng nước lũ là 0,32. Như
vậy, càng trong những sáng tác về sau tần số xuất hiện của lớp từ ngữ này càng
không ngừng tăng lên. Sự xuất hiện và không ngừng tăng lên của từ ngữ lạ và
những từ ngữ thông dụng được làm mới, điều này chứng tỏ đây không phải là sự
ngẫu hứng, tuỳ tiện, mà nó là một sự ý thức lớn trong quá trình sáng tạo nghệ thuật
của nhà văn. Đồng thời, nó cũng góp phần nâng cao chất lượng nghệ thuật cho tác
phẩm để làm nên một thương hiệu mới - thương hiệu Ma Văn Kháng.
Khi kể cho Phượng về nhan sắc của mình đã một thời làm nghiêng ngả cả ông
giám đốc đã có cháu nội, Lý (Mùa lá rụng trong vườn) đã nói: "… Ông không một
lời nói quyến rũ, không một cử chỉ bờm xơm… "[22,122]; khi miêu tả hành động
của nhân vật: "Lý ve vé đi tới nghiêng xuống giữa Luận và ông Bằng" [22,72]; hoặc
khi miêu tả thói cầu toàn đến mức thái quá của người vợ đối với chồng, bà trưởng
phòng của Phượng đã mỉa mai: "Thế nào con mẹ kia nó bắt phải mua đường phên
để làm bánh trôi bánh chay à! Rõ võng hãnh quá!" [22,146].
Ở tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn loại từ ngữ này xuất hiện khá nhiều
chẳng hạn; đầu ghếch, con mắt lờ ngờ, xong xóc, lúi xùi, hốc xì, hào hển, nhạt
nhếch, võng hãnh, ỏn thót, phô phang, bờm xơm, khủng khỉnh, sắc lẻm, i uôm, tươi
mưởi, nồng nã, giọng ngột, phì phịt, nhợt sám… Còn đến với Đám cưới không có
giấy giá thú lớp từ này tăng lên rõ rệt, theo thống kê khảo sát chúng tôi thấy, nếu
Mùa lá rụng trong vườn lớp từ này xuất hiện 106 lần thì Đám cưới không có giấy
giá thú có 125 lần xuất hiện từ lạ và từ mới. Đó là những từ như; oe ngửa, sinh toả,
rông rỡ, tằng hắng, len lách, khinh khích, rơn rởn, nôn nức, rổn rang, nguyên
thuần, khảng lảng, hý lộng, khuôn mức, tươi mưởi…; Ở tiểu thuyết Côi cút giữa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
cảnh đời chúng tôi nhận thấy, lớp từ này xuất hiện 82 lần trên 278 trang văn bản, ví
100
dụ như; xút xít, lắp tự, chằm bặm, thẽ thọt, bè nhè, loạc choạc, chèm chép, cái nhìn
xoi xói, mắt ậng nước, chong chóc, mắt óng ánh, chộn rộn, rún rín, nắc nỏm, lón
chón, lí láu, hùn hạp, ngún khói…
Như vậy, ta thấy Ma Văn Kháng không những không ngừng sáng tạo trong
nghệ thuật, không ngừng làm mới kho chữ vốn đã quen thuộc, mà còn là một trong
số ít nhà văn có được năng lực đáng vị nể trong việc sáng tạo những từ ngữ mới lạ
chưa có trong từ điển tiếng Việt.
Trong Côi cút giữa cảnh đời, Ma Văn Kháng đã tái hiện lại cuộc trò chuyện
của bà Lãng với các cụ tổ hưu tại thư viện của cụ Hồn Nhiên:
"Cụ Hồn Nhiên nở bừng hai con mắt óng ánh dưới hai vệt mày bạc phếch:
- Đây là chứng cứ thực nhé - cụ chỉ bà tôi.
- Nào, cụ cho tôi biết ai là kẻ hậm hực với việc tôi mở thư viện phường để
nâng cao dân trí? Nào, ai là kẻ chửi bóng chửi gió tôi tuyên truyền cho Tàu? Nào, ai
dám nói Tây du ký là chuyện Đặng Tiểu Bình sang Mỹ, hử?
Bấy giờ tiếng cười lại còn tung toá to hơn lúc nãy. Lợi dụng lúc chộn rộn, cụ
Xương, nhà văn lão thành mon men dịch ghế tới cạnh bà tôi khe khẽ…" [23,94].
Chỉ một đoạn hội thoại ngắn mà ta thấy xuất hiện ba từ ngữ mới lạ mắt óng ánh,
tung toá, chộn rộn điều đó cho thấy Ma Văn Kháng luôn có ý thức trong việc làm
giàu cho kho tàng ngôn ngữ quý báu của dân tộc. Với việc xuất hiện lớp từ ngữ này,
khi đọc tiểu thuyết Ma Văn Kháng người đọc có cảm giác mới lạ thích thú và hấp
dẫn, bởi họ như thường xuyên được thay đổi khẩu vị và lặn ngụp thoả thích trong
dòng ngôn ngữ vô cùng phong phú và không trùng lặp của nhà văn.
So với sáng tác của Lê Lựu, chúng tôi nhận thấy, tác giả cũng dùng một số từ
ngữ lạ chưa có trong từ điển tiếng Việt, nhưng số lượng từ ngữ đó lại rất ít ỏi và ý
nghĩa giá trị cuả các từ ngữ đó còn đơn giản mờ nhạt, chứ chưa mang lại hiệu quả
nghệ thuật cao như trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới.
Khi Sài - nhân vật chính trong tác phẩm Thời xa vắng buông ra những lời
khuyên răn, bảo ban đứa cháu gái, Lê Lựu miêu tả: "Nào, đã bảo làm việc gì xong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
việc ấy mới làm việc khác, ai khiến cái kiểu nhanh nhảu đoảng như thế. Nào, quen
101
thói toạ tệch, đểnh đoảng ở nhà đến đây phải học hỏi, phải rèn luyện làm ăn nề nếp
chứ" [306]. Từ toạ tệch chưa có trong từ điển tiếng Việt. Đặt trong văn cảnh này Lê
Lựu sáng tạo từ toạ tệch là ý muốn nói về thói cẩu thả, qua loa, đại khái, lôi thôi,
bừa bãi của đứa cháu gái. Có thể nói, đây cũng là một sự sáng tạo tuy nhiên chưa có
sức khái quát cao, cũng như hiệu quả nghệ thuật của nó chưa mang ý nghĩa lớn.
Trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, những từ ngữ lạ được nhà văn sáng tạo
có hệ thống nhờ vậy nó mang một ý nghĩa sâu sắc, bao quát được nội dung của các
sự vật, sự việc mà nhà văn muốn diễn tả. Đó chính là giá trị nghệ thuật mà nhà văn
muốn hướng tới. Khi miêu tả khuôn mặt của Thuật trong Đám cưới không có giấy
giá thú - một thầy giáo tài năng nhưng tính cách lại chông chênh, ngạo ngược nhà
văn miêu tả: "khuôn mặt Thuật sạch không một nét ngạo ngược, tàn ác"… "Nghe tiếng
gày đá bóng cậm cạch và tiếng nói hý lộng của Thuật ở phía sau, Tự quay lại…".
Từ cậm cạch và hý lộng là những từ ngữ mới lạ. Theo chúng tôi từ cậm cạch
trong ngữ cảnh này được nhà văn miêu tả được nhà văn miêu tả bước đi chậm, có
một chút gì đó ngông ngáo. Còn từ hý lộng là lộng ngôn, lời nói cho sướng miệng
không có văn hoá. Với việc sử dụng hai từ lạ này, con người và tính cách của Thuật
đã được cụ thể hoá một cách sinh động và dễ hiểu.
Khi diễn tả tâm trạng thành kính của Tự trong đêm Giáng sinh Ma Văn Kháng
đã viết "Đêm Nôen rét buốt chưa từng. Mưa mây thả bụi phủ màn hư ảo lên thị trấn
từ lúc chiều buông. Cái rét giá và niềm xác tín kích thích con người đến với nhau
tìm hơi ấm trong hội đoàn, thúc dục cả chính Tự". Chỉ ba câu văn nhưng tác giả sử
dụng tới hai từ ngữ mới. Từ "rét giá" theo chúng tôi đây không phải là từ lạ, mà là từ
rất thông thường nếu không muốn nói là cũ kĩ. Nhưng qua bàn tay của Ma Văn
Kháng, bằng cách sử dụng từ ngữ linh hoạt, sáng tạo nhà văn đã đảo đổi các từ tố để
tạo ra một ngôn từ thật mới mẻ, mang lại hiệu quả nghệ thuật cao. Nếu chúng ta để một
từ thông thường "giá rét" ở vị trí của câu văn thì không có gì là mới lạ và cũng chưa
mang lại giá trị sâu xa mà tác giả muốn diễn tả. Nhưng nếu dùng từ "rét giá" để diễn tả
thời tiết đêm Nôen năm ấy, thì độc giả không những cảm nhận được khí trời lạnh mà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
còn diễn tả trạng thái của thời tiết lạnh, rất lạnh, đồng thời làm mới cho câu văn.
102
Từ xác tín cũng là một từ lạ. Xác tín được hiểu theo nghĩa đơn thuần: xác định
điều đó có thật. Trong văn cảnh này, từ xác tín được tác giả sử dụng là rất hợp lý và
đắc địa. Xác tín trong trường hợp này chính là niềm tin của con người, một niềm tin
trong sáng, không chút hoài nghi. Đó là niềm tin trong sáng tột cùng. Chính niềm
tin ấy đã thúc đẩy, đã kích thích con người đến với tín ngưỡng, đến với nhau.
Như vậy trong cùng một ngữ cảnh, nhưng chỉ cần có sự sáng tạo của nhà văn
thì câu văn sẽ trở nên sâu sắc, hấp dẫn và ấn tượng hơn. Ma Văn Kháng đã đem đến
cho người đọc những từ ngữ mới lạ mà rất hàm súc được đặt trong một ngữ cảnh
phù hợp, tạo nên nhiều nét nghĩa.
Khi nhìn nhận về ông Thống, tác giả viết: "Ông không phải là người blăng
tông, tạp vụ, thủ trống mang bóng hình mờ mờ xo xúi vô nghĩa ở mái trường nho
nhỏ này". Từ xo xúi theo chúng tôi mang ý nghĩa giống với từ xo - tả dáng vẻ co
người, cố thu nhỏ mình lại, nhưng dưới bàn tay sáng tạo của nghệ sĩ Ma Văn Kháng
tạo ra những nét nghĩa mới, đặc sắc ấn tượng. Trong trường hợp này từ xo xúi
không chỉ nói về sự nhỏ bé, mà còn nói về sự yếu đuối mờ nhạt, mà tác giả sử dụng
từ này nhằm mục đích khẳng định hình ảnh của ông Thống - ngoài tấm lòng yêu
nghề, yêu trẻ tha thiết ông còn là một nhân cách đàng hoàng.
Với một giờ dạy "không thuận buồm xuôi gió" của Tự, tác giả miêu tả: "Anh
không tạo lập được sự hoà đồng. Lớp học là một môi trường khảng tảng, đầy mâu
thuẫn, mập mờ những ẩn ngữ không sao hiểu nổi". Còn căn gác xép nhỏ của Tự, nơi
hiện diện sự vượt thoát của anh trong những vây bủa của hoàn cảnh lại được nhà
văn miêu tả: "Con người ngoài ăn mặc, yêu đương, còn cần một không gian sinh
toả. Cái không gian sinh toả của Tự là ở đây. Đây là thiên đường…". Ở đây, tác giả
đã sử dụng hai lần từ ngữ lạ sinh toả. Từ sinh toả chưa có trong từ điển tiếng Việt.
Theo chúng tôi trong trường hợp này từ sinh toả được hiểu không chỉ là không gian
sinh sống, sinh tồn, môi trường sống, từ sinh toả còn được hiểu theo ý nghĩa là
không gian để ở đó Tự phát tiết anh minh, toả ra cái tinh tuý nhất của mình để thoả
chí lặn ngụp trong văn chương. Nếu như thay thế từ sinh toả bằng từ ngữ khác như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
sinh sống câu văn vẫn có ý nghĩa nhưng không thể diễn tả được ý đồ của tác giả khi
103
khắc hoạ nhân vật Tự. Bởi ở anh, không gian sinh sống không có ý nghĩa lắm, điều
mà anh mong ước là cần một nơi để Tự chiếm lĩnh được những ý tưởng, những vẻ
đẹp cao quý thanh khiết của văn chương. Chỉ có không gian sinh toả ấy nó mới cần
cho Tự và chỉ có cái không gian sinh toả ấy anh mới thoát khỏi sự bủa vây tù túng
của hoàn cảnh. Vì thế nơi đây đã trở thành tháp ngà, thành thiên đường của Tự. Đây
quả là những lớp từ ngữ mới, được tác giả sử dụng một cách đắc địa, được đặt trong
một ngữ cảnh rất phù hợp đem lại giá trị thể hiện cao.
Quả thật, khi đến với tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ này, người đọc đi hết
ngỡ ngàng này đến ngỡ ngàng khác trước vườn hoa ngôn ngữ lung linh sắc màu,
không ngừng biến hoá, cải tiến của tác giả. Hệ thống từ ngữ ấy đã tạo đà cho nhà
văn thoả sức tung hoành trong thế giới riêng mà mình đã được sở hữu. Chính nhờ
vào tài năng sáng tạo nghệ thuật ngôn ngữ tiểu thuyết, mà Ma Văn Kháng đã khẳng
định một thương hiệu riêng khu biệt với nhiều nhà văn cùng thời.
Như đã nói ở trên, ngôn ngữ văn học là một phương tiện truyền đạt tư tưởng,
tình cảm của nhà văn nên Ma Văn Kháng đã vận dụng nó một cách triệt để và sáng
tạo để làm nên một nét riêng trong văn phong của mình.
Đến với kho ngôn ngữ "rủng rỉnh" của Ma Văn Kháng, chúng tôi nhận thấy
nhà văn còn sử dụng nhiều từ ngữ bộc lộ cảm xúc tâm trạng của nhân vật - đó là lớp
ngôn ngữ mềm mại, hiền hoà, duyên dáng, trong sáng, tình ý đắm sâu trong từng
câu chữ thể hiện một phong cách trữ tình, trầm lắng.
Cần phải thừa nhận ngôn ngữ tiểu thuyết Ma Văn Kháng là một thứ ngôn ngữ
được nhà văn trau chuốt, vừa giàu tính biểu cảm vừa rất mực trong sáng, giản dị.
Đặc biệt ở những đoạn văn chứa đựng những từ ngữ dãi bày cảm xúc tâm trạng, Ma
Văn Kháng đã thực sự lôi cuốn người đọc bằng những nét bút tinh tế.
Hãy nghe Luận (Mùa lá rụng trong vườn) tâm sự suy nghĩ của mình về những
ngày đã qua đầy sóng gió của gia đình với người vợ trẻ vô cùng yêu quý và rất đáng
trân trọng trong anh dạt dào nguồn mạch của những cảm xúc "Phượng à, cuộc sống
chung của chúng mình đã được mười năm và trong mười năm đó ba nghìn sáu trăm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngày vất vả của em. Anh tự hỏi: Cái gì tạo nên sức mạnh của em trong những ngày
104
đó? Có phải đó là lòng nhân hậu, sự kiên nhẫn chịu đựng đức hy sinh cao quý và
sức chống chọi cứng cỏi, bền bỉ của em không? Từ em toả sáng vẻ đẹp mạnh mẽ,
bình dị và tự nhiên. Anh cảm thấy tin yêu cuộc sống hơn, vì có em bên cạnh,
Phượng à" [22,327]; khi nói chuyện về tương lai, hạnh phúc của Lý, Phượng đã
phản đối ý kiến của chồng "Sao? Chị Lý ly dị anh Đông ấy à? Không! Không!
Không thể được. Sao anh lại nghĩ thế. Sống với anh Đông chị ấy có thể bực bội, khó
chịu và về nhiều mặt chị ấy không thoả mãn. Nhưng bỏ anh ấy lúc này… thì nguy
hiểm lắm. Em không tán thành! Em không đồng ý! Anh phải bỏ ngay ý kiến này đi!
Nguy hiểm lắm!" [22,329]. Bằng lớp ngôn ngữ mềm mại, hiền hoà, duyên dáng mà
cứng rắn, Ma Văn Kháng đã đưa người đọc tự cảm nhận đến với những tấm lòng vị
tha, những đời sống tình cảm yêu thương vô cùng cao đẹp, sâu sắc của con người
với con người.
Ở tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú có rất nhiều chuỗi độc thoại nội
tâm rất dài của Tự về nỗi đau đớn, xót xa, cay đắng, ngậm ngùi khi nhận ra sự bất
công phi lý và thân phận bạc bẽo đến thảm thương tội nghiệp của mình: "Chà, dám
nghi ngờ những người lao động, thành phần cơ bản của xã hội ta, những xích lô, đồ
tể, mõ làng… Ôi giáo Tự khù khờ, xã hội này là xã hội của người lao động. Xét về
mọi mặt, anh ta sáng giá hơn mấy anh tư sản nhiều. Rường cột của xã hội này là con
người xuất thân nghèo khổ như Lại, như Cẩm, chứ loại như Tự giỏi lắm chỉ như gã
chạy cờ thôi" [21]. Hoặc trước sự hoan hỉ của Xuyến nhà văn sử dụng những từ ngữ
bộc lộ cảm xúc để diễn tả tâm trạng xót thương của Tự "Ôi, nhìn Xuyến hân hoan
trước cái tủ ly mới sắm mà tội nghiệp. Thấy Xuyến rụt rụt rè rè ở cái đám bát họ, một
cái trò con trẻ của những kẻ rạn dầy trên thương trường mà thương quá" [21,281].
Đặc biệt khi đặc tả nỗi đau phải ly biệt mái trường yêu dấu của Tự, ngôn ngữ
trong sáng giản dị và giàu tính biểu cảm của Ma Văn Kháng được bộc lộ và phát
huy hết khả năng biểu đạt của nó.
Tự như một kẻ đi xa trở về mái nhà yên ả, hồn hậu đầy thương nhớ, lớp học,
phấn trắng, bảng đen, mùi thơm trang vở mới, tiếng trống trường ấm áp tuổi hoa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
niên, tình thầy trò thiêng liêng… tất cả đã đánh thức những tình cảm tốt đẹp nơi Tự.
105
Vậy mà giờ đây anh phải đến để thực hiện cuộc chia tay lớn của đời mình "Nhưng
chẳng lẽ anh lại có thể chia tay với mái trường thân yêu này? Chẳng lẽ là anh có thể
giã từ những kỷ niệm, những bóng hình thân thuộc cùng tất cả những gì mộng ước
đẹp đẽ và lớn lao, những gì anh đã hết lòng tôn thờ mấy chục năm qua? Sao cuộc
chia tay có vẻ bất đắc và buồn thảm quá thể, Tự ơi!"[21,398]
Phát huy triệt để khả năng tự miêu tả và biểu cảm của ngôn ngữ, Ma Văn
Kháng còn đưa người đọc đến với những đoạn văn tả cảnh như: Cảnh khu vườn nhà
ông Bằng trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn. Dưới ngòi bút tài năng, việc
tận dụng thứ ngôn ngữ trong sáng, giản dị trong kho ngôn ngữ "rủng rỉnh" của
mình, Ma Văn Kháng đã tái hiện lên một khu vườn thật sinh động, có hồn, khiến
người đọc cảm giác như được cùng tác giả bước vào thiên đường của trần thế với
một cảm xúc tươi mới: "Cây trong vườn nhà ông Bằng tốt tươi hơn những nơi khác.
Kể từ khi xuân sang, trên cành lá của chúng đã có sự hăm hở khác lạ. Giờ thì nhãn
đã ra hoa. Lặng lẽ, trên cành cao tít, hồng bấy lá non, hoa ngoi lên, ngầu ngầu một
sắn lắng nhẹ, như phấn thông vàng. Hoa gọi ong. Cây mít bật những chồi hoa cánh
nở đầy đặn. Rồi sấu. Rồi vải. Lạ, vải kết quả từ lúc nào mà nhanh vậy. Một sớm mai
trở dậy, đứng dưới gốc sấu hoa rụng đầy, mịn xanh như bột đậu đồ, ngẩng lên cành
vải đã thấy những chùm quả non nho nhỏ, xanh như ngọc. Cây trong vườn năm nay
hứa hẹn một mùa quả sai theo một vòng sinh thái quen thuộc, mà vẫn có một gì lạ
lẫm khác thường. Hay là cây hoa rung cảm với giai điệu du dương của bản vườn khuya
cổ điển? Hay cây xúc động vì câu chuyện tình yêu và hơi ấm bàn tay vuốt ve, êm ái của
chị Hoài. Vào đêm, đứng ở vườn cây mới thấy sự kỳ ảo của hương cây, hương hoa.
Trong thanh lặng, hoa các loài từ cúc, nhài đến nhãn, vải bốc toả, thơm nồng dậy.
Không khí trong sạch, tĩnh mịch lạ, đến nỗi phảng phất cả một dải hương hoàng lan từ
đầu phố về họp hội; và dường như có thể nghe thấy ngọn mướp hương Phượng và chị
Hoài gieo vào đêm ba mươi Tết vươn mình, với những cánh tay mảnh như tơ, bắt cành
leo lên giàn" [21,178-179]. Quả thật, chúng ta như đang được chiêm ngưỡng sự sống
huyền diệu của cây cối trong khu vườn, mà vẫn cảm thấy bình dị, thân quen không xa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
lạ, vì đó là tất cả những gì của cuộc sống đời thường mà thiên nhiên ban tặng. Với tài
106
sử dụng ngôn ngữ, Ma Văn Kháng đã thổi vào những vật tưởng như vô tri, vô giác linh
hồn của sự sống mãnh liệt bằng một loạt những từ ngữ giàu sức biểu cảm.
Hướng ngòi bút của mình vào việc miêu tả cuộc sống thường nhật của con người
ngôn ngữ Ma Văn Kháng lựa chọn bao giờ cũng là ngôn ngữ đời thường. Ngôn ngữ
này chính là phương tiện tốt nhất để chuyển tải tư tưởng và bộc lộ cảm xúc, tâm trạng
của con người. Ma Văn Kháng thật sự là một trong số ít các nhà văn có ý thức trong
việc phát huy triệt để khả năng tự miêu tả và biểu hiện của ngôn ngữ.
Như vậy, cùng với sự chuyển biến về cái nhìn và giọng điệu nghệ thuật tiểu
thuyết thời kỳ Đổi mới của Ma Văn đã có những vận động và chuyển biến mới mẻ
trong ngôn ngữ nghệ thuật. Tư tưởng dân chủ đã thấm sâu trong mỗi tác phẩm của ông,
làm thay đổi mối quan hệ giữa nhà văn, nhân vật và bạn đọc, khiến cho mối quan hệ
này thực sự dân chủ bình đẳng. Chính vì thế, mỗi vấn đề được đặt ra trong tác phẩm
đều được xem xét nhìn nhận và đánh giá bằng nhiều điểm nhìn khác nhau. Việc gia
tăng điểm nhìn tất yếu tạo nên cho tác phẩm nhiều loại ngôn ngữ khác nhau để thay đổi
cho phù hợp với mỗi nhân vật, mỗi giọng điệu. Có thể thấy, ngôn ngữ nghệ thuật trong
tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ này đời thường hơn mà lại rất sinh động và sắc nét,
đồng thời ông vẫn giữ được cho lời văn của mình chất lãng mạn, thơ mộng của một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
phong cách văn xuôi trữ tình.
107
KẾT LUẬN
1. Ma Văn Kháng là một cây bút văn xuôi đã được định danh từ những năm 70
của thế kỷ XX với tư cách là một nhà văn của miền núi. Hầu hết những tác phẩm
ông viết từ giai đoạn 1961 - 1980 đều viết về miền núi với cảm hứng ngợi ca.
Nhưng vào những năm 80 của thế kỷ XX, Ma Văn Kháng đã khiến người đọc ngỡ
ngàng khi cho ra đời khá dồn dập các tiểu thuyết về đời sống thành thị. Công cuộc
đổi mới của đất nước đã tác động lớn đến đời sống văn học và đã xoay chuyển
mạnh mẽ nền văn học đương đại nước nhà. Đổi mới với mỗi nhà văn lúc này như
một sự lựa chọn tất yếu để thử thách và làm mới ngòi bút của chính mình. Trở về
thành phố Ma Văn Kháng đã tìm thấy cho mình một hướng đi mới trong sáng tạo
nghệ thuật, góp phần không nhỏ vào công cuộc đổi mới của nền văn học Việt Nam
hiện đại.
Không hài lòng với việc nhìn nhận, đánh giá hiện thực và cuộc sống con
người đơn giản, phiến diện một chiều, Ma Văn Kháng đã tự vượt lên chính mình,
vượt lên những khuôn mẫu định sẵn để thổi một luồng gió mới vào đời sống văn
học. Từ giai đoạn này trở đi, ông đã không ngừng tìm kiếm cho mình một tiếng nói,
một phong cách nghệ thuật độc đáo, thể hiện rõ nhất ở cái nhìn nghệ thuật.
2. Bằng năng lực tinh thần đặc biệt, tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi
mới đã thể hiện một cái nhìn sắc sảo tinh tế, đa diện, đa chiều ở nhiều cấp độ khác
nhau. Từ cấp độ vĩ mô, đến cấp độ vi mô, nhà văn đều phát hiện rõ những bộn bề
phức tạp trong cuộc sống hôm nay. Nhà văn đã nhìn sâu vào hiện thực cuộc sống để
chuyển tải trên những trang văn của mình. Với nhãn quan tinh tế và mới mẻ, Ma
Văn Kháng đã phát hiện các mặt, các cực trong đời sống xã hội hiện nay. Đó là sự
ấu trĩ trong cơ quan quản lý với những điều bất cập, bất ổn trong việc lựa chọn cán
bộ chủ chốt. Ông đã mạnh dạn rung nên tiếng chuông cảnh báo, đòi hỏi Đảng và
Nhà nước cần có sự điều chỉnh. Ma Văn Kháng cũng không ngần ngại chỉ ra hậu
quả đau đớn mà chính những bất cập, bất ổn ấy đem đến. Đặc biệt với cái nhìn đa
diện, đa chiều, Ma Văn Kháng còn lo lắng cho đời sống gia đình có nguy cơ tan vỡ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ông lo cho từng số phận con người rồi đây sẽ ra sao khi mà giá trị văn hoá, đạo đức
108
- nền móng của đời sống tinh thần đang có nguy cơ bị coi rẻ. Nhìn về những mặt
đen tối của xã hội, ta không thấy sự bất lực của nhà văn mà ngược lại ta thấy Ma
Văn Kháng luôn tin tưởng vào vẻ đẹp truyền thống của dân tộc, vào quy luật muôn
đời của cuộc sống dù phía trước còn đầy chông gai thử thách.
3. Từ cái nhìn sắc sảo, Ma Văn Kháng đã chuyển tải bức đời sống muôn màu
lên trang sách và bày tỏ thái độ của mình trước hiện thực cuộc sống trong buổi đầu
của cơ chế thị trường bằng một phương tiện thẩm mỹ đặc thù - giọng điệu nghệ
thuật. Chính sự tâm huyết và trách nhiệm với đời, với người mà tác giả đã tạo nên
nhiều sắc thái giọng điệu đặc thù trong sáng tác của mình và làm nên một Ma Văn
Kháng rất riêng biệt. Nghiên cứu giọng điệu nghệ thuật trong tiểu thuyết của Ma
Văn Kháng thời kỳ Đổi mới chúng tôi thấy có nhiều sắc thái giọng điệu khác nhau:
giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng; giọng điệu triết lý, triết luận; giọng điệu mỉa
mai, châm biếm và giọng điệu thương cảm, xót xa. Những sắc thái giọng điệu này
song song tồn tồn nhằm tạo nên âm hưởng vô cùng đa dạng và mang đến sức cuốn
hút đặc biệt trong tiểu thuyết của nhà văn.
Khi nhà văn viết về cái đẹp, ngợi ca cái đẹp trong cuộc sống, giọng điệu trữ
tình thiết tha, sâu lắng trở nên đắc địa. Bằng giọng điệu ấy, người đọc cảm nhận rõ
cái thiện, cái đẹp trong sâu thẳm trái tim của con người. Giọng điệu triết lý triết
luận, giọng điệu mỉa mai châm biếm, giọng điệu thương cảm xót xa được phát huy
hiệu quả một cách tối đa và trở thành phương tiện để tác giả sẻ chia suy nghĩ, bày tỏ
thái độ tình cảm của nhà văn trước số phận bất hạnh, cũng như khắc hoạ thành công
bản chất, tính cách nhân vật. Qua đó thể hiện bản lĩnh cứng cỏi của Ma Văn Kháng
trước cuộc sống.
4. Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới là
một phương tiện đặc biệt thể hiện quá trình lao động nghệ thuật miệt mài, tâm huyết
sáng tạo một cách nghiêm túc của nhà văn. Qua quá trình nghiên cứu, khảo sát,
thống kê, phân tích tổng hợp, chúng tôi thấy, hệ thống ngôn ngữ của Ma Văn Kháng
mang một vẻ đẹp giản dị, mộc mạc mà vô cùng trong sáng, giầu tính biểu cảm. Ma
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Văn Kháng đã sử dụng thành công hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật mang màu sắc
109
riêng. Nhà văn cũng rất chủ động sử dụng ngôn ngữ đời thường, kết hợp với thành
ngữ, tục ngữ và hệ thống những từ ngữ lạ với khả năng làm mới chữ để chuyển tải
nội dung của tác phẩm. Có thể nói, ngôn ngữ tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi
mới góp phần làm nên "thương hiệu" riêng của nhà văn.
5. Nghiên cứu cái nhìn, giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết
của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới chúng tôi nhận thấy, Ma Văn Kháng đã khẳng
định được cá tính sáng tạo độc đáo trong mảng đề tài viết về thành thị. Từ cái nhìn
nghệ thuật đa diện, đa chiều, Ma Văn Kháng tạo nên những nét đặc sắc riêng trong
thế giới nghệ thuật của mình. Trong thế giới nghệ thuật ấy Ma Văn Kháng đã có
những cách tân mới với nhiều tìm tòi, sáng tạo trên phương diện nghệ thuật tiểu
thuyết, như giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật để làm nên khúc dạo đầu khá "ngoạn
mục" cho một giai đoạn văn học đổi mới.
Việc nghiên cứu nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới
không chỉ dừng lại ở một số vấn đề: cái nhìn, giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật,
mà có thể còn nghiên cứu ở những phương diện khác nhau. Tuy nhiên do thời gian
có hạn và khuôn khổ của một luận văn Thạc sỹ, chúng tôi tập trung nghiên cứu ba
phương diện đặc sắc trong thế giới nghệ thuật của nhà văn. Hy vọng chúng tôi có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
dịp trở lại nghiên cứu ở phương diện nghệ thuật khác.
110
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (1995), Đổi mới văn học vì sự phát triển - Tạp chí Văn học, số 4.
2. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG, Hà Nội.
3. Lê Huy Bắc (1998), "Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại", Tạp chí Văn
học (số 9), tr.66.
4. Nam Cao (1997), Tuyển tập Nam Cao tập I, Nxb Văn học, Hà Nội.
5. Nam Cao (1997), Tuyển tập Nam Cao tập II, Nxb Văn học, Hà Nội.
6. Lê Văn Chính (2004), Đặc điểm tiểu thuyết viết về đề tài thành thị của Ma Văn
Kháng, Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội.
7. Hồng Diệu (1990), Về tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú - Báo Giáo
viên nhân dân, số 4.
8. Phan Cự Đệ (1997), Văn học, đổi mới và giao lưu văn hoá, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
9. Hà Minh Đức (Chủ biên) 2003, Mấy vấn đề lí luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi
mới, Nxb Văn học, Hà Nội.
10. Hà Minh Đức (chủ biên) 2001, Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, Nxb
KHXH, Hà Nội.
11. Nguyễn Thị Định (2003), Thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Lê Lựu trong thời kỳ
Đổi mới, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội.
12. Lê Thanh Hùng (2006), Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ đầu Đổi mới
(Giai đoạn 1980 - 1989), Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP Thái Nguyên.
13. Trần Bảo Hưng (1990), Đám cưới không có giấy giá thú hay là những nghịch lý
đau xót của thực tại - Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 6.
14. Trần Bảo Hưng (1984), Mùa lá rụng trong vườn và những vấn đề đời sống hôm
nay - Phụ nữ Việt Nam, số 17.
15. Nguyễn Thái Hoà (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
16. Tô Hoài (1983), Đọc Mưa mùa hạ - Văn nghệ số 154
17. Tô Hoài (1981), Quê nhà (tiểu thuyết), Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nam, Hà Nội.
111
18. Nguyễn Thị Huệ (1998), Những dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi Việt Nam từ
1980 - 1986, Luận án Tiến sĩ, Viện Văn học, Hà Nội.
19. Nguyễn Thị Huệ (1998), Tư duy mới về nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn
Kháng những năm 80, Tạp chí Văn học, số 2.
20. Ma Văn Kháng (2002), Lào Cai - Miền đất vàng - Tạp chí Văn nghệ Lào Cai, số 1.
21. Ma Văn Kháng (1995), Đám cưới không có giấy giá thú, Nxb VH, Hà Nội.
22. Ma Văn Kháng (2007), Mùa lá rụng trong vườn, Nxb Lao động, Hà Nội.
23. Ma Văn Kháng (2006), Côi cút giữa cảnh đời , Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
24. Ma Văn Kháng (2006), Chó Bi - đời lưu lạc, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
25. Ma Văn Kháng (1982), Mưa mùa hạ, Nxb Văn học, Hà Nội.
26. Ma Văn Kháng (2003), Ngược dòng nước lũ, Nxb CAND, Hà Nội.
27. Ma Văn Kháng (2003), Vùng biên ải, Gặp gỡ ở LaPanTẩn - In trong Ma Văn
Kháng tiểu thuyết (Tập 2), Nxb CAND, Hà Nội.
28. Ma Văn Kháng (2003) Đồng bạc trắng hoa xoè, Nxb CAND, Hà Nội
29. Ma Văn Kháng (1989), Ngẫu hứng tự do sáng tạo - Tạp chí Văn học, số 2.
30. Ma Văn Kháng - Mỗi cuốn tiểu thuyết là một phần đời của tôi.
31. Ma Văn Kháng (2001), Sống rồi mới viết - Đặng Thanh Hương ghi.
32. Khrápchencô (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học
(Lê Sơn và Nguyễn Minh dịch), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
33. Đinh Trọng Lạc (1995), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb GD,
Hà Nội.
34. Phong Lê (1983), Văn học những năm 80 - Tạp chí Văn học.
35. Phong Lê (1988), Văn học và chính trị - Điểm nóng cần bàn, Tạp chí Văn nghệ
Quân đội.
36. Phong Lê (1990), Trên bức tranh của ngót nửa thế kỷ văn học mới - Tạp chí tư
tưởng văn hoá.
37. Phong Lê (1994), Văn học tự đổi mới để phục vụ sự nghiệp đổi mới văn học của
đất nước và lành mạnh hoá xã hội - In trong Văn học và công cuộc đổi mới,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nxb Hội nhà văn.
112
38. Phong Lê (2005), Trữ lượng Ma Văn Kháng - Báo văn nghệ số 20, 21.
39. Phong Lê (1999), Ma Văn Kháng với Côi cút giữa cảnh đời - In trong Vẫn
chuyện Văn và Người, Nxb Văn hoá Thông tin.
40. Phong Lê (1997), Văn học trên hành trình thế kỷ XX, Nxb ĐHQG, Hà Nội.
41. Phong Lê (1985), Trên hành trình 40 năm văn xuôi: ngôn ngữ và giọng điệu.
42. Nguyễn Văn Long (2002), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb, Hà Nội.
43. Chu Lai (2003), Phố, Nxb Văn học, Hà Nội.
44. Nguyễn Văn Lưu (1986), Bàn thêm về Mùa lá rụng trong vườn - Văn nghệ, số 25.
45. Lê Lựu (1984), Thời xa vắng, Nxb hội nhà văn, Hà Nội.
46. M. Bakhtin (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch), Nxb
ĐHQG, Hà Nội.
47. Lê Thanh Nghị (1990), Về người trí thức trong Đám cưới không có giấy giá thú
- Báo nhân dân.
48. Đào Thuỷ Nguyên (2008), Tryện ngắn Ma Văn Kháng và vấn đề thức tỉnh tinh
thần con người vùng cao - In trong Tạp chí NCVH, Viện văn - Viện KHXH,
tr.56.
49. Lã Nguyên - Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn, in trong Ma Văn
Kháng truyện ngắn tập1, Nxb CAND, Hà Nội.
50. Mai Thị Nhung (2006), Phong cách nghệ thuật Tô Hoài, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
51. Đỗ Hải Ninh (2002), Nhân vật trí thức trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng,
Tạp chí Sông Hương, số 164.
52. Nhiều tác giả (1997), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học,
Hà Nội - Đà Nẵng.
53. Nhiều tác giả (Lê Bá Hân - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi, 1999), Từ điển
thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG, Hà Nội.
54. Nhiều tác giả (1980), Lý luận văn học vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
55. Vũ Dương Quý (1990), Phải chăng đời là một vại dưa muối hỏng? - Báo Giáo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
viên nhân dân, số 2, 3.
113
56. Hoàng Sơn (1998), Trò chuyện với tác giả Mùa lá rụng trong vườn - Báo Tiền
phong, số 46.
57. Phạm Trường Sơn Cảm nhận học trò chân dung người thầy qua tác phẩm Đám
cưới không có giấy giá thú.
58. Trần Đình Sử (1996), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Vụ Giáo viên, Hà Nội.
59. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb - GD, Hà Nội.
60. Trần Đình Sử (1999), "Giọng điệu nghệ thuật và chủ nghĩa cảm thương trong
truyện Kiều", Tạp chí Văn học (số 2), tr.8
61. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học hiện đại, Bộ GD & ĐT - Vụ Giáo viên.
62. Trần Đình Sử (2002), Lý luận phê bình văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
63. Chu Thị Thơm (2003), Nhà văn Ma Văn Kháng; Viết tiểu thuyết là một cuộc đi
săn hổ dữ - Báo Giáo dục thời đại, số 98.
64. Đỗ Phương Thảo (2006), Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn Kháng
thời kỳ Đổi mới, Luận án Tiến sĩ, ĐHQG Hà Nội.
65. Đỗ Ngọc Thạch (1993), Trò chuyện với nhà văn Ma Văn Kháng: Tôi viết như
tôi nghĩ, tôi hiểu, tôi yêu, tôi ghét - Báo Văn hóa, số 9.
66. Vân Thanh (1996), Một mảng đời trong cuộc sống hôm nay qua Mùa lá rụng
trong vườn - Tạp chí Văn học số 3, tháng 5, 6.
67. Bích Thu (1990), Đổi mới và trách nhiệm của nhà văn - Báo Văn nghệ.
68. Bích Thu (2006), Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời đổi mới - Tạp chí
dạy và học ngày nay, số11, tr.15.
69. Xuân Tùng (1999), Ma Văn Kháng - Nhà văn cần có cái tâm - Báo Hà Nội, số 17.
70. Đào Thanh Tùng (1990), Đám cưới không có giấy giá thú - một cách nhìn nhận
về người thầy - Báo Giáo viên nhân dân, số 16.
71. Nguyễn Văn Toại (1983), Đọc các sáng tác miền núi của Ma Văn Kháng, nghĩ
về trách nhiệm của nhà văn trước một đề tài lớn - Tạp chí Văn học, số 5, tr.129.
72. Hà Xuân Trường (1991), Có sự đổi mới thực sự trong văn học - Báo Văn nghệ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
số 49.
114
73. Hà Xuân Trường (1991), Toạ đàm: Văn học đổi mới và phát triển (Vũ Đăng
Thiên lược thuật) - Tạp chí Cộng sản.
74. Nguyễn Khắc Trường (1998), Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
75. Nguyễn Thái Vận (1982), Đọc Mưa mùa hạ của Ma Văn Kháng - Báo Lao
động, số 37.
76. Lê Kim Vinh (1977), Hỏi chuyện nhà văn Ma Văn Kháng - Tạp chí Văn học số 5, 6.
77. Trần Đăng Xuyền (2002), Nhà văn hiện thực cuộc sống và cá tính sáng tạo,
NXB Văn học, Hà Nội.
78. Trần Đăng Xuyền (1983), Một cách nhìn cuộc sống hôm nay - Báo Văn nghệ, số 15.
79. Trần Đăng Xuyền Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, Nxb Khoa học - Xã hội.
80. Trần Đăng Xuyền (1980), Phải chăm lo cho từng người, Văn nghệ số 40.
81. Wayneklin (2002), Lời nói đầu cho tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ, xuất bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
bằng tiếng Anh tại Mỹ (Thanh Thông dịch).