ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ---------    --------- DƢƠNG THỊ HỒNG LIÊN NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

THÁI NGUYÊN - 2008

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ---------    --------- DƢƠNG THỊ HỒNG LIÊN NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

CHUYÊN NG ÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: T.S. MAI THỊ NHUNG

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

THÁI NGUYÊN - 2008

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới TS. Mai Thị Nhung - người đã

tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu khoa học và hoàn thành

luận văn.

Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo

khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học - Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên,

Viện Văn học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã giảng dạy và giúp đỡ tôi

hoàn thành khoá học.

Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp

đã quan tâm động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và

nghiên cứu.

Mặc dù đã nỗ lực cố gắng, song do thời gian thực hiện không nhiều,

năng lực bản thân có hạn nên luận văn chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Kính

mong nhận được sự lượng thứ và góp ý chân thành của các thầy, cô giáo cùng

bạn bè đồng nghiệp để được học hỏi, rút kinh nghiệm cho các công trình sau.

Thái Nguyên, tháng 10 năm 2008

Dương Thị Hồng Liên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................................... 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 7

4. Mục đích nghiên cứu........................................................................................... 7

5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 7

6. Đóng góp của luận văn ....................................................................................... 8

7. Cấu trúc luận văn ................................................................................................. 8

NỘI DUNG

Chƣơng 1. Cái nhìn nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời

kỳ Đổi mới ................................................................................................ 9

1.1. Khái niệm cái nhìn nghệ thuật............................................................................... 9

1.2. Những yếu tố tạo nên cái nhìn nghệ thuật của Ma Văn Kháng ....................... 10

1.2.1. Tố chất thông minh sắc sảo và cá tính sáng tạo của nhà văn ................ 10

1.2.2. Sự chuyển mình mạnh mẽ của một cơ chế xã hội mới ............................. 13

1.3. Cái nhìn nghệ thuật của Ma Văn K háng trong tiểu thuyết thời kỳ

Đổi mới ............................................................................................15

1.3.1. Cái nhìn hiện thực sắc sảo hướng thẳng vào những vấn đề nhức

nhối trong cuộc sống .................................................................................. 15

1.3.2. Cái nhìn con người tinh tường nghiêng về những giá trị văn hoá

truyền thống .................................................................................................. 28

Chƣơng 2. Giọng điệu nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời

kỳ Đổi mới ................................................................................................. 46

2.1. Khái niệm giọng điệu nghệ thuật .......................................................................... 46

2.2. Các sắc thái giọng điệu nghệ thuật trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của

Ma Văn Kháng ........................................................................................................ 48

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

2.2.1. Giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng ...................................................... 50

2.2.2. Giọng điệu triết lý, triết luận ...................................................................... 59

2.2.3. Giọng điệu mỉa mai, châm biếm ................................................................ 67

2.2.4. Giọng điệu thương cảm, xót xa .................................................................. 74

Chƣơng 3. Ngôn ngữ nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết

thời kỳ Đổi mới ....................................................................................... 80

3.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật ............................................................................ 80

3.2. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Ma Văn Kháng............................................. 82

3.2.1. Ngôn ngữ dung dị đời thường tươi rói sự sống........................................ 83

3.2.2. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm giản dị mà trong sáng .............................. 98

KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 107

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 110

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Ma Văn Kháng là một trong những nhà văn có công đầu tiên mở đường

cho sự nghiệp đổi mới văn học. Vào những năm đầu 80 của thế kỷ XX, nhiều sáng

tác của Ma Văn Kháng đã "nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật", từ đó tạo nên

những cuộc tranh luận sôi nổi trên các diễn đàn văn học. Ông cũng là một trong số

các nhà văn Việt Nam hiện đại sáng tác thành công ở cả hai thể loại truyện ngắn và

tiểu thuyết. Qua từng tiểu thuyết, truyện ngắn, Ma Văn Kháng không ngừng tìm

kiếm những cách thể hiện mới. Thời gian và kinh nghiệm nghệ thuật đã tôi luyện

ngòi bút Ma Văn Kháng khiến ông luôn gặt hái được những thành tựu đáng kể.

1.2. Toàn bộ tiểu thuyết của Ma Văn Kháng nhìn chung được sáng tác theo hai

mảng đề tài lớn với hai cảm hứng chủ đạo: Đề tài về dân tộc miền núi với cảm hứng

sử thi và đề tài về thành thị với cảm hứng thế sự đời tư. Trong đó có những tác

phẩm được giải thưởng trong nước, quốc tế và được dịch ra tiếng nước ngoài như:

Truyện ngắn Xa phủ đoạt giải nhì (không có giải nhất) trong cuộc thi truyện ngắn

của Tuần báo Văn nghệ 1967 - 1968, tập truyện ngắn Trăng soi sân nhỏ giải thưởng

Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995, giải cây bút vàng cho truyện SanChaChải trong

cuộc thi truyện ngắn và ký 1996 - 1998 do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam tổ

chức. Ngoài Mùa lá rụng trong vườn được giải thưởng Hội Nhà văn năm 1984, Ma

Văn Kháng còn vinh dự nhận được giải thưởng văn học Đông Nam Á (1998) và giải

thưởng Nhà Nước về văn học nghệ thuật (2001). Với những thành tựu kể trên, Ma

Văn Kháng đã tự khẳng định vị thế của mình trong nền văn học Việt Nam

đương đại.

1.3. Lâu nay, đã có khá nhiều bài viết, các công trình nghiên cứu về Ma Văn

Kháng và các tác phẩm của ông. Nhưng hầu hết là những đánh giá, nhận định chung

về từng tác phẩm cụ thể, về hình tượng nghệ thuật, thậm chí là khen chê một tác

phẩm hoặc một khía cạnh nào đó của tác phẩm ngay khi nó ra mới ra đời. Với các

công trình nghiên cứu công phu như các luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ tuy đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

hướng vào những khía cạnh chuyên biệt như: kiểu nhân vật, đặc trưng cuả thể loại,

2

cảm hứng nghệ thuật hoặc những dấu hiệu đổi mới văn học qua sáng tác của ông và

một số nhà văn tiêu biểu cùng thời, nhưng việc đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu, khám

phá nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng từ góc độ cái nhìn, giọng điệu và ngôn

ngữ nghệ thuật để thấy sâu sắc hơn quan niệm của nhà văn về hiện thực cuộc sống và

con người trong một giai đoạn phát triển đầy phức tạp của xã hội thì vẫn còn bỏ ngỏ.

Với những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn vấn đề Nghệ thuật tiểu

thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới làm đề tài nghiên cứu của mình. Việc

nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề này sẽ giúp chúng ta thấy rõ vị thế của các

yếu tố nghệ thuật (cái nhìn, giọng điệu và ngôn ngữ) trong việc thể hiện tư tưởng

nghệ thuật của nhà văn. Từ đó khẳng định đóng góp to lớn của Ma Văn Kháng về

phương diện sáng tạo nghệ thuật tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới, đồng thời đề tài cũng

góp phần làm tư liệu tham khảo cho các sinh viên, học viên và những người yêu

thích văn học Việt Nam hiện đại.

2. Lịch sử vấn đề

Ma Văn Kháng là một trong số những nhà văn có đóng góp đáng kể vào công

cuộc đổi mới văn xuôi giai đoạn sau 1975. Một trong những đóng góp ấy là sự đổi

mới về cái nhìn, giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật. Ông "đã cố gắng đổi mới tư

duy nghệ thuật tiểu thuyết, tìm hướng đi mới trong lao động sáng tạo nghệ thuật".

Ngay từ khi truyện ngắn Phố cụt ra đời (1959) và đặc biệt là những tác phẩm xuất

hiện trong giai đoạn đầu những năm 80 của thế kỷ XX, Ma Văn Kháng đã được

đông đảo dư luận, độc giả và các nhà phê bình quan tâm. Nhiều công trình nghiên

cứu, phê bình của các nhà văn, nhà thơ và các nhà nghiên cứu như: Giáo sư Phong

Lê, Lã Nguyên, Tô Hoài, Trần Đăng Xuyền, Nguyễn Bích Thu đã được đăng tải

trên nhiều sách báo và tạp chí… Để phục vụ cho những vấn đề mà đề tài nghiên

cứu, chúng tôi tập trung tìm hiểu ý kiến của những người đi trước về cái nhìn, giọng

điệu và ngôn ngữ nghệ thuật.

2.1. Về cái nhìn nghệ thuật

Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới đã thật sự gây được sự chú ý,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

quan tâm đặc biệt của đông đảo độc giả cũng như giới nghiên cứu, phê bình văn học

3

và đã trở thành hiện tượng văn học một thời. Các tiểu thuyết Mưa mùa hạ, Mùa lá

rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú, Côi cút giữa cảnh đời... đã tạo ra

cuộc tranh luận sôi nổi làm cho đời sống văn học đương đại trở nên phong phú và

đa dạng hơn.

Tác giả Trần Đăng Xuyền, trong bài viết Một cách nhìn cuộc sống hôm nay

đăng trên báo Văn nghệ số 15 - 19 - 1983 đã đưa ra nhận định xác đáng về tiểu

thuyết Mưa mùa hạ: "Giá trị của Mưa mùa hạ không chỉ là chỗ mạnh dạn lên án cái

tiêu cực mà chủ yếu là xây dựng được cách nhìn, thái độ đúng đắn trước những cái

xấu, trước những bước cản đi lên Chủ nghĩa xã hội".

Sau Mưa mùa hạ, tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn xuất hiện. Trong cuộc

hội thảo về tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn do Câu lạc bộ Báo Người Hà Nội và

Nhà xuất bản Phụ nữ phối hợp tổ chức, các nhà văn, nhà lý luận phê bình đã có

nhiều ý kiến đánh giá về những thành công cũng như những hạn chế của tác phẩm.

Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân khẳng định: "Mùa lá rụng trong vườn biểu hiện

cho xu thế văn học đang vươn tới những vấn đề cốt yếu"; Hoàng Kim Quý lại nhấn

mạnh: "Tác giả Mùa lá rụng trong vườn đã nhìn thẳng vào cuộc sống của những gia

đình với mỗi người".

Nói về cái nhìn của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết Đám cưới không có giấy

giá thú, trong bài viết: "Đọc Đám cưới không có giấy giá thú" của Lê Ngọc Y, tác

giả đã nhận thấy "Bằng cách nhìn tinh tế vào hiện thực đời sống tác giả đã mô tả

những người giáo viên sống và làm việc gặp quá nhiều khó khăn. Những vui buồn

của thời thế đã phản ánh vào những trang tiểu thuyết trở nên sống động". Từ đó, tác

giả nhấn mạnh Ma Văn Kháng "đã có cái nhìn hiện thực, tỉnh táo nên không bị thói

xấu, cái bất bình thường vốn nảy sinh trong xã hội đang vận động lấn át, hoặc chỉ

thấy một chiều này u ám mà không thấy chiều khác đầy nắng rực rỡ".

Cùng với ý kiến đó, tác giả Lê Thanh Hùng cũng đưa ra nhận xét: "Có lẽ Ma

Văn Kháng muốn bộc lộ một cái nhìn tiến bộ và khá mới mẻ, một nhận định khá

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

chính xác về hiện thực đời sống đương thời - cái xấu, cái ác vẫn tồn tại, hoành hành

4

và sinh sôi trong đời sống, còn cái thiện, cái tốt mặc dù có nhưng có lẽ chưa đủ

mạnh để có thể chiến thắng" [12,77].

Đến với tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời (1998) - tác phẩm mà nhà văn tâm

đắc nhất, đã có không ít ý kiến xung quanh tác phẩm. Giáo sư Phong Lê trong cuốn

Vẫn chuyện Văn và Người - Nhà xuất bản Văn hoá thông tin năm 1989 cho rằng:

"Cuốn sách của Ma Văn Kháng đã vục vào cái sự thật tối tăm oan khổ đó như nhiều

cuốn sách khác. Nó thật lạ, anh lại đưa con người vào quỹ đạo những tình cảm nhân

hậu tốt lành. Có thể nói, đó là hiệu quả thanh lọc, tẩy rửa. Cái hiệu quả thanh lọc

này vốn dành cho nghệ thuật và dường như cũng chỉ có nghệ thuật đích thực, nghệ

thuật cao hơn cuộc đời mới có thể làm nổi"…

Nhận xét về cái nhìn trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới, nhìn

chung các tác giả đã thấy rõ cái nhìn tiến bộ, mới mẻ của nhà văn. Tuy nhiên, đây

chỉ là những nhận xét lẻ tẻ trên các công trình của các nhà nghiên cứu. Chúng tôi

thấy vấn đề này cần phải nghiên cứu sâu hơn và có hệ thống hơn.

2.2. Về giọng điệu nghệ thuật

Trong quá trình sưu tầm tài liệu tham khảo chúng tôi nhận thấy, có những

công trình nghiên cứu, những ý kiến đánh giá liên quan đến khía cạnh này như

trong bài viết Mùa lá rụng trong vườn và những vấn đề của đời sống gia đình hôm

nay (Báo phụ nữ Việt Nam số 17 - 1986) tác giả Trần Bảo Hưng nhận xét: "Về mặt

bút pháp, qua tác phẩm này, Ma Văn Kháng bộc lộ thêm một số sở trường mới; khả

năng biện giải, triết lý, phân tích một cách khúc chiết thông minh"

Nghiên cứu về tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú (1989), tác giả Mai

Thục cho rằng: Đám cưới không có giấy giá thú có tính luận đề về mối quan hệ giữa

những giá trị văn hóa với đời sống của con người; Vũ Dương Quý với bài viết Phải

chăng đời là một vại dưa muối hỏng?...đặc biệt là cuộc hội thảo về tiểu thuyết Đám

cưới không có giấy giá thú do báo Văn nghệ tổ chức ngày 11- 1- 1990 với sự tham

gia đông đảo của các nhà văn, nhà lý luận phê bình nổi tiếng đã đánh giá khái quát

và bổ ích, lý thú về giá trị đích thực cũng như những hạn chế của tác phẩm trên mọi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

phương diện.

5

Khi bàn về Ma Văn Kháng với Côi cút giữa cảnh đời trong Vẫn chuyện Văn và

Người, Giáo sư Phong Lê tiếp tục nhận xét: "Truyện ngắn Ma Văn Kháng quả là

một hiện tượng nổi bật trong văn học những năm 90, tuy vẫn chỉ một giọng điệu

nhưng không gây nhàm tẻ. Biết thế trước rồi mà vẫn ham đọc. Một giọng điệu vẫn

là nằm trong trong mạnh ngầm tuôn chảy từ một nguồn chung của nền truyện ngắn

hiện đại. Rõ ràng Ma Văn Kháng vẫn chưa tách ra được thật rõ một lối riêng, nhưng

vẫn không bị nhoè mờ trong diện mạo chung đó… Côi cút giữa cảnh đời đối với

tôi, đó là một cuốn sách đọc không thôi cảm động và đầy ấn tượng. Trên hai trăm

trang sách, đọc một thôi, không có gì khúc mắc, tất cả đều dễ hiểu, tưởng như

không có nghệ thuật… Cuốn sách của Ma Văn Kháng ai đọc cũng hiểu, đọc một lần

là hiểu, và xem ra cũng chỉ một tầng nghĩa thôi. Ấy vậy mà, tôi lại nghĩ, đó mới là

hoặc vẫn là nghệ thuật đích thực".

Về các luận văn, luận án tiến sĩ chúng tôi thấy luận văn cuả Phạm Mai Anh

(1997) - Đặc điểm truyện ngắn Ma Văn Kháng; Lê Thanh Ngọc (2004) - Nghệ thuật

trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng sau 1975; Đỗ Phương Thảo (2006) -

Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn Kháng…

Đây là những công trình đã nghiên cứu và có những nhận xét, đánh giá khá sâu

sắc, khách quan một số khía cạnh về phương diện nghệ thuật trong các tiểu thuyết

của Ma Văn Kháng và là những gợi ý vô cùng quan trọng cho quá trình nghiên cứu

của chúng tôi.

2.3. Về ngôn ngữ nghệ thuật

Với sự đóng góp của mình về thể loại tiểu thuyết, Ma Văn Kháng được coi là

một trong những người có thành tựu đáng kể trong quá trình đổi mới tư duy tiểu

thuyết, tìm hướng đi mới trong sự sáng tạo nghệ thuật, đặc biệt là sự sáng tạo về

ngôn ngữ. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi thấy có một vài công trình nghiên

cứu về vấn đề này. Trong bài viết Một vài suy nghĩ khi đọc Côi cút giữa cảnh đời

của Ma Văn Kháng, tác giả Vũ Thị Oanh đã cho rằng: "Côi cút giữa cảnh đời -

cuốn sách viết theo đề nghị cho lứa tuổi sắp vào đời, không đề cương, không hợp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

đồng, được xuất bản bởi sự hợp tác của Nhà xuất bản Kim Đồng và Nhà xuất bản

6

Văn học là một cuốn sách như thế… Đặc biệt, viết cho lứa tuổi sắp vào đời nhưng

tác giả không hề né tránh cái xấu, cái ác; những yếu tố tồn tại khách quan làm rõ

thêm bức tranh cuộc sống với những cuộc đấu tranh thể hiện ở nhiều bình diện, sắc

thái khác nhau. Đó là cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác... Tất cả được thể hiện

bằng ngòi bút mềm mại, uyển chuyển, ngôn ngữ hóm hỉnh, phong phú sắc màu: kết

cấu có hậu kiểu truyện cổ dân gian của tác giả Ma Văn Kháng".

Khi bàn về tác phẩm Ngược dòng nước lũ theo tác giả Hồ Anh Thái, "Ngược

dòng nước lũ chứa đựng những điển tích được gài cắm cẩn thận, khi được huy động

đã chuyển tải được những gửi gắm của tác giả từ trong chiều sâu suy tư ra bên

ngoài, trong một khoảng không gian mở rộng nhiều chiều kích. Nếu không có công

dụng tài hoa ấy, cuốn sách ấy chắc khó đọc với những tranh giành đấu đá đầy công

thức". Nghiên cứu tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn tác giả Trần Cương đã đưa ra

nhận định: "Nghệ thuật viết tiểu thuyết của Ma Văn Kháng đã có bề dày, kết quả

của một quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ và ở tác giả đã có định hình rõ nét phong

cách nghệ thuật của mình".

Gần đây còn có những công trình nghiên cứu ít nhiều đề cập đến ngôn ngữ

nghệ thuật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng như luận văn Thạc sĩ của Lê Thanh

Hùng (2006) - Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ đầu Đổi mới (Giai đoạn sáng tác

1980 - 1989); Lê Minh Chung (2007) - Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới;

Đỗ Thị Thanh Quỳnh (2006) - Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết cuả

Ma Văn Kháng; và luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thi Huệ (2000) - Những dấu hiệu

đổi mới trong văn xuôi của Việt Nam từ 1980 đến 1986 - Qua bốn tác giả: Nguyễn

Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Mạnh Tuấn...

Từ việc tìm hiểu các bài viết, công trình nghiên cứu sáng tác của Ma Văn

Kháng ở từng khía cạnh cụ thể có liên quan đến những vấn đề mà luận văn nghiên

cứu, chúng tôi nhận thấy: Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi

mới ít nhiều đã được tìm hiểu, đề cập đến. Tuy nhiên, những công trình đó mới chỉ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

dừng lại ở những ý kiến, nhận định có tính khái quát, tổng hợp. Mặc dù vậy, trong

7

mức độ nhất định, các tài liệu kể trên sẽ là những gợi ý, định hướng, là nguồn tư

liệu quý báu và cần thiết cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu của mình.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Vì thời gian có hạn, luận văn không đi sâu nghiên cứu tất cả các vấn đề nghệ

thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng mà chỉ tập trung vào 3 vấn đề đặc sắc: Cái nhìn

nghệ thuật, giọng điệu nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết thời kỳ

Đổi mới của Ma Văn Kháng.

Trong quá trình nghiên cứu những vấn đề đặt ra, chúng tôi tập trung vào một

số tiểu thuyết tiêu biểu của nhà văn như Mùa lá rụng trong vườn, Côi cút giữa cảnh

đời, Đám cưới không giấy giá thú, Chó Bi- đời lưu lạc và Ngược dòng nước lũ. Tuy

nhiên, để thấy rõ sự chuyển hướng trong nghệ thuật của nhà văn, chúng tôi có đề

cập đến sáng tác của nhà văn trước đổi mới và có so sánh với những nhà văn khác.

4. Mục đích nghiên cứu

Xuất phát từ những vấn đề nghiên cứu đã được đặt ra chúng tôi tiến hành

nghiên cứu đề tài: "Nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới"

nhằm hướng tới mục đích cụ thể như sau:

4.1. Cảm thụ tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới một cách sâu sắc

hơn, đồng thời chỉ ra được những nét đặc sắc riêng trong thế giới nghệ thuật của

nhà văn, từ đó góp phần khẳng định phong cách nghệ thuật Ma Văn Kháng.

4.2. Nâng cao khả năng cắt nghĩa, lý giải, truyền thụ cho giáo viên trong quá

trình giảng dạy tác phẩm của Ma Văn Kháng ở trường THPT.

4.3. Chỉ ra yếu tố chi phối thế giới nghệ thuật của Ma Văn Kháng, qua đó

khẳng định mối quan hệ thống nhất hữu cơ giữa các yếu tố nổi trội: cái nhìn, giọng

điệu và ngôn ngữ nghệ thuật Ma Văn Kháng. Khẳng định sự đóng góp to lớn của

Ma Văn Kháng trên thi đàn văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên

cứu chúng tôi sử dụng các phương pháp:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

- Phương pháp thống kê, khảo sát

8

- Phương pháp phân tích

- Phương pháp so sánh

- Phương pháp khái quát, tổng hợp

6. Đóng góp của luận văn

- Góp thêm tiếng nói mới về phương diện nghệ thuật trong tiểu thuyết của Ma

Văn Kháng thời kỳ đương đại, cũng như có cái nhìn toàn vẹn về quá trình vận động

tư tưởng nghệ thuật của nhà văn.

- Khẳng định những thành tựu và đóng góp to lớn của Ma Văn Kháng trong

nền văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới.

- Ở một mức độ nào đó, luận văn sẽ làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên

cứu, giảng dạy văn học ở trường PTTH và Đại học cũng như người yêu thích văn

học Việt Nam.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận

văn được triển khai 3 chương:

Chương 1. Cái nhìn nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ

Đổi mới

Chương 2. Giọng điệu nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ

Đổi mới

Chương 3. Ngôn ngữ nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Đổi mới

9

NỘI DUNG

CHƢƠNG 1

CÁI NHÌN NGHỆ THUẬT CỦA MA VĂN KHÁNG

TRONG TIỂU THUYẾT THỜI KỲ ĐỔI MỚI

1.1. Khái niệm cái nhìn nghệ thuật

Chúng ta đã biết, cái nhìn là một năng lực tinh thần đặc biệt của con người,

qua cái nhìn người ta "có thể thâm nhập vào sự vật, phát hiện ra đặc điểm của nó mà

vẫn ở ngoài sự vật, bảo lưu sự toàn vẹn thẩm mỹ của sự vật". Do đó, cái nhìn được

vận dụng muôn vẻ trong nghệ thuật và là một vấn đề dặc biệt quan trọng, đối với

một nhà văn có tư tưởng và sự sáng tạo không thể không có cái nhìn nghệ thuật.

Khrápchencô trong cuốn Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của

văn học đã nhận xét: "Chân lý cuộc sống trong sáng tác nghệ thuật không tồn tại

bên ngoài cái nhìn nghệ thuật có tính cá nhân đối với thế giới, vốn có ở từng nghệ sĩ

thực thụ" [106]. Bởi qua cái nhìn mỗi nhà văn mới tìm ra chất liệu để sáng tác và

sáng tạo nghệ thuật. Những nhà văn có tài là những nhà văn nhìn thấy cái mà người

khác không thấy hoặc khó thấy.

Nhận thấy tầm quan trọng của cái nhìn nghệ thuật, nhà văn Pháp M.Proust có

nói: "Đối với nhà văn cũng như đối với hoạ sĩ, phong cách không phải là vấn đề kỹ

thuật mà là vấn đề cái nhìn". Như vậy là, các nhà nghiên cứu lý luận và sáng tác

nghệ thuật đều khẳng định vai trò đặc biệt của cái nhìn trong sáng tạo nghệ thuật dù

ở bất cứ lĩnh vực nghệ thuật nào. Khi nghiên cứu về cái nhìn, Giáo sư Trần Đình Sử

cho biết "Cái nhìn được thể hiện trong tri giác, cảm giác, quan sát, do đó nó có thể

phát hiện ra cái đẹp, cái xấu, cái hài, cái bi... Đó là một cái nhìn bao quát của người

nghệ sĩ" [59,130]. Vậy cái nhìn đó được hình thành từ đâu? và nó được thể hiện

trong sáng tác của nhà văn như thế nào? Cái nhìn nghệ thuật được hình thành từ

trong quá trình tập trung năng lực tinh thần đặc biệt của nhà văn trước thực tiễn của

cuộc sống. Khi nhà văn có cái nhìn sâu sắc, bao quát thì nó sẽ mở ra khả năng nhìn

thấy rõ tính cách, quan hệ của con người và còn thấu hiểu được các mối liên hệ giữa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

những hiện tượng phức tạp của hiện thực. Sự nhận thức, vốn sống của nhà văn về

10

thế giới được thể hiện chủ yếu trong cái nhìn nghệ thuật. Trong sáng tác của nhà

văn, cái nhìn nghệ thuật được thể hiện qua hình tượng nghệ thuật, qua các chi tiết,

sự kiện và chi phối thế giới nghệ thuật của tác phẩm.

Cũng trong cuốn Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học,

Khrápchencô đã phát biểu rằng: "Một nhà văn tài năng có thể tích luỹ những kiến

thức lớn có liên quan tới phạm vi này hay phạm vi nọ của cuộc sống, có thể là một

con người hiểu biết trong lĩnh vực này hay một lĩnh vực khác, song nếu thiếu một

nhãn quan rộng rãi về cuộc sống thì anh ta sẽ đâm ra bất lực trong việc khám phá ra

cái chủ yếu trong hiện thực" [15]. Qua đó có thể thấy, cái nhìn nghệ thuật có ý

nghĩa quan trọng như thế nào trong việc phản ánh và khám phá hiện thực. Như vậy,

trong nghệ thuật, chân lý cuộc sống không thể tồn tại bên ngoài cái nhìn nghệ thuật

của người nghệ sỹ. Thực tế sáng tác, mỗi nhà văn đều có cái nhìn riêng, độc đáo

biểu hiện trong thế giới nghệ thuật của mình. Chính cái nhìn ấy đã góp phần tạo nên

phong cách nghệ thuật cuả nhà văn.

1.2. Những yếu tố tạo nên cái nhìn nghệ thuật của Ma Văn Kháng

1.2.1. Tố chất thông minh sắc sảo và cá tính sáng tạo của nhà văn

Ma Văn Kháng sinh ngày 01 tháng 12 năm 1936, tên thật là Đinh Trọng Đoàn,

người dân tộc Kinh, quê gốc ở Phường Kim Liên, Quận Đống Đa, Thành phố Hà

Nội, nay ở Quận Ba Đình - Hà Nội. Ông là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, hội

viên Hội Nhà văn Việt Nam. Sinh ra trong một gia đình hiếu học, Ma Văn Kháng

được bố mẹ rất quan tâm đến chuyện học hành. Vốn có tố chất thông minh cùng với

năng khiếu và sự ham tìm tòi trong sáng tạo nghệ thuật ông đã thành công trên con

đường sự nghiệp. Ông được đánh giá là một trong những "cây bút văn xuôi lực

lưỡng" của văn học Việt Nam hiện đại nửa cuối thế kỷ XX.

Là một chàng trai Hà thành chính hiệu nhưng Ma Văn Kháng có một thời gian

khá dài sống ở miền núi Tây Bắc. Ma Văn Kháng đã từng tham gia quân đội từ tuổi

thiếu nhi và được cử đi học ở Khu học xá Nam Ninh, Trung Quốc. Năm 1960, ông

vào học tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp Đại học, Ma Văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Kháng lên dạy học ở Lào Cai và đã lần lượt trải qua nhiều cương vị công tác. Ông

11

đã từng làm giáo viên dạy Văn, hiệu trưởng trường cấp 2, cấp 3 phổ thông Lào Cai,

về sau ông được Tỉnh uỷ Lào Cai điều về làm thư ký cho Bí thư Tỉnh uỷ, rồi làm

phóng viên, Phó tổng biên tập báo Đảng bộ Tỉnh. Suốt 20 năm gắn bó với mảnh đất

Tây Bắc, Ma Văn Kháng am hiểu lối sống, phong tục tập quán của đồng bào các

dân tộc thiểu số. Cái tên Ma Văn Kháng phần nào đã nói lên tình yêu thương mà

ông dành cho mảnh đất giàu tình nghĩa ấy. Từ trong tâm khảm, nhà văn đã coi Tây

Bắc là quê hương thứ hai của mình.

Sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, từ năm 1976 đến nay, Ma Văn

Kháng về sống và công tác tại Hà Nội. Ông từng làm Tổng biên tập, Phó Giám đốc

Nhà xuất bản Lao động. Đến tháng 3 năm 1995, ông là Uỷ viên Ban chấp hành

Đảng - Đoàn Hội Nhà văn Việt Nam khoá IV, trưởng ban sáng tác của Hội và là

Tổng biên tập Tạp chí Văn học nước ngoài. Ở cương vị công tác nào, ông cũng là

người dễ mến, sống chan hoà với mọi người.

Trải qua gần năm mươi năm cầm bút, Ma Văn Kháng đã chứng tỏ khả năng tung

hoành ngòi bút của mình trên nhiều lĩnh vực và đề tài khác nhau. Đức tính kiên trì, tố

chất thông minh của nhà văn đã giúp ông trong việc tìm tòi nghệ thuật biểu hiện và

mạnh dạn phanh phui trực diện những vấn đề phức tạp, gai góc của đời sống hiện tại.

Sau nhiều năm miệt mài tâm huyết với sáng tạo nghệ thuật cho đến nay, Ma

Văn Kháng đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam hiện đại gần 20 truyện ngắn, 10

tiểu thuyết và 8 tập truyện viết cho thiếu nhi. Với khối lượng tác phẩm đồ sộ và bề

thế, cùng với chất lượng nghệ thuật trong từng trang viết của mình, Ma Văn Kháng

đã khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn xuôi Việt Nam đương đại.

Ở những sáng tác thời kỳ đầu người ta có thể thấy ngay chỗ mạnh và cũng là

đặc điểm trong các sáng tác của Ma Văn Kháng là tính chất tập trung đề tài và nội

dung phản ánh cuộc sống của con người miền núi. Đây chính là "đặc khu" mà Ma

Văn Kháng đã dồn tâm, dồn sức trong suốt cuộc đời trai trẻ của mình. Có thể nói

cùng với nhà văn Tô Hoài - người đặt nền móng xây dựng nền văn học viết về đề tài

miền núi, Ma Văn Kháng đã góp sức mình khẳng định tầm cao mới trong những sáng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

tác viết về đề tài miền núi của nền văn học hiện đại Việt Nam.

12

Ma Văn Kháng đã từng tâm sự "Có sự tương hợp giữa thành nhân và đắc đạo

văn chương". Chặng đường dài mấy chục năm qua của Ma Văn Kháng đã chứng

minh cho sự tương hợp ấy. "Tự rèn luyện mình để viết văn. Viết văn để tự rèn luyện

mình" chu kỳ chuyển đổi đó không ngừng vận hành trong cuộc sống hàng ngày của

Ma Văn Kháng. Từ một Đinh Trọng Đoàn ngơ ngác giờ đây đã trở thành nhà văn

Ma Văn Kháng được bạn đọc mến mộ. Hàng ngàn trang sách của ông quện đặc tình

yêu con người, tình yêu thiên nhiên và tình yêu cuộc sống.

Trải qua nhiều môi trường công tác, giữ nhiều chức vụ khác nhau, Ma Văn

Kháng đã phát huy mọi khả năng của mình để quan sát cuộc sống ở nhiều góc cạnh.

Làm việc không mệt mỏi sau mỗi chuyến đi, Ma Văn Kháng lại chắt lọc lại từng

mẩu nhỏ của cuộc đời để tái hiện vào trong tác phẩm của mình. Bởi vậy, nhiều

người đọc tác phẩm của Ma Văn Kháng cứ ngỡ rằng tác giả viết cho mình - Ma Văn

Kháng là "nhà văn của mình".

Đến với văn học bắt đầu bằng thể loại truyện ngắn, được người đọc yêu mến

qua những tập truyện ngắn đặc sắc, nhưng Ma Văn Kháng chưa hài lòng với phạm

vi phản ánh của thể loại này. Ông nhận ra rằng: "Chỉ có tiểu thuyết viết theo quy

luật sáng tạo nghệ thuật mới cho phép tôi chuyển hoá khối lượng vốn sống khá dày

dặn sau nhiều năm tích luỹ, cho phép tôi phản ánh hiện thực một cách sâu sắc, cho

phép tôi gửi gắm vào đó những suy nghĩ, những tình cảm, những kinh nghiệm của

cá nhân tôi" [30]. Như vậy, có thể thấy Ma Văn Kháng đã biến tất cả những cái mà

mình đã thu lượm được, thành năng lượng tâm hồn và trào chảy ra đầu ngọn bút để

tạo dựng cho mình một cái nhìn riêng đầy phong cách của một cây bút hiện thực,

cảm thương, từng trải, tinh tế, gan ruột mà đằm thắm.

Nằm trong dòng chảy của văn học thời kỳ Đổi mới, các sáng tác của Ma Văn

Kháng cũng có những thay đổi đáng kể với những bước đột phá về tư duy nghệ

thuật. Nếu như những trang viết của Ma Văn Kháng trước thập kỷ 80 thể hiện cái

nhìn mang tính sử thi, thì ở giai đoạn sau nhà văn đã chuyển sang cái nhìn thế sự

đời tư. Cuộc sống hiện lên trong tác phẩm của ông giờ đây không còn đơn tuyến mà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

đa tuyến, nhiều chiều, cái xấu xen lẫn cái tốt, ma quỷ chen lẫn với thánh thần. Ông

13

quan tâm, phản ánh đến số phận con người trong nhiều quan hệ, nhiều hoàn cảnh

khác nhau và cố gắng nắm bắt mọi khía cạnh của cuộc sống để lột tả nó một cách

đầy đủ nhất trong tính đa dạng, toàn vẹn của nó…

Đó là một thách thức lớn đối với tất cả các nhà văn, kể cả những nhà văn luôn

gắn mình với đô thị. Thách thức đó còn lớn hơn đối với một nhà văn có thời gian

lâu dài sống xa nơi phố phường, đô hội như Ma Văn Kháng. Nhưng bằng tài năng,

bằng sức sáng tạo và cả tấm lòng của mình, Ma Văn Kháng đã thổi vào văn học

Việt Nam thời kỳ Đổi mới một luồng sinh khí mới với cái nhìn tinh tế, sắc sảo,

hướng thẳng vào những vấn đề nhức nhối trong cuộc sống hôm nay.

1.2.2. Sự chuyển mình mạnh mẽ của một cơ chế xã hội mới

Cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi năm 1975 đã đưa đất nước và

nhân dân ta bước sang một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa

xã hội. Khi tiếng súng đã thật sự chấm dứt, thì hậu quả nặng nề của ba mươi năm

chiến tranh chống Pháp và Mỹ vẫn để lại những ảnh hưởng của nó, vì thế thời kỳ

hậu chiến vốn đã khó khăn lại càng khó khăn. Công cuộc cải tạo và xây dựng xã hội

chủ nghĩa đã bắt đầu bộc lộ những khiếm khuyết cả trong nhận thức lẫn và thực

tiễn, bên cạnh đấy là tình trạng suy thoái về kinh tế, tệ nạn xã hội phát triển… Để

đưa đất nước thoát ra khỏi cơn khủng hoảng và tình trạng bế tắc đó, Đảng ta đã lựa

chọn con đường đổi mới, có thể nói đây là con đường phát triển tất yếu, có ý nghĩa

sống còn của đất nước. Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta

đã kêu gọi "Đổi mới tư duy" trên tất cả mọi phương diện và "Nhìn thẳng vào sự

thật". Sự đổi mới ấy đã đem đến cho văn học một không khí mới - không khí dân

chủ hoá, nói như PGS Nguyễn Văn Long "Dân chủ hoá đã thấm sâu và được thể

hiện ở nhiều cấp độ bình diện của đời sống văn học" [42]. Các nhà văn được viết

những gì họ nhìn thấy, cảm thấy kể cả những mặt trái của đấu tranh, mặt trái của

cuộc sống. Có thể nói, dân chủ hoá đã tạo điều kiện cho văn học đề cập đến hiện

thực trong và sau chiến tranh một cách toàn diện và sâu sắc hơn ở nhiều khía cạnh.

Các nhà văn đã nhấn mạnh tư tưởng tôn trọng sự thật, nhìn thẳng vào sự thật vì "Sự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

thật luôn luôn là linh hồn của nghệ thuật chân chính" [43].

14

Thực tế công cuộc đổi mới của văn học diễn ra không hoàn toàn đơn giản một

chiều mà hết sức phức tạp, có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược

nhau nhưng cũng chính điều này lại làm cho đời sống văn học sau Đại hội Đảng VI

trở nên náo động hơn. Xét cho cùng, yếu tố quan trọng nhất để quá trình đổi mới

văn học thành công là cái tâm trong sáng và trách nhiệm của người cầm bút. Nói

như Hà Xuân Trường: "Đổi mới văn học, điều quan trọng nhất, quyết định là cái

nhìn và cái tâm của lòng trong sáng nhân ái, cộng với ý thức đầy đủ và chức trách

cao cả của văn học đối với con người, đối với cuộc đời, với nhân dân mình. Không

có những cái đó thì không có đổi mới" [dẫn theo72,27].

Xuất phát từ một cảm hứng mới, tiểu thuyết thời kỳ này cũng có những thay

đổi cơ bản về phương diện nghệ thuật. Từ chỗ lấy sự kiện làm đối tượng hàng đầu

để miêu tả hiện thực xã hội, tiểu thuyết đã hướng vào tâm hồn, tính cách số phận

con người để soi chiếu trở lại lịch sử và xã hội. Cái nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết

có những bước chuyển biến rõ rệt, tiểu thuyết đã trở thành thể loại đóng vai trò chủ

đạo trong đời sống văn học. Đây chính là thể loại thích hợp, uyển chuyển và giàu

khả năng nhất trong việc bám sát hiện thực cuộc sống và khám phá số phận, tính

cánh con người. "Con mắt" tiểu thuyết trở thành công cụ soi chiếu cả bề rộng những

vấn đề xã hội và bề sâu với từng số phận con người.

Nếu điểm những gương mặt tiêu biểu cho văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới,

Ma Văn Kháng phải là một trong những người được ghi công hàng đầu. Cùng với

Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn... Ông đã dũng

cảm tiên phong mở đường cho sự đổi mới của văn học Việt Nam. Đúng như đánh

giá của PGS - TS Lã Nguyên "Trước làn sóng đổi mới dâng lên mạnh mẽ trong đời

sống tinh thần của dân tộc, trong những điều kiện cực kỳ khó khăn của đất nước,

sáng tác của Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Mạnh Tuấn…đã đốt lên nhiệt

tình tìm kiếm chân lý. Hứa hẹn khả năng đổi mới văn học Việt Nam khi nó dám

sòng phẳng với quá khứ, bất chấp mọi thế lực ngăn cản" [49,158]. Sự đổi mới trong

tiểu thuyết của Ma Văn Kháng nói riêng và trong sáng tác của ông nói chung đều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

bắt đầu bằng cái nhìn nghệ thuật.

15

1.3. Cái nhì n nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ

Đổi mới

1.3.1. Cái nhìn hiện thực sắc sảo hướng thẳng vào những vấn đề nhức nhối

trong cuộc sống

Khi chuyển hướng ngòi bút sáng tác của mình, Ma Văn Kháng đã nhanh chóng

tiếp cận một hiện thực phong phú, ngổn ngang, bộn bề, phải trái trắng đen lẫn lộn,

xen cài trong đó biết bao biến động.

Quả thực, nhiều chục năm nay, khi nói đến hiện thực trong văn học bên cạnh

những mặt tích cực, phấn chấn hào hùng luôn được các nhà văn miêu tả một cách hào

phóng, thì những mảng tối, những bóng đen nhiều khi còn quá gượng nhẹ, hoặc né

tránh. Trong khi cái xấu, cái ác không biết từ lúc nào từ bóng tối đã lấn dần ra ánh

sáng và biết bao con người lao động lương thiện đã lâm vào đau khổ, thậm chí tuyệt

vọng. Cũng như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn… Ma Văn

Kháng đã "vục" vào cái sự thật tối tăm, oan khổ trong hầu hết các sáng tác của mình.

Đất nước ta vừa trải qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc, nay trở về cuộc sống

đúng với quy luật bình thường của nó, nhưng thực tế đó không hề diễn ra bình yên.

Vốn đã quen với đời sống trong chiến tranh, nơi chỉ có mục tiêu duy nhất là đấu

tranh giành độc lập tự do, giờ đây trước cuộc sống mới con người trở nên bỡ ngỡ,

khó bề hoà nhập ngay được với cơ chế mới, hoàn cảnh sống mới. Đời sống của nền

kinh tế thị trường lúc này là một thứ thuốc thử về năng lực và phẩm hạnh con

người. Con người phải đứng trước những thử thách nghiệt ngã của cuộc sống mà

cuộc đấu tranh với chính bản thân là cuộc đấu tranh nhiều cam go nhất. Thử thách

này không chỉ diễn ra với đại bộ phận người dân mà còn diễn ra ngay trong bộ máy

chính quyền, quản lý Nhà nước. Trước thực tế không ít những kẻ được Đảng và

Nhà nước giao trách nhiệm quản lý, giúp đỡ nhân dân đã thừa cơ hội "đục nước béo

cò", đục khoét của Nhà nước, chèn ép, hành hạ những người dân lương thiện, Ma

Văn Kháng đã nhanh chóng đưa hiện tượng đó lên từng trang sách của mình. Với

cái nhìn sắc sảo và mới mẻ nhà văn đã nhìn hiện thực cuộc sống ở tầm vĩ mô để

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

phát hiện nguyên nhân của sự thật đau lòng đấy chính là sự bất cập trong việc lựa

16

chọn cán bộ chủ chốt ở từng cơ quan, công sở, trường học. Ma Văn Kháng đã đưa

ra ánh sáng sự ấu trĩ của xã hội ta một thời, đó là lý lịch hoá trong việc lựa chọn cán

bộ lãnh đạo. Hơn thế, nhà văn còn nhìn thấu để leo lên được vị trí, để có được chức

quyền, không ít người đã dùng thủ đoạn, kể cả những thủ đoạn trắng trợn, bỉ ổi nhất.

Trước những thói hư tật xấu đang hoành hành ngang nhiên tồn tại và ngày

càng nảy nở, sinh sôi trong đời sống xã hội, làm tha hoá biến chất biết bao con

người, đặc biệt là những hiện tượng tiêu cực của Cán bộ, Đảng viên trong một số cơ

quan Nhà nước có thể trở nên nguy hiểm như "những tổ mối tiềm tàng trong lòng

những con đê mà không trừ được tận gốc". Ma Văn Kháng cảm thấy lo âu, trăn trở

và muốn cất lên lời kêu cứu khẩn thiết cần phải chấn chỉnh lại cơ chế cũ của một

nhà văn có cái tài, cái tâm trong sáng, có trách nhiệm với cuộc đời trên những

trang văn của mình.

Trong Mưa mùa hạ bằng mọi thủ đoạn hèn hạ và bất nhân, Hưng leo lên được

quyền trưởng phòng. Có quyền Hưng hiện nguyên hình là một kể tha hoá. Toàn bộ

động cơ sống của con người này toát lên mục đích thực dụng vị kỷ. Trước mặt đồng

nghiệp ở cơ quan, Hưng đã trơ trẽn tuyên bố rằng: "Con người ta, anh quái nào

chẳng vụ lợi… và nói chung ai cũng chính vì mình mà thôi" [25]. Biết Trọng là một

kỹ sư giỏi, giầu nhiệt huyết, đầy hứa hẹn trong công tác chuyên môn, nghiên cứu

khoa học và biết chắc một điều những thành công của Trọng là một điều vô cùng

bất lợi đối với mình. Hưng đã lợi dụng quyền trưởng phòng để trù dập, để cản bước

tiến của Trọng. Kết cục Trọng phải ở lại cơ quan chờ án kỷ luật. Hành vi thấp hèn

của Hưng đã đẩy một con người tự tin, yêu đời đầy lý tưởng sống, một tâm hồn

trong sáng nhiệt thành, một ý chí vươn lên mạnh mẽ rơi vào bi kịch xót xa khiến

anh có lúc thầm chua chát "Nam đã chết còn anh đang chết mòn…".

Ông Lại, vốn là đồ tể ở cái ba toa cuối phố, vì "có công" "chạy ra đón bộ đội

vào giải phóng thị xã" [21,102] thế là đương nhiên ông trở thành một người đã tham

gia cách mạng. Đó là xuất thân và cũng là "thành tích" của Bí thư Thị uỷ của một

thị xã miền cao trong Đám cưới không có giấy giá thú. Chỉ là một gã đồ tể, đi theo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

cách mạng có hai năm, tức hơn bảy trăm ngày cũng đã đủ vốn liếng để trở thành

17

một Bí thư Thị uỷ - kẻ có quyền hành tuyệt đối bao trùm lãnh địa, thực hiện quyền

lực vào tất cả ngõ ngách của đời sống. Chính vì thế, ông càng tỏ uy quyền bao nhiêu

thì lại càng thể hiện sự ấu trĩ, vô văn hoá bấy nhiêu. Hãy nghe ông phát biểu trong

buổi khai giảng năm học đầu tiên của một trường Trung học: "Hôm nay, thị xã ta

khai giảng trường cấp 3, rồi đây chúng ta sẽ mở trường cấp 4, cấp 5, cấp 6. Cũng

giống như Tỉnh ta có giống lợn lai kinh tế nhiều nạc, tăng trọng nhanh " [21,101-

102]. Công việc mở mang dân trí, khai sáng văn minh lại được Bí thư Thị uỷ ví như

việc phát triển những giống lợn, khiến cho học sinh và những người thầy đứng ra

gánh vác cái trọng trách to lớn ấy phải tủi hổ. Chưa hết, cực điểm của màn bi hài là

ông đã hùng hồn tuyên bố trước toàn thể giáo viên và học sinh "Trí thức không

bằng cục cứt chó khô đâu các người hãy nhớ lấy" [21,103] và tầng lớp trí thức tiểu

tư sản chỉ là "cái sinh thực khí tức là cái của thằng đàn ông. Nghĩa là xung trận thì

nó được kích thích thì nó cương cứng lên. Rồi sau đó lại ỉu xìu như thằng đã chết

trôi" [21,103]. Làm sao có thể tưởng tưởng được những lời mạt sát vừa vô học, vừa

bỉ ổi đó lại được phát ngôn từ một người đại diện cho Đảng. Đó quả thật là một thảm

kịch cho một nền văn hoá mới.

Dưới cái nhìn sắc sảo và mới mẻ của Ma Văn Kháng, chân dung của ông

"quan Lại" được hiện lên một cách sống động, chân thực và sắc nét. Chân dung đó

một lần nữa lại đươc tái hiện một cách rõ ràng hơn qua cuộc đối thoại giữa ông với

thầy giáo dạy giỏi văn Đặng Trần Tự tại trường trung học số 5:

"- Anh có được người ta dạy chủ nghĩa Mác không? Có hiểu linh hồn chủ

nghĩa Mác là gì không?

- Chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa nhân đạo hoàn thiện, là chủ nghĩa tự nhiên

hoàn bị. Lịch sử là một dòng chảy tự nhiên, ở ngoài ý chí cá nhân. Là dòng chảy vô

thức xã hội.

- Ngu! linh hồn chủ nghĩa Mác là chuyên chính!

- Người xưa nói: Ngựa vì buộc nó bằng giàm, ách nên nó mới lồng lên hung

hăng. Trị người như trị ngựa, làm trái nhân tính sẽ gây rối loạn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

- Im đi! vừa phong kiến mà sặc mùi tư bản là anh! Cút! " [21,107-108].

18

Có thể nói đây rõ ràng là một cuộc quyết đấu giữa quyền lực và tri thức, nhưng

đây là một cuộc chiến không cân sức khi tri thức và nhân cách chỉ là số ít mà quyền

lực vừa đông, vừa mạnh lại có cả cái gan làm liều, do tự thị và vô học, để rồi đi đến

một kết cục đau thương, khi cái đẹp, cái tốt, cái cao cả bị chà đạp.

Cái nhìn sắc sảo của Ma Văn Kháng còn nhận thấy hậu quả khôn lường của sự

ấu trĩ và bất cập ấy. Nhà văn nhìn rõ khi cái dốt, cái ác nắm quyền lực thì hậu quả

của nó thật khôn lường. Thầy giáo Tự (Đám cưới không có giấy giá thú) còn khốn

đốn vì Bí thư Dương và Hiệu trưởng Cẩm. Từ một bí thư Đoàn xã trình độ văn hoá

lớp 7, nhờ sức vóc, đạt giải chạy 1000 mét ở Huyện, Cẩm được đề bạt làm cán bộ

Đoàn, và được mời vào dạy thể dục ở một trường cấp II. Do có một vài năm thâm

niên trong nghề, Cẩm được cử đi học Đại học theo ý đồ vạch sẵn.

Lợi dụng kẽ hở trong quản lý cùng với năng lực "chạy", Cẩm nghiễm nhiên trở

thành một hiệu trưởng trường cấp III. "Cẩm là loại trí thức giả danh dốt nát và bần

tiện". Hiệu trưởng Cẩm của cái trường cấp III bất hạnh ấy, "chính là sản phẩm của

một thời lấy lý lịch ba đời nghèo khổ, lấy tấn phân xanh phân chuồng làm thước đo

giá trị của mỗi con người". Với lối đề bạt như vậy, lại thêm cái thói tham lam vô độ,

bần tiện, liều lĩnh và luôn thèm khát địa vị, Cẩm đã làm điêu đứng, tổn thương biết

bao nhiêu người chân chính như ông Thống, như Tự…

Cũng như Cẩm, Dương đã đạt lên tới đỉnh cao của danh vọng, tuy nhiên con

đường tiến thân của Dương nhanh gọn hơn. Trình độ văn hoá mới chỉ là lớp nhì

năm thứ nhất nhưng Dương tốt nghiệp lớp lý luận cấp cao nên ông ta được Bộ Giáo

dục đưa sang làm giáo viên dạy chính trị - Bí thư chi bộ nhà trường. Là giáo viên

dạy chính trị nhưng ông Bí thư chi bộ của nhà trường này đã trở nên bất hủ với lời

giải thích: Mác xít là tên gộp của hai vị lãnh tụ cộng sản C.Mác và Xíttalin ghép lại.

Ông còn đồng hoá với chức vụ và càng thâm niên đảm nhiệm chức vụ ông càng xa

cách con người bình thường tự nhiên, càng bộc lộ rõ trình độ văn hoá cấp I của

mình. Ông cho rằng: "Văn chương tự cổ vô bằng cứ. Văn chương là tư tưởng. Mà tư

tưởng thì nó như con lươn rúc bùn, như anh chàng Tôn Ngộ Không bảy mươi hai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

phép biến hoá thần thông, sai đấy, đúng cũng đấy, lập lờ phản trắc cũng là ở đấy…"

19

[21,176]. Dương còn một thói xấu nữa là nhân danh cán bộ Đảng, tự cho mình có

quyền bóc thư người khác để xem trộm. Thật là một hiện tượng kỳ quặc, một sự

thiếu văn hoá lạ lùng. Đặc điểm của người ít học, kém trí tuệ được ông "phát huy"

một cách triệt để. Ông hay quan trọng hoá và lên mặt cường điệu về vai trò của

mình…Tiếc thay công tác Đảng, các động lực vĩ đại của cộng sản, cái linh hồn sống

động của sự phát triển, thông qua ông Dương đã biến thành một chuỗi công việc đối

phó vặt vãnh, ngờ nghệch. Có những khi ông Dương được miêu tả là một ông lão cổ

hủ, dốt nát, lúc lại hiện nguyên hình là một gã cảnh sát chỉ nhằm phạt vi cảnh người

bộ hành, lại có lúc hành tung của một tên mật thám quỷ quyệt.

Đó là những kẻ "bất tri" nhưng lầm tưởng là "tri" và tự giao cho mình cái

quyền dạy cách làm người cho giáo viên và học sinh. Ấy thế mới nảy sinh ra những

nghịch lý, cái xấu ngồi trên cái tốt, cái vô văn hoá dẫm đạp lên cái có văn hoá, cái

ngu dốt ngự trị tài năng. Sự đảo ngược các giá trị đó đã làm cho những người tâm

huyết như Ma Văn Kháng dằn vặt đến đau đớn. Viết về nhà trường đấy nhưng thực

ra Ma Văn Kháng muốn đề cập đến một vấn đề xã hội rộng lớn hơn. Câu chuyện

tiêu cực ở trường Trung học số 5 này, mang dấu ấn và là sản phẩm của một giai

đoạn xã hội mang nặng tính chất giáo điều, máy móc áp đặt, lối làm việc chạy theo

thành tích giả dối trong công việc, trong quan hệ đối xử giữa con người với con

người. Những kẻ nắm quyền lực đã tỏ ra không xứng đáng với trách nhiệm của

mình và là những kẻ tồi tệ, không thể chấp nhận được.

Hướng thẳng cái nhìn sắc sảo, tinh vi của mình vào những vấn đề nhức nhối

trong cuộc sống, Ma Văn Kháng còn chỉ ra cái ác, cái xấu không chỉ tồn tại ở một

cá nhân mà là một liên minh những kẻ cầm quyền tha hoá, lợi dụng chức quyền

hãm hại người dân lương thiện. Trong Chó Bi - đời lưu lạc, liên minh đó bao gồm;

Viễn cụt, mụ Lên, Xuân Chương và gã y sỹ nửa mùa… Viễn là chủ tịch phường,

Lên là chủ nhiệm cửa hàng kinh doanh tổng hợp, Xuân Chương được phân công

chuyên trách tư tưởng của cả phường. Cả ba đều thuộc diện ưu đãi của chính sách.

Viễn khai là thương binh què chân, Xuân Chương khai là thương binh loại nhẹ, lý

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

lịch ghi có thời đi thanh niên xung phong tuyến lửa, còn mụ Lên khai là vợ liệt sĩ.

20

Nhưng thực chất Viễn chính là một tên lưu manh đảo ngũ, đã tự chặt ngón tay để

khỏi phải ra chiến trường. Vốn là một anh lính bị kỷ luật trong chiến tranh do giết

bạn, rồi do ăn cắp lý lịch của bạn mà Viễn được thăng tiến… Còn mụ Lên "tính khí

hoa nguyệt đến mức gây rối loạn chức sắc địa phương" phải tha hương lên thành

phố. Xuân Chương thì là một tướng khỉ, không nghề nghiệp, bỏ quê ở miền Trung

đi làm phu hồ ở công trường xây dựng nhà ở của phường. Được ví là "gã trai đàng

điếm" nên chẳng bao lâu hắn đã nhanh chóng quen hơi bén tiếng với mụ đàn bà

"hừng hực bản năng giống cái" để trở thành "cô cháu" rồi ở cùng một nhà. Cả ba

người, nắm ba mặt quan trọng nhất của đời sống: chính quyền, kinh tế, văn hoá…

và cả ba đều cùng một duộc, kết bè kết đảng với nhau để đục khoét, vơ vét, của cải

của người dân lương thiện về tay mình, về nhà mình. Những kẻ lãnh đạo như thế,

bộ mặt của phường và đời sống nhân dân được chăm lo như thế nào là điều ai cũng

có thể tưởng tượng ra.

Trước một cái nhìn sâu sắc, đa diện, Ma Văn Kháng nhận thấy nạn nhân của

liên minh ma quỷ này không ai khác là gia đình ông Thuần, một gia đình vốn rất

hạnh phúc, vui vẻ, đầm ấm. Vợ ông Thuần là giáo viên ở một trường Trung học, là

người đôn hậu, hiền lành hết lòng vì chồng vì con. Họ có hai cậu con trai thông

minh, học giỏi, ngoan ngoãn. Một gia đình tuyệt vời như thế lại trở thành cái gai

trong mắt những kẻ độc ác, bất nhân như Viễn, Lên, Xuân Chương... Hơn nữa ông

Thuần lại có một "trọng tội" là thủ trưởng cũ của ông Chủ tịch phường, người đã kỷ

luật và nắm rõ sự tích ngón tay cụt của lão, điều mà xưa nay ông Chủ tịch Phường

không muốn ai biết. Vì lẽ đó, lão ta đã báo cáo ngầm lên trên để vu oan ông, khiến

cho gia đình ông Thuần - một trí thức tiếng tăm và được trọng vọng bỗng chốc đã

tan nát, lâm vào cảnh khốn đốn: Chồng con bị tù tội; vợ bị xúc phạm kỳ thị của

hàng xóm và sự bức hiếp của những kẻ cầm quyền đến nỗi đau ốm suy sụp.

Đa dạng trong cái nhìn, nếp cảm, lối nghĩ, Ma Văn Kháng đã nhìn rõ chân

dung của những nhà cầm quyền một thời. Họ không hề có ý thức vì dân, phục vụ

dân. Trái lại, họ lợi dụng chức quyền để bóc lột và chèn ép người dân. Mục đích

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

duy nhất của những nhà cầm quyền trong Côi cút giữa cảnh đời là làm sao vơ vét

21

được càng nhiều tiền của cho bản thân mình càng tốt cho dù phải dùng thủ đoạn gì

chăng nữa. Ông Luông - Chủ tịch phường Ngọc Sinh, vốn sống trong một ngôi nhà

"kín cổng cao tường, qua ba lớp cửa sắt mới vào được tới sân. Mảnh chai tua tủa sắc

rợn trên vòng tường vi, trên nữa là giây thép gai đan lưới mắt cao. Ông có một

chùm chìa khoá hai mươi mốt chiếc… vào đến buồng ngủ phải qua bẩy lần cửa

khoá nổi khoá chìm" [23,35] là những người như thế. Ma Văn Kháng đã để cậu bé

Duy, mười năm tuổi nhìn lại cái thời thơ ấu của mình mà ghê sợ nhận ra rằng: "Thì

ra con người ta là vậy, nó, chính nó nhiều khi lại là thủ phạm gây bao nỗi oan khổ

đau đớn cho đồng loại. Con người mang tiếng là con người mà sao nó lại có thể

nhẫn tâm, đểu cáng thế" [23,134]. Không chỉ ông Luông mà tên Hứng cũng không

từ thủ một đoạn nào để cướp đoạt tài sản của ba bà cháu đang sống trong cảnh đau

buồn, tuyệt vọng. Khi một bà lão già nua gần 70 tuổi do hoàn cảnh đưa đẩy phải

chăm lo nuôi dạy hai đứa trẻ côi cút. Cuộc sống của ba bà cháu đã phải trải qua

những ngày nguy khốn, tuyệt vọng, phải đem bán cả đồ đạc, ăn bữa rau bữa cháo,

bữa đói bữa no… Quả thật, nếu ai đã từng đọc và chứng kiến tình cảnh đau thương

này không khỏi không xót xa, đau đớn. Thế mà hắn hàng ngày sống và chứng kiến

tình cảnh đó lại không sẻ chia, giúp đỡ mà ngược lại còn lợi dụng chức quyền, lợi

dụng gia cảnh của ba bà cháu để chèn ép, để vơ vét cho mình. Chúng đã liên minh lại

với nhau để thực hiện dã tâm chiếm đoạt ngôi nhà của ba bà cháu, chỉ để lại cho một

bà già và hai đứa trẻ côi cút một căn buồng vẻn vẹn 6m vuông. Càng không ai có thể

ngờ, một người giàu có như Chủ tịch phường Luông, đã từng công tác trong ngành

ngoại giao 30 năm, lại có thói quen "ăn bẩn" khi ăn chặn, ăn quỵt của trẻ con từng

đồng từng hào mà mẹ chúng gửi về. Ông ta đã trắng trợn cướp đi từng miếng cơm

manh áo của con trẻ, thậm chí cả sinh mệnh chúng. Không những tham lam, độc ác,

ăn bẩn một cách vô độ, ông Chủ tịch phường Ngọc Sinh còn là một kẻ cửa quyền độc

ác và ngu dốt. Ông ta cho rằng mình là người nắm "công tắc điện", cho ai sáng người

ấy được sáng. Ngu dốt đến mức cho rằng Tây du ký là cuốn sách viết về chuyện Đặng

Tiểu Bình đi Mỹ, cấm mọi người đọc, rồi ông ta căn cứ vào hai cái họ: họ Lã (nhà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Duy) và họ Đổng (mẹ Duy) để ngang nhiên buộc tội dân lành, ông còn cố tình cho

22

rằng cái món tiền hàng tháng được bí mật gửi cho bà cháu Duy là tiền của bọn gián

điệp nó trá hình cấp cho cụ (mà sau này xác minh được đó là tiền mẹ Duy gửi). Và

tất nhiên là ông ta giữ luôn số tiền hàng tháng đó vào trong túi mình, biến thành tài

sản của mình…

Đặc biệt là Tổng cục trưởng Nguyễn Văn Phô trong Ngược dòng nước lũ - vốn

là một học sinh nổi tiếng dốt nát và bỉ tiện, quá kém cỏi nên bị thầy Khiêm (lúc ấy

là hiệu trưởng) đuổi học, đi làm công nhân bốc vác ở nhà ga xe lửa, rồi "nhảy tót lên

ghế cục trưởng". Cũng leo lên bằng cơ chế lý lịch hoá, Tổng cục trưởng Phô không

cần học hành, không mất xương máu, chỉ cần có một lai lịch nghèo khó, một vẻ

ranh mãnh trên đường đời, đã khiến cho con đường thăng tiến của Phô trở nên dễ

dàng. Nhưng càng đứng ở vị trí cao thì sự kém cỏi về năng lực càng được bộc lộ.

Từ diện mạo "lạnh lẽo cô hồn, vừa nham hiểm" [26,158]. Khi có quyền lực tối cao

hắn "ỷ vào quyền hành... hay trả thù cá nhân". Để giữ được cái địa vị tối cao, Phô

luôn tìm cách loại bỏ những đồng nghiệp không tuân phục cách quản lý của mình.

Đặc biệt là khi phát hiện ra Khiêm là thầy giáo cũ - người biết quá rõ lai lịch mình

lại xuất sắc và cao đẹp trong nhân cách đạo đức, vì lẽ đó hắn luôn tìm mọi cách để

loại bỏ Khiêm. Phô thực hiện triệt để chủ trương "tôi không cần người có tài, tôi chỉ

cần đoàn kết" [26,159], không cần người có tài và biết làm việc, mà chỉ cần những kẻ

biết tuân phục nên hắn đã đạo diễn hết màn kịch này đến màn kịch khác hòng dồn đẩy

những con người như Khiêm đến tận cùng bi kịch đau xót.

Trong Ngược dòng nước lũ không chỉ có Phô mà Ma Văn Kháng còn nhìn thấu

đến tâm can sự đen tối của những kẻ hám danh, hám lợi đến cạn tình ráo máng như

Đức, Hiển, Quanh lé... Khi biết Khiêm bị Phô đánh bật ra khỏi vị trí công tác của

mình, Quanh xum xoe nịnh nọt Phô để hòng được cân nhắc lên ghế chủ nhiệm thay

Khiêm. Kẻ a dua này theo lệch chủ phản bội lại Khiêm không từ thủ đoạn nào. Cái

đám đông bất tài vô nghĩa lý ấy, được Phô dựng lên bằng quyền lực, động cơ cá

nhân của mình để giữ bằng được cái chỗ ngồi của mình, Phô đã dựng quanh mình

một liên minh ma quỷ, những kẻ dốt nát, vô đạo đức, nhằm chống lại Khiêm và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

củng cố địa vị của mình.

23

Ma Văn Kháng vốn là một cây bút đầy nhiệt thành, tâm huyết và trách nhiệm.

Vì vậy, những chuyện tiêu cực trong các sáng tác của ông không toát ra sự thoả

thuê, cay cú mà nổi bật lên là thiên hướng nhạy cảm với mặt trái của cuộc sống, là

khả năng đồng cảm của tác giả với nỗi đau của đồng loại. Nhân loại vượt qua không

ít đắng cay và tồn tại đến ngày nay, trước hết là nhờ ở đó có những con người chưa

bao giờ đánh mất đi khả năng đồng cảm với nỗi đau của đồng loại.

Trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới, Ma Văn Kháng đã không hề cường điệu khi

nhìn thấy không ít kẻ tha hoá mục ruỗng trong bộ máy quản lý nhà nước, không ít

những kẻ lợi dụng chức quyền "tích cực" tham ô, bóc lột vơ vét của nhân dân.

Chính cái nhìn ấy đã thức tỉnh những người có lương tri để cải tạo xã hội. Lênin đã

từng khẳng định: "Chỉ khi nào chúng ta không thừa nhận những thiệt hại, và những

thiếu sót của mình, chỉ khi nào chúng ta nhìn thẳng vào sự thật, dù là sự thật đáng

buồn nhất đi nữa - chỉ khi đó ta mới học được cách chiến thắng". Có thể khẳng định

Ma Văn Kháng đã học được cách chiến thắng để nhìn thẳng vào hiện thực của đời

sống lúc bấy giờ.

Trong giới phê bình, nghiên cứu văn học có nhiều ý kiến khác nhau xung

quanh cái nhìn hiện thực của nhà văn Ma Văn Kháng. Có ý kiến cho rằng, Ma Văn

Kháng có một cái nhìn quá bi đát về hiện thực. Ý kiến ấy không phải không có cơ

sở, bởi nhà văn có cái nhìn ở nhiều góc khuất cuộc sống và chuyển tải lên trang văn

của mình. Có điều như đã trình bày, nhà văn đưa cái xấu, cái ác không ngoài mục

đích để mỗi chúng ta nhìn thẳng vào sự thật của cuộc sống dũng cảm đối diện với

nó, cải tạo nó để cuộc sống này có ý nghĩa hơn.

Bằng cái nhìn sâu sắc, bằng lương tri và trách nhiệm của người cầm bút, Ma

Văn Kháng không chỉ nhìn thấu sự ấu trĩ và những điều bất cập bất ổn trong cơ

quan quản lý, mà ông còn thấy rõ những tôn ti trật tự trong các mối quan hệ xã hội

và gia đình đang chao đảo trước nền kinh tế thị trường hôm nay.

Xuất phát từ một trái tim nặng trĩu ưu tư, Ma Văn Kháng luôn lo lắng cho

những giá trị văn hoá và đạo đức truyền thống đang bị đảo lộn và dần bị mai một.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ma Văn Kháng đã có cái nhìn khá mới mẻ, đa diện trong việc khám phá và đào sâu

24

các vấn đề của đời sống gia đình trước cơ chế mới đang có nguy cơ lung lay, bật rễ,

chao đảo.

Khác với cái nhìn của Nguyễn Khắc Trường trong Mảnh đất lắm người nhiều

ma, Ma Văn Kháng không đi sâu tìm hiểu các vấn đề bộn bề của gia đình, dòng họ

ở mảnh đất nông thôn vốn bình yên nay cũng đang chao đảo, mà ông hướng cái

nhìn của mình về khu đô thị, nơi lâu nay vẫn được coi là tiến bộ, là văn minh.

Ngay từ những năm đầu của nghiệp cầm bút, Ma Văn Kháng đã tái hiện đời

sống trong gia đình Việt Nam hiện nay, bởi gia đình vốn là một mắt lưới cơ bản của

xã hội, là nền tảng vững chắc cho xã hội phát triển. Gia đình cái vùng tưởng như

yên ổn, cái mà có lúc tác giả gọi đó là "vùng an lạc" trong vòng xoáy của cơ chế thị

trường và đời sống xã hội thời hiện đại có ai ngờ lại là vùng chứa nhiều sóng gió

nhất. Lối sống ích kỷ buông thả theo những dục vọng thấp hèn, coi đồng tiền là trên

hết, bất chấp những nguyên tắc, luật lệ của truyền thống lan toả vào từng gia đình

làm đảo lộn cả những giá trị truyền thống thiêng liêng cao cả.

Về vấn đề này, Lê Lựu trong Thời xa vắng cũng đã đề cập. Nhưng dường như

cái nhìn của nhà văn vẫn chưa soi tỏ được hết hiện thực cuộc sống trên tất cả các

bình diện. Với Ma Văn Kháng, thành thị đã thực sự trở thành một môi trường mà

mở ra cho ông một tầm quan sát và khả năng bao quát rộng lớn trên nhiều bình diện.

Qua cái nhìn của nhà văn, cuộc sống nơi thành thị lẽ ra là cái nôi của nền văn minh,

nhưng nó cũng chính là cái tổ của những thói hư tật xấu, thói hám tiền, hám danh,

tham quyền lực... Nơi đây, đồng tiền có sức mạnh vạn năng. Có thể làm thay đổi

nhân cách, lối sống của không ít gia đình, con người ở nhiều giai tầng khác nhau.

Ma Văn Kháng nhìn rõ sự chao đảo trong gia đình ông Bằng trong tác phẩm

Mùa lá rụng trong vườn. Vốn là gia đình xưa nay nổi tiếng mẫu mực gia giáo, đạo

đức, với năm anh con trai, năm hòn ngọc quý, các cô con dâu đều là những con

người đảm đang, hết lòng vì chồng con và gia đình. Vậy mà, những quan niệm về

lối sống mới lại đang từng ngày, từng giờ xâm nhập vào cái gia đình giầu truyền

thống đó. Với ông Bằng, mỗi gia đình là một tế bào nhỏ nhoi của xã hội "nhỏ nhoi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

là vậy mà là nền móng, mà kết hợp nó trong bao quan hệ: Tình cha con, tình vợ

25

chồng, anh em, những quy tắc luân lý bất thành văn, bám rễ sâu vào huyết mạnh,

tâm cảm, giằng níu mọi người trong những giao kết, liên hệ vừa nghiêm chỉnh vừa

thân mật" [22,87]. Tự hào về gia đình mình, ông Bằng cũng rất hy vọng những ngày

cuối đời mình sẽ trôi qua trong hạnh phúc đầm ấm của gia đình. Thế nhưng sở

nguyện của ông giờ đây trở nên bấp bênh hơn bao giờ hết, bởi gia đình ông không

còn là một vùng yên ổn nữa, nó đã phản chiếu tất cả cuộc sống ở ngoài đời "cái

vùng tưởng là tĩnh lặng, cái vùng hay bị lãng quên trong mối quan tâm hàng ngày,

có ai ngờ lại là nơi khơi thuỷ, chung cục của lắm điều bất hạnh" [22,345]. Những

điều bất hạnh đó là do sự tác động của đời sống xã hội đang ngày một đổi thay, là

do sức mạnh của đồng tiền chi phối mà con người không làm chủ được.

Trước hết là Cừ con trai ông Bằng, vì không chịu hấp thu nền giáo dục truyền

thống gia đình, nên đã bị những cám dỗ xấu xa của xã hội lôi kéo ra khỏi nề nếp gia

phong. Cừ coi thường tất cả những giá trị tinh thần cao quý, coi đạo đức và các mối

quan hệ tình cảm thiêng liêng với tổ quốc, gia đình, bố mẹ, anh chị… là con số

không vô nghĩa. Với Cừ cuộc đời là một sự lừa lọc "đạo đức giả cả thôi". Quay lưng

lại với những lời dạy của bố mẹ, lại bị bạn bè xấu lôi kéo, Cừ đã bỏ mặc gia đình, từ

bỏ quê hương xứ sở ra nước ngoài sinh sống, để rồi phải chấp nhận một kết cục bi

thảm nơi đất khách quê người. Khi đã nhận thức ra thì đã quá muộn "Xa rời những

tiêu chuẩn đạo đức con người thành thú dữ tàn bạo ngay. Đó là điều giờ đây con

mới hiểu" [22,224]. Trong sự tuyệt vọng, Cừ đã kết thúc cuộc đời mình bằng một

liều thuốc ngủ.

Đặc biệt là Lý con dâu ông Bằng. Là một người phụ nữ xinh đẹp, giỏi giang,

đảm đang tháo vát khi không thắng nổi sự cám dỗ, vì muốn theo đuổi những ham

muốn vật chất nhất thời, chị đã trở thành người hoàn toàn khác. Để chạy theo những

ham muốn và khát vọng làm giàu, Lý đã khước từ trách nhiệm làm dâu, thiên chức

làm vợ, làm mẹ để sống một cuộc sống buông thả với gã trưởng phòng xấu trai giầu

có, làm gia đình tan nát, công việc dang dở… Lý đã trở thành nạn nhân của chính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

mình và phải đón nhận một kết cục bất hạnh. Cùng với nó là cuộc sống khó khăn

26

của vợ con Cừ, tất cả những biến động dồn dập đến với gia đình ông Bằng, khiến

ông không thể trụ vững được và đã ra đi.

Gia đình vốn là tổ ấm, là chỗ dựa tinh thần vững chắc để mỗi người trong tổ

ấm đó được trú ngụ, được che chở, được nâng niu, an ủi mỗi khi gặp bất trắc tai

ương trong cuộc sống. Vậy mà, nhiều lúc gia đình lại đẩy chính mình vào những bi

kịch đau thương, tan tác.

Tự (Đám cưới không có giấy giá thú) và Khiêm (Ngược dòng nước lũ) chính

gia đình để lại trong họ biết bao vết thương lòng. Trước kia căn nhà này của họ

cũng đã là nơi yên ấm, vậy mà giờ đây nó luôn phơi bày mọi mâu thuẫn vợ chồng.

Đau xót hơn là nơi ấy lại diễn ra những cuộc tình bất chính của những người vợ mà

họ đã từng yêu thương. Không biết bao nhiêu lần Tự phải nằm trên gác xép, giả

câm, giả điếc để tránh phải nghe những lời chì chiết của vợ vì cái tội không làm ra

tiền và để tránh cho mình khỏi phải chứng kiến cảnh dâm ô bỉ ổi của vợ với Quỳnh

ma cô (Quỳnh đĩ đực). Cũng như Tự, gia đình trở thành một nỗi đau đời lớn với

Khiêm. Thoa, vợ anh, "người đàn bà có cấu trúc sinh học vô cùng hám chuyện mây

mưa" chỉ cần một người chồng là một thằng đàn ông dồi dào sức lực và kiếm được

nhiều tiền nên với Khiêm, chị ta không thoả mãn. Đó là nguyên nhân để chị không

ngần ngại cùng với lão thầy thuốc Lang băm làm những chuyện bỉ ổi ngay bên cạnh

giường bệnh của chồng mình. Thoa đã quên đi cái tình nghĩa vợ chồng gắn bó bấy

lâu nay chỉ vì lạc thú của bản thân. Trong lúc ốm dài nằm trên giường bất động như

thế không ai hết, Khiêm cần được nương tựa vào gia đình, cần được những người

yêu thương chăm sóc biết bao, nhưng oái oăm thay đó lại là những ngày khổ hình,

cực nhục nhất đời của mình.

Ma Văn Kháng đã nhìn vào thẳng cuộc sống của từng gia đình, của mỗi nhà để

suy nghĩ về những vấn đề khẩn thiết đang đặt ra trước mỗi con người. Theo ông

"Rác rưởi không chờn vờn ngoài cửa mà đã vào tận buồng, làm bụi bặm bầu không

khí trong lành, yên ấm của mọi gia đình". Sự chao đảo của từng gia đình trong cái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhìn của Ma Văn Kháng có nhiều nguyên nhân, hoặc là do chính thành viên trong

27

gia đình do không làm chủ được bản thân mà tan nát, hoặc phần lớn là do khách

quan đem lại.

Gia đình bà cụ Lãng (Côi cút giữa cảnh đời), gia đình ông Thuần (Chó Bi - đời

lưu lạc) vốn là hai gia đình hạnh phúc ấm êm theo đúng nghĩa. Nhưng rồi cuộc sống

với đầy rẫy những bất công, những thâm hiểm đã lấy đi tất cả hạnh phúc họ đáng

được hưởng. Trong gia đình ông Thuần những giờ phút vui vẻ, tràn ngập tiếng cười

giờ đây đã thiếu vắng, thay vào đó là sự chờ đợi nhớ mong. Mọi biến cố xảy đến

với gia đình đã làm thay đổi số phận của mỗi thành viên, dẫn đến sự phân tán chia

ly. Do sự hèn hạ của những kẻ chức quyền ông Thuần phải vào tù và bặt vô âm tín,

sự nghiệp, ước mơ đành dang dở; người con cả giỏi giang cũng phải chịu cảnh tù

tội, nỗi đau đó đã khiến cho người mẹ tê liệt, rơi vào những cơn giao động khủng

hoảng tinh thần. Gia đình bà cụ Lãng vốn tràn ngập niềm vui ấm áp trong tình mẹ

con, bà cháu, giờ đây là sự ly tán với bao nỗi khó khăn, vất vả cực nhọc, thậm chí

có cả những phút giây mà sinh mệnh con người cũng mong manh như sợi tóc bởi

những mưu sâu kế hiểm của bao kẻ gian ác, tham lam như lão Luông, tên Hứng…

Khám phá mối quan hệ gần gũi, thân thiết với tất cả mọi người, mọi quan hệ

cá nhân - gia đình - xã hội, nhà văn đã đặt ra được những vấn đề bức thiết "mỗi con

người, mỗi gia đình phải sống như thế nào và xã hội phải quan tâm như thế nào?

Đọc xong những trang văn của ông, mỗi con người phải tự nhìn lại mình, nhìn lại gia

đình mình, nhìn ra xã hội với ý thức trách nhiệm và sự lo lắng nghiêm túc." [44]

Có thể khẳng định vấn đề gia đình là vấn đề xuyên suốt trong tiểu thuyết của

Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới. Ông thể hiện lên trang văn của mình niềm mong

ước cao cả, sao cho "Gia đình, cái hình thái kết hợp lạ nhất của loài người, nơi thu

nhỏ của đời sống của xã hội, rồi đây có nhiều sắc thái mới mà trong các mối quan

hệ, những ước mong yên vui cho mọi gia đình sẽ là mong muốn muôn thủa, mong

cho con người mỗi ngày một phong phú về cá tính, được phát triển trong môi

trường lành mạnh, thuận lợi, ngày càng giỏi giang, một tốt đẹp lên, dẫu còn gian

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

nan nhọc nhằn, dẫu kẻ thù còn độc ác, còn kế hiểm mưu sâu" [44]. Như vậy, Ma

28

Văn Kháng đã nhìn rất rõ sự chao đảo của mỗi gia đình trong xã hội hôm nay và

nhà văn cũng nhận thấy vai trò của gia đình trong sự phát triển chung của xã hội.

1.3.2. Cái nhìn con người tinh tường nghiêng về những giá trị văn hoá truyền thống

Cũng như các nhà văn thời kỳ đổi mới, tự nhận thấy dòng văn học chỉ hướng

tới quần chúng để phát hiện ra con người mới với những phẩm chất công dân, phẩm

chất cách mạng vì cái "ta" chung lúc này không còn phù hợp nữa nên Ma Văn

Kháng đã có sự đổi mới tư duy nghệ thuật để bắt kịp với xu thế chung của thời đại.

Trong thời kỳ Đổi mới, nếu Nguyễn Mạnh Tuấn tạo dựng hình mẫu người cán

bộ tương lai trong bối cảnh cực kỳ sôi động; Nguyễn Khải có ý thức đi tìm vẻ đẹp

của con người trong mỗi cuộc lựa chọn…thì Ma Văn Kháng lại săn tìm vẻ đẹp của

con người trong các giá trị đạo đức truyền thống. Để rồi trong thập kỷ chuyển mình

của văn học Việt Nam đương đại, tiểu thuyết Ma Văn Kháng đã ẩn chứa dấu hiệu

đổi mới, mở ra những bình diện mới trong phương thức chiếm lĩnh hiện thực, trong

sự lý giải và thể hiện con người.

Kể từ Mưa mùa hạ (1982) "tác phẩm là kết quả của những cơn ngẫu hứng dài

chứa chan thi vị và hạnh phúc làm người". Ma Văn Kháng đã chuyển từ cái nhìn sử

thi từ các tiểu thuyết viết về đề tài miền núi sang cái nhìn thế sự, đời tư, miêu tả con

người ở chiều sâu tâm hồn với những ước vọng tốt lành và cả những toan tính tầm

thường, nhỏ nhen ích kỷ. Với Ma Văn Kháng cuộc sống hôm nay không hề đơn

giản, nó chứa đựng bao nhiêu bất cập, phức tạp và bất trắc ngay từ những việc nhỏ

nhặt xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Cái nhìn sắc sảo đã hướng Ma Văn Kháng

vào từng ngõ ngách của đời sống hiện thực để soi rọi, phân tích lẽ đời, thói đời với

tất cả các cung bậc của tình cảm và các mối quan hệ ở mọi góc cạnh, mọi phương

diện, nhất là thế giới nội tâm trong mỗi con người.

Khác với cái nhìn sử thi về con người, con người lúc này không chỉ đơn thuần

có nghĩa vụ công dân đối với đất nước mà còn có nghĩa vụ đối với gia đình, với mọi

người và với chính bản thân mình. Ma Văn Kháng nhìn thấu con người trong cuộc

sống hôm nay nhiều khi cái xấu, cái tốt, cái thiện, cái ác đan xen vào nhau khó tách

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

bạch, thậm chí cái xấu, cái ác còn ẩn náu sau cái thiện, cái tốt để phá hoại cái tốt,

29

cái thiện. Trong thực tế có cái ác thuộc về bản chất, có cái ác, cái xấu lại được sinh

ra từ sự tác động của môi trường, hoàn cảnh… hoàn cảnh nhiều khi chi phối và tạo

ra bi kịch cho con người.

Thế giới con người trong cái nhìn của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới đông đủ

các giai tầng trong xã hội và vì thế kiểu nhân vật cũng vô cùng phong phú, đa dạng

và phức tạp. Với cái nhìn đầy trách nhiệm của mình, trước hết Ma Văn Kháng đã

thấy rõ con người trước mọi bão táp vẫn giữ được giá trị đạo đức, văn hoá truyền

thống, đó là những con người trí thức chân chính, những con người thị dân chân

chính. Cái nhìn tinh vi sắc sảo, nhà văn cũng đã phát hiện không ít những con người

bị tác động của cơ chế thị trường đánh mất đi nhân cách làm người của mình…

Xuất phát từ cái nhìn nhân đạo, mong tìm kiếm những điều tốt đẹp cho sự phát

triển nhân cách con người, Ma Văn Kháng đã đặt con người trong mối quan hệ

nhiều chiều, nhiều bình diện đó là con người của đời sống riêng tư, của xã hội, của

tự nhiên. Cái nhìn đó thể hiện một tư duy rất mềm dẻo, linh hoạt của Ma Văn

Kháng. Ông đã thể hiện một tư duy nghệ thuật về con người của riêng mình.

Đọc các tác phẩm của Ma Văn Kháng có một điều dễ nhận thấy là, ông

nghiêng hẳn về những giá trị tinh thần cội nguồn của truyền thống dân tộc mà phân

loại đánh giá con người. Có thể nói, ngay từ đầu sự nghiệp văn chương, Ma Văn

Kháng đã ý thức được sứ mệnh ngòi bút của mình viết là để khẳng định, bảo vệ giá

trị chân chính của con người. Không ngừng tìm tòi, đổi mới ngòi bút của mình

nhưng tất cả sự đổi mới ấy đều được dựa trên những giá trị nhân văn chân chính.

Bởi vậy, trong sáng tác của Ma Văn Kháng người đọc nhận thấy có không ít nhân

vật biết vượt qua mọi bão táp cuộc đời để gìn giữ những giá trị ấy.

Ngay trong những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, Ma Văn Kháng đã dành

nhiều tâm huyết, tình cảm để xây dựng những con người trí thức chân chính. Nhân

vật Trọng trong Mưa mùa hạ - vốn là một trí thức trẻ, tài năng, tâm hồn trong sáng

được kế thừa những đức tính tốt đẹp của người cha. Tốt nghiệp Đại học "loại xuất

sắc", giỏi chuyên môn, rất thông thái và năng động, say mê đến cuồng nhiệt với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

khoa học nhưng lại bị "va vấp liên tục" bởi lẽ lúc bấy giờ cuộc sống có một luồng

30

gió độc từ bên ngoài thổi vào, len lỏi từng góc cạnh của gia đình, thậm chí của từng

con người. Trước những thói tệ tầm thường, đang ghen ghét, vây bủa và vùi dập

nhưng anh vẫn vững vàng để thực hiện khát vọng và hoài bão của mình. Là người

con của sông nước, Trọng đến với ngành thuỷ lợi bằng tất cả niềm say mê, nhiệt

tình và tâm huyết. Yêu những con đê xanh có hàng ngàn năm tuổi, Trọng gắn bó

với nó như máu thịt của đời mình. Ma Văn Kháng thực sự rung động khi miêu tả

nhân vật Trọng, miêu tả cuộc chiến đấu của anh và đồng đội để bảo vệ con đê, hay

nói đúng hơn là để bảo vệ đạo lý, nền văn minh dân tộc.

Trước những bủa vây của tệ nạn tiêu cực và sự bức bách của vấn đề cơm áo

hàng ngày, Ma Văn Kháng đã nhìn thấy sự hoài nghi, phân vân ở mỗi người, nếu

chỉ một thoáng do dự, hoặc không tỉnh táo, quyết đoán là con người có thể sa ngã.

Ý thức sâu sắc được điều này, Trọng đã lấy niềm say mê của mình, lấy công việc

làm vui, vật lộn với mưa gió bão lụt, chiến đấu với quỷ thần không một chút đắn đo

do dự. Gặp biết bao khó khăn, trở ngại trong quá trình nghiên cứu và tham gia trực

tiếp vào cuộc đấu tranh giữa cái xấu, cái tốt người kỹ sư trẻ tuổi này nhận ra rằng:

"Cuộc đấu tranh trên những con đê có cái gì để gần gũi lắm với đời sống hiện nay".

Bởi vậy, anh đã trực tiếp xuống hiện trường, tìm hiểu nguyên nhân, nghiên cứu gốc

rễ của vấn đề để từ đó tìm ra hướng giải quyết, khắc phục hòng tiêu diệt lũ mối đục

khoét trong lòng đê. Biết Hưng đố kỵ và lợi dụng quyền hành để loại anh ra khỏi

công việc mà anh hằng say mê, gián tiếp phủ nhận công trình khoa học của mình,

Trọng đã không đầu hàng. Không chỉ vậy, lá đơn xin vào Đảng bị kẻ xấu cố tình

xuyên tạc, đặt điều nhưng Trọng không nản chí, anh đã trả lời thẳng với ông Chánh:

"Tôi sẽ tiếp tục công việc của tôi, cũng như tôi sẽ vào Đảng" [25,280].

Ở Trọng luôn thể hiện một lý tưởng sống đứng đắn, một tâm hồn trong sáng

nhiệt thành, một ý chí vươn lên mạnh mẽ đối lập hoàn toàn với những con người

tiêu cực, những thấp hèn đang hoành hành trong xã hội.

Cũng như Trọng, ông giáo Cần - cha Trọng trong Mưa mùa hạ, một trí thức tài

năng và tâm huyết, vì bị thói đời chèn ép, vì cảnh ngộ riêng phải xin nghỉ hưu sớm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trước những hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội, ông đã sống những ngày đêm tâm

31

trạng rối bời, u ám, ngọn lửa niềm tin hắt hiu muốn tắt, nhìn cuộc đời như một bức

tranh xám xịt. Lương tâm trong sạch và ý thức dân tộc vẫn còn chưa nguội lạnh đã trào

lên trong ông những trăn trở triền miên để phản ứng lại những cái xấu xa ngoài đời.

Những mẫu hình nhân vật này còn được Ma Văn Kháng tiếp tục khám phá ở

các cấp độ cao hơn, với cái nhìn đa diện hơn, trong sáng tác của mình sau này. Đó

là những mẫu người như ông Bằng, Luận (Mùa lá rụng trong vườn); thầy giáo Đặng

Trần Tự (Đám cưới không có giấy giá thú); Khiêm (Ngược dòng nước lũ); và kiểu

người lý tưởng như ông Thuần (Chó Bi - đời lưu lạc)…Họ là những trí thức chân

chính suốt đời theo đuổi lý tưởng cao đẹp nhưng lại bị ném chìm vào một xã hội

thực dụng, trong sự băng hoại về đạo đức và nhân cách nhưng vẫn cố gắng dùng

sức lực nhỏ bé của mình để giữ gìn những giá trị đạo đức tốt đẹp của truyền thống

dân tộc Việt.

Là một trí thức cũ sống hết mình với đạo đức truyền thống, ông Bằng (Mùa lá

rụng trong vườn) luôn ung dung tự tại, ý chí nghị lực một cách thâm trầm, lấy sự

bình ổn cân bằng làm căn bản, dùng thiện tâm để đối xử, bằng sự giúp ích cho đời

để hiện diện. Ông sống theo phương châm "Coi trọng đạo lý, rời xa phù phiếm, kết

hợp với đạo đức cuộc sống và tinh hoa của cha ông" [22,51]. Với cốt cách và chí

hướng ấy, cả đời ông là một quá trình phấn đấu không mệt mỏi. Ông đã từng sống

những ngày tháng hào hùng của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở thành Nam, đã

từng gương cao lá cờ đỏ sao vàng vác ba lô đi kháng chiến ở Yên Bái, Tuyên

Quang, rồi cũng đã có lúc hai vợ chồng phải xay lúa giã gạo thuê kiếm thêm tiền lưng

gạo nuôi con… Hành trình của ông trên cõi đời lắm chông gai là thế nhưng cốt cách

tinh thần riêng của ông không vì gặp khó khăn trở ngại mà nao núng, lu mờ.

Không phải là người có tài năng xuất chúng nhưng ông Bằng luôn chỉnh chu,

đức độ và luôn có tinh thần cầu thị, được đồng nghiệp và mọi người nể trọng và tin

cậy. Đối với gia đình, ông luôn lấy đạo đức, nhân cách, tình yêu và niềm tin của bản

thân đối với văn hoá, đạo đức truyền thống của dân tộc để giáo dục con cái: "Phải

giữ gìn các con ạ. Giữ gìn từ những cái nho nhỏ, vì từ cái nho nhỏ cộng lại thành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

văn hoá, nền tảng đạo lý đấy…" [22,60]. Suốt cuộc đời, ông vẫn luôn giữ được

32

phẩm giá cao ngạo, cứng cỏi cho mình mà không một thế lực hay thói hư tật xấu

nào có thể làm ông lung lay chao đảo, ngược lại, như ngày càng được củng cố một

cách vững chắc hơn. Ông dường như chính là hiện thân của ý thức hướng về cội

nguồn dân tộc và giữ gìn truyền thống.

Nếu như ông Bằng là hình mẫu của lớp trí thức cũ thì Luận là hình mẫu của

lớp trí thức hôm nay. Là một nhà báo, Luận luôn tỏ ra năng nổ, thông minh, trí tuệ

sắc sảo, có lý tưởng, có trách nhiệm, có tình yêu thương tận tuỵ và biết xây dựng

hạnh phúc gia đình trong điều kiện đời sống còn nhiều khó khăn. Vốn coi nhẹ giá trị

vật chất, Luận chỉ chăm lo đến việc bồi bổ giá trị tinh thần, bồi dưỡng kiến thức để

hoàn thiện kho tàng học vấn của anh và phục vụ cho nghề nghiệp. Luận "mê say

đuổi theo sự làm giàu về một phương diện khác: Trí tuệ, tình cảm, đạo đức (…)

hướng hoàn toàn về vẻ đẹp tinh thần, vẻ đẹp bên trong" [22,158]. Ta thấy, dường

như không lúc nào Luận được nghỉ ngơi thực sự, anh làm việc cả khi đang ngủ, cả

khi đang ăn. Trằn mình vào cuộc sống, ý thức được mối quan hệ cá nhân - gia đình-

xã hội, ở nhà báo Luận luôn toả sáng một vẻ đẹp truyền thống với lòng nhân hậu,

đằm thắm bao dung. Trước sự xói mòn khá nghiêm trọng về đạo đức trong nền kinh

tế thị trường, những con người như Luận là một phần nhỏ để ngăn chặn những cơn

sóng dữ không cho nó len lỏi vào từng cá nhân trong gia đình.

Với một nhãn quan tinh tường, Ma Văn Kháng đã hướng cái nhìn của mình

vào số phận con người ở những cảnh đời khác nhau, để bầy tỏ sự xúc động chân

thành trên mỗi trang văn của mình. Là một thầy giáo tài năng và tâm huyết, đã có

hai mươi năm thâm niên trong nghề dạy học, Tự (Đám cưới không có giấy giá thú)

chính là hình ảnh của một nhà giáo lý tưởng "Mô phạm mà vẫn không mờ nhạt lòng

nhiệt thành nhiệt thành, tinh thần triệt để, cùng chiều sâu tri thức, sự phong phú của

tình cảm và sức lan toả của tư duy đã tạo nên một anh giáo Tự mực thước mà vẫn

sâu sắc, đôn hậu mà vẫn uyển chuyển, đa cảm mà vẫn rắn rỏi, không dễ uốn mình,

cảm thông với mỗi sa sảy, yếu đuối của học trò" [70]. Thế nhưng Tự lại bị thói đời

ngu dốt, vụ lợi và thói tham quyền cố vị của những kẻ đội lốt trí thức như Bí thư

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Dương, Hiệu trưởng Cẩm… chèn ép, trù dập không một lối thoát. Hơn nữa Tự còn

33

phải sống với một thực trạng cay đắng về sự phản trắc của vợ - một người đàn bà

chỉ biết chạy theo đồng tiền và quên đi thiên chức làm vợ, làm mẹ, thậm chí cả

những đạo lý trên đời.

Tìm hiểu kỹ về vấn đề này chúng tôi thấy, Nam Cao cũng đã hướng cái nhìn

của mình vào tầng lớp trí thức như Hộ trong Đời thừa, suốt đời ôm mộng văn

chương những mong "chỉ viết một quyển thôi, nhưng quyển ấy sẽ ăn giải Nobel và

dịch ra mọi thứ tiếng trên toàn cầu" nhưng mộng không thành vì miếng cơm manh

áo ghì sát đất. Cũng như Hộ, Thứ trong Sống mòn khát khao hoài bão và khát vọng

về lý tưởng nghề nghiệp. Bao nhiêu mơ ước, mộng tưởng đẹp đẽ là thế, vậy mà rốt

cuộc, Thứ cũng chỉ là một ông giáo sống lay lắt mà đến không khí để thở cũng phải

dè xỉn. Như vậy, Thứ và Hộ đều là những trí thức giàu nghị lực, lắm khát vọng

nhưng rốt cuộc cũng chỉ là những kẻ sống mòn, sống trong đời thừa, ngay cả khi

chết vẫn chưa làm được gì.

Khác với Nam Cao, bằng cái nhìn tinh tế sâu sắc và mới mẻ về người trí thức,

Ma Văn Kháng không những thấy Tự nghèo, mà còn phải đối mặt với biết bao bỉ ổi,

thô bạo và độc ác tinh quái cả trong gia đình và nơi công sở. Mặc dù phải sống

trong những môi trường nhố nhăng đồi bại ấy, Tự vẫn có ý thức giữ gìn nhân cách

người thầy để trở thành một tấm gương sáng về đạo đức trước biết bao thế hệ học

sinh. Hết lòng truyền tải kiến thức và chăm lo vun xới những mầm xanh tương lai

của tổ quốc, Tự đã dũng cảm lên tiếng để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các em

để rồi bị quy chiếu là phần tử về tư tưởng có vấn đề. Đó là điều mà không phải bất

kỳ người thầy nào cũng làm nổi. Thuật giáo viên dạy toán cùng trường với Tự đã

nói: "Thầy phải ra thầy, khẩu hiệu hay tuyệt, nếu vậy, ở đây, anh Tự ở lại trường.

Còn thì: tôi cút, ông cút, ông Dương cút, bà Thảnh cút". Chưa hết Thuật cũng từng

nói trước hội đồng nhà trường rằng: "Thầy Tự đây được 10 điểm, tôi chỉ đáng 5, bà

Thảnh 2. Còn ông, ông Cẩm điểm1 hay là dêzô". Như vậy, ở cái trường Trung học

số 5 này, chỉ có một mình Tự mới xứng đáng được gọi là thầy mà thôi.

Không chỉ ở người thầy chân chính, Ma Văn Kháng còn nhận thấy phẩm chất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

của tầng lớp trí thức chân chính trong nhiều lĩnh vực. Là người lãnh đạo giỏi, ông

34

Thuần (Chó Bi - đời lưu lạc) đã mạnh dạn cải cách trong sản xuất kinh doanh, đưa

xí nghiệp vào con đường lớn. Chính vì thế những kẻ bảo thủ, bất lương đã ghen

ghét tìm cách hãm hại ông, dẫn đến quãng đời bảy năm tù tội chất chứa bao oan

khốc cay đắng. Nhưng ông vẫn tỏ thái độ tự tin bình tĩnh, bởi ông tin vào lẽ sống

của mình cũng như đã tin vào chân lý vĩnh cửu. Trước sự nghi vấn của cơ quan

chức trách, ông còn là con người thấu tình đạt lý, hiểu được đến tận cùng lẽ đời khi

thường khi biến, thế nên cái thất bại của ông cũng chỉ là nhất thời thất thế của người

quân tử trước kẻ tiểu nhân mà thôi. Vì xác định cho mình có một cách sống, ông

luôn giữ được một phong thái đàng hoàng tự tin.

Cùng với Tự, Trọng, ông Thuần, nhà văn Khiêm trong "Ngược dòng nước lũ"

cũng chất chứa trong mình bao phẩm chất tốt đẹp. Sống giữa đám đông tầm thường

giả dối Khiêm đã biết tự vượt lên để bảo toàn khí tiết. Anh đã trải đời mình trên

những trang viết để cho ra đời cuốn tiểu thuyết "Bến bờ". Nghiệt ngã thay khi "Bến

bờ" hoàn thành thì cũng là lúc Khiêm bị cách chức, bị tước đoạt, do sự trả thù cá

nhân hèn hạ của những kẻ vô học nắm quyền lực. Nhưng với cách sống thanh cao,

trong sáng, luôn coi nhẹ địa vị quyền lực, anh đã tỉnh táo đề nhìn thấu đáo sự đốn

mạt, bán rẻ nhân cách, tham lam quyền hành của một đám đông hỗn loạn trong cơ

quan văn hoá.

Bằng cái nhìn tinh tế và mới mẻ, nhân vật trí thức lý tưởng của Ma Văn Kháng

đều có những nhân cách đáng trân trọng. Họ không bị tiền bạc danh lợi cám dỗ,

không bị cuốn vào xu thế thực dụng của số đông, luôn đấu tranh vượt lên hoàn cảnh

số phận, để bảo toàn nhân phẩm. Họ không bị tha hoá, không chịu nhuộm đen, dù

phải một mình "ngược dòng nước lũ". Họ dường như vượt lên trên mọi toan tính

tầm thường.

Với một nhãn quan tinh tường Ma Văn Kháng không chỉ thấy ở tầng lớp trí

thức chân chính hôm nay có những cái tốt, cái cao cả, mà nhà văn còn nhìn thấy mặt

hạn chế, nhược điểm ở họ, điều đó cho thấy cái nhìn của Ma Văn Kháng rất đa diện,

đa chiều. Nhìn chung những trí thức của Ma Văn Kháng đều là những người có lý

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

tưởng, có nhân cách cao thượng, nhưng đôi khi họ lại nhu nhược, dễ đầu hàng và

35

chấp nhận hoàn cảnh. Tự, Khiêm, ông Thuần đều là những người như thế. Bi kịch

của cuộc đời họ một phần cũng là do sự nhu nhược của chính họ tạo nên. Qua

những nhân vật trí thức này, Ma Văn Kháng muốn gửi tới một thông điệp, người trí

thức lý tưởng không chỉ cần có cái tài, cái tâm mà còn phải biết hành động, dám

hành động để tự khẳng định mình trong mọi hoàn cảnh.

Không chỉ tập chung khám phá tìm hiểu, con người và cuộc sống của tầng lớp

trí thức chân chính, cái nhìn đa chiều của Ma Văn Kháng thấy cả những tri thức tha

hoá, tri thức lưu manh. Thuật giáo viên dạy Toán của trường Trung học số 5 đại

diện tiêu biểu cho giới trí thức tha hoá. Được xếp vào bậc tài trí trong giáo giới

trong thành phố. Thuật vốn là một tài năng đích thực nhưng cuộc đời Thuật lại rơi

vào vết trượt dài trên con đường tha hóa và bị lôi cuốn vào vòng xoáy đời thường

với lối sống thực dụng, coi trọng lợi ích vật chất. Thuật đã ngang nhiên tuyên bố

rằng: "Tôi không có động cơ khác nào là… tiền! Tiện đây, tôi xin công khai tô i dạy

thêm một cua năm mươi giờ, bất kể giá cả trượt lên, hay trượt xuống, chỉ biết thu về

đúng một chỉ" [21,152]. Học trò đã đặt biệt hiệu cho anh "Thuật… chó" không chỉ

bởi Thuật nuôi và kinh doanh chó giống mà còn có một nguyên nhân khác xuất phát

từ tư cách của anh. Cái biệt danh này vô tình đã khái quát sự tha hoá của Thuật.

Thuật đã đánh mất nhân cách, từ bỏ tư cách của một người thầy, anh ta thông thuộc

chuyện buôn bán chó hơn là nghiệp vụ giảng dạy. Kể cả cô giáo Thảnh, là một trí

thức nhưng đã để những khát vọng vật chất, những khát vọng tầm thường lôi cuốn,

trở thành trơ tráo, không còn nhân cách. Cũng như tầng lớp trí thức, tầng lớp thị dân

trong cái nhìn của Ma Văn Kháng gồm đủ loại người tốt có, xấu có và những kẻ tha

hoá cũng có.

Tiếp cận hiện thực, nghiên cứu khám phá hiện thực và con người nhiều tầng,

ngòi bút của Ma Văn Kháng đã phát hiện ra vẻ đẹp của những giá trị đạo đức truyền

thống. Trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới ta còn thấy xuất hiện

rất nhiều những người tốt, những công dân lương thiện luôn quan tâm đến mọi

người, sẵn sàng sẻ chia và cứu giúp nhau trong những lúc khó khăn như bà Lãng, cô

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Quyên, cô Đại Bàng…(Côi cút giữa cảnh đời). Cuộc đời của hai đứa trẻ côi cút

36

tưởng chừng sẽ chìm vào vực sâu của sự thất vọng nếu không có bàn tay, không có

tấm lòng che chở của người bà cũng như sự cưu mang giúp đỡ của cô giáo Quyên,

của cô Đại Bàng và những người dân chân chính của phường Ngọc Sinh. Họ đã

dang tay ra cứu giúp số phận bi thảm, côi cút của Duy và Thảm, trong khi chính

cuộc sống của họ cũng có lúc khốn khó tưởng chừng không qua nổi. Ma Văn Kháng

đã xây dựng thành công một câu chuyện cổ tích giữa đời thường, mà phép mầu

nhiệm lại được xuất phát từ tấm lòng nhân hậu của những con người chân chính ấy.

Họ như là những vị tiên giáng trần dang cánh tay của mình cứu giúp linh hồn ngây

thơ của những đứa trẻ như bé Duy, bé Thảm. Đồng thời đây cũng chính là nơi tác

giả muốn ấp ủ tiếp nối truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã thấu tỏ nhiều chân dung

cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nổi bật lên

giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật bà lang Chí, chị Hoài, Phượng, Vân…

trong Mùa lá rụng trong vườn hay chị Trang trong Chó Bi - đời lưu lạc. Bà lang

Chí, một đời thiệt thòi mà vẫn nhân hậu. "Coi việc nâng đỡ người khác như một nhu

cầu tự thân"; chị Hoài nết na thuỳ mị sống có trách nhiệm với mọi người; Phượng

hiền từ, chân thật, hài hoà đầy lòng thương yêu, sẵn sàng chia sẻ mọi niềm vui với

người khác, làm tất cả những gì có thể để mọi người vui vẻ sung sướng, ở Phượng

dường như có một "cơ chế" chịu đựng. Bao nhiêu điều không may, thiệt thòi dồn

xuống vai chị: công tác không như ý, mất cắp xe dạp, rồi phải chịu đựng tính đồng

bóng của bà trưởng phòng, cưu mang vợ con Cừ… Vậy mà, Phượng chịu đựng

được hết, chịu đựng với sự tự nguyện gần như là bản năng. Không một khó khăn

nào, một biểu hiện xấu nào của cuộc sống có thể khiến Phượng đánh mất lòng tin

yêu, lòng thương người ở chị. Phượng đã từng nói "tôi yêu tất cả mọi người", điều

đó khiến nhiều người băn khoăn về việc Phượng có phải là nhân vật hiện thực

không? Nhà văn đã khẳng định Phượng chính là nhân vật hiện thực. Trong Phượng

có bóng dáng những người thân yêu nhất của nhà văn. Phượng chính là sự nối tiếp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

những truyền thống trung hậu, đảm đang của người phụ nữ Việt Nam.

37

Ở gần cuối tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn xuất hiện đôi bạn trẻ Cần - Vân.

Tác giả đã dành những dòng tâm sự yêu thương, niềm tin tưởng vào đôi bạn trẻ này,

bởi họ mang tính cách truyền thống của một dân tộc. Nếu như Đông ù ì, bất lực

trước những biểu hiện tiêu cực của đời sống, thì Cần nhìn mọi việc một cách thanh

thoát, không thờ ơ nhưng cũng không bi quan. Anh cho rằng: "Công nghiệp hoá

xong thì sẽ thanh toán hàng loạt cái xấu" [22,354]. Còn Vân là người biết trân trọng

những tập tục của dân tộc, nhưng cũng kiên quyết chối bỏ việc sắp xếp hôn nhân vì

đồng tiền của cha, mẹ để bảo vệ tình yêu đến cùng. Đó là những hình tượng nhân

vật mà nhà văn Ma Văn Kháng đã thể hiện mong ước và tình cảm nồng hậu của

mình vào thế hệ trẻ hôm nay.

Với cách nhìn nhận sáng suốt và công bằng, cùng với tâm huyết của mình, Ma

Văn Kháng đã dồn vào, đã xây đắp cho mỗi nhân vật, mỗi con người, mỗi cảnh đời

trên trang viết đầy ắp sự chân thành xúc động của mình

Không chỉ nhìn rõ những con người trước mọi bão táp của cuộc đời vẫn giữ

được những giá trị đạo đức văn hoá truyền thống. Ma Văn Kháng còn nhìn thấy cả

những con người tha hoá về đạo đức và nhân phẩm trước sự tác động của cơ chế thị

trường. Tiêu biểu là những kẻ vụ lợi cơ hội như Hướng, Liệu, Tý Hợi, Hiển…

những kẻ "luôn theo đóm ăn tàn", chúng ton hót, nịnh nọt lấy lòng để mong được

chú ý cân nhắc che chở.

Hiển (Ngược dòng nước lũ) nguyên là một lái xe do ngủ gật làm xe đổ, bị hỏng

mắt, được điều về làm cán bộ Đoàn thanh niên, mắc tội nhìn trộm nữ công nhân

thay quần áo, bị mọi người khinh bỉ, nhưng vì giỏi nịnh nọt, giỏi cơ hội nên Hiển

được Phô quét cho một lớp sơn mới bằng trang lý lịch viết lại rồi đưa lên làm

Trưởng ban điều hành. Lợi dụng chức quyền, hắn luôn trù dập, hạ bệ người tài giỏi

mặc cho đó là những người đã từng dìu dắt nâng đỡ mình.

Cái Tý Hợi (Ngược dòng nước lũ) một kẻ xấu xí về ngoại hình, luôn là đối

tượng soi mói của bất cứ ai trong cơ quan. Cảm thương với kẻ tật nguyền, hơn ai

hết Khiêm rất thương nó, anh thường che chở cho nó trước mọi người. Ấy vậy mà,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

khi chỉ mới nghe tin Khiêm thôi giữ chức chủ nhiệm, nó liền trở mặt ngay với chính

38

người đã từng dang tay cứu vớt, yêu thương, chở che cho nó. Nó luồn cúi, nịnh nọt,

ô hợp với lũ người sâu mọt chống lại Khiêm. Chưa hết, nó đã tọc mạch về chuyện

Hoan với Khiêm, hậu quả là Hoan bị sỉ nhục, bị rạch mặt, bị mất việc làm và rơi

vào bi kịnh, trong khi Hoan luôn quan tâm, bao dung nó, coi nó như là em mình.

Cũng như Tý Hợi, trước đây Hiển đã từng coi Khiêm là người anh tin cậy nhất của

mình. Vậy mà giờ đây cái đám đông này được sống trong "vương quốc quyền hành"

đã quên đi tất cả. Họ trở nên tự tung tự tác, tỏ ra lạnh lùng vô cảm với Khiêm. Càng

ngày cái đám đông này càng toả ra một sức mạnh áp đảo, nó hình thành như một

cơn lũ nhấn chìm Khiêm - kẻ ngược dòng. Ta thấy, ở đây mỗi con người đều mang

một vẻ, nhưng đều là những kẻ dị hình, dị tướng, vì quyền lợi của bản thân, họ có

thể bán rẻ cả lương tâm và tình nghĩa thiêng liêng của con người.

Ma Văn Kháng đã có một cái nhìn trực diện, thẳng thắn vào những con người

này, họ đã đánh mất chính mình cũng như đang dần làm mất đi những truyền thống

quý báu của dân tộc chỉ vì quyền lợi và danh vọng. Không chỉ dừng lại ở khía cạnh

ấy, Ma Văn Kháng còn cho chúng ta thấy trong hiện nay còn có một loại người cậy

quyền, cậy thế hoành hành ngang dọc, đại diện cho những kẻ này không ai khác là

Tuẫn - con trai Bí thư Thị uỷ Lại trong Đám cưới không có giấy giá thú. Khi còn

ngồi trên ghế nhà trường, Tuẫn đã ngang nhiên đóng vai trò là một thằng phá đám

"là tên Juđa phản nghịch", và là nhân tố trực tiếp làm hỏng đời thầy giáo Tự. Vì

Tuẫn cậy mình là con "quan lớn" nên tác oai tác quái không coi ai ra gì. Hãy nghe

hắn ngang nhiên bộc lộ thái độ trong giờ dạy văn với một nhà giáo tâm huyết với

nghề như Tự "Ôi, chó chết hết chuyện. Chứ có đếch gì mà cao cả với vĩnh hằng!

Lằng nhằng!" [21,208]. Với một thầy giáo tâm huyết, điều đó không thể chấp nhận

và Tự đã nổi giận. Nhưng có ngờ đâu lời nói của một học trò vô giáo dục kia, lại mở

đầu cho bi thảm cuộc đời anh chỉ vì anh dám tát con "quan Lại": "Ông Tự! Còn ông

thì hết đời chó chết cũng không được làm Đảng viên dự bị đâu!" [21,209]. Và quả

thật lời nói của một học trò hư đốn đã trở thành hiện thực. Dựa vào quyền lực của

cha mình Tuẫn đã đánh mất tư cách của một học sinh, và làm cho cuộc đời của thầy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

giáo Tự trượt dài, trên con đường đời đầy đau khổ.

39

Xuất phát từ một tấm lòng nặng trĩu ưu tư trước những nỗi bất công, tha hoá

trong cuộc đời thực tại cái nhìn của Ma Văn Kháng chưa dừng lại, nhà văn còn rất

nhức nhối khi tầng lớp thị dân còn không ít người đang tự đánh mất mình, đang

trượt dài trên con đường tha hoá. Tiêu biểu là Lý, Xuyến, Thoa, Trình…

Lý (Mùa lá rụng trong vườn) là sản phẩm điển hình của lối sống kinh tế thị

trường, vị kỷ, hám lợi…, là một người phụ nữ đẹp trẻ trung, rực rỡ đầy sức sống

"khuôn mặt tròn, hồng nõn… cặp gò má cao được san đều về phía dưới, má ửng lên

một sắc hồng đẫm… Hai con mắt lá răm sắc, nhóng nhánh sáng, đong đưa một cái

nhìn vừa vui tươi vừa lẳng" [22,69]. Vốn là một phụ nữ thông minh đảm đang tháo

vát và đầy ý chí tự lập. Suốt những năm tháng chiến tranh, Lý đã là một người vợ

tốt, người mẹ hiền, một cô con dâu đảm đang theo đúng nghĩa "lấy chồng gánh cả

giang sơn nhà chồng". Chị đã một mình nuôi dạy con ngay từ khi nó còn trứng nước

và không hề nhờ cậy bố mẹ chồng. Chị làm dâu, làm mẹ dù vất vả vì thiếu vắng

chồng nhưng với tài tháo vát của chị, mọi việc đều rất suôn sẻ. Hiếu thuận với cha

mẹ chồng, nuôi dạy con cái, chăm lo, lo lắng cho em chồng rất chu đáo, chị thực sự

là trụ cột trong gia đình và là hậu phương vững chắc cho chồng nơi tiền tuyến.

Nhưng ở chị, cái tốt cái xấu pha trộn vào nhau. Chị lo toan chăm sóc mọi người

trong gia đình nhưng lại cũng có thể ích kỷ, tham lam nhỏ nhen với mọi người. Có

những lúc chị như bỗng hoá thân, biến thành một kẻ khác hết sức giữ tợn, kiêu ngạo

và thách thức, chị đã thay đổi "vì thiếu nền tảng, dễ bị kích động tức hứng nhất thời

bởi các ý tưởng cuồng nhiệt hoang đường" [22,314]. Là "nạn nhân của lửa đèn

thành phố", Lý đã chênh vênh bên ngưỡng cửa giữa cái xấu và cái tốt.

Trong cái thời buổi mà cuộc sống đang ở vào thời kỳ xây dựng với muôn vàn

những thiếu thốn và khó khăn này, có thể làm ngời lên những phẩm chất anh hùng

của những con người anh hùng, dũng cảm chiến dấu với chính nó, nhưng cũng rất

dễ là tác nhân kích thích mạnh mẽ tâm lý hưởng thụ vật chất, thói ích kỷ vô luân.

Lý lao xuống bờ vực của lầm lẫn. Chị nhìn thấy "đời bây giờ tệ lắm", "Có tiền là

xong hết". Chị quan niệm "Đời chỉ là một chữ T thôi" từ đó Lý bất chấp tất cả,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

buông thả mình theo những dục vọng thấp hèn. Tính tháo vát, sự táo bạo, sắc sảo, ở

40

chị giờ đây đã biến thành thói lừa bịp dối trá, điêu toa, mặc sức cho dục tình thiêu

đốt. Mang trong mình những đặc tính cần thiết của con người ở thời kỳ lắm sự biến

động, thiếu sự bảo trợ của những giá trị tinh thần, Lý đã dần khước từ bản chất tốt

đẹp vốn có của mình để trở thành kẻ xa lạ.

Đất nước đang trên đà phát triển, nền kinh tế thị trường đang mở ra môi trường

lớn lao và tạo cơ hội, động lực thúc đẩy để mỗi cá nhân trong xã hội có thể thực

hiện khát vọng làm giàu, được thực hiện ước muốn ăn ngon mặc đẹp rất chính đáng

của mình. Bản chất của con người vốn đã phong phú, phức tạp, cuộc sống lại nhiều

biến động và bất ngờ, bởi thế, ngòi bút của Ma Văn Kháng đã hướng tới việc nghiên

cứu, phát hiện con người phức tạp, đa chiều "con người không trùng khít với chính

mình". Ma Văn Kháng đã không nhìn con người một cách đơn giản cứng nhắc như

giai đoạn trước, mà ở thời kỳ này ông đã đi sâu phân tích mổ xẻ con người trong

từng nỗi niềm, từng bước ngoặt cuộc đời họ. Điều đó thể hiện một cách nhìn khá

linh hoạt, uyển chuyển về con người của nhà văn Ma Văn Kháng.

Lý không phải là sản phẩm tiêu cực duy nhất, cá biệt của đời sống kinh tế thị

trường, mà sản phẩm của nó là cả một lớp người chạy theo đời sống vật chất và

hưởng thụ. Cũng như Lý, Xuyến (Đám cưới không có giấy giá thú) đã nhảy cóc

sang một bước phát triển nguy hiểm về phương diện đạo đức. Là một phụ nữ bản

năng kém thích ứng trước đời sống, sống thực dụng, nhanh chóng bị loá mắt trước

sự cám dỗ của vật chất, Xuyến đã trở nên tàn nhẫn, chà đạp nên hạnh phúc gia đình,

coi thường chồng, khinh rẻ đời sống gia đình và từ chỗ phản bội chồng Xuyến đã

trơ tráo tố cáo chồng là người phản bội và tự huỷ đi nhân cách làm người của mình.

Với cái nhìn tinh tường của mình, Ma Văn Kháng còn nhận thấy rằng con

người ta trong hoàn cảnh ngặt nghèo, ít tình người thì sẽ trở nên lưu manh hoá hoặc

chí ít khái niệm đạo đức cũng trở nên xa xỉ đối với họ. Cho nên cô nữ sinh Trình

(Đám cưới không có giấy giá thú) vốn ngoan ngoãn, vì bệnh tật, vì bị bỏ rơi, vì bị

nghèo đói… bỗng trở nên đáo để, cong cớn, chụp giật để trả thù đời…

Nghiên cứu tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới, chúng ta còn có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

thể kể ra hàng loạt những nhân vật tương tự như gã tình nhân của Lý (Mùa lá rụng

41

trong vườn); Hứng và chị em Vàng Anh, Vành Khuyên…(Côi cút giữa cảnh đời);

Thoa và lão tình nhân Lang băm trong Ngược dòng nước lũ…" tiền" là câu nói cửa

miệng của những con người này. Vì tiền chị em sẵn sàng đánh chửi nhau, vì tiền

con sẵn sàng chửi rủa, thậm chí còn đuổi mẹ ruột của mình, vì tiền vợ chồng coi

thường khinh rẻ nhau… Họ không có ý thức bảo vệ, giữ gìn đạo đức, gia đình.

Trong quan niệm của họ đạo đức chính là "cái gì hợp với mình" và cuộc đời "chỉ là

chữ T thôi". Đồng tiền quả thật làm cho cuộc sống con người đầy đủ hơn, sung túc

hơn nhưng nó còn có sức mạnh làm tha hoá con người một cách ghê gớm. Xa rời

những tiêu chuẩn đạo đức, họ đã biến thành những con thú dữ. Đồng tiền và nhục

dục đã khiến Thoa cùng gã tình nhân Lang băm trong Ngược dòng nước lũ trở thành

những con thú đích thực "Bữa tiệc của những con quỷ dâm đãng" diễn ra hết lần

này đến lần khác, bất chấp Khiêm đang nằm trên giường bệnh - đau đớn đến tê liệt

cả thể xác và tâm hồn.

Nhãn quan của nhà văn không chỉ phát hiện thấu đáo nhiều loại người trong xã

hội - người tốt, kẻ xấu, người bằng mọi giá bảo vệ cho được nhân phẩm, kẻ vì nhu

cầu vật chất tầm thường làm băng hoại đạo đức xã hội, mà ông còn quan tâm khẳng

định bản năng và nhu cầu tự nhiên với khát vọng chân chính của con người đó là

nhu cầu tình dục.

Trong văn học, vấn đề dục vọng cá nhân đã ít nhiều được đề cập, nhưng phải

thực sự đến giai đoạn văn học sau 1975, nhất là sau thời kỳ đổi mới (1986), khi con

người là đối tượng phản ánh của văn học nên không có gì thuộc về con người lại xa

lạ với văn học, nhu cầu về dục vọng của con người tự nhiên mới thực sự được quan

tâm thể hiện một cách chân thực, đầy đủ.

Tiếp thu, kế thừa những tư tưởng tiến bộ của văn hoá, văn học nhân loại và

văn học dân tộc, vấn đề bản năng tính dục đã được thể hiện nổi bật trong một cái

nhìn mang đầy tính nhân bản sâu sắc của Ma Văn Kháng về con người. Ma Văn

Kháng là nhà văn đầu tiên viết được những cảm xúc hả hê, sung sướng, khoái hoạt

nhất về lòng ái dục của con người. Theo ông, con người là sản phẩm của tự nhiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

luôn biết hướng đến và theo đuổi những trạng thái sung sướng, vui vẻ và cố gắng

42

tránh xa, vượt lên mọi đau khổ, nhọc nhằn của cuộc sống bằng đời sống tình dục,

mà tình dục lại là một niềm đam mê, một mạch sống thầm kín của con người. Tuy

là lĩnh vực vẫn bị coi là "vùng cấm kỵ" nhưng Ma Văn Kháng đã mạnh dạn và

thành công khi đưa vấn đề này vào trong sáng tác của mình với một tần số lớn. Ông thể

hiện chúng một các tự nhiên không lộ liễu, sống sượng mà phản ánh một cách chân

thực những trạng thái, cảnh huống khác nhau của tâm lý thực, xuất phát từ đáy sâu bản

thể, từ nhu cầu tự nhiên, chính đáng của con người. Ma Văn Kháng là một trong số

không nhiều các nhà văn hiểu và ý thức sâu sắc, triệt để, toàn diện vấn đề này.

Ở Ma Văn Kháng, ông đã phát hiện trong bản năng đời sống tình dục của con

người thể hiện rõ hai mặt của cuộc sống. Đối với những con người chân chính dục

vọng khiến cho họ người hơn, tình dục như một vẻ đẹp thể hiện mặt văn hoá, đạo

đức xã hội. Nhưng bên cạnh đó, Ma Văn Kháng còn khám phá, phát hiện mặt bi hài

của cuộc sống, sự thô tục tham lam, nhếch nhác, dâm ô của những kẻ vô đạo đức,

thiếu văn hoá xoay quanh vấn đề dục vọng cá nhân của con người.

Bản chất cuộc sống vốn đa chiều phức tạp, nên ngay từ những tác phẩm viết về

đề tài mền núi trong cảm hứng sử thi, Ma Văn Kháng đã đề cập vấn đề này. Có thể

nói đây là cái nhìn nhất quán của tác giả về con người. Ma Văn Kháng đã viết khá

nhiều về hiện tượng này trong hầu hết các sáng tác của mình. Nếu như đứng ở góc

độ luân lý đạo đức thì những chuyện tình kiểu "ngoài luồng" không thể chấp nhận

được, nhưng khi đặt chúng vào từng hoàn cảnh, từng con người cụ thể thì những

trường hợp này rất đáng được cảm thông. Bởi chính cuộc tình "ngoài luồng" này đã

đem đến cho Khiêm (Ngược dòng nước lũ) niềm hạnh phúc thực sự. Với Khiêm,

tình yêu mà Hoan dành cho anh đã đẩy lùi được cơn đau ốm do làm việc quá sức,

giúp anh vượt qua cái thực tế nặng nề cố hữu với Thoa trong gia đình. Hoan như là

người tri âm, tri kỷ của đời anh, hiểu tận sâu thẳm, tâm hồn cá tính, nâng đỡ tâm

hồn anh và là nguồn vui sống vô tận của anh giữa cuộc đời đầy đen bạc, trắc trở.

Hơn ai hết Hoan chính là nguồn động lực giúp Khiêm vượt qua được những khó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

khăn của cuộc sống và hoàn thành ước nguyện của đời mình.

43

Tự (Đám cưới không có giấy giá thú) cuộc ái ân với Xuyến đã để lại cho anh

một khí vị đặc biệt không thể nào quên, cho dù ngọn lửa tình ấy được khơi gợi

trong cái ổ rơm nhặm nhuội rối bời. Lúc ấy anh cảm thông và thương cô xiết bao,

anh thấy cô là đàn bà thực sự, cô yêu thích nhục dục, cũng khao khát làm mẹ, làm

vợ như bao người phụ nữ khác…

Tất nhiên, đề cập đến vấn đề này nhà văn không ngợi ca hay khích lệ mà muốn

nhìn nhận nó như bản chất thực đang tồn tại trong cõi đời này, qua đó nhà văn

muốn người đọc nhìn nhận thấy mặt tự nhiên, của con người và nhu cầu cần được

thoả mãn của cuộc sống đời thường mà xưa nay người ta vẫn che đậy, giấu giếm.

Đó là những quan niệm đúng, biểu hiện tốt đẹp, lành mạnh mà Ma Văn Kháng đã đi

sâu khám phá, thể hiện đời sống bản năng này của con người. Chính cái nhìn đa

chiều, sâu sắc, về mọi phương diện của con người khiến vấn đề tình dục được quan

tâm đúng đắn, tự nhiên. Nó không hề gây cảm giác phản thẩm mỹ, phản giáo dục

mà còn thấm đẫm tính nhân văn trong cái nhìn mang chiều sâu nhân bản về con

người của nhà văn.

Phát hiện đời sống tình dục ở nhiều cung bậc, Ma Văn Kháng tỏ thái độ phê

phán những hiện tượng dâm ô, đồi bại như Xuyến (Đám cưới không có giấy giá

thú), Thoa (Ngược dòng nước lũ), Lý (Mùa lá rụng trong vườn)… và trân trọng

những tình cảm mặn nồng của Khiêm - Hoan, Luận - Phượng…

Xuyến (Đám cưới không có giấy giá thú), đã ngoại tình với "Quỳnh đĩ đực"

ngay trong nhà của mình. Xuyến đã chà đạp lên mối quan hệ vợ chồng thiêng liêng

để quan hệ xác thịt với những kẻ trơ tráo đồi bại như Quỳnh. Với những kẻ chỉ biết

có tiền thì giữa họ làm gì có tình yêu. Chúng trao cho nhau thể xác như kiểu mua

bán một thứ hàng hoá, theo thói quen buôn bán mà thôi. Chúng đến với nhau không

hề xuất phát từ sự ngưỡng mộ, trân trọng cái đẹp hay từ một tình yêu chân thành mà

chỉ để thoả mãn nhu cầu nhục dục, thói dâm ô. Vì thế chúng bộc lộ hành vi sàm sỡ

buông tuồng, vô đạo đức. Không chỉ những thế, khi bị chồng phát hiện cô ta còn cất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

lên những lời chửi rủa tai ác, thể hiện rõ sự vô văn hoá.

44

Còn Lý (Mùa lá rụng trong vườn), một phụ nữ tháo vát đảm đang nhưng lại dễ

thay đổi vì thiếu sự bảo trợ của những giá trị truyền thống. Lý đã phản bội chồng -

người sỹ quan mà chị đã từng yêu tha thiết để chạy theo tiếng gọi của đồng tiền, của

một lối sống buông thả… Để thoả mãn dục vọng của riêng mình, Lý đã chà đạp lên

những truyền thống tốt đẹp của gia đình, dân tộc.

Cũng như Lý, Xuyến, Thoa trong Ngược dòng nước lũ là một người đàn bà liều

lĩnh, luôn ham muốn nhục dục, đã phản bội chồng một cách công khai. Thoa đã từng

quan hệ với một gã phụ trách nhà ăn ở xí nghiệp, một gã phóng viên nhiếp ảnh, một tên

lang băm. Năm năm xa chồng, ở nhà Thoa ba lần đi nạo thai. Thật sự Thoa là người

không biết hề biết đến liêm sỉ, cô ta sẵn sàng quan hệ xác thịt với một lão lang băm ngay

cả khi người chồng ốm yếu nằm bên cạnh.

Ma Văn Kháng đã phơi bày mặt trái của tình dục, ông đã nghiêm khắc lên án

những kẻ chà đạp lên đạo lý truyền thống. Đối với những con người này, dục vọng là

khoái thú bất tận, dục vọng đã biến chúng trở thành những con quỷ dâm đãng đội lốt

người. Tình dục vốn thiên về yếu tố tố bản năng, là một nhu cầu sinh lý nhưng cũng là

một mặt của tình yêu đôi lứa, đời sống vợ chồng. Nó phải được xuất phát trên cơ sở

của tình yêu chân chính, bình đẳng tôn trọng giữa con người với con người. Khi đó, nó

mới thực sự mang lại niềm hạnh phúc cho con người và mới thực sự thấm nhuần chất

văn hoá.

Như vậy, Ma Văn Kháng đã nhìn nhận và biểu hiện vấn đề này ở mọi khía cạnh,

mọi phương diện, xem dục vọng không chỉ là bản năng tự nhiên mà còn là hành vi biểu

hiện thái độ văn hóa, nhân tính của con người. Cái nhìn, sự thể hiện ấy không phải chỉ là

sự kế thừa và phát huy văn hoá dân tộc mà còn thể hiện được những vấn đề có tính thời

đại mang tính dân chủ, nhân bản sâu sắc.

Là một trong những người khơi đường cho văn học trở về với cuộc sống hàng

ngày, quan tâm đến đời sống riêng tư, cá nhân, Ma Văn Kháng lấy chủ nghĩa nhân bản

làm nền tảng để khám phá con người ở những vấn đề, những khía cạnh mới. Đó thật sự

là một đóng góp nổi bật, độc đáo, đặc sắc của Ma Văn Kháng về cái nhìn nghệ thuật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới. Mọi mặt của đời sống, con người hôm nay đi vào

45

trang sách của nhà văn cho thấy Ma Văn Kháng là nhà văn có một nhãn quan sắc sảo,

tinh tường. Nó thể hiện ý thức sâu sắc của ông về chất liệu của thứ nghệ thuật mà ông đã

"đặt cược" cả đời mình. Đồng thời chính cái nhìn linh họat, sâu sắc của Ma Văn Kháng

trước hiện thực cuộc sống và con người là nhân tố quan trọng chi phối và làm nên giọng

điệu và ngôn ngữ trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của ông. Vấn đề này, sẽ được chúng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

tôi nghiên cứu kỹ ở những chương sau.

46

CHƢƠNG 2

GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT CỦA MA VĂN KHÁNG

TRONG TIỂU THUYẾT THỜI KỲ ĐỔI MỚI

2.1. Khái niệm giọng điệu nghệ thuật

Giọng điệu nghệ thuật là một phạm trù thẩm mỹ của văn học, là một trong

những yếu tố có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình sáng tạo nghệ thuật góp

phần tạo nên phong cách và cá tính sáng tạo của nhà văn. Trong đời sống hằng

ngày, ta thường chỉ nghe giọng nói là đã nhận ra người nói. Như vậy giọng điệu

được hình dung trước hết như một tín hiệu âm thanh có âm sắc, trường độ, cao độ...

nó gắn liền với môi trường giao tiếp và có khả năng tạo tính khu biệt. Nhưng khi cất

lên một tiếng nói, người nói bao giờ cũng muốn biểu thị một cảm xúc, một ý nghĩ nào

đó. Do vậy, giọng điệu không chỉ tồn tại như một tín hiệu âm thanh có âm sắc đặc thù

mà còn hàm chứa thái độ, tình cảm, ứng xử của người nói trước các hiện tượng của

đời sống. Khi trở thành một trong những thành tố của tác phẩm văn học, giọng điệu

nghệ thuật trở nên phức tạp hơn rất nhiều so với giọng điệu ngoài cuộc sống.

Tìm hiểu công trình nghiên cứu về giọng điệu văn chương của các nhà lý luận

văn học, các nhà văn, chúng ta thấy có rất nhiều quan niệm về giọng điệu. Trước hết

tác giả Nguyễn Thái Hoà trong Những vấn đề thi pháp truyện khẳng định rằng:

"Giọng kể là cảm nhận đầu tiên và cũng là ấn tượng cuối cùng, dư vị cuối cùng của

người đọc (nghe) truyện" [149]. Thật vậy, giọng kể có vai trò vô cùng quan trọng

không chỉ trong văn chương nghệ thuật mà còn cả trong đời sống hàng ngày. Lời

nói, câu văn chứa giọng kể làm cho người đọc người nghe dễ tiếp thu và cảm nhận

hơn. Chính vì vậy, tác giả Nguyễn Thái Hoà tiếp tục khẳng định "giọng kể quả

nhiên là mối giao lưu cảm nhận giữa người kể và người đọc bên ngoài tác phẩm, là

hiệu quả người đọc cảm nhận được khi đọc (nghe) truyện" [150]

Đối với tác phẩm văn học, giọng điệu là một phạm trù mang tính thẩm mỹ

riêng. Nhưng điều đáng nói ở đây là không phải bất cứ tác phẩm nào cũng có giọng

điệu giống nhau, tức là mỗi nhà văn có một giọng điệu của riêng mình, theo tính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

cách, khẩu khí của mình để diễn đạt những điều mình muốn nói.

47

Tác giả Trần Đăng Xuyền cũng đã cho rằng: "giọng điệu là thái độ tình cảm

của nhà văn đối với sự vật hiện tượng được miêu tả mà người đọc có thể cảm nhận

qua các sắc thái biểu cảm của lời văn. Thái độ, tình cảm ấy được bộc lộ qua nhiều

yếu tố, nhiều phương diện khác nhau của lời văn nghệ thuật" [79].

Tác giả cuốn Dẫn luận ngôn ngữ cũng đã xác định: "Giọng điệu là biểu hiện

của thái độ, xúc cảm của chủ thể đối với đời sống. Đối với các sự vật thấp kém bình

thường, người ta thường có giọng điệu mỉa mai, cười cợt; đối với các sự vật đáng

tiếc, mất mát thương tổn, người ta có giọng buồn thương ngậm ngùi…" [124]. Qua

đây ta thấy nền tảng của giọng điệu là cảm hứng chủ đạo của nhà văn.

Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học các tác giả cũng đã quan niệm "Giọng

điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với các hiện

tượng được miêu tả, thể hiện trong các lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng

từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa, gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi

ca hay châm biếm. Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ và thị hiếu thẩm

mỹ của tác giả"[112-113] và các tác giả cũng đi đến một kết luận rằng: "Giọng điệu

trong tác phẩm gắn liền với cái giọng "trời phú" của mỗi tác giả, nhưng mang nội

dung khái quát nghệ thuật, phù hợp với đối tượng thể hiện" [135]

Dựa vào các định nghĩa đã nêu, ở cuốn Tạp chí số 9, trong bài nghiên cứu

Giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, tác giả Lê Huy Bắc đã tổng kết "giọng điệu là

âm thanh xét ở góc độ tâm lý, biểu hiện thái độ buồn, vui, giận hờn, hờ hững...". Để

phân biệt với giọng là âm thanh đựơc xét ở góc độ vật lý, M.H. Abrams cũng cho

rằng: "giọng điệu là thái độ người phát ngôn văn học đối với người nghe của anh

ta". M.B.Kharpchenkô cũng đã dành một số lượng trang đáng kể để bàn về giọng

điệu. Theo ông "giọng điệu hiểu theo nghĩa rộng của từ đó không phải chỉ là màu

sắc xúc cảm của thiên truyện hay của hành động kịch mà là một cái gì đó lớn hơn

thế. Do chỗ giọng điệu gắn liền với những việc dùng hình tượng để miêu tả đối

tượng của sáng tác cho nên nó có những đặc điểm cách nhìn nhận của cá nhân đối

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

với cuộc sống" [32,171].

48

Giọng điệu trong văn chương vốn là một hình tượng nghệ thuật mang tính cá

nhân cao độ, nó chịu sự quy định, ảnh hưởng bởi giọng điệu chung của thời đại.

Tuy nhiên, ở những cá nhân tài năng, giọng điệu của họ đã góp phần làm phong phú

thậm chí làm thay đổi cấu trúc giọng điệu của cả một thời đại. Cho nên, giọng điệu

bao giờ cũng mang tính chất mới mẻ nếu nó là một sáng tạo thực sự. Và một nhà văn

tài năng bao giờ cũng phải tạo ra giọng điệu chủ đạo - giọng điệu"trời phú" làm nên

bản sắc riêng.

Ở đây, chúng ta nhận thấy có nhiều khái niệm, nhiều quan niệm khác nhau về

giọng điệu trong tác phẩm văn học. Nhưng nhìn chung, chúng ta vẫn thấy một điểm

hết sức thống nhất giữa tất cả các ý kiến đó là về vai trò và các yếu tố cấu thành

giọng điệu. Về phương diện này, giọng điệu có vai trò vô cùng quan trọng trong tác

phẩm văn học. Có thể nói, giọng điệu là cái mà chủ thể tiếp nhận đọc (nghe) xong

tác phẩm khi gấp sách lại vẫn thấy văng vẳng bên tai tiếng nói của tác giả với nhiều

cung bậc khác nhau và cả những hình ảnh, hình tượng, những sự việc mà giọng điệu

ấy đem lại. Vậy yếu tố nào tạo nên giọng điệu? chúng ta thấy rằng, giọng điệu được

hình thành từ những cảm hứng sáng tác, từ quan điểm lập trường của nhà văn trước

hiện thực cuộc sống. Trên mỗi trang văn, giọng điệu được hiện diện qua từ ngữ, câu

văn và các hình ảnh, chi tiết. Từ những sắc thái giọng điệu trong từng tác phẩm mà

nhà văn bộc lộ thái độ của mình trước cuộc sống. Do vậy giọng điệu là một hiện

tượng "siêu ngôn ngữ".

Như vậy, ta có thể khẳng định giọng điệu trong văn chương là một yếu tố nghệ

thuật thuộc phạm trù thẩm mỹ thể hiện thái độ, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ, sở trường

ngôn ngữ của tác giả. Nó chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khác nhau như cái nhìn hiện

thực, cảm hứng chủ đạo, thái độ của tác giả...

2.2. Các sắc thái giọng điệu nghệ thuật trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của

Ma Văn Kháng

Như chúng ta đã biết, giọng điệu trong tác phẩm văn chương chính là tiếng nói

của tác giả muốn gửi gắm tới bạn đọc thông qua đối tượng được phản ánh trong mỗi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

tác phẩm. Nó chứa đựng trong đó tất cả thái độ, quan điểm lập trường, tư tưởng của

49

nhà văn. Chính vì vậy, mỗi tác phẩm văn học chứa đựng những sắc thái giọng điệu

riêng của tác giả. Giọng điệu ấy góp phần tạo nên giá trị thẩm mỹ của tác phẩm và

là yếu tố quan trọng đặc biệt tạo nên phong cách nhà văn. Hiểu được vai trò của

giọng điệu trong tác phẩm văn chương, các nhà văn khi tạo nên đứa con tinh thần

của mình đã phải lựa chọn giọng điệu phù hợp để chuyển tải tư tưởng mà nhà văn

muốn gửi gắm qua tác phẩm. Ma Văn Kháng cũng không nằm ngoài dòng chảy ấy,

nhận thấy "giọng điệu là một yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả trong tác

phẩm", trong quá trình sáng tác của mình Ma Văn Kháng luôn thể hiện một phong

cách khá ấn tượng, một giọng điệu khá hấp dẫn qua một hệ thống ngôn từ vô cùng

phong phú. Chính điều ấy đã góp phần làm nên một hiện tượng Ma Văn Kháng.

Giọng điệu vốn là yếu tố quan trọng khi tạo dựng tác phẩm, thiếu giọng điệu,

nhà văn không thể tạo ra tác phẩm dù có đầy đủ các chất liệu cần thiết. Các nhà văn

nói chung thường có một giọng điệu chủ đạo phù hợp với tư tưởng nghệ thuật của

mình. Nếu giọng điệu nghệ thuật Nguyễn Công Hoan là giọng điệu châm biếm, hài

hước nhằm phê phán sự lố bịch, giả dối của xã hội thực dân phong kiến; giọng điệu

nghệ thuật của Nam Cao là giọng cay đắng, chua chát trước những bi kịch của con

người; giọng điệu nghệ thuật của Nguyên Hồng là giọng cảm thương thống thiết

trước sự thống khổ của kiếp người… Khi nghiên cứu giọng điệu nghệ thuật trong

tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của Ma Văn Kháng chúng tôi nhận thấy, để chuyển tải

nhiều vấn đề đặt ra trong cuộc sống hôm nay, nhà văn đã sử dụng nhiều sắc thái

giọng điệu khác nhau. Mỗi sắc thái giọng điệu này vừa tham gia chuyển tải hiện

thực cuộc sống nhiều chiều lên trang sách, vừa bày tỏ thái độ của nhà văn trước con

người và cuộc sống.

Đến với Ma Văn Kháng ta bắt gặp giọng điệu trữ tình thiết tha sâu lắng; giọng

điệu triết lý, triết luận; giọng điệu mỉa mai châm biếm và giọng điệu thương cảm

xót xa. Cũng giống như bao tác giả khác, Ma Văn Kháng không chỉ có một giọng

điệu duy nhất mà ông còn sử dụng rất nhiều giọng điệu khác nhau. Tất cả những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

giọng điệu ấy, hoà quện trong tác phẩm góp phần quan trọng tạo nên sức hấp dẫn

50

riêng trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của ông, đồng thời còn góp phần quan trọng

khẳng định phong cách nghệ thuật Ma Văn Kháng.

2.2.1. Giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng

"Thôi thúc tôi viết bao giờ cũng là cái đẹp thật xúc động, cao cả, thật khiêm

nhường và lớn lao trong hoàn cảnh đau buồn nhất. Tôi gửi gắm niềm tin yêu của tôi

vào tất cả những cay đắng xót xa của các thân phận. Bằng cách đó tôi biểu lộ tình

yêu với cái đẹp của cuộc sống" [30]. Ma Văn Kháng đã bộc bạch sự khởi nguồn

dòng chảy văn chương của ông như thế. Bắt nguồn từ những cái đẹp nhà văn đã

đem đến cho người đọc những tác phẩm mang tính hướng thiện, những giá trị đích

thực của văn chương bằng giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng.

Có thể nói, làm nên sức hấp dẫn, lôi cuốn trong sáng tác của Ma Văn Kháng

không chỉ bởi chiều sâu tư tưởng, ý nghĩa nhân sinh ẩn chứa trong giọng điệu triết

lý, suy tư mà còn bởi chất thơ, cảm xúc chứa chan, thấm đẫm trong giọng điệu trữ

tình thiết tha, sâu lắng.

Với giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng, tác phẩm của Ma Văn Kháng đã đưa

người đọc tới những vùng đất nguyên sơ mà đẹp đẽ, những thân phận, những cảnh

đời đầy biến động mà vẫn trong trẻo hồn nhiên như: Gió rừng, Đồng bạc trắng hoa

xoè, Mưa mùa hạ ở thời kỳ đầu và trong nhiều sáng tác sau này. Xuất phát từ cái

nhìn hiện thực cuộc sống và con người một cách tinh tế sâu sắc, giọng điệu trữ tình

của Ma Văn Kháng thể hiện tình cảm thiết tha của nhà văn về cái đẹp trong cuộc

sống. Giọng điệu ấy đã đưa người đọc đến với những bức tranh sinh động, phong

phú của đời sống hiện thực mới.

Vốn là nhà văn có cảm xúc trước cái đẹp, giọng điệu trữ tình của Ma Văn

Kháng thường là vẻ đẹp tự thân của các đối tượng, đó là vẻ đẹp của những con

người say mê lý tưởng, luôn yêu cái đẹp như thầy giáo Đặng Trần Tự trong Đám

cưới không có giấy giá thú. Có thể nói thầy giáo Đặng Trần Tự tạo dấu ấn sâu sắc

trong lòng độc giả không chỉ vì đây là một nhân vật đẹp, cao thượng mà còn vì tác

giả đã dành chất giọng đặc biệt khi khắc hoạ nhân vật này. Ngòi bút ấy cẩn thận,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

nắn nót mà cũng xiết bao hào phóng, yêu thương khi viết về anh. Một thân thể yếu

51

ớt mảnh mai nhưng đầy tự tin, tự hào khi đứng trước bục giảng, một gương mặt

thanh thoát, nho nhã, luôn phải đối mặt với biết bao đau đớn, một giọng nói sang

sảng mà tròn trịa, ấm áp như chính tấm lòng người nói vậy, đó chính là thầy giáo

Tự - người truyền bá kiến thức và cũng là kẻ "cùng đinh" nhất trong xã hội. Và lạ

thay, sống trong một môi trường biết bao thói đời thấp hèn, đê tiện mà thầy giáo Tự

vẫn cứ là một thầy giáo sạch đến chân tơ kẽ tóc.

Cũng giống với Nam Cao, trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới, Ma Văn Kháng

đã sử dụng rất hiệu quả giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng để bày tỏ tình cảm yêu

thương của mình với những nhân cách cao đẹp.

Chúng ta có thể thấy giữa Tự và Thứ trong Sống mòn của nhà văn Nam Cao

có những nét thật tương đồng. Cũng sống trong một cuộc sống quá nghèo khổ như

Thứ, Tự quanh năm suốt tháng phải "trốn" lên gác xép để điềm nhiên "đánh cái

quần đùi vá rúm ró, mặc cái áo bộ đội sã vai..." để nghiền ngẫm văn chương. Cái

nghèo cứ suốt ngày day dứt Tự. Sống trong hoàn cảnh như thế nhưng cả Thứ và Tự

cùng có tài, cùng có ước mơ làm việc có ích vì học trò của mình. Nếu như Thứ của

Nam Cao ôm mộng xây dựng ngôi trường của mình sao cho "trường sạch hơn, có

vẻ hơn, nhà trường phải có phòng giấy tiếp khách. Học sinh có tủ sách..." [5], thì Tự

của Ma Văn Kháng ngày đêm ngụp lặn trong bể kiến thức mêng mang để hết lòng

truyền thụ những kiến thức cho học sinh của mình, giúp học sinh của mình trở

thành những con người có ích cho xã hội. Không chỉ có thế, tâm hồn Tự còn luôn có

sự thăng hoa, cất cánh trước một bài thơ hay, một vẻ đẹp của thiên nhiên cũng như

tình yêu của anh với lũ học trò ngây thơ đáng yêu - những mầm xanh cuả đất nước.

Khi viết về cái đẹp, ca ngợi cái đẹp trong cuộc sống Ma Văn Kháng đã dành

nhiều sự ưu ái của mình vào những trang văn bằng giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu

lắng. Trước một bài thơ hay Tự đã hoá thân thành thi sĩ, suốt đời đi theo một lý

tưởng đẹp. Bắt gặp một ý thơ hay, tâm hồn Tự như được bay bổng vào một cõi

mộng mơ, thơ mộng với những sắc màu lung linh huyền ảo. Có những lần đàm

thoại văn chương với Kha trên căn gác xép nhỏ, ta có cảm giác như Tự đang hoá

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

thân vào những gì tinh tuý nhất của câu thơ "Tự nâng cuốn sổ tay. Vẫn cơn say của

52

một kẻ nhập cuộc hết mình, nhưng lúc này là một sức cảm thông thần diệu và một

trực giác cực khởi. Tự bỗng như run rẩy cả đến mỗi đầu ngón tay" [21,9]. Có thể

nói căn gác nhỏ như là nơi thanh lọc tâm hồn của thầy giáo nghèo. Ở đây Tự xa

lánh cái phồn tạp trần ai, tách ra khỏi đời sống đang bị tước dần những giá trị đích

thực, không giao tiếp với những câu chuyện tầm phào, thói sùng bái đồng tiền và sự

tráo trở thô bạo. Và cũng ở chính nơi đây từ sáng đến tối, Tự có thể dành hết tâm

huyết cho việc nghiên cứu, soạn bài, chấm bài và lặn ngụp thoả chí trong cái đại

dương mênh mông của nghề sư phạm và nghệ thuật ngôn từ. Thoả chí lặn ngụp

trong đại dương mênh mông đó, Tự còn mở rộng lòng mình để đón nhận những

điều tuyệt vời mà nhiên nhiên ban tặng cho cuộc sống con người "Đã có lúc Tự chợt

buông trang sách, nằm nghe gió mùa về đập cành cành quả me trên cành khô nơi

sân thượng, ngẩn ngơ một nuối tiếc hoặc phiêu diêu vào đám sương hồi ức hoặc

lãng đãng buồn lo về thực tại. Nằm một chỗ mà tâm hồn toả bốn phương. Còn thú

thẩm mỹ nào bằng! còn hạnh phúc nào hơn" [21,14]. Cho dù, đó chỉ là một cơn gió

mùa về nhưng với tâm hồn nhạy cảm yêu cái đẹp của Tự đã vẽ lên trước mắt người

đọc một bức tranh thiên nhiên vô cùng nên thơ. Thiên nhiên ấy đã đem đến cảm

giác nồng nàn say đắm cho con người. Điều đó cho thấy, Ma Văn Kháng không chỉ

có cái nhìn ở nhiều tầng, nhiều vỉa mà còn có khả năng quan sát tinh tế nhạy cảm

trước những biến động của thiên nhiên, của cuộc sống xung quanh chúng ta. Vì vậy

khi miêu tả dù là cuộc sống của Tự hay sự cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên của nhân

vật này thì tất cả đều được hiện lên thật lung linh, sôi động và nổi rõ cái thần của

đối tượng.

Trang văn của Ma Văn Kháng luôn đem đến cho người đọc những điều bất

ngờ. Trong bất cứ hoàn cảnh nào ở Tự vẫn toả ra một tâm hồn nhạy cảm, biết cảm

nhận, say mê cái đẹp như một điều hiển nhiên. Niềm say mê đó được cất cánh ở mọi

lúc, mọi nơi kể cả khi anh thấy học trò của mình phấn khởi làm bài trong kỳ thi tốt

nghiệp, rồi ngay cả khi Tự đứng trên bục giảng. Lúc đó ở Tự dường như có sự

chuyển hoá bản thân, để bỏ lại tất cả những gì thô ráp của cuộc đời. "Trong những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

giây phút như thế Tự giao tiếp với học trò ngắm mình qua mấy chục tấm gương

53

phản chiếu. Khi ấy Tự thấy đẹp, hùng mạnh và cao quý biết bao, Tự thấy nghề giáo

đẹp xiết bao. Tâm hồn Tự toả sáng đẹp một cách lạ lùng" [21,42]

Ma Văn Kháng đã đưa người đọc đến với một thế giới hiện thực đầy cảm hứng

lãng mạn mộng mơ bằng giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng. Hiện thực đời

thường vốn đang ngổn ngang nhiều vấn đề bất cập của cuộc sống thời hậu chiến,

không áp đặt cái nhìn một chiều, Ma Văn Kháng luôn tôn trọng dòng chảy tự nhiên

của cuộc sống, trong đó vẫn tiềm tàng ẩn chứa những vẻ đẹp vĩnh hằng.

Giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng cho dù được tạo nên bởi chính bản thân

của đối tượng thẩm mỹ, nhưng trước hết nó phải được xuất phát từ một tấm lòng

yêu cái đẹp của nhà văn. Tiếp nhận hiện thực và con người ở nhiều tầng, nhiều vỉa

khác nhau, ngòi bút của Ma Văn Kháng không chỉ phê phán những mặt tiêu cực của

đời sống mà ông còn phát hiện ngợi ca vẻ đẹp của những giá trị đạo đức truyền

thống, cội nguồn thiêng liêng của những giá trị văn hoá, nền tảng của mọi nền văn

hoá. Điều đó được Ma Văn Kháng gửi gắm vào hình tượng nhân vật chính diện

trong các sáng tác của mình.

Nhân vật Luận trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn luôn toả sáng vẻ đẹp

của chính mình với lòng nhân hậu, đằm thắm bao dung. Luận sống thiết tha với nó

và coi đó như một niềm vui sống của mình. Đối với anh, cái cho đi không bao giờ

mất, ngược lại anh nhân mình lên trong sự giầu có của tình đời, tình người. Mang

cái nhìn nhân hậu và thấu tình hợp lý, anh đã thuyết phục mọi người hướng đến cái

nhìn độ lượng. Ở anh, tất cả mọi người không ai là xấu ngay cả Lý. Anh không

những cảm nhận nỗi vất vả, vẻ đẹp của nhiều người quanh mình, mà rất thấu hiểu

vẻ đẹp thánh thiện của người vợ mà anh hết lòng yêu thương. Anh thấy ở vợ mình

khả năng nhạy cảm với nỗi đau của kẻ khác và sẵn sàng đền bù cho người khác. Sự

chịu đựng của vợ khiến anh có lúc phải kinh ngạc. Khi cưu mang vợ con Cừ không

biết bao nhiêu lần chị phải nhịn nhường vì cuộc sống quá khốn khổ. Luận đã cảm

nhận được sự khó nhọc trên gương mặt của chị và ở bộ quần áo vá cuả chị. Trước

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

vẻ đẹp thánh thiện đó của Phượng, Luận nhìn vợ lòng tràn ngập yêu thương "Cùng

54

với tiếng nước chảy xè xè, Luận nghe tiếng nói của Phượng trong mùi thơm dậy

nồng nàn của hoa hoàng lan trước đêm hè" [22,244].

Trong những ngày đất nước còn muôn vàn khó khăn và ngổn ngang nhiều vấn

đề bất cập, bất ổn đó, tình yêu thương của Phượng khiến cho Luận cảm giác như

được bồi bổ thêm sức mạnh từ bên trong. Anh tâm sự "Phượng à, cuộc sống chung

của chúng mình đã được mười năm và trong mười năm đó ba nghìn sáu trăm ngày

vất vả của em. Anh tự hỏi: cái gì tạo nên sức mạnh của em trong những ngày đó?

Có phải đó là lòng nhân hậu, sự kiên nhẫn chịu đựng, đức hy sinh cao quý và sức

chống chọi cứng cỏi, bền bỉ của em không? Từ em đang toả ra vẻ đẹp mạnh mẽ,

bình dị và tự nhiên. Anh cảm thấy tin yêu cuộc sống hơn, vì có em bên cạnh,

Phượng à" [22,327].

Xúc động trước cái đẹp đầy tình người của con người hôm nay, Luận đã kể

cho Phượng câu chuyện của một lão đồng chí, phải tạm biệt người vợ trẻ với đứa

con thơ ra nước ngoài hoạt động. Khi cách mạng thành công đồng chí ấy trở về

thăm gia đình thì người vợ đã có thêm ba đứa con nữa với người chồng khác vừa

chết vì bệnh. Ông có thể lấy người vợ khác mà không ai trách cứ. Vậy mà ông lại

trở về với vợ, chăm sóc ba đứa con của người vợ y như đối với đứa con duy nhất

của mình cho đến khi trưởng thành. Chứng kiến câu chuyện xúc động ấy Luận đã

trào nước mắt.

Trước những cảnh đời éo le, những biến động của cuộc sống, Luận đã có một

cái nhìn không chỉ bó hẹp trong một gia đình, một cơ quan…mà vượt lên tầm bao

quát lớn để hoà vào mạch ngầm truyền thống của dân tộc. Trong cuộc sống đầy biến

động, những thói xấu xa, bụi bẩn của thời kỳ đổi mới đang xâm nhập vào cuộc

sống, vào mỗi con người thì truyền thống đạo đức của dân tộc Việt là dòng nước

mát trong lành cần được lưu giữ, lưu truyền. Qua trang sách của mình, Ma Văn

Kháng đã ý thức rất rõ điều đó.

Hãy nghe Luận tâm sự với vợ qua giọng điệu trữ tình đầy cảm xúc: "Em ạ! dân

mình khổ quá. Những chuyện tình xưa như Tống Trân - Cúc Hoa, Phạm Công - Cúc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Hoa. Truyện nào cũng đẫm cơ cực! cơ cực quá! có lẽ không có dân tộc nào khổ như

55

dân tộc mình. Trong hoàn cảnh ấy con người muốn sống được phải có tình yêu

thương lớn lao, cao thượng lắm em ạ" [22,174].

Khác với các nhà văn cùng thời khi viết về cái đẹp, Ma Văn Kháng đã ngợi ca

cái đẹp trong cuộc sống bình dị, hồn nhiên, trong trẻo. Theo tác giả cái đẹp phải được

xuất phát từ trong niềm hạnh phúc được làm người với ý nghĩa đích thực của nó.

Trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời Ma Văn Kháng đã đứng ở vị trí của

cậu bé Duy - 15 tuổi, ngây thơ vụng dại mà trí tuệ thông minh, sắc sảo với một bản

năng tự nhiên hướng về cái thiện để tái hiện lại quãng đời tuổi thơ đầy nước mắt của

mình. Ở cái tuổi mà đó Duy đã cảm nhận được sự hy sinh vô bờ của bà. Hơn ai hết,

Duy biết ơn bà và thương em biết bao. Cảm nhận được sâu sắc công lao to lớn của

bà với mình, Duy đã bộc lộ suy nghĩ chân thành mà cảm động. Suy nghĩ ấy được

tác giả diễn tả bằng giọng điệu trữ tình sâu lắng: "Nhưng bà ơi, vắng bà rồi, mà

cháu vẫn có bà. Ơn bà mãi mãi cháu để hai vai. Bà nhịn cho chúng cháu ăn, bà lạnh

cho chúng cháu ấm. Bà bế bồng, dìu dắt chúng cháu đi qua những năm tháng cách

trở lừa lọc, phản trắc, bất công. Bà đưa chúng cháu qua nơi hỗn độn đến an bằng"

[23,275]. Những đau khổ buồn tủi, đơn côi của anh em Duy thời ấu thơ, nhờ có

người bà thân yêu của mình đã được gột rửa để bước qua vùng tủi hổ, đến với hy

vọng và tình yêu. Duy cảm nhận được tất cả những điều đó "Ở bà là sự nhẫn nhịn,

là lòng hỉ xả, là tuyết sạch giá trong, là tình thương, là lẽ phải, là sự cứng cỏi kiên

trinh. Bà là tiên giáng trần đã che chở cưu mang chúng cháu bằng tình thương yêu

và phép huyền nhiệm, thần kỳ!" [23,275]. Giọng điệu thiết tha sâu lắng từ con tim

của nhà văn đã cho người đọc cảm nhận sâu sắc lòng hiếu thảo của cậu bé Duy

trong những ngày tháng côi cút.

Bằng giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng Ma Văn Kháng đã đem đến cho

người đọc nhiều sự cảm nhận đặc biệt, từ đó Ma Văn Kháng đưa con người vào quỹ

đạo những tình cảm thanh lọc, tẩy rửa để tạo niềm tin cho con người vào một tương

lai tốt đẹp hơn.

Quá trình dân chủ hoá trong văn học đã tạo ra một không khí mới. Ý thức dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

chủ đã cho phép các nhà văn thể hiện cái tôi, cái bản sắc riêng độc đáo của mình.

56

Khác với cảm hứng sử thi, giọng điệu trữ tình mang âm hưởng ngợi ca trở thành

phương tiện khẳng định vẻ đẹp lý tưởng của con người Việt Nam anh hùng một thời

lửa đạn, giọng điệu trữ tình của Ma Văn Kháng dưới cảm hứng thế sự đời tư đưa

người đọc đến với vẻ đẹp tự thân của con người và cuộc sống hôm nay.

Điều đáng nói là, ở Ma Văn Kháng, sắc thái giọng điệu ấy được hiện diện từ

chính vẻ đẹp tự thân của nhân vật. Do vậy giọng điệu này thường được nhà văn ưu

ái khi viết về những nhân vật mang vẻ đẹp chân chính.

Ông Bằng (Mùa lá rụng trong vườn) một trí thức cũ sống hết lòng với đạo đức

truyền thống dân tộc, luôn lấy tấm gương của mình cho con cháu noi theo đã dâng

trào cảm xúc khi đứng trước bàn thờ tổ tiên, khói hương nghi ngút và bỗng thấy

mình như được phân thân. Quên hết xung quanh, "Trong giây lát, nhập vào vòng

xúc động tri âm tổ tiên, ông Bằng lâng lâng những hoài niệm phiêu diêu, lãng đãng

gần xa, ẩn hiện tầng tầng lớp lớp những hình ảnh khi tỏ khi mờ chập chờn như trong

chiêm bao" [22,86]. Đứng trước bàn thờ tổ tiên, ông như tìm được sự thanh thản

trong tâm hồn và có lẽ chính cội nguồn, tổ tiên là chỗ dựa tinh thần giúp ông đứng

vững trong những lúc gian nguy, hụt hẫng. Trong dòng vô thức đó bỗng tuôn trào

trong suy nghĩ khiến cho ông như được đối thoại với cha mẹ, tổ tiên mình: "Thưa

thầy mẹ, đã cách trở ngàn trùng mà vẫn hằng sống cùng con cháu. Con vẫn văng

vẳng nghe đâu đây lời giáo huấn của ông cha, tổ tiên" [22,86]

Ma Văn Kháng đã đi sâu khám phá và khơi rộng vào thế giới tâm linh của con

người thời hiện đại, tạo nên tinh thần lạc quan vĩnh hằng có thể đủ sức chiến thắng

vượt qua tất cả.

Bà nội Duy (Côi cút giữa cảnh đời) vốn kiên cường chống lại mọi thế lực tàn

ác ở địa phương để bảo vệ hai đứa trẻ côi cút của mình, vậy mà trong những lúc gặp

cơn bĩ cực, lao lung bà vẫn viện cầu và trò chuyện trước bàn thờ chồng. Lúc đó bà

chẳng giấu giếm ông điều gì cho dù giữa bà và ông giờ đây là hai phương trời cách

biệt: "Bà ngồi ngẩn, mặt thẫn thờ theo làn khói toả, như tìm kiếm giao hoà, như có

một hình bóng rất gần gũi thân thương thấp thoáng xa gần trong cảm nhận thầm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

lặng của bà" [23,26]. Trong những phút giây đắm mình trong một thế giới tâm linh

57

đó, bà như có thêm nghị lực và tình yêu đủ để chở che cho hai đứa cháu côi cút tội

nghiệp của mình.

Trên con đường đi tìm "vẻ đẹp ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người" cũng

giống như các nhà văn cùng thời, Ma Văn Kháng miêu tả thế giới tâm linh của con

người vừa cụ thể, vừa siêu thoát. Với mong mỏi khi quay trở về quá khứ con người

có thêm sức mạnh, có thêm điểm tựa, có niềm tin rũ bỏ những bụi bặm của của cuộc

sống, thanh lọc tâm hồn, giúp con người trở nên đẹp đẽ hơn, cao quý hơn.

Ngay những năm đầu của thời kỳ đổi mới, Ma Văn Kháng đã có xu hướng

nghiêng về xây dựng, thể hiện các giá trị nhân cách, phẩm giá và số phận cá nhân.

Đấy có thể được coi là một sự phát triển trong tư duy nghệ thuật của nhà văn, một

cơ sở cho giọng điệu trữ tình sâu lắng cho tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của ông.

Không tham gia trực tiếp vào các biến cố, các sự kiện của câu chuyện, của các

nhân vật, nhưng giọng điệu trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng lại đóng một vai

trò rất quan trọng. Nó không những đem đến cho tác phẩm chất trữ tình bay bổng,

lãng mạn, dào dạt, sâu lắng mà còn thể hiện cái nhìn sắc sảo, tinh vi c ủa một Ma

Văn Kháng trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới.

Không chỉ viết về con người với sự cảm nhận sâu sắc ở mọi phương diện, Ma

Văn Kháng còn rất nhạy cảm với thiên nhiên. Thiên nhiên với những hình ảnh đẹp

đi vào trang văn của ông mang một màu sắc thật đặc biệt. Khi miêu tả vẻ đẹp huyền

diệu của thiên nhiên, giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng một lần nữa lại được

vang lên trong những trang văn của Ma Văn Kháng. Nó đã tạo nên những dư vị nhẹ

nhàng, tinh tế mà lắng đọng trong tâm hồn người đọc. Mỗi lần thưởng thức những

đoạn văn đặc tả khu vườn trong tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của nhà văn, ta

tưởng như lại nghe tiếng ve kêu râm ran, tiếng lá cây xào xạc hoà cùng âm thanh êm

ái, dịu dàng của bản nhạc Vườn khuya. Khu vườn nhỏ xinh xắn, toả bóng mát quanh

năm ấy được Ma Văn Kháng nhắc đi nhắc lại 12 lần trong tác phẩm. Mỗi lần khu

vườn hiện lên với một nét đẹp quyến rũ riêng. Xuân về, cây "bật nẩy chồi non, khu

vườn toả một làn không khí tươi lành và thanh tịnh". Chớm hạ, cây "xanh đầm lá

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

non". Thu sang, hoa táo nở bung "trắng ngà cả góc vườn". Đông đến, cây "thu mình

58

gọn ghẽ", vườn cây đang đón đợi ánh trăng non ghé xuống tâm tình. Khu vườn đã

trở thành người bạn đồng hành chứng kiến, sẻ chia, an ủi từng con người trong gia

đình ông Bằng để họ lấy lại là niềm tin, sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn và

bước tiếp. Mỗi khi miêu tả khu vườn, nhà văn sử dụng nhiều từ ngữ giàu hình ảnh vừa

tươi mới, vừa trong trẻo đưa người đọc lạc bước vào khu vườn với nguồn cảm mới.

Giọng điệu trữ tình, thiết tha sâu lắng đã tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn riêng

cho các sáng tác của Ma Văn Kháng. Nó còn góp phần không nhỏ trong việc thể

hiện một cái nhìn mới của nhà văn. Mặt khác giọng điệu này cũng làm cho văn xuôi

thu hẹp lại khoảng cách hơn với thơ ca, làm văn xuôi giầu sức truyền cảm, rung

động lòng người hơn.

Ngay từ những trang đầu tiên của tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ, Ma Văn

Kháng đã miêu tả cảnh bình minh trên biển bằng giọng điệu ấy "Rạng đông lặng lẽ

như một trang sách mở. Gió huýt nhẹ giọng nữ trầm trong yên tĩnh. Yên tĩnh đến

mức có thể nghe được tiếng vòng sóng đang lớn dần, rì rầm tràn vào bờ, rồi thì

thầm rút ra, lỉm dỉm sủi bọt, ngấm xuống vùng cát khô ở phía trong, để lại những

vệt bọt trắng bã ngoằn ngoèo như những bí hiệu lạ lùng. Vọng từ xa, tiếng chân giật

lùi chầm chậm của những ngư dân đánh cá đêm, đang ngửa ngực kéo vòng lưới vào

bờ với tiếng giọt nước giỏ tóc tách từ mắt lưới và cú nhảy vọt đáng kinh tởm kinh

hồn hòng thoát thân của những con cá bị lưới vây. Yên tĩnh như được tôn thờ. Yên

tĩnh có hình mẫu một ngôi đền lớn trang nghiêm, ngăn nắp và trật tự". Mặc dù miêu

tả hành động, nhưng Ma Văn Kháng vẫn đem đến cho người đọc ấn tượng về sự

yên tĩnh rạng đông của biển. Có được điều đó chính là sự kết hợp một cách hiệu quả

với tiết điệu nhịp nhàng của câu chữ.

Những trang viết trữ tình, đằm thắm, đặc biệt là những đoạn miêu tả nhiên

nhiên của Ma Văn Kháng đã tạo nên một không gian nghệ thuật mới, một tình điệu

thẩm mĩ làm cho câu chuyện chính, làm cho những tình tiết trong tác phẩm mềm

mại đi rất nhiều, người đọc cảm thấy bớt nặng nề, căng thẳng trước cuộc sống hiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

thực bộn bề.

59

Xuất phát từ những cảm xúc sâu lắng trong tâm hồn của nhà văn, cũng như tài

sử dụng từ ngữ một cách linh hoạt, Ma Văn Kháng sử dụng giọng điệu trữ tình với

mong muốn thể hiện niềm tin yêu của mình vào cuộc sống, con người và hướng con

người tới cái chân - thiện - mỹ. Chính sự mong mỏi này đã đem lại vẻ đẹp trên từng

trang văn của tác giả và tâm huyết của nhà văn trước cuộc đời.

2.2.2. Giọng điệu triết lý, triết luận

Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, Ma Văn Kháng là nhà văn luôn dị ứng với

kiểu viết công thức, rập khuôn theo những lối mòn quen thuộc. Ông không bằng

lòng với chính mình và luôn tự đổi mới để vượt lên chính mình. Vào đầu những

năm 80 của thế kỷ XX, Ma Văn Kháng đã mạnh dạn đổi mới tư duy nghệ thuật,

chuyển mạch văn ngợi ca giàu chất trữ tình, rưng rưng hào sảng sang khuynh hướng

phê phán. Chính vì vậy, khi đến với tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới ta

còn bắt gặp giọng điệu mang đậm tính triết lí, triết luận. Cũng như nhiều cây bút

văn xuôi thời kỳ này, Ma Văn Kháng luôn có xu hướng tìm kiếm ý nghĩa triết lí

nhân sinh qua việc miêu tả hiện thực cuộc sống đem lại cho tác phẩm chiều sâu

chính luận, triết luận.

Sau 1975, đặc biệt là sau 1986, đất nước ta có nhiều đổi thay. Những cách viết

đơn giản, công thức, sơ lược như trước đây không còn được độc giả chấp nhận. Sứ

mệnh của nhà văn lúc này là phải tự đổi mới mình để làm mới văn học. Vì thế,

trong sự nghiệp đổi mới văn học nói chung, đổi mới tư duy tiểu thuyết nói riêng,

cảm hứng khám phá, suy ngẫm, tìm kiếm những vẫn đề có ý nghĩa triết lý nhân sinh

trở thành dòng mạch chính của văn xuôi Việt Nam đương đại. Không ít sáng tác của

Lê Lựu, Tạ Duy Anh, Nguyễn Huy Thiệp… mang tính triết lý sâu sắc. Chính chất

triết lý, triết luận trong sáng tác của Ma Văn Kháng đã đem đến cho ông một giọng

điệu riêng (giọng tranh luận, tranh biện) góp phần quan trọng tạo nên phong cách

nghệ thuật văn xuôi Ma Văn Kháng.

Giọng điệu triết lý, triết luận là thế mạnh của văn xuôi Ma Văn Kháng. Bằng

giọng điệu này, tác giả đã đặt ra trong tác phẩm của mình hàng loạt các vấn đề cuộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

sống hôm nay để nhân vật, nhà văn và độc giả cùng bình luận: vấn đề truyền thống

60

và hiện đại, vấn đề cá nhân - gia đình, vấn đề lý tưởng và hiện thực, vấn đề đạo đức

giữa con người với con người… Bởi với Ma Văn Kháng, bạn đọc không phải là

người tiếp thu một cách thụ động, không phải là đối tượng để "mách nước", "chỉ

bảo" mà là đối tượng độc thoại chân lý. Mặt khác chân lý cũng chỉ có thể nảy sinh

trong quá trình cọ sát, va xiết giữa các ý kiến khác nhau. Điều này đã tạo nên tính

chất dân chủ, bình đẳng, gần gũi trong mối quan hệ giữa nhà văn và bạn đọc, một sự

đổi mới so với văn học giai đoạn trước.

Với Ma Văn Kháng, văn chương là "chuyện đời", là "dòng đời, mạch sống với

những dòng chìm nổi, mạch ngầm, mạnh lộ thiên". Để nắm bắt được chiều sâu hiện

thực ấy, nhà văn luôn có ý thức nâng cao tầm triết luận trong sáng tác của mình.

Đã từng sống và làm việc ở nhiều môi trường khác nhau, hơn ai hết Ma Văn

Kháng là người chứng kiến những éo le trái ngang của cuộc đời nên ông hiểu sâu

sắc những nghịch cảnh trong xã hội đương thời. Mỗi chi tiết của câu chuyện, mỗi

lời nhân vật hay chính toàn bộ tác phẩm là sự khái quát về một khía cạnh nào đó

của cuộc sống. Giọng điệu triết lý, triết luận được thể hiện hầu hết qua các tác phẩm

thời kỳ Đổi mới Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy

giá thú… Thời kỳ này quan điểm nghệ thuật của Ma Văn Kháng đã có sự chuyển

biến rõ rệt. Không gồng mình lên để phê phán cái ác, cái xấu ở đời như Vũ Trọng

Phụng, Nguyễn Công Hoan…, Ma Văn Kháng đã theo một cách riêng của chính

mình để suy ngẫm về lẽ đời, về cuộc sống, để bảo vệ những giá trị thiêng liêng của

cuộc sống.

Trong các sáng tác viết về gia đình, Ma Văn Kháng đã khai thác thành công

ngôn ngữ độc thoại nội tâm để nhân vật bộc lộ tình cảm, nghĩ suy, quan niệm về

cuộc sống của mình. Nắm vững quy luật phát triển, nhà văn để cho nhân vật lý giải

các mối quan hệ trong cuộc sống gia đình. Luận (Mùa lá rụng trong vườn) khi bàn

về tương lai của gia đình đã khẳng định: "Gia đình, cái hình thái kết hợp lạ nhất của

loài người, hình ảnh thu nhỏ của đời sống xã hội, rồi đây trong bước phát triển vũ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

bão của cuộc sống còn nảy nở thêm bao sắc thái mới mẻ trong các mối quan hệ,

61

nhưng với nó, ước mong no ấm, yên vui, hạnh phúc có bao giờ thôi là ước mong

muôn thủa vĩnh hằng" [22,63].

Giọng điệu triết lý, triết luận của đoạn văn trước hết được tạo bởi sự am hiểu

sâu sắc của tác giả về gia đình. Theo ông, gia đình - "Cái hình thái kết hợp lạ nhất

của loài người" ấy luôn vận động và phát triển không ngừng. Chính nó là tiêu điểm

đánh dấu sự vận động của xã hội loài người. Nhưng cái đích cuối cùng mà nó

hướng tới bao giờ cũng là sự yên ấm hạnh phúc.

Khi chứng kiến tấn bi kịch gia đình, nhìn thấy những thay đổi ngoài xã hội

đường phố, Luận đã tỏ rõ cơn bi phẫn từ vị trí nạn nhân "Có bao giờ con người hài

lòng với mặt tối của hịên thực. Căm phẫn là cần nhưng không khó với bất cứ ai có

lương tri. Chửi rủa càng là sự dễ dàng. Một chỗ đứng cao hơn, mà vẫn không là kẻ

trong cuộc, mà không phải là bàng quan, là chai lỳ, vô cảm là thế nào" [22,266].

Trong cơn nhiễu loạn nhiều chiều của cuộc sống, Luận điềm nhiên phân tích và có

những kết luận thuyết phục từ sự đối chiếu giữa hai thái độ ở hai hoàn cảnh khác

nhau "Cái thiện, cái hợp lý bao giờ cũng có sức mạnh tự thân. Và thiên hướng trở

về với cái thiện cái hợp lý là mạnh mẽ, ở ngay cả trong lúc cái xấu còn mạnh"

[22,267]. Trước bất kỳ sự việc gì Luận cũng dành thời gian để suy ngẫm và rút ra

một điều gì đó, một kết luận nào đó cho riêng mình. Mỗi một sự quan sát của Luận

đều có thể trở thành một trải nghiệm, một kinh nghiệm quý báu đối với anh. Luôn

luôn phân tích, lý giải là cách để Luận tìm ra những biện pháp tốt nhất, hữu ích nhất

cho công việc của mình cũng như cho những vấn đề của anh và gia đình.

Trong sáng tác của mình, Ma Văn Kháng thường sử dụng giọng điệu triết lý,

triết luận rất tự nhiên. Giọng điệu đó có khi từ lời của người kể chuyện, có khi từ

chính nhân vật trong chuyện. Qua đó làm tăng ý vị hấp dẫn và chiều sâu tư tưởng

của tác phẩm.

Không phải là thường xuyên, nhưng có lúc Ma Văn Kháng còn sử dụng giọng

điệu triết lý triết luận để bộc lộ quan điểm của mình về nghề văn. Ông cho rằng,

"Văn là văn. Văn không phải là chính trị, kinh tế học được hình ảnh hoá. Văn cũng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

chẳng phải là cỗ đại xa mang nhãn hiệu Komatsu hay Côccum có sức chở ba chục

62

tấn hay chiếc xe bò bánh gỗ chở lổng chổng trên nó mấy thứ hàng tư tưởng rẻ tiền

hay đắt giá. Văn là chính nó, ở chỗ nó chỉ có mỗi một nhiệm vụ là miêu tả con

người một cách văn chương. Nó tự nhiên như đời sống vì chính nó là đời sống. Chi

phối nó chỉ có một sức mạnh duy nhất của đời sống" [26,149]. Tác phẩm văn học

vốn là sản phẩm sáng tạo của nhà văn, bởi vậy, theo Ma Văn Kháng văn học phải

phản ánh cuộc sống nhưng phản ánh theo kiểu của nó. Cái lối thưởng thức tác phẩm

dùng gương soi vào đời sống để xem nó đúng hay sai với nguyên mẫu rồi từ đó định

giá cho nó giờ không còn phù hợp nữa. Ma Văn Kháng đã thực hiện những điều tâm

niệm của mình, thông qua việc bày tỏ quan niệm về văn chương và nghề văn. Ông

luôn nỗ lực sống thực với cuộc sống, dùng ngay đời sống, chứ không phải một cái

gì khác ở ngoài đời sống. Chính điều đó đã đem lại cho văn chương của Ma Văn

Kháng sự gần gũi với cuộc đời và con người.

Thực ra không phải đến Ma Văn Kháng tính triết lý trong văn chương mới

xuất hiện. Tính triết lý trong văn chương đã xuất hiện ngay từ những năm đầu thế

kỷ XX, đặc biệt là giai đoạn 1930 - 1945. Các nhà văn thường qua hình tượng nhân

vật của mình để phát biểu những chiêm nghiệm, những nhân sinh quan, những khát

vọng lý tưởng mà họ đam mê ôm ấp, ước mơ. Lý tưởng ước mơ vốn đẹp mà cuộc

đời lại khắc nghiệt vô cùng. Trong số những nhà văn giai đoạn này, Nam Cao được

coi là người thành công hơn cả. Xoáy sâu vào bi kịch tinh thần của những con

người trí thức, những con người có tài năng, có nhân cách, có lý tưởng xã hội cao

cả, muốn sống bằng lao động sáng tạo của mình, nhưng vì gánh nặng cơm áo mà

cuộc sống của họ trở nên vô nghĩa, họ đều phải trăn trở, xót xa vì cho đến chết mà

vẫn chưa làm được gì cả "Chết mà vẫn chưa sống".

Nhân vật Thứ trong Sống mòn từng ôm mộng vào Đại học, được sang Tây,

được nhìn xa biết rộng, để tu luyện thành tài và phụng sự cái lý tưởng của mình - lý

tưởng đó "đem những sự thay đổi lớn lao cho cái xứ sở của mình". Bao nhiêu ước

mơ, mộng tưởng đẹp đẽ, cao xa là thế, vậy mà, Thứ cũng chỉ là ông giáo nghèo khổ

sống lay lắt. Có những lúc Thứ phải thốt lên một cách đau đớn "Sao mà cái đời nó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

tù túng, chật hẹp, nó bần tiện thế! Không bao giờ dám nhìn cao một tí. Chỉ những lo

63

ăn, lo mặc. Hình như tất cả nguyện vọng, tất cả mong ước, tất cả mục đích của đời

chỉ là mỗi ngày hai bữa. Bao nhiêu tài trí, sức lực đều chỉ dùng vào việc ấy, khổ sở

cũng vì thế, mòn mỏi tài năng cũng vì thế nốt" [5].

Nếu trong các sáng tác của Nam Cao giọng điệu triết lý của ông tập trung đi

sâu phản ánh và tố cáo bản chất của xã hội cũ, bằng cách để những nhân vật này rơi

vào bi kịch đứng giữa ngã ba đường, giữa lý tưởng nghề nghiệp và nhu cầu cơm áo,

gạo tiền, thì ở Ma Văn Kháng, ông đã để cho nhân vật của mình được soi chiếu

nhiều chiều, nhiều góc độ trong nhiều mối quan hệ của đời sống. Nhân vật của Ma

Văn Kháng nhiều khi trở thành nạn nhân của cái ác, cái xấu, cái bỉ ổi đê tiện và

quyền lực. Chính vì vậy, giọng điệu triết lý, triết luận của Ma Văn Kháng mang một

sắc thái mới với một độ sâu lắng cần thiết trong tác phẩm.

Ma Văn Kháng đã mở rộng, đào sâu bằng những trực cảm, dự báo những suy

tư triết luận về cuộc đời về số phận trí thức Việt Nam. Tiểu thuyết Đám cưới không

có giấy giá thú của Ma Văn Kháng ngay từ đầu đã cuốn hút người đọc bởi những

suy nghĩ, những chi tiết mới mẻ, sống động, qua cách thể hiện đầy tâm huyết của

nhà văn. Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là thầy giáo dạy giỏi văn - Đặng Trần

Tự. Trải qua hai mươi năm thực hiện cuộc hành trình tâm hồn để đi tới ngày "thành

hôn" của mình với những điều mình tôn thờ, Tự đã phải trải qua bao gian truân vất

vả, Ma Văn Kháng nhiều lần triết luận về vấn đề này: "Cuộc hoà hợp của thi sĩ với

đối tượng yêu dấu của mình là một cuộc hôn phối tuyệt đẹp. Đó là cuộc hôn nhân

của thi sĩ với lý tưởng"; "Vì sao Tự không gặp được lý tưởng, cuộc kết hôn của anh

với cái đẹp của chủ nghĩa mà anh tôn thờ không thành? Một đám cưới không thành

một hành trình trắc trở" [21,331]. Trước số phận, bi kịch của mỗi nhân vật trí thức

trong tác phẩm, nhà văn không tố khổ, không kêu cứu một chiều mà ông đã đối

thoại với bạn đọc: "Trách ai bây giờ. Phải ngồi lại với nhau để bàn bạc cho ra nhẽ.

Vở bi kịch còn đang tiếp diễn và không chỉ là cá biệt. Việc này có quan hệ với tất

cả. Mỗi người trong tất cả, hãy cất tiếng nói của mình từ thực nghiệm của chính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

mình" [21,367].

64

Trong cái nhìn của Ma Văn Kháng, cuộc sống hôm nay còn nhiều điều bất ổn,

cái xấu đang xâm nhập vào từng gia đình, từng cá nhân làm ảnh hưởng không ít đến

sự phát triển chung của dân tộc. Trước sự thật nhức nhối, Ma Văn Kháng luôn trăn

trở day dứt về những thực trạng đau lòng: "Học sinh cứ đỗ nhiều đi, nhưng kỹ sư ra

trường xây cầu thì đổ. Huân chương thì mỗi năm một nhiều, nhưng xã hội mỗi năm

một thêm suy đồi, thân phận con người bé nhỏ vẫn không thoát khỏi vòng khốn

đốn" [21,331].

Khái quát cuộc sống bằng giọng điệu triết lý, triết luận với những lý giải sâu

sắc, chứng tỏ trách nhiệm của các nhà văn trước cuộc đời. Nỗi trăn trở lớn nhất của

nhà văn là căn bệnh thành tích. Ma Văn Kháng nhìn thấy rõ hậu quả khôn lường của

nó. Sự phân tích lý giải của ông như một lời cảnh báo cho tất cả chúng ta. Tác giả

muốn cùng người đọc nhìn nhận lại hiện thực của cuộc sống từ đó nhìn lại chính

con người mình, xét lại toàn bộ những suy nghĩ, hành động của mình, để thay đổi

theo tinh thần mới của Đảng.

Vốn là một nhà văn luôn có xu hướng tăng cường đậm đặc giọng điệu triết lý,

đối thoại trong sáng tác của mình, trong các tác phẩm của Ma Văn Kháng nhiều khi

người đọc bắt gặp từ những câu chuyện tưởng chừng như rất vặt vãnh, bé nhỏ

nhưng qua sắc thái giọng điệu triết lý, bàn luận, nhận xét của nhà văn hay của nhân

vật trong tác phẩm, đã làm tư tưởng, chủ đề mở rộng, tầm triết lý, khái quát của tác

phẩm được nâng cao. Đúng như Phó giáo sư - Tiến sĩ Lã Nguyên từng nhận xét:

"Mang chiều sâu của triết luận nhân bản về đời sống, nội dung xã hội của tác phẩm

Ma Văn Kháng bao giờ cũng vượt ra ngoài ý nghĩa đề tài, chất liệu".

Bên cạnh những vấn đề được phản ánh trong các tác phẩm, Ma Văn Kháng

còn chú ý đến những nghịch cảnh ở đời, từ đó nhà văn suy nghĩ, nghiền ngẫm về

những lẽ đời trớ trêu vô nghĩa. Giọng điệu triết lý trong sáng tác thời kỳ này của Ma

Văn Kháng đã mang lại những hiệu quả thể hiện cao.

Trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời ngoài sự thành công trong việc xây

dựng hình tượng nhân vật bà Lãng, Ma Văn Kháng còn đặt ra nhiều vấn đề khác:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

vấn đề đạo đức, đạo lý truyền thống, vấn đề "bung ra" của cơ chế mới, vấn đề đồng

65

tiền trong các mối quan hệ. Để được cùng độc giả luận bàn, thể hiện suy nghĩ,

chiêm nghiệm của mình về những vấn đề đó, Ma Văn Kháng đã cho nhân vật người

bà một giọng điệu triết lý sắc sảo: "Giàu có mà không dạy nhau ăn ở cho ra con

người thì cũng dễ tan cửa nát nhà"; "Hoàng kim hắc thế tâm", Các cụ đã dạy như

vậy, "Còn nghèo túng mà không giữ lòng kiên trinh thì thành phường luồn cúi, nô

bộc cả". Đó là những vấn đề rất xưa nhưng không bao giờ cũ cả.

Trong tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời tác giả đã cho nhân vật bà Lãng cùng

gia đình chịu đựng biết bao nhiêu khó khăn, cùng cực. Có nhiều lúc bà đã phải phẫn

uất kêu trời vì nỗi cơ cực ở đời, mọi cơ cực ấy đều đè nặng trên đôi vai gầy mỏng

manh của bà. Ở cái tuổi gần bẩy mươi bà phải cưu mang hai đứa trẻ côi cút, chấp

nhận mọi nỗi tủi nhục nhưng không bao giờ tuyệt vọng vì bà luôn tin rằng: "Ở hiền

gặp lành" và quả thật trong quãng đời khốn khó của bà, bà luôn được giúp đỡ, cảm

thông của những người lương thiện, nhân hậu. Cho dù có những lúc bà cùng hai đứa

cháu côi cút sống trong giây phút cảm tưởng không thể vượt qua được để giành giật

sự sống, lúc đó bà vẫn kiên cường chống chọi với mọi thế lực để đem lại niềm tin

cho các sinh linh bé nhỏ, chênh vênh giữa dòng đời đen bạc. Cuối cùng "Sự sống đã

chiến thắng. Em Thảm đã sống nhờ nội lực tiềm tàng, nhờ nghị lực chống trả phi

thường và nhất là nỗi khát khao muốn cho đời hiểu rằng: Sự sống của những kẻ vùi

dập là bất diệt chăng?" [23,161].

Không chỉ những thế bà Lãng, còn cho những người xung quanh mình niềm

tin để đến với những hạnh phúc ngọt ngào thương yêu. Như cô Quyên khi xa

phường Ngọc Sinh vào Nam chăm sóc chồng, cô luôn mang trong mình câu nói từ

cuộc đời bình dị tháng ngày của bà: "Dẫu có thế nào thì cũng cứ phải cứng cỏi gánh

vác, chống trả, vì đã có một chân lý được đúc thành vàng thoi: hết cơn bĩ cực đến

tuần thái lai. Trong vận động đời sống, điều vô lý sẽ bị chính ngay đời sống xoá bỏ"

[23,167]. Cho dù, cuộc đời khó có thể đạt tới sự công bằng hoàn toàn, nhưng không

thể có chuyện cứ mãi bất công, lộn xộn, bê bối. Bà luôn tin vào một ngày mai, xã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

hội có sự thay đổi, con cái, gia đình rồi sẽ đoàn viên sum họp và hạnh phúc như

66

ngày tháng vốn có. Niềm tin của bà đã chiến thắng, ngày đó đã đến, hạnh phúc lại

trở về với gia đình, bà đã tìm lại được sự công bằng từ chính cuộc đời này.

Qua hình tượng bà Lãng ta thấy, Ma Văn Kháng vẫn luôn tự tin vươn tới cái

tốt đẹp bằng niềm tin ở mỗi người "Người ta sống, hành động có niềm tin. Niềm tin

vào sức mạnh lớn lao", Chính từ niềm tin ấy, mà các nhân vật của Ma Văn Kháng

đều là những con người có lòng tin mãnh liệt vào tương lai, tư duy hành động của

họ đều hướng vào mục đích cao cả. Họ đã xây dựng cho mình lý tưởng tôn thờ,

niềm đam mê khát vọng, thái độ sống giữa rất nhiều quan niệm nhân sinh của người

đời, để rồi suốt đời họ trung thành với lý tưởng mà mình đã cống hiến. Ma Văn

Kháng thể hiện rất rõ điều này trong quá trình xây dựng nhân vật Khiêm (Ngược

dòng nước lũ), ông Thuần (Chó Bi - đời lưu lạc)…

Khiêm (Ngược dòng nước lũ) là một nhà văn, hơn ai hết anh ý thức về quyền

cá nhân rất rõ rệt. Đó là ý thức quyền tự do sáng tạo của người nghệ sĩ. Anh đã nói

một cách thẳng thắn "Tôi trước hết là một nhà văn. Tôi sống thành thật với mình,

tôi trung thành cảm xúc của mình". Bằng sự trải nghiệm cuộc sống, đặc biệt trong

chiến tranh, Khiêm đã xác định được lý tưởng sự nghiệp của mình. Với anh văn

chương phải phục vụ cho mục đích cao nhất là cuộc sống con người, phải giúp cho

người đọc "Nhìn rõ hơn cái nguyên cớ khuất chìm của tình trạng suy đồi nhân thế"

[26,150] và Khiêm đã đạt đến đỉnh cao của vinh quang mà bất cứ người cầm bút

nào cũng mơ ước.

Với ông Thuần trong Chó Bi - đời lưu lạc cũng vậy, cả cuộc đời ông luôn tin

vào lẽ sống mà mình đã định, tự tin vào chân lý vĩnh cửu của cuộc đời. Trước

những bi kịch xảy đến gia đình, ông vẫn hết sức bình thản, tự tin vì ông luôn tâm

niệm một điều rằng "Đi trên đường lớn thì không một sức mạnh trần thế nào chống

lại được" [24,413]. Bởi vậy, khi đối mặt với bi kịch ông không hề buông xuôi, tuyệt

vọng mà ngược lại, vẫn giữ cho mình một cốt cách không đổi "Không lẽ người anh

hùng lại bó tay trước các thế lực đương quyền tha hoá". Ông trở nên mạnh mẽ hơn

bao giờ hết, vững chãi như cây tùng, cây bách mà cường quyền bạo lực không thể

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

lay chuyển, ông đã dồn hết tâm trí cùng bạn bè để đưa ra ánh sáng sự thật.

67

Giữa dòng đời vẫn đang cuộn chảy, Ma Văn Kháng đã có một cái nhìn đầy

nhân văn, đầy tình hữu ái với mong mỏi đem đến cho xã hội những điều tốt đẹp

nhất. Chính vì vậy, mỗi trang văn của Ma Văn Kháng như một bức thông điệp nóng

bỏng của cuộc đấu tranh diễn ra ở từng lúc, từng nơi để giành lại giá trị thiêng liêng

của cuộc sống. Ngòi bút của Ma Văn Kháng đầy đau đớn, day dứt trước cuộc sống

thực tại, nhưng không u ám, không hằn học vì tác giả vẫn tin tưởng và trân trọng

vào điều thiện.

Với giọng điệu triết lý, triết luận, nhà văn đã tạo hiệu quả cao trong việc bộc lộ

nhân sinh quan và thể hiện sự tổng kết của bản thân mình về cuộc đời về con người,

về xã hội hôm nay. Ngoài ra, Ma Văn Kháng còn muốn gửi gắm một nhận định:

"Chân lý có thể nảy sinh trong quá trình va chạm giữa các ý kiến khác nhau, là cách

người cầm bút được nối lời, tiếp lời để tranh luận, để đối thoại với ý thức xã hội, ý

thức nghệ thuật". Qua đó, nhà văn muốn giãi bày bằng suy tư, chiêm nghiệm, lý giải

về con người nói chung.

Như vậy, bằng sự am hiểu và suy ngẫm của nhà văn về cuộc đời, các sáng tác

của Ma Văn Kháng mang đậm màu sắc triết lý, triết luận, có lúc thì hiện diện rõ

ràng, có khi bảng lảng trong lời trần thuật. Chính giọng điệu triết lý, triết luận trong

sáng tác của Ma Văn Kháng đã cuốn hút người đọc vào mạch truyện, gợi lên trong

lòng chúng ta những suy tư, trăn trở về cuộc đời. Đồng thời, nhờ có giọng điệu này

mà người đọc có cơ hội soi lại mình qua mỗi trang văn của ông.

Với giọng điệu triết lý, triết luận, tác phẩm của Ma Văn Kháng đã đem đến

một sức nặng nghệ thuật riêng, một sức hấp dẫn riêng về mặt trí tuệ. Giọng điệu

triết lý còn thể hiện một cái nhìn tích cực và nghiêm túc, một khao khát muốn vươn

tới cái đẹp, muốn tìm chân lý của nhà văn. Tất cả, đều cho chúng ta thấy một Ma

Văn Kháng hiểu đời, hiểu người và hiểu hoàn cảnh.

2.2.3. Giọng điệu mỉa mai, châm biếm

Như chúng ta đã biết, khi đất nước đang trong giai đoạn chuyển mình cùng với

những cái mới, cái tiến bộ là những tàn dư của xã hội cũ, cái lạc hậu, mà ngày một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngày hai không thể xoá bỏ được. Điều này đã tạo ra những kẽ hở, tạo cơ hội thuận

68

lợi cho những kẻ tiểu nhân, thực dụng, trục lợi lộng hành. Tiêu biểu là sự bỉ ổi, nanh

nọc lố bịch trơ tráo, cạn tầu ráo máng, lối thực dụng chạy theo danh vọng, tiền tài;

là sự xuống cấp, suy tho ái về đạo đức và nhân phẩm của một số lãnh đạo... Viết về

những bọn người ấy, Ma Văn Kháng lại thể hiện bằng giọng điệu mỉa mai, châm

biếm đôi khi kèm theo cả sự phẫn uất.

Khi mô tả chân dung vị của giáo sư, trưởng khoa của một trường Đại học có

tiếng trong tác phẩm Mưa mùa hạ, Ma Văn Kháng viết: "Trường Đại học! lâu đài

của trí tuệ! Vậy mà làm sao lại có một thằng cha bất tài, vô đạo nghiễm nhiên đóng

vai trưởng khoa? Cái thằng cậy mình là Đảng viên" [25,26]. Giọng điệu mỉa mai,

châm biếm được sử dụng một cách hữu hiệu và bộc lộ trực tiếp qua từ ngữ thông

tục, câu hỏi tu từ và ngữ điệu câu văn.

Sắc thái giọng điệu này vừa mỉa mai châm biếm những nhân vật trí thức

"rởm", vừa tỏ ra lo ngại cho nền giáo dục nước nhà. Sự lo ngại đó như thấm vào

từng câu chữ khi nhà văn phơi bày sự dốt nát của nhân vật trí thức "rởm" trong sáng

tác của mình. Ngay từ việc miêu tả ngoài hình và lời diễn thuyết của một Bí thư đầy

quyền lực trong Đám cưới không có giấy giá thú nhà văn đã viết: "Nắng sớm tháng

tám nhuộm đỏ, khuôn mặt sần sùi trứng cá của ông. Ông to như hộ pháp trong chùa,

nhưng dài trên, ngắn dưới, tai bẹp, mắt gườm gườm. Ông chẳng có được ánh cười

trên đôi môi dày như đắp nặn" [21,101]. Rồi ngay cái câu đầu tiên cho lời phát biểu

trong buổi lễ khai giảng, vị Bí thư đã hiện lên là một kẻ dốt nát "Hôm nay, thị xã ta

khai giảng trường cấp 3, rồi đây chúng ta sẽ mở trường cấp 4, cấp 5, cấp 6. Cũng

như hiện tỉnh ta có giống lợn Mường Khương, nhiều mỡ, rồi đây ta sẽ có giống lợn

kinh tế nhiều nạc, tăng trọng nhanh" [21,102]. Vào cái ngày mở đầu một tiến trình

văn hoá mới trang trọng là vậy mà ông Bí thư Thị uỷ lại gây nên nỗi buồn đau và tủi

nhục trước một thế hệ học sinh. Với giọng điệu mỉa mai, châm biếm, Ma Văn

Kháng đã xây dựng thành công và sống động về một kẻ cầm quyền đại diện cho

Đảng, cho dân, nhưng lời lẽ, ngôn ngữ lại biểu hiện của kẻ chợ búa, vô học, vô đạo

đức. Những kẻ như thế chỉ làm hại cho dân, cho nước và cho những con người có lý

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

tưởng như thầy giáo Đặng Trần Tự và lớp học sinh ham hiểu biết mà thôi.

69

Không chỉ ông Bí thư Thị uỷ Lại, Khi miêu tả con đường thăng tiến và trình

độ nhân cách của ông hiệu trưởng Cẩm, Ma Văn Kháng cũng sử dụng rất đắc địa

sắc thái giọng điệu này. Vốn là sản phẩm của một thời lấy lý lịch ba đời nghèo khổ,

lấy tấn phân xanh phân chuồng làm thước đo giá trị duy nhất của mỗi người, thực

sự là cơ hội để Cẩm đổi đời. Với "lý lịch ba đời của Cẩm khỏi chê" ấy, Cẩm trở

thành "của hiếm" và được cử đi học Đại học. Nếu những kẻ khác việc trở thành

Đảng viên khó như leo lên đỉnh ngọn Clomôluma chọc trời thì với Cẩm việc đó lại

"dễ dàng như được mời đi ăn cỗ". Bởi vậy, mà con đường đi đến với chức vụ hiệu

trưởng của Cẩm cũng chỉ là việc đơn giản như trở bàn tay. Mặc dù được cử đi học

Đại học, được làm Hiệu trưởng nhưng "Cẩm vẫn cứ là kẻ dở ông dở thằng. Vẫn cứ

không sao xoá được cái cốt cách mõ làng của mình" [21,125]. Bằng giọng điệu mỉa

mai, châm biếm qua cách kể và tả, nhà văn đã phê phán, bóc trần bản chất dốt nát

của những nhà trí thức "rởm" như Bí thư Thị uỷ Lại và Cẩm...

Giọng điệu châm biếm, mỉa mai tiếp tục được sử dụng khi tác giả miêu tả "tài

năng" văn chương của Cẩm. Trên bục giảng Cẩm luôn biến bài giảng văn của mình

thành bài chính trị, luân lý đạo đức ngô nghê, có lần dạy bài Văn tế nghĩa sĩ Cần

Giuộc, giảng hết bài rồi mà còn những năm phút nữa mới hết tiết, Cẩm liền lấp chỗ

trống bằng cách bảo học sinh đứng dậy mặc niệm các nghĩa sĩ năm phút để tỏ lòng

tri âm. Chẳng những thế, Cẩm còn thiếu cả năng lực nghiệp vụ sư phạm, trước câu

hỏi của một học sinh trong giờ lên lớp, Cẩm đã trả lời một cách ngô nghê và thể

hiện ngay sự dốt nát của mình:

"Học trò : Thưa thầy, tại sao Nguyễn Du viết: "Vầng trăng ai xẻ làm đôi ?"

- Thầy Cẩm: Thế mới hay chứ!

- Học trò: Thế thưa thầy vì sao lại: "Nửa in gối chiếc?"

- Thầy Cẩm : Thế mới gọi là thơ!

- Học trò: Thế còn "Nửa soi dặm trường" là thế nào ạ?

-Thầy Cẩm: Cái cậu này dốt bỏ mẹ! Thế thì mới gọi là đại thi hào Nguyễn Du

chứ!" [21,116]. Thật đúng là một trò cười cho thiên hạ, một ông hiệu trưởng, một giáo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

viên dạy văn mà lại buông ra nhưng lời thô lỗ, thiếu văn hoá và ấu trĩ đến mức ấy.

70

Giọng điệu ấy còn thâm cay hơn khi nhà văn nhận xét và thẩm bình công việc

mà Bí thư Dương đảm nhiệm và những thành tích mà ông ta giành được "Chà trí

thức những kẻ mang sẵn cái mầm bất phục tùng và thói tự phụ cùng các nhược điểm

thâm căn cố đế như hay hoang mang dao động, xa rời đời sống... Thế mà làm cách

nào Dương lại đoàn kết được họ, kìm chế khuyết tật ở họ, khiến họ trở thành những

người thầy XHCN, hết lòng vì học sinh thân yêu? Dương vất vả đây. Nhưng công

việc sẽ rất thú vị. Bởi vì, đó chính là phần thưởng. Ôi những phần thưởng, những

danh hiệu những tấm bằng khen, những lá cờ la liệt trên bức tường ở phía sau chiếc

ghế Dương vẫn ngồi" [21,329-330]. Ở đây, giọng điệu chủ đạo vẫn là giọng điệu

mỉa mai châm biếm. Giọng điệu này được tạo bởi từ ngôn ngữ nửa trực tiếp. Lời kể

của tác giả nhuốm màu suy nghĩ của nhân vật đem lại sự thâm thuý mỉa mai sâu

cay. Từ đó, nhà văn lật tẩy những việc làm của ông ta "Nhưng, đó sẽ là một trò ảo

thuật đại lừa bịp, và vô sỉ bậc nhất. Bởi vì đó là sự trang điểm mỹ miều cho một tấm

thân đã dơ dáy nhuốc nhơ, đang cần phải chà xát kĩ càng cho bật hết ghét bẩn"

[21,330]

Đọc nhưng trang văn của Ma Văn Kháng ta thấy nổi lên một loạt những hiện

tượng kỳ quặc. Những con người ít học, kém trí tuệ như ông Dương lại tự giao cho

mình cái quyền dạy cách làm người cho giáo viên và học sinh. Có thể nói, những

hiện tượng kỳ quặc đó làm nảy sinh trong xã hội một loạt những nghịch lý. Giờ đây,

cái xấu ngồi trên cái tốt, cái vô văn hoá dẫm đạp lên cái có văn hoá, cái ngu dốt ngự

trị tài năng. Sự đảo ngược các giá trị đó đã làm cho những người tâm huyết như Ma

Văn Kháng dằn vặt, đến đau đớn.

Nghiêng về những giá trị đạo đức thiêng liêng của dân tộc, trước những hành

vi xấu xa, đê tiện của con người luôn coi trọng đồng tiền và danh vọng, giọng điệu

châm biếm, mỉa mai của Ma Văn Kháng còn tiếp tục phơi bày bản chất của những

con người đó. Hành vi độc ác của Chủ tịch Luông ở phường Ngọc Sinh trong Côi

cút giữa cảnh đời được nhà văn không ngần ngại đưa lên trang sách. Ngay từ những

trang đầu của tác phẩm, ông Chủ tịch phường đã được hiện lên với gương mặt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

"choăn choắt, da ông sắt seo và mũi ông tóp nhọn như sắt, còn hai con mắt ti hí như

71

rắn ráo liên hồi", có lúc "Mắt lại chíp lại như mắt người ngủ gà, ông ta mím môi,

chíp chíp trong miệng như chuột kêu" [23,46].

Bằng cách sử dụng đậm đặc và chuẩn xác những từ láy và nhiều kiểu câu đa

dạng, Ma Văn Kháng không chỉ cho người đọc chiêm ngưỡng gương mặt và dáng

hình xấu xí của ông Chủ tịch phường, mà còn lột tả hành vi đểu cáng, độc ác và ngu

dốt của ông ta. Sự ngu dốt đó được thể hiện rõ hơn khi ông Chủ tịch phường đã có

thâm niên tới ba mươi năm công tác ở ngành ngoại giao mà lại cho rằng: Tây du ký

là câu chuyện Đặng Tiểu Bình du hí ở bên Tây tức bên Mỹ. Bởi vậy, ông ta cấm

mọi người không được đọc cuốn sách đó. Chẳng ý thức được sự dốt nát của mình,

ông ta còn luôn tự hào, hãnh diện kể rằng hồi còn đương chức thủ trưởng cơ quan,

có một nhân viên gọi phở không có thịt là phở không người lái, và ông cho rằng đó

là dụng ý xấu chê trách sự lãnh đạo. Để "xử lý" hành động này, "Tôi đã bắt hắn

đứng trước mặt tôi, nói liên tục bốn tiếng đồng hồ cái câu phản động ấy, đến kỳ hắn

mệt rã, bỏng họng, gục xuống trước mặt tôi để hắn nhớ đời". Nói xong ông chủ tịch

"nuốt nước bọt đánh ực" [23,102]. Giọng điệu mỉa mai, châm biếm của Ma Văn

Kháng được hiện diện qua từng câu, từng chữ. Nó như là một phương tiện vạch trần

tâm địa độc ác, ngu dốt của lão Chủ tịch. Ma Văn Kháng khinh bỉ hắn lôi hắn ra ánh

sáng rồi lần lượt vạch trần bộ mặt bẩn thỉu, tâm địa xấu xa của hắn.

Cũng như Tô Hoài, Ma Văn Kháng cũng nhằm vào tất cả những thói hư tật

xấu, những suy thoái biến chất của con người trong cuộc sống đời thường mà phê

phán. Đối tượng phê phán của họ là tất cả những gì xa lạ với con người theo quan

điểm đạo đức văn hoá. Nhưng Tô Hoài chỉ dùng giọng điệu này phê phán những gì

xa lạ với con người bình thường trong cuộc sống đời thường, thì Ma Văn Kháng lại

dùng giọng điệu này để lật tẩy mọi sự xấu xa nhức nhối của những kẻ trí thức

"rởm", lãnh đạo "rởm", sự xuống cấp đạo đức nghiêm trọng, trước sự đảo lộn trong quy

luật của đạo đức tình cảm ở mỗi người trong cuộc sống đa dạng đa chiều hôm nay.

Khi đọc sáng tác của Tô Hoài ta thấy, cái nhìn tinh quái của nhà văn khiến mọi

việc mờ ám trong cuộc sống không qua nổi mắt ông. Hãy nghe Tô Hoài miêu tả tình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

cảnh của mợ Phán (Bóng đè) - "con dâu ngoan" của ông bà trưởng Luỹ bị bệnh

72

bóng đè - cứ "vào quãng nửa đêm lại thấy ngực nặng trình trịch như đeo đá, chân

tay nhuôi ra, muốn cựa cũng không được, mồm cứng quai hàm không kêu được",

khiến cho ông bà Trưởng Luỹ lo lắng lắm. Ông bà tìm đủ mọi cách để cứu chữa cho

cô con dâu nhưng cũng chỉ yên được một dạo, bệnh của mợ Phán lại đâu vào đấy.

Chỉ đến khi đích thân ông trưởng Luỹ kê chõng ngủ ngay cạch cửa phòng mợ thì

bệnh của mợ khỏi hẳn. Thật "hạnh phúc cho ông bà trưởng". Giọng điệu mỉa mai,

châm biếm, nhẹ nhàng của Tô Hoài đã vén bức màn che đậy hành động ngoại tình

bấy lâu nay của cô "con dâu ngoan" nhà ông bà trưởng Luỹ.

Rồi từ dáng vẻ thoả mãn, hãnh diện của cô Mây (Vàng phai) vì lấy được người

chồng "sộp và mạnh bạo, và mốt mới", Tô Hoài đã mỉa mai: "Cô quyền Vực vận cái

áo vải rồng mới, đeo trên vai cái tay nải to tướng miệng nhai trầu tủm tỉm, đi ve vẩy

nhẹ nhàng bên cạnh chồng - người chồng bảnh bao có đôi giầy to mỗi chiếc có nhẽ

bằng con lợn con, bước nghe cồm cộp đến vui tai". Giọng điệu mỉa mai, phê phán

lúc này trở nên nhẹ nhàng, "tình cảm". Nó không tạo ra khoảng cách mang tính đối

kháng căng thẳng quyết liệt

Ma Văn Kháng cũng dùng giọng điệu này để nhằm vào những thói tật, những

suy thoái biến chất của con người nhưng Ma Văn Kháng không đơn thuần nhằm

vào những con người bình thường, mà sâu sắc hơn là nhà văn sử dụng giọng điệu

này để tập trung phơi bày sự dốt nát của những nhân vật trí thức "rởm", cũng như

vạch trần con đường thăng tiến và thói quen "đục nước, béo cò" của những kẻ háo

danh, cơ hội. Với những đối tượng như Quanh lé, Tý Hợi, Cục trưởng Phô (Ngược

dòng nước lũ)…

Cục trưởng Nguyễn Văn Phô (Ngược dòng nước lũ), ngay từ lúc nhỏ đã nổi

danh là một học trò hư. Năm 17 tuổi vì học kém và hư đốn nên Phô bị đuổi, sau đó

Phô xin vào làm công nhân khuân vác ở nhà ga xe lửa. Sớm khôn ngoan, tìm đường

bay nhảy một năm sau thì Phô được làm thư ký đội khuân vác ở nhà ga xe lửa. Năm

sau Phô làm cán bộ lao động tiền lương bán chuyên. Năm sau nữa Phô được đi học

trường công đoàn tỉnh hệ sơ cấp... Khi viết về con đường thăng tiến của Phô, Ma

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Văn Kháng đã mỉa mai: "lạ lùng, sao có những con đường thăng tiến dễ đến thế", và

73

"không mất xương máu, cũng không cần học hành, chỉ cần có một lai lịch nghèo

khổ, một vẻ ranh mãnh trên đường đời và thói đần độn dễ bảo với cấp trên. Ai cũng

biết, dễ bảo là đặc tính của kẻ thiểu năng" [26,158]. Thế rồi, ngay cả khi Phô làm

Cục trưởng, y vẫn được xếp vào loại cán bộ kém cỏi về cả lý luận và thực tiễn. Điều

khiển một cuộc họp không xong, kết luận một hội nghị không nổi, ăn nói thì luôn

hớ hênh, thậm chí còn lỗ mãng ngớ ngẩn. Không những thế hắn còn hay ỷ vào

quyền hành, nhỏ nhen, lắm mưu mẹo để trả thù cá nhân. Nhà văn thấu hiểu từng

chân tơ kẽ tóc và sử dụng giọng điệu này để tố cáo sự tráo trở trên con đường thăng

tiến của mỗi người.

Ma Văn Kháng tiếp tục dùng giọng điệu mỉa mai châm biếm, để vạch trần một

cách hiệu quả con đường thăng tiến của "Quanh lé" hay "Con cóc cụ mắt lé" một

trong những "bản sao của Phô". Nhà văn miêu tả "Chàng lé học hết lớp 7 Trường

Bổ túc văn hoá ở huyện hồi 1954, rồi đi học sáu tháng tiếng Quảng Đông, tốt

nghiệp được điều về làm thông dịch viên ở Tổng cục T. Nghề thông dịch viên của

ông chỉ kéo dài được hơn một năm. Vì ông được đào tạo cấp tốc, chữ Hán chỉ ở

mức thoát nạn mà chữ của người Trung Hoa… nên chỉ nói miệng được chứ không

dịch văn bản được" [26,124]. Khi chàng lé 59 tuổi, theo gợi ý của Tổng cục, Khiêm

đề bạt làm Phó chủ nhiệm phụ trách việc hành chính. Có thể nói đây "là rắn mà giả

lươn, ngậm miệng che đậy cái gian hiểm bên trong" [26,125]. Một con người ranh

ma quỷ quyệt và hám danh đến mức lố bịch, mọi người trong cơ quan đều khinh

ghét. Đúng như lời nhận xét của nhà văn "Thầy nào thì trò vậy. Bất tài thì vô đạo

đức, đó là thông lệ" [26,162].

Là một nhà văn chân chính, Ma Văn Kháng không thể làm ngơ trước những

phần tử xấu xa, cơ hội và đê hèn như Quanh lé. Bằng cách sử dụng hiệu quả giọng

điệu mỉa mai, châm biếm, Ma Văn Kháng đã lột tẩy, tố cáo những bộ mặt giả dối

của một đội ngũ trí thức "rởm" và con đường thăng tiến của chúng. Vì muốn tiến

thân trong sự nghiệp mà chúng bất chấp cả truyền thống đạo đức tốt đẹp, chúng sẵn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

sàng bán rẻ cả lương tâm, nhân phẩm của mình.

74

Với giọng điệu này, Ma Văn Kháng đã khắc hoạ thành công bức chân dung

của những kẻ cầm quyền một cách chân thực và sắc nét. Họ đều giống nhau ở chỗ là

đục khoét, ngu dốt và vô văn hoá… nhà văn đã ném cả cái nhìn khinh bỉ vào tất cả

hệ thống những kẻ cầm quyền ấy và lột trần cái vỏ bọc trí thức "rởm" hào nhoáng

của chúng. Rất nhẹ nhàng, Ma Văn Kháng đã phơi bày tất cả sự thật, và với cái nhìn

sắc sảo Ma Văn Kháng còn nhận ra rằng, hiện tượng đó chẳng riêng gì ở một cơ

quan, xí nghiệp nào, mà đã trở thành vấn nạn chung trong toàn xã hội.

2.2.4. Giọng điệu thương cảm, xót xa

Không chỉ là giọng điệu mỉa mai, châm biếm, đến với thế giới nghệ thuật của

Ma Văn Kháng ta còn cảm nhận rõ giọng điệu thương cảm, xót xa đến tái tê lòng.

Đi sâu vào tìm hiểu giọng điệu ấy, người ta thấy một trái tim nhân hậu, một tấm

lòng chan chứa tình yêu thương đối với mỗi số phận bất hạnh. Cùng với giọng điệu

triết lí, triết luận, giọng điệu thương cảm, xót xa trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng đã trở

thành những giọng điệu chủ yếu trong sáng tác thời kỳ Đổi mới của Ma Văn Kháng.

Giọng điệu thương cảm, xót xa trước hết thể hiện ở sự cảm thương những con

người có nhân cách, có văn hoá nhưng lại luôn bị đè nén, trù dập, cuộc đời phải đón

nhận và gánh chịu những rủi ro bất hạnh, như bà cháu Duy (Côi cút giữa cảnh đời),

Tự (Đám cưới không có giấy giá thú), Khiêm (Ngược dòng nước lũ)… Những con

người đang quằn quại đau thương, vật lộn với cuộc sống, chống trả, trước sự ức

hiếp của một bộ phận lãnh đạo vô đạo đức, vô văn hoá được nhà văn vô cùng

xót xa, thương cảm.

Là một nhà văn chân chính có tấm lòng nhân hậu cao cả, Ma Văn Kháng

không thể làm ngơ trước hiện thực phũ phàng đó. Bằng giọng điệu thương cảm, xót

xa nhà văn đã theo sát bước đi của những con người đó để hiểu rõ hơn về nỗi khổ

cực, cay đắng của họ, để cảm thông và chia sẻ phần nào cho những khổ đau mà

họ phải gánh chịu.

Giọng điệu thương cảm, xót xa của nhà văn cũng có nhiều sắc thái cung bậc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

khác nhau, khi là giọng trầm lắng xót xa thống thiết, khi thì vút cao tỏ vẻ lạnh lùng

75

nhưng ẩn sâu trong đó vẫn là nỗi đau đớn xót thương. Nó ngấm vào từng mạch văn, lan

toả ra từng câu, từng chữ, có khi quện lại thành một nỗi buồn lớn cần được giãi bày.

Số phận của bà cháu Duy (Côi cút giữa cảnh đời) đã thực sự thay đổi kể từ

ngày mẹ Duy bỏ mặc đứa con nhỏ bé của mình. Trước tình cảnh ấy bà Lãng thảng

thốt trách cứ: "Thuỵ ơi! thật không ai như con đâu, con ạ!" [23,8]. Lời trách cứ nhẹ

nhàng mà sức nặng như tiếng kêu xé ruột. Trong trí óc non nớt của cậu bé Duy lời

nói ấy cứ vang vọng mãi không sao xoá nhoà trong suốt cuộc đời mình.

Quá khứ cứ hiện lên qua dòng hồi tưởng chua xót của cậu bé, có ai ngờ cái gia

đình mà trước đây luôn sống cảnh trong ấm ngoài êm, trên kính dưới nhường "được

sống trong gia đình như thế còn gì bằng" [23,10] giờ đây lại thành ra tan tác, chia

ly. Cuộc đời trớ trêu đã đùa với số phận của bà cháu Duy bởi ngày hôm nay lại là sự

ra đi của cô con dâu vẫn được coi là hiền lành, chăm chỉ. Trước hành động ra đi ấy

của người mẹ, Ma Văn Kháng đã đi vào từng chi tiết cụ thể, tìm ra những cái nhỏ

nhất để thể hiện niềm xót thương, cảm thông của mình. Hình ảnh người mẹ trong

buổi ra đi ấy đã làm cho cậu bé day dứt mãi không nguôi: "Cái áo mưa xanh cứng

quèo mẹ khoác khe khẽ quẫy động trong màn mưa thu xám nhờ. Một tay xách cái

túi quần áo lép kẹp, một tay đưa gạt nước mắt. Một phút ngần ngừ. Một phút xót xa.

Rồi sau đó mẹ tôi quay ngoắt đi, cắm cúi bước rồi rún chân chạy… cái chạy như

trốn lẩn, đau đớn vật vã. Cực chẳng thế nào" [23,8-9]. Lời miêu tả phút giây nghiệt

ngã ấy khiến người đọc cảm giác Ma Văn Kháng không hề lên án, hay chê trách

hành động ra đi của mẹ Duy mà ông dành tình yêu thương, sự cảm thông của mình

cho con người đáng thương ấy bằng giọng điệu thương cảm, xót xa.

Trước bao cơn tai biến ập đến, nỗi khốn khổ cuả bà Lãng tưởng chừng như vô

tận, nhiều khi cảm thấy bất lực và bà đã tìm đến nức nở bên mộ người chồng xa

cách nghìn trùng để tìm sự giãi bày nương tựa. Chưa hết nỗi tai ương, bà Lãng lại

một lần nữa gồng mình lên che chở cho những lỗi lầm của con cái mình. Một chiều

tháng năm, kết thúc năm học, cậu bé Duy trở về nhà và thấy một người "phụ nữ

xanh xao, tóc xoã mắt ậng nước" - đó chính là cô Quỳnh. Trước tình cảnh nghiệt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngã ấy, "Bà tôi đưa mu bàn tay gạt nước mắt còn in vệt trên đôi gò má gầy nhăn

76

nheo" để chấp nhận sự thật đau thương từ sự lầm lỡ của con gái mình. Lúc ấy "Cô

tôi vắt nước mũi, gài mái tóc mai, búi lại tóc. Đứa bé nấc nấc mấy tiếng rồi ập mặt

vào ngực bà tôi. Tựa như đang trôi nổi, bơ vơ giữa muôn điều kinh hãi, một con

thuyền nhỏ cô đơn đã đậu lại một bến bờ yên ả, an toàn, em nhỏ thu hai bàn tay lại,

mắt gà gà đi vào giấc ngủ" [23,126]. Không một lời trách cứ, bà Lãng lại chất chứa

lên đôi vai khô gầy của mình nỗi khổ đau vô bờ bến. Từ lâu bà đã phải gánh chịu tất

cả nỗi khổ đau dằng dặc, một mình, phải chống chọi với mọi sự nham hiểm ở đời,

giờ đây trên lưng bà lại chất thêm nỗi nhọc nhằn không gì sánh nổi "Bà tôi chìa đôi

tay đón đứa nhỏ với sự tự nguyện lĩnh nhận cái gánh nặng trách nhiệm là cứu vớt

đứa nhỏ và mẹ nó đang trong tình trạng vô cùng bi thảm" [23,127]. Hình ảnh ấy in

đậm mãi trong tiềm thức của Duy như một vệt xám nhờ thăm thẳm trong ký ức tuổi

thơ của cậu "Mọi chiều tối bà tôi vẫn bế em Thảm ra chỗ ngã ba dốc đỏ chờ người

đi chợ qua xin cho em bú nhờ. Em nhớ sữa mẹ lắm. Nhiều bà thấy em thế, rất

thương em. Nhất là lúc nó nấp vào vú các bà, nún lấy nún để, nức lên sung sướng,

đến nỗi nghẹn sặc, ho trớ một hồi, rất tội nghiệp. Vừa nựng nó vừa ứa nước mắt

thương xót nó" [23,144]. Miêu tả tình cảnh này, giọng điệu thương cảm xót xa tỏ ra

đắc địa hơn bao giờ hết. Giọng điệu thương cảm, xót xa được hiện diện qua lòng

thương yêu vô hạn của Duy với đứa em gái nhỏ hết sức đáng thương và tội nghiệp.

Nhiều lúc không ghìm nén được lòng mình, Duy đã phải thốt lên "Trời! tôi thương

em gái tôi quá".

Âm điệu trầm buồn, sâu lắng qua giọng của cậu bé mười năm tuổi hay cũng

chính là tấm lòng xót xa và trái tim đang nhỏ máu của nhà văn, bởi còn gì đau đớn

hơn khi trên cuộc đời này vẫn đang tồn tại những kiếp người đau khổ lay lắt như bà

cháu Duy .

Giọng điệu xót xa, thương cảm của Ma Văn Kháng được tiếp tục sử dụng khi

thể hiện tình cảnh, đau thương tuyệt vọng của Tự (Đám cưới không có giấy giá thú).

Là một nhà giáo đầy nhân cách và tài năng nhưng Tự luôn bị trù dập và phải gánh

chịu bi kịch vì tài năng và nhân cách vượt trội của mình. Thật trớ trêu sống và làm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

việc trong một môi trường văn hoá mà tài năng của Tự lại là "đối tượng của lòng

77

ghen ghét đố kỵ và thù hận" của những kẻ lãnh đạo bất tài, bất lương. Vì bảo vệ học

trò, bảo vệ lẽ phải mà Tự đã bị Bí thư Thị uỷ Lại làm cho điêu đứng, anh bị đối xử

như một kẻ thù giai cấp. Sức khoẻ yếu mà anh phải ra trận, rời quân ngũ trở về với

công việc giảng dạy anh vẫn không thoát khỏi nỗi bất hạnh. Anh là nạn nhân của

những kẻ dốt nát, đội lốt trí thức, tham quyền cố vị. Những cố gắng cống hiến của

anh trong giảng dạy lại là cái cớ để chúng hành hạ, trù dập. Tự "bị đầy đoạ, bị bủa

vây bốn bề, bị bít các lối, bị dồn đến chân tường, bị chà dạp, bị phản bội, bị vu cáo,

bị cướp bóc mất hết. Tiền tài không, quyền lực không…" [21,391]. Ngòi bút của

Ma Văn Kháng đã khêu gợi đến tận cùng nỗi đau đớn của Tự để cảm thông chia sẻ.

Bằng việc sử dụng hàng loạt những động từ đặc tả hành động trù dập, bủa vây

không một lối thoát của bọn họ đối với anh.

Đau đớn vì lý tưởng không thực hiện được, Tự thấy mình là người sinh lầm thế

kỷ. Hơn thế, niềm tin tan vỡ khi Xuyến vợ anh, một người đàn bà thực dụng đã bỏ

chồng chạy theo đồng tiền. Bị vợ dè bỉu, chê bai là "ngu hèn", "vô tích sự" và công

khai ngoại tình một cách trơ trẽn. Sự nghiệp không thành, hạnh phúc rạn nứt, bi

kịch liên tiếp đến với cuộc đời Tự khiến anh không sao gượng dậy được nữa. Tự đã

phải nếm trải hết nỗi đau này đến nỗi đau khác, mà nỗi đau nào cũng động tới tận

cùng sâu thẳm trái tim anh.

Càng đi sâu vào thảm cảnh của những người trí thức như Tự, giọng điệu

thương cảm, xót xa của Ma Văn Kháng càng trở nên thống thiết hơn, da diết hơn.

Hãy xem nhà văn miêu tả chân dung thầy giáo Tự khi mọi tai hoạ ập đến khiến anh

không sao gượng dậy được nữa: "Tự nằm nghiêng, hai con mắt nhắm nghiền. Mái

tóc mềm bạc phếch ôm một khuôn mặt hóp hép như một ông già. Chân gập, hai bàn

tay gầy gùa kẹp giữa hai đầu gối nổi u. Co quắp như đứa trẻ ốm yếu trong cảnh

thiếu chăn ấm" Chứng kiến một thân hình tiều tụy của Tự, Kha - bạn Tự "Chợt quay

đi vì kinh sợ". Anh không thể tin nổi "đây là hình xác của một con người đẹp nhất

mà Kha tìm thấy ở cõi đời này?" [21,390]. Từng câu chữ , từng hình ảnh trong đoạn

văn làm tê tái những người có lương tâm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Giọng điệu xót xa, thương cảm của Ma Văn Kháng vừa thể hiện sự xót thương,

78

cảm thông, chia xẻ của những người cùng giới trí thức chân chính, vừa thể hiện

lòng xót thương vô hạn của nhà văn. Với tình yêu thương trìu mến của người cùng

giới, hay cũng chính là của nhà văn Ma Văn Kháng dành cho Tự nói riêng và những

người trí thức chân chính nói chung.

Ngược dòng nước lũ là cuốn tiểu thuyết của Ma Văn Kháng viết về cuộc sống

và số phận của Khiêm - một nhà văn tài hoa uyên bác, một nhân cách cao thượng

giầu lòng vị tha. Cũng không tránh được cái bi kịch của "kẻ sĩ" không gặp thời,

Khiêm phải gánh chịu bao nhiêu đau đớn, bất hạnh. Là "nạn nhân của thói đời đê

mạt, là cái đẹp bị vùi dập đớn đau", Khiêm đã nếm đủ mùi cơ cực. Cuộc đời Khiêm

đã phải trải qua không ít gian truân vì lòng đố kỵ. Phục viên trở về công tác tại một

trung tâm văn hoá thuộc Tổng cục T, Khiêm những tưởng cuộc sống của mình đã an

bài. Vậy mà trớ trêu thay Khiêm đã chạm trán với Phô - một kẻ trí thức "rởm" đã

từng bị anh thi hành án kỷ luật, đuổi ra khỏi trường vì nhân cách bỉ ổi. Thế là liên

minh ma quỷ đứng đầu là Phô đã lật đổ Khiêm buộc phải rời khỏi chiếc ghế chủ

nhiệm. Anh bị bôi nhọ, bị vu khống, "Lúc ấy thật đột ngột Khiêm bỗng thấy nhói

buốt ngực trái và cả vùng ngực như có một vành thép quàng vào, xiết chặt khiến

cho anh nghẹn thở, mặt tối sầm và ngục ngay xuống mặt bàn. Cơn đau ốm nấp sẵn

ở đâu đó bất thần giăng một tấm vải đen dầy úp chụp anh" [26,171] . Chưa hết, cuộc

đời vẫn chưa buông tha Khiêm, nỗi đau kéo dài, không những anh không còn vị trí

ở cơ quan, mà đến cả chốn nương thân trong gia đình cũng không có. Chứng kiến

cảnh vợ ngoại tình một cách hết sức trơ trẽn và bỉ ổi, chứng kiến sự phản bội một

cách hèn hạ, bẩn thỉu, vô liêm sỉ của những người trong cơ quan đã từng được

Khiêm cưu mang, giúp đỡ, Khiêm đã cảm nhận tận cùng của nỗi đau. Giờ đây

Khiêm "như một khúc xương khô, tay chân sờ chỉ thấy làn da mỏng nhẽo xanh nhợt

bởi các đầu mấu xương gồ ghề. Nằm dán trên gường có lúc anh không thấy mình

thở… Vẫn là cơn sốt âm ỉ. Và những cơn đau như dùi như đâm sâu hoắm ở những

điểm quanh vùng ngực, lưng, ở gần con tim đau đến nghẹn thở. Đã thế lại thêm

chứng mất ngủ liên tục. Hai mắt Khiêm cứ chong chong cả ngày lẫn tối đêm. Miệng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

anh khô ráp và đắng ngắt. Ngày gẳng gỏi lắm anh chỉ ăn được hai lưng bát cháo

79

trắng. Sức lực Khiêm hao cạn dần từng ngày như đo đếm được" [26,236].

Giọng điệu xót xa, thương cảm của nhà văn không chỉ để miêu tả, cảm thông

cho số phận bất hạnh của Tự, Khiêm hay bà cháu Duy… mà còn dùng để đặc tả nỗi

đau của những số phận bất hạnh khác. Trong Đám cưới không có giấy giá thú, bên

cạnh bi kịch của Tự là bi kịch của ông Thống. Trong Ngược dòng nước lũ cùng với

bi kịch của ông Thuần còn có bi kịch của ông Tuệ, nhà văn cách mạng hiện đang

thất thế. Đặc biệt là bi kịch của Thịnh - một bác sĩ giỏi đầy tâm huyết mà phải đem

trí tuệ đi bán xứ người, mong kiếm được đồng bạc nuôi vợ con và đã từ giã cuộc đời

nơi viễn xứ… Số phận của những con người này với hàng loạt bi kịch đã gợi lên nỗi

ám ảnh khôn nguôi trong lòng người đọc. Bằng giọng điệu xót xa, thương cảm Ma

Văn Kháng đã khắc hoạ từng nét đời rất riêng của mỗi nhân vật trên cái nền chung

nhất của bức tranh đời một thời biến động.

Trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng đã viết về số phận của những con người bất

hạnh bằng giọng điệu thương cảm, xót xa. Giọng điệu này đã góp phần làm thành

một bản hợp tấu đa giọng điệu của nhà văn, đồng thời cũng lý giải vì sao, những

tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới luôn cuốn hút độc giả. Đây là một

trong những sắc thái giọng điệu giúp người cảm nhận rõ tâm hồn và trái tim nhân

hậu, trong sáng của nhà văn.

Tác phẩm của Ma Văn Kháng có một đặc trưng nghệ thuật riêng biệt trộn lẫn

với tác phẩm của bất cứ tác giả đương thời nào. Chính sự tâm huyết và thái độ với

đời, với người của tác giả đã tạo nên bản hợp tấu đa giọng điệu trong các tác phẩm

của ông. Nghiên cứu giọng điệu trong tác phẩm của Ma Văn Kháng nói chung và

trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới nói riêng là một việc cần thiết, bởi đây là yếu tố

quan trọng làm nên sự thành công trong tác phẩm, cũng như thấy được cái nhìn tinh

vi sắc sảo của Ma Văn Kháng trước cuộc sống. Bằng cái nhìn đa diện, đa chiều,

bằng giọng điệu này, ông đã đi sâu phản ánh hiện thực muôn màu, muôn vẻ hôm

nay. Tiểu thuyết trong thời kỳ Đổi mới của Ma Văn Kháng không những đặc sắc ở

giọng điệu nghệ thuật mà còn rất đặc sắc ở nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Chúng tôi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

dành chương ba nghiên cứu vấn đề này.

80

CHƢƠNG 3

NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT CỦA MA VĂN KHÁNG

TRONG TIỂU THUYẾT THỜI KỲ ĐỔI MỚI

3.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật

Ngôn ngữ nghệ thuật là một thuật ngữ dùng để chỉ các phươg tiện được sử

dùng trong một ngành nghệ thuật, một sáng tác nghệ thuật. Chúng ta đều biết rằng,

mỗi loại hình nghệ thuật đều có một ngôn ngữ nghệ thuật làm phương tiện thể hiện

riêng. Người ta có thể nói ngôn ngữ âm nhạc, ngôn ngữ điện ảnh, ngôn ngữ ba lê,

ngôn ngữ điêu khắc…, ngôn ngữ văn học. Vậy ngôn ngữ nghệ thuật chính là "một

hệ thống các phương thức, phương tiện tạo hình, biểu hiện, hệ thống quy tắc thông

báo bằng tín hiệu thẩm mỹ của một ngành, một sáng tác nghệ thuật" [54,185].

Thực tế cho thấy mỗi loại hình nghệ thuật có một đặc điểm riêng và một

phương tiện sáng tác riêng. Nếu âm thanh là phương tiện sáng tác trong âm nhạc;

màu sắc và đường nét là phương tiện sáng tác trong hội hoạ, thì ngôn ngữ nghệ

thuật được xem là phương tiện sáng tác tác phẩm văn học. Phương tiện này có

những đặc sắc riêng. Với tài năng sáng tạo, nhà văn hướng sự chú ý cấu trúc văn

bản, tìm mọi cách cho hai mặt ngữ âm và ngữ nghĩa của ký hiệu ngôn ngữ hòa phối với

nhau cùng phát huy tác dụng đối với cấu trúc hoàn chỉnh của tác phẩm văn chương.

Nhà văn M.Gorki đã khẳng định rằng "ngôn ngữ nghệ thuật là yếu tố thứ nhất

của văn học". Nó là công cụ giúp nhà văn xây dựng hình tượng, miêu tả đời sống

con người trong tác phẩm. Ngoài ra, ngôn ngữ nghệ thuật còn là công cụ tư duy, là

phương tiện truyền đạt tư tưởng, tình cảm… của nhà văn qua mỗi hình tượng nghệ

thuật trong tác phẩm của mình. Thông qua ngôn ngữ văn học các nhà văn thể hiện

tài năng của mình. Ngôn ngữ nghệ thuật là loại ngôn ngữ đặc biệt, hoàn toàn khác

biệt với khẩu ngữ, và từ ngữ trong giao tiếp hằng ngày.

Theo Eagleton viết trong cuốn Nhập môn Lý luận văn học: "văn học là một loại

ngôn ngữ "đặc biệt", đối lập với thứ ngôn ngữ "thực dụng" chúng ta thường dùng…" [6].

Tác giả Phương Lựu cũng đã cho rằng, ngôn từ văn học "là ngôn từ của một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

tác phẩm văn học, của thế giới nghệ thuật, kết quả sáng tạo của nhà văn. Đó là ngôn

81

từ giầu tính hình tượng và giầu sức biểu hiện nhất, được tổ chức một cách đặc biệt

để phản ánh đời sống, thể hiện tư tưởng, tình cảm và tác động thẩm mỹ tới người

đọc" [54,185]. Cùng với Phương Lựu, Huỳnh Như Phương quan niệm: "ngôn từ

trong tác phẩm văn học là kiểu lời nói nghệ thuật do nhà văn sáng tạo trên cơ sở sản

phẩm ngôn ngữ của một xã hội mà ông ta đã tiếp thu được" [54,170].

Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học là một hiện tượng nghệ thuật do nghệ sĩ

sáng tạo theo quy luật chung của nghệ thuật. Văn bản nghệ thuật phải truyền đạt

một ý nghĩa mà "không một phát ngôn nào có thể thay thế được" (G.V.Xtapanôp).

Ngôn ngữ nghệ thuật có nhiệm vụ thể hiện tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm. Chức

năng quan trọng nhất của ngôn ngữ nghệ thuật là chức năng thẩm mĩ. Chức năng

này được xác định trong hệ thống các hình tượng tác phẩm và phong cách tác giả,

bởi ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện tài năng của nhà văn.

Như vậy, ngôn từ muốn được hoàn thiện thành ngôn ngữ nghệ thuật phải nhờ

khả năng lao động sáng tạo của nhà văn. Khác với ngôn ngữ toàn dân, ngôn ngữ văn

học mang một dấu ấn màu sắc riêng nếu không tạo được điều đó nhà văn sẽ bị chìm

khuất trong đám đông, trong lớp sóng xô bồ của chữ nghĩa. Ngôn từ nghệ thuật

không chỉ là những từ mang giá trị tự thân mà còn là một đơn vị lời nói mang phẩm

chất thẩm mỹ. Vì thế M.Gorki đã cho rằng: Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Nhận

thấy vai trò vô cùng quan trọng của ngôn ngữ trong tác phẩm văn học, nhà văn Nga

V.Kôrôlenkô đã tâm sự: "Tôi muốn rằng mỗi một từ, mỗi một câu phải đúng với

giọng điệu, phải đúng chỗ và trong mỗi câu, thậm chí nếu có thể được, trong câu

tách riêng ra, có thể lắng nghe thấy được tâm trạng trung tâm, nếu có thể nói như

vậy được" [dẫn theo 32,192]. Như vậy ngôn ngữ nghệ thuật có một vai trò đặc biệt

quan trọng bởi nó là yếu tố "vật chất" duy nhất của tác phẩm văn học. Qua ngôn

ngữ, người đọc khám phá thế giới hình tượng, tư tưởng, quan niệm… mà nhà văn

gửi gắm trong tác phẩm. Bên cạnh đó, ngôn ngữ nghệ thuật lại chứa đựng cả thế

giới nghệ thuật mà nhà văn sáng tạo, từ cảnh vật, con người đến cốt truyện, kết cấu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

chủ đề… Trong mối quan hệ chặt chẽ ấy, ngôn ngữ nghệ thuật trở thành phương

82

thức tồn tại, phương tiện biểu hiện nội dung, đồng thời có thể biểu hiện trực tiếp và

rõ nét phong cách, tài năng của nhà văn.

3.2. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Ma Văn Kháng

Chuyển đổi từ đề tài dân tộc miền núi sang đề tài đời sống đô thị, thành công

của tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới là một bước chuyển đổi mạnh mẽ,

bắt đầu bằng tư duy nghệ thuật. Sự chuyển hướng trong tư duy nghệ thuật tiểu

thuyết Ma Văn Kháng không chỉ dừng lại ở đề tài, thể loại, cấu trúc, điểm nhìn…

mà còn đổi mới trong việc sử dụng ngôn ngữ. Việc đổi mới tư duy nghệ thuật ấy đã

tạo nên trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng nhiều giọng điệu khác nhau. Để thể hiện

các sắc thái giọng điệu của mình, Ma Văn Kháng đã nỗ lực tìm tòi và sáng tạo một

hệ thống ngôn ngữ phong phú, đa dạng.

Cùng với sự đổi mới về cái nhìn và giọng điệu nghệ thuật, ngôn ngữ trong tiểu

thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới cũng đã có những chuyển biến tích cực góp

phần làm nên một tên tuổi Ma Văn Kháng. Nói đến nghệ thuật tiểu thuyết của Ma

Văn Kháng, chúng ta không thể không nói đến ngôn ngữ nghệ thuật - một trong

những thành tựu đặc sắc góp phần không nhỏ cho sự nghiệp đổi mới nghệ thuật tiểu

thuyết Việt Nam hiện đại. Điều đáng nói là kể từ Mưa mùa hạ trở về sau Ma Văn

Kháng đã làm nên một dấu ấn riêng khu biệt với nhiều người, một chất liệu hiện

thực kiểu Ma Văn Kháng, một cách khai thác kiểu Ma Văn Kháng, một giọng điệu

riêng và ngôn ngữ riêng của Ma Văn Kháng. Đặc biệt là ngôn ngữ, nghiên cứu về

phương diện này Giáo sư Phong Lê trong cuốn "Người trong văn" đã khẳng định:

"Nếu muốn tìm đến sự phong phú của ngôn ngữ - áp cận được vào thì hiện tại tôi

nghĩ cần đọc Ma Văn Kháng và trước đó là Tô Hoài. Đó là hai trong số ít người viết

có được cả một kho chữ thật rủng rỉnh để tiêu dùng. Và do có cả một cái kho, nên

anh là người không ưa dùng chữ mòn. Dẫu là quen hay lạ, chữ nghĩa khi đã qua tay

Ma Văn Kháng là cứ ánh chói lên cái nội lực bên trong của nó".

Quả đúng như vậy, giở những trang tiểu thuyết của Ma Văn Kháng người đọc

như được lặn ngụp, thoả thích trong dòng ngôn ngữ vô cùng phong phú mà không hề

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

thấy trùng lặp. Ngôn ngữ tiểu thuyết Ma Văn Kháng không cầu kỳ, hoa mỹ, diễm lệ mà

83

là thứ ngôn ngữ ngồn ngộn chất sống dung dị đời thường. Đời thường là thế nhưng lại

luôn tươi rói sự sống, giàu tính biểu cảm giản dị mà trong sáng một cách lạ lùng.

3.2.1. Ngôn ngữ dung dị đời thường tươi rói sự sống

Đến với tiểu thuyết Ma Văn Kháng, đặc biệt là những tiểu thuyết ông sáng tác

vào những năm 80 của thế kỷ XX, người đọc như có được cơ hội chiêm ngưỡng tài

năng diễn xuất bằng ngôn ngữ của một nghệ sĩ lớn, một người nghệ sĩ có biệt tài

cùng lúc sắm vai nhiều nhân vật có tính cách và ngôn ngữ khác nhau. Ở đây, nhà

văn như nhập vai, hoá thân vào mỗi nhân vật để ông thoả mãn tung hoành trong thế

giới nội tâm vô cùng phong phú và phức tạp của từng số phận, từng kiểu loại nhân

vật trước hiện thực ngổn ngang, bộn bề của cuộc sống hôm nay.

Một điều dễ nhận thấy trong ngôn ngữ tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ

này là, ngôn ngữ sử thi, trang trọng trong những tác phẩm viết dưới cảm hứng sử thi

trước đây được thay thế bằng thứ ngôn ngữ dung dị đời thường như chính cuộc

sống vậy. Hướng ngòi bút của mình vào việc khám phá mọi mặt của cuộc sống

thường nhật ngôn ngữ mang tính sử thi giờ đây không còn phù hợp, mà thay vào đó

là ngôn ngữ đời thường. Ngôn ngữ này chính là phương tiện tốt nhất để chuyển tải

tư tưởng nghệ thuật của tác giả và đi sâu khắc hoạ tính cách, cũng như giãi bày tình

cảm của con người. Càng đi sâu khám phá hiện thực và đời sống con người, ngôn

ngữ tiểu thuyết Ma Văn Kháng càng trở nên phong phú và đa dạng.

Khai thác một cách triệt để về khả năng miêu tả và biểu hiện của ngôn ngữ

dung dị đời thường, Ma Văn Kháng đã mang đến cho người đọc một cái nhìn khá

mới mẻ và toàn diện về mọi mặt của đời sống, với đầy đủ cách sống, cách cảm,

cách nghĩ trong mỗi cá nhân con người như những gì vốn có. Nó không chỉ là sự

trong sáng tươi đẹp, giản dị mà còn cả những cái thô nhám và dung tục. Qua đó thể

hiện khát vọng được nói thật, nhìn thẳng vào sự thật của các nhà văn tiên phong

trong hàng ngũ lực lượng tiền trạm của nền văn học thời kỳ Đổi mới.

Vốn là một trong số ít nhà văn luôn có ý thức sâu sắc về vai trò quan trọng của

thành ngữ, tục ngữ dân gian trong giao tiếp, trong sáng tác của mình Ma Văn Kháng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

đã sử dụng chúng một cách đậm đặc và hiệu quả. Kết hợp thành ngữ, tục ngữ với

84

phong cách ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày vô cùng phong phú và đa dạng, hệ thống

ngôn ngữ của Ma Văn Kháng mang một sắc thái riêng.

Mỗi khi lật những trang văn của Ma Văn Kháng ta dễ nhận thấy một điều, các

nhân vật của ông từ già đến trẻ, từ những người thị dân bình thường đến các bậc trí

thức đều có khả năng sử dụng ngôn ngữ dân gian một cách nhuần nhuyễn và điêu

luyện theo cách riêng của mình. Chính điều đó làm cho hiệu quả biểu đạt của nó

được phát huy một cách tối đa, tính chất đa nghĩa của ngôn ngữ tiếng Việt càng

được thể hiện rõ rệt, và nhất là tính cách nhân vật được bộc lộ.

Để miêu tả cuộc sống một cách chân thực nhất trong tác phẩm của mình, Ma

Văn Kháng cũng đã khai thác tối đa kho tàng thành ngữ, tục ngữ của nhân dân. Đây

vốn là thứ ngôn ngữ suồng sã, thô nhám nhưng rất đỗi gần gũi thân thiết đối với

cuộc sống sinh hoạt hàng ngày mà vẫn tươi rói sự sống.

Bước đầu khảo sát, thống kê số lượt sử dụng thành ngữ, tục ngữ dân gian trong

một số tiểu thuyết tiêu biểu của Ma Văn Kháng và so sánh với một số nhà văn khác,

chúng tôi nhận thấy (xem bảng 3.1):

Thành ngữ, tục ngữ

Tác phẩm

Tác giả

Số trang

Mùa lá rụng trong vườn Ma Văn Kháng

Số lần Số lƣợng

Tỷ lệ tính trê n trang văn bản 0,20

Ma Văn Kháng

359 68 72

Đán cưới không có giấy giá thú

Côi cút giữa cảnh đời Ma Văn Kháng

397 165 179 0,45

Quê nhà

Tô Hoài

278 129 135 0,48

Thời xa vắng

Lê Lựu

290 111 131 0,45

405 20 22 0,05

Bảng 3.1. Tần số xuất hiện thành ngữ, tục ngữ trong tiểu thuyết th ời kỳ Đổi

mới của Ma Văn Kháng.

Nhìn vào bảng thống kê, chúng tôi thấy, tần số hệ thống thành ngữ, tục ngữ và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

cách nói dân gian trong sáng tác của Ma Văn Kháng xuất hiện tương đối dày đặc và

85

tăng lên không ngừng. So với nhà văn Tô Hoài tần số ấy chưa phải là cao, nhưng so

với Lê Lựu thì tần số xuất hiện hệ thống thành ngữ, tục ngữ mà Ma Văn Kháng sử

dụng nổi trội hơn hẳn. Trong khi Lê Lựu cứ 18,1 trang văn bản lại xuất hiện một

thành ngữ, tục ngữ; thì Ma Văn Kháng trung bình cứ khoảng 2,6 trang văn bản ta lại

thấy xuất hiện một thành ngữ, tục ngữ. Tuy nhiên, vấn đề chúng tôi quan tâm chưa

hẳn là tần số xuất hiện và sự gia tăng không ngừng của thành ngữ, tục ngữ. Điều

đáng chú ý là không những tần số xuất hiện thành ngữ, tục ngữ khá đậm đặc mà

những thành ngữ, tục ngữ dưới ngòi bút của Ma Văn Kháng mang một giá trị sử

dụng cao. Nó luôn là phương tiện đắc địa để nhà văn phản ánh hiện thực cuộc sống

muôn màu muôn vẻ và sự đa dạng trong tính cách con người.

Cũng như Tô Hoài, Ma Văn Kháng sử dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao và lối

nói dân gian để góp phần nâng cao chất lượng nghệ thuật cho tác phẩm, đồng thời

phản ánh bức tranh hiện thực muôn màu muôn vẻ của cuộc sống sinh hoạt, tạo ngữ

cảnh cho câu chuyện, cũng như để khắc hoạ cá tính nhân vật, nhưng cách sử dụng

của hai nhà văn lại khác nhau. Nếu Tô Hoài sử dụng một cách nhuần nhuyễn và linh

hoạt các thành ngữ, tục ngữ để miêu tả cuộc sống lam lũ, vất vả và số phận của

những người dân lao động thủ công nghèo qua "những thành ngữ có trong tiếng phổ

thông đến những thành ngữ chỉ dùng trong tiếng nói hàng ngày ở vùng Nghĩa Đô, từ

đó "tạo màu sắc bình dị, gần gũi trên từng trang sách của nhà văn" [62,160], thì Ma

Văn Kháng với cái nhìn hiện thực ở tầng sâu nhân bản, ông đã sử dụng nhiều thành

ngữ, tục ngữ để phản ánh nhiều phương diện với những gam màu tối sáng khác

nhau của con người và cuộc sống. Qua đó, người đọc thấy được hiện thực nhức nhối

trong cuộc sống đầy biến động của cơ chế thị trường hôm nay.

Trong Đám cưới không có giấy giá thú, chúng tôi thấy có 179 lượt thành ngữ,

tục ngữ được sử dụng. Tuy nhiên mức độ sử dụng ấy lại không hề gây cảm giác khó

chịu cho người đọc, ngược lại nó còn tạo nên sự cuốn hút hấp dẫn, lôi cuốn riêng.

Trên nhiều trang văn của mình, Ma Văn Kháng đã đưa hệ thống thành ngữ, tục ngữ

vào lời ăn tiếng nói của từng nhân vật để họ có thể tự giãi bày tình cảm và tâm tư

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

tình cảm của mình. Bộc lộ tâm trạng xót xa cao độ của Tự trước hiện thực khắc

86

nghiệt của cuộc sống với khát vọng anh hằng đeo đuổi tác giả viết: "Chao ôi! vào

cái thời buổi gạo châu củi quế, người người đang lao đầu quyết tử vào cuộc giành

giật danh lợi hỗn mang, ở cái gác xép chật chội… mà lại còn cao đàm khoát luận về

cái sâu xa, thâm thuý của văn chương lại còn say sưa, mày mò tìm kiếm cái gọi là

ngữ pháp nghệ thuật…" [21,7]. Chỉ trong một câu văn mà tác giả dùng tới hai thành

ngữ: gạo châu củi quế và cao đàm khoát luận. Thành ngữ gạo châu củi quế nói về

giá cả đắt đỏ qua đó thể hiện sự cảm nhận sâu sắc của Tự về cuộc sống thiếu thốn

của gia đình; thành ngữ cao đàm khoát luận để chỉ tâm hồn người thưởng thức vẻ

đẹp văn chương trong những giây phút thăng hoa.

Sử dụng thành ngữ, tục ngữ này nhà văn tiếp tục để Tự thể hiện suy nghĩ và

hoàn cảnh nghiệt ngã của bản thân: "Nhưng cái gì có thể cưỡng lại sự thắng thúc

ghê gớm của miếng cơm manh áo lúc này? Giá cả tăng như nhảy cóc. Đồng tiền

cháy vèo trên lòng bàn tay. Chẳng ngày nào Xuyến không lời ra tiếng vào". Đứng

trước muôn ngả của dòng đời xuôi ngược, trước sự phát triển phong phú phức tạp

của đời sống xã hội, con người phải đối mặt với biết bao nỗi lo lắng đời thường, nỗi

lo ấy, lúc nào cũng thường trực trong cuộc sống của họ. Trước sức ép của cuộc sống

áo cơm trước giá cả ngày một tăng cao "tăng như nhảy cóc" Tự thấy rõ sự vất vả

trong cuộc mưu sinh. Chính vì điều này, mà Xuyến - vợ Tự suốt ngày cằn nhằn, chì

chiết, đay nghiến "lời ra tiếng vào " với Tự. Nhưng không vì thế mà anh tỏ ra bất

bình, rồi buông ra những lời lẽ thô lỗ, tục tằn. Mà trái lại, anh vẫn đức độ, vẫn nhẹ

nhàng, hiểu và cảm thông những khó khăn của vợ. Có thể nói, bằng việc sử dụng

thành ngữ, tục ngữ phù hợp với văn cảnh nhà văn đã phản ánh bức tranh hiện thực

của cuộc sống một cách nhẹ nhàng mà sâu sắc đồng thời qua đó tính cách của nhân

vật được bộc lộ rõ.

Không chỉ sử dụng thành ngữ, tục ngữ để phản ánh cuộc sống ngày một khó

khăn vật chất, không chỉ sử dụng thành ngữ để bộc lộ tâm trạng và sự bất lực của

nhân vật hiện thực, tác giả còn dùng ngôn ngữ này đề khắc hoạ tính cách nhân vật

một cách hiệu quả. Có thể nói trong quá trình xây dựng nhân vật, nhà văn đã sử

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

dụng nó như một trong những thủ pháp đắc địa nhất.

87

Lý (Mùa lá rụng trong vườn) vốn là một phụ nữ thành thị, xuất thân từ một cô

gái thôn quê nghèo, ít học nhưng lại sắc sảo và nhanh nhạy bén với thời cuộc.

Người phụ nữ ấy "cứ như từ cuộc đời bước vào trang sách và từ trong trang sách

bước ra thế giới". Để khắc hoạ nhân vật này, nhà văn đã cho nhân vật sử dụng khá

đậm đặc thành ngữ, tục ngữ và lời nói thông tục. Hơn nữa với mỗi đối tượng, Lý lại

sử dụng thành ngữ, tục ngữ một cách linh hoạt và uyển chuyển. Khi nói chuyện với

chồng - thiếu tá Đông trong ngày tết, Lý xới xới, bốp chát: "Quý hoá chưa kìa! Ngủ

như hổ ngủ... Năm hết tết đến rồi không dậy nhúc nhắc chân tay một tý, còn định

nằm ăn vạ đến bao giờ? Rõ thật hết ngày dài lại đến đêm thâu" [22,17]. Khi nói

chuyện giá cả chợ búa với Phượng, ngôn ngữ chợ búa cũng được chị sử dụng rất tự

nhiên: "Năm ngàn rưỡi, giá hữu nghị đấy. Nó hò một câu, mình hét một tiếng"; "Cô

gói bánh hộ lão cột nhà cháy đấy à"; "Thế là đi đời nhà ma cả bộ comple giờ phải

đến ngàn bạc. Ông Đông thì cứ như ngậm hột thị"; "Rõ đau đẻ còn chờ sáng trăng";

Chị em chúng tôi đang bận, sẽ quyết định ăn chơi xả láng, ông có chịu không? Còn

cười, cười cái lão rậm râu sâu mắt"…

Còn khi cong cớn với Luận thì ngôn ngữ của Lý đúng là ngôn ngữ của kẻ vô

học, vô văn hoá: "Vểnh tai mà nghe cho rõ nhé. Tiên trách kỷ, hậu trách nhân. Anh

có biết rằng, con vợ anh nó có được chỗ chui ra chui vào là nhờ cái con quỷ sa tăng

nào không? Và vợ anh cùng với anh đã ăn cháo đá bát như thế nào không? Định

mồi chài ai?... Đừng nên có cơm lại muốn ăn quà nhé! Đừng khỏi vòng cong đuôi

nhé!… Bỏ tao ra!... Đồ chó ghẻ có mỡ đằng đuôi"… [22,255-256].

Có thể thấy, ngôn ngữ của Lý không phải là thứ ngôn ngữ quan phương mà là

thứ ngôn ngữ phồn tạp, thô ráp trong cuộc sống sinh hoạt đời thường vô cùng sặc sỡ

sắc màu và đầy góc cạnh. Với cách sử dụng ngôn ngữ này, tính cách của Lý đã

được bộc lộ rõ nét.

Với kẻ ít học, thực dụng trắng trợn bỉ bai chồng - nhà giáo nghèo, như Xuyến

trong Đám cưới không có giấy giá thú nhà văn tiếp tục sử dụng thành ngữ, tục ngữ

để khắc hoạ nhân vật và bộc lộ bản chất của nhân vật. Hãy nghe Xuyến đay nghiến,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

mỉa mai chồng: "Người ta khôn cậy khéo nhờ. Mình thì cứt nát còn đòi có chóp.

88

Đói dài đói rạc lại còn xe với pháo" [21,78]. Có thể thấy Ma Văn Kháng đã rất chủ

động lựa chọn thành ngữ, tục ngữ phù hợp cho từng nhân vật của mình. Để bộc lộ

sự vô học, kém hiểu biết của Xuyến tác giả dùng thành ngữ cứt nát còn đòi có chóp,

ngoài ra, thông qua những thành ngữ, tục ngữ, Xuyến đã hiện lên một cách đầy đủ

và rõ ràng là một con người xấu xa, thô lỗ. Chị chê bai, dè bỉu, khinh miệt, coi

thường chồng, thành ngữ khôn cậy khéo nhờ, đói dài đói rạc một phần nào đó đã

thể hiện được tính cách của cô ta.

Khác với Xuyến, nhân vật bà Xuất trong tác phẩm Quê nhà của nhà văn Tô

Hoài cũng vào tình cảnh éo le - chồng, con chết trận, một mình đứng mũi chịu sào

đảm đang công việc nuôi con, nuôi cháu, tiếp tục sự nghiệp của chồng con để lại.

Bà không khỏi lo lắng, trăn trở. Dưới đây là lời tâm sự của bà với ông Tư: "Tôi bây

giờ ngổn ngang quá ông ạ. Bố con ông nó thế là đi việc nước cả rồi. Trong nhà chỉ

còn lại hai mẹ con với thím nó và một lũ cháu dại, có nhớn chưa có khôn. Nhà thì

vừa việc ruộng vườn, vừa canh cửi, đằng nào cũng phải có người chạy chợ, người

hồ cháo. Việc trong nhà không như việc đồng còn mùa bận mùa nhàn, lúc nào cũng

tối mặt tối ngày. Từ khi thằng cả nó đi việc nước với bố nó, khung cửi đành để

trống đấy. Buổi đực buổi cái, nhà đã neo lại càng neo. Mà trời còn tao loạn thế

này…". Đoạn văn có 8 câu mà tác giả sử dụng 5 thành ngữ. Mỗi thành ngữ, thể hiện

nỗi lo lắng, trăn trở của bà Xuất trước bao công việc ngổn ngang bộn bề, qua đó độc

giả thấy được bản chất nhân hậu của người phụ nữ Việt Nam.

Trở lại với nhân vật Xuyến trong Đám cưới không có giấy giá thú, trước cuộc

sống khó khăn chị đã không tránh khỏi sự cám dỗ của vật chất. Chính vì thế mà chị

đã phá tan mái ấm gia đình. Đã thế khi phản bội chồng, chị còn la ối, quát tháo và

nói những lời lẽ thật thô thiển, trắng trợn của kẻ vô học, vô giáo dục. "Im đi để ông

vu vạ tôi, hả! Sao cái thân tôi khốn khổ khốn nạn thế này! Một thân tôi lo toan gánh

vác. Một thân tôi đầu tắt mặt tối để cái quân ăn cháo đá bát nó chửi rủa, móc máy

tha hồ. Này, tôi truyền đời báo danh cho ông biết từ nay ông đi đâu thì cứ đi! Của

anh anh mang. Của nàng nàng xách. Ông đừng bén mảng đến cái nhà này nữa" [21,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

296]. Mỗi thành ngữ trong đoạn văn đó đều rất quen thuộc, nhưng chỉ thích hợp cho

89

những loại người xỉa xói, móc máy, đanh đá, chua ngoa. Từng lời Xuyến nói ra như

muốn nuốt chửng Tự, cô ta đay nghiến, chì chiết chồng không tiếc lời. Từ những lời

nói ấy Xuyến hiện nguyên hình là một người đàn bà thực dụng, lăng loàn vô lối. Đó

quả thật là một sự tha hoá rất đáng buồn.

Trong Chó Bi - đời lưu lạc ở một cuộc đối thoại với ông Mệnh, chỉ một câu

đối đáp phóng viên Đạt đã vận dụng triệt để vai trò của thành ngữ, tục ngữ: "Tôi thì

tôi lại quý chó ta. Nó là con chó đẹp, con chó khôn, con chó hiếm, con chó thảo .

Con chó đã đi vào đời sống người mình. In dấu vào cả văn chương trở thành ẩn dụ,

kinh nghiệm của bao kinh nghiệm nhân sinh: Chó đâu chó có sủa không. Chẳng

thằng ăn trộm cũng ông ăn mày. Chó chê nhà giột ra nằm bụi tre. Chó quê đòi ăn

mắm mực. Chó ngáp phải ruồi. Chó cậy gần nhà. Chó cùng cắn dậu. Chó già giữ

xương, hoặc Làm người thì khó, làm chó thì dễ. Chó dại theo mùa, người dại quanh

năm. Chó gặm xương chó!" [24,384]. Cách ứng đối như vậy của phóng viên Đạt đã

giúp anh tạo ra một trò chơi tâm lý, một bài toán thử để dò la tính cách và phẩm giá

của người đối diện một cách khéo léo tế nhị.

Có thể thấy Ma Văn Kháng đã rất thành công trong việc sử dụng thành ngữ,

tục ngữ một cách khéo léo, linh hoạt, luôn phù hợp với từng ngữ cảnh, với từng

nhân vật, góp phần khắc hoạ tính cách, bản chất nhân vật.

Đến với tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời, nhân vật gây ấn tượng và giàu sức

sống nhất là nhân vật bà Lãng. Nhân vật bà Lãng có sức sống mạnh mẽ trong lòng

người đọc ngoài phẩm chất kiên cường, lòng nhân hậu bao dung của bà còn là cách

nói sắc sảo với việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ đậm đặc. Được ví như một bà tiên

trong truyện cổ tích, nhân vật này được thể hiện trên từng trang văn của Ma Văn

Kháng qua một hệ thống ngôn ngữ rất đỗi quen thuộc, gần gũi và mang đậm màu

sắc đời thường mà không kém phần sắc sảo của một con người thấu hiểu lẽ đời. Khi

đối thoại với ông Luông - Chủ tịch phường một con người nham hiểm, tàn nhẫn, bà

cụ đã thể hiện được một cách khéo léo dứt khoát khiến cho kẻ chủ động câu chuyện,

cuối cùng lại là người rơi vào cảnh thất bại với ý định xấu xa của hắn: "Ông Luông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

ạ! Phải duyên thì dính như keo. Trái duyên đểnh đoảng như kèo đục vênh; ông ạ…

90

không thì thiên hạ người ta bảo là thói đời giậu đổ bìm leo". Hoặc "Trình ông trẻ thì

bé dại ngây thơ, già thì lẫn lộn biết ngày nào khôn. Ông nói vậy thì bây giờ tôi mới

biết. Tôi cũng không ngờ thằng gián điệp nó biết cái câu tốt lễ dễ van…". Với ngôn

ngữ ấy, bà đã làm cho ông Chủ tịch phường, người có kinh nghiệm và thâm niên

trong ngành ngoại giao phải lúng túng. Khi đối đáp với Hứng - tay chân của ông

Luông, kẻ rắp tâm đến chiếm nhà của bà, ngôn ngữ ấy lại thể hiện được cái sắc sảo,

đáo để nhưng vẫn rất thấu tình hợp lý: "… Nhưng mà dò sông, dò biển dò nguồn.

Biết sao được bụng lái buôn mà dò; Thì đêm rủ rỉ, rù rì, tiếng nặng bằng bấc, tiếng

chì bằng bông; Nghĩa là chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi!...".

Sử dụng thành ngữ, tục ngữ, một cách khéo léo tự nhiên, bà Lãng đã ngang

nhiên chỉ mặt đặt tên mọi thủ đoạn hèn hạ và bất lương của những kẻ chức quyền

mà lòng lang dạ thú.

Với cái nhìn đa diện, đa chiều sâu sắc, bằng việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ

một cách điêu luyện để phản ánh hiện thực và xây dựng hình tượng nhân vật, Ma

Văn Kháng đã đưa sự sống vào văn chương, thể hiện mối quan hệ máu thịt giữa văn

chương với cuộc đời. Điều đó khiến cho người đọc có cảm giác Ma Văn Kháng

không chỉ gần gũi người dân trong ngôn ngữ mà gần gũi họ trong cả nếp nghĩ và

đời sống tâm tư tình cảm.

Không những Ma Văn Kháng sử dụng đậm đặc thành ngữ, tục ngữ trong tiểu

thuyết thời kỳ Đổi mới, mà nhà văn còn sử dụng rất hiệu quả từ ngữ thông tục trong

sáng tác của mình. Rất dễ dàng nhận thấy trong tiểu thuyết của nhà văn một hệ

thống từ ngữ thông tục xuất hiện, nó tạo nên giá trị mới trong tác phẩm của ông.

Trong cuốn 99 phương tiện và biện pháp tu từ Tiếng Việt, Giáo sư Đinh Trọng

Lạc quan niệm rằng: "Từ thông tục là những từ chỉ được dùng trong lời nói miệng

thoải mái, thậm chí còn thô lỗ tục tằn". Như vậy, từ thông tục có thể được hiểu ở hai

cấp độ; cấp độ thứ nhất là những từ sử dụng thông thường mà quần chúng dễ hiểu,

dễ tiếp thu; cấp độ thứ hai là những từ thô lỗ tục tằn chỉ trong lời nói miệng thoải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

mái. Cả hai cấp độ này đều được xuất hiện trong môi trường giao tiếp sinh hoạt

91

hằng ngày. Khảo sát hệ thống từ ngữ thông tục trong một số tiểu thuyết thời kỳ Đổi

mới của Ma Văn Kháng và một số tác giả khác chúng tôi thấy (xem bảng 3.2):

Từ ngữ thông tục

Tác phẩm

Tác giả

Số trang

Số lần

Số lƣợng

Mùa lá rụng trong vườn Ma Văn Kháng

Tỷ lệ tính trê n trang văn bản 0,50

Đán cưới không có

Ma Văn Kháng

359 155 180

giấy giá thú

Côi cút giữa cảnh đời Ma Văn Kháng

397 198 209 0,53

Quê nhà

Tô Hoài

278 149 160 0,57

Thời xa vắng

Lê Lựu

290 96 112 0,39

405 87 98 0,24

Bảng 3.2: Từ ngữ thông tục trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của Ma

Văn Kháng.

Hệ thống từ thông tục được khá nhiều các nhà văn hiện thực làm phương tiện

sáng tạo nghệ thuật, Ma Văn Kháng cũng không nằm ngoài quy luật đó. Ngay từ

những tác phẩm đầu tay Ma Văn Kháng đã sử dụng một cách có hiệu quả vốn từ

ngữ thông tục của mình. Bởi thế, hệ thống từ ngữ thông tục đã được Ma Văn Kháng

sử dụng một cách thường xuyên và có nét sáng tạo độc đáo.

Nhìn vào bảng khảo sát chúng tôi nhận thấy, sự xuất hiện từ thông tục trong

sáng tác của Ma Văn Kháng chiếm một tỷ lệ cao (so với các tác giả mà chúng tôi so

sánh). Tác phẩm Thời xa vắng của Lê Lựu chúng tôi thấy cứ 4,1 trang văn bản mới

xuất hiện một từ thông tục. Trong cuốn Phong cách nghệ thuật Tô Hoài, Tiến sĩ

Mai Thị Nhung đã thống kê, khảo sát về từ ngữ thông tục của nhà văn Tô Hoài và

một số tác phẩm của một số nhà văn khác và có kết quả như sau; Nếu ở Ngô Tất Tố

cứ 6,2 trang văn bản mới xuất hiện một từ ngữ thông tục; Nam Cao 3,3 trang văn

bản mới xuất hiện một từ ngữ thông tục; Tô Hoài có tần số xuất hiện cao hơn cả

khoảng 2 trang văn bản có một từ ngữ thông tục, thì Ma Văn Kháng chúng tôi nhận

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

thấy cứ trung bình 1,9 trang văn bản lại xuất hiện một từ thông tục. Như vậy, ta thấy

92

Ma Văn Kháng và Tô Hoài là hai nhà văn sử dụng từ thông tục với mật độ tương

đối dày đặc. Đúng như nhận xét của Giáo sư Phong Lê: "… Nếu muốn tìm đến sự

phong phú của ngôn ngữ - áp cận được vào thì hiện tại tôi nghĩ cần đọc Ma Văn

Kháng và trước đó là Tô Hoài…".

Cũng giống như Tô Hoài, Ma Văn Kháng đã sử dụng những từ ngữ thông tục

một cách sáng tạo để tạo sự gần gũi, thân mật cũng như để tạo ấn tượng khó quên

trong lòng người đọc về bức tranh hiện thực muôn màu, muôn vẻ. Nhưng có một

điều khác biệt dễ nhận thấy giữa Ma Văn Kháng và một số nhà văn khác (đặc biệt

là Tô Hoài), là càng những tác phẩm sáng tác sau thì tần số xuất hiện những từ ngữ

thông tục càng đậm đặc. Những từ thô lỗ, tục tằn quen dùng trong lớp ngôn ngữ gọi

là kém văn hoá hay còn gọi là từ ngữ thô tục được nhà văn sử dụng để phản ánh

hiện thực một cách sống động nhất.

Trước hết, đó là thứ ngôn ngữ sặc mùi chợ búa, "phe phẩy" của một lớp thị dân

mới đang tồn thờ chủ nghĩa đồng tiền coi vật chất là trên hết. Đó là ngôn ngữ của

Xuyến trong Đám cưới không có giấy giá thú. Hãy nghe những lời Xuyến nói với

Tự - người chồng đã có lúc cô từng tôn thờ: "Không về thì lấy gì đổ vào mồm. Rõ

chết đến đít mà còn sĩ. Thanh với chả bạch. Ông thích ôm cái nghèo đói thì cứ việc"

[21,24]. Hoặc "Tiên nhân nhà nó chứ. Ra cái thời buổi này đứa nào có Xípvôtơ là

đứa đấy tha hồ ăn cướp điện của người khác. Hoạt, mày có dựng cái xe thổ tả này ở

ngoài hiên không tao đập gãy cha nó ra cho biết tay bây giờ. Người ta thì khôn cậy,

khéo nhờ. Mình thì… rõ cứt nát còn đòi có chóp. Đói rài đói rạc lại còn xe với

pháo…" [21,78]. Xuyến đã sử dụng ngôn ngữ của "kẻ chợ búa" để chì chiết và đay

đả chồng con không tiếc lời, chính vì vậy Tự cảm thấy đau đớn hơn bao giờ hết.

Không chỉ với chồng với đứa con dứt ruột đẻ ra Xuyến cũng không một chút tình

nghĩa. Hãy nghe lời nói của Xuyến với con gái mình:

"… Nhà này như có kẻ ăn trộm. Mày đi đâu về, hả con ranh?

- Con đi học thêm ạ.

- Học thêm cái mả mẹ mày. Tao đã khoá cái hòm gạo hôm kia rồi mà. Cứ rủ rê

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

bố mẹ mày vào chơi cho lắm vào, rồi dã họng con ạ" [21,10]. Không ai có thể ngờ

93

đây là lời của một người mẹ - tấm gương cho con cái mình học tập noi theo.

Khi lao vào con đường làm ăn, Xuyến không còn giữ chút nhân cách, từ lời ăn

tiếng nói đến những mối quan hệ. Chị quan hệ với đủ loại người, mà chủ yếu là loại

vô học, vô giáo dục. Đây là cuộc chuyện trò tại nhà của Xuyến của đủ loại người

trong một Hội bát họ.

"… Cái gác quý nhẩy!

(…)

- Gớm toàn sách là sách.

- Chuyện, ông giáo không có sách thì lấy cứt mà dạy à.

- Kín đáo nhỉ! Bồ bịch mà kéo nhau lên đấy hú hí thì còn gì bằng!

- Cho bà thuê đấy!

- Dễ tao sợ! Đã chơi thì gầm cầu, nhà xí tao cũng đ. sợ…" [21,275].

Chưa hết chúng còn bày tỏ quan niệm sống một cách thật trắng trợn, bỉ ổi. Với

chúng có tiền là có tất cả, đồng tiền là mục đích sống, là hạnh phúc của chúng:

"… Ăn nhau là ở chỗ dầm vốn, cô Xuyến ạ!

- Thời buổi này có tiền là có tất cả.

- Thì vưỡn là vậy. Kim ngần còn phá cả luật lệ nữa cơ. Tư bản, cộng sản, anh

chó nào chả thích tiền!

- Có tiền khắc có bướm

- Tiền và bướm, bà ạ.

- Hí hí!... thật thế…" [21,277]

Đó là thứ ngôn ngữ chợ búa, vô văn hoá của lớp người thị dân tầm thường.

Với một con người có nhân cách, có văn hoá như Tự, thì những lời nói đó không

thể chấp nhận được.

Cùng chung với số phận của Tự còn có Khiêm (Ngược dòng nước lũ). Trong

lúc đang ốm đau phải nằm liệt gường, mơ màng trong cơn mê tỉnh, Khiêm cũng

phải choàng thức khi nghe tiếng Thoa - vợ anh trò chuyện với những kẻ đồng hành.

"... Thấp cơ thua trí đàn bà hết! Chúng mày có thấy cái thằng mặt lờ nó ngay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

ra khi mẹ mày đưa phong bì xịn ra không?

94

- Chịu chị cả rồi!

- Thằng đ. nào mà chả thế. Được cái lờ xỏ, bỏ cái lờ chui là một. Thấy cái mặt

lờ bẩy vía mất cả bẩy là hai. Từ chóp bu tới thằng xế lô, thằng nào cũng vậy. Chính

vì thế nên con giám đốc xí nghiệp cũ của tao mới đem cái mẹt của nó lên được chức

Cục, chức hòn chứ!". Đọc những trang văn như thế, người đọc thấy ngôn ngữ thời

đại này quả đúng "sắc lạnh, thô bạo, y như người". Không biết còn bao nhiêu kẻ có

đầu óc tư duy giản đơn, kém phát triển, ham hố quyền lực danh vọng, bạc tiền, nhục

dục như Thoa, Xuyến?… Họ nói năng, chửi bới, đi lại ồn ã trên trang sách, giữa

cuộc đời, trong cơ quan, trường học, thậm chí ở ngay trong chính gia đình nơi được

coi là tổ ấm bình yên giữa cuộc đời ồn ã hôm nay.

Trước sự chi phối mạnh mẽ của đồng tiền, giờ đây mối quan hệ giữa con người

với con người đang có nguy cơ bị rạn nứt. Chỉ vì của cải mà con cái chửi bới mẹ,

chị em rủa xả lẫn nhau. Cảnh tượng của gia đình chị em Vàng Anh và Vành Khuyên

(Côi cút giữa cảnh đời) đã phơi bày được tất cả sự thật về các mối quan hệ bất ổn

đó. Hãy nghe ngôn ngữ của những kẻ coi đồng tiền là tất cả:

"... Chúng bay giết tao đi! Giời ơi là giời ơi! Giàu có làm gì cho nó khổ thế

này, ông Đại ơi là ông Đại ơi!

Rồi tiếng Vàng Anh rít.

- Câm mẹ mồm đi. Việc gì đến bà nào. Bà là cái đinh gỉ gì trong nhà này nào.

Nó có tội, tôi phải xử nó.

- Tao đ. có tội với đứa nào hết!

- Đ. có tội hả? Cái cát xét đâu? Mày đưa cho thằng ma cô nào rồi, hở con đĩ dại?

- Này, chị không có quyền hỏi cái cát xét ấy nhé. Của chị hả?

- Của tao! của tao.

- Đ. phải của chị.

- Ối giời ơi, nó ăn cướp của tôi. Tôi đi vắng, nó mở khoá lẻn vào buồng tôi,

xách cái cát xét đi cho thằng nhân tình!

- Mày câm ngay!

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

- Tao đ. câm. Bêu bêu... thằng nhân tình vẩu.

95

- Tao phải giết mày! rồi tao đốt cả cái nhà này! Cho tất cả của cải ra tro

bụi hết." [23,202]

Đồng tiền đã biến chị em Vàng Anh, Vành Khuyên thành những đứa trẻ vô

giáo dục, thành những đứa con bất hiếu, phá hoại đến tan cửa nát nhà. Mối quan hệ

trong gia đình khi những đứa con bất hiếu không còn coi trọng đạo ý thông thường

ngày càng bị rạn nứt.

Trong quá trình xây dựng nhân vật Hứng (Côi cút giữa cảnh đời) - trưởng

phòng hành chính tại xí nghiệp B - nơi cô con dâu của bà cụ Lãng từng làm việc,

Ma Văn Kháng không quên trang bị cho hắn một phong cách ngôn ngữ khá đặc

trưng. Với lối ăn nói "bặm trợn", ngôn ngữ thô tục hoàn toàn lột tả bản chất của một

tên lưu manh như hắn. Ví như khi rắp tâm đến chiếm đoạt nhà ở của ba bà cháu

Duy, hắn buông lời khen người già: "Phải nói là vô cùng khôn ngoan, khôn ngoan

thật! Thật đúng là lão bang sinh châu, trai già có ngọc"; khi quát nạt bọn trẻ: "Mụ

già đâu? mẹ kiếp! dòng giống nhà này là cứng cổ lắm"; trước tiếng khóc của trẻ thơ

thì hắn sẵn sàng văng tục: "Thông cảm cái cục cứt ấy. Đúng là giống đốn mạt, đục

từ đầu sông đục xuống"… "Câm mẹ mồm đi!... ". Thực tế ta thấy, Ma Văn Kháng

không cần phải miêu tả chi tiết, tỉ mỉ, cụ thể về nhân vật này, mà chỉ qua lời ăn

tiếng nói người đã đọc nhìn thấu không những về ngoại hình mà còn thấy rõ bản

chất lưu manh côn đồ của chúng.

Đối với những nhân vật trí thức "rởm", trí thức lưu manh, Ma Văn Kháng đã

cho họ sử dụng loại ngôn ngữ đặc thù - đó là lớp ngôn ngữ rất đời thường với hàng

loạt khẩu ngữ, kết hợp lối so sánh ví von thô thiển, tục tằn chuyên dùng cho bọn lưu

manh, vô văn hoá, du thủ du thực, cặn bã của xã hội. Lớp ngôn ngữ ấy giờ đây lại

được đặt vào miệng lưỡi của những kẻ quyền cao chức trọng rất phù hợp với bản

chất hèn hạ, ti tiện, vô văn hoá của lũ người này.

Nhân vật Quan lớn Lại (Đám cưới không có giấy giá thú) là một trong số loại

người ấy. Nằm trong giới lãnh đạo cấp cao, đại diện cho dân, cho Đảng nhưng lại

vô liêm sỉ và ngu dốt vô cùng. Đứng trước hơn hai nghìn học sinh, đại biểu có, nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

dân và các thầy cô giáo trong trường cũng có, trong ngày khai giảng - ngày mở đầu

96

cho tiến trình văn hoá mới ở một vùng quê hẻo lánh vậy mà ông ta lại lấy cương vị

của cấp trên để đe doạ: "Và hãy liệu hồn chớ có nhi nhoe, cậy dăn ba cái kiến thức

để vênh váo; trí thức không bằng một cục cứt chó khô đâu, các người hãy nhớ lấy!"

[21,102-103].

Thế rồi ông ta còn trơ trẽn kể lại "chiến công hiển hách" của mình trong Hội

nghị Quan Dân chính Đảng: "Tôi dẫn một tiểu đội xông vào dinh thằng tỉnh trưởng.

Cửa đóng. Tôi đạp một phát nhảy vào. Bàn giấy nó còn tung toé giấy tờ, tài liệu.

Khoái quá! Đã bao giờ được vào đến đây. Vinh hoa lúc phong trần. Tôi liền vạch

chim tương luôn một bãi trên mặt bàn giấy của nó. Cho nó sướng!" [24,102]. Thật

như một kẻ vô học, vô văn hoá. Ông Quan lớn Lại hiện ra trước mắt người đọc là

một con người như thế!

Cùng nằm trong hệ thống những kẻ cầm quyền ngu dốt ấy, Cẩm, Dương trong

Đám cưới không có giấy giá thú cũng được Ma Văn Kháng cho sử dụng một lớp

ngôn ngữ đời thường - những từ ngữ thô tục. Với những từ ngữ này đôi khi chỉ một

câu nói, mà có sức lột tả bản chất một cách rõ ràng, cụ thể. Trong bất cứ hoàn cảnh

nào Cẩm cũng nói: "Như thế là rất tốt", mà đằng sau cái "rất tốt" là sự dốt nát và bỉ

tiện. Khi ông Thống xuất huyết não, nằm ở bệnh viện chưa biết sống chết thế nào,

Cẩm vẫn điềm nhiên báo cáo trước hội đồng giáo viên trong trường: "Tình hình

chữa bệnh cho ông Thống như thế là rất tốt". Cho dù ông ta biết rõ sự nguy hiểm về

tính mạng còn đang chờ đợi ông Thống. Đối với những người có một trái tim nhân

hậu thì xót thương cho ông nhưng với Cẩm việc ông Thống bị xuất huyết não và

cấm khẩu lại là một tin vô cùng vui, vì việc làm bỉ ổi của hắn giờ đây được chôn vùi

mãi mãi. Với nhân cách và việc làm như thế, ông Cẩm luôn bị mọi người trong

trường khinh bỉ, coi thường. Trong một lần xô xát với Thuật giáo viên dạy Toán,

bản chất ấy một lần nữa lại được hiện lên một cách rõ rệt thông qua những từ ngữ

của chính ông ta.

"… Đồ chó! đồ khốn!

- Mày bảo ai là đồ chó, hở thằng mõ?

- Mày! Mày là đồ chó! Đồ chó đểu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

(…)

97

- Cẩm! Cẩm! Thằng mõ! Mày dám hành hung ông hả! Mày chết với ông! ối

anh em ơi! Bắt hộ tôi thằng mõ kia với!" [21,261].

Bằng cách tận dụng hiệu quả sự biểu đạt của lớp từ ngữ này, Ma Văn Kháng

vừa lột tả bản chất của nhân vật, vừa bày tỏ thái độ của mình trước những con người

đội lốt trí thức mà ngu dốt, bỉ tiện. Thái độ đó không chỉ là biểu hiện của tư tưởng

bình đẳng, tiến bộ, dám nhìn thẳng vào hiện thực nói rõ hiện thực một cách chân

thực và sinh động, mà còn thể hịên cao độ tính chiến đấu trong ngòi bút của Ma

Văn Kháng trước những xấu xa, ti tiện trong xã hội. Bên cạnh đó nó còn chứng tỏ

tài năng, tinh thần dũng cảm và trách nhiệm của Ma Văn Kháng trước cuộc đời.

Như vậy, chính việc sử dụng ngôn ngữ dung dị đời thường mà tươi rói sự sống

trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của mình, Ma Văn Kháng đã phản ánh muôn mặt

của cuộc sống lên trang sách. Nhà văn không né tránh những điều còn nhức trong

cuộc sống hôm nay. Qua đó làm nên sự đa dạng, phong phú trong nhiều phương diện

nghệ thuật, đặc biệt là sự đa dạng nhiều màu sắc cho ngôn ngữ tiểu thuyết của mình.

3.2.2. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm giản dị mà trong sáng

Như chúng ta đã biết, văn học vốn là nghệ thuật của ngôn từ. Ngôn ngữ văn

học không chỉ giúp nhà văn xây dựng xây dựng hình tượng, miêu tả đời sống và con

người mà còn là công cụ của tư duy, là phương tiện truyền đạt tư tưởng tình cảm

của nhà văn.

Tìm hiểu, nghiên cứu tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới chúng

tôi thấy, bên cạnh việc tận dụng triệt để vai trò và tác dụng của ngôn ngữ dung

dị, đời thường, Ma Văn Kháng còn sử dụng một hệ thống ngôn ngữ giàu tính

biểu cảm giản dị mà trong sáng vô ngần. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, giản dị

mà trong sáng trong tác phẩm của Ma Văn Kháng trước hết được biểu hiện ở

việc xuất hiện hàng loạt những từ ngữ lạ và khả năng làm mới chữ tiếng Việt.

Điều mà cho đến nay, dường như ít có nhà văn nào có được hoặc nếu có thì cũng

chỉ là một vài trường hợp nhỏ lẻ và ít ỏi, chứ chưa thể dày dặn và nhuận nhị, đạt

trình độ nghệ thuật cao như Ma Văn Kháng .

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Bằng cách cô đúc rút gọn, hoặc có khi là đảo đổi vị trí các từ tố mà trong

98

tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ này, nhiều từ ngữ vốn đã quen thuộc,

thậm chí còn cũ kỹ, nhưng qua bàn tay của người nghệ sĩ tài năng này từ ngữ đó

lại trở nên mới mẻ, vừa có sức hấp dẫn ấn tượng vừa tạo ra những nét đặc sắc và

giàu tính sáng tạo và biểu cảm cao. Điều này góp phần khẳng định tài năng nghệ

thuật và sự giàu có về ngôn ngữ của Ma Văn Kháng trong đổi mới tư duy nghệ

thuật tiểu thuyết.

Ma Văn Kháng vốn là một trong số ít tác giả không ưa dùng chữ mòn, bởi

vậy, từ ngữ khi qua tay ông, dẫu quen hay lạ vẫn cứ "ánh chói lên cái nội lực bên

trong của nó".

Đúng vậy, đến với tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, người đọc như lạc vào

vườn hoa ngôn ngữ đa hương sắc, được lặn ngụp thoả thích và không khỏi không

sửng sốt, ngỡ ngàng trước thế giới ngôn ngữ vô cùng phong phú, mới lạ, vừa

dung dị, vừa rạng rỡ, long lanh. Có lẽ, với Ma Văn Kháng, việc giữ gìn sự trong

sáng và làm giàu thêm cho tiếng Việt là một việc làm vô cùng cần thiết và

thường xuyên. Vì thế, hầu hết sáng tác của Ma Văn Kháng, người đọc dễ dàng

nhận thấy số lượng từ ngữ lạ và những từ ngữ thông dụng được làm mới không

ngừng tăng lên. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi khảo sát một số tác phẩm

tiêu biểu của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới và nhận thấy (xem bảng 3.3):

Từ lạ

Ma Văn Kháng

Tác phẩm Tác giả Số trang Số lần Số lƣợng Tỷ lệ tính trên trang văn bản

Mùa lá rụng trong vườn

Ma Văn Kháng

359 99 106 0,29

Đán cưới không có giấy giá thú

Côi cút giữa cảnh đời Ma Văn Kháng

397 108 125 0,31

Ngược dòng nước lũ Ma Văn Kháng

278 79 82 0,29

Thời xa vắng

Lê Lựu

497 139 162 0,32

405 17 17 0,04

Bảng 3.3. Ngôn ngữ lạ trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới của Ma Văn Kháng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

99

Nhìn vào bảng khảo sát chúng tôi thấy, cứ trung bình khoảng 3,2 trang văn bản

lại thấy xuất hiện một từ lạ. Ở đây chúng tôi khảo sát bốn cuốn tiểu thuyết tiêu biểu:

Mùa lá rụng trong vườn - 1985; Đám cưới không có giấy giá thú - 1989; Côi cút

giữa cảnh đời - 1989; Ngược dòng nước lũ - 1999 và nhận thấy tỷ lệ tính trên trang

văn bản ở tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn là 0,29; ở Đám cưới không có giấy

giá thú là 0,31; ở Côi cút giữa cảnh đời là 0,29; ở Ngược dòng nước lũ là 0,32. Như

vậy, càng trong những sáng tác về sau tần số xuất hiện của lớp từ ngữ này càng

không ngừng tăng lên. Sự xuất hiện và không ngừng tăng lên của từ ngữ lạ và

những từ ngữ thông dụng được làm mới, điều này chứng tỏ đây không phải là sự

ngẫu hứng, tuỳ tiện, mà nó là một sự ý thức lớn trong quá trình sáng tạo nghệ thuật

của nhà văn. Đồng thời, nó cũng góp phần nâng cao chất lượng nghệ thuật cho tác

phẩm để làm nên một thương hiệu mới - thương hiệu Ma Văn Kháng.

Khi kể cho Phượng về nhan sắc của mình đã một thời làm nghiêng ngả cả ông

giám đốc đã có cháu nội, Lý (Mùa lá rụng trong vườn) đã nói: "… Ông không một

lời nói quyến rũ, không một cử chỉ bờm xơm… "[22,122]; khi miêu tả hành động

của nhân vật: "Lý ve vé đi tới nghiêng xuống giữa Luận và ông Bằng" [22,72]; hoặc

khi miêu tả thói cầu toàn đến mức thái quá của người vợ đối với chồng, bà trưởng

phòng của Phượng đã mỉa mai: "Thế nào con mẹ kia nó bắt phải mua đường phên

để làm bánh trôi bánh chay à! Rõ võng hãnh quá!" [22,146].

Ở tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn loại từ ngữ này xuất hiện khá nhiều

chẳng hạn; đầu ghếch, con mắt lờ ngờ, xong xóc, lúi xùi, hốc xì, hào hển, nhạt

nhếch, võng hãnh, ỏn thót, phô phang, bờm xơm, khủng khỉnh, sắc lẻm, i uôm, tươi

mưởi, nồng nã, giọng ngột, phì phịt, nhợt sám… Còn đến với Đám cưới không có

giấy giá thú lớp từ này tăng lên rõ rệt, theo thống kê khảo sát chúng tôi thấy, nếu

Mùa lá rụng trong vườn lớp từ này xuất hiện 106 lần thì Đám cưới không có giấy

giá thú có 125 lần xuất hiện từ lạ và từ mới. Đó là những từ như; oe ngửa, sinh toả,

rông rỡ, tằng hắng, len lách, khinh khích, rơn rởn, nôn nức, rổn rang, nguyên

thuần, khảng lảng, hý lộng, khuôn mức, tươi mưởi…; Ở tiểu thuyết Côi cút giữa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

cảnh đời chúng tôi nhận thấy, lớp từ này xuất hiện 82 lần trên 278 trang văn bản, ví

100

dụ như; xút xít, lắp tự, chằm bặm, thẽ thọt, bè nhè, loạc choạc, chèm chép, cái nhìn

xoi xói, mắt ậng nước, chong chóc, mắt óng ánh, chộn rộn, rún rín, nắc nỏm, lón

chón, lí láu, hùn hạp, ngún khói…

Như vậy, ta thấy Ma Văn Kháng không những không ngừng sáng tạo trong

nghệ thuật, không ngừng làm mới kho chữ vốn đã quen thuộc, mà còn là một trong

số ít nhà văn có được năng lực đáng vị nể trong việc sáng tạo những từ ngữ mới lạ

chưa có trong từ điển tiếng Việt.

Trong Côi cút giữa cảnh đời, Ma Văn Kháng đã tái hiện lại cuộc trò chuyện

của bà Lãng với các cụ tổ hưu tại thư viện của cụ Hồn Nhiên:

"Cụ Hồn Nhiên nở bừng hai con mắt óng ánh dưới hai vệt mày bạc phếch:

- Đây là chứng cứ thực nhé - cụ chỉ bà tôi.

- Nào, cụ cho tôi biết ai là kẻ hậm hực với việc tôi mở thư viện phường để

nâng cao dân trí? Nào, ai là kẻ chửi bóng chửi gió tôi tuyên truyền cho Tàu? Nào, ai

dám nói Tây du ký là chuyện Đặng Tiểu Bình sang Mỹ, hử?

Bấy giờ tiếng cười lại còn tung toá to hơn lúc nãy. Lợi dụng lúc chộn rộn, cụ

Xương, nhà văn lão thành mon men dịch ghế tới cạnh bà tôi khe khẽ…" [23,94].

Chỉ một đoạn hội thoại ngắn mà ta thấy xuất hiện ba từ ngữ mới lạ mắt óng ánh,

tung toá, chộn rộn điều đó cho thấy Ma Văn Kháng luôn có ý thức trong việc làm

giàu cho kho tàng ngôn ngữ quý báu của dân tộc. Với việc xuất hiện lớp từ ngữ này,

khi đọc tiểu thuyết Ma Văn Kháng người đọc có cảm giác mới lạ thích thú và hấp

dẫn, bởi họ như thường xuyên được thay đổi khẩu vị và lặn ngụp thoả thích trong

dòng ngôn ngữ vô cùng phong phú và không trùng lặp của nhà văn.

So với sáng tác của Lê Lựu, chúng tôi nhận thấy, tác giả cũng dùng một số từ

ngữ lạ chưa có trong từ điển tiếng Việt, nhưng số lượng từ ngữ đó lại rất ít ỏi và ý

nghĩa giá trị cuả các từ ngữ đó còn đơn giản mờ nhạt, chứ chưa mang lại hiệu quả

nghệ thuật cao như trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới.

Khi Sài - nhân vật chính trong tác phẩm Thời xa vắng buông ra những lời

khuyên răn, bảo ban đứa cháu gái, Lê Lựu miêu tả: "Nào, đã bảo làm việc gì xong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

việc ấy mới làm việc khác, ai khiến cái kiểu nhanh nhảu đoảng như thế. Nào, quen

101

thói toạ tệch, đểnh đoảng ở nhà đến đây phải học hỏi, phải rèn luyện làm ăn nề nếp

chứ" [306]. Từ toạ tệch chưa có trong từ điển tiếng Việt. Đặt trong văn cảnh này Lê

Lựu sáng tạo từ toạ tệch là ý muốn nói về thói cẩu thả, qua loa, đại khái, lôi thôi,

bừa bãi của đứa cháu gái. Có thể nói, đây cũng là một sự sáng tạo tuy nhiên chưa có

sức khái quát cao, cũng như hiệu quả nghệ thuật của nó chưa mang ý nghĩa lớn.

Trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, những từ ngữ lạ được nhà văn sáng tạo

có hệ thống nhờ vậy nó mang một ý nghĩa sâu sắc, bao quát được nội dung của các

sự vật, sự việc mà nhà văn muốn diễn tả. Đó chính là giá trị nghệ thuật mà nhà văn

muốn hướng tới. Khi miêu tả khuôn mặt của Thuật trong Đám cưới không có giấy

giá thú - một thầy giáo tài năng nhưng tính cách lại chông chênh, ngạo ngược nhà

văn miêu tả: "khuôn mặt Thuật sạch không một nét ngạo ngược, tàn ác"… "Nghe tiếng

gày đá bóng cậm cạch và tiếng nói hý lộng của Thuật ở phía sau, Tự quay lại…".

Từ cậm cạch và hý lộng là những từ ngữ mới lạ. Theo chúng tôi từ cậm cạch

trong ngữ cảnh này được nhà văn miêu tả được nhà văn miêu tả bước đi chậm, có

một chút gì đó ngông ngáo. Còn từ hý lộng là lộng ngôn, lời nói cho sướng miệng

không có văn hoá. Với việc sử dụng hai từ lạ này, con người và tính cách của Thuật

đã được cụ thể hoá một cách sinh động và dễ hiểu.

Khi diễn tả tâm trạng thành kính của Tự trong đêm Giáng sinh Ma Văn Kháng

đã viết "Đêm Nôen rét buốt chưa từng. Mưa mây thả bụi phủ màn hư ảo lên thị trấn

từ lúc chiều buông. Cái rét giá và niềm xác tín kích thích con người đến với nhau

tìm hơi ấm trong hội đoàn, thúc dục cả chính Tự". Chỉ ba câu văn nhưng tác giả sử

dụng tới hai từ ngữ mới. Từ "rét giá" theo chúng tôi đây không phải là từ lạ, mà là từ

rất thông thường nếu không muốn nói là cũ kĩ. Nhưng qua bàn tay của Ma Văn

Kháng, bằng cách sử dụng từ ngữ linh hoạt, sáng tạo nhà văn đã đảo đổi các từ tố để

tạo ra một ngôn từ thật mới mẻ, mang lại hiệu quả nghệ thuật cao. Nếu chúng ta để một

từ thông thường "giá rét" ở vị trí của câu văn thì không có gì là mới lạ và cũng chưa

mang lại giá trị sâu xa mà tác giả muốn diễn tả. Nhưng nếu dùng từ "rét giá" để diễn tả

thời tiết đêm Nôen năm ấy, thì độc giả không những cảm nhận được khí trời lạnh mà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

còn diễn tả trạng thái của thời tiết lạnh, rất lạnh, đồng thời làm mới cho câu văn.

102

Từ xác tín cũng là một từ lạ. Xác tín được hiểu theo nghĩa đơn thuần: xác định

điều đó có thật. Trong văn cảnh này, từ xác tín được tác giả sử dụng là rất hợp lý và

đắc địa. Xác tín trong trường hợp này chính là niềm tin của con người, một niềm tin

trong sáng, không chút hoài nghi. Đó là niềm tin trong sáng tột cùng. Chính niềm

tin ấy đã thúc đẩy, đã kích thích con người đến với tín ngưỡng, đến với nhau.

Như vậy trong cùng một ngữ cảnh, nhưng chỉ cần có sự sáng tạo của nhà văn

thì câu văn sẽ trở nên sâu sắc, hấp dẫn và ấn tượng hơn. Ma Văn Kháng đã đem đến

cho người đọc những từ ngữ mới lạ mà rất hàm súc được đặt trong một ngữ cảnh

phù hợp, tạo nên nhiều nét nghĩa.

Khi nhìn nhận về ông Thống, tác giả viết: "Ông không phải là người blăng

tông, tạp vụ, thủ trống mang bóng hình mờ mờ xo xúi vô nghĩa ở mái trường nho

nhỏ này". Từ xo xúi theo chúng tôi mang ý nghĩa giống với từ xo - tả dáng vẻ co

người, cố thu nhỏ mình lại, nhưng dưới bàn tay sáng tạo của nghệ sĩ Ma Văn Kháng

tạo ra những nét nghĩa mới, đặc sắc ấn tượng. Trong trường hợp này từ xo xúi

không chỉ nói về sự nhỏ bé, mà còn nói về sự yếu đuối mờ nhạt, mà tác giả sử dụng

từ này nhằm mục đích khẳng định hình ảnh của ông Thống - ngoài tấm lòng yêu

nghề, yêu trẻ tha thiết ông còn là một nhân cách đàng hoàng.

Với một giờ dạy "không thuận buồm xuôi gió" của Tự, tác giả miêu tả: "Anh

không tạo lập được sự hoà đồng. Lớp học là một môi trường khảng tảng, đầy mâu

thuẫn, mập mờ những ẩn ngữ không sao hiểu nổi". Còn căn gác xép nhỏ của Tự, nơi

hiện diện sự vượt thoát của anh trong những vây bủa của hoàn cảnh lại được nhà

văn miêu tả: "Con người ngoài ăn mặc, yêu đương, còn cần một không gian sinh

toả. Cái không gian sinh toả của Tự là ở đây. Đây là thiên đường…". Ở đây, tác giả

đã sử dụng hai lần từ ngữ lạ sinh toả. Từ sinh toả chưa có trong từ điển tiếng Việt.

Theo chúng tôi trong trường hợp này từ sinh toả được hiểu không chỉ là không gian

sinh sống, sinh tồn, môi trường sống, từ sinh toả còn được hiểu theo ý nghĩa là

không gian để ở đó Tự phát tiết anh minh, toả ra cái tinh tuý nhất của mình để thoả

chí lặn ngụp trong văn chương. Nếu như thay thế từ sinh toả bằng từ ngữ khác như

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

sinh sống câu văn vẫn có ý nghĩa nhưng không thể diễn tả được ý đồ của tác giả khi

103

khắc hoạ nhân vật Tự. Bởi ở anh, không gian sinh sống không có ý nghĩa lắm, điều

mà anh mong ước là cần một nơi để Tự chiếm lĩnh được những ý tưởng, những vẻ

đẹp cao quý thanh khiết của văn chương. Chỉ có không gian sinh toả ấy nó mới cần

cho Tự và chỉ có cái không gian sinh toả ấy anh mới thoát khỏi sự bủa vây tù túng

của hoàn cảnh. Vì thế nơi đây đã trở thành tháp ngà, thành thiên đường của Tự. Đây

quả là những lớp từ ngữ mới, được tác giả sử dụng một cách đắc địa, được đặt trong

một ngữ cảnh rất phù hợp đem lại giá trị thể hiện cao.

Quả thật, khi đến với tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ này, người đọc đi hết

ngỡ ngàng này đến ngỡ ngàng khác trước vườn hoa ngôn ngữ lung linh sắc màu,

không ngừng biến hoá, cải tiến của tác giả. Hệ thống từ ngữ ấy đã tạo đà cho nhà

văn thoả sức tung hoành trong thế giới riêng mà mình đã được sở hữu. Chính nhờ

vào tài năng sáng tạo nghệ thuật ngôn ngữ tiểu thuyết, mà Ma Văn Kháng đã khẳng

định một thương hiệu riêng khu biệt với nhiều nhà văn cùng thời.

Như đã nói ở trên, ngôn ngữ văn học là một phương tiện truyền đạt tư tưởng,

tình cảm của nhà văn nên Ma Văn Kháng đã vận dụng nó một cách triệt để và sáng

tạo để làm nên một nét riêng trong văn phong của mình.

Đến với kho ngôn ngữ "rủng rỉnh" của Ma Văn Kháng, chúng tôi nhận thấy

nhà văn còn sử dụng nhiều từ ngữ bộc lộ cảm xúc tâm trạng của nhân vật - đó là lớp

ngôn ngữ mềm mại, hiền hoà, duyên dáng, trong sáng, tình ý đắm sâu trong từng

câu chữ thể hiện một phong cách trữ tình, trầm lắng.

Cần phải thừa nhận ngôn ngữ tiểu thuyết Ma Văn Kháng là một thứ ngôn ngữ

được nhà văn trau chuốt, vừa giàu tính biểu cảm vừa rất mực trong sáng, giản dị.

Đặc biệt ở những đoạn văn chứa đựng những từ ngữ dãi bày cảm xúc tâm trạng, Ma

Văn Kháng đã thực sự lôi cuốn người đọc bằng những nét bút tinh tế.

Hãy nghe Luận (Mùa lá rụng trong vườn) tâm sự suy nghĩ của mình về những

ngày đã qua đầy sóng gió của gia đình với người vợ trẻ vô cùng yêu quý và rất đáng

trân trọng trong anh dạt dào nguồn mạch của những cảm xúc "Phượng à, cuộc sống

chung của chúng mình đã được mười năm và trong mười năm đó ba nghìn sáu trăm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngày vất vả của em. Anh tự hỏi: Cái gì tạo nên sức mạnh của em trong những ngày

104

đó? Có phải đó là lòng nhân hậu, sự kiên nhẫn chịu đựng đức hy sinh cao quý và

sức chống chọi cứng cỏi, bền bỉ của em không? Từ em toả sáng vẻ đẹp mạnh mẽ,

bình dị và tự nhiên. Anh cảm thấy tin yêu cuộc sống hơn, vì có em bên cạnh,

Phượng à" [22,327]; khi nói chuyện về tương lai, hạnh phúc của Lý, Phượng đã

phản đối ý kiến của chồng "Sao? Chị Lý ly dị anh Đông ấy à? Không! Không!

Không thể được. Sao anh lại nghĩ thế. Sống với anh Đông chị ấy có thể bực bội, khó

chịu và về nhiều mặt chị ấy không thoả mãn. Nhưng bỏ anh ấy lúc này… thì nguy

hiểm lắm. Em không tán thành! Em không đồng ý! Anh phải bỏ ngay ý kiến này đi!

Nguy hiểm lắm!" [22,329]. Bằng lớp ngôn ngữ mềm mại, hiền hoà, duyên dáng mà

cứng rắn, Ma Văn Kháng đã đưa người đọc tự cảm nhận đến với những tấm lòng vị

tha, những đời sống tình cảm yêu thương vô cùng cao đẹp, sâu sắc của con người

với con người.

Ở tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú có rất nhiều chuỗi độc thoại nội

tâm rất dài của Tự về nỗi đau đớn, xót xa, cay đắng, ngậm ngùi khi nhận ra sự bất

công phi lý và thân phận bạc bẽo đến thảm thương tội nghiệp của mình: "Chà, dám

nghi ngờ những người lao động, thành phần cơ bản của xã hội ta, những xích lô, đồ

tể, mõ làng… Ôi giáo Tự khù khờ, xã hội này là xã hội của người lao động. Xét về

mọi mặt, anh ta sáng giá hơn mấy anh tư sản nhiều. Rường cột của xã hội này là con

người xuất thân nghèo khổ như Lại, như Cẩm, chứ loại như Tự giỏi lắm chỉ như gã

chạy cờ thôi" [21]. Hoặc trước sự hoan hỉ của Xuyến nhà văn sử dụng những từ ngữ

bộc lộ cảm xúc để diễn tả tâm trạng xót thương của Tự "Ôi, nhìn Xuyến hân hoan

trước cái tủ ly mới sắm mà tội nghiệp. Thấy Xuyến rụt rụt rè rè ở cái đám bát họ, một

cái trò con trẻ của những kẻ rạn dầy trên thương trường mà thương quá" [21,281].

Đặc biệt khi đặc tả nỗi đau phải ly biệt mái trường yêu dấu của Tự, ngôn ngữ

trong sáng giản dị và giàu tính biểu cảm của Ma Văn Kháng được bộc lộ và phát

huy hết khả năng biểu đạt của nó.

Tự như một kẻ đi xa trở về mái nhà yên ả, hồn hậu đầy thương nhớ, lớp học,

phấn trắng, bảng đen, mùi thơm trang vở mới, tiếng trống trường ấm áp tuổi hoa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

niên, tình thầy trò thiêng liêng… tất cả đã đánh thức những tình cảm tốt đẹp nơi Tự.

105

Vậy mà giờ đây anh phải đến để thực hiện cuộc chia tay lớn của đời mình "Nhưng

chẳng lẽ anh lại có thể chia tay với mái trường thân yêu này? Chẳng lẽ là anh có thể

giã từ những kỷ niệm, những bóng hình thân thuộc cùng tất cả những gì mộng ước

đẹp đẽ và lớn lao, những gì anh đã hết lòng tôn thờ mấy chục năm qua? Sao cuộc

chia tay có vẻ bất đắc và buồn thảm quá thể, Tự ơi!"[21,398]

Phát huy triệt để khả năng tự miêu tả và biểu cảm của ngôn ngữ, Ma Văn

Kháng còn đưa người đọc đến với những đoạn văn tả cảnh như: Cảnh khu vườn nhà

ông Bằng trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn. Dưới ngòi bút tài năng, việc

tận dụng thứ ngôn ngữ trong sáng, giản dị trong kho ngôn ngữ "rủng rỉnh" của

mình, Ma Văn Kháng đã tái hiện lên một khu vườn thật sinh động, có hồn, khiến

người đọc cảm giác như được cùng tác giả bước vào thiên đường của trần thế với

một cảm xúc tươi mới: "Cây trong vườn nhà ông Bằng tốt tươi hơn những nơi khác.

Kể từ khi xuân sang, trên cành lá của chúng đã có sự hăm hở khác lạ. Giờ thì nhãn

đã ra hoa. Lặng lẽ, trên cành cao tít, hồng bấy lá non, hoa ngoi lên, ngầu ngầu một

sắn lắng nhẹ, như phấn thông vàng. Hoa gọi ong. Cây mít bật những chồi hoa cánh

nở đầy đặn. Rồi sấu. Rồi vải. Lạ, vải kết quả từ lúc nào mà nhanh vậy. Một sớm mai

trở dậy, đứng dưới gốc sấu hoa rụng đầy, mịn xanh như bột đậu đồ, ngẩng lên cành

vải đã thấy những chùm quả non nho nhỏ, xanh như ngọc. Cây trong vườn năm nay

hứa hẹn một mùa quả sai theo một vòng sinh thái quen thuộc, mà vẫn có một gì lạ

lẫm khác thường. Hay là cây hoa rung cảm với giai điệu du dương của bản vườn khuya

cổ điển? Hay cây xúc động vì câu chuyện tình yêu và hơi ấm bàn tay vuốt ve, êm ái của

chị Hoài. Vào đêm, đứng ở vườn cây mới thấy sự kỳ ảo của hương cây, hương hoa.

Trong thanh lặng, hoa các loài từ cúc, nhài đến nhãn, vải bốc toả, thơm nồng dậy.

Không khí trong sạch, tĩnh mịch lạ, đến nỗi phảng phất cả một dải hương hoàng lan từ

đầu phố về họp hội; và dường như có thể nghe thấy ngọn mướp hương Phượng và chị

Hoài gieo vào đêm ba mươi Tết vươn mình, với những cánh tay mảnh như tơ, bắt cành

leo lên giàn" [21,178-179]. Quả thật, chúng ta như đang được chiêm ngưỡng sự sống

huyền diệu của cây cối trong khu vườn, mà vẫn cảm thấy bình dị, thân quen không xa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

lạ, vì đó là tất cả những gì của cuộc sống đời thường mà thiên nhiên ban tặng. Với tài

106

sử dụng ngôn ngữ, Ma Văn Kháng đã thổi vào những vật tưởng như vô tri, vô giác linh

hồn của sự sống mãnh liệt bằng một loạt những từ ngữ giàu sức biểu cảm.

Hướng ngòi bút của mình vào việc miêu tả cuộc sống thường nhật của con người

ngôn ngữ Ma Văn Kháng lựa chọn bao giờ cũng là ngôn ngữ đời thường. Ngôn ngữ

này chính là phương tiện tốt nhất để chuyển tải tư tưởng và bộc lộ cảm xúc, tâm trạng

của con người. Ma Văn Kháng thật sự là một trong số ít các nhà văn có ý thức trong

việc phát huy triệt để khả năng tự miêu tả và biểu hiện của ngôn ngữ.

Như vậy, cùng với sự chuyển biến về cái nhìn và giọng điệu nghệ thuật tiểu

thuyết thời kỳ Đổi mới của Ma Văn đã có những vận động và chuyển biến mới mẻ

trong ngôn ngữ nghệ thuật. Tư tưởng dân chủ đã thấm sâu trong mỗi tác phẩm của ông,

làm thay đổi mối quan hệ giữa nhà văn, nhân vật và bạn đọc, khiến cho mối quan hệ

này thực sự dân chủ bình đẳng. Chính vì thế, mỗi vấn đề được đặt ra trong tác phẩm

đều được xem xét nhìn nhận và đánh giá bằng nhiều điểm nhìn khác nhau. Việc gia

tăng điểm nhìn tất yếu tạo nên cho tác phẩm nhiều loại ngôn ngữ khác nhau để thay đổi

cho phù hợp với mỗi nhân vật, mỗi giọng điệu. Có thể thấy, ngôn ngữ nghệ thuật trong

tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ này đời thường hơn mà lại rất sinh động và sắc nét,

đồng thời ông vẫn giữ được cho lời văn của mình chất lãng mạn, thơ mộng của một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

phong cách văn xuôi trữ tình.

107

KẾT LUẬN

1. Ma Văn Kháng là một cây bút văn xuôi đã được định danh từ những năm 70

của thế kỷ XX với tư cách là một nhà văn của miền núi. Hầu hết những tác phẩm

ông viết từ giai đoạn 1961 - 1980 đều viết về miền núi với cảm hứng ngợi ca.

Nhưng vào những năm 80 của thế kỷ XX, Ma Văn Kháng đã khiến người đọc ngỡ

ngàng khi cho ra đời khá dồn dập các tiểu thuyết về đời sống thành thị. Công cuộc

đổi mới của đất nước đã tác động lớn đến đời sống văn học và đã xoay chuyển

mạnh mẽ nền văn học đương đại nước nhà. Đổi mới với mỗi nhà văn lúc này như

một sự lựa chọn tất yếu để thử thách và làm mới ngòi bút của chính mình. Trở về

thành phố Ma Văn Kháng đã tìm thấy cho mình một hướng đi mới trong sáng tạo

nghệ thuật, góp phần không nhỏ vào công cuộc đổi mới của nền văn học Việt Nam

hiện đại.

Không hài lòng với việc nhìn nhận, đánh giá hiện thực và cuộc sống con

người đơn giản, phiến diện một chiều, Ma Văn Kháng đã tự vượt lên chính mình,

vượt lên những khuôn mẫu định sẵn để thổi một luồng gió mới vào đời sống văn

học. Từ giai đoạn này trở đi, ông đã không ngừng tìm kiếm cho mình một tiếng nói,

một phong cách nghệ thuật độc đáo, thể hiện rõ nhất ở cái nhìn nghệ thuật.

2. Bằng năng lực tinh thần đặc biệt, tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi

mới đã thể hiện một cái nhìn sắc sảo tinh tế, đa diện, đa chiều ở nhiều cấp độ khác

nhau. Từ cấp độ vĩ mô, đến cấp độ vi mô, nhà văn đều phát hiện rõ những bộn bề

phức tạp trong cuộc sống hôm nay. Nhà văn đã nhìn sâu vào hiện thực cuộc sống để

chuyển tải trên những trang văn của mình. Với nhãn quan tinh tế và mới mẻ, Ma

Văn Kháng đã phát hiện các mặt, các cực trong đời sống xã hội hiện nay. Đó là sự

ấu trĩ trong cơ quan quản lý với những điều bất cập, bất ổn trong việc lựa chọn cán

bộ chủ chốt. Ông đã mạnh dạn rung nên tiếng chuông cảnh báo, đòi hỏi Đảng và

Nhà nước cần có sự điều chỉnh. Ma Văn Kháng cũng không ngần ngại chỉ ra hậu

quả đau đớn mà chính những bất cập, bất ổn ấy đem đến. Đặc biệt với cái nhìn đa

diện, đa chiều, Ma Văn Kháng còn lo lắng cho đời sống gia đình có nguy cơ tan vỡ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ông lo cho từng số phận con người rồi đây sẽ ra sao khi mà giá trị văn hoá, đạo đức

108

- nền móng của đời sống tinh thần đang có nguy cơ bị coi rẻ. Nhìn về những mặt

đen tối của xã hội, ta không thấy sự bất lực của nhà văn mà ngược lại ta thấy Ma

Văn Kháng luôn tin tưởng vào vẻ đẹp truyền thống của dân tộc, vào quy luật muôn

đời của cuộc sống dù phía trước còn đầy chông gai thử thách.

3. Từ cái nhìn sắc sảo, Ma Văn Kháng đã chuyển tải bức đời sống muôn màu

lên trang sách và bày tỏ thái độ của mình trước hiện thực cuộc sống trong buổi đầu

của cơ chế thị trường bằng một phương tiện thẩm mỹ đặc thù - giọng điệu nghệ

thuật. Chính sự tâm huyết và trách nhiệm với đời, với người mà tác giả đã tạo nên

nhiều sắc thái giọng điệu đặc thù trong sáng tác của mình và làm nên một Ma Văn

Kháng rất riêng biệt. Nghiên cứu giọng điệu nghệ thuật trong tiểu thuyết của Ma

Văn Kháng thời kỳ Đổi mới chúng tôi thấy có nhiều sắc thái giọng điệu khác nhau:

giọng điệu trữ tình thiết tha, sâu lắng; giọng điệu triết lý, triết luận; giọng điệu mỉa

mai, châm biếm và giọng điệu thương cảm, xót xa. Những sắc thái giọng điệu này

song song tồn tồn nhằm tạo nên âm hưởng vô cùng đa dạng và mang đến sức cuốn

hút đặc biệt trong tiểu thuyết của nhà văn.

Khi nhà văn viết về cái đẹp, ngợi ca cái đẹp trong cuộc sống, giọng điệu trữ

tình thiết tha, sâu lắng trở nên đắc địa. Bằng giọng điệu ấy, người đọc cảm nhận rõ

cái thiện, cái đẹp trong sâu thẳm trái tim của con người. Giọng điệu triết lý triết

luận, giọng điệu mỉa mai châm biếm, giọng điệu thương cảm xót xa được phát huy

hiệu quả một cách tối đa và trở thành phương tiện để tác giả sẻ chia suy nghĩ, bày tỏ

thái độ tình cảm của nhà văn trước số phận bất hạnh, cũng như khắc hoạ thành công

bản chất, tính cách nhân vật. Qua đó thể hiện bản lĩnh cứng cỏi của Ma Văn Kháng

trước cuộc sống.

4. Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới là

một phương tiện đặc biệt thể hiện quá trình lao động nghệ thuật miệt mài, tâm huyết

sáng tạo một cách nghiêm túc của nhà văn. Qua quá trình nghiên cứu, khảo sát,

thống kê, phân tích tổng hợp, chúng tôi thấy, hệ thống ngôn ngữ của Ma Văn Kháng

mang một vẻ đẹp giản dị, mộc mạc mà vô cùng trong sáng, giầu tính biểu cảm. Ma

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Văn Kháng đã sử dụng thành công hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật mang màu sắc

109

riêng. Nhà văn cũng rất chủ động sử dụng ngôn ngữ đời thường, kết hợp với thành

ngữ, tục ngữ và hệ thống những từ ngữ lạ với khả năng làm mới chữ để chuyển tải

nội dung của tác phẩm. Có thể nói, ngôn ngữ tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi

mới góp phần làm nên "thương hiệu" riêng của nhà văn.

5. Nghiên cứu cái nhìn, giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết

của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới chúng tôi nhận thấy, Ma Văn Kháng đã khẳng

định được cá tính sáng tạo độc đáo trong mảng đề tài viết về thành thị. Từ cái nhìn

nghệ thuật đa diện, đa chiều, Ma Văn Kháng tạo nên những nét đặc sắc riêng trong

thế giới nghệ thuật của mình. Trong thế giới nghệ thuật ấy Ma Văn Kháng đã có

những cách tân mới với nhiều tìm tòi, sáng tạo trên phương diện nghệ thuật tiểu

thuyết, như giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật để làm nên khúc dạo đầu khá "ngoạn

mục" cho một giai đoạn văn học đổi mới.

Việc nghiên cứu nghệ thuật tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi mới

không chỉ dừng lại ở một số vấn đề: cái nhìn, giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật,

mà có thể còn nghiên cứu ở những phương diện khác nhau. Tuy nhiên do thời gian

có hạn và khuôn khổ của một luận văn Thạc sỹ, chúng tôi tập trung nghiên cứu ba

phương diện đặc sắc trong thế giới nghệ thuật của nhà văn. Hy vọng chúng tôi có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

dịp trở lại nghiên cứu ở phương diện nghệ thuật khác.

110

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Tuấn Anh (1995), Đổi mới văn học vì sự phát triển - Tạp chí Văn học, số 4.

2. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG, Hà Nội.

3. Lê Huy Bắc (1998), "Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại", Tạp chí Văn

học (số 9), tr.66.

4. Nam Cao (1997), Tuyển tập Nam Cao tập I, Nxb Văn học, Hà Nội.

5. Nam Cao (1997), Tuyển tập Nam Cao tập II, Nxb Văn học, Hà Nội.

6. Lê Văn Chính (2004), Đặc điểm tiểu thuyết viết về đề tài thành thị của Ma Văn

Kháng, Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội.

7. Hồng Diệu (1990), Về tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú - Báo Giáo

viên nhân dân, số 4.

8. Phan Cự Đệ (1997), Văn học, đổi mới và giao lưu văn hoá, Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

9. Hà Minh Đức (Chủ biên) 2003, Mấy vấn đề lí luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi

mới, Nxb Văn học, Hà Nội.

10. Hà Minh Đức (chủ biên) 2001, Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, Nxb

KHXH, Hà Nội.

11. Nguyễn Thị Định (2003), Thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Lê Lựu trong thời kỳ

Đổi mới, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội.

12. Lê Thanh Hùng (2006), Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ đầu Đổi mới

(Giai đoạn 1980 - 1989), Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP Thái Nguyên.

13. Trần Bảo Hưng (1990), Đám cưới không có giấy giá thú hay là những nghịch lý

đau xót của thực tại - Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 6.

14. Trần Bảo Hưng (1984), Mùa lá rụng trong vườn và những vấn đề đời sống hôm

nay - Phụ nữ Việt Nam, số 17.

15. Nguyễn Thái Hoà (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

16. Tô Hoài (1983), Đọc Mưa mùa hạ - Văn nghệ số 154

17. Tô Hoài (1981), Quê nhà (tiểu thuyết), Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nam, Hà Nội.

111

18. Nguyễn Thị Huệ (1998), Những dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi Việt Nam từ

1980 - 1986, Luận án Tiến sĩ, Viện Văn học, Hà Nội.

19. Nguyễn Thị Huệ (1998), Tư duy mới về nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn

Kháng những năm 80, Tạp chí Văn học, số 2.

20. Ma Văn Kháng (2002), Lào Cai - Miền đất vàng - Tạp chí Văn nghệ Lào Cai, số 1.

21. Ma Văn Kháng (1995), Đám cưới không có giấy giá thú, Nxb VH, Hà Nội.

22. Ma Văn Kháng (2007), Mùa lá rụng trong vườn, Nxb Lao động, Hà Nội.

23. Ma Văn Kháng (2006), Côi cút giữa cảnh đời , Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

24. Ma Văn Kháng (2006), Chó Bi - đời lưu lạc, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

25. Ma Văn Kháng (1982), Mưa mùa hạ, Nxb Văn học, Hà Nội.

26. Ma Văn Kháng (2003), Ngược dòng nước lũ, Nxb CAND, Hà Nội.

27. Ma Văn Kháng (2003), Vùng biên ải, Gặp gỡ ở LaPanTẩn - In trong Ma Văn

Kháng tiểu thuyết (Tập 2), Nxb CAND, Hà Nội.

28. Ma Văn Kháng (2003) Đồng bạc trắng hoa xoè, Nxb CAND, Hà Nội

29. Ma Văn Kháng (1989), Ngẫu hứng tự do sáng tạo - Tạp chí Văn học, số 2.

30. Ma Văn Kháng - Mỗi cuốn tiểu thuyết là một phần đời của tôi.

31. Ma Văn Kháng (2001), Sống rồi mới viết - Đặng Thanh Hương ghi.

32. Khrápchencô (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học

(Lê Sơn và Nguyễn Minh dịch), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

33. Đinh Trọng Lạc (1995), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb GD,

Hà Nội.

34. Phong Lê (1983), Văn học những năm 80 - Tạp chí Văn học.

35. Phong Lê (1988), Văn học và chính trị - Điểm nóng cần bàn, Tạp chí Văn nghệ

Quân đội.

36. Phong Lê (1990), Trên bức tranh của ngót nửa thế kỷ văn học mới - Tạp chí tư

tưởng văn hoá.

37. Phong Lê (1994), Văn học tự đổi mới để phục vụ sự nghiệp đổi mới văn học của

đất nước và lành mạnh hoá xã hội - In trong Văn học và công cuộc đổi mới,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nxb Hội nhà văn.

112

38. Phong Lê (2005), Trữ lượng Ma Văn Kháng - Báo văn nghệ số 20, 21.

39. Phong Lê (1999), Ma Văn Kháng với Côi cút giữa cảnh đời - In trong Vẫn

chuyện Văn và Người, Nxb Văn hoá Thông tin.

40. Phong Lê (1997), Văn học trên hành trình thế kỷ XX, Nxb ĐHQG, Hà Nội.

41. Phong Lê (1985), Trên hành trình 40 năm văn xuôi: ngôn ngữ và giọng điệu.

42. Nguyễn Văn Long (2002), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb, Hà Nội.

43. Chu Lai (2003), Phố, Nxb Văn học, Hà Nội.

44. Nguyễn Văn Lưu (1986), Bàn thêm về Mùa lá rụng trong vườn - Văn nghệ, số 25.

45. Lê Lựu (1984), Thời xa vắng, Nxb hội nhà văn, Hà Nội.

46. M. Bakhtin (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch), Nxb

ĐHQG, Hà Nội.

47. Lê Thanh Nghị (1990), Về người trí thức trong Đám cưới không có giấy giá thú

- Báo nhân dân.

48. Đào Thuỷ Nguyên (2008), Tryện ngắn Ma Văn Kháng và vấn đề thức tỉnh tinh

thần con người vùng cao - In trong Tạp chí NCVH, Viện văn - Viện KHXH,

tr.56.

49. Lã Nguyên - Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn, in trong Ma Văn

Kháng truyện ngắn tập1, Nxb CAND, Hà Nội.

50. Mai Thị Nhung (2006), Phong cách nghệ thuật Tô Hoài, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

51. Đỗ Hải Ninh (2002), Nhân vật trí thức trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng,

Tạp chí Sông Hương, số 164.

52. Nhiều tác giả (1997), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học,

Hà Nội - Đà Nẵng.

53. Nhiều tác giả (Lê Bá Hân - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi, 1999), Từ điển

thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG, Hà Nội.

54. Nhiều tác giả (1980), Lý luận văn học vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

55. Vũ Dương Quý (1990), Phải chăng đời là một vại dưa muối hỏng? - Báo Giáo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

viên nhân dân, số 2, 3.

113

56. Hoàng Sơn (1998), Trò chuyện với tác giả Mùa lá rụng trong vườn - Báo Tiền

phong, số 46.

57. Phạm Trường Sơn Cảm nhận học trò chân dung người thầy qua tác phẩm Đám

cưới không có giấy giá thú.

58. Trần Đình Sử (1996), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Vụ Giáo viên, Hà Nội.

59. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb - GD, Hà Nội.

60. Trần Đình Sử (1999), "Giọng điệu nghệ thuật và chủ nghĩa cảm thương trong

truyện Kiều", Tạp chí Văn học (số 2), tr.8

61. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học hiện đại, Bộ GD & ĐT - Vụ Giáo viên.

62. Trần Đình Sử (2002), Lý luận phê bình văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

63. Chu Thị Thơm (2003), Nhà văn Ma Văn Kháng; Viết tiểu thuyết là một cuộc đi

săn hổ dữ - Báo Giáo dục thời đại, số 98.

64. Đỗ Phương Thảo (2006), Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn Kháng

thời kỳ Đổi mới, Luận án Tiến sĩ, ĐHQG Hà Nội.

65. Đỗ Ngọc Thạch (1993), Trò chuyện với nhà văn Ma Văn Kháng: Tôi viết như

tôi nghĩ, tôi hiểu, tôi yêu, tôi ghét - Báo Văn hóa, số 9.

66. Vân Thanh (1996), Một mảng đời trong cuộc sống hôm nay qua Mùa lá rụng

trong vườn - Tạp chí Văn học số 3, tháng 5, 6.

67. Bích Thu (1990), Đổi mới và trách nhiệm của nhà văn - Báo Văn nghệ.

68. Bích Thu (2006), Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời đổi mới - Tạp chí

dạy và học ngày nay, số11, tr.15.

69. Xuân Tùng (1999), Ma Văn Kháng - Nhà văn cần có cái tâm - Báo Hà Nội, số 17.

70. Đào Thanh Tùng (1990), Đám cưới không có giấy giá thú - một cách nhìn nhận

về người thầy - Báo Giáo viên nhân dân, số 16.

71. Nguyễn Văn Toại (1983), Đọc các sáng tác miền núi của Ma Văn Kháng, nghĩ

về trách nhiệm của nhà văn trước một đề tài lớn - Tạp chí Văn học, số 5, tr.129.

72. Hà Xuân Trường (1991), Có sự đổi mới thực sự trong văn học - Báo Văn nghệ,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

số 49.

114

73. Hà Xuân Trường (1991), Toạ đàm: Văn học đổi mới và phát triển (Vũ Đăng

Thiên lược thuật) - Tạp chí Cộng sản.

74. Nguyễn Khắc Trường (1998), Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nxb Hội Nhà văn,

Hà Nội.

75. Nguyễn Thái Vận (1982), Đọc Mưa mùa hạ của Ma Văn Kháng - Báo Lao

động, số 37.

76. Lê Kim Vinh (1977), Hỏi chuyện nhà văn Ma Văn Kháng - Tạp chí Văn học số 5, 6.

77. Trần Đăng Xuyền (2002), Nhà văn hiện thực cuộc sống và cá tính sáng tạo,

NXB Văn học, Hà Nội.

78. Trần Đăng Xuyền (1983), Một cách nhìn cuộc sống hôm nay - Báo Văn nghệ, số 15.

79. Trần Đăng Xuyền Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, Nxb Khoa học - Xã hội.

80. Trần Đăng Xuyền (1980), Phải chăm lo cho từng người, Văn nghệ số 40.

81. Wayneklin (2002), Lời nói đầu cho tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ, xuất bản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

http://www.lrc-tnu.edu.vn

bằng tiếng Anh tại Mỹ (Thanh Thông dịch).