ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------------------------------- NGUYỄN THỊ VÂN ANH THẾ LỮ VỚI TIẾN TRÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSĨĨ KKHHOOAA HHỌỌCC NNGGỮỮ VVĂĂNN
THÁI NGUYÊN - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------------------------------- NGUYỄN THỊ VÂN ANH THẾ LỮ VỚI TIẾN TRÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60.22.34 LLUUẬẬNN VVĂĂNN TTHHẠẠCC SSĨĨ KKHHOOAA HHỌỌCC NNGGỮỮ VVĂĂNN
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. PHAN TRỌNG THƯỞNG
THÁI NGUYÊN - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm
Thái Nguyên, Khoa Sau đại học, Khoa Ngữ văn, các thầy cô giáo đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong suốt khoá học.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy hướng dẫn PSG.TS. Phan Trọng
Thưởng người thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học
tập và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Thái
Nguyên, Trường THPT Trại Cau - Đồng Hỷ - Thái Nguyên đã tạo điều kiện
và nhiệt tình giúp đỡ tôi về mọi mặt trong suốt thời gian học tập và hoàn
thành luận văn.
Tôi xin tỏ lòng biết ơn chân thành tới bạn bè và gia đình những người
đã động viên, khích lệ tôi để hoàn thành tốt luận văn.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2008
HỌC VIÊN CAO HỌC
NGUYỄN THỊ VÂN ANH
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
2.1. Về thơ ................................................................................................. 2
2.1.1. Trước cách mạng ......................................................................... 2
2.2.2. Sau cách mạng............................................................................. 4
2.2. Về văn xuôi ........................................................................................ 7
3. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 10
4. Đóng góp mới của Luận văn ................................................................... 10
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 10
6. Cấu trúc luận văn .................................................................................... 11
Chương 1. SỰ XUẤT HIỆN CỦA THẾ LỮ TRONG BỐI CẢNH VĂN
HỌC VIỆT NAM THỜI KỲ 30 - 45 ............................ 12
1.1. Bối cảnh văn hoá, xã hội Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945 .................... 12
1.1.1. Vài nét về tình hình chính trị - văn hoá - xã hội ........................... 12
1.1.2. Sự nở rộ và phát triển các khuynh hướng, nhóm phái văn học .... 15
1.1.3. Sự xuất hiện một thế hệ nhà văn, nhà thơ tài năng và sự hoàn thiện
về thể loại ....................................................................................... 17
1.2. Vị trí vai trò của Thế Lữ trong sự hình thành và phát triển của một số
thể loại văn học mới............................................................................ 20
1.2.1. Cuộc đấu tranh giữa thơ mới và thơ cũ ......................................... 22
1.2.2. Sự xuất hiện của Thế Lữ ................................................................ 25
Chương 2. NHỮNG PHẨM CHẤT CÁCH TÂN TRONG THƠ THẾ LỮ ... 30
2.1. Quan điểm nghệ thuật của Thế Lữ - Một bước tiến so với quan điểm
nghệ thuật của văn học trung đại ......................................................... 30
2.1.1. Khái quát quan điểm nghệ thuật văn học trung đại ...................... 30
2.1.2. Quan niệm nghệ thuật của Thế Lữ ................................................ 33
2.2. Những cách tân về hình thức và nội dung nghệ thuật .......................... 39
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
4
2.2.1. Thế Lữ - Một sự đổi mới về cảm hứng sáng tạo ........................... 39
2.2.1.1. Thiên nhiên............................................................................. 39
2.2.1.2. Tình yêu ................................................................................. 45
2.2.1.3. Cõi tiên ................................................................................... 50
2.2.2. Cách tân về hình thức (hình thức biểu hiện) ................................. 59
2.2.2.1. Đổi mới cấu trúc câu thơ ........................................................ 60
2.2.2.2. Phong phú về thể thơ .............................................................. 67
2.2.2.3. Nghệ thuật xây dựng hình ảnh bằng chất liệu hội hoạ ........... 70
2.2.2.4. Tài hoa trong nghệ thuật diễn tả âm thanh ............................. 74
2.2.2.5. Nhạc điệu trong thơ Thế Lữ ................................................... 76
2.3. Tiểu kết ............................................................................................. 79
Chương 3. THẾ LỮ VỚI NHỮNG ĐÓNG GÓP VỀ VĂN XUÔI
NGHỆ THUẬT ............................................................ 81
3.1. Thế Lữ với thể loại văn xuôi mới ........................................................ 81
3.2. Truyện trinh thám ................................................................................. 84
3.2.1. Nguồn gốc truyện trinh thám ........................................................ 84
3.2.2. Thế Lữ với thể loại truyện trinh thám ở Việt Nam ....................... 85
3.2.2.1. Cốt truyện ............................................................................... 85
3.2.2.2. Nhân vật ................................................................................. 90
2.2.2.3. Cách giải mã độc đáo trong truyện trinh thám của Thế Lữ ... 93
3.3. Truyện kinh dị ................................................................................... 100
3.3.1. Truyện kinh dị tiếp nối dòng truyện truyền kỳ ........................... 100
3.3.2. Sự khác biệt giữa truyện kinh dị của Thế Lữ và truyện truyền kỳ .....101
3.3.2.1. Nghệ thuật kể chuyện ........................................................... 104
3.3.2.2. Nghệ thuật tả ........................................................................ 108
3.3.2.3. Cách giải thích khoa học trong truyện kinh dị của Thế Lữ . 116
PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................... 130
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 133
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong giai đoạn 1930 - 1945, xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến
sâu sắc. Sự gặp gỡ của văn minh Phương Tây sự tiếp thu mạnh mẽ và rộng rãi
những tinh hoa văn hoá thế giới đã thúc đẩy văn học Việt Nam bứt ra khỏi hệ
hình trung đại trì trệ, để tiến hành công cuộc hiện đại hoá với sự tăng tốc đặc
biệt. Văn học Việt Nam thay đổi từ diện mạo tới nội dung, hàng loạt những
thể tài, thể loại mới hình thành và phát triển, một đội ngũ đông đảo các nhà
văn sung sức tung hoành trên khắp mọi lĩnh vực văn chương. Một trong
những đại diện xuất sắc của đội ngũ này là Thế Lữ.
Thế Lữ thuộc số ít những nghệ sĩ đa tài của nền văn học nghệ thuật trước
cách mạng. Là "khởi điểm của những khởi điểm", ông không chỉ là người mở
đầu cho phong trào Thơ mới, mà còn là người khai phá nền kịch nói Việt Nam,
là cây bút đầu tiên của một vài thể loại văn xuôi nghệ thuật như tiểu thuyết
trinh thám, truyện đường rừng, truyện kinh dị, truyện khoa học,... ở những lĩnh
vực văn chương này ông luôn bộc lộ đầy đủ cốt cách của người đi "tiên phong"
với những thể nghiệm mới mẻ trên cả bình diện nội dung lẫn hình thức.
Mặc dù đã có rất nhiều công trình, bài viết về sự nghiệp văn chương
của Thế Lữ, chúng tôi vẫn mong muốn tìm hướng tiếp cận mới đối với sáng
tác của ông ngõ hầu nhìn nhận rõ hơn những điểm sáng mới trong thế giới
nghệ thuật phong phú của nhà văn tài ba này. Đặt sáng tác của ông trong sự
phát triển nhanh chóng của văn học Việt Nam ba thập niên đầu thế kỷ XX,
trong sự phát triển đa dạng của thể loại và thể tài văn học, trong sự tìm kiếm
nghệ thuật rốt ráo, so sánh với các sáng tác của các nhà văn, cách tân cùng
thời, chúng tôi muốn tìm hiểu sâu sắc hơn những thành tựu nghệ thuật của
ông, từ đó nhằm khẳng định vị trí, vai trò đóng góp của ông trong công cuộc
hiện đại hoá văn học dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
Mặt khác, hiện sáng tác của Thế Lữ, trong đó có mảng thơ của ông, đã
được đưa trở lại giảng dạy trong nhà trường ở cả cấp trung học cơ sở và trung
học phổ thông. Nên việc đi sâu nghiên cứu văn tài của ông là hết sức cần
thiết. Đối với người viết luận văn, việc thực hiện đề tài là quá trình học hỏi,
trang bị cho bản thân vốn kiến thức đầy đủ về một tác gia lớn nhằm đáp ứng
tốt hơn cho công tác giảng dạy trong nhà trường.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Là sứ giả tiên phong của trào lưu văn học lãng mạn, sáng tác của Thế
Lữ được các nhà biên khảo lịch sử, các nhà nghiên cứu văn học hết sức quan
tâm tiến hành khảo sát và nghiên cứu. Tuy vậy, mức độ đánh giá về văn
nghiệp của Thế Lữ ở mỗi thể loại văn học, mỗi giai đoạn lịch sử có khác
nhau.
2.1. Về thơ
2.1.1. Trước cách mạng
Ngay từ khi mới ra đời thơ Thế Lữ đã được hoan nghênh nhiệt liệt.
Vào những năm 1933, 1934, 1935, 1936 các cây bút viết văn, viết phê bình
trong và ngoài nhóm Tự lực văn đoàn như: Nhất Linh, Nguyễn Tường Bách,
Nguyễn Nhược Pháp, Lê Tràng Kiều... đã đăng bài nhiệt liệt ủng hộ, cổ vũ
ca ngợi Thế Lữ.
Nhất Linh là người đầu tiên có công phát hiện, có bài giới thiệu Thế Lữ
trên báo Phong hoá (số 54 - 1933) Nhất Linh khẳng định Thế Lữ là "một
nhân vật mới trong làng thơ mới". Trên báo Phong hoá (số 97, 11/5/1937)
Nguyễn Tường Bách nhiệt tình tán dương Thơ mới, lấy thơ Thế Lữ làm mẫu
rồi nhận định "Những bài thơ của ông Thế Lữ đã tỏ ra rằng Thơ mới đã vượt
ra những khuôn sáo chật hẹp của thi văn cũ mà đi vào một con đường khá
rộng rãi tốt đẹp hơn nhiều". Khi phân tích một số bài thơ Nguyễn Nhược Pháp
cho rằng: "Đối với sự miêu tả những tình cảm nhẹ nhàng, ông Thế Lữ đã thực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
sự chứng tỏ một tài năng lớn". Trên Hà Nội báo (số 14 ngày 8/4/1936) Lê
Tràng Kiều cho rằng hồn thơ, cảm hứng của Thế Lữ "dồi dào" "ông Nguyễn
Thế Lữ có thể ngồi chung chiếu với ông Nguyễn Khắc Hiếu mà không
ngượng ngùng". Đến bài thơ mới Thế Lữ đăng ở Hà Nội báo (số 24 ngày
7/6/1936) khi so sánh bài Tiếng sáo Thiên thai của Thế Lữ với đoạn Nguyễn
Du tả tiếng đàn của nàng Kiều, Lê Tràng Kiều nhận xét "Các tài nghệ của Thế
Lữ về phương diện này quả không kém Nguyễn Du là mấy".
Không phải ngẫu nhiên khi tuyển chọn 46 thi sĩ để đưa vào tập Thi
nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân đã trân trọng đặt Thế Lữ ở vị trí
đầu tiên. Và trong tiểu luận Một thời đại trong thi ca, Hoài Thanh đã tôn
vinh Thế Lữ là "đệ nhất thi sĩ" và ngợi ca "Độ ấy thơ mới vừa ra đời - Thế
Lữ như vầng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam (...) Thế
Lữ đã dựng thành nền Thơ mới ở xứ này (...) Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm
nhiên bước những bước vững vàng mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ
xưa phải tan vỡ".
Năm 1942 trong cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã dành những
trang viết về Thế Lữ. "Ông là thi sĩ có công đầu trong việc xây dựng nền thơ
mới. Phan Khôi, Lưu Trọng Lư chỉ là những người làm cho người ta chú ý
đến Thơ mới mà thôi, còn Thế Lữ mới chính là người cho ta tin cậy ở tương
lai của Thơ mới [69 - 309]".
Ngoài những ý kiến đánh giá (với những ý nghĩa bênh vực, cổ vũ cho
Thơ mới trong giai đoạn phôi thai) của các nhà phê bình nghiên cứu, các bạn
đồng nghiệp dành cho Thế Lữ chúng ta còn thấy xuất hiện trong công trình
nghiên cứu Việt Nam văn học sử của Dương Quảng Hàm. Trong công trình
nghiên cứu này, tác giả đã đặt Thế Lữ vào hàng những người cải cách, đề cao
Thế Lữ, cho rằng đó là nhà thơ có ngôn từ mới lạ, diễn tả trung thực ý tưởng
và hình ảnh trong thơ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
Là "một ngôi sao sáng khắp trời thơ Việt Nam" nhưng danh vọng chói
lọi đã bị mờ đi nhanh chóng. Sau đó tác giả Thi nhân Việt Nam cũng phải than
thở về sự lạnh nhạt của công chúng đối với Thế Lữ "Tôi thấy xung quanh tôi
người ta lạnh lùng quá. Thế Lữ cơ hồ đã đi theo phần đông trong Văn đàn bảo
gián [14 - 51]. Bởi vì chỉ mấy năm sau, thơ Thế Lữ không còn đáp ứng thị
hiếu, tâm lý của lớp công chúng mới. Có thể nói khi Thế Lữ viết lời tựa giới
thiệu "Thơ thơ" của Xuân Diệu thì chính ông đã viết "chiếu nhường ngôi" cho
nhà thơ trẻ mới nhất trong các nhà thơ mới đó.
Thơ mới lãng mạn nói chung và thơ Thế Lữ nói riêng ngay từ khi mới
ra đời đã gây được luồng dư luận xôn xao một thời. Người khen thì khen hết
sức mà người chê cũng không tiếc lời, đặc biệt là những cây bút đứng trên lập
trường quan điểm cách mạng phê phán như Hải Triều, Hồ Xanh... Họ đã chế
giễu nhiều nhà Thơ mới trong đó có Thế Lữ. Nhưng rồi cũng như quy luật tất
yếu của lịch sử, phong trào Thơ mới được đông đảo công chúng văn học nhất
là lớp độc giả thanh niên đón nhận.
2.2.2. Sau cách mạng
Sau Cách mạng tháng Tám ở miền Bắc đứng trên quan điểm cách mạng,
phong trào Thơ mới được nhìn nhận và đánh giá khác trước. Từ năm 1945 -
1975 Thơ mới cũng như văn học lãng mạn nói chung đều bị coi là tiêu cực.
Trong tập Nói chuyện thơ kháng chiến năm 1951 Hoài Thanh cho rằng:
"Những vần thơ buồn tủi và bơ vơ ấy là những vần thơ có tội. Nó xui con
người ta buông tay cúi đầu do đó làm yếu sức ta và làm lợi dụng cho giặc. Sự
thật khách quan là thế" [103 - 25].
Không chỉ tác giả Thi nhân Việt Nam mà nhiều nhà thơ trong phong
trào Thơ mới như Thế Lữ - Huy Cận, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Xuân Diệu...
đều nhìn lại một cách nghiêm khắc. Trong bài Những sợi dây trói buộc tôi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
4
trên con đường phấn đấu đăng trên tạp chí Văn nghệ (số 47 năm 1953) - Thế
Lữ phủ định hầu như tất cả mọi đóng góp của mình vào nền văn học.
Khoảng năm 1956 - 1957, Thơ mới tuy vẫn bị phê phán nhưng đã được
nhìn lại với con mắt rộng hơn và Thế Lữ vẫn được coi là trường hợp có nhiều
yếu tố tích cực hơn cả. Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945 (Tập 5 tủ sách
ĐHSP - Nxb GD 1962), Nguyễn Trác cũng dành một chương viết về Thế Lữ
và tập Mấy vần thơ.
Tháng 3 - 1963, trong một lần nói chuyện, nhà thơ Tố Hữu tâm sự "Tôi
cũng thích nhạc điệu và hơi thở của Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy
Cận... trong tâm hồn các anh lúc đó tôi tìm thấy những nỗi băn khoăn đau
buồn của những người cùng thế hệ, đòi hỏi tự do, ước mơ hạnh phúc, tuy các
anh chưa tìm thấy lối ra và nhiều khi rơi vào chán nản [39].
Năm 1966, Phan Cự Đê cho ra đời một chuyên luận công phu và toàn
diện về Phong trào Thơ mới (1932 - 1945). Ông đã phê phán khuynh hướng
thoát ly tiêu cực, đồng thời ghi nhận tấm lòng yêu nước, yêu dân tộc, yêu
cuộc sống của các nhà Thơ mới. Đặc biệt, ông đề cao Thế Lữ với tinh thần
dân tộc tinh thần yêu nước khá rõ nét qua bài thơ Nhớ rừng.
Trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945 của Nguyễn Hoành
Khung (Nxb GD 1973), ông đã dành cả một mục trong chương 3 - Phong trào
Thơ mới để nhìn nhận Thế Lữ như là người tiêu biểu đầy đủ của cái "tôi" Thơ
mới. Ông đánh giá cao những yếu tố tiến bộ và ngòi bút tài hoa dồi dào của
Thế Lữ.
Ở miền Nam, sau Cách mạng, Thơ mới cũng là đối tượng được các nhà
phê bình nghiên cứu quan tâm. Đã có nhiều bài tiểu luận về tác giả, tác phẩm
về phong trào Thơ mới đăng tải trên các tạp chí Bách khoa nghiên cứu văn
học... Đặc biệt là sự xuất hiện khá nhiều tập hồi ký chuyên khảo, chuyên luận
về thi ca tiền chiến như Lược thảo về thơ của Uyên Thao (Nxb 1967), Thi ca
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
Việt Nam hiện đại của Trần Tuấn Việt, Nxb 1969. Đặc biệt là cuốn Việt Nam
thi nhân tiền chiến (Nxb 1968 - 1969), Nguyễn Tấn Long nhận định: "Thế Lữ
đặt cho Thơ mới một nền móng vững chắc, ông gây được niềm tin mãnh liệt
trong lòng khách yêu thơ, những sáng tác của ông vừa xuất hiện đã khua
những tiếng vang sâu rộng; tựa như tia lửa loé sáng trong màn đêm, những
hồn thơ còn đang mò mẫm sợ sệt cái táo bạo của Thơ mới, bỗng nhiên bắt
được mục tiêu tiến bước...".
Từ thời kỳ đổi mới đến nay, văn học lãng mạng nói chung trong đó có
Thế Lữ đã được thẩm định lại. Nhiều bài nghiên cứu chuyên luận của các tác
giả Hà Minh Đức, Nguyễn Hoành Khung, Trần Đình Hượu, Phan Cự Đê, Vũ
Ngọc Phan… đã đánh giá lại trào lưu lãng mạn nói chung dưới ánh sáng của
tư duy mới.
Những năm 1984 - 1987 liên tiếp có nhiều bài viết về Thế Lữ. Trong
Từ điển văn học tập 1 Nguyễn Hoành Khung khẳng định "Ngòi bút của Thế
Lữ khá dồi dào, già dặn, tạo nên được những bức tranh đẹp, thi vị (...) Thế Lữ
đã đóng góp quan trọng vào việc hiện đại hoá thơ ca Việt Nam, khẳng định
biểu hiện giá trị sinh động của Thơ mới.
Năm 1987 trong cuốn Nhà văn và tác phẩm trong trường phổ thông, Lê
Bảo viết "Nếu trước đó ít lâu, Tản Đà dạo khúc nhạc đầu với "Non nước nặng
một lời thề vẫn còn sáo nhị thì Thế Lữ đã đem đến cho sân khấu âm nhạc một
giọng kèn đồng".
Năm 1989, Hà Minh Đức khi viết khải luận Phong trào thơ mới Việt
Nam thời kỳ 30 - 45 đã nhận xét: "Thế Lữ, người mở đầu cho phong trào Thơ
mới, ông hoàng của chủ nghĩa lãng mạn đã kết hợp được trong thơ tình cảm
chân thực và mở rộng với chất lãng mạn, thanh cao".
Vào dịp kỷ niệm 60 năm phong trào Thơ mới đã có rất nhiều bài nghiên
cứu về văn nghiệp của Thế Lữ. Đáng chú ý phải kể đến cuốn sách Nhìn lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
6
một cuộc cách mạng trong thi ca của Hà Minh Đức (năm 1993) đã chọn hai
bài thơ Nhớ rừng và Cây đàn muôn điệu của Thế Lữ xếp đầu danh sách.
Năm 1997 có bài Thế Lữ, nghệ sĩ hai lần tiên phong của Phan Trọng
Thưởng (Tạp chí Văn học số tháng 7) và các bài của Nguyễn Đình Thi,
Nguyễn Xuân Sanh (báo Văn nghệ) nhân kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh
Thế Lữ.
Năm 2000 Nxb KHXH đã công bố tập 25 trong hệ thống trọn bộ 42 tập
của Tổng tập văn học Việt Nam. Cuốn sách được in nhiều nhà thơ trong đó
tập Mấy vần thơ tập mới của Thế Lữ được in lại toàn bộ. Năm 2002 có tiểu
luận Thế Lữ - người mở đầu một trào lưu thơ ca của Hà Minh Đức. Tác giả đã
có cái nhìn bao quát sâu sắc làm nổi bật hồn thơ Thế Lữ.
Năm 2005, Phạm Đình Ân cho ra đời cuốn Thế Lữ - tác gia tác phẩm.
Cuốn sách đã có cái nhìn tổng quát về toàn bộ văn nghệ và những bài viết về
Thế Lữ.
Ngoài những bài nghiên cứu nói trên đã có rất nhiều những luận văn
thạc sĩ nghiên cứu về thơ Thế Lữ, song những luận văn này chỉ mới đề cập
thơ Thế Lữ ở những khía cạnh nhất định, chưa nghiên cứu sâu về những đóng
góp của Thế Lữ trong công cuộc hiện đại hoá văn học. Ở luận văn này, chúng
tôi sẽ làm rõ vị trí của Thế Lữ trong tiến trình văn học giai đoạn 1930 - 1945.
2.2. Về văn xuôi
2.2.1. Như trên đã nói, Thế Lữ thuộc vào số ít những nghệ sĩ đa tài của
nền văn học nghệ thuật trước cách mạng. Ông không chỉ là người mở đầu cho
phong trào Thơ mới mà còn là cây bút đầu tiên của một vài thể loại văn xuôi
nghệ thuật như truyện kinh dị, truyện trinh thám, truyện đường rừng... song
hoạt động nghiên cứu về sự nghiệp văn xuôi của Thế Lữ vẫn chưa được sự
chú ý của nhiều bạn đọc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
7
Người đầu tiên nghiên cứu văn xuôi của Thế Lữ là Vũ Ngọc Phan.
Trong cuốn Nhà văn hiện đại Vũ Ngọc Phan viết "về thơ, người ta thấy rõ các
thi cốt, các chân tài của Thế Lữ. Về tiểu thuyết, tuy loại truyện trinh thám ông
chưa thành công, nhưng về những truyện ghê sợ, ông đã chứng tỏ là một tiểu
thuyết gia có biệt tài". Cũng trong cuốn sách này ông cho rằng: "Vàng và Máu
của Thế Lữ là một tiểu thuyết mà tác giả tỏ ra một văn gia có biệt tài. Nghệ
thuật viết tiểu thuyết của Thế Lữ ở đây đã lên tới trình độ cao" [26 - 27 - 28].
Tác giả Phạm Thế Ngũ trong cuốn Việt Nam Văn học giản ước tân biên
đã dành 11 trang nói về những truyện kinh dị lãng mạn và truyện trinh thám
của Thế Lữ. Theo Phạm Thế Ngũ, bên cạnh một Thế Lữ mở đường cho Thơ
mới còn có một Thế Lữ văn xuôi đặc sắc.
2.2.2. Từ giữa những năm 1980 đến nay, trong không khí đổi mới
mạnh mẽ của xã hội, nhiều tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn, nhiều tập thơ
lãng mạn được xuất bản với số lượng lớn. Song văn xuôi của Thế Lữ nói
chung cũng như các truyện kinh dị, truyện trinh thám của Thế Lữ vẫn được
đánh giá rất cao.
Báo văn nghệ số 23 ra ngày 3/6/89 đăng bài Thương tiếc nhà thơ Thế
Lữ, tác giả Tế Hanh viết: "Ở nơi anh cái chất mở đường đi tiên phong thật rõ
ràng, trong thơ, trong truyện, trong báo chí, trong sân khấu" [26 - 383].
Nguyễn Hoành Khung trong Lời giới thiệu bộ sách 8 tập Văn xuôi lãng
mạn Việt Nam 1930 - 1945 viết: "Ngôi sao rực rỡ nhất của phong trào Thơ
mới thời kỳ đầu, cũng là cây bút văn xuôi đặc sắc, dồi dào, đề tài và bút phát
khá đa dạng. Ông được biết trước hết là ở loại truyện kinh dị (...) rồi loại
truyện tình lãng mạn đường rừng (...) và nhất là truyện trinh thám, ông là một
trong những người dẫn đầu về thể loại tiểu thuyết ở nước ta...".[37-423]
Năm 1991, trong cuốn Thế Lữ - cuộc đời trong nghệ thuật tác giả Hoài
Việt có bài: Thế Lữ như tôi viết trong bài viết của mình ông đánh giá rất cao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
8
những truyện quái dị của Thế Lữ so với các nhà văn cùng thời. Ông khẳng
định: "Thế Lữ là một nhà thơ, nhà văn giàu tưởng tượng, giàu mộng mơ nhưng
ông lại rất tỉnh táo trong phương pháp suy luận khoa học” [26-412; 413].
Tiếp đến trên tạp chí Văn học số 7 năm 1997, Phan Trọng Thưởng có bài
Thế Lữ nghệ sĩ hai lần tiên phong. Tác giả đã khẳng định: "Với loại truyện li
kỳ rùng rợn Thế Lữ đã đạt đỉnh cao của loại truyện này" chỉ sau khi tập Mấy
vần thơ ra đời được ít lâu Thế Lữ dần chuyển sang lĩnh vực văn xuôi với hai sở
trường là tiểu thuyết ly kỳ rùng rợn và tiểu thuyết trinh thám như Vàng và Máu
(Đời nay-1937), Bên đường thiên lôi (1936); Mai Hương và Lê Phong (1937)...
Với Vàng và Máu, ông có thể được coi là tác giả đạt đỉnh cao nghệ thuật của
loại truyện này [76-13]. Cũng trong bài viết này Phan Trọng Thưởng đã khẳng
định công lao to lớn của Thế Lữ trong việc mở ra khuynh hướng mới cho văn
chương nhóm Tự lực văn đoàn: "Cùng với Lan Khai và một vài tác giả khác
chuyên viết về loại truyện đường rừng, bí hiểm văn xuôi Thế Lữ mở ra một
khuynh hướng mới của văn chương Tự lực văn đoàn [76-13].
Năm 2003 trên Tạp chí Văn học số 8, Phạm Đình Ân có bài viết Thế Lữ
trong Tự lực văn đoàn. Trong bài viết này bên cạnh việc khẳng định vị trí, vai
trò và đóng góp của Thế Lữ với nhóm Tự lực văn đoàn tác giả còn khẳng định
"Văn xuôi nghệ thuật của Thế Lữ cũng có một vẻ đẹp riêng, hấp dẫn cho thấy
một khía cạnh đáng lưu ý ở tài năng Thế Lữ [2-68].
Nhìn chung, nhiều năm qua văn xuôi của Thế Lữ được học tập và
nghiên cứu rất đơn giản và dè dặt. Trong phạm vi nhà trường, học sinh không
được tiếp cận với các tác phẩm văn xuôi, ít được biết đến Thế Lữ ở phương
diện nhà phê bình văn học, nhà dịch thuật, nhà nghệ sĩ đa tài, nhà đạo diễn sân
khấu. Song ở luận văn này, chúng tôi muốn nghiên cứu một khía cạnh nhỏ
trong mảng văn xuôi của Thế Lữ đặc biệt là trong truyện trinh thám và truyện
kinh dị để khẳng định Thế Lữ - tác giả tiên phong của thể loại truyện này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
9
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài trên, luận văn sẽ nghiên cứu một cách cụ thể những
sáng tác của Thế Lữ giai đoạn 1930 -1945 ở hai lĩnh vực Thơ và Văn xuôi
(không khảo sát nghiên cứu hoạt động sân khấu, báo chí, lý luận, phê bình
văn học). Đặc biệt, luận văn này sẽ làm rõ hơn vị trí tiên phong của Thế Lữ
đối với một số thể loại văn học trong chặng đường văn học 1930 - 1945 nói
riêng và nền văn học nước nhà nói chung. Đúng như nhận định của PGS. TS
Phan Trọng Thưởng: Thế Lữ - Nghệ sĩ hai lần tiên phong và đánh giá của Lê
Đình Kỵ trong lời giới thiệu Tuyển tập Thế Lữ: "Cho đến nay trong lịch sử
văn học Việt Nam không có một tên tuổi nào đáng được xếp bên cạnh Thế Lữ
trong hai loại sáng tác khá độc đáo này" [2b - 55, 56].
4. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
Từ các thành tựu nghệ thuật tiêu biểu trên các lĩnh vực Thơ và văn
xuôi, luận văn này nghiên cứu đánh giá vị trí của Thế Lữ với tiến trình văn
học Việt Nam thời kỳ 30 - 45 một cách có hệ thống theo quan điểm nghiên
cứu mới nhất.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, trong quá trình thực hiện đề tài chúng
tôi chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp lịch sử: Nhằm nghiên cứu tác giả, tác phẩm dưới góc
nhìn của lịch sử văn học để làm nổi bật vị trí, vai trò của Thế Lữ trong tiến
trình văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Trong quá trình triển khai luận văn
chúng tôi sử dụng phương pháp thẩm mĩ truyền thống và phương pháp thống
kê khi tiếp cận tác phẩm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
10
- Phương pháp so sánh: Với quan điểm lịch sử trên đây luận văn sẽ cố
gắng so sánh Thế Lữ trên cả bình diện lịch đại và đồng đại để góp phần làm
sáng tỏ vai trò "mở đường", "tiên phong" của Thế Lữ đối với văn học Việt
Nam giai đoạn 30 - 45 ở một số thể loại.
6. CẤU TRÖC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Sự xuất hiện của Thế Lữ trong bối cảnh văn học Việt Nam
thời kỳ 30 - 45
Chương 2: Những phẩm chất cách tân trong thơ Thế Lữ
Chương 3: Thế Lữ với những đóng góp về văn xuôi nghệ thuật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
11
Chương 1
SỰ XUẤT HIỆN CỦA THẾ LỮ TRONG BỐI CẢNH VĂN
HỌC VIỆT NAM THỜI KỲ 30 - 45
1.1. BỐI CẢNH VĂN HOÁ, XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI KỲ 1930 - 1945
1.1.1. Vài nét về tình hình chính trị - văn hoá - xã hội
Hiện thực đời sống xã hội không chỉ là đối tượng phản ánh một nền văn
học nhất định mà còn là nhân tố làm nảy sinh chính nền văn học ấy. Theo mối
quan hệ biện chứng này thì vào đầu thế kỷ XX, xã hội nước ta đã xuất hiện
đầy đủ tiền đề cho một nền văn học hiện đại ra đời.
Đến đầu thập kỷ 30 của thế kỷ này, thực dân Pháp đã thực hiện ở Việt
Nam hai cuộc khai thác thuộc địa lớn nhằm bù đắp những thiệt hại kinh tế ở
chính quốc do cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất gây ra. Xã hội Việt Nam do
đó cũng biến đổi theo. Các đô thị mọc lên rất nhanh theo đà phát triển của
kinh tế Tư bản chủ nghĩa. Việc buôn bán bắt đầu sôi động ở các thành phố
lớn. Bộ máy viên chức của thực dân và phong kiến đã có qui mô hoàn chỉnh.
Một tầng lớp tiểu tư sản được hình thành từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
nhất đến đầu thập kỷ 30 đã phát triển đông đảo và chiếm một tỷ lệ không nhỏ
trong dân số các đô thị. Theo thống kê niên giám của Đông Dương năm 1932
- 1933, số trí thức tân học bao gồm học sinh, sinh viên và viên chức đã lên tới
35 vạn người.
Hầu hết các tầng lớp và giai cấp trên đều sống ở các đô thị. Một lối
sống tư sản hoá được gọi là "văn minh thành thị" lan tràn trong giai cấp tư sản
và tiểu tư sản lớp trên. Lối sống đô thị hoá được thể hiện rõ trong cách ăn mặc
của thanh niên nam nữ. Cuối thập kỷ 30 người ta thấy xuất hiện nhiều thiếu
nữ Hà Thành mặt đánh phấn, môi đỏ chót, áo màu, giày cao gót, chơi ping
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
12
pông, tennis. Nam thanh niên thành thị giàu sang cũng đua nhau ăn mặc
không kém thiếu nữ.
Có thể nói, những đổi mới trong sinh hoạt của các tầng lớp trên đây sẽ
dẫn đến sự thay đổi suy nghĩ, cảm xúc trong chính bản thân những con người
này. Góp phần vào sự thay đổi đó còn do sự tiếp xúc với văn hoá phương Tây
mà đặc biệt là với văn học lãng mạn Pháp.
Năm 1915, thực dân Pháp và triều đình phong kiến bắt buộc phải bãi bỏ
thi Hương ở Bắc Kỳ. Năm 1919 khoa thi Hội cuối cùng ở Huế đã kết thúc chế
độ khoa thi cử phong kiến. Từ đây, trong các trường học, học sinh bắt đầu say
sưa với văn hoá Pháp mà đặc biệt là văn học lãng mạn Pháp. Người ta bắt đầu
ca ngợi thơ lãng mạn của Huygô, Lamartine, Musset,... Nhiều người rất thích
bài thơ "Le Lac" (Cái hồ) của Lamartine, mê nhân vật Atala trong tác phẩm
cùng tên của Chateaubriand.
Sự tiếp xúc văn hoá trên đây đã đem đến cho tầng lớp thanh niên tiểu tư
sản thành thị những năm 30 của thế kỷ này những tình cảm mới, những rung
động mới. Họ yêu đương mơ mộng, vui buồn không giống các cụ ngày xưa
nữa. Điều này đã được Lưu Trọng Lư nêu lên công khai trong buổi diễn thuyết
ở nhà Học Hội Quy Nhơn hồi tháng 6 năm 1934: "Các cụ ta ưa những màu đỏ
chót ta lại ưa những màu xanh nhạt. Các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm
khuya, ta lại nao nao vì tiếng gà lúc đúng ngọ. Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây
thơ, các cụ coi như làm một điều tội lỗi ta thì cho là mát mẻ như đứng trước
một cánh đồng xanh. Cái ái tình của các cụ thì chỉ là sự hôn nhân, nhưng đối
với ta thì trăm hình muôn trạng, cái tình say đắm, cái tình thoáng qua, cái tình
gần gũi, cái tình xa xôi, cái tình trong giây phút, cái tình ngàn thu..." [5-21].
Sự tiếp xúc với văn hoá phương Tây và lối sống đô thị hoá cũng làm
cho ý thức cá nhân nảy nở và phát triển rất nhanh lấn át ý thức cộng đồng xưa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
13
cũ. Những con người trong xã hội ngày càng muốn khẳng định cái tôi cá nhân
của mình trong gia đình và cả ngoài xã hội, điều này được biểu hiện rất rõ
trong văn học. Vì vậy, một quan niệm mới về văn chương cũng đồng thời
xuất hiện.
Đến thế kỷ XX, với sự xuất hiện của tầng lớp thị dân đông đảo và lối
sống đô thị hoá, với ảnh hưởng của văn hoá phương Tây... ý thức cá nhân mới
nảy sinh và phát triển mạnh mẽ trong tầng lớp thị dân mà trước hết là ở bộ
phận trí thức tân học. Họ có quan điểm hoàn toàn khác với thế hệ trước về cái
đẹp, về đạo đức, nhân sinh và đặc biệt là về văn hoá nghệ thuật. Họ cho rằng
những quy phạm chặt chẽ của thi pháp cổ đã trở thành vật cản trên chặng
đường tự do dân chủ hoá nền văn học nước nhà. Họ lên tiếng chống lại sự trói
buộc trái tự nhiên của thi pháp cổ mang tính phi ngã đã một thời là mẫu mực
cho các sáng tác văn chương nghệ thuật. Họ đòi hỏi một sự cách tân để thoả
mãn nhu cầu thẩm mỹ mới và để kích thích cá tính sáng tạo trong lĩnh vực
nghệ thuật văn chương.
Có thể nói, lối sống đô thị hoá và sự tiếp xúc văn hoá phương Tây của
một số tầng lớp dân chúng Việt Nam vào những năm 30 của thế kỷ này là tiền
đề quan trọng cho xu hướng hiện đại hoá đời sống xã hội, trong đó có văn
học. Ngoài ra, góp phần không nhỏ vào sự đổi mới của xã hội nói chung và
văn nghệ nói riêng còn phải kể đến vai trò của báo chí.
Từ năm 1913, báo chí bắt đầu đổi mới và có khuynh hướng, chương
trình rõ rệt hơn, hình thức báo chí cũng được cải tiến. Báo chí thời nay được
xuất bản bằng các thứ tiếng Tàu, Pháp, Quốc Ngữ và đôi khi cả chữ Nôm nữa.
Về sau, những trí thức tân học của ta đã cổ động cho chữ quốc ngữ và dùng
nó làm phương tiện phổ biến. Văn hoá, khoa học tiến bộ góp phần thúc đẩy
bánh xe lịch sử tiến lên. Chính báo chí đã hoạt động sôi nổi khiến chính
quyền thực dân và Chính phủ Nam triều phải bãi bỏ chế độ thi cử lỗi thời làm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
14
cho nền Hán học ở Việt Nam sụp đổ hoàn toàn. Báo chí cũng là diễn đàn để
các nhà nghiên cứu, phê bình văn học trao đổi ý kiến đánh giá tác phẩm, phổ
biến lý luận kinh nghiệm sáng tác. Đặc biệt, báo chí còn góp phần đấu tranh
cho sự thắng lợi của văn hoá tiến bộ, cho sự toàn thắng của chữ quốc ngữ, tạo
điều kiện thuận lợi cho sự đổi mới văn học.
Tham gia vào công cuộc đổi mới có một số tri thức Hán học chịu ảnh
hưởng của sinh hoạt đô thị tư sản và văn hoá phương Tây thông qua Tân Thư
Trung Quốc như Tàn Đà, Nguyễn Bá Học, Hoàng Ngọc Phách, Phan Khôi,...
nhưng chủ yếu vẫn là tầng lớp tri thức tân học. Những cây bút này đã tạo nên
trên văn đàn công khai ở Việt Nam vào những năm 30 của thế kỷ hai trào lưu
văn học là văn học hiện thực và văn học lãng mạn chủ nghĩa. Hai trào lưu này
đều đấu tranh thoát khỏi hệ thống thi pháp cổ trung đại và đã thực sự đóng
góp có hiệu quả vào tiến trình hiện đại hoá nền văn học Việt Nam.
Thế Lữ cũng thuộc kiểu tri thức nghệ sĩ mới tiểu tư sản ở một thuộc địa
nửa phong kiến trong số những văn nghệ sĩ, những nhà hoạt động khoa học xã
hội - nhân văn nói trên. Ông xuất hiện từ năm 1932 và trưởng thành trong 13
năm (1932 - 1945) có một vị trí hết sức quan trọng trong tiến trình hiện đại
hoá văn học nước nhà trước Cách mạng tháng Tám.
1.1.2. Sự nở rộ và phát triển các khuynh hƣớng, nhóm phái văn học
Thời kỳ 1930 - 1945 là thời kỳ đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp
hết sức gay gắt. Từ đó dẫn đến những cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng
và ý thức hệ, sự tác động qua lại hết sức phức tạp của các khuynh hướng và
phương pháp sáng tác khác nhau.
Năm 1930 là năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng đó cũng
là năm xuất hiện phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, mở đầu cho dòng văn học vô
sản và các khuynh hướng lãng mạn, hiện thực phê phán đã phát triển thành
dòng độc lập.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
15
Từ 1923 đến 1931 Nguyễn Công Hoan đã khẳng định phương pháp
hiện thực phê phán trong thể loại truyện ngắn (Răng con chó của nhà tư sản,
Oẳn tà roằn, Thật là phúc, Ngựa người và người ngựa...).
Trong hai năm 1930 - 1931 Ngô Tất Tố viết những tiểu phẩm văn học
nổi tiếng trên các báo phổ thông, Đông Phương với các biệt hiệu Thiết Khẩu
Nhi; Thục Điểu,... Năm 1931 cũng là năm tác phẩm đầu tay của Vũ Trọng
Phụng ra đời (Không một tiếng vang).
Năm 1932 đánh dấu một bước phát triển đột biến của dòng văn học
lãng mạn: Báo Phong hoá; Văn xuôi Tự lực văn đoàn; Phong trào Thơ mới...
Từ 1930 - 1935 cũng nổ ra hàng loạt cuộc tranh luận lớn nhỏ: cuộc tranh luận
về Nho giáo giữa Phan Khôi, Trần Trọng Kim và Tản Đà; cuộc tranh luận
xung quanh vấn đề Thơ mới. Báo Phong Hoá cho đăng hàng loạt phóng sự
dài chủ trương bỏ cũ theo mới. Tất cả những cuộc tranh luận đó phản ánh
cuộc đấu tranh giữa lễ giáo phong kiến, đại gia đình phong kiến với chủ nghĩa
cá nhân tư sản, cuộc đấu tranh của tình cảm cá nhân, ý thức cá nhân chống lại
những khuôn khổ gò bó, lối suy nghĩ và ngôn ngữ khuôn sáo của thơ ca một
lớp nhà nho đã lỗi thời, đã tàn tạ. Tự Lực Văn Đoàn đề xướng phong trào Âu
hoá, đề cập đến cuộc xung đột giữa mới và cũ, lên án gia đình phong kiến,
bênh vực tình yêu lứa đôi, bênh vực chủ nghĩa cá nhân tư sản.
Văn học lãng lạn thời kỳ 30 - 45 gần như chiếm địa vị độc tôn trên thi
đàn văn học công khai. Bắt đầu với nhóm Tự Lực Văn Đoàn và Phong trào
Thơ mới. Ngoài nhóm Phong hoá, Ngày nay còn phải kể đến các nhóm Hà
Nội báo (Huy Thông, Lưu Trọng Lư, Thái Can, Nguyễn Nhược Pháp), Tiểu
thuyết thứ bảy (Thâm Tâm, Trần Huyền Trân; Lai Ba, Ngọc Giao, Thanh
Châu), Tao Đàn (Nguyễn Tuân, Phạm Hầu, Lưu Kỳ Linh), Xuân Thu Nhã
Tập (Nguyễn Xuân Sanh, Phạm Văn Hạnh, Đoàn Phú Tứ...). Ngoài làng văn
đất Hà Thành còn phải kể đến các nhóm Sông Thương (Bàng Bá Lân, Anh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
16
Thơ), nhóm Huế (Nam Trân, Nguyễn Đình Thư), nhóm Bình Định (Hàn Mặc
Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê,...).
Ở nước ta, các nhà văn lãng mạn ít khi thành lập trường phái và có
những tuyên ngôn nghệ thuật riêng. Tuy nhiên ở thời kỳ này chúng ta cũng
thấy được quan điểm thẩm mĩ của họ qua một số bài thơ của Thế Lữ (Cây đàn
muôn điệu), Xuân Diệu (Cảm xúc, lời thơ, Gửi hương), những bài phát biểu
của Lưu Trọng Lư trong cuộc tranh luận về nghệ thuật (1935 - 1936) và cuối
cùng người ta đã nghe thấy âm thanh của chủ nghĩa "nghệ thuật vị nghệ thuật"
từ những bản nhạc dạo đầu của Cây đàn muôn điệu của Thế Lữ.
Như vậy, văn học thời kỳ 1930 - 1945 là thời kỳ nở rộ và phát triển các
khuynh hướng, nhóm phái văn học cùng với khuynh hướng văn học hiện thực
phê phán, văn học lãng mạn, đặc biệt là phong trào thơ mới đã góp phần rất
quan trọng trong việc đưa văn học Việt Nam tiến thẳng vào thời kỳ hiện đại.
Một trong những người có công đầu tiên phải kể đến là Thế Lữ - người có vai
trò mở đường cho Thơ mới nói riêng và cho cả giai đoạn văn học 1930 - 1945
nói chung.
1.1.3. Sự xuất hiện một thế hệ nhà văn, nhà thơ tài năng và sự hoàn thiện
về thể loại
Cùng với sự chuyển biến của tình hình xã hội, văn học thời kỳ từ đầu
thế kỷ XX đến năm 1945, đặc biệt từ đầu những năm 30 trở đi, đã phát triển
nhanh chóng đạt nhiều thành tựu to lớn. Chỉ trong vòng hơn một thập niên,
các khu vực các dòng văn học đều vận động, phát triển với nhịp độ khẩn
trương, mau lẹ. Điều đó thể hiện ở sự phát triển về số lượng tác giả và tác
phẩm, sự hình thành và đổi mới các thể loại văn học và độ kết tinh ở những
tác giả, tác phẩm tiêu biểu.
Tiểu thuyết từ trước năm 1930 còn ít ỏi và có phần đơn giản, thậm chí
một số chỉ là phỏng tác. Đến những năm 30, thể loại này trở nên phong phú
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
17
và thật sự đổi mới, nhất là ở cách dựng truyện, tổ chức kết cấu và xây dựng
tính cách nhân vật. Nhóm Tự lực văn đoàn với những tác phẩm thành công
của Nhất Linh, Khái Hưng đã đẩy cuộc cách tân tiểu thuyết lên một bước mới.
Tiếp đó là những tiểu thuyết có giá trị của Vũ Trọng Phụng. Ngô Tất Tố,
Nguyên Hồng, Nam Cao... đã đưa thể loại này lên đến đỉnh cao.
Truyện ngắn thời kỳ này cũng phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng. Chưa
bào giờ truyện ngắn Việt Nam lại phong phú, đặc sắc như thế: truyện ngắn
trào phúng của Nguyễn Công Hoan; truyện ngắn trữ tình của Thạch Lam,
Thanh Tịnh, Hồ Zếnh, truyện ngắn phong tục của Tô Hoài, Bùi Hiển, Kim
Lân; truyện ngắn có khả năng tạo nên bầu không khí Vang bóng một thời của
Nguyễn Tuân; truyện ngắn viết về đời tư, về cái hằng ngày, dựng lên được cả
thế giới "sống mòn", mang tư tưởng sâu sắc, ý nghĩa khái quát rộng lớn với
nhiều trang phân tích tâm lý đạt tới trình độ bậc thầy của Nam Cao... Chỉ sau
hơn một thập niên, chúng ta đã thấy xuất hiện nhiều truyện ngắn đặc sắc,
trong đó một số truyện ngắn có thể coi là kiệt tác.
Phóng sự và tuỳ bút cũng phát triển mạnh được kết tinh trong những
sáng tác của Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân. Về bút
ký, tuỳ bút phải kể đến Xuân Diệu và đặc biệt là Nguyễn Tuân - một cây bút
tài hoa, độc đáo với nhiều tác phẩm đặc sắc.
Trong lĩnh vực thơ ca, phong trào Thơ mới đã đem lại sự đổi thay sâu
sắc với đội ngũ thi sĩ đông đảo, đa dạng, phong phú về phong cách nghệ thuật.
Hoài Thanh khẳng định trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một
thời đại phong phú như thế: "Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một
lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng
tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như
Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên... và thiết tha
rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu" (Thi nhân Việt Nam).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
18
Thơ ca cũng là thể loại chủ lực và có giá trị nhất của bộ phận văn học
cách mạng. Đáng chú ý hơn cả là sáng tác của nhà thơ Hồ Chí Minh, Tố Hữu,
Xuân Thuỷ, Sóng Hồng,... trong đó tiêu biểu nhất là những tập thơ sáng tác
trong tù như Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh và Từ Ấy của Tố Hữu. Đây là
hai thành tựu xuất sắc đưa thơ ca cách mạng lên tầm cao mới.
Ở chặng này, kịch nói tiếp tục phát triển, được nhiều thành tựu vượt
trội hơn so với trước đây. Gây được tiếng vang là những vở kịch của Vi
Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ, nhất là những vở kịch khai thác đề tài lịch sử
của Nguyễn Huy Tưởng.
Cùng với sáng tác, nghiên cứu lý luận phê bình văn học cũng phát triển,
đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Có giá trị hơn cả là những công
trình như Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân. Nhà văn hiện đại
của Vũ Ngọc Phan, Văn học Khải Luận của Đặng Thai Mai... đã góp phần
thúc đẩy nền văn học phát triển.
Dường như bất cứ thể loại nào, văn học cũng phát triển ngày càng phát
triển mạnh mẽ. Chính vì phát triển với tốc độ vũ bão như vậy nên không có
cây bút nào giữ được vai trò tiên phong trong suốt chặng đường dài. Đó là
cuộc chạy tiếp sức đầy căng thẳng, quyết liệt và cũng thật ngoạn mục tạo một
nhịp độ khẩn trương, nhanh chóng chưa từng thấy trong lịch sử văn học dân
tộc. Vì vậy, Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại thật có lí khi khẳng định
"Ở nước ta một năm có thể kể như ba mươi năm của người".
Hoà chung trong sự phát triển mạnh mẽ đó chúng ta phải kể đến vai trò
của Thế Lữ trong sự phát triển và hoàn thiện một số thể loại góp phần làm cho
văn học giai đoạn này thực sự có một diện mạo mới, đa dạng, phong phú
mang tính hiện đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
19
1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÕ CỦA THẾ LỮ TRONG SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA MỘT SỐ THỂ LOẠI VĂN HỌC MỚI
Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, bút hiệu Lê Ta, sinh ngày 06 tháng
10 năm 1907 tại ấp Thái Hà - Hà Nội trong một gia đình viên chức nhỏ. Thuở
nhỏ ở Lạng Sơn sau đó về Hải Phòng học sơ học và thành chung. Năm 1929
học song năm thứ ba bậc thành chung thì về Hà Nội thi đỗ dự thinh vào
trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương, học được một năm thì bỏ.
Có thể nói, Nguyễn Thế Lữ thuộc vào một số ít những nghệ sĩ đa tài
của nền văn học nghệ thuật trước cách mạng. Thế Lữ là "khởi điểm của
những khởi điểm".
Khi sống ở Hải Phòng, lúc chỉ mới mười tám, đôi mươi Thế Lữ đã viết
truyện, làm thơ. Khi nền văn học nước nhà bước vào thời kỳ hiện đại hoá văn
học, Thế Lữ bắt đầu được mời làm báo Phong hoá, sau đó ra nhập Tự lực văn
đoàn là người sáng lập văn phái này. Ông là nhà báo, người biên tập nòng cốt,
mẫn cán của hai tờ Phong hoá và Ngày nay.
Về văn xuôi nghệ thuật, Thế Lữ cũng có những đóng góp đáng kể ở thể
loại truyện trinh thám, truyện huyễn tưởng như là mở đầu một thể tài mới,
một cách viết mới.
Trong khi các tiểu thuyết gia văn học hiện thực phê phán như Ngô Tất
Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao,... đang trực tiếp dùng ngòi bút của mình để
phơi bầy sự xấu xa, thối nát của xã hội thực dân nửa phong kiến đang đè nặng
lên tâm hồn và thể xác của những người dân lương thiện, trong khi các tác giả
văn xuôi Tự lực văn đoàn đang tập trung miêu tả những câu chuyện tình
ngang trái do lề thói phong kiến cổ hủ gây ra thì Thế Lữ cho ra đời một loạt
sáng tác khác hẳn: ông viết truyện trinh thám và các "truyện lạ" theo kiểu
Etga Pô.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
20
Hàng loạt sáng tác của Thế Lữ như "Vàng và máu" (1934), "Bên đường
thiên lôi" (1937), "Lê Phong phóng viên" (1937), "Mai Hương và Lê Phong"
(1937), "Đòn hẹn" (1939), "Gói thuốc lá" (1940), "Trại Bồ Tùng Linh" (1941)
đã gây được tiếng vang lớn. Những sáng tác này cho thấy Thế Lữ là một nhà
văn có tài quan sát, có óc phân tích sắc bén, có trí tưởng tượng dồi dào.
Có thể nói, so với những tác phẩm văn xuôi truyền thống và tiểu thuyết
cùng thời, tiểu thuyết của Thế Lữ đã gây được một ấn tượng đặc biệt trong
lòng người đọc. Với tiểu thuyết của Thế Lữ, nghệ thuật văn xuôi dường như
bước sang một trang mới từ cách xây dựng hình tượng, đổi mới hệ thống cốt
truyện đến đổi mới về hình thức. Bởi thế, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã
viết "Về tiểu thuyết, tuy truyện trinh thám ông chưa thành công nhưng về
truyện ghê sợ ông đã tỏ ra một tiểu thuyết gia có biệt tài" [26 - 1953].
Trong lĩnh vực sân khấu: ngay từ khi gia nhập Tự lực văn đoàn, Thế Lữ
đã quan tâm tới nghệ thuật biểu diễn kịch. Từ 1935 - 1937 vừa làm biên tập,
viết báo, sáng tác và công bố các tác phẩm văn chương. Ông thành lập nhóm
kịch Thế Lữ ở Hải Phòng, tham gia ban kịch Tinh hoa, ban kịch Anh Vũ bằng
nhiều công việc như quản lý đoàn kịch, chỉ đạo nghệ thuật diễn, sắm vai và
viết kịch bản. Thế Lữ còn là một dịch giả dịch những tài liệu về sân khấu và
kịch bản kịch nói, kịch thơ. Nói về vai trò của Thế Lữ trong lĩnh vực này
Phan Trọng Thưởng trong bài viết Thế Lữ nghệ sĩ hai lần tiên phong đã khẳng
định "Thế Lữ là người đầu tiên đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói ở nước ta
trở thành chuyên nghiệp và có công xây dựng nó trở thành một nghệ thuật sân
khấu hoàn chỉnh".
Nhưng có lẽ không ở đâu, cốt cách người đi tiên phong của Thế Lữ lại
được bộc lộ đầy đủ như ở Thơ mới. Để thấy rõ được công lao đóng góp của
Thế Lữ dưới đây chúng tôi sẽ dựng lại bước khởi đầu của Thơ mới để thấy rõ
được vai trò tiên phong của người nghệ sĩ đa tài Thế Lữ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
21
1.2.1. Cuộc đấu tranh giữa Thơ mới và Thơ cũ
Phong trào thơ mới (1932 - 1945) là một cuộc vận động đổi mới thơ ca
rộng lớn, mang tầm vóc một cuộc cách mạng trong thơ ca tiếng Việt. Nó đã
chuyển đổi hệ thống thi pháp thơ ca từ thơ pháp trữ tình điệu ngâm sang thơ
trữ tình điệu nói, đưa thơ ca tiếng Việt sang phạm trù thơ hiện đại. Phong trào
này được mở đầu bằng cuộc tranh luận sôi nổi giữa Thơ mới và Thơ cũ.
Cuộc tranh luận kết thúc khi thắng lợi hoàn toàn thuộc về Thơ mới. Để
giành phần thắng cho Thơ mới, công đầu phải kể đến những người đi tiên
phong trong việc đề xướng Thơ mới phê phán thơ cũ.
Năm 1917 trên tờ An Nam tạp chí (số 5 - tháng 11) Phạm Quỳnh lần
đầu tiên lên tiếng thở than về tình trạng thơ ca đương thời. Ông cho rằng: thơ
Đường luật là thứ thơ phiền phức, luật lệ ràng buộc khắc nghiệt không khác
luật hình. Đến năm 1927, Phan Khôi trên Đông pháp thời báo đã táo bạo công
kích thơ cũ, cho thơ cũ là thứ thơ trói buộc, hãm đà, thô tục. Sang năm 1929,
tờ Trung Bắc tân văn lần đầu tiên đăng một bài thơ dịch không niêm luật,
không hạn chế số câu - đó là bài Con ve và con kiến do Nguyễn Văn Vĩnh
dịch thơ La Phông Ten. Cũng trong năm này Trịnh Đình Rư viết một loạt bài
đăng trên Phụ nữ Tân Văn mạnh mẽ công kích thơ Đường luật "bó buộc
người ta theo khuôn phép tỉ mỉ, mất cả hứng thú tự do, ý tưởng dồi dào"
[22,6] và ông đề nghị sáng tác thơ theo thể lục bát và song thất lục bát hoàn
toàn dân tộc.
Song đến thập kỷ thứ ba của thế kỷ XX, vấn đề cải cách thi ca đã trở
thành một nhu cầu bức xúc của văn học dân tộc. Ngày 10/3/1932 báo Phụ nữ
Tân văn xuất bản ở Sài Gòn đăng bài: Một lối thơ mới trình chánh giữa làng
thơ cùng bài thơ Tình già của Phan Khôi.
Trong bài báo này Phan Khôi nhận thấy truyền thống của thơ ca cổ điển
hàng ngàn năm với di sản đồ sộ và những áng thơ tuyệt bút của người xưa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
22
cùng với những quy định chặt chẽ về thi pháp đang là gánh nặng của thi sĩ
đương thời. Những nguồn cảm hứng thi ca quen thuộc được nói quá nhiều đã
nhàm chán. Những cảm xúc vui buồn của con người thời nay muốn nói ra lại
bị khuôn phép thơ xưa cản trở. Phan Khôi cho rằng: thơ cốt chơn, mà thơ cũ
vì công thức quá nhiều nên mất chơn. Theo luật Đường thi, người làm thơ có
thể trực tiếp biểu đạt được tình cảm, cảm xúc có thật cùng mình, vì vậy nhà
thơ xa lạ với đời sống tình cảm của con người. Những biểu tượng, hình ảnh
mĩ lệ hoá nhiều thành công thức sáo mòn mất đi sức truyền cảm. Bởi vậy
Phan Khôi đề xướng một lối thơ mới "đem ý thật trong thâm khảm mà nói ra
bằng những câu có vần và không phải bó buộc bởi niêm luật" [54.53].
Về hình thức lối thơ mới, Phan Khôi cho rằng vẫn phải có vần nhưng
những niêm luật bó buộc thì phải bỏ hết câu thơ tự do thì mới đủ sức diễn tả
những cảm xúc thơ ca mới của con người thời nay. Để minh hoạ cho ý tưởng
trên Phan Khôi cho in kèm bài Tình Già - bài thơ mà sau này nhiều người cho
là không có gì là mới mẻ, nhưng lúc bấy giờ nó như một luồng gió lạ.
Để diễn đạt tâm sự vơi đầy trong bài thơ, Phan Khôi không chỉ phá bỏ
niêm luật, câu thơ được nới rộng ra thoải mái: câu dài 16 - 17 chữ, câu ngắn
cũng 10 chữ, ý tình kín khuất của nhân vật trữ tình được giãi bầy một cách rõ
ràng, dễ hiểu, chân thật. Nguyên tắc mạch kỵ lộ của Đường thi trở nên xa lạ.
Do ý tưởng táo bạo của Phan Khôi trong bài báo và sự mới lạ của bài
thơ Tình già, đăng trên báo Phụ nữ Tân Văn (10/3/1932) được coi là sự đột
khởi trên thi đàn Văn học Việt Nam; Với bài thơ này, Thơ mới đã có một
tuyên ngôn thứ nhất, một hình hài đầu tiên. Cánh cửa đã mở, dù là mở hé đã
cho người ta thấy một chân trời khác của thơ ca.
Sự ra đời của bài Tình già tạo ra hai luồng dư luận trái ngược nhau.
Những người có tư tưởng tiến bộ thì lạc quan cho đó là dấu hiệu hình thành
nền học thuật mới. Ngược lại những người hoài nghi bảo thủ cho rằng đó là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
23
thứ "quái thai của thời đại, nếu để nó sống sẽ là điều sỉ nhục cho nền học
thuật nước nhà" [21.99]. Những người ủng hộ Phan Khôi sớm nhất, nhiệt tình
nhất là thanh niên tân học. Trong số những người trẻ tuổi đó là nổi lên hàng
đầu là tên tuổi của Nguyễn Thị Kiêm ở Nam Bộ và Thế Lữ ở đất Bắc.
Nguyễn Thị Kiêm biệt hiệu là Nguyễn Thị Manh Manh hay ký bút
danh là Manh Manh. Khi Phan Khôi hô hào lối Thơ mới người Nữ sĩ này lập
tức hưởng ứng rất nhiệt tình. Sau những bài thơ của Phan Khôi, của Lưu
Trọng Lư là hai bài thơ Canh tàn, Viếng phòng vắng ký tên Nguyễn Thị
Manh Manh. Với hai bài thơ này Nguyễn Thị Kiêm không chỉ phá thể, phủ
nhận khuôn phép xưa mà còn gieo tư tưởng lãng mạn, bộc lộ khao khát yêu
đương của tuổi trẻ. Ở những bài tiếp theo như Hai cô thiếu nữ, Bức thư gửi
cho tất cả những ai ưa và ghét lối Thơ mới, nữ sĩ đã thả sức thể nghiệm: chất
tự sự, lời đối thoại, ngữ điệu nói, chất tư duy luân lý... tràn vào thơ.
Nguyễn Thị Kiêm đã "rất có ý thức và hăng hái tạo ra Thơ mới" (chữ
dùng của Nguyễn Tấn Long) [21.179] bằng cách sáng tạo những bài thơ phá
thể, phá cách: bỏ niêm, luật đối, bỏ điển tích, sáo ngữ, mở rộng biên độ câu
thơ. Hướng thể nghiệm này đã tạo những viên gạch đầu tiên để dựng lên toà
lâu đài Thơ mới.
Để bảo vệ Thơ mới, Nguyễn Thị Kiệm đã dũng cảm mở mặt trận khẩu
chiến đấu tranh với phái ủng hộ thơ cũ. Ngày 26/7/1933 nữ sĩ đã đăng diễn
thuyết tại Hội khuyến học Sài Gòn, chỉ ra hạn chế của luật thơ Đường "Khuôn
khổ luật phép phiền phức, nên người làm thơ Đường luật phải ở trong một
phạm vi co hẹp lúng túng, cảm hứng ra bài nào thì câu văn như nhái lại mấy
trăm bài khác, còn ý tưởng thì dường như đã có nhiều người phát minh ra trước
rồi" Nữ sĩ cũng chỉ rõ Thơ mới là gì và tại sao Thơ mới phải ra đời "Muốn cho
tình tứ không vì khuôn khổ mà bị "đẹt" mất thì cần một lối thơ khác, lề lối
nguyên tắc rộng hơn. Thơ này khác với thơ xưa nên gọi là Thơ mới" [54, 100].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
24
Đến tháng 1/1935 Nguyễn Thị Kiêm lại diễn thuyết, tranh luận tay đôi
với ông Nguyễn Văn Hanh tại hội Khuyến học Sài Gòn. Sự năng nổ, táo bạo
của Nguyễn Thị Kiêm đã cổ vũ khích lệ những người trẻ tuổi ra sức sáng tác
và lên tiếng mạnh mẽ ủng hộ Thơ mới. Theo gương nữ sĩ, nhiều người đã viết
báo, diễn thuyết cổ vũ cho Thơ mới, tạo ra một phong trào rầm rộ từ Nam đến
Bắc, lôi cuốn hầu hết các tờ báo và tạp chí đương thời vào cuộc, tạo ra một
bầu không khí học thuật tích cực để các thanh niên trẻ mạnh dạn thể hiện tài
năng của mình trong lĩnh vực thơ ca.
Sau những tuyên ngôn và thể nghiệm đầu tiên, Thơ mới đã dành được
sự quan tâm của công luận. Các báo và tạp chí như Phụ nữ Tân Văn; Phong
hoá; Văn hoá tạp chí; An Nam tạp chí, Văn học tuần san, Hà Nội báo đều bị
cuốn vào cuộc tranh luận Thơ mới - Thơ cũ. Thơ mới cần mạnh mẽ hơn, táo
bạo hơn nhưng quan trọng phải thuyết phục được công chúng về luận thuyết
và sáng tác. Phan Khôi sau khi trình chánh Thơ mới chỉ lặng lẽ rút lui nhường
trận tuyến cho thế hệ trẻ - Nguyễn Thị Kiêm hăng hái tranh biện nhưng thơ lại
chưa mấy thuyết phục. Hồ Văn Hảo chỉ lặng lẽ sáng tác. Ở chặng đầu gian
nan này, Thơ mới rất cần một vị chủ tướng dũng cảm và tài năng vừa để đối
phó với sự phản ứng quyết liệt của phái cựu học vừa tiếp tục giương cao ngọn
cờ Thơ mới. Trách nhiệm nặng nề ấy đã được nhận lãnh bởi một thi sĩ trẻ tâm
huyết, đa tài: Thế Lữ.
1.2.2. Sự xuất hiện của Thế Lữ
Thế Lữ (1907 - 1989) sinh trưởng trong một gia đình viên chức nhỏ tại
Hà Nội. Ông đã sớm theo đuổi nghề văn, nghề báo và trở thành cây bút chủ
chốt của nhóm Tự lực văn đoàn. Sau bài tuyên ngôn chấn động của Phan
Khôi - Thế Lữ là một trong những người hưởng ứng sớm nhất và có công đầu
đưa Thơ mới đến sự toàn thắng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
25
Như chúng ta đã biết, Thơ mới vừa ra đời đã vấp phải sự bài xích của
phái cựu học. Phản đối Thơ mới cũng không kém những người ủng hộ. Sau
khi bài Tình già ra mắt, hăng hái như Phan Khôi và liều lĩnh như Lưu Trọng
Lư cũng chỉ dám rụt rè hy vọng vào phong trào Thơ mới, dẫu thất bại thì đó là
tiếng chuông cảnh tỉnh làng thơ giữa lúc triền miên trong cõi chết. Sau Tình
già nhiều sáng tác lần lượt ra đời với ý tưởng trình tránh một lối thơ làm
khuôn mẫu cho Thơ mới: Trên đường đời, Vắng khách thơ (Lưu Trọng Lư),
Viếng Phòng thơ, Canh tàn, Mộng du (Nguyễn Thị Kiêm), Tự tình với trăng,
Con nhà thất nghiệp (Hồ Văn Hảo)... Nhưng tất cả những ý tưởng, những
khát vọng đó chưa khẳng định được sự thắng thế của Thơ mới mà "Thơ mới
vẫn ở thời kỳ phôi thai, thời kỳ tập luyện, nghiên cứu" [23, 59].
Chỉ đến khi Thế Lữ xuất hiện trên thi đàn, Thơ mới mới tạm chấm dứt
một cuộc khủng hoảng về thực tiễn sáng tác. Thế Lữ "không bàn về Thơ mới,
không bênh vực Thơ mới, không diễn thuyết. Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm
nhiên bước những bước vững vàng mà trong khoảng khắc cả hàng ngũ thơ
xưa phải tan vỡ" (Thi nhân Việt Nam [34, 58]). Hoài Thanh đã coi sự lặng lẽ
đó của Thế Lữ là sự bênh vực "không kèn không trống" nhưng lại hữu hiệu và
"vững vàng" nhất cho Thơ mới.
Nếu Phan Khôi, Lưu Trọng Lư là những người khai chiến với Thơ cũ
thì Thế Lữ là người giành thắng lợi đầu tiên cho Thơ mới. Thế Lữ phá thế
cuộc giằng co dai dẳng và bế tắc. Thắng lợi đó biểu hiện trên cả bình diện lý
thuyết và những sáng tác cụ thể.
Năm 1935 nhân bài phê bình tập thơ Những bông hoa cuối mùa của
Thế Lữ đã lên tiếng bài xích thơ cũ, cho đó là thứ thơ bạc nhược, là sản phẩm
nhợt nhạt, vô hình của một nền thơ đã mất hết sinh khí "Cái tài của các ông là
cái tài xào nấu lại những món ăn cũ. Các ông lấy lời văn, ý tưởng, tình cảm
của người khác làm của mình. Trong thơ các ông đầy dãy cảnh tuyết mai,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
26
thông, cúc, chỉ quanh quẩn ở những điển tích mà đã mấy nghìn lần người ta
nhắc đến, nghe quen tai quá" [17, 11].
Và để trả lời những người buộc tội Thơ mới bất chấp mọi luật lệ, Thế
Lữ viết: "Các luật hẹp hòi hạn câu chọn chữ là một lối rất tiện cho những
người khúm núm thi thố các tiểu xảo của mình" (Phong Hoá số 148 tháng 5-
1935) Thế Lữ gọi những bài thơ ấy là lối thơ quen tai, nhàm chán như những
lời chúc tụng của bọn người hát "súc sắc súc sẻ" đầu năm.
Không chỉ có vậy, Thế Lữ tìm một hình thức mới để thể hiện một nội
dung cảm hứng mới. Thế Lữ đường hoàng sử dụng điển tích, thi liệu, văn liệu
cũ mà vẫn tự tin: Đấy là Thơ mới. Cảm quan mới, thi hứng mới đã chi phối
thi liệu cũ. Đến Thế Lữ, người ta bớt đi sự câu nệ và tiểu tiết. Làng Thơ mới
nhận ra rằng: Trên phương diện cảm hứng lẫn hình thức thể loại, Thơ mới kế
thừa chứ không đứt đoạn với thơ truyền thống.
Cây đàn muôn điệu được coi là một tuyên ngôn nghệ thuật của thế hệ
thi nhân mới:
"Tôi chỉ là một khách tình si
Ham cái đẹp của muôn hình muôn vẻ
Mượn cây bút nàng Ly Tao tôi vẽ
Và cây đàn ngàn phím tôi ca"
Thi nhân xưa có vai trò "đạo đức tư dân", giáo hoá, truyền thụ. Thi
nhân nay sáng tạo theo cảm hứng của cái tôi, biểu hiện rung động của cái tôi
trước cái đẹp. Cây đàn muôn điệu đánh dấu sự lên ngôi của con người nghệ sĩ
trong thế giới hiện thực để tự do cảm nhận và sáng tạo nghệ thuật. Con người
được đặt ở trung tâm mọi sự cảm thụ.
Cây đàn muôn điệu tiêu biểu cho cảm hứng say mê của cái tôi lần đầu
tiên được tự do cảm nhận. Cái tôi ấy đang bước đầu hành trình hăm hở khám
phá thế giới, là chặng đầu tiên trên hành trình của cái tôi lãng mạn. Cây đàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
27
muôn điệu là minh chứng cho quan niệm nghệ thuật của phong trào Thơ mới.
Đây là thắng lợi của Thơ mới trên phương diện lý luận. Lần đầu tiên, Thơ mới
có một phác thảo đầy đủ về chân dung người nghệ sĩ, mục đích sáng tạo,
phương thức sáng tạo. Trong quỹ đạo văn học hiện đại, thì Nhớ rừng là thắng
lợi của Thơ mới trên phương diện cảm hứng. Với Nhớ rừng, cái bi tráng được
khắc họa, không phải bằng khuôn khổ luật Đường đăng đối mà là thứ ngôn
ngữ thơ sinh động từng bị các nhà nho cho là lủng ca lủng củng.
"Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ
Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm."
Trong lúc cũ - mới đáng giao thoa, ranh giới chưa được phân định rõ
rệt thì bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ được coi như một đòn "dứt điểm", bài thơ
là sự hoà quyện giữa hùng tráng và bi tráng, là nỗi căm phẫn đã đọng lại
thành sức nặng giằng xé, xô đẩy trong lớp vỏ ngôn từ. Cảm hứng bi tráng tìm
được hình dạng cho nó trong thể thơ tám chữ. Thể thơ tám chữ vốn chịu ảnh
hưởng của hình thức hát nói. Sau Thế Lữ, những nhà thơ kế tiếp đã nâng thể
thơ tám chữ này lên đến độ điêu luyện. Thơ tám chữ cũng là thể thơ chiếm ưu
thế về số lượng trong các tập thơ của thi nhân trong phong trào Thơ mới.
Như vậy, sự xuất hiện của Thế Lữ trong những năm đầu của thế kỷ 30,
khiến người ta hoàn toàn bị thuyết phục về quá trình hiện thực hoá ý tưởng
Thơ mới. Sau Thế Lữ xuất hiện nhiều đỉnh cao của phong trào Thơ mới: Xuân
Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính... Những thi phẩm của họ là lời
bênh vực hùng hồn nhất cho Thơ mới. Trên thực tế, từ sau Thế Lữ, tranh luận
đã ngã ngũ. Hàng ngũ thơ xưa tan rã, thơ mới đã giành thắng lợi từ năm 1936.
Lê Tràng Kiều vui mừng nhận xét: "Cuộc cách mạng bồng bột nay đã yên
lăng như mặt nước hồ thu" và không phải ngẫu nhiên khi lưa chọn 45 thi sĩ
với 167 bài để đưa vào tập Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
28
trân trọng đặt Thế Lữ ở vị trí đầu tiên. Và trong tiểu luận Một thời đại trong
thi ca, Hoài Thanh tôn vinh Thế Lữ là "đệ nhất thi sĩ".
Tóm lại, qua diễn biến cuộc tranh luận Thơ mới - Thơ cũ, luận văn rút
ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất: Cuộc tranh luận giữa Thơ mới và Thơ cũ là một cuộc đấu
tranh quyết liệt giữa một bên giành quyền sống và một bên giữ quyền tồn tại.
Thứ hai: Những bài tham gia tranh luận của Thế Lữ có giá trị đặc biệt.
Trong ba năm đầu (1932 - 1935), ông đã có những bài viết công bố ở những
báo khác nhau. Với một cảm quan nhạy bén, lý luận sắc sảo ông đã góp phần
không nhỏ cho sự thắng lợi của Thơ mới trên bình diện lý thuyết.
Thứ ba: Không phô trương diễn thuyết suông, Thế Lữ đã dành cả tâm
huyết của mình cho những sáng tác cụ thể. Ở những sáng tác này, Thế Lữ đã
thể hiện rõ những phẩm chất cách tân để đưa Thơ mới đến toàn thắng, góp
phần hoàn thiện nền văn học theo hướng hiện đại hoá.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
29
Chương 2
NHỮNG PHẨM CHẤT CÁCH TÂN
TRONG THƠ THẾ LỮ
2.1. QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA THẾ LỮ - MỘT BƢỚC TIẾN SO
VỚI QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
2.1.1. Khái quát quan điểm nghệ thuật văn học trung đại
Văn học trung đại là một loại hình văn học, sản phẩm của xã hội xây
dựng trên nền tảng các quan hệ phong kiến mang dấu ấn đẳng cấp, dấu ấn hệ
tư tưởng tôn giáo. Nên nhìn chung, văn học trung đại dường như chưa nói
được cái đẹp của đời sống hàng ngày mà chủ yếu thường dùng các hình ảnh
tượng trưng, ước lệ hay những điển tích, điển cổ.
Văn học trung đại nói chung cũng như thơ ca nói riêng dường như
không đi sâu vào cái "tôi" cá nhân mà chỉ nói đến cái "ta" chung của mọi
người. Tình cảm của họ nằm trong khuôn phép chung của xã hội. Vì thế, khi
nữ sĩ Thanh Quan đứng trên đỉnh Đèo Ngang, tầm mắt của bà chỉ thấy cảnh
đẹp của đất nước và trước cảnh đẹp bao la ấy, bà nghĩ đến nước mà đau lòng.
Tâm trạng của bà là tâm trạng chung của dân tộc.
Tính chất ước lệ trở thành hình thức nổi bật biểu hiện của thơ ca trung
đại. Đó là tính chất tập cổ, tính quy phạm, tính công thức, sáo ngữ và cách
dùng các điển cố, điển tích là hết sức phổ biến. I.U.Lotman miêu tả phương
pháp sáng tác thời trung đại qua khái niệm "mỹ học đồng nhất" - một khái
niệm chung cho văn học dân gian và văn học viết Trung đại. Đó là sự đồng
nhất hoàn toàn tính hình tượng trong cuộc sống được miêu tả với các mô
hình, công thức mà người xem (công chúng) đã biết được và đưa vào hệ thống
các quy tắc sáng tác. Cơ sở nhận thức của nó là san bằng các hình tượng đa
dạng khác nhau của cuộc sống để đưa vào mô hình lôgic nhất định.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
30
B.AGiupxốp cho rằng: "Nhà văn trung đại không sáng tạo ra cốt truyện, anh
ta dường như chỉ kể lại và tổ hợp lại các môtíp đã có từ lâu bằng văn xuôi hay
văn vần".
Văn học trung đại thường dùng sáo ngữ, công thức trong tường thuật,
miêu tả, định danh, sử dụng chất liệu ngôn ngữ cao quý đầy hoán dụ, ví von
làm cho lời văn được mỹ lệ: tường gấm, mặt hoa, nghìn vàng giọt ngọc, tính
nghi thức đòi hỏi miêu tả từng loại vật phải tuân theo yêu cầu của từng loại
nhân vật ấy. Chẳng hạn, miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên là gằn liền với các hình
ảnh tùng, cúc, trúc, mai. Miêu tả con người phải gắn liền với dấu ấn của vũ trụ.
Vũ trụ ở đây là đất trời, mây nước, mặt trăng, mặt trời, sấm, chớp, mưa, gió,
cây cỏ, muông thú... với cái đạo bền vững sâu thẳm của nó. Con người thấy
chân dung của mình trong dáng liễu, dáng mai, vóc hạc, mình ve, tóc mây, mắt
phượng, mây sóng... Khi làm một bài thơ "tay tiên gió táp mưa sa" đã có dáng
dấp của vũ trụ. Khi khóc người yêu "vật mình vẫy gió tuôn mưa" hoặc khi
chuẩn bị đi thi "sứ trời đã giục đường mây" hoặc khi có một hành động ngang
tàng "vòng trời đất dọc ngang ngang dọc – Nợ tang bồng vay trả trả vay..." ta
thấy hình ảnh con người luôn được đặt trên bối cảnh của vũ trụ. Đó là cảm thức
chung của cả một mô hình văn học, một thời đại văn học. Các nhà văn hầu như
không bao giờ hình dung cảnh sắc thiên nhiên và con người trong dáng vẻ đời
thường vì như thế nó tầm thường, không đẹp. Các nhà thơ trung đại luôn lấy
thiên nhiên làm trung tâm, là ngọn nguồn ban phát các phẩm chất của nó cho
con người. Thiên nhiên là mẫu mực để hình dung ngoại hình con người. Chẳng
hạn, đoạn thơ miêu tả Thuý Vân của Nguyễn Du:
"Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da"
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
31
Nhà thơ miêu tả sắc đẹp của nhân vật qua các chi tiết khuôn trăng, nét
ngài, hoa, ngọc, mây, tuyết, là các chi tiết thuộc thế giới thiên nhiên, vũ trụ có
tính chất cao quý vĩnh viễn, không mang tính xác thịt trần tục, do đó cũng
không thấy dấu ấn cá nhân, cá tính. Mặt khác, nhà thơ không tả cảnh không
vẽ bức tranh thiên nhiên, mà hoa, ngọc, mây, tuyết dùng như một phép so
sánh chứ không phải là đối tượng miêu tả mà đối tượng miêu tả ở đây là vẻ
đẹp lý tưởng của nhân vật.
Khác với văn học trung đại, văn học hiện đại là văn học của thời kỳ mà
con người cá nhân tư sản mới xuất hiện, là văn học của ý thức cá tính của tác
giả, của ý thức nghệ thuật tự giác trong các cương lĩnh, trào lưu. Văn học hiện
đại giải phóng ngôn từ khỏi công thức để hướng tới cái đẹp. Cái đẹp của
giọng điệu, của tình cảm tự nhiên, của sắc thái, của cá tính, của sự miêu tả cụ
thể, tinh tế.
Trở về với văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 từ những tiểu thuyết
của Tự lực văn đoàn đến với văn xuôi hiện thực chủ nghĩa, đặc biệt là sự ra
đời của Phong trào Thơ mới đã góp phần quan trọng mở đầu và thúc đẩy
mạnh mẽ tiến trình hiện đại hoá văn học dân tộc. Đây cũng là thời kỳ các nhà
văn, nhà thơ bước ra một không gian rộng mở với những quan niệm nghệ
thuật mới làm ngạc nhiên cả hai giới sáng tác và hưởng thụ văn chương. Mỗi
nét họ đặt trên tờ giấy là cảm giác in vào hồn người đọc, rộng mở mà không
gò bó. Đúng như lời Hoài Thanh, Hoài Chân nhận xét "đi sâu vào tâm hồn
những cá nhân, chúng ta sẽ gặp tâm hồn dân tộc, đi sâu vào tâm hồn dân tộc
chúng ta sẽ gặp tư tưởng nhân loại" [33,34].
Đại diện cho phong trào Thơ mới đưa ra một quan niệm nghệ thuật mới
làm sáng rực cả bầu trời thơ những năm đầu thập kỷ 30 phải kể đến công lao
của Thế Lữ - Người có công "dựng thành nền Thơ mới ở xứ sở này" [34] với
một giọng điệu riêng, một sự cách tân táo bạo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
32
2.1.2. Quan niệm nghệ thuật của Thế Lữ
Trong chặng đường đầu Thơ mới lãng mạn, rất nhiều những cây bút nổi
lên cùng thời với Thế Lữ như Lưu Trọng Lư, Huy Thông và sau này là
Nguyễn Nhược Pháp. Nếu hồn thơ Lưu Trọng Lư mơ màng và buồn xa vắng,
của Huy Thông hùng tráng, mạnh mẽ thì hồn thơ Nguyễn Nhược Pháp hồn
nhiên, vui tươi, trong sáng... Tất cả những hồn thơ ấy đều có sức khơi gợi rất
lớn trong lòng công chúng độc giả bấy giờ.
Nhưng những đặc sắc qua tập "Mấy vần thơ" đã đưa Thế Lữ lên bậc
hàng đầu tiêu biểu cho phong trào Thơ mới lúc bấy giờ. Đúng như lời nhận
xét của Hoài Thanh, Hoài Chân... "Bởi vì không có gì khiến người ta tin ở
Thơ mới hơn là đọc những bài Thơ mới hay. Mà thơ Thế Lữ về thể cách mới
không chút rụt rè, mới từ số câu, số chữ, cách bỏ vần cho đến tiết tấu âm
thanh. Đọc những câu thơ:
"Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn thét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên dõng dạc đường hàng.
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc"
Thì không ai có thể bĩu môi trước cuộc cách mạng về thi ca đương
nổi dậy... Thế Lữ đã làm rạn vỡ những khuôn khổ ngàn năm không di dịch"
[34, 58].
Có được sự cách tân táo bạo trong thơ ca như vậy là nhờ Thế Lữ có
quan niệm nghệ thuật hết sức mới mẻ. Có thể nói từ thuở thơ ấu đến tuổi
trưởng thành khi đạt vinh quang về thơ ca và sau đó là những thành tựu về
văn xuôi nghệ thuật, về hoạt động sân khấu cũng là khi hình thành và hoàn
chỉnh một quan niệm nghệ thuật mới. Với quan niệm nghệ thuật này ông đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
33
nêu lên tuyên ngôn nghệ thuật chung của một thế hệ nghệ sĩ đầu tiên của văn
học hiện đại Việt Nam.
Quan niệm nghệ thuật của Thế Lữ đánh dấu một trình độ phát triển có
tính bước ngoặt của ý thức nghệ thuật trong văn học Việt Nam những năm
đầu thập kỷ 30. Đó là ý thức tự giác của chủ thể sáng tạo về nghệ thuật bắt
rễ và sàng lọc từ chủ nghĩa lãng mạn thịnh hành ở phương Tây khoảng thế
kỷ XIX với lý thuyết "vị nghệ thuật" của Theophine Gautier chủ trương tôn
thờ cái đẹp tuyệt đối, chủ trương hoạt động và sáng tạo nghệ thuật trước tiên
và cuối cùng chỉ vì nghệ thuật, vì cái đẹp. Nhà phê bình Biêlinxki từng nói:
"Cái đẹp là điều kiện không thể thiếu được của nghệ thuật, thiếu cái đẹp thì
không có và không thể có nghệ thuật. Đó là một định lý". Thế Lữ có sự kết
hợp hài hoà giữa cách cảm, cách nghĩ của người Việt với quan niệm của
phương Tây làm nảy sinh quan niệm nghệ thuật mới và làm nên một "thời
đại trong thi ca".
Bao trùm nên quan niệm nghệ thuật chung nhất của Thế Lữ là quan
niệm về cái đẹp. Với Thế Lữ cái đẹp được biểu hiện trước hết ở người nghệ
sĩ, ở văn chương nghệ thuật và ở nghiệp văn. Bởi vậy, nghệ thuật là cái đẹp và
cái đẹp là nghệ thuật. Trong báo Ngày nay (số 92 năm 1937), ông viết "Vẽ lại
bức tranh chưa vừa ý, uốn nắn những nét còn thô sơ; bỏ hẳn một bài văn để
viết lại bài khác hoàn toàn hơn; lựa chọn những lời thích đáng với những ý
tưởng trong một bài thơ; đó là sự can đảm của nhà nghệ sĩ. Sự can đảm ấy tỏ
ra lòng yêu mến nghệ thuật mà là sự yêu mến thành thực, trong đó bao sự băn
khoăn, ngờ vực, cay đắng, trước khi thấy hạnh phúc của vẻ đẹp anh lính".
Cái đẹp theo Thế Lữ quan niệm là cái đẹp rộng mở, muôn màu. Cái đẹp
"là chốn em quen cười với gió/ với trăng, với nước, với mây bay" (Lời than
thở của nàng Mỹ thuật), cái đẹp là "mộng vàng trên cảnh lộng trời mây" (Lựa
tiếng đàn). Đặc biệt với Cây đàn muôn điệu, Thế Lữ đã đưa ra một quan niệm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
34
nghệ thuật hết sức mới mẻ, được coi là bản tuyên ngôn nghệ thuật của phong
trào Thơ mới. Nguyễn Đăng Điệp nhận xét "Người mở đường cho sự thắng
lợi của phong trào thơ ca này, trong bài Cây đàn muôn điệu đã sử dụng tới 15
lần chữ "tôi" (trên tổng số 36 dòng thơ). Muôn điệu chính là sự đa dạng của
cảm xúc, nó tạo ra tính mở cửa của Thơ mới" [47,197-198]. Cây đàn muôn
điệu và Nhớ rừng là hai trong số những bài thơ mới được tập thể các nhà thơ
mới, nhà nghiên cứu bình chọn in vào sách 1993. Thế Lữ đã từng tâm sự "Tôi
không có ý định làm một bản tuyên ngôn nghệ thuật, tôi chỉ muốn với Cây
đàn muôn điệu nói lên một khát vọng khẩn thiết bằng thi ca, nói rõ cả tâm tư,
tình cảm của mình (...) Lực bất tòng tâm, tôi chỉ thực hiện được một phần rất
nhỏ của bản tuyên ngôn ấy nếu bài thơ ấy là bản tuyên ngôn của phong trào
Thơ mới thì chúng ta có thể tự hào: phong trào Thơ mới đã thực hiện xuất sắc
bản tuyên ngôn ấy" [20].
Với Cây đàn muôn điệu Thế Lữ đã bộc lộ rõ cái "tôi" chủ thể của mình
khi nói về cái đẹp. Cái "tôi" thi sĩ đã mở rộng ra để ngân vang với mọi cung
bậc của cuộc đời với tất cả những buồn, đau, sướng khổ... của mọi kiếp người.
"Với nàng Thơ, tôi có đàn muôn điệu,
Với nàng Thơ, tôi có bút muôn màu.
Tôi muốn làm nhà nghệ sĩ nhiệm màu,
Lấy thanh sắc trần gian làm tài liệu"
Khác hẳn với cái đẹp trong văn học trung đại, nếu cái đẹp trong văn
học trung đại thuộc về quá khứ gắn liền với những hình ảnh thanh cao như
tùng, cúc, trúc mai, nó mang tính lý tưởng thể hiện trong "Đạo" trong "chí" thì
giờ đây cái đẹp hiện ngay trong cuộc sống hiện tại xung quanh mình. Với Thế
Lữ, thiên nhiên kỳ thú có bao nhiêu vẻ đẹp thì hồn thơ ông có bấy nhiêu rung
cảm: một dáng yêu kiều thướt tha của giai nhân, một ngày âm thầm sầu muộn,
một sáng tưng bừng nắng xuân, một thác ngàn đổ nghiêng trời, một cảnh cơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
35
hàn nơi nước đọng, bùn lầy... Tất cả đều níu kéo mời mọc nhà thơ. Trước các
sắc màu lung linh hoàn vũ và vẻ đẹp huyền bí của vũ trụ, nhà thơ khao khát
chiếm lĩnh và say sưa tận hưởng. Ở đâu ông cũng trưng cầu và phát hiện ra vẻ
đẹp. Nhà thơ:
"Tìm cảm giác hay trong tiếng khóc câu cười
Trong lúc gian lao, trong giờ sung sướng.
Khi phấn đấu cũng như hồi mơ tưởng,
Tôi yêu đời cùng với cảnh lầm than.
Cảnh thương tâm, ghê gớm hay dịu dàng,
Cảnh rực rỡ ái ân hay dữ dội".
(Cây đàn muôn điệu)
Mặc dù say sưa đi tìm cái đẹp ở mọi nơi, mọi chốn nhưng ông vẫn
không hoàn toàn xa rời đời sống, xa rời hiện thực. Nhà thơ tìm vẻ đẹp của thiên
nhiên, tìm đến vẻ đẹp yêu kiều của nhan sắc giai nhân trong Tiếng trúc tuyệt
vời và Tiếng hát bên sông. Thế Lữ đã dựng lên nhiều giấc mơ huyền ảo đối lập
với hiện thực. Mặc dù vậy, Thế Lữ vẫn tìm đến vẻ đẹp của "thi nhân", "tư
tưởng" vẫn rung động trước "những cảnh cơ hàn nơi nước đọng, bùn lầy", vẫn
"cảm khái bởi những lời hăng hái", "vẫn ngợi ca với tấm lòng phấn khởi". Tức
là con người chỉ tự nhận mình là lữ khách của trần thế và tuyên bố chỉ "xuôi
ngược để vui chơi" ấy vẫn xúc động trước nỗi đau của đồng loại, vẫn hướng tới
những vẻ đẹp cao siêu hùng tráng của non nước, của "thi văn tư tưởng" với một
thái độ sống hăng hái, khoẻ khoắn, tích cực. Điều đó cho thấy, Thế Lữ vẫn
nặng lòng với cuộc đời và xét cho cùng thì quả không phải hoàn toàn "nghệ
thuật vị nghệ thuật" là thoát ly. Cái đẹp mà Thế Lữ say mê săn tìm chủ yếu vẫn
là cái đẹp phong phú của thế giới sự sống, không phải cái đẹp "thuần tuý" trừu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
36
tượng. Đồng thời, sự quay lưng với xã hội phàm tục ở Thế Lữ không phải là sự
tuyệt giao với hiện thực như nhóm Xuân thu nhã tập sau này.
Chúng ta thừa nhận mâu thuẫn thực tế khách quan ở các nhà Thơ mới
là sự mâu thuẫn giữa giai cấp tiểu tư sản trí thức với bè lũ đế quốc, phong
kiến và tư sản mại bản. Những mâu thuẫn đó một khi đã được vào thi ca thì bị
trừu tượng hoá, lãng mạn hoá. Mâu thuẫn đó trong thơ Thế Lữ được trình bày
như sự đối lập giữa cuộc đời tù hãm và cuộc đời phóng túng giang hồ, giữa
cuộc đời đen tối, tranh giành cướp bóc với những cảnh tiên thơ mộng đẹp đẽ
ở Bồng lai tiên cảnh.
PlêKhanốp đã có những kiến giải sâu sắc về nguồn gốc của quan điểm
"nghệ thuật vị nghệ thuật", "khuynh hướng nghệ thuật vị nghệ thuật nảy sinh
ra và được củng cố ở nơi nào có sự bất hoà không giải quyết được giữa các
nghệ sĩ với hoàn cảnh xã hội chung quanh họ" [85].
Có thể nói, chính Thế Lữ và các nhà Thơ mới, các cây bút lãng mạn
(thế hệ 1930) đã bước vào con đường văn học với tâm trạng "bất hoà không
giải quyết được đối với hoàn cảnh xã hội chung quanh họ". Đúng vậy, ngay
trong bài Tự trào, Thế Lữ đã nói rõ về thói đời xấu xa:
"Ở đời này khá thật là dốt
... Anh ta nào có biết đâu rằng
Có bao nhiêu đức tính cũng không bằng
Chỉ khôn khéo gian ngoan là đạt tất".
Trong bài Lời mỉa mai Thế Lữ cũng bộc bạch tâm sự bất hoà của nhà
thơ đối với cái xã hội phàm tục đó:
"... Tôi yêu đời. Nhưng bị người ghen ghét,
... Rồi tủi thân, chơ vơ, chán nản
Chẳng tin yêu mà cũng chẳng thương ai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
37
Về tình yêu nhân nghĩa ở đời
Cho cả nỗi sầu tư đau xót nữa.
Cho đến cả nhân tình, than ôi! Tôi cũng sợ
Là những trò giả dối của người ta"
Cũng chính bởi cái xã hội, phàm tục, ngột ngạt mà Thế Lữ đã tìm đến
nghệ thuật, tìm đến cái đẹp để trốn khỏi cuộc đời giả dối xấu xa. Thế Lữ đã
tìm đến với các Nàng: Từ Nàng mỹ thuật; Nàng Thơ; Nàng Ly Tao qua các
Nàng tiên, Nương tử ở cõi thiêng rồi quay lại mĩ nữ, giai nhân tuyệt sắc của
đời thường tục luỵ.
"Riêng cùng với Nàng thơ bầu bạn
Cái sung sướng phồn hoa tôi đã chán
...
Anh ta đi, đi tìm chỉ Ly Tao
Mà bấy lâu nay không biết trốn nơi nào"
(Tự trào)
Như vậy, cái đẹp trong quan niệm của Thế Lữ được cụ thể hoá bằng
hình ảnh đẹp trừu tượng. Theo Phạm Đình Ân đó là "cái đẹp siêu Việt mang
tính nữ". Cái đẹp đó vừa là nội dung quan niệm nghệ thuật của Thế Lữ, vừa là
hiện thực đối tượng cần chiếm lĩnh phản ánh của chủ thể sáng tạo.
Như vậy, từ bài thơ Nhớ rừng gây chấn động, có sức cảm hoá đối với
đông đảo bạn đọc đến với những bài thơ như Cây đàn muôn điệu, Tiếng sáo
thiên thai đăng báo Phong hoá và Ngày nay và cuối cùng tất cả những tác
phẩm ấy gom vào tập Mấy vần thơ (cùng với tập thơ Dòng nước ngược của
Tú Mỡ, là hai tập thơ đầu tiên của Tự lực văn đoàn do NXB Đời nay công bố
cùng năm 1935) đã trở nên một trong những đòn chủ yếu dứt điểm đánh bại
Thơ cũ, giành phần thắng hoàn toàn rực rỡ cho Thơ mới đồng thời đưa ra một
quan niệm nghệ thuật hết sức mới mẻ - những bản dạo đầu cho cả một phong
trào thơ sau này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
38
2.2. NHỮNG CÁCH TÂN VỀ HÌNH THỨC VÀ NỘI DUNG NGHỆ THUẬT
Như chúng ta đã biết chủ nghĩa lãng mạn ra đời là sự đoạn tuyệt với
nguyên lý sáng tác của chủ nghĩa cổ điển. Thi nhân lãng mạn là người mang lại
một tiếng nói mới trên thi đàn, là những người thổi bùng lên khát vọng sống
nơi trái tim con người bấy lâu bị vùi dập bởi những khuôn thước, luân lý xưa.
Ở buổi sơ khai của phong trào Thơ mới, trách nhiệm của người đi tiên
phong thật nặng nề. Thi sĩ lãng mạn đầu tiên, trước hết phải là người có
những sáng tạo vượt bậc để thoát khỏi những ràng buộc có tính chất quy
phạm của chủ nghĩa cổ điển từ hình thức đến nội dung để người ta có thể đặt
niềm tin vào tương lai của Thơ mới. Bằng cả tài năng và tâm huyết của mình,
Thế Lữ đã làm được điều đó. Ông đã mở ra một hướng đi mới cho thơ ca cả
về nội dung và hình thức biểu hiện.
Nhận xét về buổi đầu về phong trào Thơ mới, nhà nghiên cứu Trường
Chinh viết: "Khi phong trào Thơ mới nổi lên, Thế Lữ như vầng sao đột hiện
ánh sáng chói khắp cả bầu trời thơ Việt Nam thì phía bên kia vầng sao Tản Đà
mờ dần rồi lặn hẳn" [48, 454].
Có thể nói, phong trào Thơ mới sẽ chẳng thể dành được chiến thắng
nếu không có sự đổi mới về nội dung và hình thức nghệ thuật trong những
sáng tác của Thế Lữ. Trong phạm vi chương viết này, chúng tôi sẽ đề cập tới
sự cách tân ở một vài phương diện về cảm hứng sáng tạo và hình thức biểu
hiện để thấy rõ được vị trí, vai trò của Thế Lữ trong phong trào Thơ mới nói
riêng và tiến trình văn học 1930 - 1945 nói chung.
2.2.1. Thế Lữ - Một sự đổi mới về cảm hứng sáng tạo
2.2.1.1. Thiên nhiên
Thiên nhiên là hình ảnh gần gũi nhất của con người và cũng là đề tài
muôn thuở của thơ ca. Trời, mây, sông nước, cỏ, cây, hoa lá... luôn là đối tượng
để thi nhân ký thác tâm tư, là nguồn cảm hứng vô tận của muôn đời thi sĩ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
39
Để phục vụ cho ý tưởng "Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí" trong thơ cổ,
thiên nhiên không phải bao giờ cũng là đối tượng rung cảm nghệ thuật thiên
nhiên có khi chỉ là phương tiện để qua đó nhà thơ trình bày thuyết giảng về
đạo đức hoặc nói lên cái chí của người quân tử. Những bài thơ cũ ước lệ
nhiều quá, cách điệu hoá nhiều quá trở nên khô cứng, lời thơ gò gẫm quá,
văn hoa nhiều quá nên nhiều khi trở nên hời hợt và giả tạo. Mặt khác, thiên
nhiên trong thơ cổ lại thường bị gò bó bởi những hình ảnh tĩnh tại, khuôn
thước "phong, vân, tuyết, nguyệt" "tùng, cúc, trúc, mai" chỉ cốt để tạo nên
phẩm chất "thi trung hữu họa" nên bức tranh thiên nhiên nhiều khi tĩnh mịch
đến dửng dưng.
Vượt qua "thác ngụ cổ điển" trong thơ cổ, khắc phục lối "ngụ tình hời
hợt" trong một số tác phẩm văn xuôi Tự lực văn đoàn, Thế Lữ đã miêu tả thiên
nhiên sống động như nó vốn có và truyền thêm cho nó luồng sinh khí dào dạt
bằng cách cảm nhận riêng của một tâm hồn đa cảm. Thế Lữ là người đã biểu
hiện cách nhìn, cách cảm mới về thiên nhiên trong các thi phẩm của ông. Bắt
đầu từ Thế Lữ, thiên nhiên đã thực sự chuyển mình, thực sự sống động.
Tản Đà là thi sĩ báo hiệu và cũng là người mở đầu chủ nghĩa lãng mạn.
Mặc dù thơ ông vẫn chưa thoát khỏi ngôn từ của thơ truyền thống nhưng ông
vẫn được các nhà nghiên cứu đánh giá cao, coi ông là "khúc dạo đầu của bản
nhạc tân kỳ sắp sửa" là "thi nhân nối liền hai thế hệ tân và cựu" [20, 35]. Tản
Đà là người mạnh dạn dám đặt vấn đề "cái sầu" bên trang thơ thuở ấy. Đó là
nỗi sầu man mác "mù mờ của những đam mê khát vọng" [44, 569].
Tiếp nối cái sầu man mác trong thơ Tản Đà, Thế Lữ đã có cách nhìn,
cách cảm rất mới trong bức tranh thiên nhiên của ông. Bởi vậy, thiên nhiên
trong thơ Thế Lữ dù miêu tả ở bất kỳ trạng thái nào cũng đều mang một nỗi
sầu man mác.
Viết về thiên nhiên các nhà thơ từ xưa đến nay vẫn thường tìm cảm
hứng trong bức tranh thiên nhiên bốn mùa, trong đó mùa xuân được nói nhiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
40
nhất bởi có lẽ đây là thời điểm nhạy cảm của sự giao hoà đất trời khi tết đến
xuân sang, khi cỏ cây đua nhau đâm chồi nảy lộc.
Trong thơ ca truyền thống, chúng ta đã bắt gặp nhiều những áng thơ
hay viết về mùa xuân. Một bức tranh xuân tuyệt đẹp trong truyện Kiều của
Nguyễn Du:
"Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Một mùa xuân chứa nặng nỗi sầu của thi nhân trong thơ Tản Đà:
"Bính Tý sang mà Ất - Hợi qua
Đổi thay cũ mới khắp gần xa
Vui xuân thiên hạ bao nhiêu kẻ
Ngồi nhớ xuân xưa hoạ có ta"
(Ngày xuân nhớ xuân)
Là thi sĩ tiếp nối cái sầu man mác trong thơ Tản Đà nhưng vượt ra khỏi
cái tĩnh tại của thiên nhiên trong thơ cỗ, thiên nhiên trong thơ Thế Lữ thật
sống động, một thiên nhiên đang lay chuyển theo nhịp sống của thiên tạo:
"Ánh xuân lướt cỏ xuân tươi
Bên rừng thổi sáo một hai Kim Đồng
Tiếng đưa hiu hắt bên lòng
Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn"
(Tiếng sáo thiên thai)
Thiên nhiên ở đây thật là thi vị, rộn ràng màu sắc âm thanh:
"Ánh hồng tía rắc ngọc châu trên lá
Trời trong xanh chân trời đỏ hây hây
Tiếng chim xuân nhí nhảnh ở trong cây
Cảnh vui thế sao tôi còn buồn nữa?"
(Lựa tiếng đàn)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
41
Song giàu ấn tượng hơn cả phải kể đến những câu thơ viết về cảnh
thiên nhiên hùng vĩ và tráng lệ trong bài Nhớ rừng. Với biệt tài về hội họa của
mình, Thế Lữ đã mang đến cho chúng ta một bức tranh về cảnh thiên nhiên
tuyệt hảo mà nhân vật trung tâm ở đây là con hổ vị chúa sơn lâm nơi chốn
rừng xanh. Tất cả các cảnh sắc thiên nhiên từ cảnh đêm trăng - ngày mưa -
sáng xanh đến chiều tối cảnh nào cũng đẹp, cũng nên thơ. Bóng đêm như
được dát vàng dưới trăng và ánh bình minh tươi sáng tưng bừng toả rạng khắp
núi rừng. Trong khung cảnh nên thơ tuyệt diệu đó con thú đứng uống nước,
uống ánh trăng chan hoà vàng tan trong lòng suối; con thú thức giấc vươn vai
trong ánh sáng và âm thanh tưng bừng ríu rít của buổi ban mai; con thú lắng
nhìn cảnh núi rừng rung chuyển và thay sắc trong mưa, con thú chờ đợt trong
ráng chiều đỏ rực như mái và say mồi như say máu.
"Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới
Đâu những bình minh cây xanh nắng vội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt..."
(Nhớ rừng)
Có lẽ bên cạnh sự cách tân về giọng điệu, cấu trúc câu thơ, cách sử
dụng từ ngữ thì đổi mới trong cảm hứng sáng tạo của thiên nhiên đã đưa bài
thơ Nhớ rừng lên một trong những bài thơ hay nhất trong những bài thơ hay
của phong trào Thơ mới và nó là đòn "dứt điểm" khiến "hàng ngũ thơ xưa
phải sụp đổ" và đưa Thơ mới tới sự toàn thắng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
42
Mặt khác thiên nhiên trong thơ cổ thường gắn với tình - cảnh, cảnh -
tình, cảnh - sự. Mỗi khung cảnh, mỗi sự vật đều mang một ý nghĩa triết lý về
quan hệ con người và vũ trụ, trong khung cảnh đó con người thường đứng
một mình trong tư thế vọng sơn, vọng nguyệt, đối vân, đối thuỷ, đối hoa để
ngẫm nghĩ về cuộc đời. Một cành hoa đêm trước nở rộ là cái lẽ tự nhiên của
đất trời, nhưng cũng là phép nhiệm màu của triết lý tuần hoàn sắc, không,
động, tĩnh của nhà Phật. Một lối xưa, ngõ cũ vương hồng thu thảo, phủ bóng
tịch dương cũng là một dấu tích cho một thời đại đã qua là lưu ảnh của cái
nhất thời trong cõi vĩnh hằng.
Khác với thơ cổ, thơ Thế Lữ không đối sơn, vọng nguyệt mà tách mình
ra khỏi vũ trụ không cùng. Một thiên nhiên hết sức thơ mộng và tinh khôi đến
diễm lệ.
"Ánh chiều thu...
Lướt nhẹ mặt hồ
Sương hồng lam nhẹ lan trên sóng biếc
Rặng lau già xao xác tiếng reo khô
Như khua động nỗi nhớ nhung thương tiếc
Trong lòng người đứng bên hồ"
(Tiếng trúc tuyệt vời)
Có điều rất mới lạ trong thơ Thế Lữ chúng ta thường bắt gặp "áng
hương buồn" của "cô em" trong cảnh thiên nhiên dịu dàng êm ái, tràn đầy
nhựa sống. Nếu văn học trung đại lấy thiên nhiên làm trung tâm, là ngọn
nguồn để ban phát các phẩm chất của nó cho con người; thiên nhiên là điểm
tựa để hình dung ngoại hình con người thì trong thơ Thế Lữ thiên nhiên và
con người dường như có sự giao hoà với nhau. Quan sát thiên nhiên chúng ta
có thể hiểu được tâm trạng với mọi sắc thái, cung bậc buồn vui của con người.
"Chân gió nhẹ lướt qua làn sóng
Nắng chiều xuân rung động trên cành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
43
Mấy hàng cau yếu nghiêng mình
Cô em bỗng ngẩn ngơ tình vì đâu"
(Hồ Xuân và thiếu nữ)
Hình ảnh những "cô em" trong thơ Thế Lữ dường như luôn xuất hiện
để tô thêm vẻ đẹp cho bức tranh thiên nhiên, làm cho bức tranh thiên nhiên
không hề xáo động nhưng cũng không tĩnh lặng chút nào. Đó là bức tranh
thiên nhiên nhuốm màu sắc tâm trạng con người:
"Nhẹ nhàng em hái đoá hồng tươi
Dưới vẻ xuân chào buổi sớm mai
Trong lúc chim xuân mừng nắng mới
Nhuốm đào sắc trắng khóm hoa mai..."
(Hái hoa)
Có thể nói hình ảnh "cô em" trong thơ Thế Lữ là hình ảnh gợi mở cho
sự xuất hiện của các cô thiếu nữ trong thơ ca lãng mạn ở giai đoạn này. Đó là
hình ảnh cô thôn nữ trong thơ Hàn Mặc Tử, cô hàng xóm trong thơ Nguyễn
Bính, cô thiếu nữ trong thơ Xuân Diệu...
Viết về thiên nhiên, Thế Lữ viết cũng không nhiều nhưng đã để lại ấn
tượng thật đặc biệt trong lòng người đọc. Không tĩnh lặng đến dửng dưng như
thiên nhiên trong thơ cổ, không cổ kính man mác như Tản Đà và cũng không
thiên về những xào xạc nội tâm như Lưu Trọng Lư, thiên nhiên trong thơ Thế
Lữ là thứ thiên nhiên trong trẻo gắn với nỗi sầu man mác bâng khuâng của
hình ảnh những cô sơn nữ. Nếu Tản Đà, Lưu Trọng Lư là những thi nhân báo
hiệu về nội dung tâm tình trong thơ miêu tả thiên nhiên thì Thế Lữ rất thành
công việc miêu tả một thiên nhiên chứa đầy tâm trạng, một thiên nhiên gợi
cảm, gợi tình, mang màu sắc cá thể hoá rõ rệt. Những gì mà thi nhân miêu tả
trong hàng loạt bức tranh thiên nhiên hữu tình đa sắc ấy là kết quả của những
chiêm nghiệm, tìm tòi, sáng tạo và đặc biệt là trí tưởng tượng phong phú. Bắt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
44
đầu từ Thế Lữ, văn chương "duy lý" của chủ nghĩa cổ điển phải rút vào bóng
tối nhường chỗ cho thứ văn chương "duy cảm" của chủ nghĩa lãng mạn.
Cũng từ những bài thơ viết về thiên nhiên của Thế Lữ, các nhà thơ mới đã đi
sâu hơn để khám phá sự kỳ diệu của thiên nhiên, để ký thác tâm hồn mình
trong đó, để tạo ra những bức tranh thiên nhiên, giàu màu sắc tâm trạng với
những ngõ ngách của tâm hồn thi sĩ và tâm hồn con người. Đó là một thiên
nhiên trong cõi mộng mơ của Hàn Mặc Tử, một thiên nhiên đầy vũ trụ trăng
sao trong thơ Huy Cận và một thiên nhiên gợi đầy cảm giác ái ân trong thơ
Xuân Diệu.
2.2.1.2. Tình yêu
Như chúng ta đã biết, văn học lãng mạn là khuynh hướng thẩm mỹ lấy
việc khẳng định cái "tôi" cá nhân, cá thể làm nguồn cảm hứng chủ đạo, giải
phóng trí tưởng tượng và tình cảm, cảm xúc ra khỏi sự trói buộc của lý trí của
chủ nghĩa duy lý là đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa lãng mạn. Nó yêu thích tự
do, thích sự độc đáo phi thường, có hứng thú giãi bày cảm xúc mãnh liệt, đặc
biệt là nỗi buồn, đau, lòng sầu xứ, tình yêu đắm say... Một trong những đề tài
thích hợp với nó là Tình yêu. Và Thế Lữ một trong những đại diện tiêu biểu
cho khuynh hướng lãng mạn văn học Việt Nam 1930 - 1945 đã mang đến một
tiếng nói mới trên thi đàn văn học khi viết về đề tài này.
Trong văn học trung đại chúng ta đã bắt gặp những mối tình thơ mộng,
đắm say như tình yêu của Thuý Kiều - Kim Trọng, Lục Vân Tiên, Kiều
Nguyệt Nga, nhưng những mối tình này đều tan hợp theo các đạo làm người.
Thuý Kiều - Kim Trọng cách biệt nhau đến mười lăm năm cũng bởi "chữ hiếu
nặng hơn chữ tình" còn Lục Vân Tiên - Kiều Nguyệt Nga sánh đôi lại có
nguồn gốc từ chuyện đền ơn đáp nghĩa.
Với Thơ mới, tình yêu cũng là một "chuyện" rất mới. Ngay từ bài thơ
đầu tiên, bài Tình già của Phan Khôi với giọng điệu "dở thơ dở phú" bài thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
45
đã báo hiệu một sự thách thức, sự "nổi loạn" của Thơ mới, nó khác xa với thứ
ái tình của nhà nho đạo mạo xưa kia.
"Thương được chừng nào hay chừng ấy, chẳng qua ông trời
bắt đôi ta phải vậy
Ta là nhân ngãi, đâu phải chuyện vợ chồng mà tính chuyện
thủy chung"
(Tình già)
Đến với Thế Lữ thi nhân tiên phong của phong trào Thơ mới - được coi
là người đã "ca ngợi tình yêu một cách nồng nàn trước nhất" [26, 142] đã đề
cập tới tình yêu một cách mới lạ. Không phải ngẫu nhiên mà Hoài Thanh nói
Thế Lữ là "Giáo sư dạy khoa tình ái cho cả một thời đại" [102, 67].
Là thi sĩ của nền tân học, chịu ảnh hưởng sống từ phương Tây đưa lại.
Thế Lữ là thi nhân đầu tiên trong làng thơ Việt Nam khuyên người ta hãy
"yêu đi" mà tận hưởng mùa xuân của cuộc đời đừng để thời gian khắc nghiệt
cướp mất tuổi trẻ và dung nhan:
"Một ngày kia em ngắm lại dung nhan
Em sẽ cùng ta buồn trách thời gian
Tiếc cảnh vui qua, tiếc màu rực rỡ
Của xuân đời ngàn năm không về nữa
Vậy thì yêu đi, vui mãi, bạn lòng ơi"
(Nhan sắc)
Thơ Thế Lữ gieo vào lòng người đọc thời đó, đặc biệt là thế hệ trẻ một
triết lý sống mới. Đời người thật ngắn ngủi vì thế con người hãy gắng tận
hưởng những sắc màu chói lọi, rực rỡ của mùa xuân, trước khi thời gian làm
nó phai tàn. Chính khát vọng hưởng thụ tình yêu, tuổi trẻ trong thơ Thế Lữ là
sự khơi nguồn, là bước dạo đầu để sau này Xuân Diệu bộc lộ khát vọng yêu
đương một cách mạnh mẽ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
46
"Mau với chứ, vội vàng lên với chứ
Em ơi em, tình non đã già rồi
Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi
Mau với chứ thời gian không đứng đợi"
(Giục giã)
Trước Thế Lữ, khi viết về những mối tình dở dang trắc trở, các nhà thơ
thường đưa ra những nguyên nhân từ phía khách quan, đôi trẻ chỉ là nạn nhân
đáng thương. Ngay cả trong văn xuôi Tự lực văn đoàn cũng chưa thoát khỏi
môtíp quen thuộc ấy. Thế nhưng, Thế Lữ đã chỉ ra nguyên nhân của sự tan vỡ
tình yêu lại là ở phía chủ quan đó là quan niệm sống thiên về tiền tài, vật chất
của lớp trẻ:
"Nay biết ai cùng ngỏ nỗi niềm
Tình quân không dám ở cùng em
Yêu nhau, yêu cả trong gian khổ
Chàng hám vinh hoa mải miết tìm"
(Lời than của nàng Mỹ thuật)
Và đau đớn hơn là thứ tình cảm đắm say chân thành nhất cũng bị rẻ
rúm. Ngay cả thi nhân cũng bị phụ bạc trong tình yêu:
"Tôi muốn dâng tấm tình yêu tha thiết
Yêu say mê đắm đuối cho giai nhân
Nhưng lòng tôi chân thành, chỉ đằm thắm ái ân
Tôi chỉ giàu riêng về tình cảm
Thứ tiền tài mà không ai hám"
(Lời mỉa mai)
Có thể nói, Thế Lữ là thi nhân lãng mạn đầu tiên đã trực tiếp vạch rõ sự
tác động của tiền tài địa vị vào tình cảm con người mà trước đó Tản Đà, Lưu
Trọng Lư chỉ cất lên tiếng đau khi tình yêu tan vỡ. Sau này, Xuân Diệu là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
47
người tiếp nối đi sâu hơn khai thác, tìm hiểu sự phức tạp trong ngõ ngách tâm
hồn con người.
Một điều khác biệt so với văn học trung đại. Nếu các thi nhân xưa
thường bày tỏ thái độ phủ nhận thực tại bằng cách rút lui khỏi đời sống xã hội
sống cuộc đời ẩn dật, an nhàn, Thế Lữ muốn lên tiên giới, muốn ru hồn trong
nhạc điệu du dương của chốn thiên thai:
"Hoa lá cuồng bay, bướm loạn qua
Người tiên biến mất, khách trông ra
Mặt hồ nước phẳng nghiêm như giận
Một áng hương tan khói toả mơ"
(Vẻ đẹp thoáng qua)
Giấc mộng thoát lên tiên trước Thế Lữ đã có Tản Đà nhưng các thi
nhân trước coi thơ như là một phương tiện để ký khác tâm hồn mình. Còn các
nàng tiên trong thơ Thế Lữ hiện lên như một con người thực, đó là người bạn
lòng, tri âm, tri kỷ của thi nhân:
"Nàng thơ ơi! Nàng thơ ơi! Ta buồn lắm
Nắng gay gắt trên khóm sen không thắm
Gió thờ ơ không động bóng tàn cây
Lòng ta không âu yếm, không vui tươi
Không nhớ thương, không sôi nổi, than ôi!
Cũng không cả nỗi đắng cay tê tái
Nàng thơ ơi! tâm hồn ta trống trải..."
(Giục hồn thơ)
Đọc thơ Thế Lữ "Dù hình tượng thơ có khúc xạ, biến ảo bao lần qua
thế giới cảm xúc đi chăng nữa thì trước hết thơ vẫn là sự sống. Cắt đứt mối
liên hệ giữa thơ và cuộc đời thì tất cả mọi khuynh hướng tìm tòi sáng tạo của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
48
nhà thơ sẽ trở nên vô nghĩa" [32, 20]. Điều làm cho thơ Thế Lữ vững chắc
trên thi đàn, làm cho thơ Thế Lữ đi vào lòng người đọc là thơ ông dù mang
dáng dấp bồng lai tiên cảnh nhưng vẫn nặng lòng với cõi đời.
Nói đến sự đổi mới về mặt cảm hứng sáng tạo trong chủ đề tình yêu
của thơ Thế Lữ chúng ta không thể không nhắc tới niềm khao khát tự do,
khao khát hoà chung tình yêu với sự nghiệp chung:
"Vì chúng ta cũng biết yêu đương
Mà cuộc tình duyên gặp giữa đường
Trong lúc non sông mờ cát bụi
Phải đâu là hội kết uyên ương"
(Tiếng gọi bên sông)
Tiếng gọi tình yêu tha thiết, say mê là thế nhưng không làm nhụt bước
"chí bốn phương". Nếu trong văn học cổ điển, nước mắt người chinh phụ
thường ướt đẫm người ra đi thì đến thơ lãng mạn, đặc biệt là với vai trò mở
đầu của Thế Lữ, người vợ tỏ ra khẳng khái, chủ động trong cuộc tiễn đưa:
"Anh đi đường anh, tôi đi đường tôi
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi
Đã quyết không mong sum họp mãi
Bận lòng chi nữa lúc chia phôi
Non nước đang chờ gót lãng du
Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu
Lòng tôi phơi phới thôi thương tiếc
Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ"
(Giây phút chạnh lòng)
Có thể nói, sự đổi mới về mặt cảm hứng sáng tạo trong những bài thơ
viết về tình yêu của Thế Lữ, đã thắp lên một giá trị mới cho văn học lãng mạn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
49
giai đoạn đầu mở ra những khuynh hướng sáng tác mới "ăn nhịp với sự thay
đổi về cuộc sống tinh thần của người Việt một thời [26, 142] để rồi sau này
các nhà thơ mới như Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, dần khám phá sâu
hơn vào những ngõ ngách phức tạp, tinh vi hơn của tâm hồn con người.
2.2.1.3. Cõi tiên
Như trên đã trình bày trong sự thăng hoa đi kiếm tìm cái tôi của Thế Lữ
- thi sĩ đã cảm bao nhiêu mong đậu tới cõi mơ ước riêng lại bị chính nỗi đời,
cảnh đời lạnh lùng bẻ gãy. Chính vì thế đã tạo nên "thế giới bổ đôi", sự phân
cực trong thơ Thế Lữ giữa cõi thực và cõi tiên.
Tìm đến một cõi riêng cho mình, cho sự vẫy vùng xúc cảm, tâm tư đã
tạo nên một dấu ấn rất riêng của Thế Lữ trong phong trào Thơ mới.
Trước và sau Thế Lữ, Tản Đà và Hàn Mặc Tử đã nói đến cõi tiên
nhưng đối với họ, cõi tiên chưa phải là hình ảnh thiên nhiên trong một hệ
thống quan niệm sâu sắc về cái đẹp được thể hiện ở sáng tác, nhất quán với
sáng tác như ở Thế Lữ. Cõi tiên là nơi tập trung vẻ đẹp lý tưởng, là cảnh Bồng
lai tuyệt vời với không khí thơ mộng, huyền ảo, thoả mãn ước vọng của cái
"tôi" khao khát cái đẹp. Nhà nghiên cứu phê bình Hoài Thanh - Hoài Chân,
tác giả cuốn Thi nhân Việt Nam khi viết về Thế Lữ đã phải thừa nhận: "Ở xứ
ta từ khi có người nói chyện Tiên nghĩa là từ khi có thi sĩ (Thế Lữ) chưa bao
giờ ta thấy thế giới Tiên có nhiều vẻ đẹp như thế) [34-59].
Điều đó, cũng có nghĩa là Thế Lữ đã tạo ra một thế giới nghệ thuật
hoàn toàn mới, ở đó cõi thực và cõi tiên liên hệ với nhau, gắn kết với nhau
bằng tình yêu mang sắc thái thi nhân.
Mặc dù chịu ảnh hưởng rất nhiều của thơ ca lãng mạn phương Tây
nhưng Thế Lữ vẫn kế thừa di sản của thế hệ thơ cũ, cũng giống như nhiều thi
nhân xưa, Thế Lữ cũng có giấc mộng lên Tiên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
50
Trước đó Tản Đà - thi sĩ của "hai thế kỷ" (Hoài Thanh) đã tạo thành
các gạch nối vừa nổi loạn vừa tình si giữa đường biên của thơ ca trung đại và
hiện đại đã từng gửi chút tình được mang và vương vấn với cõi tiên:
"Lá đào rơi rắc lối Thiên thai
Suối tiễn, oanh đưa những ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai
Đá mòn rêu nhạt
Nước chảy, huê trôi
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ đây xa cách mãi."
(Tản Đà - Tống biệt)
Tiếng thơ của Nguyễn Khắc Hiếu tiên sinh đem đến chất cổ điển, mực
thước của thi pháp trung đại và giao hoà với chất lãng tử, phiêu lưu của cái
"tôi" bước vào thời hiện đại. Đọc thơ của bậc tiên tri ta thấy có cái gì đắm say
thành thực, cái khát vọng thành thực. Như lớp đàn em gần gũi của Tản Đà, thi
sĩ Lưu Trọng Lư từng gửi gắm tha thiết và rất đỗi chân thành: "Người thanh
niên Việt Nam ngày nay đương bơ vơ đi tìm thi nhân của mình như người con
đi tìm mẹ" [40].
Tản Đà mơ giấc mơ lên tiên để mà tình tự, giao duyên cùng người tiên
hay cũng chính là quay về với lòng mình để ước ao và tiếc nuối:
"Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi
Trần thế em nay chán nửa rồi
Cung quế đã ai ngồi đó chửa
Cành đa xin chị nhấc lên chơi"
(Muốn làm thằng Cuội)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
51
Thơ đến với cõi tiên của Thế Lữ không giống với Tản Đà, cũng không
giống với Bích Khê sau này. Bích Khê thi sĩ lãng mạn đã ngả sang màu sắc
của phái tượng trưng: coi trọng sắc màu, coi trọng nhạc điệu và ám ảnh bởi
những biểu tượng, sức nắm bắt hiện thực mới của các thi nhân thuộc trường
phái này. Hãy nghe Bích Khê trong Giấc mơ tiên:
"Hồn bay! Hồn bay! Hồn bay
Ngửa nghiêng tắm mát vàng lay nhạc đường
Đêm nay no ớn nguồn hương
Một trời thanh khí mười phương đa tình."
Bích Khê trong Giấc mơ tiên như muốn đập vỡ mọi cảm giác để gửi tới
niềm khát khao tiên giới. Cõi tiên mà dường như quá đỗi phàm trần. Bởi cõi
tiên đẹp nõn nà, bởi cõi tiên là nơi cất dấu những "hình tiên nga" gọi lòng
đắm say, mê luyến của thi nhân: Bởi tìm đến giấc "mơ tiên" là tìm đến niềm
"khoái lạc" ở trong "miền chiêm bao!".
Vì thế, thi nhân muốn giục giã lòng mình để tìm đến cõi tiên để cướp
lấy thời gian, cướp mây trời để thoả lòng khách đa tình "mười phương" phiêu
lãng. Ta nhận ra trạng thái khát khao say đắm và tận hưởng ngay trong lời,
trong giọng điệu ngập tràn cảm giác trong giấc mơ lên tiên của Bích Khê.
Nhận diện về cõi tiên - miền cảm xúc thẩm mĩ của Thế Lữ, đã có nhiều
người gặp gỡ trong thiên hướng đánh giá và có cách nhấn, cách phát hiện
riêng về thơ tiên của Thế Lữ cũng như dấu ấn của phong cách nghệ thuật
riêng của nhà thơ.
Lê Tràng Kiều có lẽ là người mang sự cảm nhận tinh không kém phần
tinh tế về thế giới Bồng lai trong thơ Thế Lữ. Trên Hà Nội báo số 24 ngày
17/6/36 ông nhận xét về Thế Lữ "Tôi thấy thơ Thế Lữ như phảng phất toàn một
vẻ Bồng lai nhà thi sĩ quả như người xưa đã nói là người có tinh cốt...". ...Bồng
lai đối với Thế Lữ chính là "quên hương thực" nơi đi về của Hồn thi sĩ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
52
... Có người bảo rằng: Thế Lữ là một người sống một cách rụt rè ấy rất
hợp với bài thơ "tiên" nhưng lại rất hại cho những bài thơ "phàm", những bài
thơ cần đưa lại cho người ta những phút đắm đuối [28].
Như thế, khi Thế Lữ "lưu luyến cảnh tiên trong tưởng tượng" hay "nói
chuyện tiên" thì đấy cũng chính là dấu hiệu đam mê mà chỉ có thi sĩ lãng mạn
với phóng hồn mình một cách thành thực đắm say tới miền mộng đẹp của
tưởng tượng ấy. Thế giới Bồng lai tiên cảnh được Thế Lữ tạo ra như "một thế
giới nghệ thuật hoàn toàn mới, ở đó cõi thực và cõi tiên liên hệ với nhau, gắn
kết với nhau bằng tình yêu mang sắc thái riêng của thi nhân" (Phan Trọng
Thưởng) [54]
Đến với cõi tiên - một mặt Thế Lữ tạo ra thế giới nghệ thuật riêng,
đồng thời thi nhân cũng bộc lộ được cảm xúc thẩm mĩ của mình mang dấu ấn
cái "tôi" riêng biệt.
Trước hết, cõi tiên trong thơ Thế Lữ là một không gian trong lành, tinh
khiết và thơ mộng. Ở đây không có vẻ đẹp huyền bí mê hoặc lòng người, sự
ngất ngây hướng về khoảng vọng tươi sáng nơi tiên giới.
"Ánh xuân lướt cỏ xanh tươi
Bên rừng thổi sáo một hai kim đồng
Tiếng đưa hiu hắt bên lòng
Buồn ơi! Xa vắng mênh mông là buồn"
Trước không gian xa vắng mênh mông ta cảm nhận được ở đó tiếng tơ
lòng ngân rung trong cảm giác êm ái, xao xuyến thật dịu, thật trong của một
tâm hồn bình tĩnh, than thản như chưa gợn đục nỗi sầu nhân thế.
Trong tập Mấy vần thơ - Thế Lữ đưa người đọc đến với cõi tiên thật
trong trẻo, tinh khiết, đến với cõi đi về gần gũi và cũng thật mơ màng siêu
thoát. Tiêu biểu: Tiếng trúc tuyệt vời, Tiếng sáo thiên thai, Hoa Thuỷ tiên,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
53
Vẻ đẹp thoáng qua... Sự hấp dẫn cõi tiên còn phảng phất mơ màng và ám
ảnh hồn thơ Thế Lữ trong khá nhiều thi phẩm của toàn tập thơ ông như
Tiếng gọi bên sông, Lựa tiếng đàn, Lời than thở của nàng Mỹ thuật, Cây
đàn muôn điệu....
Với Thế Lữ, bước vào cõi tiên là bước vào không gian thơm ngát
hương hoa, là tìm đến nguồn sáng đặc biệt, là bước vào miền thanh thản, ở đó
không gian khép mở đan hoà giữa hai cõi mơ - thực:
"Gió mây đuổi giấc mơ màng
Tỉnh ra thấy ánh trăng vàng bên chăn
Trước cửa sổ, đầy sân những bóng
Cành lá đen lay động vật vờ
Một cơn gió vội vàng qua
Sau hiên xào xạc mấy tờ chuối xanh
... Trời khuya rạng rỡ đìu hiu
Thoáng nghe lọt tiếng sáo diều trong trăng"
(Thức giấc)
Nếu đi tìm duyên cớ của giấc mơ siêu thoát Thế Lữ - giấc mơ lên miền
tiên giới thì nhiều khi ta lại nhận được sự hồi âm, lý giải từ chính thơ ông. Bởi
hơn một lần người thơ lặp lại ước muốn tìm tới nơi trong trẻo của hồn mình.
"Giận đời muốn khuất những trò đảo điên
Để lòng theo đám mây huyền
Mây đưa ta bước tới miền gió trăng"
(Mấy vần ngây thơ)
Đã có không ít những người khẳng định sự thoát ly trước hiện thực
cuộc đời là một dấu hiệu trốn tránh hiện thực song thực tế có muôn vàn cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
54
đến với cuộc đời của văn chương. Giấc mơ lên tiên của Thế Lữ cũng là cách
lọc đời, lắng hồn mà hướng về gốc thiện căn của con người.
"Một cánh rủ theo bao cánh khác
Quanh mình tấp tới trận mưa hoa
Theo lối hoa về rẻo bước lên
Chân đưa lần đến cảnh thần tiên
Đường cây uốn éo êm đềm phủ
Tàn lá xanh rờn ánh biếc xuyên"
(Mưa hoa)
Đến với cõi tiên trong thơ Thế Lữ ta bắt gặp cõi tiên hoà với cõi thực,
cảnh tiên đan với cảnh đời. Đó là sự giao hoà của hai thế giới thực - mộng
khiến hai cõi tiên - trần không còn ranh giới cách biệt:
"Hôm qua đi hái mấy vần thơ,
Ở mãi vườn tiên gần lạc Hồ.
Cảnh tĩnh, trong hoa chim mách lẻo,
Gió đào mơn trớn liễu buông tơ."
(Vẻ đẹp thoáng qua)
Thế giới cảnh tiên kia đâu có xa lạ mà cận kề với cuộc sống ở cõi đời
người. Xuân Diệu "bắt" đúng mạch tâm tính của Thế Lữ khi nhận xét về
mấy câu thơ trên "Đi chơi cảnh tiên" mà nói cụ thể là "hôm qua" chính xác
như vậy thì là cuộc đời đó thôi; và cuối bài kết bằng "người tiên biến mất"
trong một khung cảnh tiên thì là thẩm mĩ của nghệ sĩ, thi sĩ (đọc thơ Thế
Lữ - Xuân Diệu).
Khác với các nhà thơ khác, đến với cõi tiên, Thế Lữ không hề chủ
trương công - kênh - sự thoát ảo vì cõi tiên được thi nhân kéo gần về phía
cuộc đời, giữa cõi tiên và cõi đời nhiều khi chỉ là đường biên mong manh đủ
cho sức lay gợi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
55
Bài Hoa Thuỷ tiên, người thơ đã khéo tạo ra không khí chuyển giao
giữa hai cõi ấy. Mối tương giao giữa những đóa hoa thuỷ tiên với hình ảnh
tiên nữ chập chờn, khung cảnh thực nơi phòng sách của chàng Vân Sinh bỗng
thoắt nhập thành cung tiên cho sự hội ngộ tiên trần, rồi "ánh đèn rạng rỡ" bên
những "cụm hoa đào say sưa bừng nở" góp phần thức dựng cõi mơ tiên:
"Trong phòng sách, dưới ánh đèn rạng rỡ
Cụm hoa đào say sưa bừng mới nở
Như thiên nga vừa thức giấc thần tiên
Hoa thẹn thò gương mắt ngạc nhiên
Vì đã thấy Vân Sinh ngồi lặng đó
Tay nâng má đăm đăm nhìn cửa sổ"
(Hoa thuỷ tiên)
Có thể thấy trong tạo dựng không khí vừa ảo lại vừa thực cho không
gian tiên cảnh, Thế Lữ một mặt đạt được ở cảm quan tinh tế của thi nhân,
đồng thời vẫn những câu thơ ấy, người nghệ sĩ lãng mạn như cũng tạo ra một
không gian của kịch với cách bài trí đủ gợi của cảnh cùng với cả tâm thế và tư
thế cho nhân vật của mình.
Một điều khác biệt ở Thế Lữ khi đối diện giữa hai cõi thực - ảo nhà thơ
luôn giữ được trạng thái cân bằng sinh thái và tâm thế của con người, như
cảm nhận và phát hiện sự thanh lọc tinh thần từ chính bản thân con người.
Thậm chí ngay cả trong thế giới của sự đoạ lạc, khi con người chìm vào
không gian quyến rũ đến mê hoặc của ma tuý thì hình ảnh Tiên nga, cảnh Đào
Nguyên đâu chỉ dẫn vào sự mê đắm, lãng quên:
"Lung linh vàng dội cung quỳnh
Nhịp nhàng biến hiện những mình Tiên Nga
Chập chờn gần tưởng như xa
Ngọc reo muôn khúc đàn ca im lìm
Hàng châu lặng lẽ rơi chìm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
56
Dưới hồ trong vắt. Bên thềm đăm đăm
Hai cô lả lướt nghiêng nằm
Hai cô đứng thắp hương trầm hai bên
Khói huyền lên... khói huyền lên
Thuyền trôi lững thững. Đào nguyên đâu rồi."
(Ma tuý)
Như vậy, có thể khẳng định cõi tiên là miền cảm xúc nổi bật và tâm đắc
nhất trong thơ Thế Lữ. Nếu làm con số thống kê về những từ ngữ có liên quan
tới cõi tiên trong thơ Thế Lữ như cung tiên, cung trăng, cung nguyệt, Bồng
lai... hoặc những hình ảnh mang dáng vẻ tiên nữ như Ngọc nữ, Ngọc Châu,
Tiên Nga... Ta thấy không dưới 40 lần xuất hiện trong Mấy vần thơ của Thế
Lữ. Con số ấy cũng đủ để khẳng định thế giới tiên cảnh trong thơ Thế Lữ mặt
khác khẳng định sức liên tưởng bay bổng, lãng mạn của tâm hồn thi sĩ khi
hướng tới cái đẹp để hoà nhập với trạng thái tinh thần phóng khoáng, thanh
thản của tâm hồn nghệ sĩ. Mặt khác đó cũng là sự kiếm tìm những hình ảnh
quen thuộc của thiên nhiên, của sự sống được thanh lọc qua tình yêu thương
của chính nhà thơ.
Sự xuất hiện những nàng tiên nơi thượng giới cũng là hình ảnh quen
thuộc trong miền tưởng tượng của các nhà thi nhân. Song điều thú vị dưới lăng
kính của Thế Lữ những người đẹp ấy được ẩn hiện theo lớp lang như lớp kịch
vậy. Phải chăng sự hoà hợp giữa hai tố chất thi sĩ và kịch tác gia trong vai trò
đạo diễn đã giúp cho Thế Lữ biết đưa các nàng tiên tới đâu vào lúc nào và lúc
nào thì các nàng thoắt biến. Tiên nga ẩn hiện trong cảnh sắc dịu hiền của chốn
Bồng lai với những cung bậc bổng trầm réo rắt của tiếng sáo thiên thai.
"Theo chim tiếng sáo lên khơi
Lại thêm dòng suối bên người tiên nga
Khi cao vút tận mây mờ
Khi gần vắt vẻo bên bờ cây xanh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
57
Êm như lọt tiếng tơ tình
Đẹp như Ngọc nữ uốn mình trong không..."
(Tiếng sáo thiên thai)
Giai thoại đẹp phủ trong lớp sương mờ huyền thoại về chàng Từ Thức
gặp và bén duyên tiên đã được các thi nhân tài tử từ cổ chí kim khám phá
trong nghệ thuật như giấc mộng tình ái trên trần. Vậy mà Thế Lữ cũng mơ
màng xúc động:
"Vì bọn làm thơ hẳn sống lâu
Ta với nàng tiên ca hát mãi
Ngoài ra, còn có thiết chi đâu
Cho đến ngày ta phải ngược xuôi
Trong khi vất vả cũng không thôi
Nhởn nhơ ngâm hoạ cùng nương tử
Một cuộc tình thiêng giữa ở đời."
(Ngày xưa còn nhỏ)
Hoá ra cuộc hội ngộ trên trần trong thơ Thế Lữ mang một sắc điệu
riêng. Bởi đó là cuộc tri kỉ tương phùng, đối diện đàm tâm giữa cái đẹp với
thơ ca. Người thơ đâu chỉ chăm chú mà phóng lên cõi tiên xa vời thoát tục
mà đó là cuộc tình duyên ở giữa cõi đời. Phải chăng đó cũng chính là ước
nguyện của người nghệ sĩ hướng tới cái đẹp trong cuộc "kết giao hẹn đến
muôn ngàn kiếp".
Một nét rất mới lạ, rất riêng biệt trong thơ Thế Lữ là nhà thơ luôn tạo ra
một khoảng vọng mỹ nhân. Nhà thơ một mặt gọi ra không gian huyền diệu
với một không khí mơ màng với một lớp lang gợi cảm, một mặt như mời gọi
bóng hình giai nhân. Nét đẹp bất chợt hiện dần từ cặp môi tiên, bước chân
tiên hay đó là sự xuất hiện đầy ấn tượng "từ khung tối một nàng tiên kiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
58
diễm" - Nhà thơ luôn tạo một khoảng cách nhoà mờ, nhẹ thoáng mà lay động,
gợi cảm nhiều hơn là sự trực diện cụ thể:
"Chuông dứt tiếng, khói nao nao cuộn
Một áng hương qua... một tiếng thở dài
Của điệu tiên trong trẻo tuyệt vời
Se sẽ nổi - Bức rèm châu biến
Từ khung tối, một nàng tiên kiều diễm
Nhẹ bước ra, tươi như ánh bình minh
Đôi mắt đen, đắm đuối long lanh,
Như đôi ngọc huyền, sâu xa huyền bí."
(Hoa thuỷ tinh)
Đọc những vần thơ trên ta như đứng trước bức tranh tiên với những
đường nét thơ mộng, uyển chuyển của hoạ sĩ, thi sĩ Thế Lữ. Tất thảy cõi tiên,
người tiên, cảnh tiên cứ thấp thoáng mơ màng, thật ám ảnh.
Có thể thấy những bài thơ viết về cõi tiên của Thế Lữ đã là những làn
gió trong lành xua đi những nặng nề, u ám của cuộc sống đời thường. Những
bài thơ ấy dù là trong ảo mộng nhưng nó vẫn có dáng dấp gần gũi với cuộc
sống đời thường. Đó là nét mới độc đáo, thú vị và rất đáng trân trọng trong
thơ Thế Lữ.
2.2.2. Cách tân về hình thức (hình thức biểu hiện)
Nói đến hình thức là đề cập đến nhiều yếu tố trong đó có hệ thống thể
loại, ngôn ngữ, hình ảnh. Một lối thơ mới ra đời, đương nhiên song hành với
quan niệm thẩm mĩ là hình thức biểu hiện. Hình thức là sự hiện thực hoá ý
tưởng của nhà thơ. Thế Lữ đã có những cách tân táo bạo về hình thức biểu
hiện để đưa Thơ mới đến toàn thắng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
59
2.2.2.1. Đổi mới cấu trúc câu thơ
Do ảnh hưởng của tư duy khoa học phương tây, Thế Lữ đã có sự cách
tân táo bạo về mặt cấu trúc câu thơ làm nổi bật bản chất của sự vật hiện tượng.
Tìm hiểu thơ Thế Lữ ta thấy Thế Lữ đã sáng tạo ra những câu thơ định
nghĩa theo một công thức chung (danh từ + là + danh từ). Ví dụ như:
- Tôi chỉ là khách tình si
- Tôi là kẻ bộ hành phiêu lãng
(Cây đàn muôn điệu)
- Tôi chỉ là người mơ ước thôi
(Bên sông đưa khách)
- Tôi là một khách chinh phu
(Tiếng gọi bên sông)
- Thế Lữ là một chàng kỳ khôi
(Tự trào)
- Đó là một kẻ không nơi trú ẩn
(Con người vơ vẩn)
Trong công thức mà Thế Lữ đưa ra thì đại từ nhân xưng chỉ là một con
người cá nhân cụ thể, tự xưng cụ thể. Còn tân ngữ thì muôn hình vạn trạng,
lúc thì là người mơ ước hay khách tình si, lúc thì kẻ bộ hành hay một anh
chàng kỳ khôi không nơi trú ẩn. Điều này là nét mới lạ bộc lộ rõ cái "tôi" chủ
thể mà văn học trước đó chưa từng có.
Như đã nói ở trên, một trong những đóng góp của Thế Lữ vào trong
làng Thơ mới là phương pháp làm nổi bật tư duy logic. Khi đã chấp nhận tư
tưởng duy lý rồi thì khó có thể chấp nhận được một ý tưởng dừng lại chữ cuối
một câu thơ. Do đó, câu thơ của Thế Lữ không phải là một câu ngữ pháp mà
là một mảng thơ dài kiến trúc theo văn phạm tiếng Pháp kiểu như:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
60
"Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những buổi bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?
(Nhớ rừng)
Có thể nói đây là đoạn thơ hay nhất trong bài thơ Nhớ rừng, Thế Lữ
không sử dụng một câu ngắn mà sử dụng một mảng thơ dài để diễn rả nỗi nhớ
một thuở vàng son ngự trị một thời oanh liệt và nỗi thất vọng đau đớn, cay
đắng của chúa sơn lâm khi chợt tỉnh giấc mộng trở về với thực tại.
Hay trong bài thơ Cây đàn muôn điệu, Thế Lữ lại sử dụng cú pháp này
để miêu tả.
"Dáng yêu kiều tha thướt khách giai nhấn
Ánh tưng bừng linh hoạt nắng chiều xuân
Vẻ sầu muôn âm thầm ngày mưa gió,
Cảnh vĩ đại sóng nghiêng trời, thác ngàn đổ"
Nét mong manh thấp thoáng cánh hoa bay
Cảnh cỏ hàn nơi nước đọng bùn lầy
Thú án lạn mơ hồ trong ảo mộng
Chí hăng hái đua ganh đời náo động,
Tôi đều yêu, đều kiếm, đều say mê"
(Cây đàn muôn điệu)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
61
Một đoạn thơ chín dòng chỉ gồm có một câu văn phạm mà qua đó Thế
Lữ đã đưa ra cả một tuyên ngôn nghệ thuật. Miêu tả vẻ đẹp yêu kiều tha thướt
của giai nhân, vẻ rộn ràng của tiết trời mùa xuân, vẻ âu sầu của ngày mưa gió,
một cảnh vĩ đại, một nét mong manh, cảnh cơ hàn hay thú sán lạn... Thế Lữ
đã sử dụng kiểu cấu trúc này có tác dụng giải phóng tư duy lôgic ra khỏi
khuôn khổ gò bó của câu thơ cũ. Trong giới hạn chỉ có một câu, nhà thơ đã
đưa vào đó một thế giới muôn hình, muôn điệu mà câu thơ vẫn trong sáng. Đó
là cái tài của con người giữ ấn tiên phong.
Thơ trung đại thường chú ý đến hình thức của bài thơ, nào là bài thơ
nhất thiết phải năm bảy chữ trong một câu, nào là bài thơ chỉ đúng có bốn câu
hay tám câu... Do vậy trong một bài phải sử dụng triệt để nghệ thuật cô đọng,
hàm súc, dồn ý tứ vào câu chữ hay là thêm nhiều điển tích, điển cố ngắn gọn,
để người đọc tự mà tìm hiểu, hay nếu cần thì bỏ bớt các liên từ, giới từ, hư từ,
mà các cụ cho là không cần thiết. Cho nên nhiều khi câu thơ trở nên tối nghĩa
người đọc không sao hiểu nổi cho dù có cố công mà suy đoán. Ví dụ, như hai
câu mở đầu trong Cung oán ngâm khúc:
"Trải vách quế gió vàng hiu hắt
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng"
Phải chú giải rất nhiều về hai câu thơ này mà chưa chắc đã thuyết phục
được người đọc. Cũng vì nhu cầu diễn đạt được hết ý của mình nên trong thơ
Thế Lữ thường đề cao tính dư thừa. Trong câu thơ nhà thơ dùng rất nhiều hư
từ như: mà, trong lúc, vì chưng, phải đâu... Ví dụ như:
"Vì chưng ta cũng biết yêu đương
Mà cuộc tình duyên gặp giữa đường
Trong lúc non sông mờ cát bụi
Phải đâu là hội kết uyên ương"
(Tiếng gọi bên sông)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
62
Thế Lữ còn dùng lối "bắc cầu" thông dụng trong thơ Pháp cho câu thơ
trên chảy tràn xuống câu dưới thật là mới mẻ độc đáo:
"Lòng thơ xưa có ngón tay tiên
Mơn trớn: tai nghe tiếng dịu hiền
Trong cảnh gió đưa xuân sắc thẳm
Đa tình yêu vẻ đẹp thiên nhiên"
(Mộng tưởng)
Xuân Diệu trong bài Đọc thơ Thế Lữ đã nhắc lại rằng "thi sĩ đã có
những cách tân về hình thức. Cách ngắt câu chấm câu, thể hiện cho câu trên
tràn quàng xuống câu dưới các nhà thơ mới chúng tôi lúc ấy rất thú vị".
Ngoài ra, Thế Lữ đã tìm ra một cách thể mới cho Thơ mới, kiểu chấm
câu giữa dòng, ngắt câu giữa dòng và loại dòng có nhiều câu. Đó là cách tân
hết sức mới mẻ của Thế Lữ:
"Cảnh vắng trời hanh, giáng mái chiều
Buồn xa ngưng lại nỗi đìu hiu...
Bỗng đâu xao xuyến câu reo gió
Bụi chạy đường khô lá đuổi theo"
(Chiều)
"Nàng Thơ ơi! Nàng thơ! - Ta buồn lắm.
Nắng gay gắt trên khóm sen không thắm,
Gió thờ ơ không động bóng tàn cây;
Dưới trời xanh, mây quá trắng không bay"
(Giục hồn thơ)
Và
"Cao Thâm hỡi! Ôi vô cùng! Vô để!
Mây hằng bay, sóng hằng cuốn, gió không ngừng"
(Trước cảnh cao rộng)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
63
Sau này Xuân Diệu đã vận dụng rất thành công kiểu câu này, để diễn rả
sự gấp gáp, vội vã của tình yêu:
"Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm, em ơi".
(Tương tư chiều)
Để diễn tả Đêm xuân sầu ảo não, tuyệt vọng Chế Lan Viên cũng sử
dụng kiểu câu này:
"Trời xuân vắng. Cỏ cây rêu xào xạc,
Bóng đêm luôn hoảng hốt mãi không thôi"
(Đêm xuân sầu)
Những thay đổi cú pháp tạo điều kiện cho những thủ pháp nghệ thuật
khác như cho phép đảo chủ từ để tạo hình ảnh táo bạo, mới mẻ. Trong thơ ca
cổ ngày xưa cũng dùng lối đảo ngữ như vậy nhưng vẫn theo một công thức
chung ảnh hưởng cấu trúc chữ Hán, do vậy nghe vẫn rất giống nhau kiểu như:
"Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng gỏi cầm ve lầu tịch dương"
(Bảo kính cảnh giới - Nguyễn Trãi)
Hay:
"Xanh om cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ"
(Tức cảnh chiều thu - Bà Huyện Thanh Quan)
Nhưng đến Thế Lữ thì nghệ thuật lật ngược chủ từ trở nên đặc sắc,
không ai có thể táo bạo làm những câu như: "bên rừng thổi sáo một hai kim
đồng". Trong bài Nhớ rừng, Thế Lữ đã chủ tâm đảo chủ từ tạo nên một hình
ảnh chưa từng thấy:
"Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt"
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
64
Trong câu thơ có sự tân kỳ về hình ảnh "chết mảnh mặt trời" để nói về
lúc mặt trời lặn. Hình ảnh này gợi ra được cái nhìn táo bạo của con hổ muốn
dẫm nát cả vũ trụ. Ta thấy rằng Thế Lữ đã chuộng lối đảo ngữ như vậy và sử
dụng rất nhiều lần:
- Đỗ bờ sông trắng con thuyền bé
Cạnh lớp lau già, gió lắt lay"
(Bên sông đưa khách)
- Cơn gió thổi lá bàng rơi lác đác
Cùng rơi theo loạt nước đọng trên cành"
(Con người vơ vẩn)
Dường như Thế Lữ, thuở ấy có chủ tâm làm cho câu thơ Việt Nam trở
nên mới mẻ, phong phú mà sáng sủa - thi sĩ muốn tạo cho câu Thơ mới nhiều
khả năng nhất về mặt diễn đạt cũng như truyền cảm.
Để thoả mãn nhu cầu, Thơ mới còn tấn công vào những phép tắc của
Thơ cũ. Những câu thơ viết theo khuôn khổ, có hạn chữ, hạn vần đã không
thể đứng vững được. Hán từ đè nặng những điển tích, điển cố cầu kỳ, khuôn
sáo, ước lệ cũ mất dần đi, làm một bài thơ người ta không bị gò bó trong một
khuôn khổ có sẵn nữa. Thế Lữ đã chú ý mở rộng câu thơ cho hợp với độ ngân
nga, vang vọng, mênh mông của tiếng chuông:
"Sương lam gieo nỗi buồn mênh mông trên đồng vắng,
Nắng chiều xuân rung rinh trong cảnh trời yên lặng
Bỗng thong thả rơi một tiếng chuông chùa,
Ở chân trời hay trong cõi hư vô?"
Tuy Thơ mới không quy định về số câu, số chữ, cách gieo vần nhưng
trong thực tế, khi làm thơ các nhà thơ không khỏi tuân theo quy luật tự nhiên
của âm thanh tiết tấu vì thế họ thường đặt câu 5 chữ hoặc 10 chữ, phổ biến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
65
hơn cả và dần dần ổn định là thế thơ 8 chữ, Thế Lữ hay sử dụng thể thơ này
và có cộng đồng trong việc làm cho nó trở nên thuần thục:
"Suốt canh thâu đồng hồ treo bức vách
Thong thả đưa thong thả đếm từng giây
Rành rọt điểm trong lòng ta tĩnh mịch
Trong lòng ta u tối bóng mưa bay"
(Đêm mưa gió)
Thế Lữ đã tiếp thu và cải biến một cách mạnh bạo hình thức của thơ ca
dân tộc là ca trù kết hợp với nghệ thuật thơ ca phương Tây sáng tạo ra một
hình thức Thơ mới. Ngoài ra, thi sĩ còn sử dụng cách hiệp vần mới mẻ của thơ
pháp như:
Vần ôm:
Trời có những buổi bình minh êm lặng
Phấn hồng non phơn phớt dải chân mây
Những cô em có đôi má hây hây
Làm phai nhạt cả bầu trời buổi sáng
(Nhan sắc)
Vần giãn cách:
Hoa lặng sống trong đài, khoan độ nở
Cây âm thầm lá gượng xôn xao
Nương bóng tối muôn loài sâu nín thở
Thời gian qua, nghỉ bước trên từng cao
(Ý thơ)
Vần liên tiếp:
Lặng mà nghe ai nảy khúc sầu thương
Ngón tay rung, rụng động cả đêm sương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
66
Khiến trăng nước đắm say hồn ly biệt
Khiến trong gió ngưng đọng niềm thống thiết"
Tóm lại, Thế Lữ với các chất thơ buổi ban đầu mới mẻ ấy đã đóng góp
cho thơ ca Việt Nam về phương diện nghệ thuật. Sự phá bỏ khuôn khổ cũ của
thơ Đường luật đã làm cho thơ ca mang một khuôn mặt mới trẻ trung và tươi
sáng. Với cách dùng ngôn ngữ sáng tạo, Thế Lữ đã làm cho những câu thơ
của mình có nhiều ý tưởng táo bạo và kỳ lạ, nhịp và vần thay đổi tạo điều kiện
cho nhà thơ có thể giãi bày tâm sự một cách say sưa và phóng khoáng, không
bị gò bó như trước nữa. Tất cả những điều ấy càng khẳng định công lao mở
đường, khơi nguồn của Thế Lữ trong thời điểm Thơ mới đang đấu tranh với
thơ cũ để giành thắng lợi.
2.2.2.2. Phong phú về thể thơ
Là người "mở đường" của phong trào Thơ mới Thế Lữ đã đem đến sự
đổi mới, mạnh mẽ cho thơ ca và sự phong phú về thể thơ. Chỉ trong 48 bài thơ
in trong tập Mấy vần thơ tập mới (1941) ta thấy Thế Lữ sử dụng đến 11 thể
thơ. Nếu đem so sánh với tản Đà trước đó chúng ta dễ dàng nhận thấy: "Công
cách tân cho sự hình thành cái mới đúng với nghĩa của nó phải dành cho Thế
Lữ" (Lưu Khánh Thơ) [177-38].
Chúng ta cùng thống kê lại thể thơ trong những sáng tác của Thế Lữ:
- Thơ 8 chữ trường thiên có 4 bài (Ác mộng, Hoa thuỷ tiên, Trả lời,
Bóng mây chiều): tỷ lệ 4/48 8,5%.
- Thơ 8 chữ nhiều khổ có 7 bài (Khúc ca xuân, Bâng khuâng, Giục hồn
thơ, Ý thơ, Nhan sắc, Đêm mưa gió, Đàn nguyệt) tỷ lệ 7/48 14,9%.
- Thơ lục bát có 7 bài (Tiếng sáo thiên thai, Mấy vần ngây thơ, Bông
hoa rừng, Lời tuyệt vọng, Ma tuý, Sáng, Tối) tỉ lệ 7/48 14,9%.
- Thơ thất ngôn tứ tuyệt có 3 bài (Trưa, chiều, Nàng Thơ lạnh) tỉ lệ
3/48 6,4%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
67
- Thơ song thất lục bát có 2 bài (Thức giấc, Hồ Xuân và Thiếu nữ) tỉ lệ
2/48 4,25%.
- Thơ thất ngôn trường thiên có 12 bài: (Khúc hát bên sông, Lời than
của nàng Mỹ thuật, tiếng gọi bên sông, Ngày xưa còn nhỏ, Vẻ đẹp thoáng
qua, Hái hoa, Bên sông đưa khách, Tôi muốn đi, Mưa hoa, Yêu, Chiều bâng
khuâng, Đời thái bình), tỉ lệ 12/48 2,5%.
- Thơ năm chữ trường thiên có 1 bài (Mộng ảnh) tỉ lệ 4/48 2,1%.
- Thơ tự do có 10 bài (Nhớ rừng, Lựa tiếng đàn, Con người vớ vẩn,
Cây đàn muôn điệu, Lời mỉa mai, Tự trào, Trước cảnh cao rộng, Người
phóng đãng, Truỵ lạc, Tiếng trúc tuyệt vời) tỉ lệ 10/48 21,3% (chú ý: Thực
chất nhiều bài thơ tự do như Nhớ rừng, Lựa tiếng đàn, Con người vơ vẩn...
là thơ 8 chữ vần chân biến thể, hầu hết là các câu 8 chữ đôi khi dôi ra hoặc
bớt đi vài chữ).
Nếu so sánh với thể thơ của Tản Đà qua tập Tuyển tập Tản Đà Nxb văn
học, H. 1966. Tập thơ có tất cả 219 bài, phân bố như sau:
- Thơ thất ngôn bát cú Đường luật : 64 bài 29%
- Thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật : 14 bài 6,4%
- Thơ thất ngôn trường thiên : 14 bài 6,4%
- Hát nói : 15 bài 6,8%
- Lục bát : 31 bài 14%
- Song thất lục bát : 12 bài 5,5%
- Các thể điệu phong thi và ca khúc dân gian : 62 bài 28,5%
So với Thế Lữ, có thể thấy:
- Thể thất ngôn bát cú Đường luật là thể thơ chủ lực của Tản Đà, thì
hoàn toàn vắng bóng trong thơ Thế Lữ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
68
- Thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật còn được Tản Đà hay sử dụng
(6,4%) nhưng cũng không có trong Mấy vần thơ, 1935 chỉ đến Mấy vần thơ,
Tập mới 1941, Thế Lữ mới đưa vào.
- Thể hát nói được Tản Đà sử dụng nhiều (6,8%) nhưng không có
không thơ Thế Lữ (và thơ mới) song hát nói đã hoá thân thành thơ 8 chữ vần
chân tương đối tự do, nhiều khi là 8 chữ biến thể làm thành một thể rất mới
được Thế Lữ sử dụng rất thành công.
- Thể thất ngôn trường thiên (gồm nhiều khổ) được Tản Đà, thỉnh
thoảng sử dụng (6,4%) thì được Thế Lữ phát huy sử dụng khá nhiều (22,5%).
- Thể thơ lục bát có vị trí quan trọng trong thơ Tản Đà 14%, thì vẫn có
vị trí quan trọng trong thơ Thế Lữ ( 15%).
- Phong thất lục bát và các thể điệu gọi là "phong thi" và các khúc dân
gian được Tản Đà khai thác (28%) nhưng Thế Lữ hoàn toàn không sử dụng.
Và nhận xét trên đây đã cho thấy sự đổi mới mạnh mẽ của Thế Lữ về
mặt thể thơ: dứt khoát chối bỏ thể thất ngôn bát cú Đường luật, không đi vào
sử dụng nguyên vẹn các thể điệu ca khúc dân gian như Tản Đà, vẫn làm nhiều
thơ lục bát, phát triển mạnh mẽ thể thất ngôn trường thiên và sáng tạo ra thơ 8
chữ vần chân từ thể hát nói, sáng tạo ra thơ tự do, cải biên các thể thơ truyền
thống theo hướng hiện đại hoá. Đúng như lời Hoài Thanh - Hoài Chân trong
Thi nhân Việt Nam đã nhận xét "Thế Lữ đã làm rạn vỡ những khuôn khổ
ngàn năm không di dịch" [14-58].
Vậy, tuy là người gương cao lá cờ Thơ mới và mở đường cho nó, Thế
Lữ không chạy theo thơ tự do. Sự đổi mới ở thơ Thế Lữ tuy là rõ rệt mạnh
mẽ không chút rụt rè nhưng không phải vứt bỏ hình thức thể loại truyền
thống mà là đổi mới trong chiều sâu, trong cảm hứng thơ, trong cảm xúc, ở
phương diện hình thức thể loại Thế Lữ đổi mới nổi bật nhất là sự tìm tòi đổi
mới ở điệu thơ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
69
2.2.2.3. Nghệ thuật xây dựng hình ảnh bằng chất liệu hội hoạ
Phong trào Thơ mới ra đời thực sự đưa thơ ca vượt khỏi những ràng
buộc của quy luật cũ. Cũng từ đây một loạt các nhà thơ mới xuất hiện được
đông đảo độc giả lúc bấy giờ mến mộ như Thế Lữ, Huy Thông, Lưu Trọng
Lư, Xuân Diệu... Mặc dù vẫn có những nhược điểm về hình thức và mang
những âm điệu du dương một cách dễ dãi nhưng thành công của nó là sự đổi
mới trên thi ca truyền thống của dân tộc góp phần vào việc hiện đại hoá thơ
ca Việt Nam.
Cây bút của Thế Lữ thật nhiệm màu khi vẽ lên hàng loạt những bức
tranh sinh động, thi vị, hùng tráng và giàu giá trị tạo hình. Hoài Thanh đã
nhận xét rất tinh thế: "Người say theo những cảnh đẹp của trần gian muôn
hình muôn vẻ" [34-57]. Từ cảnh vĩ đại "sóng nghiêng trời, thác ngàn đổ" cho
đến "Nét mong manh thấp thoáng cánh hoa bay" tất cả đều hiện hữu trong thơ
Thế Lữ.
Vốn yêu thích và có sở trường về hội hoạ đã từng theo học một năm
trường Mỹ thuật Đông Dương. Dưới ngòi bút của Thế Lữ cảnh vật giống như
một bức tranh với gam màu vừa thắm tươi vừa dịu nhẹ mà thật tinh tế. Ngay
từ thuở nhỏ cậu bé Nguyễn Thứ Lễ đã nhìn thế giới xung quanh mình "như
gió hồng mơn, như nắng dịu" (Ngày xưa còn nhỏ) khi lớn lên lúc vui chơi nhà
thơ cảm nhận:
"Trong lúc chim xuân mừng nắng mới
Nhuốm đào sắc trắng khóm hoa mai"
(Hái hoa)
Khi nghe Tiếng trúc tuyệt vời, nhà thơ cảm nhận cái hay, cái đẹp của
tiếng sáo như:
"Sương hồng lam nhẹ lan trên sóng biếc
Rặng lau già xao xác tiếng reo khô
Như khua động nỗi nhớ nhung thương tiếc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
70
Trong lòng người đứng bên hồ
Nghiêng tựa mình cây dáng thẩn thơ"
Đọc thơ Thế Lữ, chúng ta thấy tâm hồn thi nhân thường bắt gặp con
mắt hoạ sĩ hoặc con mắt nhà điêu khắc. Chính sự gặp gỡ ấy đã làm cho bức
tranh thiên nhiên của ông mang tính biểu tượng cao. Đương thời, hoạ sĩ Trần
Bình Lộc đã mô tả một số bức tranh trong thơ Thế Lữ bằng vài nét phác hoạ
nhưng thật có hồn.
Bên cạnh những gam màu vừa thắm tươi vừa dịu nhẹ, ta còn bắt gặp
gam màu của chất liệu sơn dầu, sơn mài trong thơ Thế Lữ. Do chịu ảnh hưởng
một phần của văn xuôi nghệ thuật Phương Tây nên trong thơ Thế Lữ đã sử
dụng triệt để bút phát tả thực. Nhà thơ đã chiếm lĩnh hiện thực đến từng chi
tiết bằng con mắt của người hoạ sĩ nhạy cảm về màu sắc... Những nét tả thực
vừa có hình, vừa có bóng cụ thể mà vẫn lung linh khêu gợi - Cảnh trong mơ
được Thế Lữ miêu tả như những gì nhìn thấy ở thực tại:
"Từ khung tối mọt nàng kiều diễm,
Nhẹ bước ra tươi như ánh bình minh.
Đôi mắt đen đắm đuối long lanh,
Như đôi ngọc huyền sâu xa huyền bí.
Trên mình ngọc màu xanh lá mạ,
Uyển chuyển in theo nét uốn nhịp nhàng.
Rủ trên vai dải khăn lụa tươi vàng,
Buông lưu luyến trên đôi tay trắng muốt".
(Hoa thuỷ tiên)
Khi đứng trong Bóng mây chiều, Thế Lữ cũng đã vẽ được cả một bức
tranh sơn mài bằng thơ:
"Ánh vàng reo trên mặt hồ sóng gợn
Phản chiếu lên đôi má hồng mơn mởn"
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
71
Nhưng có lẽ đặc sắc và thành công hơn cả là cách xây dựng hình ảnh
trong bài thơ Nhớ rừng. Bút pháp lãng mạn của Thế Lữ dường như có dịp
tung hoành - Thế Lữ đã làm thơ bằng hồn thơ đầy tính hội hoạ. Chu Văn Sơn
đã có sự so sánh độc đáo " Nếu Hoàng Lập Ngôn vẽ con Hổ - Thế Lữ bằng
hội hoạ đơn thuần, thì Thế Lữ đã vẽ con hổ - Nhớ rừng bằng hội hoạ của ...
thơ. Trong nét bút Thế Lữ, người ta không chỉ thấy hoạ pháp của một hoạ sĩ
từng theo học mỹ thuật Đông dương mà trùm lên tất cả là thi pháp nghiêng về
tạo hình của thi pháp lãng mạn" [38-335].
Tính tạo hình trong bút pháp Thế Lữ chủ yếu thể hiện ở việc khắc hoạ
cái phi thường. Nhưng đặc sắc hơn cả là Thế Lữ tạo hình bằng thơ và vẽ lên
một bức tranh tứ bình tuyệt bút. Thực ra tứ bình là một lối tạo hình quen
thuộc từ cổ điển, người xưa thường khái quát một hiện thực toàn vẹn nào đó
vào bộ tranh gồm 4 bức. Thời gian thì xuân - hạ - thu - đông, thảo mộc thì
tùng - trúc - cúc - mai, nghệ thuật thì cầm - kỳ - thi - hoạ... nhưng bức tranh tứ
bình trong thơ Thế Lữ lại là chân dung khác nhau của một con hổ. Mỗi bức
tranh là một gam màu, một dáng điệu.
Bức thứ nhất thật thi vị:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan
Gam màu vàng lóng lánh của ánh trăng in trên suối vắng - Chúa sơn
lâm hiện ra như nhà thi sĩ của chốn lâm tuyền với cử chỉ uống ánh trăng tan
đây thơ mộng.
Bức thứ hai, chúa sơn lâm hiện ra như một minh đế trước giang sơn
của mình:
"Đâu những chiều mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới."
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
72
Đêm trăng đã nhường chỗ cho chiều mưa. Gam vàng đã chuyển qua
gam xám bạc điểm ánh tươi xanh. Đấng quân vương chốn rừng già đang
phóng tầm mắt bao quát toàn cảnh vương quốc đương thay da đổi thịt dưới sự
trị vì của mình, trang nghiêm, ưu tư và đầy kiêu hãnh.
Bức thứ ba, chiều mưa đã chuyển sang rạng đông, nền tranh đã rạng rỡ
cái gam màu thắm nắng bình minh. Chúa sơn lâm hiện trong dáng điệu vương
giả cứ nghiễm nhiên ưỡn mình trong giấc ngủ mà hưởng lạc thú nơi rừng
xanh của mình:
"Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng"
Bộ tứ bình khép lại bằng bức tranh đầy ấn tượng hơn cả:
"Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng,
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt.
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật..."
Bút pháp tả cảnh ở đây quá thực hiếm thấy trong thơ Việt Nam. Đọc
thơ mà người đọc ngỡ như xem tranh, từng nét vẽ hiện ra dưới từng câu thơ.
Nhận xét về Nhớ rừng Hoài Thanh viết: "Ta tưởng chừng thấy những chữ bị
xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường, Thế Lữ như một viên tướng
điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng lại
được" (Hoài Thanh - Hoài chân - Thi nhân Việt Nam).
Có thể nói "Thi trung hữu hoạ" là nét đẹp truyền thống của thơ ca cổ
Thế Lữ đã kế thừa tiếp nối việc xây dựng chất hoạ trong thơ đạt đến mức
tuyệt diệu. Từ bài thơ Nhớ rừng đến Cây đàn muôn điệu, Tiếng sáo Thiên thai
và sau tuyển thành tập Mấy vần thơ - Thế Lữ là người đầu tiên có sự sáng tạo
hết sức đặc sắc trong việc xây dựng hình ảnh thơ, góp phần làm nên khúc ca
khải hoàn cho phong trào thơ mới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
73
2.2.2.4. Tài hoạ trong nghệ thuật diễn tả âm thanh
Cùng với thế giới thiên nhiên và con người, thơ Thế Lữ còn có một thế
giới nghệ thuật đầy hấp dẫn. Bên cạnh việc xây dựng những hình ảnh đặc sắc
trong thơ, Thế Lữ còn tài ba với nghệ thuật diễn tả âm thanh trong thế giới thơ
ca của mình, đặc biệt là khả năng diễn tả tiếng đàn, tiếng sáo.
Đọc thơ Thế Lữ bên cạnh hình ảnh thơ đặc sắc ta thấy âm thanh vang
lên rộn ràng, ríu rít lúc bổng lúc trầm, thánh thót ngân nga ở mọi nơi mọi lúc.
Theo nghiên cứu của T.S Phạm Đình Ân: "Trong tập thơ có 48 bài thì 41 bài
nói đến âm thanh, chiếm tỉ lệ 87%. Chỉ có 7 bài không có âm thanh hoặc âm
thanh ẩn, đó là: Yêu, Nhan sắc, Bên sông đưa khách, Tự trào, Mộng ảnh,
Nàng thơ lạnh, Sáng" [83].
Như vậy, biện pháp hữu hoà âm thanh là nét chủ đạo trong thế giới thơ
Thế Lữ, điển hình là hai bài Tiếng sáo thiên thai và Tiếng gọi bên sông với
những câu thơ đầy gợi cảm.
"Khi cao vút tận mây mờ,
Khi gần vắt vẻo bên bờ cây xanh.
Êm như lọt tiếng tơ tình,
Đẹp như Ngọc nữ uốn mình trong không"
(Tiếng sáo thiên thai)
- Tiếng hát trong như nước ngọc tuyền
Êm như hơi gió thoảng cung tiên
Cao như thông vút, buồn như liễu,.
Nước lặng mây ngừng ta đứng yên.
(Tiếng gọi bên sông)
Lê Tràng Kiều đã từng so sánh tiếng đàn, tiếng sáo của Thế Lữ với
tiếng đàn của Thuý Kiều dưới tài nghệ miêu tả của Nguyễn Du và đã nhận xét
"Cái tài nghệ của Thế Lữ về phương diện này quả không kém Nguyễn Du là
mấy (...). Nếu tiếng sáo của Thế Lữ kém phần thâm trầm réo rắt thì nó lại lơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
74
lửng, vắt vẻo hơn" [87]. Hoàng Như Mai nhận xét tương tự, ông cho rằng
Nguyễn Du so sánh âm thanh với âm thanh, còn "Thế Lữ lại diễn tả âm thanh,
hình ảnh những vật thể bằng mắt (thị giác) để bằng những cảm giác, cảm xúc
tạo ra bởi hình ảnh, ta cảm thụ âm thanh" (Tạp chí Thế giới mới số 120-
1/1995).
Có lẽ ngoài Nguyễn Du và Thế Lữ không ai có thể tả "tiếng" âm thanh
hay đến thế. Thật là hai bậc kỳ tài của hai thế hệ.
Nghiên cứu thế giới nghệ thuật âm thanh trong thơ Thế Lữ, T.S Phạm
Đình Ân đã chỉ rõ: "Có 3 loại âm thanh thuộc ba khu vực hiện thực. Về nghệ
thuật, đó là: Tiếng hát, tiếng ngâm họa, tiếng đàn, tiếng sáo... Về thiên nhiên:
tiếng chim, tiếng ve, tiếng dế, tiếng mưa, tiếng sóng. Về cuộc sống hàng
ngày: tiếng buồn, tiếng thở dài, tiếng khóc than, tiếng ân hận, tiếng ồn ào,
tiếng đùa cười... [84]
Đặc biệt có những bài thơ tần số âm thanh xuất hiện rất cao 19 lần
(Hoa thuỷ tiên và Bóng mây chiều), 15 lần (Tiếng gọi bên sông; Lựa tiếng
đàn, Khúc ca hoài xuân):
"Tiếng ve ran trong bóng cây râm mát
Giọng chim khuyên ca ánh sáng mặt trời
Gió nồng reo trên hồn sen rào rạt.
Mùa xuân còn hết? Khách đa tình ơi"
(Khúc ca hoài xuân)
"Tiếng địch thổi đâu đây
Cớ sao nghe réo dắt?
Lơ lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt
Mây bay, gió quyến mây bay...
Tiếng vi vút như khuyên can, như dìu dặt
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may"
(Tiếng trúc tuyệt vời)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
75
Tiếng là vô hình thế nhưng Thế Lữ làm cho nó trở nên có hình bóng,
Thế Lữ làm cho tiếng sáo trở nên có thần thái, có hồn y như con người vậy.
Quả đúng như lời Hoài Thanh nhận xét Thế Lữ là "Người đã khéo tả hình sắc,
lại khéo tả âm thanh" (Thi nhân Việt Nam).
Cùng với cách xây dựng hình ảnh đặc sắc và sự tài ba trong nghệ thuật
diễn tả âm thanh đã làm nên sự độc đáo và mới mẻ trong thế giới thơ Thế Lữ
góp phần đưa phong trào thơ mới đến sự toàn thắng.
2.2.2.5. Nhạc điệu trong thơ Thế Lữ
Thơ cổ điển cũng có tính nhạc, nhưng tính nhạc này có tính cố định
theo luật bằng - trắc, theo cách gieo vần... đến Thơ mới, tính nhạc đã có sự
biến hoá đa dạng mang dấu ấn cá nhân. Thế Lữ đã đưa tính nhạc vào trong
thơ thật tế nhị. Tính nhạc đó thể hiện điệu tâm hồn riêng của nhà thơ trước
thực tại. Điều đó đã tạo cho thi nhân có một phong cách riêng.
Trong phong trào Thơ mới, khá nhiều nhà thơ quan tâm tạo tính nhạc
trong thơ. Nếu trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư có sự kết hợp tài tình của
âm thanh, hình ảnh tạo nên một âm điệu trong trẻo, êm dịu và mở ra một nền
nhạc thật trong sáng:
"Em không nghe mùa thu
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp lên lá vàng rơi"
Thơ Xuân Diệu miêu tả âm thanh bằng cảm giác âm nhạc bên trong:
"Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ lời
Đàn ghê như nước lạnh trời ơi
Long lanh tiếng sáo vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người"
(Nguyệt Cầm)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
76
Đến với Thế Lữ nhà thơ đã dùng những câu thơ hỗn hợp, nhịp điệu
biến hoá để diễn tả tính nhạc:
"Tiếng địch thổi đâu đây
Cớ sao mà réo rắt
Lơ lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt
Mây bay, gió quyến mây bay
Tiếng vi vút như khuyên van, như dìu dắt
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may"
(Tiếng trúc tưyệt vời)
Hai câu thơ 5 chữ, tiếp đến là 4 câu thơ dài cùng với sự kết hợp bằng
trắc đã gợi rõ nét âm thanh trầm bổng của tiếng sáo. Việc lặp lại một số phụ
âm đầu gợi tiếng gió (vi, vút, van, dìu dặt, hắt hiu) tạo cảm giác réo rắt của
tiếng sáo trúc bay bổng dìu dặt diệu kỳ. Khám phá hình thức nghệ thuật thơ
Thế Lữ nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ "Thế Lữ là người đã xông xáo đi tìm
điệu mới cho thơ" [64-559].
Nghiên cứu tính nhạc trong thơ Thế Lữ T.S Phạm Đình Ân cho rằng có
hai loại nhạc điệu: đó là nhạc điệu cuồn cuộn trào dâng và nhạc điệu ngân nga
trầm lắng.
Trong nhạc điệu cuồn cuộn trào dâng ta bắt gặp nhiều cung bậc khác
nhau: sôi nổi dào dạt (Lựa tiếng đàn, Cây đàn muôn điệu), uyển chuyển bồng
bềnh (Tiếng trúc tuyệt vời, Tiếng sáo thiên thai, Vẻ đẹp thoáng qua, Ý thơ,...)
ngân nga trầm lắng (Tiếng gọi bên sông, Lời than của nàng Mỹ thuật, Đàn
nguyệt...) nhưng có lẽ nhạc điệu cuồn cuộn trào dâng hơn cả là Nhớ rừng:
"Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
77
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng."
Và nhạc điệu ngân nga, trầm lắng của Giây phút chạnh lòng:
"Năm tháng theo tiếng gọi lên đường
Tóc lộng tơi bời gió bốn phương
Mấy lúc thẫn thờ trông trời lại
Để hồn mơ tới bạn quê hương"
Có thể nói ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện của văn học. Ngôn ngữ
trong văn học nói chung, thơ Thế Lữ nói riêng được thi sĩ dày công mài giũa,
tinh luyện từng âm từng chữ. Ngôn ngữ trên từng trang thơ của ông đầy tính
hình tượng và hàm xúc, đạt đến điển hình cho sự tinh tuý của ngôn ngữ văn
học. Vần cũng là yếu tố tạo nhịp làm tăng tính nhạc. Khác với thơ cổ điển, thơ
Thế Lữ không bắt buộc lắm yêu cầu niêm luật hoặc có bỏ qua yêu cầu thanh
điệu nhưng lại có sự kết hợp bằng - trắc hết sức độc đáo (điều này sẽ nói rõ
hơn ở phần cấu trúc thơ).
Nhạc điệu là phương tiện quan trọng để cấu tạo hình thức nghệ thuật
thơ trữ tình. Trong thơ Thế Lữ, nhịp điệu là sự lặp lại đều đặn và có sự đắp
đổi các hiện tượng ngôn ngữ, hình ảnh, mô típ... nhằm thể hiện sự cảm nhận
thẩm mỹ về thế giới sáng tạo ra cảm giác vận động của sự sống, chống lại sự
đơn điệu tạo chất say cho thơ. Nó vừa có cái xác định cụ thể, vừa như mơ hồ,
xa xôi. Bởi vậy khi đọc những câu thơ trong bài Tiếng sáo thiên thai, Vũ
Ngọc Phan nhận xét "Có thể nói tất cả những sự rung rinh, nhịp nhàng đều ẩn
hiện trong các bài thơ của Thế Lữ. Người đọc cảm thấy cái buồn bát ngát như
nghe một thứ âm nhạc lạ lùng kì diệu".
Có thể khẳng định nhạc điệu chung nhất trong thơ Thế Lữ là uyển
chuyển, nhịp nhàng và du dương. Từ Nhớ rừng đến Cây đàn muôn điệu,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
78
Tiếng trúc tuyệt vời... và Lời than thở của nàng Mỹ thuật, chúng ta đều bắt
gặp bản hoà nhạc du dương đó:
"Em đứng em buồn cạnh khóm lau
Khóm lau than trước gió đêm thâu
Gió thâu khóc với trăng thâu lạnh
Anh biết tình quân em ở đâu?"
Các câu thơ nối ý nhau liên tiếp, sự hiệp vần các từ au - âu móc dính
vào nhau kéo đi như lớp sóng âm nhạc. Khiến nỗi nhớ thương, mong ngóng
hiển hiện giữa trời đất mênh mông chẳng bao giờ nguôi.
Sự sinh động nhạc điệu còn thể hiện rất rõ trong hai câu thơ:
"Trời cao xanh ngắt, ô kìa
Hai con hạc trắng bay về bồng lai"
(Tiếng sáo thiên thai)
Hai chữ "ô kìa" được tách hẳn câu thơ tạo ấn tượng ngạc nhiên, lạ lẫm,
nhạc điệu trở nên du dương, trầm lắng.
Như vậy, nhạc điệu là một yếu tố hết sức quan trọng làm nên diện mạo
của phong trào Thơ mới nói chung và hồn thơ Thế Lữ nói riêng. Cái làm nên
nhạc điệu trong thơ Thế Lữ là sự liên tưởng của tổ chức, âm thanh với cảm
giác âm nhạc trong lòng người. Và chỉ khi nào nhận ra mối liên hệ ấy mới
cảm thấy tính nhạc trong thơ Thế Lữ điêu luyện và đặc sắc biết nhường nào.
2.3. TIỂU KẾT
Thế Lữ, nhà thơ buổi ban đầu ấy đã đóng góp cho thơ ca Việt Nam về
phương diện nghệ thuật thật độc đáo. Bên cạnh những bài báo mang tính lý
thuyết Thế Lữ đã khẳng định sự có mặt của Thơ mới là một nhu cầu tất yếu
bằng những thi phẩm của mình. Những thi phẩm ấy mới mẻ về nội dung, và
hình thức nghệ thuật. Đặc biệt những cách tân hết sức mới mẻ ở hình ảnh,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
79
nhịp điệu, thể thơ, cách thể hiện cái tôi đã phá bỏ khuôn khổ của thơ cũ làm
cho thơ ca mang một vẻ mặt mới, trẻ trung và tươi sáng với cách dùng ngôn
ngữ sáng tạo, Thế Lữ đã làm cho những câu thơ của mình có nhiều ý tưởng
táo bạo và kỳ lạ, nhịp và vần thay đổi tạo điều kiện cho nhà thơ có giãi bày
tâm sự của mình một cách say sưa và phóng khoáng. Tất cả những điều ấy
càng khẳng định công lao mở đường, khơi nguồn của Thế Lữ trong thời điểm
Thơ mới đấu tranh với thơ cũ để giành thắng lợi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
80
Chương 3
THẾ LỮ VỚI NHỮNG ĐÓNG GÓP VỀ
VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT
3.1. THẾ LỮ VỚI THỂ LOẠI VĂN XUÔI MỚI
Thế Lữ là nghệ sĩ tiên phong với nghĩa trọn vẹn nhất của hai chữ tiên
phong đó. Ông say mê với những bước mở đường, đắm say cùng hoa trái đầu
mùa. Bản tính ấy giải thích những chặng đường trong văng nghiệp của Thế
Lữ. Ông làm thơ mới khi Thơ mới chưa có nền, viết truyện trinh thám, truyện
quái dị khi thể loại này chưa có móng. Và khi nền móng của thơ ca, của
truyện trinh thám, ly kỳ đã vững rồi thì Thế Lữ lại chuyển sang xây kịch nói -
một thể loại chưa có truyền thống trong văn học nước ta.
Nếu như trong thời kỳ rạng đông của Thơ mới, Thế Lữ đã đưa ra hoặc
đã phát triển những cách tân phù hợp với nhu cầu của thời đại, mở đường cho
bút pháp nhiều nhà thơ đến sau thì ở địa hạt văn xuôi, công lao của Thế Lữ
cũng được khẳng định không kém. Ông là tác giả của những "truyện lạ" theo
kiểu Etgopô và những truyện trinh thám mà "cho đến nay trong lịch sử văn
học Việt Nam không thấy có tên tuổi nào đáng được xếp bên cạnh Thế Lữ
trong loại sáng tác khá độc đáo này" [44-21].
Những truyện trinh thám, truyện đường rừng của Thế Lữ từ Vàng và
Máu (1934); Bên đường Thiên lôi (1936)... đến Lê Phong phóng viên (1937);
Mai Hương và Lê Phong (1937); Đòn hẹn (1939); Gói thuốc lá (1940); Gió
trăng ngàn (1941); Trại Bồ Tùng Linh (1941) được các nhà nghiên cứu nhắc
đến như một nhân tố quan trọng đã góp phần làm nên diện mạo riêng trong
nghiệp thơ văn Thế Lữ.
Nguyên nhân khiến ngòi bút Thế Lữ hướng vào thể loại truyện trinh
thám, truyện ma quái rùng rợn thì có nhiều nhưng có lẽ nguyên nhân chủ yếu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
81
vẫn là các bản tính giàu tưởng tượng, ưa khám phá trong ông. Thế Lữ từng
tâm sự "Cái ý phá những lề lối trói buộc là nhất quán trong tôi - Trước đây
khi tôi viết truyện, tôi cũng muốn phá thói quen ấy. Trong người mình chất
chứa những tình cảm mạnh mẽ về yêu đương, nhưng đương thời có bao nhiêu
người viết truyện tình rồi, mình còn viết làm gì nữa. Cho nên, tôi tìm kiếm về
một phía khác, một mạch khác" [48-19].
Thêm nữa, Thế Lữ là một trong những nhà tân học đầu thế kỷ XX đã
sớm tiếp xúc với nền văn hoá phương Tây, chịu ảnh hưởng trực tiếp của nền
văn minh công nghiệp mà tiêu biểu là văn hoá Pháp. Ngay từ những năm
1929 - 1930, khi còn là sinh viên trường Mỹ thuật, Thế Lữ đã cùng với một số
bạn bè như Vũ Đình Liên, Trần Bình Lộc, Nguyễn Đỗ Cung, Ngô Bích San,...
tổ chức một "Salon" văn chương nhỏ để tập viết văn quốc ngữ, dịch các tiểu
thuyết nổi tiếng của Pháp ra Tiếng Việt. Những tác phẩm văn chương có giá
trị của Pháp như: Những người khốn khổ của V.Huygô, Người đi đánh cá biển
khơi của PieLôti, Không nhà của HectoMalô... đã được Thế Lữ cùng các văn
sĩ trong "Salon" văn học của ông dịch và giới thiệu với độc giả Việt Nam.
Công việc dịch thuật như vậy tất nhiên sẽ có ảnh hưởng nhất định đến văn
xuôi của Thế Lữ đặc biệt là cách kết cấu tác phẩm đến cấu trúc câu văn... Sự
ảnh hưởng này được biểu hiện rõ nhất trong những văn cảnh mà Thế Lữ miêu
tả. Những cảnh rùng rợn ly kỳ trong truyện Thế Lữ có bắt nguồn từ cảm hứng
khi ông dịch truyện nhưng cũng có thể cảm hứng từ cảnh rừng núi xứ Lạng -
nơi ông đã sống suốt thời thơ ấu.
Cho dù những câu truyện trinh thám, truyện kinh dị Thế Lữ có bắt
nguồn từ cảnh hứng sáng tạo nào đi nữa thì chúng ta đều phải thừa nhận một
điều rằng ông là một văn sĩ có trí tưởng tượng dồi dào và một nhiệt huyết
sáng tạo đến say mê.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
82
Trong giai đoạn lịch sử Việt Nam đầy biến động những năm 30, trong
thời điểm các tác giả Việt Nam đang lao tâm khổ tứ tạo ra những cách tân phù
hợp với xu hướng vận động của cuộc sống ở mọi lĩnh vực khoa học, văn xuôi
Thế Lữ có những đóng góp đáng kể cho văn học Việt Nam 1930 - 1945 nói
riêng và cho cả tiến trình văn học của đất nước nói chung.
Cùng với các văn sĩ lãng mạn khác trong nhóm Tự lực văn đoàn và các
nhà văn hiện thực phê phán, văn xuôi Thế Lữ đã góp phần làm cho văn học
Việt Nam phong phú hơn về mặt thể loại.
Ở một thời điểm xã hội với những đổi thay sâu sắc và đứng trước một
tầng lớp độc giả mới cả về nhận thức lẫn thị hiếu thẩm mĩ, thì những câu
chuyện tình ngang trái trong văn chương Tự lực văn đoàn hay những cảnh đời
mòn mỏi, tăm tối bùn lầy nước đọng trong văn học hiện thực phê phán được
độc giả chấp nhận dễ dàng là một điều dễ hiểu. Còn những truyện trinh thám,
truyện kinh dị của Thế Lữ được người ta "đón nhận và tìm đọc một cách thích
thú" [44-21] thì chắc chắn phải có lý do riêng của nó. Những truyện trinh
thám, ly kỳ ấy của Thế Lữ chắc hẳn không phải thuộc loại "tiểu thuyết ba
xu...", "tiểu thuyết ăn dỗ tiền trẻ con" [48-51] như một số truyện trinh thám,
kiếm hiệp đã xuất hiện trong các chợ trời văng chương lúc bấy giờ.
Các nhà nghiên cứu, phê bình văn học đều đánh giá cao giá trị văn xuôi
Thế Lữ, thậm chí nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan còn coi ông là "tiểu thuyết
gia có biệt tài" [26-153].
Để làm sáng tỏ công lao của Thế Lữ ở loại sáng tác khá độc đáo này.
Trong chương này chúng tôi tiến hành nghiên cứu bằng cách tiếp cận văn
xuôi Thế Lữ ở mảng tiểu thuyết trinh thám và những truyện mang yếu tố
"kinh dị" nhằm khẳng định công lao và vị trí tiên phong không chỉ ở lĩnh vực
thơ ca mà ở cả địa hạt văn xuôi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
83
3.2. TRUYỆN TRINH THÁM
3.2.1. Nguồn gốc truyện trinh thám
Theo các nhà nghiên cứu, truyện trinh thám và truyện đậm yếu tố
trinh thám hiện đại trên thế giới có lịch sử khoảng dưới hai trăm năm, xuất
hiện gần như đồng thời ở nhiều nước vào đầu thế kỷ XIX với các tên tuổi
tiêu biểu như nhà văn Mỹ E.A.Poc, nhà văn Pháp Onoréde Balrắc, các nhà
văn Anh Saclơ Dickenxơ với các nhân vật thám tử siêu hạng Sherlock
Holmes... Người được coi mở đầu là nhà văn Mỹ E.A.Poc do ông có những
tác phẩm hoàn chỉnh sớm nhất về loại hình, gây ấn tượng sâu sắc bởi hình
tượng viên thám tử danh Dupin.
Sau này, tiểu thuyết trinh thám rất phát triển ở Anh mà tên tuổi tiêu
biểu là Agatha Chiristic (1890 - 1976) với hình tượng thám tử Hoccull Poirot.
Lịch sử văn học thế giới cũng ghi nhận các tên tuổi khác nổi bật là nhà văn
Pháp (gốc Bỉ) Geoges Simeron (1903 - 1989).
Truyện trinh thám hiện đại Việt Nam ra đời muộn, về cơ bản không có
nguồn gốc bản địa mà ngay từ buổi đầu đã mô phỏng truyện trinh thám hiện
đại phương Tây. Với Truyện trinh thám hiện đại đích thực Việt Nam là
truyện kiếm hiệp, gọi theo kiểu dân gian là "truyện ba xu". Đó là những tập
sách văn xuôi nhỏ của các tác giả Trường Xuân, Ngọc Cầm, Ngọc Lang...
như Phi kiếm kỳ hiệp, Giang hồ nữ hiệp... đáp ứng nhu cầu giải trí của bạn
đọc bình dân.
Ở nước ta vào những năm 20 của thế kỷ XX tiểu thuyết phiêu lưu võ
hiệp trinh thám cũng xuất hiện ở Nam Bộ. Trong bước đầu của truyện trinh
thám hiện đại Việt Nam số tác giả đích thực, thành danh không nhiều. Cùng
với Phạm Cao Củng - nhà thơ Thế Lữ, tác giả loại hình huyễn tưởng với một
số tác phẩm kinh dị có yếu tố trinh thám như Vàng và Máu (1934) là một
trong hai người mở đầu loại hình văn học phiêu lưu bằng một số truyện trinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
84
thám hấp dẫn với những phóng viên trinh thám tài hoa phong nhã đã gây được
ấn tượng đẹp và thu hút được đông đảo tầng lớp độc giả lúc bấy giờ.
3.2.2. Thế Lữ với thể loại truyện trinh thám ở Việt Nam
Như chúng ta đã biết, ở thời điểm mà Thế Lữ đưa những truyện trinh
thám, truyện đường rừng vào văn học để thể nghiệm trên các "chợ trời" văn
chương "bản xứ" cũng đã xuất hiện một số truyện được mệnh danh là truyện
kiếm hiệp, trinh thám in mỏng theo từng kỳ như Kỳ phát của Phạm Cao Củng,
Người nhạn trắng, Bông hoa rừng của Trường Xuân và Ngọc Kỳ... Mặc dù
vậy truyện trinh thám của Thế Lữ được người đương thời đón nhận một cách
thích thú hơn cả.
Sở dĩ Thế Lữ thành công hơn những nhà văn khác cùng thời ở thể loại
truyện này là do Thế Lữ đã xây dựng được một cốt truyện với kết cấu chặt
chẽ, đã đưa khoa học hiện đại vào cuối câu chuyện để soi sáng những cảnh
huống ly kỳ rùng rợn mà ông đã đưa ra ở đầu câu truyện. Có lẽ chính cái cốt
truyện ly kỳ hấp dẫn nhưng lại rất khoa học ấy đã làm những câu truyện trinh
thám của ông trở nên mới lạ gần gũi độc giả hơn.
3.2.2.1. Cốt chuyện
Một tác phẩm tiểu thuyết là một công trình thẩm mỹ bao gồm nhiều bộ
phận, nhiều yếu tố hợp thành. Sự thành công của một cuốn truyện không phải
chỉ cần có những sự kiện ly kỳ, những tình huống gay cấn, những bức tranh
thiên nhiên đẹp gợi cảm mà cần có cốt truyện hấp dẫn.
Cốt truyện là một hệ thống các sự kiện liên kết với nhau một cách nghệ
thuật, phản ánh diễn biến của cuộc sống và nhất là các xung đột xã hội qua đó
các tính cách hình thành và phát triển trong mối quan hệ qua lại của chúng
nhằm sáng tỏ chủ đề và tư tưởng của tác phẩm.
Trong văn học cổ, mối quan tâm hàng đầu của người viết truyện cổ tập
trung vào cốt truyện. Xây dựng cốt truyện như thế nào cho hấp dẫn là vấn đề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
85
quan trọng nhất đối với họ. Tác giả phải làm sao cho cốt truyện có những tình
tiết éo le, sự kiện ly kỳ, tình huống phải gây cấn đầy kịch tính bộc lộ tính
cách. Lấy cốt truyện làm chính với hàng chuỗi sự kiện kéo theo.
Với Thế Lữ thì khác hẳn. Muốn thưởng thức truyện trinh thám, truyện
đường rừng của ông trước hết người đọc phải thích cái logic mà ông đã cố
công gây dựng theo mạch phát triển của cốt truyện. Cái logic trong truyện
Thế Lữ có lúc ngắn gọn khúc chiết nhưng có lúc lại dài dòng song đều là sản
phẩm của lý luận trong sáng tác. Đây cũng là đặc điểm riêng của văn xuôi
Thế Lữ, nó làm cho văn xuôi của Thế Lữ khác với văn xuôi của các nhà văn
khác trong nhóm Tự lực văn đoàn. Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thời đó là
chuyện phong tục, tình cảm không cần logic. Trong tác phẩm Đoạn tuyệt,
chàng Thân người chồng chết vì con dao rọc sách đâm đúng trái tim là không
logic. Trong Nửa chừng xuân cuộc đời trôi nổi của cô Mai tại Hà Nội cũng
không thuận lý Thế Lữ không đi vào con đường đó. ông viết truyện trinh
thám dù hay dù dở đều phải hợp lý. Hợp lý trong từng chi tiết, thuận lý trong
văn cảnh. Tính lôgic tạo thành một tiêu chí chung trong sáng tác của Thế Lữ.
Tính logic quy định một kết cấu chuyện chặt chẽ, mạch truyện lôi cuốn, quy
định câu văn, lời văn minh bạch khúc chiết làm nổi bật tính lý luận. Văn xuôi
Thế Lữ hơn hẳn những tác phẩm cùng thời viết về đề tài trinh thám đường
rừng bởi tính logic trong mỗi tác phẩm mà ông chú tâm tạo dựng.
Vàng và Máu (1934) là một trong những truyện trinh thám đầu tiên
được viết dưới bút pháp riêng có màu sắc khoa học.
Vàng và Máu là một câu chuyện Tàu để của hang Văn Dú từ lâu đã nổi
tiếng là một hang thần. Thần núi thường hiển hiện tác hại, gây lắm sự khủng
khiếp, khiến dân cả vùng đều sợ, lánh xa. Một hôm, có hai người Thổ mạo
hiểm vào hang. Một người tử nạn còn người kia chạy kịp về Châu Nga Lộc,
trình quan Châu một mảnh giấy có những lời chú kỳ dị. Nhờ mảnh giấy đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
86
quan châu biết hang Văn Dú là nơi để của của một viên quan Tàu nhà Minh,
ông bèn quyết đem gia nhân đi lấy của, tiến vào hang thần, gặp bao nhiêu
hình ảnh chết chóc rùng rợn. Nhưng quan châu là người can đảm, lại không
có óc mê tín, cho nên ông vững trí tìm ra được kho vàng, lại khám phá ra bí
mật đã giết chết những người đến trước ông: những tảng đá cuội có trái thuốc
độc, chớ chẳng phải bùa phép thần thánh gì cả.
Cái đặc sắc của cốt truyện đã làm cho nhóm Phong hoá để ý đến tác giả
và kết nạp đó là cái chủ ý đề cao khoa học. Truyện lúc đầu có vẻ quái đảm,
rùng rợn nhưng không thần bí hoang đường mà trái lại đề cao sự tin tưởng
vào khoa học, vào trí người. Ông quan Châu ở đây, để đối phó với hang Văn
Dú, để tìm ra vàng bạc cất giấu, không dùng đến thầy mo cúng bái, không tin
vào phép yểm độc người đọc chú. Ông sử dụng óc quy nạp, thâu tóm mọi tài
liệu để dựng lại câu chuyện, để giải thích hiện tượng, óc quan sát và thực
nghiệm để tìm ra nguyên nhân của sự chết người. Khái Hưng viết trong bài
tựa "Không có gì xảy ra mà không hợp luật lệ, không một kết quả nào mà
không có nguyên chắc chắn, vững vàng". Có lẽ Thế Lữ đã áp dụng đúng
phương châm "đem phương pháp khoa học Thái - Tây áp dụng vào văn
chương Việt Nam" nên cốt truyện của ông luôn hấp dẫn, cuốn hút được đông
đảo giới bạn đọc hồi bấy giờ.
Song Vàng và Máu còn có những cái đáng kể khác về nghệ thuật.
Truyện hấp dẫn, ly kỳ mà xây dựng giản dị có tính cách một tấn bi kịch đòi
hỏi một giải kết. Với cốt truyện như thế, với các kể đầy lôi cuốn, giàu hình
ảnh gợi cảm, Vàng và Máu trở nên một hiện tượng rất lạ, rất mới ngay từ khi
vừa ra đời đã để lại dư âm đến nhiều năm sau. Vũ Ngọc Phan nhận xét: “Vàng
và Máu” của Thế Lữ là một tiểu thuyết mà tác giả tỏ ra một văn gia có biệt
tài. Nghệ thuật viết tiểu thuyết của Thế Lữ đã lên tới một trình độ cao". Lê
Huy Oanh cho rằng "Với thi phẩm Mấy vần thơ, ông là một thi sĩ rất lớn; còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
87
với Vàng và Máu ông đáng được coi là một trong những tiểu thuyết gia đại tài
của xứ sở chúng ta"[190]. Sau này Phan Trọng Thưởng đã nhấn mạnh một
cách khái quát và đầy đủ: "Với loại truyện ly kỳ rùng rợn, không biết ông có
phải là tác giả đầu tiên hay không? Nhưng với Vàng và Máu (1934) ông có
thể được coi là tác giả đạt đỉnh cao nghệ thuật của loại truyện này. Cùng với
Lan Khai và một vài tác giả khác chuyên viết về các loại truyện đường rừng,
bí hiểm. Văn xuôi Thế Lữ mở ra một khuynh hướng mới của văn chương Tự
lực văn đoàn. Diều dáng chú ý là sự thay đổi về thể loại ở Thế Lữ đồng thời
kéo theo cả sự thay đổi về thế giới nghệ thuật trong sáng tác của ông" [171].
Vàng và Máu, tác phẩm đầu tay dù đã có những thành công đáng kể
nhưng đó mới chỉ là truyện bí mật, truyện kể mạo hiểm đi tìm kho báu, nó còn
ít tính điều tra, dựng "mưu mẹo" nhà nghề phải đến những truyện in tới tấp
trên báo kiểu như Lê Phong phóng viên, Những nét chữ (1937), Đòn hẹn
(1937), Gói thuốc lá (1940) thì tính trinh thám của truyện và khả năng của tác
giả mới thực sự bộc lộ.
Với bút pháp rất riêng, mang màu sắc khoa học, Thế Lữ đã không
huyền bí hoá câu chuyện mà biết kết hợp giữa những yếu tố ly kỳ huyền bí và
sự thật đem nó soi sét dưới ánh sáng khoa học tạo cốt truyện ly kỳ, hấp dẫn,...
Gói thuốc lá là một truyện trinh thám khá nổi tiếng của Thế Lữ. Một vụ
án ly kỳ, bí hiểm với nhiều tình tiết bất ngờ cuốn hút người đọc. Bên cạnh xây
dựng một nhân vật Lê Phong phóng viên trinh thám tài ba sắc sảo. Thế Lữ đã
rất thành công trong việc xây dựng cốt truyện.
Toàn bộ câu chuyện xoay quanh cái chết của nhân vật Đường. Tác giả
rất khéo léo sắp đặt các tình tiết một cách logic tạo một cốt truyện rất độc đáo
Mở đầu chuyện là cái chết bí hiểm của nhân vật Đường với một con dao cắm
ngập tới chuôi ở sau lưng và tấm danh thiếp úp trước mặt với dòng chữ kỳ dị.
Người đọc bắt đầu hồi hộp, đặt câu hỏi ai là người giết Đường và giết để làm
gì? Tác giả khéo dẫn dắt đánh lạc hướng để đưa người đọc đi từ hồi hộp này
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
88
đến hồi hộp khác. Trước khi Đường chết, đường có gửi một bức thư cho Lê
Phong. Trong thư Đường cầu cứu Lê Phong giúp anh ta trả thù Nông Anh
Tăng do mối thù ngày xưa để lại. Cùng lúc đó Nông Anh Tăng lại đến gặp Lê
Phong và để lại tấm danh thiếp. Tăng tỏ ra kinh ngạc và sợ hãi khi nghe tin
Đường bị giết. Tăng đã bằng lòng đi với Lê Phong và Bình đến nơi xảy ra vụ
án nhưng khi ra ôtô Tăng đã đấm Bình và bỏ trốn.
Đọc đến đây chúng ta có thể khẳng định người giết chết Đường là
Nông Anh Tăng nhưng tác giả đặt tiếp cốt truyện dưới con mắt tài ba của nhà
trinh thám Lê Phong. Lê Phong đã lập ra một kế hoạch hành động có sự giúp
đỡ của phóng viên Mai Phương và một vài người tin cậy. Lê Phong đã tạo ra
một hiện tượng giả và bắt được hung thủ giết người là Đinh Võ Thạc - một
người bạn cùng ở với Đường nhằm chiếm đoạt lại vé số trúng thưởng.
Với cốt truyện hấp dẫn truyện trinh thám của Thế Lữ đã thu hút được
đông đảo giới độc giả lúc bấy giờ. Chỉ trong vòng vài năm mà cuốn sách đã
được tái bản tới 5, 6 lần.
Những nét chữ là câu chuyện có cốt truyện rất hấp dẫn. Đã lâu không
gặp vụ án nào, Lê Phong chuyển sang viết tiểu thuyết tình cảm. Tác phẩm của
anh được phái nữ rất ham mộ, thư từ tới tấp gửi đến. Trong số đó Lê Phong
chú ý đến một bức thư với lời lẽ văn hoa lãng mạn tình tứ. Điều bất giờ Lê
Phong đã đoán ra được một bức thư của một người đàn ông giả gái. Anh lập
tức trả lời. Hai ngày sau có một thanh niên đến toà soạn xin gặp Lê Phong
nhờ tìm ra manh mối về cái chết của người em gái chết cách đó 3 năm.
Sau một thời gian điều tra tìm hiểu, bí mật về cái chết của Mai được Lê
Phong khám phá. Đỗ Lăng là bạn của Đào Văn Khương, anh của Mai. Cô
chơi thân và tâm sự nhiều chuyện với Lăng. Trong đó có cả việc cô từng tham
gia hội kín với các bạn gái nhưng sau thấy không hợp lệ Mai xin ra khỏi hội
và hội đó cũng tan. Nhưng Mai luôn bị ám ảnh bởi những truyện trả thù trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
89
sách báo nên Mai thường xuyên lo sợ. Mỗi lần như thế Mai lại tìm cách giải
thích, động viên, an ủi Mai. Lăng càng yêu Mai. Đến một hôm Lăng viết thư
cho Mai thú nhận mình là con trai và bày tỏ tình yêu với Mai, Mai từ chối,
Mai vốn âm thầm đau khổ vì đã yêu Khương từ lâu nhưng không hề biết mình
là con nuôi của bố mẹ Khương.
Câu chuyện bắt đầu xoay quanh tình tiết bất ngờ khi Đỗ Lăng nghĩ cách
viết một bài thơ đặc biệt theo lỗi của hội kín ghép Mai vào tội phản bội và
xử chết. Mai quá hoảng sợ nên đã uống thuốc tự tử. Khi nghe Lê Phong
giải thích Đỗ Lăng mới biết được sự thật, Anh vô cùng đau khổ.
Tóm lại: Với cốt truyện hết sức độc đáo, mới mẻ với nhiều tình tiết ly
kỳ hấp dẫn. Thế Lữ đã đem lại cho tiểu thuyết trinh thám của mình một dáng
vẻ rất riêng, được đông đảo độc giả đón nhận như một thể tài hết sức mới mẻ
của văn học giai đoạn này.
3.2.2.2. Nhân vật
Nhân vật trong tác phẩm luôn trở thành phương tiện để nhà văn khái
quát hiện thực, là yếu tố cơ bản của một truyện ngắn hay một tiểu thuyết. Là
một tác giả tiên phong của trào lưu văn học lãng mạn và là một thành viên
trong nhóm Tự lực văn đoàn, hơn ai hết Thế Lữ luôn dành cả tâm huyết của
mình cho sự nghiệp đổi mới văn học theo hướng hiện đại hoá.
Trong khi các nhà văn trong nhóm Tự lực văn đoàn như Khái Hưng,
Nhất Linh, Hoàng Đạo đang hướng ngòi bút của mình vào những mối tình
lãng mạn vào hình ảnh những "cô gái mới" dám dũng cảm đứng lên chống lại
những ràng buộc khắt khe của Lễ giáo phong kiến hủ lậu, trong khi các nhà
văn hiện thực - phê phán đang ra sức tố cáo xã hội phong kiến thối nát bằng
việc xây dựng những hình tượng nhân vật bị đầy đoạ thì Thế Lữ bổ sung thêm
cho văn học giai đoạn này một số hình tượng nhân vật mới. Đó là hình ảnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
90
nhà trinh thám, hình tượng nhân vật Thổ Mán và những nhân vật nửa hư nửa
thực trong các truyện trinh thám, truyện đường rừng.
Lê Phong phóng viên, Mai Hương và Lê Phong, Đòn hẹn... là những
truyện trinh thám trong đó Thế Lữ đã cố gắng đưa ra những tìm tòi khám phá
cho loại nhân vật trinh thám khá mới lạ với văn học Việt Nam ở giai đoạn
này. Mặc dù ở loại truyện này, Thế Lữ không mấy thành công bởi nhân vật
trinh thám của ông "tra xét và dò thám như trong mây mù, chỉ thấy hiện lên ở
lời nói, ít khi ở việc làm" [26-148]. Nhưng những nhân vật trinh thám của Thế
Lữ có thể trở thành những hình tượng mẫu gợi trí sáng tạo cho những nhà tiểu
thuyết trinh thám sau Thế Lữ.
Lê Phong và Mai Hương và một số nhân vật trinh thám khác của Thế
Lữ là những nhân vật lãng mạn tuân theo duy lý. Nhân vật phóng viên trinh
thám Lê Phong mang dáng dấp hình tượng thám tử danh tiếng Sherlock
Holmes trong tác phẩm của nhà văn Anh Arthuz Canon Doyle. Thế Lữ dồn
hết niền tin, kỳ vọng vào Lê Phong nhân vật chủ yếu của ông và xây dựng
hình tượng này thành một mẫu hình lý tưởng. Lê Phong là một chàng trai hào
hoa, phong nhã, tận tuỵ với nghề phóng viên trinh thám đầy bất trắc mà anh
yêu thích đến say mê. Anh vừa sắc lanh, quyết đoán, tỉ mỉ vừa tinh tế, mơ
mộng thoáng nhẹ chút hài hước ý nhị, si tình và đắm đuối trước người đẹp.
Óc phán đoán, khát vọng khám phá trước tiên và một mình một cái mới, khả
năng tìm ra cái không bí mật, không khó hiểu trong cái bí mật, khó hiểu của
một thiên năng đã giúp anh làm tốt trọng trách của người phóng viên trinh
thám tại một tờ báo vào loại danh tiếng nhất. Anh "nghĩ nhanh và làm nhanh"
biết rõ "phép dò hỏi, đường suy xét, lối lập thuyết", dám đua tài và đã mấy lần
thắng thanh tra chuyên nghiệp và thám tử tài danh Lê Phong từng nói: "Anh
thì chỉ nghe tiếng bàn nhau mới hiểu được họ làm những gì. Tôi thì không
thể, tôi trông được cả những lời họ bàn nhau". Tác giả giới thiệu với độc giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
91
một nhân vật lãng mạn đáng ở thời hiện đại nhưng có dáng vẻ "một nhà hiệp
khách của tiểu thuyết" (Đòn hẹn).
Thế Lữ đi tìm cái đẹp, chỉ vì cái đẹp thì nhân vật của ông xem nghề
phóng viên trinh thám cũng là một nghệ thuật, là cái đẹp, anh ta không quan
tâm đến những cái gì khác ngoài làm nghề một cách có nghệ thuật, làm cho
đẹp, làm càng khó thì giá trị của việc làm, của nghề nghiệp càng cao. Lê
Phong từng tâm sự... "Tôi vẫn thấy đời giản dị quá và sự bí mật có một ý
nghĩa nghèo nàn đối với tôi trong những lúc bệnh tình này..." (Gói thuốc lá)
hoặc "Tôi thích các anh chúc cho gặp toàn những sự khó khăn, rắc rối, bị bắt
cóc nữa càng hay" (Lê Phong phóng viên). Không thấy ở Lê Phong nỗi xót
xa, cảm thông trước cảnh mất mát của người đời khi anh chứng kiến, tham
gia điều tra vụ án mà chỉ thấy niềm vui đắc thắng ở một cháng trai luôn trải
chuốt, lịch sử khi điều bí mật được mở nút, được giải toả một cách nhanh
chóng khôn khéo, rất khoa học.
Sự có mặt của Mai Hương làm cho tác phẩm trinh thám của Thế Lữ
tăng sức lôi cuốn. Mai Hương là con gái cưng trong một gia đình giàu có, là
nữ sinh trường Albert Sarraut, một tài tử diễn kịch, Mai Hương sinh ra những
chỉ để tô điểm cho Lê Phong. Mai Hương là một hình tượng trong hệ thống
hình tượng mỹ nữ của Thế Lữ. Cặp đôi Lê Phong - Mai Hương là kiểu quan
hệ trai tài - gái sắc tiểu tư sản thơ mộng đậm màu sắc lãng mạn của chủ nghĩa
thời hiện đại gặp gỡ phần nào mô hình tình yêu tài tử - giai nhân trong văn
học truyền thống Việt Nam.
Bên cạnh xây dựng hình tượng những nhà trinh thám nổi danh, Thế Lữ
cũng rất thành công với những nhân vật Thổ Mán (Vàng và Máu, Một đêm
trăng) những nhân vật vừa hư vừa thực (Lưỡi tầm sét, Bồ Tùng Linh) nhưng
chúng ta vẫn khẳng định "Thế Lữ là người đã vẽ nét phác thảo đầu tiên cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
92
một nhân vật mới lạ, đặc biệt là những nhân vật trinh thám" làm phong phú
cho văn học dân tộc.
Tóm lại, với cốt truyện ly kỳ, hấp dẫn nhưng lại rất khoa học, với hình
tượng nhân vật mới lạ trong cách làm, cách nghĩ Thế Lữ đã có công đầu trong
việc du nhập văn chương quốc nội vào hình tượng nhân vật trinh thám, đưa
những truyện trinh thám của ông gần gũi hơn với độc giả và khẳng đinh hơn
nữa tài năng xuất sắc của cấy bút văn xuôi Thế Lữ.
2.2.2.3. Cách giải mã độc đáo trong truyện trinh thám của Thế Lữ
Như chúng ta đã biết, sức hấp dẫn trong truyện trinh thám của Thế Lữ
là nhờ lối kể chuyện lôi cuốn, gài nhiều yếu tố bất ngờ, đặt các tình tiết trong
một cấu trúc chặt chẽ, luôn luôn biến đổi, nhấn mạnh cái duy lý một cách
cần thiết, lời văn chọn lọc, uyển chuyển, sáng sủa khá hiện đại đáp ứng được
nhu cầu của một bộ phận độc giả muốn thưởng thức một hương vị độc đáo
quyến rũ.
Bên cạnh đó, ta thấy sức hấp dẫn trong truyện trinh thám của Thế Lữ
còn được thể hiện ở sự giải mã các ký hiệu ngôn ngữ để đi đến hồi kết thúc
của một vụ án. Hầu hết trong các truyện trinh thám của Thế Lữ, tác giả luôn
đưa người đọc đi từ hồi hộp này đến hồi hộp khác, thẳng một mạch cho đến
khi vén màn bí mật. Tư duy logic kết hợp với cách giải thích khoa học đã
khiến cho các vụ án trong truyện trinh thám của ông lúc đâu tưởng như mơ
hồ, khó hiểu nhưng sau được giải thích rõ ràng, hợp tình hợp lý khiến người
đọc phải hoàn toàn thán phục và thích thú.
Có thể nói mỗi vụ án trong truyện trinh thám của Thế Lữ là một bài
toán đố đặt ra cho óc quan sát và khiếu suy luận. Mở đầu thường là một vụ án
mạng với một ít dữ kiện, những dữ kiện tầm thường chỉ cốt làm lạc hướng
những tay tồi. Cuộc dò xét ngày càng đi vào hướng tối tăm tưởng bế tắc thì tài
tử xuất hiện. Lấy dữ kiện giải thích dữ kiện bằng cách giải mã ngôn ngữ, rồi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
93
sắp đặt như quân cờ dưới tay mình để hung thủ sa lưới. Bởi vậy, nên truyện
trinh thám của Thế Lữ thời kỳ này được độc giả đón nhận như một thể tài hết
sức mới mẻ.
Tiểu thuyết Vàng và Máu miêu tả cuộc đi tìm Vàng của một quan châu
trong núi Văn Dú, Núi Văn Dú có một cái hang lớn. Đó là nơi chứa những tai
hoạ ghê gớm, là nguồn gốc của những chuyện khủng khiếp kinh hoàng. Nỗi
khiếp sợ được những người Thổ truyền từ đời này sang đời khác. Từ Văn Dú
trở ra chừng hai ba dặm chỉ toàn thấy rừng xác, đất hoang, không ai dám khai
phá, cày cấy. Như vậy ngay từ đầu truyện tác giả đã gây được một chút tò mò
của độc giả về núi Văn Dú oai linh, màu nhiệm đầy bí hiểm trong tâm tưởng
những đồng bào sơn cước sống quanh vùng.
Để vén màn bí mật ở núi Văn Dú, tác giả đã cho hai người thổ "mở
đường" dẫn độc giả tới gần nó. Độc giả được "nhìn nó tận mắt" được "chứng
kiến" cả hang Thần, được thấy một người chết treo trên cành cây, được chờ
đợi ông già vào hang thần lâu không thấy ra. Sau khi ông ta quay ra được một
lúc, ông ta chết mà không kịp trăng trối gì cả. Trong tâm tưởng độc giả biết
bao câu hỏi được đặt ra. Hai người Thổ tới núi Văn Dú làm gì? Kẻ chết treo
trên cành cây là ai? Vì sao gã chết một cách ghê gớm như thế? Lão già đã làm
gì và đã thấy gì trong hang? Vì sao lão lại chết một cách tức tưởi như vậy
ngay sau khi bước ra khỏi hang? Biết bao câu hỏi nảy sinh trong óc độc giả.
Cái màn bí mật ấy nằm trong mẩu giấy nhỏ trong tay lão già.
Miệng có hai răng
Ba chân bốn tay
Mày vào trăm chân;
Mày lên ba tay;
Tên mày là đá;
Đá sinh trứng đá;
Trứng đá giữ của;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
94
Mày có sức mang;
Mày giàu mày chết;
Đọc những dòng chữ này chúng ta cũng chưa thể hiểu được sự bí mật
của hang Văn Dú. Chỉ đến khi mảnh giấy ấy rơi vào tay Quan châu Nga Lộc -
Người học sâu biết rộng và có đầu óc phán đoán, ông ta đã tìm cách đọc hiểu
và giải mã được điều bí hiểm trong tờ giấy.
"Hang Văn Dú trong như cái mồm có hai răng. Ba thước nói là chân,
bốn thước nói là tay... Mày đo từ cửa hang vào trăm chân, rồi mày đo trở
lên ba tay, thì sẽ thấy chữ tên của mày là thạch. Đảo chữ Thạch xuống sẽ
thấy một cái hang nữa mang những hòn đá hình nhẵn như trứng. Đá này
giữ kho của đó. Nhưng không được lấy sức mà mang vì mày tìm thấy vàng
nhưng mày chết" [559].
Sau khi giải mã được tờ giấy, Quan châu đã quyết định cùng sáu người
tin cậy đi vào hang thần trong núi Văn Dú. Ở ngay cửa hang, họ nhìn thấy xác
của năm người Tầu. Quan châu Nga Lộc xác định ngay người chết treo là hậu
duệ của viên quan Tầu. Còn năm người chết trong hang là những tên được
thuê đi tìm kho báu. Bọn chúng đã giết chủ để chiếm kho báu nhưng khi
mở lối đi vào thì hang đã bị chết, do những viên đá được luyện với thuốc
độc cực mạnh rơi vào người. Quan Châu đã bình tĩnh sáng suốt chỉ huy
được bọn thuộc hạ tránh được nguy hiểm, mở lối vào hang, lấy được toàn
bộ kho báu. Rồi sau đó cho lấp kín miệng hang. Anh trai Thổ không hiểu vì
sao một hôm treo cổ chết ở cạnh nhà quan châu. Do đó ngoài quan châu và
những bộ hạ trung thành của ông ta ra, không ai biết chuyện này. Dân làng
tin rằng quan châu có oai át được cả thần núi. Từ đó núi Văn Dú không còn
là nơi đáng sợ nữa.
Như vậy, toàn bộ câu chuyện được hé mở bắt đầu từ khi giải mã được
những điều bí mật trong tờ giấy. Cách giải mã hợp lý và logic thoả mãn được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
95
sự tò mò của độc giả. Nhưng đó mới chỉ là loại truyện bí mật, truyện kể mạo
hiểm để tìm kho báu, nó mang cốt cách trinh thám, phải đến truyện ngắn in
tới tấp trên báo kiểu Những nét chữ "chất" trinh thám trong văn xuôi Thế Lữ
mới được bộ lộ.
Ở truyện Những nét chữ mở đầu là bức thư của một người không quen
nét phụ nữ, ký tên Kiều Anh, gửi đến tán tỉnh và gần như tỏ tình với Lê Phong
- nhà trinh thám nổi danh... Trong khi bạn bè mừng khen anh tốt duyên thì Lê
Phong thản nhiên viết thư trả lời:
"Gửi cho Đoàn Thị Kiều Anh"
"Thưa ... ông"
"Tôi gọi ông là ông, vì tôi biết ông không phải là con gái"
"Tôi biết rằng cô Kiều Anh ấy chính là ông và hơn thế, tôi lại biết rằng
ông viết thư cho tôi bằng thứ bút máy ngòi xấu và cong... Ông viết được nửa
trang thì giấy hết mực nên ngừng lại một lúc mới tiếp tục theo và lúc gần viết
xong thì trời mưa, một cơn gió thổi vào làm tờ giấy chực bay ông vội lấy tay
đè lên - vì ông ngòi viết gần cửa sổ".
Đây mới chỉ là phần dạo đầu của bức màn bí mật được nhà trinh thám
Lê Phong phán đoán. Độc giả cũng đã bắt đầu phải thán phục tài phán đoán,
cách giải thích rất khoa học và logic của nhà trinh thám này nhưng điều thực
sự thuyết phục người đọc, khiến người đọc phải khâm phục nhà trinh thám tài
ba này là cách "giải mã" khám phá các ý nghĩa đích thực của bức thư viết
bằng thơ lục bát để khám phá nguyên nhân cái chết bí mật của một thiếu nữ -
cách đây đã ba năm.
Mới đọc bài thơ chúng ta tưởng đây là một bài thơ tình đơn thuần với
những nghĩa rất vu vơ nhưng nếu độc giả kiên nhẫn chờ đợi hồi hộp đọc tiếp
truyện, tò mò, để biết nó là thứ thơ gì thì hoá ra là thơ trinh thám của Thế Lữ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
96
Muốn tìm tảng đá đề thi
Lòng đau - khôn chép - khôn ghi được lời
Quyết tâm ai mảng quên ai
Để ai vội tỉnh giấc mai mơ màng
Gió sầu như gội bên ngàn
Tơ lòng chán nản phiếm đàn tử sinh
Chữ tình ơi hỡi chữ tình
Lẻ loi còn biết phận mình đáng thương
Dừng chân ngó đến con đường
Xa xôi dưới lối tình trường mà nghê
Chính những câu thơ "tầm thường" ấy đã làm cho một người thiếu nữ
sợ hãi đến mức phải tự tử. Bài thơ quả thực là cả một tấm bi kịch mà nhân
vật Lê Phong phải khám phá. Sau khi đưa ra biết bao nhiêu giả thuyết, tác
giả đưa người đọc từ hồi hộp này đến hồi hộp khác trông chờ vào sự phán
đoán tài ba của nhà trinh thám Lê Phong. Cuối cùng tất cả những ngôn ngữ
ẩn chìm trong bài thơ lục bát đã được "giải mã". Sự phán đoán phân tích
hoàn toàn có cơ sở khoa học, thuyết phục người đọc. Chúng ta cùng xem lại
cách giải mã độc đáo này.
"Lê Phong chỉ vào mảnh giấy:
... Nhìn kỹ thì tôi thấy chữ g ở tiếng lòng "tơ lòng chán nản phiếm đàn
tử sinh" có một nét kéo dài ra khác hẳn với chữ g khác. Chữ i trong tiếng xuôi
"xa xôi dưới lối, tình trường", chữ h trong tiếng tỉnh "để ai vội tỉnh", chữ u
trong tiếng sầu, đều cùng kéo dài nét đuôi ra như chữ g nọ..." [704].
Lê Phong "giải mã" kỹ hơn cho Văn Bình - người đồng nghiệp tin cậy
của anh về bí mật của bức thư: "Trong tiếng lòng, anh thấy những tiếng đi
từng cặp một: trong một cặp, đem chữ câm ở tiếng dưới thay vào chữ cam ở
tiếng trên và chỉ đọc tiếng trên sau khi thay đổi ấy là tiếng mình định nói. Thí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
97
dụ: lăng vi đem thay chữ v vào chữ l thành văn; hay theo lối ghép sau: căn
viên, cũng một cách trao đổi như thế. Mà cũng dùng cách ấy anh sẽ thấy câu:
tảng đá, chép khôn, quyết tâm, ai mảng, vội tỉnh, gội bên, nản phiếm, tử sinh,
chữ tình, loi còn, dừng chân, ngó đến, xa xôi, dưới lôi thành một câu rõ rệt:
Đảng khép Tuyết Mai tội bộ phản, xử tử. Coi chừng đó. Sa lưới" [706].
Ghép lại một số từ hay con chữ nào đó, tìm các "giải mã" ý nghĩa đích
thực bài thơ là một trong những đầu mối hết sức quan trọng để phanh dần câu
chuyện tình lắt léo, bất ngờ nhưng lại dẫn đến cái chết thương tâm của người
con gái. Cuối cùng người đọc cũng phải thán phục trước sự phá án tài ba của
nhà thám tử Lê Phong.
Mỗi một câu chuyện là một bài toán khó. Lê Phong là nhân vật trong
tất cả các truyện trinh thám của Thế Lữ. Với óc quan sát, tài xét đoán, khả
năng giải mã các ký hiệu ngôn ngữ tinh tế Lê Phong đã đem đến cho các tiểu
thuyết trinh thám của Thế Lữ một dáng vẻ riêng, lôi cuốn người đọc ở những
tình tiết bất ngờ, hợp lý, những suy luận thông minh và khoa học.
Truyện Gói thuốc lá một lần nữa minh chứng cho sự "giải mã" ngôn
ngữ độc đáo này. Truyện xoay quanh cái chết của nhân vật Đường và tấm
danh thiếp úp xuống viết dòng chữ kỳ dị X.A.E.X.I.G. Trong lúc những ông
thanh tra mật thám của Sở liêm phóng còn đang loay hoay đi tìm đầu mối
khám phá vụ án thì với đầu óc phán đoán tinh tế, khoa học Lê Phong đã
"giải mã" được những dòng chữ kỳ dị để tìm ra được hung thủ giết người và
nguyên nhân dẫn đến vụ án. Lê Phong đã giải mã "Đây tôi xin cắt nghĩa:
Những chữ cái ta tưởng là những lời bí mật đó chỉ là những số dịch ra chữ
cái: A là 1; B là 2; C là 3... Tại sao tôi lại biết thế, chỉ vì tôi thấy trong đó có
sáu chữ, trừ hai chữ giống nhau, còn những chữ khác không chữ nào theo
thứ tự mà quá số mười. Tôi liền thử đổi lại chữ cái bằng chữ số xem thì đó là
một hàng bốn chữ số 1 5 9 7 và hai chữ X. Chữ X, nếu theo thứ tự sẽ là số 2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
98
3 nhưng nếu muốn dùng số 2 3, nhưng nếu muốn dùng số 23 sao cho không
viết B C? Vậy chữ X là số vô danh theo khoa toán Pháp ở đây, đó là một chữ
có thể thay cho số không. Tôi ghép lại thử xem. Không ngờ thử mà thành ra
thực. X.A.E.X.I.G tức là 0 1 5 0 9 7 con số trúng độc đắc trong kỳ số Đông
Dương vừa rồi" [810].
Bằng sự "giải mã" những chữ số kỳ dị này nhà trinh thám tài ba Lê
Phong đã tìm ra được hung thủ giết Đường là Thạc rồi mục đích để chiếm số
độc đắc. Cuối cùng hung thủ đã mắc mưu Lê Phong và đã phải nuốt thuốc độc
chết ngay tại chỗ. Một vụ án ly kỳ, bí hiểm, nhiều bất ngờ, cuốn hút người
đọc. Bởi vậy chỉ trong vòng vài năm cuốn sách đã được tái bản tới năm, sáu
lần, được độc giả tìm đọc như một món ăn tinh thần không thể thiếu.
Tóm lại, Đọc truyện trinh thám của Thế Lữ, chúng ta thấy Thế Lữ viết
truyện trinh thám với "các tạng" say nghề điều tra, khám phá của ông. Bên
cạnh việc tạo ra một cốt truyện độc đáo, những tình huống truyện ly kỳ hấp
dẫn, quả thực Thế Lữ còn là nhà văn am hiểu ngôn ngữ khoa học. Bởi vậy,
trong truyện trinh thám của ông, ông đã đưa ra rất nhiều những ký hiệu,
những ẩn ngữ để rồi giải mã chúng một cách rất logic và khoa học. Mỗi một
câu chuyện có một cách là một xử lý, cắt nghĩa khác nhau, không làm cho
người đọc nhàm chán mà luôn kích thích trí tò mò của độc giả. Bởi vậy, có lẽ
với truyện trinh thám của Thế Lữ lần đầu tiên độc giả Việt Nam biết đến thể
tài này như một thể loại hết sức mới mẻ.
Say này văn học đã ghi nhận nhiều tác phẩm loại hình này có giá trị
như X.30 phá lưới, Vụ án hai ngàn ngày, đáng kể là cuốn Sao Đen của Triệu
Huấn, Ván bài lật ngửa của Nguyễn Trường Thiên Lý, Ông Cố Vấn của Hữu
Mai nhưng có lẽ các nhà văn hiện nay và cả độc giả có dịp đọc lại những
truyện trinh thám của Thế Lữ cũng phải thừa nhận công lao đi đầu, những
đóng góp về phương diện nghệ thuật của ông trong thể loại khá độc đáo này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
99
3.3. TRUYỆN KINH DỊ
3.3.1. Truyện kinh dị tiếp nối dòng truyện truyền kỳ
Chúng ta đều biết truyện truyền kỳ là một loại hình tiểu thuyết, thường
gọi là văn ngôn đoản thiên tiểu thuyết hoặc đoản thiên tiểu thuyết xuất hiện ở
Trung Quốc vào cuối triều Tuỳ (581-618). Đến đời Đường (618-907) thì phát
triển rất mạnh.
Ở Việt Nam loại hình văn học truyền kỳ có thể kể mốc thành tựu đầu
tiên là tác phẩm Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên đời Trần. Tiếp đó có thể kể
đến các tác phẩm Lĩnh Nam chính quái, tương truyền là của Trần Thế Pháp
(TKXV) và Vũ Khâm Lân, tác gia lớn thế kỷ XVIII có đóng góp quan trọng
cho đầy đủ các truyện của tập truyện Lĩnh Nam Chính Quái ngày nay. Đề cập
đến truyện truyền kỳ ở Việt Nam không thể không nhắc tới tập truyện Thánh
Tông di thảo của Lê Thánh Tông ra đời vào thế kỷ XV và Truyền kỳ mạn lục
của Nguyễn Dữ ra đời vào thế kỷ XVI. Những tác phẩm này đã đánh dấu sự
chín muồi của nghệ thuật tự sự Việt Nam.
Hầu hết các truyện truyền kỳ kể tên đều mang yếu tố thần dị, quái đản
hoặc huyền diệu. Có loại truyện quan ôn (Tướng dạ xoa) có loại truyện ma
quỷ (Truyện cây gạo) có loại truyện thần kỳ (Người nghĩa phụ Khoái Châu).
Qua các truyện truyền kỳ này ta thấy đều có một điểm chung là đi sâu vào
khai thác những yếu tố gây cảm giác mạnh, yếu tố kỳ lạ, khiếp đảm, quái
đảm, huyền diệu. Ở đó có sự kết hợp giữa hai yếu tố hư và thực, yếu tố hoang
đường gắn với thế giới quan huyền bí của chủ nghĩa duy tâm.
Con đường đến với các yếu tố kinh dị trong truyện trinh thám và truyện
truyền kỳ của Thế Lữ có sự tiếp nối và kế thừa dòng truyện truyền kỳ song
ông đã có sự "cách tân" hết sức mới mẻ làm nên một thế giới riêng trong các
thiên truyện của ông.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
100
3.3.2. Sự khác biệt giữa truyện kinh dị của Thế Lữ và truyện truyền kỳ
Chúng ta đều biết người xưa viết truyện truyền kỳ là miêu tả những
truyện lạ lùng, kỳ quái, mượn truyện thần thánh để phản ánh thế giới trần tục
của con người. Đó là những truyện sinh hoạt thuộc số phận của con người
bình thường trong sự biến động khôn lường của xã hội phong kiến.
Trong Liêu trai chí dị, bồ Tùng Linh viết về yêu, ma, hồ quỷ. Nhưng
trong hơn 1000 trang của Liêu Trai, rất khó tìm ra những cảnh tượng khủng
khiếp khiến người đọc phải rùng mình đứng tim, dựng tóc gáy hoặc nếu có
cũng chỉ là một vài hình ảnh lướt qua, không để lại cảm xúc gì sâu đậm. Đây
cũng là ý đồ nghệ thuật của người sáng tác. Bồ Tùng Linh muốn mượn ma, hổ
để nói về con người, về cuộc sống. Thông qua thế giới yêu ma tác giả muốn
khám phá cuộc sống xung quanh một cách tường tận, cặn kẽ nhất.
Truyện Tịch Phương Bình, ông vạch trần bộ máy xấu xa của toàn thể
bộ máy quan liêu trong xã hội. Tịch Liêm cha Tịch Phương Bình vốn có chút
hiềm khích với một người nhà giàu cùng làng. Sau khi chết tên nhà giàu dùng
tiền hối lộ quan âm phủ để hãm hại Tịch Liêm. Thương cha Tịch Phương
Bình tìm xuống âm phủ kêu oan. Nhưng anh vô cùng thất vọng khi phát hiện
rằng, ở chốn âm ty địa phủ từ Diêm Vương, Thành Hoàng, Quận Thủ... tất
thảy đều kết bạn với bọn địa chủ. Không giải oan được Tịch Phương Bích còn
chịu nhiều hình phạt thảm khốc như lăn trên giường lửa, cưa đôi thân thể.
Cuối cùng tấm lòng hiếu thảo của anh cũng được đền đáp.
Trong 20 truyện Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ viết vào đầu thế kỷ
XVI ta cũng thấy các yếu tố hoang đường kỳ ảo. Thế giới con người và thế
giới cõi âm với những thánh thần ma quỷ dường như có mối tương giao. Toàn
bộ Truyền kỳ mạn lục đi theo mô típ kì ảo, kì lạ phổ biến là người hoá thân,
tàng hình, lấy ma, lấy hồ li, sống trong thế giới yêu quái, có đầu thai, luân hồi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
101
báo ứng, thi thố pháp luật, kêu mưa gọi gió, biến hoá khôn lường. Đề tài chủ
yếu là đề cao tính dân tộc, tinh thần yêu nước, biểu dương cái thiện, phê phán
cường quyền, đấu tranh chống các thế lực đen tối, ngợi ca tình yêu gắn với
các giá trị nhân văn, đồng thời cũng bày tỏ quan điểm bảo vệ lễ giáo. Hệ
thống nhân vật chủ yếu là các anh hùng hào kiệt, đạo sĩ, ẩn sĩ, tiên ông, yêu
nữ, thần thuồng luồng, Diêm Vương, Dạ xoa, Thổ công, hộ pháp,...
Chuyên chức phán sự đền Tản Viên là một trong những truyện tiêu biểu
trong tập Truyền kì mạn lục nhằm khẳng định tính dân tộc, tinh thần yêu
nước và ý chí chống nô dịch, bất công kiên quyết đấu tranh bảo vệ cho
chính nghĩa, lẽ phải. Hành động châm lửa đốt đền của Ngô Tử Văn xuất
phát từ việc tên Bộ tướng của Mộc Thạch thời Minh là Viên Bách hộ họ
Thôi tử trận ở gần ngôi đền thờ vị thần người nước Việt, sau đó hồn ma họ
thôi tranh, cướp quyền vị thần người Việt và "từ đây là yêu quái trong dân
gian". Với trí dũng có thừa, Ngô Tử Văn đã đốt đền sẵn sàng chịu chết và
xuống tận cõi âm để làm rõ sự thật.
Trong những truyện truyền kỳ, các yếu tố kỳ lạ, kỳ ảo cũng được khai
thác đến tối đa và kết hợp nhuần nhuyễn với các chi tiết hiện thực, phù hợp
với cách quan niệm và hình dung cuộc sống. Mối quan hệ giữa đời sống hiện
thực và cõi âm hư ảo được đan kết, chuyển hoá rất tinh tế, liền mạch. Con
người đi từ cõi thực vào cõi ảo đều có lí do, có bước chuyển giai đoạn. Khiến
cho mạch truyện diễn biến tự nhiên, tạo nên sương khói hư ảo đặc trưng cho
loại truyện truyền kỳ.
Trong truyện Người con gái Nam Xương ta bắt gặp sự hoà quện
giữa hai yếu tố âm - dương. Để chứng minh cho lòng chung thuỷ của
mình người con gái họ Vương đã phải gieo mình xuống sông tự tử song
hồn nàng không chết, lại trở về khi chồng nàng lập một đàn tràng ba ngày
đêm ở bến Hoàng Giang.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
102
Như vậy, qua những ví dụ trên ta thấy trong truyện truyền kỳ tác giả đã
rất khéo sử dụng những hình tượng thần tiên, quái đản với phương thức biểu
hiện chủ yếu là các yếu tố hoang đường kỳ ảo. Đọc các câu truyện trong
Truyền kỳ mạn lục đôi lúc người ta cảm nhận đằng sau thế giới thực còn có
một thế giới khác. Thế giới ấy thuộc về duy tâm chủ nghĩa mà lúc bấy giờ
người ta không thể lý giải được. Người ta chỉ biết mượn hình ảnh thần tiên
quái đản để diễn tả tư tưởng tình cảm con người một cách kín đáo và tế nhị.
Thật đúng như lời nhận định Vũ Thanh ''trong quá trình hình thành và phát
triển truyện ngắn trung cổ Việt Nam, các nhà văn đặc biệt là tác giả của
Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục đã rất ý thức trong việc phản ánh
những truyện kỳ lạ cũng như trong việc sử dụng các kỳ lạ như một hạt nhân
tự sự và bút pháp nghệ thuật để truyền tải một cách hình tượng những tư
tưởng của mình".
Khác với truyện truyền kỳ, khuynh hướng truyện kinh dị nói chung,
truyện "kinh dị" của Thế Lữ nói riêng mặc dù cùng đi sâu và khai thác các
yếu tố bí hiểm, rùng rợn, giật gân, nhưng lại có sự "cách tân" hết sức mới lạ,
độc đáo dẫn người đọc vào một thế giới xa lạ thoả mãn trí tưởng tượng nhưng
lại rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày. Phan Trọng Thưởng trong bài Thế Lữ
nghệ sĩ hai lần tiên phong đã có lời nhận xét rất hay "Nếu ở Thơ mới, ông
thích ngao du lên cõi Tiên, ở truyện trinh thám ông thích mạo hiểm vào cõi
đời thì ở truyện ly kỳ rùng rợn, ông lại thích phiêu lưu vào cõi âm. Ở đâu ông
cũng là người săn đuổi: cái đẹp, cái hư ảo ở cõi Tiên, cái thực ở cõi trần và cái
quái dị ở cõi âm phủ" [54].
Sự khác biệt giữa các truyện mang yếu tố kinh dị và truyện truyền kỳ
được thể hiện ở một số phương diện nghệ thuật sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
103
3.3.2.1. Nghệ thuật kể chuyện
Mỗi tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật được kết tinh bởi
quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ. Nhưng đã có giá trị thẩm mĩ cao đòi hỏi
người cầm bút không chỉ dừng ở sự lựa chọn đề tài mà phải khám phá cho
được những phương thức, phương tiện biểu hiện nghệ thuật hiện hữu nhất.
Những truyện mang yếu tố "kinh dị" của Thế Lữ thuộc phạm trù văn
học hiện đại nên các biện pháp mà ông sử dụng trong các tác phẩm đã có sự
khác biệt so với những truyện truyền kỳ. Nếu truyện truyền kỳ sử dụng bút
pháp nghệ thuật cổ điển thì Thế Lữ viết truyện bằng bút pháp hiện đại. Sự đan
cài, phối hợp nhiều biện pháp nghệ thuật đã tạo nên những nét khác biệt rất cơ
bản giữa các truyện mang yếu tố kinh dị của Thế Lữ và truyện truyền kỳ.
Ở những truyện cổ truyền thống nói chung, truyện truyền kỳ nói riêng
được viết bằng bút pháp nghệ thuật cổ điển thiên về cốt truyện. Việc xây dựng
cốt truyện như thế nào cho hấp dẫn là vấn đề quan trọng nhất đối với họ. Phải
làm sao cho cốt truyện có tình tiết éo le, sự kiện ly kỳ, tình huống gay cấn đầy
kịch tính thì tác phẩm đó mới đạt yêu cầu. Vì vậy, truyện truyền kỳ sử dụng
nghệ thuật kể là chính. Tìm hiểu một số truyện truyền kỳ chúng tôi thấy rõ
điều này.
Ở Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông qua thống kê cho thấy trong
tổng số 170 câu văn của truyện Tình Chuột thì có đến 161 câu kể, chỉ có 9 câu
tả. Truyện Chuyện lạ nhà thuyền chài trong tổng số 172 câu có 165 câu kể chỉ
có 7 câu tả. Đặc biệt trong truyện Bài ký một giấc mộng trong tổng số 83 câu
có 81 câu kể chỉ vẻn vẹn có 2 câu tả.
Trong 20 truyện Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ ta cũng thấy có
hiện tượng tương tự như vậy. Truyện Chuyện cái chùa hoang ở Đông Trào
trong tổng số 80 câu văn thì có tới 74 câu kể, có 6 câu tả. Truyện Chuyện cây
gạo trong tổng số 115 câu có 105 câu kể, chỉ có 10 câu tả.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
104
Như vậy, qua khảo sát thống kê một số truyện trong Thánh Tông di
thảo của Lê Thánh Tông và trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ ta
thấy: Trong những truyện truyền kỳ của văn học trung đại chủ yếu là dùng
biện pháp nghệ thuật kể để tái hiện lại cốt truyện. Tình tiết của các truyện
được xắp theo trình tự thời gian, sự kiện nào xảy ra trước kể trước, sự kiện
nào xảy ra sau kể sau, bố cục thường là mở đầu giới thiệu nhân vật, họ tên,
quê quán, tính tình, phẩm hạnh. Kế đó là các truyện kể kỳ ngộ lạ lùng, tức
phần trung tâm của truyện. Phần kết kể lý do của truyện, tạo cho cốt truyện
vẻ rõ ràng, mạch lạc.
Bên cạnh việc sử dụng biện pháp nghệ thuật kể, Lê Thánh Tông và
Nguyễn Dữ còn sử dụng biện pháp nghệ thuật tả, tả cảnh, tả người, tả tâm
trạng. Tuy không nhiều nhưng đã có ở một số truyện.
Vượt qua giới hạn về không gian, đến với truyện truyền kỳ của Trung
Quốc mà tiêu biểu là Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng Linh ta thấy tác giả cũng
chủ yếu sử dụng biện pháp nghệ thuật kể. Trong truyện Hồ gả con trong tổng
số 114 câu văn có 106 câu kể, chỉ có 8 câu tả. Truyện Bộ ra vẽ trong tổng 139
câu thì có 135 câu kể chỉ có 5 câu tả. Truyện Bức hoạ trên tường có 66 câu thì
có 58 câu kể, chỉ có 8 câu tả.
Qua những con số thống kê trên ta có thể khẳng định một điều rằng
biện pháp nghệ thuật kể là một phương tiện hữu hiệu nổi bật nhất trong các
truyện truyền kỳ.
Đi vào thế giới truyện "kinh dị" của Thế Lữ ta thấy có sự thay đổi trong
việc sử dụng biện pháp nghệ thuật kể trong mối tương quan với nghệ thuật tả.
Thế Lữ không chỉ chú trọng vào sử dụng biện pháp nghệ thuật kể để tái hiện
cốt truyện như trong những truyện truyền kỳ. Truyện Cái đầu lâu có 30 câu tả
trong tổng 158 câu văn... Như vậy, rõ ràng trong những truyện "kinh dị" của
Thế Lữ yếu tố kể và tả có sự đan xen không tách biệt như ở truyện truyền kỳ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
105
Một điểm khác biệt dễ dàng nhận thấy giữa truyện "kinh dị" của Thế
Lữ và truyện truyền kỳ là nếu ở truyện truyền kỳ mở đầu truyện thường kể lai
lịch, quê quán, họ tên... Trong truyện Thế Lữ mở đầu truyện thường đưa
người đọc vào không khí rờn rợn, ly kỳ, huyền bí gây ấn tượng sâu sắc và lôi
cuốn người đọc.
Trong Vàng và Máu, tác giả đã kể lại những câu chuyện, những lời đồn
đại về núi Văn Dú và hang thần mà người dân sống quanh đó cho biết: "Có
người nói rằng thường trông thấy những hình bóng kỳ dị" [38-33]. Còn trước
cửa hang "Người thì bảo có toàn đầu lâu, người thì bảo có đủ các thứ rắn rết"
[38-33]. Những người già cả trong làng thì cho rằng "Hang thần hoá thiêng vì
trong đó chôn cất không biết bao nhiêu thây của quân giặc khách. Bọn giặc
này sang tàn phá nước Nam khi trước bị quân ta đuổi riết, túng thế ẩn vào
Văn Dự rồi bị hãm chết đói trong hang [38-3]. Có một thời muốn phòng
những tai nạn người ta đặt tế lễ thần Văn Dú hàng năm "Vật hy sinh là một
người con gái đẹp. Tiếng oan khóc của cha mẹ những người gái trinh bị giết
quăng xuống suối nghe bi thảm"[38-34].
Tác giả đã đưa một loạt những câu chuyện, những lời đồn đại tạo ra
một không khí huyền bí rờn rợn bao quanh hang thần và núi Văn Dú. Từ màn
sương mờ ảo, hư thực xung quanh những câu chuyện đó tác giả dẫn dắt người
đọc vào câu chuyện hai người đàn ông Thổ từ miền bản Đông thuộc Châu
Khao Lâm đến hang Văn Dú tìm vàng, rồi câu chuyện ông Châu Nga Lộc
cùng năm bộ hạ vào hang tìm vàng. Đến hang thần Văn Dú họ gặp những
cảnh tượng quái gở, kinh hoàng.
Truyện Cái đầu lâu, nhân vật tôi đưa người đọc vào không khí rờn rợn
theo một hướng khác. Trong khi kể chuyện về Cái đầu lâu mà anh Thao
mang về, cùng với những âm thanh lạ phát ra từ đó. Người kể chuyện để cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
106
nhân vật của mình phát ngôn ra những lời thoại hồi tưởng về cái đầu lâu. Ví
dụ nhân vật Chung cho rằng "Tôi vừa mới đọc xong những truyện kinh hồn
hiển hiện anh cho mượn ngày trước - Tôi nhân đọc các sách anh cho mượn và
gần đây lại được đọc một đoạn dật sứ về hồi đại cách mệnh pháp, thấy người
kể chuyện những thủ cấp sau ba bốn giờ vẫn còn sống được" [38 - 178 - 181].
Với cách kể chuyện như vậy thì các yếu tố ly kỳ rùng rợn từ câu chuyện về
cái đầu lâu sẽ tăng theo trường liên tưởng các nhân vật.
Trong truyện Trại Bồ Tùng Linh. Mở đầu truyện đề cập đến trại Bồ, nơi
nhân vật tôi đến thuê ở trọ, người kể chuyện đã tạo ra không khí rùng rợn
huyền bí của khu Trại Bồ bằng cách kể lại những lời đồn đại của những người
dân sống chung quanh về Trại Bồ: "Tôi cũng có nghe thấy mấy người tôi thuê
đến quét dọn nói bóng gió, đến sự "bỏ không" của trại này. Hình như trong
gia đình "cụ lớn" có người chết oan hoặc tự tử, hoặc hoá điên không rõ lắm"
[38 - 294]. Còn người coi Trại Bồ thì: "Nhắc đến một vài chuyện ma quái mà
hắn đã có lần trông thấy hồi hắn phải ở trong trại" [38 - 301]. Từ lối dẫn
truyện này, nhân vật tôi đưa người đọc đến với câu chuyện rất dị thường mà
mình gặp tại Trại Bồ, đó là sự xuất hiện và hành động lạ lùng của một người
đàn bà đẹp vào đêm khuya trong Trại Bồ.
Không chỉ dừng lại như vậy, trong quá trình kể chuyện, nhân vật tôi
còn đưa thêm những lời đồn đại về Trại Bồ để đẩy cao hơn không khí rờn rợn,
ly kỳ của câu chuyện khi thằng Dần lo sợ về chuyện của chủ nó. Nó đã hỏi
người nhà quê và được biết "Theo lời đồn quanh quẩn đó thì Trại Bồ vẫn có
ma, khi thì mập mờ, khi thì hiện rõ, nhưng không làm ai việc gì" [38 - 342].
Việc tạo ra những lời đồn đại đó khiến câu chuyện càng trở nên ly kỳ, hấp
dẫn, nó mang dáng dấp của những thiên Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh.
Với cách kể chuyện theo một lối riêng. Thế Lữ như dẫn người đọc vào
một thế giới ly kỳ, huyền bí. Truyện kinh dị của Thế Lữ mới nhìn, mới nghe
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
107
người ta tưởng đó là những chuyện hoang đường ma quái. Đúng là tác giả đã
cố tình gây nên trong truyện một không khí rờn rợn, ly kỳ. Chủ tâm đưa
người đọc vào thế giới đầy bí ẩn nhưng cuối cùng lại được giải thích một cách
khoa học, thấu đáo. Chính sự khác biệt đó làm nên sự thành công và nét đặc
sắc trong phong cách của nhà văn ở loại truyện này.
3.3.2.2. Nghệ thuật tả
Bên cạnh sự khác biệt ở sử dụng biện pháp nghệ thuật kể, truyện kinh
dị của Thế Lữ và dòng truyện truyền kỳ còn có sự khác biệt ở việc sử dụng
biện pháp nghệ thuật tả. Các sự kiện trong truyện truyền kỳ được kể lại như
nó vốn có, ít thấy phân tích hoặc miêu tả. Nếu có thì chung chung, khái quát
ước lệ.
Chẳng hạn khi miêu tả nhan sắc cô gái đẹp. Bồ Tùng Linh, Lê
Thánh Tông, Nguyễn Dữ thường dùng những cụm từ sau "dung nhan
tuyệt đẹp", "tươi đẹp vô song","nhan sắc tuyệt đẹp","xinh đẹp như
tiên","khuôn mặt diễm lệ"...
- Truyện Hồ gá nữ - Hồ gả con: "Ông đưa mắt liếc nhìn tóc phượng cài
trâm thuý, tai đeo ngọc minh châu, dung nhan tuyệt đẹp" [42 - 13].
- Truyện A Bảo - cô Bảo: "Ông cụ có một người con là A Bảo, là người
tuyệt sắc".
- Truyện Bài ký một giấc mộng (Lê Thánh Tông): "Đêm khuya mộng
thấy hai người con gái rất đẹp độc một phong thư" [68 - 14].
- Truyện Cây gạo (Nguyễn Dữ): "Dọc đường hay gặp một người con
gái xin đẹp... Chàng liếc mắt trông thấy một giai nhân tuyệt sắc" [68 - 41].
Ngược lại với truyện truyền kỳ, trong truyện "kinh dị" của Thế Lữ nghệ
thuật miêu tả là nét đặc sắc, là nội dung thành công nhất. Thế giới "kinh dị"
được nhà văn miêu tả là thiên nhiên, con người và tâm trạng con người. Với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
108
trí tưởng tượng, khả năng quan sát tuyệt vời, Thế Lữ đã viết lên những trang
tả cảnh, tả vật, tả tâm trạng hấp dẫn gây ấn tượng.
Thiên nhiên trong truyện "kinh dị" được Thế Lữ miêu tả là một thiên
nhiên vắng vẻ, hoang sơ, đầy bí ẩn, là nơi rừng thiêng nước độc. Đứng trước
thiên nhiên đó con người bị choáng ngợp, phải rùng mình khiếp sợ. Thiên
nhiên được nhà văn đặt trong không gian từng tác phẩm để thể hiện.
Trong Vàng và Máu cảnh núi Văn Dú nơi diễn ra câu chuyện sừng
sững giữa trời: "Trông đường bệ hách dịch như đứng làm chúa tể cho cả một
phong cảnh hoang vu... Những buổi hoàng hôn bóng chiều soi riêng một phía
cũng như các ngày ủ dột âm u, Văn Dú hiện ra một vẻ riêng oai linh và mầu
nhiệm..." [38 - 31]. Đối với Văn Dú, người dân Thổ ở đây không chỉ có tấm
lòng thành kính cẩn phảng phất trước cảnh bát ngát, cao cả mà họ còn sợ hãi
nó như một con vật có tri giác, có quyền phép làm hại người. Có ai đó trong
số họ nói tới Văn Dú là nói tới sự gở lạ. Họ chỉ gọi tên quả núi trong khi tức
giận nhau mà chửi rủa hay những khi thề bồi.
Bên cạnh miêu tả núi Văn Dú, trong Vàng và Máu, tác giả còn tái hiện
cảnh hang thần, nơi bọn người Tàu để của "Hang thần trông cũng không to:
bề cao bằng nửa cây gạo già mọc trước cửa. Miệng hang loe ra như cái miệng
hũ. Phía trên có chỗ toác ra như một cái môi rách, phía dưới có hai tảng đá dài
và nhọn đâm lên ở hai bên mép như hai cái nanh... Trên cửa hang chi chít các
giống thảo mộc kỳ dị lấp lánh vì nước mưa phùn mới rửa..." [38 - 38]. Phía
hữu hang thần là: "Mấy cây dại hình thù kỳ quặc; những cây này đang uốn có
sát chân núi, cây thì chui ra khỏi một tảng đá vỡ, cây thì để cho dây leo quấn
chằng chịt" [38- 38]. Có thể nói hang thần được tác giả miêu tả giống như một
con vật hung ác, sẵn sàng cướp đi tính mạng của những người đến gần nó.
Chính vẻ hoang sơ kỳ dị của hang thần đã khiến cho hai người Thổ hoang
mang, hai mắt mở lớn, người thì nhìn tả, người thì liếc hữu "Hang này cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
109
đất độ bốn năm thước, cửa hang to bằng một cái nong. Không thể biết hang
nông hay sâu. Trông vào thì thấy mù mịt đen..." [38- 95]. Thế Lữ đã huy
động mọi giác quan để miêu tả hang thần. Vì vậy đã gây ấn tượng sâu sắc với
người đọc. Trong Vàng và Máu những đoạn tả cảnh Văn Dú, hang thần,
những xác chết vừa có nét tinh tế của cây bút hiện thực, vừa có những cảnh
vật cải dạng dưới con mắt của một thi nhân, thành ra tỉ mỉ mà không khô
khan, rùng rợn mà vẫn thi vị.
Cảnh thiên nhiên được miêu tả trong một đêm trăng lại là cảnh đêm
trăng miền núi rừng vừa hùng vĩ, vừa ghê sợ. Cảnh được cảm nhận từ thính
giác của nhân vật tôi "Một giải suối róc rách ở gần, tiếng sóng như thuỷ tinh
reo vào trong một thứ giọng rù rù tối tăm của những côn trùng dưới cỏ. Sau
lều thì khu rừng cây yên lặng như ngủ kỹ, nhưng ở trong đưa ra những tiếng
bí mật... xa xa rõ thực ra, giọng thác ào ào, để ý thì mỗi lúc thấy một thêm gần
rồi lại xa dần, rồi lại như biến đi mất..." [38 - 43]. Trong Lưỡi Tầm sét lại là
âm thanh "Tiếng kêu xột xoạt như có tay ai xoa lên" trên mái nhà "Tiếng vụt
qua khe cửa nghe rít lên từng hồi giận dữ và thê thảm" [38- 188].
Qua trí tưởng tượng phong phú, sự kết hợp hài hoà nhiều giác quan
trong quá trình miêu tả cảnh vật, kèm với một cây bút hoạ cảnh tài tình. Thế
Lữ đã miêu tả thành công những cảnh vật thiên nhiên trong truyện "kinh dị"
của mình. Cảnh được miêu tả hiện lên trong các tác phẩm này thường là cảnh
thiên nhiên hoang vắng ghê rợn. Cảnh vật đó góp phần quan trọng trong việc
làm nổi bật thế giới "kinh dị" của Thế Lữ.
Bên cạnh việc mô tả thành công bức tranh thiên nhiên tác giả còn thành
công trong việc mô tả cái rùng rợn từ thế giới con người. Cái rùng rợn từ thế
giới con người có thể là sự xuất hiện bất ngờ lạ lùng, bí ẩn của những người
phụ nữ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
110
Người phụ nữ trong Truyện kinh dị của Thế Lữ có một vẻ đẹp khác
thường. Trong một đêm trăng cô gái xuất hiện vào đêm khuya thanh vắng
ở trong rừng. Vẻ đẹp lạ thường của cô gái khiến nhân vật tôi phải thốt lên:
"Trời ơi! Con gái Thổ mà có người nhan sắc đến thế này ư? Tôi tỉnh hay
mơ" [38- 11].
Cô gái trong Lưỡi tầm sét lại vào nhà anh Kỳ trong một hoàn cảnh đặc
biệt vào một đêm khuya mưa to, gió lớn: "Một người đàn bà, một người con
gái thì đúng hơn - mình mấy trần truồng, chỉ còn mấy mảnh quần áo rách
bươm không đủ che thân, đáng đứng vừa run vừa nhìn chúng tôi một cách
kinh hoàng. Mặt xanh xám nhưng trông vẫn thấy đẹp" [38-193] Không chỉ có
vậy, người này còn có cử chỉ hành động lạnh lùng "ôm choàng ngay lấy kỳ
không chịu bỏ ra nữa..." [38-193] có hỏi thì cô gái chỉ lắc đầu không thưa, sau
đó bỏ đi khiến hai người kinh ngạc. Để giải toả sự ngờ vực họ mở cửa ra
ngoài xem cô gái đi đâu nhưng họ không thấy cô gái đi đâu cả.
Ở truyện Trại Bồ Tùng Linh người đàn bà xuất hiện vào ban đêm nơi
trại Bồ hoang vắng, u tịch. Tác giả dành khá nhiều đoạn để miêu tả vẻ đẹp của
người đàn bà này. Đó là người đàn bà đẹp đến kỳ dị: "Giữa khung cửa sổ một
khuôn mặt lặng lẽ, trắng một cách lạ, một khuôn mặt đàn bà rất trẻ đẹp, một
vẻ đẹp tuyệt mỹ, đẹp đến lạnh mình" [38-298] không chỉ có vẻ đẹp lạ thường,
người đàn bà còn có những hành động bí ẩn xuất hiện như đã có ở đó từ bao
giờ và thoáng biến ngay như không bao giờ có khiến Tuấn kinh ngạc dị
thường. Sự xuất hiện đấy bí ẩn của người đàn bà trong truyện Trại Bồ Tùng
Linh đã đưa người đọc vào một không khí huyền bí của những mẩu chuyện kỳ
dị lạ lùng trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh.
Truyện kinh dị của Thế Lữ bên cạnh những trang miêu tả cái chết ghê
rợn, tác giả còn khắc hoạ diễn biến tâm lý thầm kín trong đáy sâu tâm hồn
nhân vật khi những nhân vật đó phải đối mặt với những điều bất thường. Còn
diễn biến tâm lý của nhân vật được miêu tả trong truyện thần kỳ chủ yếu được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
111
miêu tả bằng phương pháp "vẽ rồng chấm mắt". Ví dụ trong Liêu trai chí dị
chỉ cần một vài chi tiết đơn giản người viết đã nêu lên được cái thần của vấn
đề diễn biến tâm lý nhân vật trong truyện kinh dị của Thế Lữ được miêu tả
công phu, tỉ mỉ, chi tiết.
Đó là tâm trạng ghê sợ của hai người đàn ông Thổ thuộc Châu Kao
Lâm khi đến hang văn Dú trong truyện Vàng và máu: "Hai người Thổ cùng
nín tiếng, hai mắt mở lớn, người thì đưa nhìn tả, người thì liếc hữu, rồi lại
trông vào cái lỗ hang đen tối âm thầm" [38-38]. Khi nhìn thấy một người chết
treo dưới cây bàng trụi lá ở gần cửa hang thì hai người Thổ "Hai bác Thổ nắm
chặt lấy tay nhau, không dám tiến, không dàm lùi, quanh mình chỗ nào cũng
thấy toàn sự chết" [38-40], tâm trạng của ông Châu và những người bộ hành
khi nhìn thấy cảnh tượng quái gở kinh hoàng: "ông cũng sửng sốt như họ,
đứng lặng không nói được gì.." [38-77].
Truyện Cái đầu lâu là tâm trạng hồi hộp lo sợ của mọi người, đặc biệt
là anh Chung khi nghe thấy âm thanh lạ phát ra từ cái đầu lâu mà anh Thao
mang về vào đêm khuya: "Chúng tôi cũng hết sức lắng tai tiếng đồng hồ đeo
tay anh Lịch nghe rõ mồn một. Tôi đếm tiếng tích tắc để biết thời gian, nhưng
mãi cũng sinh chán. Tay Chung vẫn sắm chặt lấy cánh tay tôi, nhưng hơi run
run. Còn tôi thì cứ muốn quát to lên, quát rất lớn để phá tan cái yên lặng ghê
gớm lúc đó" [38-184].
Truyện Trại Bồ Tùng Linh, tác giả đã miêu tả nhiều trạng thái cảm xúc
của nhân vật Tuấn. Đó là tâm trạng kinh ngạc, ghê sợ của Tuấn khi thấy
người đàn bà xuất hiện rồi biến mất trong đêm: "Thốt nhiên một cảm tưởng là
lạ ám đến, anh trờn trợn như mình có người chú ý, ngửng đầu lên trong khung
cửa sổ, một người rất đẹp đang nhìn anh, lẳng lặng và miệng như mỉn cười.
Tuấn chưa hết kinh ngạc thì người ấy đã lui ngay, nhẹ nhàng như lẩn biến vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
112
bóng tối..." [38-299;300] và tâm trạng khi chờ đợi người đàn bà xuất hiện:
"Tuấn nắm tay lại, nhìn phắt lên: ngoài cửa sổ vẫn không có gì khác. Hơi
Tuấn thở vội, hỗn loại với nhịp trống, Tuấn sững sờ và thấy mình ngộ nghĩnh
đáng nực cười..." [38-305].
Có thể nói ngòi bút tài hoa của Thế Lữ đã thành công khi lách vào
những ngõ ngách thầm kín, lắt léo nhất trong tận đáy sâu tâm hồn nhân vật
Tuấn để tìm hiểu, để mổ xẻ và khám phá.
Nhưng đặc biệt hơn cả, ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc qua
những truyện kinh dị của Thế Lữ là những cảnh mang không khí rùng rợn ly
kỳ. Đây là nét độc đáo, đồng thời cũng là nét khác căn bản thể hiện rõ ý đồ
nghệ thuật, cá tính sáng tạo của Thế Lữ so với những truyện truyền kỳ.
Như chúng ta đã biết, truyện truyền kỳ viết về yêu ma, hồ, quỷ mà
"Không hề gây ấn tượng rùng rợn" trái lại còn "có phần gần gũi, thân thiết",
"bình dị thấm đượm tình người". Ví như trong gần 900 trang Liêu trai rất
khó tìm ra những đoạn miêu tả cảnh tượng khủng khiếp khiến người đọc
phải đứng im, dựng tóc gáy. Nếu có cũng chỉ là vài hình ảnh lướt qua, chiếu
lệ, không để lại cảm xúc gì sâu đậm. Đây cũng chính là dụng ý của tác giả
bởi Bồ Tùng Linh chỉ muốn mượn ma, hồ để nói về con người, về cuộc sống
con người.
Khác với Bồ Tùng Linh, mục đích chính của Thế Lữ khi viết về những
chuyện “kinh dị” là để tìm đến "những cảm giác mới lạ và mãnh liệt" nhằm
thoả mãn trí tưởng tượng của mình. Bởi vậy trong những trang truyện kinh dị
của Thế Lữ ta thấy in đậm những yếu tố ly kỳ rùng rợn.
Truyện Vàng và máu là một trong những truyện xuất sắc mà Thế Lữ tỏ
ra một văn gia có biệt tài, tài tình về cách xây dựng cốt truyện, tình huống
đồng thời xây dựng nhiều yếu tố ly kỳ rùng rợn, khiến người đọc phải rùng
mình. Dưới một cây bàng trụi lá gần hang... "Một người chết treo dưới 1 cây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
113
bàng trụi lá mọc trên bức tường đổ nát mà mốc rêu. Người chết hình vóc to
lớn, đầu có bím vắt ra sau lưng, chiếc dây chão thõng xuống thắt nút ở sau
gáy và lẳn vào cổ, làm cho cái mặt phị, xám hơn bộ quần áo chàm ướt, cúi
gằm xuống mà nhìn người ta bằng hai con mắt có tròng đen..." [38-40]. Cái
xác co quắp của Nùng Khai ở ngoài cửa hang: "Nùng Khai nằm hơi nghiêng
đầu trở về phía hang cánh tay trái đè dưới mình, cánh tay phải khuỳnh vào
đưa lên trên không, cứng như que củi gãy, ngón tay và ngón chân đều rút
quặp lại, chân trễn dũa thẳng, chân dưới hơi cong lên..." [38-78].
Ấn tượng hãi hùng từ những xác chết không dừng lại ở đó, tác giả còn
dấy lên đỉnh điểm của sự rùng rợn với những xác chết ngổn ngang mà ông
Châu và bọn bộ hạ khi vào trong hang thần bắt gặp: "Một bọn năm, sáu
người đàn ông nằm ngồi hỗn độn bên những tảng đá cuội cực to, gần sát
chân vách đá... Bằng ấy các xác cứng đơ như tượng gỗ" [38,85,88]. Kết thúc
tác phẩm dường như tác giả vẫn chưa thoả mãn, ông còn để xác của người
Thổ Kao Lâm chết treo trên cây ổi nhà ông Châu. Có thể nói Vàng và Máu
tác giả đã bày ra một loạt xác chết, qua đó tạo nên một ấn tượng ghê rợn, hãi
hùng về câu chuyện vào hang lấy vàng của người Thổ. Tác giả đã dựng lại
cả một không khí ảm đạm, chết chóc bao quanh núi Văn Dú. Phải là một nhà
văn có trí tưởng tượng phong phú, Thế Lữ mới tạo nên được một không khí
ly kỳ đến như vậy.
Truyện Cái đầu lâu có nhiều tình tiết ly kỳ khiến người đọc rợn tóc
gáy. Đó là những tiếng "nghiến răng ken két" phát ra từ ban đêm, từ phía cái
đầu lâu để trên bàn giấy mà anh Thao lấy ở nhà thương mang về. Kỳ lạ thay
là tiếng nghiến răng cứ trẻ nhỏ sau to dần, có tiếng người thì lại ngưng bặt.
Không chỉ như vậy, cái đầu lâu còn "nghoảnh mặt về phía giường nhân vật tôi
nằm" rồi còn "lắc lư như thằng phổng nhựa của trẻ con chơi". Đến lúc này
tâm trạng kinh sợ mà những điều kinh dị trên gây ra có lẽ không còn là của
các nhân vật trong tác phẩm nữa mà trở thành tâm trạng của người đọc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
114
Đọc truyện Ông Phán nghiện, người đọc phải rùng mình ghê sợ trước
cảnh tượng kỳ quái "một con rắn cặp nong lớn, mình lấp lánh như chiếc khăn
quàng bằng lụa bóng đang yên lặng nằm vắt qua cổ ông Phán" [38-1947]. Rồi
cái chết bi đát: "Ông Phán nằm chết cóng trên bàn đèn tắt, mà con rắn thì
cuốn chặt lấy cổ ông, đầu nó đang cố rúc vào mũi ông ta, như muốn tìm cái
hơi thuốc phiện ở trong ấy" [38-151].
Truyện Hai lần chết cũng là một truyện khá ly kỳ hấp dẫn. Theo dõi
diễn biến câu chuyện người đọc không khỏi rùng mình khi đọc đến cảnh
tượng Tâm bật nắp quan tài tỉnh dậy, thấy Mão ngồi bên cạnh quan tài chăm
chú tờ di chúc. Thấy Tâm tỉnh lại, Mão đã tìm cách giết anh dìm nắp quan tài
xuống lấy thuốc định tiêm cho Tâm. Điên dại vì sự hiểm độc của Mão Tâm đã
vùng dậy bóp cổ Mão chết rồi bỏ vào quan tài. Ra toà Tâm được trắng án vì
chính Mão là người định giết hại Tâm. Ít lâu sau Tâm chết gục đầu bên tờ di
chúc thư để lại của cải cho Viện tế bần.
Tóm lại, với trí tưởng tượng phong phú, kết hợp giữa ảo và thực, Thế
Lữ đã thành công trong việc tạo dựng không khí rờn rợn, ly kỳ cho các truyện
kinh dị của ông. Kết quả giữa ảo và thực, giữa có và không, giữa những điều
tưởng tượng và những điều nhìn thấy đã mờ đi trong giác quan người đọc. Cái
duy nhất còn lại là một thế giới ngôn từ phong phú, một ngòi bút miêu tả điêu
luyện và một hiệu quả đặc sắc đến không ngờ. Đúng như nhận định của tác
giả Lê Đình Kỵ trong Lời giới thiệu tuyển tập Thế Lữ: "Loại sáng tác này cho
thấy một Thế Lữ có tài quan sát, có óc phân tích sắc bén, có trí tưởng tượng
dồi dào, cho nên dù ít đề cập vấn đề gì quan trọng về xã hội, nhân sinh, nó
vẫn được đón nhận và tìm đọc một cách thích thú... Cho đến nay trong lịch sử
văn học Việt Nam không thấy có tên tuổi nào đáng được xếp bên cạnh Thế Lữ
trong loại sáng tác 2khá độc đáo này" [26-54].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
115
3.3.2.3. Cách giải thích khoa học trong truyện kinh dị của Thế Lữ
Khi nghiên cứu Truyện kinh dị của Thế Lữ một số nhà nghiên cứu đã
khẳng định Thế Lữ có ảnh hưởng rất sâu sắc truyện ngắn của Edgarpoe và Bồ
Tùng Linh. Trong bài Thế Lữ như tôi biết, tác giả Hoài Việt khẳng định: "Bên
cạnh những cuốn tiểu thuyết trinh thám của Thế Lữ tôi còn rất mê loại truyện
quái dị của ông... Hẳn Thế Lữ muốn du nhập vào nền văn chương quốc nội
một loại truyện mới cho nó phong phú, đa dạng hơn. Cũng phải ghi công cho
ông về mặt này dù ta biết rất rõ ông chịu ảnh hưởng của Edgarpoe hay Bồ
Tùng Linh" [26-412]. Cùng chung với ý kiến và quan điểm trên tác giả Hoài
Anh trong cuốn Chân dung văn học có bài viết về Thế Lữ đã khẳng định: "Cả
về truyện trinh thám, Thế Lữ tuy có chịu ảnh hưởng của EdgarPoe,
ConanDoyle nhưng truyện của ông vẫn có tính chất dân tộc... [1-975].
Trong một số truyện quái dị của EdgarPoe và của Bồ Tùng Linh, ta
thấy kết thúc truyện luôn dừng ở sự thần bí, hoang đường, khó hiểu.
Truyện Sự thật về trường hợp của Ovaldima - EdgarPoe kể chuyện về
nhân vật tôi đang chú ý làm những cuộc thí nghiệm về thôi miên để tìm hiểu
khi thôi miên thì sự đe doạ của cái chết có thể ngăn chặn đến mức nào, thời
gian bao lâu. Ông Ovaldima - một người ốm nặng sắp chết đồng ý cho nhân
vật tôi làm thí nghiệm trên người ông ta ngay tại bệnh viện. Nhân vật tôi bắt
đầu tiến hành những thủ thuật như xoa lên chán ông, xoa dọc nhìn người sắp
chết... chân tay ông Ovaldima dần lạnh giá. Đến nửa đêm mọi người công
nhận ông đang ở trong tình trạng bị thôi miên hoàn toàn. Người cứng đờ,
nhưng không có biểu hiện của một người chết. Nhân vật tôi cầm tay ông đưa
đi đưa lại rồi hỏi thì "cả người ông như hơi rung lên, hai mí mắt từ từ hé ra
như để bày ra một đường trắng của nhãn cầu, đôi môi hấp máy lờ đờ và để
thoát ra mấy tiếng thì thào quá yếu gần như không nghe được... - vâng bây giờ
tôi đang ngủ. Đừng đánh thức tôi dậy!... Hãy cứ để tôi chết như vậy" [4-20]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
116
Đến khi trong người ông Ovaldima không còn một chút triệu chứng
nào của sự sống nữa và kết luận ông đã chết, thì lưỡi ông lại có chấn động
mạnh rồi phát ra một tiếng nói: "- Vâng, không tôi đã ngủ và bây giờ, bây
giờ thì tôi đã chết" [4-22]. Sự kỳ lạ này khiến mọi người sợ hãi. Gần bảy
tháng sau, người ông Ovaldima vẫn giữ nguyên trạng thái như trước, y tế
vẫn trực bên ông. Cuối cùng nhân vật tôi lại dùng kiểu đưa tay xoa lên người
ông để kéo ông ra khỏi trạng thái hôn mê vì thôi miên. Lúc đó xuất hiện một
hiện tượng kỳ lạ, khi trông mắt ông hạ xuống thì xuất hiện một dòng nước
mắt màu vàng nhạt chảy kéo theo ở dưới mi mắt. Khi nhân vật tôi đặt câu
hỏi cho ông ta thì "Mấy điểm nhô trên gò má lại xuất hiện ngay, lưỡi rung
hay đúng hơn hơn là cuốn lên rất mạnh trong miệng (mặc dầu hà và môi vẫn
y nguyên bất động) rồi dần dần cái thứ tiếng rùng rợn mà tôi đã mô tả bỗng
bật ra: - Lạy chúa! Nhanh lên! Nhanh lên! Nhanh lên! - Tôi đã nói với anh là
tôi chết rồi" [4-25].
Cuối cùng khi nhân vật tôi đang xoa nhanh trên người Ovaldima theo
kiểu thôi miên, qua những tiếng kêu "chết, chết" phát ra từ đầu lưỡi người
bệnh thì ngay lập tức chỉ trong vòng một phút, toàn thân ông nát vụn ra từng
mảnh nhỏ hoàn toàn thối rữa. Ở truyện ngắn này, sự kỳ lạ như: cử chỉ, lời nói
đầy bí ẩn của ông Ovaldima khi ông đã chết không được nhà văn giải thích
cho người đọc rõ vì sao có hiện tượng kì lạ như vậy. Tất cả vẫn là một sự
huyền bí đối với người đọc.
Ở truyện Trái tim thú tội có một chi tiết kỳ lạ: Lão già đã bị chặt làm
nhiều khúc từ đêm nhưng đến sáng hôm sau tim lão vẫn còn đập, không chỉ
có vậy còn phát ra những âm thanh. Âm thanh ngày một lớn dần, nhưng vì
sao lại như vậy nhà văn không lý giải nổi. Tuy nhiên, qua truyện ngắn này tác
giả muốn gửi gắm một điều với người đọc rằng. Người ta nếu có tấm lòng
lương thiện, vị tha trước sau cũng sẽ nhận ra và hối hận trước những việc làm
không tốt của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
117
Trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, các truyện ngắn đều là những
truyện ma quái, huyễn hồ nhưng kết cục chỉ dừng lại ở sự thần bí. Truyện Bộ
da vẽ có nhiều chi tiết kì lạ như quỷ biến thành người con gái đẹp. Trần Thị
nôn ra một quả tim, người chết mất tim đã lâu nhờ một quả tim khác sống lại,
chỗ bị xé rách ở bụng Vương hôm qua thì đóng vẩy to bằng đồng tiền vì sao
lại có sự kỳ lạ, lạ lùng như vậy thì Bồ Tùng Linh không làm rõ.
Ở truyện Bức hoạ trên tường có những chi tiết ly kỳ mang màu sắc
hoang đường kỳ quái như: Chàng Chu bay lên tường gặp cô gái trong bức vẽ,
hai người giao hoan, rồi lại bay xuống mà Mạnh Long Đàm đứng đó không
nhìn thấy gì. Vì sao có sự kỳ lạ đó vẫn là câu hỏi tác giả bỏ ngỏ cho người
đọc tự suy ngẫm.
Ở Việt Nam cùng thời gian đó có một số nhà văn khác có những tác
phẩm đề cập đến sự kinh dị ma quái như Tchya Đái Đức Tuấn, Nguyễn Tuân,
Phạm Cao Củng, Thanh Tịnh, Lan Khai,... Mặc dù viết về sự ly kỳ rùng rợn
nhưng trong sáng tác của các nhà văn này kết cục không có sự lý giải khoa
học mà thường dừng ở sự huyền bí. Truyện của các nhà văn này vẫn chưa
thoát khỏi dáng dấp của những truyện truyền kỳ ở Việt Nam cũng như Liêu
trai chí dị của Bồ Tùng Linh.
Truyện Ai hát giữa rừng khuya của Tchya Đái Đức Tuấn, tác giả kể lại
một lần về Nam Định xuống ga Gôi thăm một một người bạn cũ. Hôm ây trời
đang nắng chang chang bỗng đổ mưa, khí đất bốc ngùn ngụt đầy huyền bí,
người bạn dẫn tác giả đến chân đồi chứng kiến một cảnh lạ lùng: hai âm hồn
hiển hiện, hai con ma cụt đầu múa võ. Chuyện này kích thích trí tò mò của tác
giả quyết đi ngao du để tìm hiểu thêm.
Tác giả đến Đồng Giao, một hạt hẻo lánh, hoang vu thăm bạn cũ là
Trần Văn Thuỷ. Vùng này chứa đựng biết bao chuyện khủng khiếp: cướp bóc,
giết người và mãnh thú ăn thịt người. Đêm khuya tĩnh mịch, tác giả bỗng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
118
nghe có tiếng đàn hát văng vẳng, như xa như gần. Thuỷ kể lại cho bạn nghe,
mùa xuân cách đây chừng 60 năm, Nguyên Quan tri phủ Nho quan làm lễ ăn
mừng. Trong hạt Bàn Thạch phủ thọ Xuân có ba anh em (Văn Quản, Huyền
Cơ, Oanh Cơ) mồ côi cha mẹ, nổi tiếng hát hay, đàn giỏi muốn tới dự lễ để
kiếm giải hát và nối lại tình xưa. Trên đường đến nhà Quan tri phủ Nho quan,
họ bị lạc đường, gặp tráng sĩ Lê Trọng Việt, họ tìm chỗ ngủ trên cây để tránh
thú dữ. Oanh Cơ và tráng sĩ lên trước rồi kéo Văn Quản và Huyền Cơ lên,
nhưng không kịp hai người dã bị hổ ăn thịt. Tráng sĩ phi tiêu hổ đã bỏ chạy,
tráng sĩ đưa hai cái xác lên cây, được tráng sĩ giúp đỡ, sau khi làm ma cho anh
chị xong, Oanh Cơ quyết định không đi Nho Quan mà ở lại cùng với cháu
Nguyễn Tiêu ở Đồng Giao. Sau đó trong hạt Đồng Giao xôn xao câu chuyện
đêm ở thung lũng cách Đồng Giao gần năm dặm người ta nghe thấy tiếng hát
não nùng. Oanh Cơ biết đó là oan hồn của anh chị mình.
Tác giả đã vén màn bí mật về sự xuất hiện của hai cái oan hồn cụt đầu
trên núi gôi và âm thanh đờn ca từ sừng Đồng Giao vọng lại. Nhân vật tôi
được cụ Trần Công Chất kể lại cho nghe: Theo lời cụ hai chuyện này có một
sự liên lạc với nhau, do một gốc mà ra. Đó là chuyện về một vị quan binh
đứng đầu cai đội quản binh trong thành Bắc Ninh là Lê Vũ Khúc. Mùa xuân
năm 1884, thành Bắc Ninh thất thủ về tay Pháp, khi thành có xung đột, ông
lên thành chỉ huy thì bị thương, rồi bỏ chạy về đất phong ấp của ông, đến đó
thì chết. Sau khi thành Bắc Ninh bị ha, ba năm, mẹ con Lê phu nhân đã bỏ đất
phong ấp ở Bắc Ninh về núi Gôi sống. Về đó hai anh em Việt, Khôi chỉ thích
luyện võ và sau cả hai đều trở nên hùng dũng. Lê phu nhân lúc này bị liệt, hai
anh em phải ở nhà lo trông mẹ và thay nhau đi săn bắn. Một hôm đi săn ở
mạn Đồng Giao về, Việt dẫn theo Oanh Cơ và đứa cháu Khôi đi săn luôn, cứ
về là hai anh em lại lên núi múa võ trên đồi. Sau đó, hai anh em Việt, Khôi bị
tình nghi cộng tác với Nguyễn Quán - một tướng cướp đang bị quân nhà nước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
119
lùng bắt - Hai anh em bị bắt lên huyện và tự tử ở chân đồi Gôi - nơi hai người
thường thí võ. Khi về khám nhà Khôi, Việt, tay thư ký thông ngôn say đắm
sắc đẹp của Oanh Cơ nên đã giúp đỡ cô cháu Oanh Cơ. Sau khi đoạn tang,
Oanh Cơ quyết định lấy thày thông ngôn. Thày thông ngôn sau được nhận
chức Tri Châu ở Phong Thổ. Oanh Cơ cùng con gái, người hầu trên đường từ
Sa Pa về Phong Thổ đã nghỉ chân ở đèo Ô Quý Hồ. Ở đó nàng bị hổ bắt tha
đi, theo nghiệp số, Oanh Cơ phải theo anh chị chết dưới vuốt loài mãnh thú
nên hổ đã tìm mọi cơ hội để bắt nàng. Từ ngày bị hổ tha vào bụi, những đêm
mưa dầm gió bấc, không trăng, qua đèo Ô Quý Hồ lại vắng có tiếng giọng
đờn ca, ai bạo qua vào trong rừng vắng thì thấy ba bóng ma đàn hát cho một
con hổ ngồi nghe.
Như vậy trong truyện ngắn này, chuyện lạ kỳ dị bí mật về sự xuất hiện
hai tráng sĩ cụt đầu ở núi Gôi và âm thanh tiếng hát ở Đông Giao là có nguồn
gốc từ những câu chuyện cụ thể. Tác giả đã vén màn bí mật này để cho người
đọc rõ. Tuy nhiên tác giả vẫn chưa giải thích rõ vì sao hai tráng sĩ đã chết mà
hình ảnh của họ lại hiện ra múa võ trên đồi sau khi mưa tạnh và anh em Oanh
Cơ đã chết mà, tiếng hát của họ vẫn cất lên trong rừng.
Truyện Khoa thi cuối cùng của Nguyễn Tuân kể về sự long đong lận
đận trên con đường thi cử của hai anh em ông Đầu sứ vùng Nam Sơn Hạ bắt
nguồn từ "một việc thất đức" mà ông cụ thân sinh họ phải "mang lấy trách
nhiệm tinh thần". Thời trai trẻ ông Đầu Sứ anh đi thi, khi làm bài thi hình ảnh
oan hồn hiện lên khiến ông phải bỏ dở kỳ thi, rồi đến ông đầu sứ em khi đi thi
bị đau bụng cũng phải bỏ dở.
Việc xuất hiện oan hồn cản trở chuyện thi cử của hai anh em ông Đầu
Sứ là một câu chuyện kỳ dị. Truyện kỳ dị này được nhà văn dừng lại ở sự ma
quái - sự báo oán của oan hồn người chết - Tác giả không giải thích rõ cho
người đọc hiểu vì sao xuất hiện oan hồn đó khi con người đã chết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
120
Đến truyện Loạn âm lại là sự xuất hiện kỳ lạ của vị Quan Ôn cùng với
quan quân triều đình lên dương gian bắt phu mở đường. Vì là bạn cùng học
với ông Kinh lịch, lại là học trò của cha ông nên Quan Ôn mới đến nhà ông
Kinh thăm ông, tặng lễ vật và bảo ông Kinh xem có ai là ân nhân, người họ
gần xa, tu nhân tích đức thì bảo Quan Ôn để Quan Ôn châm trước cho họ
không bị phải chết. Lúc đầu ông Kinh lịch không xin cho ai sau ông đã xin
cho tên tiểu bộc của ông Kinh Lịch. Sau đó Quan Ông đến mời ông Kinh làm
quan dưới ấm phủ nhưng vẫn làm việc ở dân gian.
Trong tác phẩm này, cái chết của nhiều người sau đêm Quan Ôn nói lên
dương gian bắt phu mở đường có thể được giải thích là do họ chết vì bệnh dịch
tả. Nhưng sự xuất hiện của Quan Ôn và quan quân triều đình đi bắt lính truyện
Quan Ôn mời ông Kinh làm việc dưới âm, sự giao tiếp giữa người và ma lại là
một sự huyền bí, tác giả không lý giải cho người đọc rõ sự huyền bí đó.
Truyện Người con gái tỉnh Bắc của Phạm Cao Củng cũng có những chi
tiết kỳ dị, lạ lùng. Trong truyện Vũ đến trọ học ở nhà bà cụ Đỗ bán hàng, vì
nhà dưới chật, nóng Vũ lên gian gác xép học. Ở đó Vũ đã thấy nhiều sự lạ:
Một người con gái đẹp xuất hiện lạ kỳ, rồi một bộ xương người, người hiện
rồi bién mất... Sau khi hỏi người con gái đó thì Vũ mới được biết người con
gái đẹp và bộ xương xuất hiện là một - tên cô gái là Ngọc Bích, quê ở tỉnh
Bắc, con ông Tham Tá. Trong chiến tranh khi họ học ở nhà Phán Tâm cô đã
trú ở trên căn gác xép và bị chết đói ở đó, không được chôn cất. Ước muốn
của cô là được Vũ chôn cất cho yên đẹp nắm xương. Hôm sau, Vũ tìm thang
trèo lên gác quả nhiên có một đống xương, anh bèn nhờ người chôn cất.
Truyện ngắn này chứa nhiều chi tiết ly kỳ: Sự xuất hiện của cô gái, bộ
xương... sự xuất hiện này theo tác giả là oan hồn của cô gái trở về nhờ Vũ
chôn giúp nắm xương tàn của cô. Nhưng vì sao người chết lại xuất hiện và có
những hành động như thế thì tác giả không lý giải cụ thể.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
121
Khác với các nhà văn trên, truyện kinh dị của Thế Lữ đằng sau những
yếu tố ly kỳ rùng rợn được tác giả giải thích rất logic và khoa học. Điều này đã
được rất nhiều nhà nghiên cứu phê bình khẳng định. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc
Phan trong bài Thế Lữ có viết "Trong tập truyện ngắn của Thế Lữ, tôi cũng chỉ
thấy những truyện căn cứ vào sự thực là hay thôi. Đời khoa học có khác, người
ta phần nhiều bị ảnh hưởng khoa học, mới cảm được độc giả" [26-25]. Tế
Hanh thì khẳng định: "Ở Thế Lữ thơ và văn xuôi trái ngược hẳn nhau; nếu
nhà thơ Thế Lữ đắm đuối mơ màng trong những giấc mộng xa xăm thì văn
xuôi Thế Lữ rất tỉnh táo và khoa học" [26-383]. Trong cuốn Chân dung văn
học, Hoài Anh khẳng định: "Truyện trinh thám của ông có sự kết hợp giữa
kịch tính và chất thơ, giữa ly kỳ rùng rợn và lý giải khoa học, điều này cũng
khiến ông gần gũi với EdgarPoe..." [1-975].
Quả đúng như nhận định của các nhà nghiên cứu, khi đi vào tìm hiểu
cách giải thích trong truyện kinh dị của Thế Lữ chúng tôi thấy: cách giải thích
của ông rất khoa học. Đúng là tác giả đã cố tình gây nên trong truyện một
không khí rờn rợn, ly kỳ, huyền bí, chủ tâm đưa người đọc vào thế giới đầy bí
ẩn mà chẳng qua là do những mưu mô xảo kế của người đời, hay do trí tưởng
tượng bệnh hoạn hoặc bị ám ảnh tạo nên. Tóm lại, các truyện có vẻ giật gân
kia điều có nguồn gốc xã hội, nguồn gốc tâm lí.
Truyện Vàng và máu là một câu truyện Tàu để của, cái đặc sắc của
truyện này là đề cao sự tin tưởng vào khoa học, vào trí người. Ông Quan
Châu ở đây để đối phó với hang Văn Dú, để tìm vàng bạc cất dấu, không
dùng đến thầy mô cúng bái như lời dặn của người thổ Kao Lâm, không tin
vào những phép yểm của người đọc chú. Ông sử dụng óc quy nạp, thâu nhập
những tài liệu để dựng lại câu chuyện, óc suy diễn để giải thích hiện tượng, óc
quan sát và thực nghiệm để tìm ra nguyên nhân của sự giết người. Kết quả
ông đã tìm ra được kho vàng, lại khám phá ra cái bí mật đã giết chết những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
122
người đến trước ông - những tảng đá cuội có trát thuốc độc, chẳng phải bùa
phép thần thánh gì cả: "Chung quanh tảng đá này, có một sức mạnh giết
người mau chóng hơn cả thần thánh nữa; đó là nhựa của một thứ cây độc tên
là Mây Nôm, thứ cây mà bọn mán đi săn với quân giặc ở Mỹ núi hiểm gọi là
Công đia đeng. Nhựa cây này, ngâm tên thì hoá độc: bắn, không phải cứ chỗ
hiểm, chỉ làm trầy da rớm máu cũng đủ cho kẻ bị thương chết không thể cứu
được. Nhưng nếu chế luyện theo phép của một vài giống sợ bên Trung Quốc
là giống bôi thuốc độc vào móng tay để cào cấu kẻ thù thì nhựa cây đó trở nên
rất mạnh và giết người một cách ghê gớm mau chóng hơn. Viên quan Tàu kia
hẳn biết cách chế luyện nó. Rồi ông Châu gắp đưa cho mấy người bộ hạ xem
những mảng cát bám trên tảng đá cuội. Ông bảo rằng đó là thứ cát làm bằng
mảnh sứ hoặc thuỷ tinh băm nhỏ, luyện cho keo lại với thứ thuốc độc mà ông
vừa nói. Thứ keo riêng ấy đem trát lên các hòn đá xây lắp cửa hang, là thành
một thứ quân canh gác chắc chắn không gì bằng. Cho nên những kẻ đi tìm
vàng trước ông Châu như bọn con cháu họ Hoàng, bọn cướp Khách với tên
Nùng Khai đều vi phạm đến vật nguy hiểm kia, bị thứ cát sắc cạnh phủ trên
đá đâm vào da mà bỏ mạng... " [38-105; 106]. Đúng như Khái Hưng đã viết
trong bài tựa "không có gì xảy ra mà không hợp lệ, không một kết quả nào là
không có nguyên nhân chắc chắn vững vàng". Ta nhớ khi nhóm Tự lực văn
đoàn mới ra đều có nêu một điều trong bảng tôn chỉ là: "Đêm phương pháp
khoa học Thái tây ứng dụng vào văn chương An Nam...". Đó cũng là cái chủ
trương chống phong trào tiểu thuyết thần bí, hoang đường, bài trừ óc mê tín,
luyện óc khoa học.
Đến truyện Một đêm trăng, tác giả trong một chuyến đi rừng, nghỉ đêm
tại một cái lều, bạn đồng hành kéo vào trong bản chơi, tác giả ở lại trong lều
một mình, ngắm ánh trăng, nghe tiếng thác rồi ngủ thiếp đi. Bỗng một người
con gái xinh đẹp vào lều đánh thức ông dạy rồi rủ ông đi chơi khiến ông ngạc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
123
nhiên, bất ngờ không tin vào mắt mình "Trời ơi! Con gái Thổ mà có người
nhan sắc đến thế này ư? Tôi mơ hay tỉnh?" [38-11] Cô gái ở đây là: ma rừng?
Gái quỷ? hay Hồ tinh? Cô Thổ đưa ông xuyên qua rừng đến một thác nước
nhờ ông kéo hộ cái xác một người đàn ông lâm nạn mắc vào một cành cây
mọc đâm ngang sườn núi. Khi tác giả đã đưa được cái xác lên mặt cầu, thiếu
nữ mới cho hay người này đã giết chồng chưa cưới của cô và bị cô báo thù
đâm chết, xô xác xuống thác nhưng chưa xuống tới nên phải nhờ một người
giúp sức.
Một truyện kinh dị mà cảm hứng kinh dị chỉ có lúc đầu rồi dần dần tan
đi nhường chỗ cho sự thật. Cô gái xuất hiện lúc đêm khuya và rủ tác giả đi
chơi không phải là ma quỷ hay hồ tinh mà là một gái Thổ đến nhờ tác giả kéo
hộ cái xác bị mắc trên cây. Sự thật ở đây hơi khác với Vàng và máu, còn
phảng phất một điểm huyền bí, ấy là cái tâm hồn của người con gái Thổ hiện
ra bí ẩn lạnh lùng khi đã cho tác giả biết rõ câu chuyện "Trong con mắt lóng
lánh của người con gái, cùng với cái mặt đanh thép kia, tôi tưởng như thấy cái
khí chất núi rừng, cái tâm hồn Thổ Mán hiện ra" [38-30]. Tính cách huyền bí
ấy vừa là một nét quyến rũ, một nghệ thuật của tác giả. Tuy ý nghĩa và sự thật
hiển nhiên dưới ánh sáng lý luận, song tác giả vẫn muốn giữ một ít xương mù
phủ trên câu văn, hàng chữ, một không khí huyền ảo qua bút phát để gây một
thi vị huyền ảo.
Ở truyện Hai lần chết, sau sự xuất hiện bất ngờ, lạ lùng của anh Tâm
tại nhà anh Tri khi anh đã chết, tác giả đã làm rõ đây thực chất không phải là
hồn ma của anh Đàm Văn Tâm mà thực tế là anh Tâm vẫn còn sống? Kết thúc
truyện ngắn này tác giả đã để lại cho anh Tâm kể lại lý do mình còn sống và
về đây: vì tờ di chúc anh viết hứa là sẽ để lại gia tài và sự nghiệp cho Mão -
một người bạn thân, nên Mão muốn giết Tâm để chiếm đoạt nhưng tâm chưa
chết đã vùng lên giết Mão "Lúc mở mắt ra thì thấy mình bị ép hai bên trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
124
một xó tối và khó thở, tôi định tâm vừa nghĩ vừa sờ soạng mãi mới biết là
mình nằm trong săng. Nhưng trông lên thấy mờ mờ có ảnh lửa soi vào 2 bên
nắp săng và lắng tai nghe thấy quả lắc đồng hồ tích tắc đưa với chuông điểm.
Tôi đoán rằng tôi ngất đi đã lâu lắm vì bụng thấy đói dữ, có lẽ mọi người
tưởng chết thực và đã cho mình vào săng sắp sửa đem chôn. Tôi nâng săng thì
thấy còn mở, bên yên lặng ngồi lên. Lúc ấy mới biết là hơn 12 giờ đêm. Tôi
cười để cho hắn khỏi sợ và nói: Tôi không chết đâu... sống đây mà!" [38-113].
Sau khi giết Mão, Tâm quyết định thuê xe đến gọi anh Tri kể cho anh nghe để
đến cùng anh xử lý việc này. Như vậy ở truyện này cũng như truyện Một đêm
trăng cảm tưởng kinh dị chỉ có lúc đầu rồi dần tan đi nhường chỗ cho sự thật.
Truyện Cái đầu lâu, sự kỳ dị xuất hiện từ cái đầu lâu khiến mọi người
sợ hãi và kinh ngạc. Kết cục sau một cuộc tìm xét kỹ càng nhưng rất vô ích.
Mọi người đã theo dõi, rình xét và cuối cùng thì hoá ra có một con mèo đen
đã chui vào gặm bên trong cái đầu lâu vì cái đầu lâu mới luộc nên còn hơi thịt
"Cái đầu lâu lắc lư như điên cuồng và quay cạnh đấy một vật đen ngòm đang
giẫy giụa. Mắt chúng tôi khi đã đỡ chói thì nhận ra đó là một con mèo đen,
mà gầy, lông mặc sờ sạc không đều và không mượt..." [38-185].
Như vậy, những âm thanh phát ra từ cái đầu lâu, sự lắc lư của nó chẳng
phải là ma quái gì cả mà tất cả là do con mèo gây ra. Kết thúc truyện tác giả
đã làm sáng tỏ sự băn khoăn nghi ngại về hiện tượng kỳ quái từ cái đầu lâu.
Đến truyện Ông Phán nghiện, chi tiết con rắn cạp nong nằm vắt qua cổ
ông Phán thoạt đầu nghe có vẻ kỳ quái, nhưng sự thực chẳng có sự kỳ quái
nào cả, chẳng qua con rắn này dã quen hơi thuốc phiện của ông Phán tác giả
đã để ông Phán nói rõ cho nhân vật tôi biết nguyên nhân của sự kỳ quái này:
"Tôi đem nó về, rồi ngày ngày đặt cái lồng đựng nó bên bàn hút, nói chuyện
với nó, than thở với nó, như tình tự với người thương. Tôi hút điếu nào lại hà
khói vào lồng đặng cho nó nuốt đi. Cứ vậy trong hơn 1 tháng trời, lần lần con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
125
rắn thành quen thuốc, thành "nghiện" tôi mới thả nó đi, nhưng chỉ ít lâu nó lại
trở lại quanh quẩn bên bàn hút. Rồi cứ vậy cho tới giờ, con rắn không bao giờ
muốn rời bỏ tôi ra. Tới bữa hút là nó lại bò gần tôi..." [38-49].
Như vậy, cái chết của ông Phán ở phần kết thúc truyện lúc đầu bí ẩn
nhưng thực ra là do con rắn. Con rắn cạp nong đã nghiện hơi thuốc phiện của
ông Phán nay không còn thuốc nên trở nên hung dữ. Nó đã quấn chặt lấy cổ
ông Phán khiến ông tắt thở mà chết. Cách giải thích của Thế Lữ ở đây là rất
khoa học. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã có đánh giá xác đáng như sau:
"Trong tập Bên đường thiên lôi... Truyện kỳ quái mà hay hơn cả là truyện
Ông Phán nghiện (trang 159). Những truyện ấy làm cho người đọc có nhiều
cảm giác thú vị, vì nó là những truyện căn cứ vào khoa học, vào việc đời. Một
người kỳ quái như ông Phán nghiện mà tác giả tả được nét bút tinh tế như thế
thật là tuyệt khéo. Đọc truyện Hai lần chết tôi phải nhớ đến những truyện lạ
lùng cho Edgar Poe và truyện Ông Phán nghiện, tôi phải nhớ đến những
truyện kỳ quái của Hoffman. Những truyện của hai đại văn hào này chỉ những
truyện căn cứ vào khoa học, vào sự thiết thực, mới thật hay, còn những huyễn
hoặc của hai nhà văn ấy cũng ít khi cảm được người ta. Trong tập truyện ngắn
của Thế Lữ, tôi cũng chỉ thấy những truyện căn cứ vào sự thực là hay thôi.
Đời khoa học có khác. Người ta phần nhiều bị ảnh hưởng bởi khoa học, nên
tác giả dù viết truyện kỳ quái cũng phải nương tựa vào khoa học mới cảm
được độc giả" [26-24;25].
Trại Bồ Tùng Linh cũng là một truyện hay. Tuy đây không phải là cảnh
núi rừng, song câu chuyện cũng là một thiên tình ái lãng mạn và huyền hoặc.
Có thể nói tác giả đã chú ý dựng một truyện Liêu trai tân thời, lấy khung cảnh
một cái trại bỏ hoang làm khung cả của truyện. Truyện kể về một nhà văn có
tên là Tuấn viết thư kể cho Bình - một người bạn thân nghe những truyện dị
thường xảy ra ở trại Bồ - nơi anh đến thuê trọ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
126
Trong truyện ngắn này, sự kỳ lạ là ở chỗ: sự xuất hiện, hành động đầy
bí ẩn, kỳ dị của cô gái đã gieo vào tâm trí Tuấn một sự hoài nghi không biết
cô gái đó là người hay là ma. Sự băn khoăn ghi ngờ của Tuấn cuối cùng
dường như đã được giải toả. Tác giả để nhân vật Bình giải thích một cách
thuyết phục và có lý về sự xuất hiện kỳ dị của cô gái. Cô gái xuất hiện trong
đêm rồi biến mất ở trại Bồ không phải là ma mà thực chất là người. "... Cô gái
tên là Hoàng Lan Hương (tên đó có phải tên thực hay tên mượn). Lan Hương
đến trại làn này anh thấy không phải mới lần đầu. Những lần trước không biết
cô ta tưởng mình là gì. Nhưng đột nhiên thấy một anh chàng viết lách dưới
đèn trước cửa sổ, không biết ở đâu tới, nhưng đoán chắc là một nhà văn, Lan
Hương mới nảy ra cái dàn ý xếp câu chuyện có một vẻ đẹp huyền hồ và làm
thực hiện một thiên Liêu Trai mới... Không khí huyền ảo đã thừa đã thừa có ở
nơi hoang tịch này rồi chỉ thêm sự giữ gìn chờ đợi cho khôn khéo, Lan Hương
có thể ẩn đâu mà chẳng được? Cô nàng chọn một nơi ẩn tiện nhất, những khi
cần thiết phải lẩn tránh, không kín đáo lắm nhưng lại rất chắc chắn vì không
ai ngờ... Cô nàng đã biến đi một cách giản dị nhất: là nhân trời chưa sáng, bỏ
anh ngủ đấy để lại cho anh một hoàng lan nhặt ở ngoài vườn hay đem theo
sẵn trong mình... lẳng lặng ra về dễ lắm"[38-369; 370; 371;732]. Rồi cô trở về
ngôi chùa gần đó. Hôm nay cô không còn ở đó, theo lời bà cụ già ở chùa kể
lại thì hai, ba hôm trước người nhà đưa ô tô đến đón cô đi. Ở đoạn kết tác giả
đã khéo trộn lẫn mộng với thực mà tưởng ra một cô khuê các trước ở chùa và
mới đi khỏi chùa.
Kết thúc truyện mặc dù có vẻ Tuấn không tin các lý giải của Bình về sự
xuất hiện và ra đi kỳ lạ của cô gái nơi trại Bồ, nhưng cách lý giải đó là hoan
toàn hợp lý, có cơ sở và rất khoa học. Cách lý giải của Tuấn cũng chính là
cách lý giải của chính tác giả về sự xuất hiện và ra đi kỳ dị của cô gái. Tuy
nhiên đây chỉ là một giả thuyết, tác giả muốn để lại cái màn bí mật bao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
127
trùm cho có một chút thi vị huyền bí như nhận định của Phạm Thế Ngũ
trong bài. Văn xuôi Thế Lữ "có thể nói ở đây tác giả đã theo ý khuyến
khích của Khái Hưng mà cố gắng làm một cuộc tổng hợp Edgar Poe và Bồ
Tùng Linh, một truyện huyền mà thật, dung hợp óc khoa học với tâm hồn
thi nhân" [26-319]. Đoạn kết của tác phẩm này đã chứng tỏ rằng tác giả đã
có những băn khoăn của người thế kỷ XX, của những người đã chịu ảnh
hưởng rất sâu sắc của khoa học nhưng vẫn còn trong máu và trong não
những cái rất mơ mộng, rất nên thơ.
Qua phân tích, so sánh, tìm hiểu cách giải thích về cái kì dị của Thế Lữ
trong truyện kinh dị của ông, chúng tôi có thể khẳng định: Thế Lữ viết truyện
kinh dị nhưng cách giải thích của ông rất khoa học không thần bí hoang
đường. Mới nhìn, mới nghe, mới đọc nhưng cái tên như Vàng và Máu, Cái
đầu lâu, Hai lần chết,... tư tưởng đây là những chuyện hoang đường, ma quái
nhưng cuối cùng người đọc chẳng thấy có thần linh, ma quái nào cả mà chẳng
qua là do những mưu mô xảo kế của người đời hay do trí tưởng tượng bệnh
hoạn hoặc bị ám ảnh tạo nên. Tóm lại, các truyện có vẻ giật gân kia đều có
nguồn gốc xã hội, nguồn gốc tâm lý và được giải thích bằng tư duy logic và
phương pháp luận khoa học.
Mặt khác cách giải thích khoa học của Thế Lữ ở những truyện kinh dị
cũng là một kiểu luận đề. Ông đưa ra các tình tiết ly kỳ rồi giải quyết một
cách hợp lý khoa học theo quan điểm của mình. Bản thân các tác phẩm luận
đề thường rất gò bó, khô khan và công thức vì người viết phải dùng tác phẩm
để chứng minh cho một luận đề nhất định. Tuy nhiên, cách giải quyết của Thế
Lữ ở những truyện này không hề gò bó khô khan, công thức mà rất tự nhiên.
Đọc những truyện này người đọc như được thấy những gì đang diễn ra trong
cuộc sống chứ không phải là sự hư cấu của nhà văn. Thế Lữ phải là người có
tài, có tư duy logic chặt chẽ mới làm được điều này. Chính những tố chất đó
đã đem lại thành công cho ông ở thể loại độc đáo này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
128
Tóm lại: Truyện kinh dị của Thế Lữ tuy có chịu ảnh hưởng sâu sắc từ
truyện quái dị của Edgar Poe nhưng đã có sự sáng tạo rất lớn. Chính nhờ
những cách tân đáp ứng nhu cầu tiềm tàng của con người theo nguyện vọng
khoa học này mà những tác phẩm của Thế Lữ thời kỳ này đã được công
chúng đón nhận một cách dễ dàng và nhanh chóng. Vì vậy "truyện Thế Lữ
không phải tất cả đều hay, đều sâu sắc nhưng vẫn là của ông, rất khó lẫn
lộn" [44; 26].
Với một tư duy logic,một phương pháp suy luận khoa học Thế Lữ đã
sáng tác những truyện ly kỳ huyền bí có nguồn gốc xã hội nhân sinh. Truyện
Thế Lữ vì vậy mà khác hẳn với những truyện cùng sáng tác về đề tài này ở
thời điểm văn học những năm 30. Truyện Thế Lữ mang một giá trị nghệ thuật
nhất định và được người đương thời tìm đọc một cách thích thú. Đúng như lời
nhận định của Xuân Diệu "Những truyện ngắn của Thế Lữ thường biệt lập ra
một lối riêng, sáng tạo trong cái kỳ lạ, ít ai ngờ đến [26-176]. Thế Lữ thật
xứng đáng với đánh giá của Tế Hanh "một người có nhiều tài năng và sáng
tạo, ở nơi anh chất mở đường tiên phong thật là rõ ràng, trong thơ, trong
truyện, trong báo chí, trong sân khấu".
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
129
PHẦN KẾT LUẬN
1. Phong trào Thơ mới đã đi vào lịch sử văn học dân tộc như một mốc
son trong quá trình hiện đại hóa. Nó được phát động bởi một nhà nho cấp tiến
và lập tức được lớp người trẻ của thời đại đón nhận, nhân lên, cộng hưởng
thành âm vang của một thời đại Thơ mới. Trong số những người trẻ tuổi tiên
phong ấy, nổi bật là vai trò của Thế Lữ. Người cầm ngọn cờ vinh quang cho
Thơ mới, đưa Thơ mới nhanh chóng vượt qua những non nớt, chập chững của
buổi đầu để đạt tới độ viên mãn, tròn đầy với nhiều thi sĩ tài năng kế tiếp.
Trong cuộc tranh luận giữa Thơ mới - Thơ cũ, không phô trương diễn
thuyết suông. Thế Lữ đã khẳng định vai trò tiên phong của mình bằng những
sáng tác cụ thể, nổi bật nhất là Nhớ rừng là một đòn dứt điểm khẳng định sự
thắng thế của Thơ mới đối với Thơ cũ, đưa Thế Lữ trở nên nhà thơ tiêu biểu
nhất của Thơ mới buổi đầu, đánh dấu bước ngoặt thay đổi cơ bản diện mạo thi
ca nước nhà từ thời trung đại sang thời hiện đại.
Là một trong những thành viên chủ chốt, có tư tưởng và hành động
nghệ thuật tiến bộ vào bậc nhất trong nhóm Tự lực văn đoàn. Thế Lữ đã có
quan niệm nghệ thuật mới lạ mà trước đó chưa ai từng đề xuất. Cái đẹp là
hạt nhân của quan niệm ấy. Quan niệm nghệ thuật của Thế Lữ là ý thức tự
giác của chủ thể sáng tạo về nghệ thuật, bắt rễ, sàng lọc tích cực từ quan
niệm chung về văn hoá, văn học, nghệ thuật của tầng lớp trí thức tiểu tư
sản thành thị tiến bộ được đào tạo trong trường Pháp - Việt. Chịu ảnh
hưởng của phương Tây qua Pháp, nhuần thấm cách nghĩ, cách cảm của
người Việt và phương Đông trong bối cảnh 30 năm đầu thế kỷ XX, được
Âu Hoá một cách mạnh mẽ.
Với quan niệm nghệ thuật tiến bộ và những cách tân táo bạo về hình
thức và nội dung nghệ thuật: ý mới, lời mới, phong phú về hình ảnh, âm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
130
thanh, sắc màu, nhạc điệu "mới cả từ số câu, số chữ, cách bỏ vần". Thế Lữ là
người đầu tiên đặt cho Thơ mới một nền móng vững chắc, gây được niềm tin
mãnh liệt trong lòng khách yêu thơ, mở đường cho những sáng tạo của những
thế hệ cầm bút sau này.
2. Ngoài vị trí là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ mới buổi đầu, Thế Lữ
còn là một nhà thơ xây dựng được cho mình sự nghiệp văn xuôi nghệ thuật
nổi danh. Vượt qua ngưỡng năm 1932, văn xuôi Tự lực văn đoàn ghi dấu
bước chuyển đổi sâu sắc về chất so với trước đó. Truyện của Thế Lữ là một
đóng góp rất quan trọng để tạo nên bước chuyển đổi ấy. Thế Lữ là một trong
những nhà văn đầu tiên góp phần lớn hiện đại hoá truyện truyền kỳ, mở đầu
truyện kinh dị và cũng mở đầu truyện trinh thám ở Việt Nam, có những đóng
góp đáng kể với hai loại hình văn xuôi nghệ thuật này.
Với truyện trinh thám, Thế Lữ đã tỏ ra vô cùng tài hoa trong việc sử
dụng ngôn ngữ, tạo tình huống truyện giàu kịch tính, khắc hoạ được những
diễn biến tâm lý thầm kín trong đáy sâu tâm hồn của nhân vật khi phải đối
mặt với những điều bất thường kỳ dị. Cùng với trí tưởng tượng phong phú, lỗi
kể chuyện độc đáo, truyện trinh thám của Thế Lữ đã gây được ấn tượng sâu
sắc đối với người đọc.
Tuân thủ theo tôn chỉ của Tự lực văn đoàn "Đem phương pháp khoa
học Thái Tây ứng dụng vào văn chương An Nam". Thế Lữ đã cố tình tạo ra
một không khí rờn rợn, ly kỳ, chủ tâm đưa người đọc vào một thế giới đầy bí
ẩn trong truyện kinh dị rồi giải thích một cách rất khoa học không khiên
cưỡng, gò ép. Với thể loại truyện này Thế Lữ muốn phản ánh lại những
truyện dị đoan, thần bí mà dòng truyện truyền kỳ đã đề cập và những truyện
ma quái đường rừng mà nhiều nhà văn cùng thời đã nói đến.
Với truyện trinh thám và những truyện kinh dị, Thế Lữ đã đóng góp
đáng kể cho nền văn xuôi nghệ thuật nước nhà. Xứng đáng được coi là "người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
131
mở đường, đi tiên phong", "tiểu thuyết gia có biệt tài". Càng khám phá, càng
tìm hiểu, chúng ta càng cảm thấy những điều lý thú và mới mẻ từ những
truyện này mang lại. Nó là điểm mời gọi của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình
văn học nói chung và bạn đọc yêu mến văn xuôi Thế Lữ nói riêng."
3. Là một nghệ sĩ đa tài, đến với Thơ mới khi chưa có nền và xây dựng
một số thể tài văn xuôi khi chưa có móng. Thế Lữ là một tác gia có những
đóng góp quan trọng mở đầu và cách tân trong tiến trình hiện đại hoá văn học
nghệ thuật giai đoạn 30 - 45 nói riêng và nền văn học nước nhà nói chung.
Thế Lữ xứng đáng với giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật mà
nhà nước truy tặng. Bằng sáng tác văn chương nổi bật và bằng những hoạt
động văn hoá, văn học nghệ thuật xuất sắc khác đặc biệt là nghệ thuật biểu
diễn kịch nói. Nghệ sĩ nhân dân Thế Lữ có vị trí quan trọng trong tiến trình
văn học nghệ thuật hiện đại Việt Nam.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
132
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoài Anh (1989), "Thế Lữ một trong những người thợ cả dựng nền móng
văn học, nghệ thuật Việt Nam hiện đại", Tạp chí Văn học, số 5 tháng 6.
2. Hoài Anh (2001), "Thế Lữ từ máu đúc nên vàng", Sách Chân dung văn
học (cùng tác giả), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
3. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại, nhận thức và thẩm
định, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân (1993), "Cuộc cải cách của phong trào Thơ mới và tiến
trình thơ ca Tiếng Việt", Tạp chí Văn học, số 1.
5. Lại Nguyên Ân (2006), Thế Lữ về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
6. Phan Canh (1999), "Thế Lữ tất cả cho Thơ mới", Sách Thi ca Việt Nam
thời tiền chiến 1932 - 1945 (cùng tác giả), Nxb Đồng Nai.
7. Huy Cận - Hà Minh Đức (1993) (chủ biên), Nhìn lại một cuộc cách mạng
trong thi ca, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Hoài Chân (1997), "Một ngôi sao sáng của phong trào Thơ mới", Tạp chí
Văn nghệ Quân đội, số 6.
9. Hoàng Minh Châu (1993), "Truyện trinh thám của một nhà thơ", Sách Bài
học tình yêu (cùng tác giả), Nxb Văn học, Hà Nội.
10. Nam Chi (1991), "Thế Lữ, cuộc đời và tác phẩm", Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
11. Nam Chi (1991), "Những đóng góp của Thế Lữ vào thơ mới", Sách Thế
Lữ, cuộc đời trong nghệ thuật (nhiều tác giả), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
12. Nguyễn Huệ Chi (2001), Truyện truyền kì Việt Nam, quyển 3 (tập V, tập
VI), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
13. Nguyễn Văn Dân (2002), "Huyễn tưởng văn học và truyện kinh dị", Tạp
chí Văn nghệ Quân đội, Số 4.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
133
14. Nguyễn Dữ - Truyền kỳ mạn lục (Trúc Khê, Ngô Văn Triện dịch), Nxb
Văn học Hà Nội.
15. Hà Minh Đức (1974), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Hà Minh Đức (2001), Văn chương tài năng và phong cách, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
17. Hà Minh Đức (2002), Một thời đại trong thi ca, Nxb Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
18. Phan Cự Đệ (2000), Văn học lãng mạn Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. Phan Cự Đệ (2000), "Cơ sở tư tưởng và phương pháp luận để đánh giá
phong trào Thơ mới và văn học lãng mạn 1932 - 1945", Sách Tuyển tập
Phan Cự Đệ, Nxb Văn học Việt Nam.
20. Lê Bá Hán (Chủ biên), Lê Quang Hưng, Chu Văn Sơn (2001), Tinh hoa
Thơ mới, thẩm định và suy ngẫm, Nxb Giáo dục Hà Nội.
21. Khái Hưng (1934), "Vàng và Máu của Thế Lữ", Lời tựa cuốn Vàng và
Máu, Nxb Đời nay, Hà Nội.
22. Nguyễn Hoành Khung (1983), "Mấy vần thơ", Sách Từ điển văn học
(nhiều tác giả), tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
23. Nguyễn Hoành Khung (1994), "Một mùa thơ nở rộ", Sách Thơ Việt Nam
(1930 - 1945), Nxb Văn học Hà Nội.
24. Lê Đình Kỵ (1993), Thơ mới những bước thăng trầm, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh.
25. Lê Đình Kỵ, Lê Huy Nguyên (1995), Tuyển tập Thế Lữ (Sưu tầm và
tuyển chọn), Nxb Văn học Hà Nội.
26. Huỳnh Thị Hoa Kỳ (1996), "Tiểu thuyết trinh thám", Tạp chí Kiến thức
ngày nay, số 203.
27. Lê Tràng Kiều (1936), "Thơ mới Thế Lữ", Hà Nội báo, số 24 ngày 17/6.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
134
28. Mã Giang Lân (2000), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo dục
Hà Nội.
29. Bồ Tùng Linh (Thế kỷ XVII) (1999), Liêu trai chí dị, Nxb Văn học Hà Nội.
30. Thế Lữ truyện chọn lọc (1987), Nxb Văn hoá, Hà Nội.
31. Nguyễn Tấn Long (1968), "Thế Lữ", Sách Việt Nam thi ca tiền chiến, Nxb
Sống mới, Sài Gòn.
32. Phạm Vĩnh Lộc (1974), "Đi tìm thân thế và tác phẩm của Thế Lữ", Tạp chí
Văn học Sài Gòn, tháng 10.
33. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), "Kế thừa truyền thống dân tộc trong đổi mới thơ
ca qua kinh nghiệm phong trào Thơ mới", Tạp chí Văn học, số 11.
34. Nguyễn Đăng Mạnh (1997), "Quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX", Tạp chí Văn học, số 5.
35. Anh Ngọc (1999), "Các thuở ban đầu lưu luyến ấy", Báo Văn học, số 34 ngày
21 tháng 8.
36. Phạm Thế Ngũ (1965), "Thế Lữ", Sách Việt Nam văn học sử giản ước tân
biên, tập 3, Nxb Sài Gòn.
37. Phạm Thế Ngũ, Văn xuôi Thế Lữ in trong Việt Nam văn học sứ giản ước
(tập 3), Văn học Việt Nam hiện đại (1982 - 1945), Nxb Đồng Tháp.
38. Nhiều tác giả (1998), Thơ mới (1932 - 1945), tác giả và tác phẩm, Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội.
39. Nhiều tác giả (2000), Thế lữ, Cây đàn muôn điệu, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
40. Poe.E.A (Thế kỷ XIX), Truyện kinh dị, Nxb Lao động, Hà Nội, 1989.
41. Vũ Ngọc Phan (1942), "Thế Lữ", Sách nhà văn hiện đại tập 2, Nxb Văn học
Hà Nội, 1994.
42. Nguyễn Nhược Pháp (1997), "Mấy vần thơ", Sách Tuyển tập phê bình văn
học Việt Nam (1900 - 1945), tập 3, Nxb Văn học, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
135
43. Vũ Văn Sĩ (2003), Vấn đề cảm xúc của Thơ mới, Tạp chí Văn học, số 5.
44. Trần Đình Sử (1993), "Thơ mới và sự đổi mới thi pháp thơ trữ tình Việt Nam",
Sách Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca (Huy Cận - Hà Minh Đức
chủ biên), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
45. Vũ Văn Sĩ (2003), Vấn đề cảm xúc của Thơ mới, Tạp chí Văn học, số 5.
46. Hoài Thanh - Hoài Chân (1942), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học.
47. Vũ Thanh (1994), "Những biến đổi của yếu tố kỳ và thực trạng truyện
truyền kỳ Việt Nam", Tạp chí Văn học, số 6.
48. Vũ Thanh (2001), "Dư ba của truyện truyền kì, chí dị trong văn học Việt
Nam hiện đại", Sách những vấn đề lý luận và lịch sử văn học (Hà Minh
Đức chủ biên), Nxb Khoa học xã hội.
49. Phan Trọng Thưởng (1997), Thế Lữ, nghệ sĩ hai lần tiên phong, Tạp chí
Văn học, số 7.
50. Phan Trọng Thưởng (2001), Văn chương tiến trình tác giả, tác phẩm, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
51. Nguyễn Đình Thi (1987), Mừng anh Thế Lữ 80 tuổi, Báo Văn nghệ số gộp
24, 25 ngày 10/6.
52. Nguyễn Đình Thi (1997), "Nhớ anh Thế Lữ", Báo Quân đội nhân dân,
ngày 14/6.
53. Đỗ Lai Thuý (1992), "Thế Lữ, người bộ hành phiêu lãng", Sách Con mắt
(cùng tác giả), Nxb Lao động, Hà Nội.
54. Nguyễn Vỹ (1994), "Thế Lữ", Sách Văn sĩ tiền chiến (cùng tác giả), Nxb
Hội Nhà văn, Hà Nội.
55. Trần Vương (1962), Một giờ với Thế Lữ, Báo Văn học, số 19.
56. Hoài Việt, Thế Lữ như tôi biết
57. Lê Huy Oanh (1974), Nghệ thuật kể chuyện của Thế Lữ trong "Vàng và
Máu", Tạp chí Văn học, (SG tháng 10).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
136