Giải mã năng lực của của CEO quốc tế
Ta thường nhìn CEO Steve Jobs của Apple, Jeff Bezos của Amazon hay
A.G. Lafley của P&G và tự hỏi “Làm thế nào họ có những ý tưởng động
trời như thế?”. Nếu đã từng trăn trở với câu hỏi này, hẳn bạn sẽ tìm
được đáp án cho mình trong nghiên cứu của Jeff Dyer, Hal Gergersen
và Clayton M. Christensen.
Đây là những giáo sư hàng đầu thế giới về các lĩnh vực chiến lược, lãnh
đạo và đột phá. Nghiên cứu này được họ thực hiện trong suốt 6 năm. Đối
tượng nghiên cứu là 25 doanh nhân khởi nghiệp; 3.000 giám đốc, quản
lý cấp cao; và 500 cá nhân khác - những người từng khởi tạo một doanh
nghiệp sáng tạo hoặc phát minh ra sản phẩm mới. Theo kết quả nghiên
cứu này gen “đột phá” được thể hiện qua 5 năng lực khám phá nổi bật.
Trong đó, khả năng liên hệ đóng vai trò xương sống của toàn bộ cấu trúc
5 năng lực khám phá.
Trung bình mỗi ngày, thời gian những doanh nhân đột phá sử dụng 5
năng lực này nhiều hơn những người đồng nhiệm đến 50%. Ngoài ra,
những năng lực mà họ sở hữu thuộc về phạm vi chi phối của cả 2 bán
cầu não. Nhờ đó, họ có thể liên tục tận dụng năng lực tư duy của bộ não
để sản sinh ra ý tưởng mới.
Năng lực khám phá số 1: Liên hệ
Liên hệ hay nói cách khác là khả năng kết nối thành công những câu hỏi,
vấn đề, ý tưởng, lĩnh vực dường như chẳng liên quan đến nhau, chính là
năng lực trọng tâm trong bộ gen của người đột phá.
Minh họa rõ nét nhất về sức mạnh của năng lực này là hiện tượng “Hiệu
ứng Medici”. Hiệu ứng này bắt nguồn từ sự bùng nổ về sự sáng tạo của
gia đình Medici ở Ý, thiết lập nền móng cho giai đoạn Phục Hưng sau
này.
Bộ não không chỉ là nơi lưu trữ thông tin, trải nghiệm của chúng ta mà
đây còn là “nhà máy sản xuất ra những mối liên hệ”. Jobs từng nói:
“Sáng tạo chính là việc kết nối những thứ có sẵn”.
Kiến thức, trải nghiệm càng phong phú thì bộ não càng sản sinh ra nhiều
mối liên hệ giữa những chất liệu này. Sở dĩ Jobs có thể liên tục tuôn trào
ý tưởng đột phá như thế là bởi ông đã dành cả cuộc đời khám phá những
điều không liên quan đến nhau như thư pháp, thiền, các chi tiết của chiếc
ôtô Mercedes-Benz.
Độc đáo là càng sử dụng 4 năng lực còn lại thì năng lực liên hệ càng
phát triển.
Năng lực số 2: Đặt câu hỏi
Cách đây hơn 5 thập kỷ, “bộ óc quản trị vĩ đại của thế kỷ XX”, Peter
Drucker từng nhấn mạnh đến sức mạnh của những câu hỏi gợi mở:
“Nhiệm vụ quan trọng và khó khăn nhất không phải là tìm câu trả lời
đúng, mà là đặt đúng câu hỏi”.
Những người đột phá luôn đặt câu hỏi để thách thức hiện trạng. Vị Chủ
tịch Ratan Tata của Tata Group (Ấn Độ) từng nhấn mạnh: “Hãy nghi
vấn những điều hiển nhiên”.
Để sử dụng kỹ năng đặt câu hỏi hiệu quả, những doanh nhân khởi
nghiệp giàu cảm hứng sáng tạo thường áp dụng công thức: Hỏi “Tại
sao?”, rồi “Tại sao lại không?” và “Nếu thế này thì sao?”.
Tưởng tượng những viễn cảnh đối lập và yêu thích những hạn chế cũng
là 2 yếu tố quan trọng thúc đẩy người đột phá nảy ra những câu hỏi hay
ý tưởng sáng tạo. Chẳng hạn như, 1 trong 9 nguyên tắc sáng tạo của
Google chính là “Yêu thích hạn chế”.
Trong một buổi họp bàn ý tưởng kinh doanh mới, nhà lãnh đạo đột phá
thường đưa nhân viên vào những hoàn cảnh ngặt nghèo hoặc hỏi họ
những câu hỏi tưởng chừng như rất ngớ ngẩn như “Vì sao anh làm theo
cách anh đang làm?” hay “Nếu ngày mai chính phủ cấm buôn bán sản
phẩm này thì sao?” để qua đó, thúc đẩy toàn bộ nhân viên phải sáng tạo.
Năng lực số 3: Quan sát
Ý tưởng đột phá trong kinh doanh thường hình thành trong quá trình
quan sát hành vi tiêu dùng của khách hàng. Ở khía cạnh này, người làm
kinh doanh cũng không khác gì nhà nhân chủng học hay khoa học xã
hội.
Không khó tìm thấy những ý tưởng kinh doanh thành công ở Việt Nam
xuất phát từ năng lực khám phá này. Năm 2004, điện thoại di động còn
là một sản phẩm xa lạ hoặc xa xỉ, vì nguồn cung hạn chế và giá cả lại
cao so với thu nhập của đa số người dân. Tuy nhiên, đối với ông Nguyễn
Đức Tài, Tổng Giám đốc Công ty Thế Giới Di Động, đây chính là cơ
hội.
Theo quan sát của ông, thị trường điện thoại di động chính hãng ở Việt
Nam thời đó chỉ mới sơ khai và còn thiếu thông tin hữu ích cho người
tiêu dùng. Và thế là trang web Thegioididong ra đời để đáp ứng nhu cầu
này.
Tuy nhiên, sự thành công của trang web này không đồng nghĩa với thành
công khi vận hành cửa hàng bán lẻ điện thoại. Kế hoạch xây dựng chuỗi
cửa hàng nhỏ (khoảng 20m2)với mật độ phân bổ dày (trong phạm vi 15
phút di chuyển của khách hàng) của Thế Giới Di Động trong giai đoạn
đầu đã thất bại. Bởi lẽ, người tiêu dùng thường đánh đồng các cửa hàng
nhỏ của Hãng với các cửa hàng chuyên bán hàng Trung Quốc hoặc
không rõ nguồn gốc.
Quan sát thấy tâm lý này, ông Tài cùng các cộng sự đã thay đổi phương
thức kinh doanh mà kết quả là Thế Giới Di Động đã trở thành một trong
những nhà phân phối điện thoại di động hàng đầu Việt Nam với hơn
5.000 nhân viên và 200 siêu thị điện thoại trên cả nước.
Năng lực số 4: Thích kiểm nghiệm
Giống như các nhà khoa học, những doanh nhân đột phá luôn thích thú
kiểm nghiệm ý tưởng mới. Với họ, thế giới chính là phòng thí nghiệm
khổng lồ. Họ có xu hướng không ngừng nghiền ngẫm về một tư tưởng
nào đó.
Hoặc họ thích tháo rời từng bộ phận của một vật nào đó để nghiên cứu
cách chúng vận hành. Hoặc họ đam mê khám phá những vùng đất mới
như CEO Howard Shultz của Starbucks từng lang thang khắp nước Ý để
nghiên cứu mô hình các quán cà phê ở nước này.
Ngoài ra, việc tạo dựng được một văn hóa khuyến khích sáng tạo, đổi
mới trong tổ chức, cũng như tích lũy vốn sống phong phú, như CEO
A.G. Lafley của P&G, cũng là các yếu tố quan trọng và được các doanh
nhân đột phá chú trọng đầu tư.
Năng lực số 5: Xây dựng mối quan hệ
Xây dựng mối quan hệ là việc quan trọng. Tuy nhiên, những doanh nhân
đột phá không chỉ xem đó là cơ hội để làm ăn, tiếp cận những nguồn lực
mới, mà trên hết, đó là dịp để họ tiếp cận được góc nhìn của nhiều
người, mở mang tầm mắt và kiểm nghiệm ý tưởng của mình.
Sự ra đời của nhà sản xuất điện thoại Canada RIM được ươm mầm nhờ
các hoạt động xây dựng mối quan hệ mà nhà sáng lập Michael Lazaridis
đã tham gia. “Người nào kết hợp được công nghệ mạng không dây và
máy tính sẽ tạo ra sự khác biệt lớn cho thế giới” là ý tưởng đã ăn sâu vào
đầu Lazaridis từ năm 1987.
Kết quả của ý tưởng này chính là sự ra đời của dòng điện thoại thông
minh BlackBerry vào năm 1999 trước khi trở thành hiện tượng toàn cầu
3 năm sau đó.
Năm năng lực khám phá trên tuy rất cần thiết nhưng vẫn chưa đủ nếu
thiếu 2 yếu tố - khát khao thay đổi hiện trạng và sẵn sàng mạo hiểm để
thực hiện bằng được sự thay đổi ấy. Đó chính là động lực mạnh mẽ nhất
để 5 năng lực khám phá nói trên được dịp thăng hoa.