LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm
phát trong việc thực thi chính sách tiền tệ
ở Cộng hũa dõn chủ nhân dân Lào
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lạm phát là bạn đồng hành của nền kinh tế thị trường. Trong thời đại ngày nay,
lạm phát là vấn đề trung tâm và nhạy cảm hàng đầu của đời sống kinh tế - xã hội ở các
quốc gia. Với tư cách là tổng hòa của các chính sách kinh tế - xã hội vĩ mô, lạm phát đã có
những tác động trực tiếp hay gián tiếp, nhanh hay chậm tích cực hoặc tiêu cực, ở mức độ này
hay mức độ khác... đến toàn bộ các lĩnh vực và khía cạnh hoạt động của Chính phủ, doanh
nghiệp, cá nhân, đến các quan hệ kinh tế đối ngoại và đối nội của quốc gia và tác động đến
tình hình kinh tế khu vực và thế giới với mức độ tùy theo vị thế kinh tế chính trị mà nước đó
đã đảm nhận trong khu vực và thế giới. Thực tiễn cho thấy lạm phát trên thế giới luôn biến
động không ngừng cùng với nhiều đặc tính mới mẻ.
Trong những năm gần đây, một số ngân hàng trung ương các nước đã quyết định
chuyển hướng chính sách tiền tệ sang thực hiện chính sách lượng hóa mục tiêu lạm phát.
Kết quả nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, những quốc gia áp dụng chính sách mục
tiêu lạm phát đã rất thành công trong việc duy trì tỷ lệ lạm phát thấp trong dài hạn, kinh tế
tăng trưởng ổn định và tỷ lệ thất nghiệp giảm.
Ngoài ra, các công trình nghiên cứu thực nghiệm cũng chỉ ra những lợi ích tiếp
theo từ việc thực thi chính sách mục tiêu lạm phát, bao gồm: làm tăng rõ ràng, minh bạch
công khai của chính sách tiền tệ; làm tăng trách nhiệm của NHTW; giúp công chúng hiểu
được chính sách tiền tệ một cách đơn giản, dễ dàng và hiệu quả; cải thiện được môi trường
tăng trưởng kinh tế ổn định; và nâng cấp phúc lợi xã hội.
Để đạt được các mục tiêu ổn định giá cả lâu dài, cho đến nay các NHTW đã sử
dụng các chính sách tiền tệ khác nhau như: Chính sách tiền tệ dựa vào tỷ giá cố định, chính
sách tiền tệ dựa vào khối lượng tiền cung ứng; Chính sách tiền tệ dựa vào GDP danh
nghĩa, và hiện nay, chính sách tiền tệ có xu hướng dựa vào lượng hóa mục tiêu lạm phát.
Việc thiết lập chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát (NHTW sẽ điều
tiết nền kinh tế sao cho lạm phát chỉ ở mức độ nào đấy và từ đó sẽ lan tỏa đến mục tiêu
khác như tăng trưởng ổn định và tỷ lệ thất nghiệp giảm) điều này có nghĩa là lạm phát là
yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc thiết lập chính sách tiền tệ.
Từ sau khi nền kinh tế Lào chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô
của Nhà nước mà hoạt động của hệ thống ngân hàng nhà nước được coi là khâu "đột phá
khẩu", thì hệ thống NHNN Lào đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực thi mục tiêu
cơ bản của chính sách tiền tệ, kiềm chế, kiểm soát lạm phát (năm 1998 tỷ lệ lạm phát là 90%,
năm 1999: 128,38%, 2000: 23%, năm 2001: 7,81%, năm 2004: 10,46% và đến tháng
6/2005 là 5,35%). Đi đôi với những thành công đã nói trên, hoạt động kiềm chế, kiểm soát
lạm phát còn một số hạn chế về mặt chủ quan và mặt khách quan. Hiện tượng lạm phát
diễn ra rất phức tạp trong năm 2002, tăng lên 10,63% và đến năm 2003 lại tăng lên 15,49%
và cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế của Lào, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính
tiền tệ.
Là một chính sách mới, nên chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát đang được các nhà
quản lý ngân hàng, các nhà kinh tế nghiên cứu, đánh giá và rút ra bài học kinh nghiệm thông
qua thực tế của các nước đang áp dụng chính sách này.
ở CHDCND Lào hiện nay vấn đề này còn khá mới mẻ và phức tạp, chính vì vậy
tôi đã lựa chọn đề tài: " Một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong việc thực thi
chính sách tiền tệ ở Cộng hũa dõn chủ nhân dân Lào " làm luận văn thạc sĩ kinh tế,
chuyên ngành: Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, nền kinh tế không chỉ chịu ảnh
hưởng của các yếu tố bên trong mà còn chịu tác động mạnh mẽ bởi những yếu tố bên
ngoài. Đến nay, trên thế giới đã rất nhiều lý thuyết, nhiều cuốn sách, nhiều bài báo và rất
nhiều cuộc hội thảo quốc gia và quốc tế đã nghiên cứu vấn đề này.
Một số công trình đã nghiên cứu về chính sách mục tiêu lạm phát đối với các quốc
gia: Kinh tế học, sách tham khảo tập II của Paul a Samuelson Wiliamd. Nordhalls; Lý
thuyết lạm phát giảm phát và thực tiễn ở Việt Nam (sách tham khảo) của PTS. Nguyễn
Minh Phong, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Lạm phát hành trình và giải pháp chống
lạm phát ở Việt Nam của Lê Quốc Lý, Nxb Tài chính, Hà Nội, 2005; Lạm phát mục tiêu:
Kinh nghiệm thế giới và giải pháp cho Việt Nam của Phi Trọng Hiển, Tạp chí Nghiên cứu
kinh tế, số 323/2005; Chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát một cách tiếp cận trong việc
điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam của Đỗ Thị Đức Minh, Kỷ yếu Hội thảo khoa
học, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hà Nội, 2005...
Với nội dung của các công trình nghiên cứu nói trên thì lĩnh vực nghiên cứu và đối
tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề bức xúc đối với CHDCND Lào hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Dựa trên lý thuyết chung của các nhà kinh tế học, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính
ngân hàng và những bài học kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về vấn đề kiểm
soát lạm phát trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Trên cơ sở đó, đối với CHDCND Lào
để làm rõ một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong việc thực thi chính sách tiền tệ
trong thời gian qua, rút ra được những nguyên nhân cơ bản của lạm phát, có được những
bài học kinh nghiệm để từ đó đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhất trong việc thực thi chính
sách tiền tệ tại CHDCND Lào góp phần ổn định chính sách tiền tệ và phát triển nền kinh tế
của đất nước một cách bền vững.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ các lý thuyết về lạm phát và chính sách tiền tệ.
- Nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách này ở một số nước để rút ra bài học
cho CHDCND Lào.
- Phân tích thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của CHDCND Lào, từng giai
đoạn, đề xuất những giải pháp nhằm thực hiện chính sách kiểm soát lạm phát.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Những vấn đề chung về CSTT với mục tiêu kiểm soát lạm phát, tình hình thực
hiện của mục tiêu này ở một số nước và thực trạng điều hành CSTT của CHDCND Lào từ
1994 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và dựa
trên đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước làm cơ sở phương pháp luận. Các phương
pháp được sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài bao gồm: phương pháp thống kê và miêu tả,
phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh...
6. Đóng góp của luận văn
- Phân tích thực trạng thực thi CSTT nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát trong năm
qua, rút ra được thành công và hạn chế.
- Đưa ra các giải pháp chủ yếu, kiến nghị cụ thể có tính xây dựng nhằm năng cao
hiệu quả cao trong việc điều hành CSTT nói chung, mục tiêu kiểm soát lạm phát nói riêng
ở CHDCND Lào.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
Lạm Phát và chính sách tiền tệ
với mục tiêu kiểm soát lạm phát
1.1. Những vấn đề cơ bản về lạm phát
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế đi liền với nền kinh tế thị trường. Có những
nhà kinh tế đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ này, nhưng nói chung, chưa có sự
thống nhất hoàn toàn. Trong khi đó lạm phát luôn diễn ra và tác động đến nhiều mặt đối
với nền kinh tế các nước phát triển và đang phát triển, các nước từ lâu đã theo mô hình của
nền kinh tế thị trường và cả các nước đang có quá trình chuyển đổi. Không chỉ dừng lại ở
việc không thống nhất được với nhau một định nghĩa đúng về lạm phát mà còn không
thống nhất được với nhau những tác động do lạm phát mang lại.
Chính vì thế, cần thiết phải nhìn nhận vấn đề một cách có hệ thống hơn để từ đó có
những chính sách và giải pháp phù hợp ứng với những đổi thay đã và đang diễn ra trong
đời sống kinh tế
1.1.1. Khái niệm lạm phát
Lạm phát đã được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của các nhà
kinh tế. Trong mỗi công trình của mình, các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm về lạm phát. Karl
Marx cho rằng: "Lạm phát là sự phát hành tiền mặt quá mức cần thiết" [3, tr. 365]. Vào thập
niên 1960, Milton Friedman khẳng định lại rằng: "Lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện
tượng tiền tệ" [15, tr. 800]. Theo thuyết trọng tiền (monetarism) - một trường phái lớn về khoa
kinh tế vĩ mô cho rằng, cần phải chú ý đến tổng mức chi tiêu của xã hội và việc cung ứng tiền
cho chi tiêu đó. Thuyết trọng tiền cho tiền tệ là trung tâm của nền kinh tế, và việc cung tiền là
nhân tố quyết định những sự vận động của tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa trong ngắn
hạn và nó là nhân tố quyết định đến giá cả trong dài hạn. Thực ra, không nhất thiết bắt nguồn
từ nguyên nhân là tiền tệ, tức là tăng lượng tiền cung ứng quá mức đối với nền kinh tế.
Nhiều cuộc lạm phát diễn ra lại bắt nguồn từ giá hoặc xuất phát từ sự suy giảm trong tổng
cung của chính nền kinh tế đó. R.Dornbusch và Fischer cho rằng: "Lạm phát là tình trạng mức
giá chung của nền kinh tế tăng lên trong một thời gian nhất định" [47, tr. 587-588].
Nhìn chung, có hai cách tiếp cận: Một là, từ nguyên nhân; hai là, từ những ảnh
hưởng của nó.
Theo cách tiếp cận thứ nhất, "lạm phát là quá nhiều tiền đi săn quá ít hàng" hoặc
"lạm phát là khi tiền lương danh nghĩa tăng nhanh hơn năng suất lao động". Các định
nghĩa này thực chất chỉ là đưa ra các cách giải thích khác nhau về nguyên nhân của lạm
phát mà không phải là định nghĩa về lạm phát theo đúng nghĩa của nó.
Theo cách tiếp cận thứ hai, lạm phát là mức giá cả chung tăng lên. Tuy nhiên, sự
tăng giá mới chỉ phản ánh hình thức biểu hiện của lạm phát, còn bản chất của nó được thể
hiện ở tính chất của sự tăng giá là giá tăng cao kéo dài hay chỉ tạm thời?
Tóm lại, lạm phát là sự gia tăng phổ biến và với thời gian dài tổng mức giá cả
được đo bằng chỉ số giá của nhóm hàng hóa và dịch vụ cơ bản (rổ hàng hóa). Sự gia tăng
liên tục của giá cả làm suy yếu sức mua của đồng tiền và các tài sản tài chính khác có giá
trị cố định, gây ra những méo mó nghiêm trọng và tạo ra tình trạng không chắc chắn trong
môi trường kinh tế vĩ mô và vi mô.
1.1.2. Phân loại lạm phát
Có nhiều cách phân loại lạm phát dựa trên các tiêu thức khác nhau:
- Phân loại theo định lượng: Dựa trên độ lớn nhỏ của tỷ lệ phần trăm lạm phát tính
theo năm, trong đó có: (1) Lạm phát một con số hay gọi là lạm phát vừa phải. Loại lạm
phát này xảy ra khi giá cả tăng chậm và tỷ lệ lạm phát dưới 10%/ 1 năm và nền kinh tế chấp
nhận được với mức lạm phát này. (2) Lạm phát hai con số thể hiện khi tỷ lệ tăng giá đã tăng
đến hai con số mỗi năm. Nếu ở mức thấp của loại lạm phát này (> 10% mỗi năm), tác động
tiêu cực của nó đến nền kinh tế không lớn. Nhưng khi tỷ lệ tăng giá ở mức hai con số cao
lạm phát này gây tác hại nghiêm trọng trong nền kinh tế. (3) Lạm phát phi mã và siêu lạm
phát là loại lạm phát ba con số trở lên với tốc độ nhanh. Tác động tiêu cực đến đời sống và
tính ổn định của nền kinh tế.
- Phân loại theo định tính: (1) Lạm phát cân bằng và không cân bằng (cân bằng ở
đây là cân bằng với thu nhập), trên thực tế, lạm phát không cân bằng hay xảy ra. (2) Lạm
phát thuần túy là trường hợp đặc biệt khi giá cả hàng hóa tiêu dùng và hàng hóa sản xuất
đều tăng lên gần như cùng một tỷ lệ trong cùng một đơn vị thời gian, lúc này nhu cầu cần
tiền thực tế tăng cùng chiều và khá tương đương với cung ứng tiền thực tế. (3) Lạm phát
bất thường xảy ra có tính đột biến, loại lạm phát này gây ra những cú sốc nền kinh tế và sự
thiếu tin tưởng của người dân vào chính quyền. (4) Lạm phát dự đoán trước là việc người
ta nhìn thấy trước về lạm phát và tin rằng nó sẽ xảy ra bởi các nguyên nhân của nó đã lộ
diện.
Ngoài ra, căn cứ vào mức độ biểu hiện giá cả trên thị trường có lạm phát ngầm,
lạm phát công khai; căn cứ vào phạm vi ảnh hưởng về mặt không gian: có lạm phát quốc
gia và thế giới; căn cứ vào tính lịch sử, có lạm phát cổ điển gắn với xung đột chiến tranh
và lạm phát hiện đại gắn liền với hòa bình.
1.1.3. Đo lường lạm phát
Thông thường, lạm phát được tính toán gắn liền với tốc độ thay đổi của mức giá cả
một "rổ" hàng hóa và dịch vụ được lựa chọn nào đó, tùy thuộc đặc điểm và cách thức riêng
của mỗi nước cụ thể.
Để đo lường lạm phát, người ta phải so sánh giá cả giữa hai thời điểm khác nhau t0
và t1. Tuy nhiên, trong một nền kinh tế có nhiều loại hàng hóa nên trong khoảng thời gian
t0 - t1 mỗi loại hàng hóa có mức tăng giá (Pt1 - Pt0) khác nhau. Do vậy, để tính được tỷ lệ
lạm phát chung cho nền kinh tế, người ta phải lấy chỉ số giá cả bình quân của cả nước làm
chuẩn, có ba loại chỉ số giá cả bình quân được sử dụng là:
Giá cả hàng tiêu dùng (CPI - Consumer price index): Chỉ số CPI được sử dụng
rộng rãi nhất. CPI tính chi phí của một rổ hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ trên thị trường các
nhóm chính đó là hàng lương thực, thực phẩm, quần áo, nhà cửa, chất đốt, vật tư, y tế.
Giá cả hàng sản xuất bình quân (PPI - Producer price index): Đây là chỉ số giá
bán buôn. PPI được xây dựng để tính giá cả trong lần bán đầu tiên do người sản xuất ấn
định. Chỉ số này rất có ích vì nó được tính chi tiết sát với những thay đổi của thực tế.
Giá cả bán lẻ bình quân (RPI - Retail price index): Cuối cùng, lạm phát thường
được đo bằng chỉ số (%), tức là tỷ lệ lạm phát (%) giữa hai thời điểm t0 và t1 là bằng mức
tăng giá cả hàng hóa bình quân giữa hai thời điểm, chia cho giá ban đầu và nhân với tỷ lệ
%:
Pt 0
Tỷ lệ lạm phát (t0 và t1)
Pt 1 Pt 0
1.1.4. Nguyên nhân của lạm phát
Lạm phát là kết quả của tổng hòa nhiều nguyên nhân kinh tế - xã hội; mỗi loại lạm
phát có những nguyên nhân đặc trưng riêng của nó tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế - xã hội
và cách quản lý kinh tế của từng quốc gia. Tuy nhiên, dù đa dạng và khác nhau đến đâu
đều có thể quy tụ được những nguyên nhân của lạm phát:
* Cung tiền tệ và lạm phát:
Theo trường phái tiền tệ: M. Friedman cho rằng: "Lạm phát bao giờ và ở đâu
cũng là một hiện tượng tiền tệ". Theo quan điểm của trường phái này, khi cung tiền tệ
tăng lên, kéo dài sẽ làm cho giá cả tăng kéo dài và gây ra lạm phát.
Chúng ta có thể sử dụng mô hình AD- AS để giải thích quan điểm của trường phái
AS3
tiền tệ.
3
AS2
P
AS1
2 '
2
P
1
AD3
1
P
AD2
AD1
Y
Yn
Y
P3
Hình 1.1: Mô hình AD, AS để giải thích quan điểm trường phái tiền tệ
Ban đầu, nền kinh tế ở điểm 1, với sản lượng tại mức tiềm năng và giá cả tại P1-
giao điểm của đường tổng cầu AD1 và đường tổng cung AS1. Nếu cung tiền tăng đều đặn
dần dần trong suốt cả năm, thì đường tổng cầu di chuyển sang phải đến AD2. Trong một
thời gian rất ngắn, nền kinh tế có thể chuyển động sản lượng có thể tăng cao hơn mức tiềm
năng, nhưng kết quả giảm thất nghiệp xuống dưới mức tỷ lệ tự nhiên sẽ làm cho tiền lương
tăng lên và đường tổng cung sẽ nhanh chóng dịch chuyển vào trong và sự dịch chuyển ấy
sẽ dừng khi nào đạt đến AS2, sản lượng quay trở lại mức tiềm năng của đường tổng cung
dài hạn. Tại thời điểm cân bằng mới thì P2 cao hơn P1. Nếu cung tiền tiếp tục tăng trong
những năm tiếp theo thì nền kinh tế lại chuyển động và lạm phát xuất hiện. Tóm lại,
trường phái tiền tệ cho rằng lạm phát nhanh có thể do sự tăng cao của cung tiền tệ thúc
đẩy.
Theo trường phái của Keynes, việc tăng chi tiêu của Chính phủ hoặc cắt giảm thuế
cũng làm tăng tổng cầu, do đó đẩy giá cả lên cao. Nhưng những vấn đề của chính sách tài
khóa lại có giới hạn của nó, vì vậy việc tăng lên của tỷ lệ lạm phát trong trường hợp này
chỉ là tạm thời. Một phân tích khác của phía Keynes về tác động của những cú sốc tiêu cực
lên tổng cung cũng sẽ làm giá cả tăng lên. Nhưng, nếu cung tiền tệ không tiếp tục tăng lên
để tác động lên tổng cầu thì đến một lúc nào đó, tổng cung lại quay trở lại vị trí ban đầu,
do vậy sự tăng giá trong trường hợp này cũng chỉ là một hiện tượng nhất thời.
Với những phân tích như vậy, quan điểm của phía Keynes và phía tiền tệ tương
đối thống nhất nhau. Họ đều tin rằng: lạm phát cao chỉ xảy ra với một tỷ lệ tăng trưởng
tiền tệ cao.
* Công ăn việc làm cao và lạm phát
Một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng mà đa số Chính phủ các nước theo đuổi
cũng thường gây nên lạm phát đó là tạo việc làm cho người lao động. Trong đó có hai loại:
lạm phát chi phí đẩy và lạm phát cầu kéo, được các nhà kinh tế học kết luận là kết quả của
chính sách này.
- Lạm phát do chi phí đẩy: Ngay cả khi sản lượng chưa đạt được đến tiềm năng
nhưng vẫn có khả năng xảy ra lạm phát và trên thực tế đã xảy ra ở nhiều nước. Loại lạm
phát này được gọi là lạm phát chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa suy giảm sản lượng, tăng
thêm thất nghiệp. Các cơn sốc giá cả của thị trường đầu vào đặc biệt là vật tư thiết bị cơ
bản(xăng, dầu, điện....) là nguyên nhân chủ yếu khiến đường AS dịch chuyển lên trên.
Tổng cầu không thay đổi nhưng giá cả đã tăng và sản lượng lại giảm xuống.
- Lạm phát do cầu kéo: Lạm phát do cầu kéo thực chất là do sự mất cân đối về
cung-cầu hàng hóa dịch vụ trong đó cầu có khả năng thanh toán lớn hơn so với cung hàng
hóa hoặc tốc độ gia tăng tổng phương tiện thanh toán lớn hơn tốc độ gia tăng của sản xuất.
Kết quả là trên thị trường hàng hóa khan hiếm tương đối so với tiền, đồng thời do cả hai
nhóm nguyên nhân hàng và tiền. Nền sản xuất lạc hậu, kém phát triển, năng suất lao động
thấp, năng lực sản xuất đã hầu như đạt tới giá trị sản lượng tiềm năng trong điều kiện trình
độ hiện tại nhưng tiền vẫn được bơm ra quá sức hấp thụ thông qua các van: Chi ngân sách
quá lớn so với nguồn thu, mở quá rộng biên độ của hạn mức tín dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc
quá nhỏ, lãi suất tái cấp vốn quá thấp, hệ thống thị trường vốn vừa thiếu, vừa không hoàn
hảo trong khi ngoại tệ tràn vào nhiều càng tạo thành những "hợp lực" kích cầu lên cao hơn
so với cung...
* Lạm phát theo tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái liên quan chặt chẽ tới giá cả hàng hóa xuất nhập khẩu. Tỷ giá giữa
tiền nội địa và tiền nước ngoài càng lên (tiền trong nước mất giá) thì hàng hóa càng lên
giá. Và đến lượt mình, giá hàng hóa kéo tỷ giá lên nhanh hơn, gây ra tình trạng lạm phát.
suy cho cùng, mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá có thể quy về sự gia tăng của cung ứng
tiền. Tuy nhiên, các nhà kinh tế đều đồng thuận với nhau rằng có yếu tố tâm lý trong
khuynh hướng kéo hàng hóa lên theo tỷ giá trong khi lạm phát đã hình thành và khuynh
hướng này rất phổ biến trong khu vực xuất nhập khẩu [26, tr. 59].
* Thâm hụt ngân sách và lạm phát
Thâm hụt ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng tiền tệ
và gây ra lạm phát cao.
Khi nhu cầu tiền của Chính phủ cho chi tiêu bị thiếu hụt, Chính phủ chủ trương
phát hành thêm tiền vào lưu thông để bù đắp cho các chi phí bị thiếu hụt. Khi vốn đầu tư
và chi tiêu của Chính phủ được bù đắp bằng cách phát hành thêm tiền, kể cả việc tăng
thuế, thì nó sẽ đẩy nền kinh tế đi vào thế mất cân đối, vượt quá sản lượng tiềm năng của
nó. Khi tổng cầu của nền kinh tế vượt quá khả năng sản xuất của nền kinh tế, cầu tiền vượt
quá lượng cung hàng hóa dẫn đến lạm phát, giá cả hàng hóa tăng lên nhanh chóng.
Hàng hóa bị săn đuổi bởi lượng chi tiêu quá lớn. Như vậy, bản chất của lạm phát
đó do nguyên nhân cầu là do chi tiêu quá nhiều, trong lúc lượng cung hàng hóa bị hạn chế.
Trong mọi trường hợp, tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước cao, kéo dài sẽ là
nguồn gốc tăng cung ứng tiền và gây ra lạm phát.
1.1.5. Các tác động của lạm phát
Lạm phát tác động trực tiếp đến nền kinh tế, làm thay đổi mức độ và hình thức sản
lượng, đồng thời tạo ra sự phân phối lại thu nhập và của cải xã hội. Hơn nữa, lạm phát tác
động đến nền kinh tế theo cả hai hướng tiêu cực và tích cực.
* Về mặt tích cực:
Với tốc độ lạm phát vừa phải (thường là từ 2% đến dưới 5 %/năm ở những nước
phát triển và dưới 10%/năm ở những nước kém phát triển), với việc chỉ số hóa lạm phát
cùng các kỹ thuật thích ứng khác, người ta nhận thấy lạm phát có thể đem lại một số lợi
ích, lạm phát như dầu mỡ "bôi trơn" nền kinh tế. Trong điều kiện nào đó, có thể thông qua
lạm phát từ 2-4%/năm để bỏ ngỏ khả năng có những lãi suất thực âm, có tác dụng kích
thích tiêu dùng, vay nợ và đầu tư, do đó giảm bớt thất nghiệp, kích thích tăng trưởng kinh
tế. Ngoài ra, lạm phát cho phép Chính phủ có thêm khả năng lựa chọn các công cụ kích
thích đầu tư vào những lĩnh vực kém ưu tiên thông qua mở rộng tín dụng và tài trợ lạm
phát. Giúp phân phối lại thu nhập và các nguồn lực xã hội theo các định hướng mục tiêu và
trong khoảng thời gian nhất định có chọn lọc.
* Về mặt tiêu cực:
- Lạm phát làm thay đổi lãi suất nhưng lãi suất là một chỉ số làm thay đổi kinh tế
vĩ mô cơ bản tác động đến thu nhập, tiêu dùng và đầu tư. Do vậy, thông qua lãi suất, lạm
phát tác động đến nhiều khía cạnh của đời sống kinh tế. Ví dụ: Đối với ngành ngân hàng,
để hoạt động vững vàng thì lãi suất thực tế phải ổn định mà lãi suất thực tế = lãi suất danh
nghĩa- tỷ lệ lạm phát. Để lãi suất thực tế không đổi, thì lãi suất danh nghĩa phải tăng cùng
tỷ lệ lạm phát. Khi hệ thống ngân hàng và tài chính tăng lãi suất danh nghĩa thì nền kinh tế
sẽ gặp khó khăn, thất nghiệp gia tăng, nhu cầu đầu tư giảm v.v...
- Lạm phát làm giảm thu nhập thực tế: Trong trường hợp thu nhập danh nghĩa
không đổi, lạm phát xảy ra sẽ làm giảm thu nhập thực tế.
- Lạm phát làm cho giá trị của tiền tệ không còn ổn định và không giữ được chức
năng thước đo giá trị. Xã hội gặp khó khăn trong việc tính toán tính hiệu quả, điều chỉnh
các hoạt động kinh doanh của mình.
- Lạm phát khiến cho việc phân phối thu nhập không bình đẳng: Trong quan hệ
kinh tế giữa người đi vay và người cho vay, khi lạm phát tăng cao, người cho vay chịu
thiệt và người đi vay sẽ được lợi, đã tạo nên sự phân phối thu nhập không bình đẳng giữa
người đi vay và người cho vay. Ngoài ra, một số người nắm giữ các hàng hóa có giá cả
tăng đột biến sẽ giàu lên, còn những người có hàng hóa mà giá không tăng hoặc tăng ít
hoặc người giữ tiền sẽ bị nghèo đi.
- Lạm phát tăng nguy cơ phá sản do vỡ nợ và làm tăng chi phí dịch vụ nợ nước
ngoài tính bằng ngoại tệ của cả các doanh nghiệp lẫn Chính phủ, do lạm phát thường kéo
theo việc điều chỉnh nâng tỷ giá và lãi suất đồng bản tệ với tư cách là các giải pháp nhằm
thích nghi và kiềm chế lạm phát (đồng thời, có trường hợp chính sự điều chỉnh phá giá bản
tệ là nguồn gốc trực tiếp làm gia tăng lạm phát do áp lực chi phí đẩy đối với hàng hóa, vật
tư nhập ngoại và tăng cầu đối với sản phẩm nội địa, sự tương tác qua lại giữa chúng nếu
vượt khả năng kiểm soát của Chính phủ, sẽ tạo ra vòng xoáy bất tận: phá giá - lạm phát -
phá giá... tàn phá nền kinh tế và đời sống kinh tế - xã hội của quốc gia).
- Lạm phát còn làm cho môi trường kinh doanh trong nước xấu đi, khiến dòng đầu
tư nước ngoài vào chậm, thậm chí suy giảm, đi đôi với sự ra đi của dòng vốn trong nước.
Lạm phát kéo theo giá cả hàng nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn, hạn chế việc nhập những
hàng hóa, vật tư cần thiết. Lạm phát cao luôn gắn với thâm hụt tài chính và làm thâm hụt
đó trở nên nặng nề hơn, nhất là thâm hụt ngân sách.
1.2. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát
ở bất cứ một quốc gia nào có nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, để đạt
được các mục tiêu phát triển kinh tế vĩ mô đều phải sử dụng các công cụ chính sách kinh tế
vĩ mô như chính sách tài chính, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại và chính
sách tiền tệ; thông qua việc sử dụng, điều hành các công cụ này để tác động đến các mục
tiêu như tăng trưởng, lạm phát, dấu cách việc làm... Làm như vậy, CSTT đóng vai trò là
một bộ phận quan trọng và không thể thiếu trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô cũng
như trong quá trình điều hành vĩ mô của Nhà nước.
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó
NHTW, thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lượng
tiền cung ứng (hoặc lãi suất) căn cứ vào nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế, nhằm đạt được các
mục tiêu về giá cả, công ăn việc làm và tăng trưởng kinh tế trong một thời kỳ nhất định.
Đối với những nước mà NHTW trực thuộc Chính phủ thì CSTT mà NHTW thực
hiện là CSTT quốc gia. Tùy vào tình hình kinh tế - xã hội trong khoảng thời gian CSTT
quốc gia được hoạch định theo chính sách tiền tệ mở rộng hay chính sách tiền tệ thắt chặt.
1.2.1. Các mục tiêu của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là một bộ phận trong tổng thể các chính sách kinh tế nhưng
CSTT cũng có mục tiêu, có tính chất riêng khi hướng tới mục tiêu chung. Tùy từng quốc
gia và từng giai đoạn khác nhau, CSTT có thể có mục tiêu khác nhau. Mặc dù mục tiêu cụ
thể của CSTT của các nước có khác nhau nhưng cơ bản giống nhau ở chỗ đều hướng tới
mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền, tạo việc làm cho người lao động.
1.2.1.1. Mục tiêu hoạt động
Mục tiêu hoạt động là chỉ tiêu được NHTW lựa chọn để sao cho khi sử dụng các
công cụ điều tiết sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu trung gian. Trong đó tiêu chuẩn được lựa
chọn phải đảm bảo: (1) Tính định lượng (thấy rõ được mức độ và tính nhạy cảm trong tác
động của môi trường hoạt động tới mục tiêu cuối cùng); (2) Tính nhạy cảm với biến động
của CSTT (mục tiêu hoạt động chịu ảnh hưởng đầu tiên về những thay đổi trong CSTT và
nó phản ánh lập tức kết quả mà thay đổi đó đem lại; (3) Có mối quan hệ chặt chẽ và ổn
định bởi mục tiêu trung gian được coi như mục tiêu của mục tiêu hoạt động, vì thế mục
tiêu hoạt động phải có ảnh hưởng nhanh nhạy và hiệu quả đến mục tiêu trung gian.
Căn cứ vào tiêu chuẩn trên các chỉ tiêu thường được lựa chọn làm mục tiêu hoạt
động của NHTW bao gồm: lãi suất liên ngân hàng, dự trữ không vay, dự trữ đi vay.
1.2.1.2. Mục tiêu trung gian
Mục tiêu trung gian thực chất chỉ là phương tiện giúp cho NHTW đạt được các
mục tiêu cuối cùng.
Mục tiêu trung gian của CSTT bao gồm: Mức cung tiền tệ (M1, M2, M3), lãi suất thị
trường ngắn hạn, trung và dài hạn, tỷ giá, khối lượng tín dụng.Tuy nhiên, hiện nay các
nước thường sử dụng mức cung tiền tệ hay lãi suất thị trường làm mục tiêu trung gian của
CSTT. Trong đó, tiêu chuẩn được lựa chọn làm mục tiêu trung gian phải đảm bảo. (1) Có
thể đo lường được một cách chính xác và nhanh chóng; bởi vì, các chỉ tiêu này chỉ có ích
khi nó phản ánh được tình trạng của chính sách tiền tệ nhanh hơn mục tiêu cuối cùng.
NHTW có thể dựa vào các dấu hiệu này để điều chỉnh hướng tác động khi cần thiết. Hiển
nhiên NHTW không thể đưa ra tỷ lệ tăng trưởng M2 nếu nó không biết hiện M2 đang tăng
trưởng với tốc độ nào. Mặt khác, tính chất này cũng chỉ cho NHTW biết nên chọn chỉ tiêu
cụ thể nào trong tổng lượng tiền cung ứng. (2) Có thể kiểm soát được: Khi NHTW có kỹ
năng kiểm soát mục tiêu trung gian nó có thể điều chỉnh mục tiêu đó cho phù hợp với định
hướng của CSTT. (3) Có mối liên hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng: Đây là tiêu chuẩn
quan trọng nhất của mục tiêu trung gian, khả năng có thể đo lường chính xác hoặc khả
năng kiểm soát của NHTW sẽ trở nên vô nghĩa nếu các chỉ tiêu được lựa chọn không ảnh
hưởng trực tiếp đến sản lượng và giá cả.
Việc lựa chọn lãi suất hay lượng tiền cung ứng làm mục tiêu trung gian của CSTT
tùy thuộc vào mức độ biến động tương đối của nhu cầu tiền tệ so với nhu cầu hàng hóa
được phản ánh thông qua sự biến động tương đối của đường IS so với LM trong mô hình
IS-LM. Khi đường IS biến động mạnh hơn đường LM thì tổng lượng tiền cung ứng thích
hợp với vai trò này hơn và khi đường LM biến động mạnh hơn đường IS thì việc lựa chọn
lãi suất làm mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ thích hợp hơn.
Ngoài hai mục tiêu nói trên còn có một số các chỉ tiêu khác thể hiện vai trò mục
tiêu trung gian như tổng khối lượng tín dụng, tỷ giá. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của các
chỉ tiêu này là mối quan hệ của chúng với các mục tiêu cuối cùng rất phức tạp và không rõ
ràng. Vì thế, ít khi nó được sử dụng làm mục tiêu độc lập, mà thường có thể được sử dụng
cùng với các mục tiêu khác như tổng lượng tiền cung ứng hoặc lãi suất.
1.2.1.3. Mục tiêu cuối cùng
Mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ hầu như thống nhất ở các nước: Sự điều
chỉnh lượng tiền cung ứng nhằm đạt mục tiêu trước hết là ổn định giá trị tiền tệ; từ đó góp
phần tăng trưởng kinh tế; tạo việc làm. Tùy thuộc vào điều kiện, tình hình kinh tế ở mỗi
nước trong từng thời kỳ mà NHTW đưa ra số lượng các mục tiêu khác nhau cho CSTT.
+ ổn định sức mua tiền tệ: ổn định sức mua tiền tệ, thể hiện qua việc kiểm soát
lạm phát và ổn định tỷ giá hối đoái.
* ổn định giá trị đối nội của đồng tiền: Các nhà kinh tế đã cho rằng, lạm phát là
căn bệnh kinh niên của nền sản xuất hàng hóa, nhất là đối với nền kinh tế thị trường, vì
vậy kiểm soát và duy trì một mức giá cả ổn định và lạm phát ở mức có thể chấp nhận được
là một mục tiêu được đặt ra của CSTT.
Khi lạm phát gia tăng sẽ tác động đến mọi mặt hoạt động của nền kinh tế - xã hội,
làm sai lệch các chỉ tiêu kinh tế, ảnh hưởng đến phân phối lại, tác động tới tâm lý đầu cơ
cất trữ, bất động sản, vàng bạc, ngoại tệ, các tài sản có giá trị cao... gây ra tình trạng khan
hiếm hàng hóa giả tạo; giảm sức mua thực tế của đồng tiền. Từ đó, đời sống của người lao
động sẽ khó khăn; gây khó khăn cho hoạt động của hệ thống tài chính, trong đó ảnh hưởng
trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng.
* ổn định giá trị đối ngoại của tiền tệ: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát
triển ở mức độ cao, một quốc gia muốn phát triển kinh tế thì không chỉ có các yếu tố trong
nước mà còn lệ thuộc vào xu thế phát triển của nền kinh tế quốc tế. Do vậy, xu hướng phát
triển nền kinh tế mở đã mang tính phổ biến trong thời đại ngày nay; khi đó hệ thống tài
chính tiền tệ của mỗi nước hội nhập vào tài chính quốc tế với tốc độ cao. Tác động của hệ
thống tài chính quốc gia vượt ra khỏi ranh giới quốc gia để tác động đến hoạt động của các
nền kinh tế khác. Sự tác động này nhiều hay ít phụ thuộc vào nền kinh tế nước đó "mở"
nhiều hay ít. Một sự biến động của tỷ giá sẽ tác động đến hoạt động kinh tế trong nước, thể
hiện trực tiếp và mạnh mẽ ở hoạt động xuất khẩu.
Như vậy, việc ổn định tỷ giá hối đoái là một mục tiêu quan trọng của CSTT, vì khi
có thay đổi của tỷ giá hối đoái tùy theo mức độ, có thể làm gia tăng hay giảm lạm phát của
nền kinh tế nước đó.
Việc ổn định thị trường hối đoái có nghĩa là ổn định giá trị đồng tiền nội địa so với
các đồng ngoại tệ sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp và cá nhân trong
hoạt động xuất nhập khẩu; tạo điều kiện cho nền kinh tế đất nước phát triển; thúc đẩy quá
trình hội nhập của nền kinh tế quốc tế của nước đó.
+ Góp phần tăng trưởng kinh tế: ở bất cứ quốc gia nào, phát triển đất nước đều
cần có một mức tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Một trong những yếu tố quan trọng
đến tăng trưởng kinh tế là do thay đổi khối lượng tiền trong lưu thông vì:
* Khi khối lượng tiền tăng, lãi suất thường giảm xuống, do vậy kích thích đầu tư,
mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng GDP. Mặt khác, tăng khối lượng tiền tệ sẽ làm tăng
tổng cầu, sức mua hàng hóa trên thị trường tăng lên, hàng tồn đọng sẽ giảm đi, dẫn đến các
doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả là GDP tăng lên.
* Khi khối lượng tiền tệ giảm xuống, lãi suất có xu hướng tăng lên, vốn đầu tư có
"giá" cao hơn, đầu tư giảm xuống dẫn đến giảm GDP. Mặt khác, giảm khối lượng tiền tệ,
sẽ làm giảm tổng cầu, sức mua sẽ giảm, làm tăng lượng hàng hóa tồn đọng của các doanh
nghiệp, do đó các doanh nghiệp không có cơ hội mở rộng sản xuất, và khi đó GDP giảm
xuống.
Việc tăng giá hay giảm bớt khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân ở mỗi
thời kỳ, cần được sử dụng các công cụ CSTT phù hợp (hạn mức tín dụng, dự trữ bắt buộc,
lãi suất....) với những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể trên cơ sở vận dụng tối ưu các qui luật
phát triển kinh tế vào việc xây dựng các chính sách kinh tế; trong đó có CSTT.
+ Góp phần tạo công ăn việc làm: CSTT phải xác lập mục tiêu: Tạo việc làm,
giảm thất nghiệp. Bởi vì, mọi của cải trong xã hội do lao động của con người tạo ra, trong
điều kiện sản xuất hàng hóa thì thất nghiệp tràn lan. Do vậy, CSTT phải quan tâm đến khả
năng tạo việc làm, giảm áp lực xã hội của thất nghiệp. Tạo việc làm có ý nghĩa rất quan
trọng là do:
- Thất nghiệp gây ra nghèo khó cho người lao động, từ đó gây ra những tệ nạn xã
hội.
- Chỉ số thất nghiệp là một trong những chỉ tiêu phản ánh khả năng sử dụng hiệu
quả nguồn lực xã hội.
- Các khoản trợ cấp thất nghiệp tăng lên làm thay đổi cơ cấu NS và là một trong
những nguyên nhân gây thâm hụt NSNN.
* Mối quan hệ giữa các mục tiêu:
Trong dài hạn các mục tiêu CSTT có liên quan chặt chẽ với nhau hỗ trợ và thúc
đẩy lẫn nhau. Vì vậy, khi thực thi CSTT không thể tuyệt đối hóa một mục tiêu nào, không
thể giải quyết các mục tiêu một cách độc lập trên tầm vĩ mô. Tuy trong ngắn hạn có thể
xảy ra sự xung đột, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau giữa các mục tiêu.
- Việc giảm tỷ lệ thất nghiệp đồng nghĩa với việc thực hiện một chính sách tiền tệ
thắt chặt, lãi suất tăng lên làm giảm các nhân tố cấu thành tổng cầu, dẫn đến tổng cầu của
nền kinh tế giảm xuống. Thất nghiệp có xu hướng tăng lên. Mặt khác, việc duy trì một tỷ
lệ thất nghiệp thấp hơn thường kéo theo chính sách tiền tệ mở rộng và sự tăng giá.
- Mục tiêu công ăn việc làm mâu thuẫn với mục tiêu ổn định giá cả còn thể hiện
thông qua sự phản ứng của NHTW đối với các cú sốc cung nhằm đảm bảo mức cầu tiền
thực tế, kết quả là giá cả tăng lên.
- Mâu thuẫn này còn được thể hiện thông qua định hướng điều chỉnh tỷ giá; Bằng
việc hạ giá đồng bản tệ, các công nghiệp xuất khẩu có khả năng mở rộng quy mô sản xuất.
Tỷ lệ thất nghiệp vì thế giảm thấp kèm theo sự tăng lên của mức giá chung. Như vậy, việc
duy trì một mức tỷ giá ổn định và thích hợp sẽ làm giảm tỷ lệ công ăn việc làm, trong khi
một mức tỷ giá cao hơn sẽ góp phần giảm tỷ lệ lạm phát.
Thất nghiệp và tăng trưởng không có sự mâu thuẫn cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Công ăn việc làm cao sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển và ngược lại. Tuy nhiên, mối quan hệ
giữa sự tăng trưởng và ổn định giá cả lại tương đối phức tạp; chúng mâu thuẫn nhau trong
ngắn hạn nhưng lại bổ sung cho nhau trong dài hạn.
Như vậy, trong ngắn hạn, NHTW không thể đạt được tất cả các mục tiêu trên.
Phần lớn NHTW các nước coi sự ổn định giá cả là mục tiêu chủ yếu và dài hạn của chính
sách tiền tệ, nhưng trong ngắn hạn đôi khi họ phải tạm thời từ bỏ mục tiêu chủ yếu để khắc
phục tình trạng thất nghiệp cao đột ngột hoặc các ảnh hưởng của các cú sốc cung đối với
sản lượng. NHTW theo đuổi một mục tiêu về dài hạn và đa mục tiêu trong ngắn hạn.
+ Góp phần ổn định lãi suất: Là một mục tiêu cơ bản của CSTT, vì những biến
động của lãi suất sẽ làm cho kinh tế bấp bênh không ổn định. Lãi suất lên xuống bất
thường làm cho giá cả các loại hàng hóa cũng lên xuống bất thường. Thị trường tài chính
tiền tệ, thị trường hàng hóa và dịch vụ không ổn định và luôn biến động theo chiều hướng
không lường trước được, gây khó khăn cho việc lập các kế hoạch chi tiêu và đầu tư trong
tương lai của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Lãi suất cao có thể tương ứng với một nền
kinh tế đang tăng trưởng và phát triển mạnh nhưng không đồng nghĩa với một nền kinh tế
phát triển bền vững, đặc biệt khi lãi suất quá cao sẽ gây ra tình trạng siêu lạm phát. Ngược
lại, lãi suất quá thấp biểu hiện một nền kinh tế trì trệ, tốc độ tăng trưởng kinh tế thậm chí ở
mức âm, tương ứng với tình trạng giảm phát. Như vậy, hậu quả của tình trạng lãi suất quá
cao hay quá thấp, lên xuống thất thường là một nền kinh tế bất ổn. Đồng thời những biến
động về lãi suất sẽ gây mất lòng tin trong công chúng về khả năng kiểm soát hữu hiệu
những công cụ và khả năng đạt được mục tiêu CSTT của Chính phủ và NHTW.
Trên đây là một số mục tiêu vĩ mô chung mà các quốc gia trên thế giới đang theo
đuổi, tuy nhiên, một số nước còn tập trung vào các mục tiêu cụ thể, tùy thuộc vào đặc điểm
phát triển kinh tế đặc thù của mỗi quốc gia.
1.2.2. Công cụ điều hành và sự lựa chọn các giải pháp chính sách tiền tệ
Để đạt được các mục tiêu đã đề ra của CSTT, NHTW sử dụng một hệ thống công
cụ để điều tiết lượng tiền cung ứng bao gồm: tái cấp vốn, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nhiệm vụ
thị trường mở, lãi suất, tỷ giá hối đoái, hạn mức tín dụng... Việc sử dụng các công cụ trên
là tùy thuộc vào quan điểm, chính sách của từng quốc gia.
1.2.2.1. Công cụ trực tiếp
Công cụ trực tiếp là công cụ tác động về mặt lượng và NHTW kiểm soát công cụ
này chủ yếu bằng biện pháp hành chính. Khi NHTW sử dụng các công cụ trực tiếp nó có
tác động đến mục tiêu trung gian và từ mục tiêu trung gian tác động đến tổng cầu.
- Công cụ hạn mức tín dụng: Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW bắt
buộc NHTM phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Hạn mức tín dụng thường được sử dụng trong trường hợp nền kinh tế có lạm phát
cao nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng. Đây là biện pháp
nhằm khống chế dư nợ của các NHTM mà từ đó tác động đến lượng tiền cung ứng trong
nền kinh tế thông qua việc tác động vào hệ số mở rộng tiền tệ. Khi NHTW tăng hạn mức
tín dụng sẽ dẫn đến khả năng tăng cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, tăng khả năng
tạo tiền, tăng lượng tiền cung ứng và ngược lại. Hạn mức tín dụng đưa ra bao giờ cũng
phải nhỏ hơn nhu cầu vay của nền kinh tế mới có hiệu quả.
Tuy nhiên hạn mức tín dụng cũng có nhiều hạn chế như: Mang tính hành chính
quá cao, không chính xác và không có hiệu quả khi hạn mức tín dụng được quy định
không phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế. Ngoài ra, công cụ này tỏ ra kém linh hoạt và
không thể thay đổi thường xuyên. Những hạn chế này chủ yếu được xuất phát từ sự thiếu
căn cứ trong xác định hạn mức tín dụng và lỏng lẻo của các chế tài trong việc quản lý nó.
- Công cụ kiểm soát lãi suất: NHTW trực tiếp ấn định trần lãi suất cho vay để
khống chế mức lãi suất của các NHTM áp dụng cho vay đối với nền kinh tế. NHTM tăng
giảm lãi suất cho vay theo trần lãi suất của NHTW, từ đó ảnh hưởng đến nhu cầu vốn của
nền kinh tế. Công cụ này có đặc điểm lớn nhất là không phụ thuộc với cơ chế thị trường vì
nó hạn chế sự cạnh tranh của các NHTM, hạn chế sự linh hoạt của thị trường tiền tệ, giảm
tính chủ động trong kinh doanh của hệ thống NHTM. Nếu NHTW ấn định mức lãi suất
quá thấp làm cho nhu cầu tiền tăng nhanh hơn dự đoán, gây khó khăn về nguồn vốn cho
NHTM không kịp điều chỉnh kịp thời bỏ lỡ cơ hội đầu tư của mình.
- Công cụ tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là tỷ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền. Khi trở
thành công cụ CSTT, NHTW sẽ trực tiếp can thiệp vào tỷ giá, điều chỉnh tỷ giá cho những
mục tiêu nhất định của NHTW trong từng thời kỳ: khuyến khích xuất khẩu; ổn định giá trị
đồng tiền... Tuy nhiên, khi sử dụng công cụ này đòi hỏi NHTW trong từng thời kỳ phải cân
nhắc một cách kỹ lưỡng, do nó có ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế quốc tế, ảnh hưởng tới hoạt
động kinh doanh ngoại hối của các NHTM và các TCTD, từ đó tác động lớn đến nền kinh tế.
Về thực chất, tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ, bởi lẽ tỷ giá không làm tăng
hay giảm lượng tiền trong lưu thông. Tuy nhiên, có nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia
có nền kinh tế đang phát triển, đang chuyển đổi, lại coi tỷ giá là công cụ bổ trợ quan trọng
cho điều hành chính sách tiền tệ.
1.2.2.2. Công cụ gián tiếp
Đây là nhóm công cụ tác động trước hết vào mục tiêu của chính sách tiền tệ, thông
qua cơ chế thị trường mà tác động này được truyền đến các mục tiêu trung gian là khối lượng
tiền cung ứng và lãi suất. Nhóm công cụ này bao gồm:
- Công cụ tái cấp vốn: Tái cấp vốn là hình thức cấp vốn tín dụng của NHTW đối
với ngân hàng thương mại khi cấp một khoản tín dụng cho ngân hàng thương mại một mặt,
NHTW đã tăng lượng tiền cung ứng, mặt khác tạo cơ sở cho các ngân hàng thương mại,
tạo bút tệ cũng như khai thông được năng lực thanh toán của họ. Với công cụ này, NHTW
sẽ điều chỉnh tăng, giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu phụ thuộc vào mục tiêu
của CSTT là thắt chặt hay nới lỏng tiền tệ, từ đó tác động tới lượng tiền trong lưu thông.
Khi NHTW thấy rằng, cần tăng thêm tiền cho lưu thông họ có thể hạ thấp lãi suất tái cấp
vốn xuống. Khi đó, một mặt, khuyến khích các ngân hàng thương mại đến NHTW để vay
vì giá cả tín dụng giảm, mặt khác dung lượng tín dụng được cấp vốn với các ngân hàng
thương mại tăng lên.
Cơ chế ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng: Đối với công cụ này NHTW ấn định hạn
mức TCK, lãi suất TCK và các điều kiện TCK. Những thay đổi này ảnh hưởng đến mục
tiêu cuối cùng khi các NHTM có nhu cầu vay NHTW và ảnh hưởng qua hai con đường:
khối lượng (hạn mức) và giá(lãi suất TCK).
Công cụ gián tiếp có khả năng điều tiết một cách linh hoạt các mục tiêu trung gian.
Tuy nhiên, mức độ phát huy hiệu quả của công cụ này căn cứ vào mức độ phụ thuộc về
vốn của NHTM vào NHTW. Vì thế, nó là công cụ kém chủ động. Để khắc phục nhược
điểm này người ta thường sử dụng kết hợp với công cụ dự trữ bắt buộc.
- Dự trữ bắt buộc: Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NHTM buộc phải duy trì trên
một tài khoản tiền gửi không hưởng lãi tại NHTW. nó được xác định bằng một tỷ lệ phần
trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi tại một khoảng thời gian nào đó. Mức dự trữ bắt
buộc được quy định khác nhau căn cứ vào thời hạn tiền gửi, vào quy mô và tính chất hoạt
động của NHTM.
Cơ chế tác động của dự trữ bắt buộc: Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc và do đó
mức dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng như sau: tỷ lệ dự trữ bắt buộc
tăng lên sẽ làm giảm khả năng cho vay của hệ thống NHTM, giảm hệ số tạo tiền và do đó
khả năng mở rộng tiền gửi của hệ thống ngân hàng, giảm mức cung vốn NHTW trên thị
trường liên ngân hàng. Quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ gây nên những ảnh hưởng
ngược lại.
Lợi thế chủ yếu của dự trữ bắt buộc trong việc kiểm soát lượng tiền cung ứng là sự
thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng một cách bình đẳng đến tất cả các ngân hàng.
Đây là công cụ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến khối lượng tiền cung ứng. Chỉ cần 1% thay đổi
tỷ lệ dự trữ bắt buộc tính trên tổng số dư tiền gửi bình quân ngày, mức dự trữ sẽ là thay đổi
đáng kể và dẫn đến sự thay đổi theo cấp số nhân của khối lượng tiền cung ứng. Điều này
làm cho công cụ dự trữ bắt buộc trở nên thiếu linh hoạt vì sự thay đổi thường xuyên sẽ gây
nên sự bất ổn định cho hoạt động của các ngân hàng và chi phí cho sự điều chỉnh thích ứng
với tỷ lệ dự trữ bắt buộc mới là rất tốn kém. Mặt khác, sự thay đổi dự trữ bắt buộc (đặc
biệt trong trường hợp tăng) gây ảnh hưởng ngay lập tức và trực tiếp đến lượng vốn khả
dụng của hệ thống ngân hàng. Vì thế, công cụ này thường được sử dụng kết hợp với các
công cụ khác nhằm điều chỉnh lượng vốn khả dụng các ngân hàng khi cần thiết.
- Nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động NHTW mua,
bán giấy tờ có giá ngắn hạn (tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN, Chứng chỉ tiền gửi....)
trên thị trường tiền tệ, nhằm làm thay đổi cơ sở tiền tệ mà đặc biệt là tiền dự trữ trong hệ
thống NH, qua đó tác động đến lượng tiền cung ứng. Khi NHTW mua, bán trên thị trường
tự do, gọi là nghiệp vụ mua bán trên thị trường tự do. Do vậy, thị trường mở này có khả
năng tiếp nhận được một lượng rất lớn nghiệp vụ của NHTW mà không làm cho giá cả
biến động mạnh. Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ CSTT quan trọng của NHTW.
Nghiệp vụ thị trường này là yếu tố quyết định quan trọng nhất đối với những thay đổi
trong cơ sở tiền tệ và đó cũng là nguồn gốc chính gây nên những biến động trong cung ứng
tiền tệ. Đây là một trong những cửa ngõ rất quan trọng để NHTW phát hành tiền vào nền
kinh tế hoặc rút bớt tiền trong lưu thông về NHTW thông qua mua hay bán các loại giấy tờ
có giá. Qua nghiệp vụ mua bán này NHTW làm tăng hay giảm dự trữ của các NHTM, tác
động đến khả năng tín dụng của các NH này và từ đó làm tăng hay giảm lượng tiền cung
ứng trong nền kinh tế.
Khi NHTW mua vào các giấy tờ có giá, tăng thêm tiền dự trữ cho hệ thống ngân
hàng nhằm kích thích tăng trưởng tín dụng, tăng lượng tiền cung ứng, thúc đẩy đầu tư và
tăng trưởng kinh tế, tăng việc làm.
Công cụ thị trường mở đã được các nước có nền kinh tế tiên tiến áp dụng và trở
thành công cụ quan trọng bậc nhất để điều hòa lưu thông tiền tệ.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở thể hiện tính ưu việt của nó trên các nội dung
sau:
- NHTW có thể chủ động can thiệp vào thị trường tiền tệ và từ đó tác động trực
tiếp vào khả năng cung ứng tín dụng của các tổ chức tín dụng.
- Độ linh hoạt và chính xác cao, có thể sử dụng ở bất cứ lúc nào, (mong muốn mức
thay đổi dự trữ hoặc cơ số tiền tệ lớn hay nhỏ, NHTW lớn hay nhỏ, NHTW cũng có thể
thực hiện bằng cách mua bán một khối lượng lớn, hay nhỏ chứng khoán).
- NHTW dễ dàng đảo ngược tình thế khi có một quyết định sai lầm về việc sử dụng
công cụ này bằng cách lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó.
- Việc thực hiện có thể được hoàn thành nhanh chóng không gây nên những chậm
trễ về mặt hành chính. Khi muốn thay đổi cơ sở tiền tệ hoặc dự trữ NHTW có thể quyết
định và thực hiện ngay trong phiên giao dịch.
Nhưng nghiệp vụ thị trường mở còn hạn chế là nó chỉ phát huy hiệu quả thực sự ở
nơi có thị trường tài chính phát triển, khi NHTW kiểm soát được lượng vốn khả dụng
trong hệ thống ngân hàng. Vì thế, không phải quốc gia nào cũng sử dụng được công cụ
này.
Qua phân tích trên, chúng ta có thể hệ thống hóa các mục tiêu của CSTT và các
Công cụ
Mục tiêu hoạt động
Mục tiêu trung gian
Mục tiêu cuối cùng
- Nghiệp vụ thị trường mở
- Tổng lượng dự trữ - Lãi suất
- Mức cung tiền - Lãi suất
ngân
- Giá cả - Sản lượng - Công văn việc làm
liên hàng
- Dự trữ bắt
công cụ CSTT theo sơ đồ sau: (Sơ đồ 1.1.).
- Chính sách tái chiết khấu
Sơ đồ 1.1: hệ thống hóa các mục tiêu của CSTT và các công cụ CSTT
1.2.2.3. Cơ chế lan truyền của chính sách tiền tệ
Cơ chế lan truyền của chính sách tiền tệ là những kênh tác động mà NHTW có thể
sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ làm thay đổi các điều kiện tiền tệ trên thị trường qua đó
tác động đến tổng cầu của nền kinh tế làm thay đổi sản lượng, giá cả và việc làm (tác động
đến mục tiêu cuối cùng của CSTT).
CSTT ảnh hưởng đến các biến số kinh tế vĩ mô theo ba con đường: Tín dụng ngân
NHTW
MS
Tín dụng
Lãi suất giảm
Giá tài sản
Tín dụng NH
Bảng tổng kết tài sản
Tỷ giá Tăng giá cổ phiếu
Thu nhập thường xuyên tăng
TGHN
Dòng lưu ngân
Sự tăng giá
Đầu tư tăng
Rủi ro đạo đức
Q
X
Tiền vay
Tín dụng
Im
NX
hàng, lãi suất và giá tài sản. Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.2: Sơ đồ các kênh dẫn chuyển tác động của CSTT
1.2.2.4. Sự lựa chọn các giải pháp chính sách tiền tệ
Như đã đề cập ở phần trên, mục tiêu ổn định giá cả được hầu hết các nhà kinh tế
khẳng định là mục tiêu bao trùm và lâu dài của chính sách tiền tệ. Tuy vậy, vấn đề ở đây là
phải thực thi CSTT như thế nào để đạt được mục tiêu này. Có 4 giải pháp CSTT khác nhau
được áp dụng tại các quốc gia: (1) Chính sách tiền tệ dựa vào các đại lượng tiền; (2) chính
sách tiền tệ dựa vào tỷ giá hối đoái; (3) chính sách tiền tệ dựa vào GDP danh nghĩa; (4)
chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát. Mỗi giải pháp có những ưu thế và hạn
chế riêng, phần dưới đây sẽ xem xét đến những vấn đề đó.
* Chính sách tiền tệ dựa vào các đại lượng tiền tệ: Nếu tốc độ vòng quay tiền
tương đối ổn định hay có thể dự báo trước được thì thông qua chỉ tiêu tăng khối lượng tiền
có thể duy trì mức tăng trưởng thu nhập danh nghĩa để đạt được ổn định giá cả lâu dài.
- Trong một môi trường như thế, việc chọn khối lượng tiền làm mục tiêu có những
lợi thế sau:
+ NHTW dễ dàng kiểm soát được khối lượng tiền vì các đại lượng về khối lượng
tiền (M0, M1, M2...) có thể đo lường một cách chính xác trong thời gian ngắn.
+ Cho phép NHTW điều chỉnh chính sách tiền tệ của mình đáp ứng với các chính
sách trong nước khác.
+ Thúc đẩy lòng tin vào chính sách tiền tệ nhằm kìm hãm mức lạm phát thấp và
giúp hạn chế các nhà hoạch định chính sách tiền tệ rơi vào cái bẫy của các biện pháp tình
thế.
Tuy nhiên, nếu có sự bất ổn về vòng quay tiền đến mức làm yếu đi mối quan hệ
giữa đại lượng tiền tệ với biến số mục tiêu thì việc chính sách tiền tệ lấy đại lượng tiền tệ
làm mục tiêu sẽ không thực hiện được. Mối quan hệ lỏng lẻo giữa các biến số này có nghĩa
là cho dù đạt được mục tiêu cũng không thể tạo ra kết quả mong muốn về biến số mục
tiêu. Kết quả là việc sử dụng giải pháp này trở nên mơ hồ và khó lý giải.
* Chính sách tiền tệ dựa vào tỷ giá hối đoái: Tức là việc gắn giá trị nội tệ vào
một đồng tiền ổn định có tỷ lệ lạm phát thấp, hoặc gắn giá trị nội tệ vào ngoại tệ theo chế
độ tỷ giá cố định điều chỉnh từ từ (còn gọi là chế độ tỷ giá trườn bò - crawling peg).
Ưu điểm:
Việc sử dụng giải pháp này là tránh được vấn đề không nhất quán về mặt thời
gian, đồng thời, do NHTW cam kết duy trì tỷ giá cố định nên NHTW không thể theo đuổi
chính sách mở rộng tiền tệ quá mức mà hậu quả của nó là làm cho nội tệ bị phá giá. Một
lợi thế quan trọng nữa là neo tỷ giá đơn giản, rõ ràng và dễ hiểu đối với công chúng.
Nhược điểm:
+ Tỷ giá mục tiêu có thể sẽ làm mất tính độc lập của chính sách tiền tệ vì phải bỏ dần
việc sử dụng các công cụ để đối phó với các cú sốc trong nước mà còn bị tổn thương bởi các cú
sốc bắt nguồn từ các nước có đồng tiền chọn làm neo.
+ Xóa bỏ tín hiệu thị trường ngoại hối đưa ra về quan điểm chính sách tiền tệ.
+ Dễ bị tấn công bởi việc đầu cơ đồng tiền chọn làm neo.
+ Không biết chắc chắn về giá trị tương lai của đồng bản tệ.
* Chính sách tiền tệ dựa vào GDP danh nghĩa: Giải pháp này có lợi thế tránh
được những cú sốc trong vòng quay tiền và vấn đề không nhất quán về thời gian, đồng
thời, cho phép quốc gia được độc lập trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ.
Tuy nhiên, nhược điểm là NHTW không dễ dàng kiểm soát GDP danh nghĩa và cần có
nhiều thời gian kiểm chứng trước khi đánh giá sự thành công của chính sách tiền tệ. Thêm
vào đó việc dự tính mức tăng trưởng GDP tiềm năng(được lượng hóa bằng một con số)
thường có độ chính xác thấp và hay thay đổi, do đó việc công bố chỉ tiêu có thể gây ra sự
hiểu lầm cho công chúng. Đồng thời, chỉ tiêu này không dễ hiểu lại có sự nhầm lẫn giữa
GDP danh nghĩa và GDP thực tế [8, tr. 1-2].
* Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát: Cũng giống như các mục
tiêu trên, việc lựa chọn giải pháp chính sách tiền tệ này cũng có những lợi thế nhưng cũng
không thể tránh được những hạn chế. Để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này, chúng ta sẽ xem
xét ở phần dưới đây.
1.2.3. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát
1.2.3.1. Khái niệm
Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát là việc thực hiện chính sách
tiền tệ trong đó NHTW xây dựng một mục tiêu lạm phát theo tiến trình thời gian định
trước và sử dụng các công cụ chính sách đón đầu sẵn có để đạt mục tiêu đó. Mục tiêu lạm
phát là một khung chính sách tiền tệ với ba nội dung chính:(i). Xác định mục tiêu lạm phát
ở tầm trung hạn; (ii). Dự đoán tỷ lệ lạm phát trong tương lai; (iii). Tỷ lệ lãi suất ngắn hạn
được sử dụng như mục tiêu điều hành mà không có một mục tiêu trung gian rõ rệt, để đạt
được mục tiêu lạm phát có tính dự đoán về lạm phát trong tương lai.
Đồng thời, khung chính sách tiền tệ được thay đổi theo hướng sử dụng các biện
pháp đón đầu dựa trên dự đoán về lạm phát tầm trung hạn và mối quan hệ chặt chẽ giữa
mục tiêu điều hành và mục tiêu cuối cùng. Ví dụ như nhất định phải ổn định giá cả do
không đề xuất một mục tiêu trung gian nào.
Các công cụ CSTT
Mục tiêu hoạt động
Mục tiêu cuối cùng
Sơ đồ 1.3: Chính sách mục tiêu lạm phát
Các NHTW điều hành chính sách tiền tệ trong chính sách mục tiêu lạm phát như
sau:
+ Một là, NHTW xác định trước một mục tiêu lạm phát coi đó là cái chốt để tiến
hành chính sách tiền tệ tầm trung hạn.
+ Hai là, NHTW sử dụng các biến số thông tin như tổng tiền, tỷ lệ lãi suất, tỷ giá,
tỷ lệ lạm phát dự kiến, giá cả tài sản và các nguyên vật liệu chính để dự đoán tỷ lệ lạm phát
trong tương lai;
+ Ba là, NHTW thiết lập và thực hiện chính sách tiền tệ sao cho tỷ lệ lạm phát
thực tế hội tụ theo NHTW thiết lập.
+ Bốn là, NHTW đánh giá lại việc thực hiện chính sách tiền tệ và rút kinh nghiệm
cho chính sách tiền tệ giai đoạn sau. Quá trình tổng kết này sẽ dẫn tới sự hội tụ của tỷ lệ
lạm phát thực tế với mục tiêu lạm phát dài hạn và tạo cơ sở cho việc ổn định giá cả [52].
1.2.3.2. Điều kiện để một nước có thể theo đuổi chính sách tiền tệ với mục tiêu
kiểm soát lạm phát
Để thực thi chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát, một quốc gia ít
nhất phải có hai điều kiện căn bản sau:
Một là, NHTW phải điều chỉnh chính sách tiền tệ với một mức độ độc lập nào đó.
Điều này không có nghĩa là độc lập hoàn toàn với Chính phủ nhưng nó phải được tự do
trong việc lựa chọn các công cụ để đạt được mục tiêu mà Chính phủ cho là hợp lý. Để làm
được điều này, quốc gia đó không được để chính sách tài chính có ưu thế hơn chính sách
tiền tệ, tức chính sách tài chính không được khống chế chính sách tiền tệ. Tự do không bó
buộc của chính sách tài khóa có nghĩa rằng việc vay mượn của Chính phủ từ NHTW là rất
ít hoặc không có và thị trường tài chính nội địa đủ sâu để hấp dẫn các khoản nợ công trái
Chính phủ. Nó cũng có nghĩa là, Chính phủ cần có một cơ sở thu nhập vững chắc và không
cần dựa vào thu nhập có được từ " thuế đúc tiền".
Hai là, thiện chí và khả năng của các nhà chức trách trong việc không đặt quá cao
cho một số chỉ tiêu khác như, mức lương, mức sử dụng lao động hay tỷ giá hối đoái vì
công chúng không có gì đảm bảo rằng các nhà chức trách sẽ đặt mục tiêu lạm phát cao hơn
các mục tiêu này và ngược lại, nên sẽ thiếu đi sự tin cậy cần thiết cho thành công [14, tr.
88-89].
Nếu thỏa mãn hai điều kiện trên, về mặt lý thuyết, một số quốc gia có thể theo
đuổi chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát.
1.2.3.3. Căn cứ để thiết lập chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát
+ Ai là người xác định mục tiêu lạm phát
Xét về mặt lý thuyết, Chính phủ thường là người đưa ra mục tiêu cụ thể cho từng
giai đoạn.
Xét về mặt thực tế, việc đưa ra mục tiêu này đều dựa vào sự tư vấn của Bộ trưởng
Bộ Tài chính hoặc của Thống đốc NHTW, nhưng cũng có những trường hợp Chính phủ
chỉ đưa ra định hướng thực thi chính sách tiền tệ theo chính sách mục tiêu lạm phát, còn
mục tiêu cụ thể lại do Thống đốc NHTW quyết định sau khi có tham khảo ý kiến của Bộ
trưởng Bộ Tài chính (tùy luật áp dụng của từng quốc gia trên thế giới).
+ Đo lường mức độ lạm phát mục tiêu
Trước hết là phải xác định chỉ số đo lường lạm phát: hầu hết các nước theo đuổi
chính sách này lựa chọn chỉ số giá tiêu dùng CPI để tính lạm phát mục tiêu bởi vì chỉ số
này quen thuộc và dễ hiểu đối với công chúng. Tuy nhiên, trong cách tính CPI của mỗi
nước cũng có khác nhau. Thường thì để cho việc dự đoán lạm phát và điều hành chính
sách tiền tệ sát với mục tiêu hơn các nước thường quan tâm đến việc tỷ lệ lạm phát cơ bản
tức CPI có loại trừ giá cả của các mặt hàng hay có biến động lớn (tránh cú sốc).
Sau khi đã xác định được chỉ số tính, việc tiếp theo là phải xác định lạm phát mục
tiêu là một con số cụ thể hay dao động trong một khoảng. Đồng thời, trong khoảng mục
tiêu đó, có nước lại chọn điểm giữa khoảng như là tỷ lệ lạm phát trung tâm để điều hành
chính sách tiền tệ sao cho tỷ lệ lạm phát nằm trong khoảng mục tiêu nhưng cố gắng càng
bám sát tỷ lệ lạm phát trung tâm càng tốt [14, tr. 89].
Việc tiếp theo là xác định tỷ lệ lạm phát như thế nào là hợp lý? Như chúng ta đã
biết, lạm phát ở mức độ nào đó có tác dụng kích thích sự phát triển kinh tế, tạo công ăn
việc làm, giảm thất nghiệp. Chính vì vậy, việc xác định tỷ lệ lạm phát mục tiêu rất quan
trọng. Về bản chất, mục tiêu lạm phát gắn với chỉ số lạm phát, do đó, việc xây dựng mục
tiêu lạm phát có nghĩa là xây dựng một chỉ số lạm phát cụ thể và điều này được xem như
mục tiêu ổn định giá cả trong một số năm tiếp theo. Tuy nhiên, ổn định giá cả ở đây không
có nghĩa là lạm phát bằng 0 mà phải được hiểu là chỉ số lạm phát có thể ở mức trên 0
nhưng vẫn đảm bảo được mục tiêu ổn định giá cả.
Trong cách tính chỉ số lạm phát, cần thiết phải có sự loại trừ giá cả của một số
mặt hàng có biến động lớn mà khó có thể dự báo được, đồng thời chỉ số lạm phát phải
được công chúng quan tâm và được hiểu một cách dễ dàng.
+ Thời điểm nào là hợp lý
Để hình thành một chính sách mục tiêu lạm phát tin cậy sẽ là rất quan trọng và cần
thiết để đạt được một số thành công ban đầu trong việc kiểm soát lạm phát bởi vì việc đạt
được những thành công này làm cho dân chúng tin tưởng vào các chính sách đang được
Chính phủ hiện hành áp dụng.
Một số vấn đề quan trọng là khung thời gian hợp lý như thế nào? Bởi vì chính sách
tiền tệ ảnh hưởng lên lạm phát với độ trễ về thời gian tương đối dài, do đó, chính sách tiền
tệ không thể đạt được mục tiêu lạm phát cụ thể ngay lập tức mà chỉ có thể đạt được sau
một thời gian nhất định. Ngoài ra, các cú sốc có thể xảy ra trong khoảng thời gian giữa
điểm khởi xướng chính sách tiền tệ và thời điểm phát huy tác dụng của nó. Điều này có
nghĩa nên xác định mục tiêu ở tầm trung hạn [49].
+ Việc thực thi phải đảm bảo tính công khai, minh bạch và linh hoạt
Sau khi đã xác định được các vấn đề trên, mục tiêu lạm phát phải được chuyển tải
đến công chúng một cách rõ ràng, minh bạch và hiệu quả, để dân chúng hiểu được. Đồng
thời, NHTW phải có trách nhiệm giải thích và công bố đến dân chúng về những thay đổi
của chính sách với những lý do rõ ràng. Điều này làm tăng tính minh bạch và giảm độ trễ
của chính sách tiền tệ đến những thay đổi giá cả và những quyết định tiền lương.
Tính linh hoạt của chính sách tiền tệ là nhằm đối phó lại với các
cú sốc về tổng cung hay tổng cầu, tức là chính sách này cho phép có độ lệch khỏi mục
tiêu lạm phát và mục tiêu lạm phát có thể thay đổi theo thời gian [14, tr. 90].
1.2.3.4. Đánh giá ưu nhược điểm của chính sách
Ưu điểm:
+ Công chúng hiểu được một cách nhanh chóng và dễ dàng về mục tiêu lạm phát.
+ Sự minh bạch và rõ ràng về mục tiêu lạm phát có tác dụng làm cho các dự tính
về tỷ lệ lạm phát sát với lạm phát mục tiêu hơn, kết quả là mục tiêu ổn định giá cả dễ thực
hiện được.
+ Giảm được áp lực đối với NHTW trong việc theo đuổi các mục tiêu khác như
tăng trưởng, thất nghiệp.
+ Tính độc lập tương đối của NHTW được duy trì nên NHTW có thể đối phó hiệu
quả với những cú sốc xảy ra ở bên ngoài quốc gia.
+ Tránh được những thay đổi đột biến trong tốc độ vòng quay tiền, bởi vì nó cho
phép NHTW giảm được sự tập trung vào việc xử lý mối quan hệ giữa khối lượng tiền và
thu nhập danh nghĩa; thay vào đó, NHTW tập trung xử lý các thông tin nhằm dự báo lạm
phát và chọn lựa chính sách phù hợp để đạt được mục tiêu lạm phát mong muốn.
Nhược điểm:
+ Bởi vì các hiệu ứng của chính sách lên lạm phát có độ trễ về mặt thời gian, nên
NHTW không thể dễ dàng kiểm soát được lạm phát. Như vậy, việc đạt được mục tiêu lạm
phát một cách chính xác về mặt thời gian thường gặp khó khăn và cũng vì thế mà việc
đánh giá mức độ thành công của chính sách thường chậm trễ.
+ Việc cố gắng để đạt được lạm phát mục tiêu có thể dẫn đến một mức tăng trưởng
không bền vững của công ăn việc làm và sản lượng.
1.3. chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát ở một số nước trên thế
giới và bài học kinh nghiệm
1.3.1. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát ở Hàn Quốc
1.3.1.1. Cơ quan xác định mục tiêu và tình hình kinh tế chính trị tại thời điểm
công bố mục tiêu
Chính sách mục tiêu lạm phát được áp dụng tại Hàn Quốc theo các điều khoản của
Luật Ngân hàng 1997. Đây là Bộ luật đã được sửa đổi để trao quyền tự quyết cao hơn cho
NHTW Hàn Quốc trong việc điều chỉnh và thực thi chính sách tiền tệ. Luật này nhằm tạo
ra chính sách tiền tệ trung lập và độc lập tuyên bố ổn định giá cả là mục đích duy nhất của
NHTW Hàn Quốc. Theo các điều khoản của luật này, NHTW Hàn Quốc phải xây dựng
một mục tiêu lạm phát hàng năm theo tín hiệu thị trường và thực hiện các biện pháp để đạt
được các mục tiêu đó. Chính sách mục tiêu lạm phát được áp dụng bắt đầu từ năm 1998.
Trước khi mỗi năm kết thúc, NHTW Hàn Quốc sẽ định ra một mục tiêu ổn định giá cả cho
năm sau, sau khi đã tham vấn ý kiến của Chính phủ, và sau đó tự mình thiết lập và phổ
biến một kế hoạch điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tín dụng bao gồm cả mục
tiêu ổn định giá cả. Cuối cùng, hàng tháng ủy ban chính sách tiền tệ của NHTW Hàn Quốc
quyết định định hướng của chính sách tiền tệ hàng tháng và sau đó NHTW Hàn Quốc điều
hành các chính sách tiền tệ theo định hướng này.
1.3.1.2. Cơ chế hoạt động của chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát
+ Thứ nhất: Mục tiêu được quản lý theo một khung dao động xung quanh một
mức lạm phát trung tâm(ví dụ mức lạm phát cơ sở là 2% và khung mục tiêu sẽ là 2%-
3%).Để thực hiện mục tiêu đề ra, NHTW Hàn Quốc xem lãi suất huy động với vai trò mục
tiêu điều hành mà không có mục tiêu trung gian, điều này có nghĩa là NHTW Hàn Quốc sẽ
căn cứ vào xu hướng biến động của giá cả để điều chỉnh mức lãi suất sao cho đạt được
mục tiêu đề ra. Nguyên nhân của việc lựa chọn này là do các nghiên cứu ở đây chỉ ra rằng
lãi suất huy động có tác dụng nhân quả trực tuyến đối với lãi suất ngắn hạn và các biến số
kinh tế.
+ Thứ hai: Chỉ số thích hợp để thiết kế mục tiêu là chỉ số giá CPI. NHTW Hàn
Quốc cho rằng CPI là chỉ số phù hợp nhất để điều hành chính sách tiền tệ. Chỉ số CPI của
Hàn Quốc có loại trừ các biến động do các nguyên nhân bất khả kháng như biến động của
giá nông sản do thiên tai, thay đổi giá cả do Chính phủ điều chỉnh thuế gây ra.
+ Thứ ba: NHTW Hàn Quốc tương đối độc lập trong việc hoạch định và thực thi
chính sách tiền tệ. Trước hết, khi hết năm NHTW Hàn Quốc xây dựng mục tiêu ổn định
giá cả cho năm tới sau khi đã tham vấn Chính phủ và thiết lập một kế hoạch điều hành các
chính sách tiền tệ và tín dụng có tính đến mục tiêu này trong vòng 15 ngày sau khi xây
dựng được các mục tiêu ổn định giá cả. Thứ hai, hàng tháng, NHTW Hàn Quốc sẽ thông
báo phương hướng của chính sách tiền tệ trong tháng đó ngay sau khi ủy ban Chính sách
tiền tệ của NHTW quyết định và Chính phủ sẽ có văn bản giải thích chi tiết phương hướng
này. Thứ ba, thường kỳ 03 tháng sau mỗi cuộc họp, NHTW Hàn Quốc sẽ xuất trình bản
báo cáo chính sách tiền tệ và tín dụng lên Quốc hội 02 lần/ năm, thường vào tháng 03 và
tháng 10, và Chính phủ có trách nhiệm trả lời các chất vấn của các đại biểu quốc hội về
bản báo cáo đó.
1.3.1.3. Mục tiêu kiểm soát lạm phát và quá trình thực hiện
Năm 1998, mục tiêu lạm phát được thiết kế như sau: Mức lạm phát trung bình là 9%
và khung mục tiêu dao động 1% xung quanh mức trung bình.
Do sự bùng nổ khủng hoảng tiền tệ, sau khi tham khảo ý kiến của IMF, NHTW Hàn
Quốc đã thực hiện chính sách lãi suất cao. Chính sách lãi suất cao là sự lựa chọn duy nhất
để đảm bảo khả năng thanh khoản ngoại tệ và ổn định tỷ giá đối phó với luồng ngoại tệ bị
chuyển ra ngoài do mất lòng tin của các nhà đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, có rất nhiều tác
dụng phụ xấu đi kèm với chính sách lãi suất cao. Nó làm tăng sự trì trệ trong các hoạt động
kinh tế do thắt chặt tiêu dùng, đầu tư, đồng thời, làm tăng sự đóng cửa đồng loạt của một
số doanh nghiệp và tăng số lượng các khoản nợ xấu của các tổ chức tài chính. Do vậy,
nhằm hạn chế việc quá thắt chặt nền kinh tế, vào quý 2/1998, NHTW Hàn Quốc đã dần
giảm bớt sự can thiệp vào thị trường khi các điều kiện của thị trường hối đoái đã được cải
thiện nhờ vào cán cân thương mại thặng dư,các khoản trợ giúp của các tổ chức tài chính
quốc tế và dòng vốn đầu tư mới chuyển vào. Cuối cùng lãi suất huy động giảm xuống
8,5% vào cuối tháng 8 năm 1998. Do NHTW Hàn Quốc dần giảm bớt tỷ lệ can thiệp vào
thị trường, lãi suất huy động thị trường chỉ còn 6,5% vào cuối tháng 12.Và kết quả của
hàng loạt những nỗ lực can thiệp đến cuối năm tỷ lệ lạm phát là 7,5% thấp hơn nhiều so
với mục tiêu đề ra.
+ Năm 1999, mục tiêu lạm phát được thiết kế như sau: mức lạm phát trung tâm là 3%
và khung mục tiêu dao động là 1% xung quanh mức trung tâm.
Trong nửa đầu năm 1999, thị trường tài chính và hối đoái tương đối ổn định.
Ngược lại, bất ổn tăng lên trên thị trường tài chính vào nửa cuối năm 1999 và việc tái ổn
định lại thị trường này là mối quan tâm hàng đầu của các nhà làm chính sách. NHTW Hàn
Quốc coi việc ổn định thị trường tài chính là quan trọng nhất, do vậy, đã từng bước giảm
dần lãi suất huy động, xuống mức 4,75% vào tháng 5/1999 và duy trì mức lãi suất này tới
tận tháng 01/2000.
+ Mục tiêu lạm phát cho năm 2000 được thiết lập như sau: NHTW xây dựng mức
lạm phát trung tâm của mục tiêu lạm phát năm 2000 là 2,5% với biên độ dao động +/-1%.
Với sự hỗ trợ của chính sách lãi suất thấp, nền kinh tế thực tế đã phát triển theo chiều
hướng đi lên với tỷ lệ tăng trưởng 10,7% năm 1999. Giá cổ phiếu tăng mạnh trong thời
gian ngắn. Lãi suất dài hạn cũng tăng lên do sự tăng mở rộng nhanh chóng của nền kinh tế và
nỗi lo sợ thị trường tài chính bất ổn định do vậy làm tăng chênh lệch giữa lãi suất dài hạn
và ngắn hạn. Xuất phát từ những điểm trên, NHTW Hàn Quốc quyết định tăng mục tiêu
cho lãi suất huy động qua đêm lên khoảng 4,75%- 5% trong tháng 02. Tác động của những
biện pháp trên làm cho áp lực lạm phát tăng lên. Gi¸¬ cả tiêu dùng tăng nhanh trong 4
tháng bắt đầu từ tháng 6 do giá dầu quốc tế, giá dịch vụ công cộng và giá thủy sản tươi
sống tăng. Mặt khác, thị trường tài chính biến động mạnh do giá dầu quốc tế tăng, giá hàng
chưa thành phẩm giảm và do sự đổ vỡ trong các kế hoạch kinh doanh của Daewoo Motor.
NHTW Hàn Quốc quyết định tăng lãi suất huy động qua đêm lên 5% - 5,25% vào tháng 10
năm 2000.
Như vậy, NHTW Hàn Quốc sử dụng mục tiêu lạm phát ngắn hạn trong vòng 01
năm khi xây dựng mục tiêu lạm phát cho năm 1998 và năm 1999. Tuy nhiên, cần có một
khoảng thời gian trước khi chính sách tiền tệ có tác động đến các lĩnh vực kinh tế và một
khi các tác động này đã xảy ra, chúng sẽ diễn ra trong thời gian dài. Kết quả nghiên cứu
này cho thấy NHTW sẽ gặp khó khăn khi xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ chỉ dựa
trên mục tiêu lạm phát ngắn hạn trong 01 năm. Hơn nữa, chính sách tiền tệ thiển cận này
sẽ không đạt được một trong những thành quả chính của hệ thống mục tiêu lạm phát đó là
đạt được lòng tin của dân chúng vào việc NHTW sẽ xây dựng và điều hành chính sách tiền
tệ nhất quán để giữ cho tỷ lệ lạm phát ổn định trong khoảng thời gian trung hạn và dân
chúng không phải lo lắng đến sự trượt giá đồng bộ do lạm phát.
Vì vậy, bên cạnh mục tiêu lạm phát hàng năm, từ năm 2001 NHTW Hàn Quốc còn
xây dựng thêm mục tiêu lạm phát trung hạn để đảm bảo tính nhất quán của chính sách tiền
tệ trong trung hạn. Mục tiêu lạm phát trung hạn được xác định ở mức bằng hoặc thấp hơn
mục tiêu lạm phát hằng năm để đảm bảo rằng NHTW sẽ giữ được lạm phát ở mức thấp và
ổn định trong dài hạn. Mục tiêu trung hạn được coi là mục tiêu quan trọng không có thời
gian ân hạn do nó chủ yếu để thể hiện cam kết của NHTW nhằm hạn chế dự đoán lạm phát
lan rộng trong dân chúng. NHTW Hàn Quốc xây dựng mục tiêu lạm phát trung hạn từ năm
2001 là 2,5% trên cơ sở mức trung bình hằng năm từ sau năm 2001 [52].
1.3.2. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát ở Newzealand
1.3.2.1. Cơ quan xác định mục tiêu và tình hình kinh tế chính trị tại thời điểm
công bố mục tiêu
Hệ thống điều hành chính sách tiền tệ của New Zealand được quy định trong Đạo
luật Ngân hàng Dự trữ New Zealand được nghị viện thông qua vào tháng 12 năm 1989 và
có hiệu lực vào tháng 1 năm 1990. Theo Đạo luật này, Ngân hàng Dự trữ New Zealand có
nghĩa vụ xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ nhằm đạt được và duy trì sự ổn định của
mức giá chung nhưng không quy định một mức chỉ tiêu lạm phát cụ thể. Chỉ tiêu này được
Bộ trưởng Bộ Tài chính và Thống đốc NHTW thống nhất theo thỏa ước mục tiêu chính
sách (Policy Targets Agreement- PTA) một cách công khai hóa và là định hướng đồng thời
là căn cứ để đánh giá quá trình điều hành chính sách tiền tệ trong nhiệm kỳ thống đốc.
PTA đầu tiên được ký vào 2/3/1990 đã lượng hóa được mục tiêu lạm phát và thời hạn đạt
được mục tiêu đó.
Quyết định thông báo mục tiêu lạm phát của New Zealand được thực hiện sau
chiến dịch chống lạm phát thành công. Việc công khai hóa mục tiêu lạm phát góp phần
giảm bớt tâm lý trông đợi lạm phát và làm cho mục tiêu của chính sách tiền tệ được đáp
ứng dễ dàng hơn.
1.3.2.2. Cơ chế hoạt động của chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát
Có thể nói phần lớn cơ chế mục tiêu lạm phát của New Zealand được quản lý bởi
các PTA vì các thỏa ước này thể hiện sự tuân thủ của Ngân hàng Dự trữ đối với Đạo luật
1989 về mục tiêu chính sách tiền tệ. Mục tiêu chính sách tiền tệ của New Zealand là đạt
được và duy trì sự ổn định của mức giá chung. Để đạt được mục tiêu cuối cùng này, Ngân
hàng Dự trữ New Zealand không sử dụng bất kỳ một mục tiêu trung gian nào khác ngoài
mục tiêu lạm phát và đồng thời không chú ý nhiều lắm đến tốc độ tăng của tổng mức cung
tiền tệ và tín dụng khi nhận ra mối quan hệ thiếu hiệu quả giữa các chỉ tiêu này với tỷ lệ
lạm phát.
Cơ chế hoạt động như sau:
+ Thứ nhất, mục tiêu được quản lý theo một khung dao động mà không kiểm soát
một mức lạm phát cụ thể.
+ Thứ hai, chỉ số thích hợp để thiết kế mục tiêu là chỉ số giá CPI, và nó cũng là
thước đo căn bản để đánh giá hoạt động của NHTW. Trong khung mục tiêu đề ra, NHTW
tập trung đến việc kiểm soát "lạm phát cơ bản" tức là tỷ lệ lạm phát đã được điều hòa(điều
chỉnh một cách đều đặn) theo các yếu tố sức ép bên cầu và những kỳ vọng vào tương lai có
loại bỏ những biến động lớn gây shock bên cung. Trong cách tính CPI của mình, NHTW
New Zealand loại trừ sự biến động của lãi suất, những thay đổi trong kim ngạch xuất nhập
khẩu phát sinh từ sự tăng lên hay giảm xuống của giá cả xuất hoặc nhập khẩu, sự thay đổi
của thuế hàng hóa và dịch vụ hoặc sự thay đổi các loại thuế gián thu khác, các thảm họa tự
nhiên hoặc các dịch bệnh lớn làm thiệt hại môi trường sinh thái và gây nguy cơ tăng giá,
những thay đổi của mức đóng góp nghĩa vụ cho Chính phủ hoặc chính quyền địa phương làm
ảnh hưởng đáng kể đến mức giá.
+ Thứ ba, trong quá trình xây dựng thực thi chính sách tiền tệ, do tác động của các
biện pháp, chính sách luôn có một độ trễ so với thời điểm đưa ra chính sách, nên NHTW
cũng đã tính toán khoảng thời gian để đạt được mục tiêu và sự khác biệt về thời gian để đạt
được hai chỉ tiêu lạm phát cơ bản và lạm phát mục tiêu.
+ Thứ tư, NHTW là một cơ quan của Chính phủ, không độc lập trong việc hoạch
định và thực thi chính sách tiền tệ nhưng phải chịu trách nhiệm trước Chính phủ trước hoạt
động của mình. Đồng thời, tất cả các số liệu và dự đoán liên quan đến lạm phát được cung
cấp cho công chúng.
Về mặt kỹ thuật, tình trạng của nền kinh tế là một yếu tố quan trọng trong việc
đánh giá áp lực lạm phát và trong nhiều trường hợp, mâu thuẫn giữa tăng trưởng và ổn
định được giải quyết trong các quyết định về điều chỉnh mức độ lạm phát. Điều này có
nghĩa là mặc dù Ngân hàng Dự trữ New Zealand tuyên bố theo đuổi mục tiêu duy nhất là
ổn định giá cả nhưng trong hoạt động thực tế nó vẫn phải cân nhắc đến các vấn đề khác
của nền kinh tế.
1.3.2.3. Mục tiêu kiểm soát lạm phát và quá trình thực hiện
Mục tiêu lạm phát được đưa ra trong các PTA qua các năm như sau: 1990: 3-5%,
năm 1991: 2,4- 4,5%, năm 1992: 1,5-3,5%, năm 1993-1996: 0-2%; từ năm 1997- nay: 0-3%.
Thời kỳ từ 3/1990 đến 3/1992: Tỷ lệ lạm phát giảm mạnh trong phạm vi từ 0-2%,
mức lãi suất cao ban đầu và sau đó giảm mạnh, tỷ giá giảm dần, tăng trưởng kinh tế âm và
tỷ lệ thất nghiệp tăng lên. Chính vì vậy, NHTW New Zealand đã thực hiện một loạt các
biện pháp nhằm nới lỏng chính sách tiền tệ như: Điều chỉnh giảm lãi suất hối phiếu ngân
hàng 90 ngày từ 14,6% vào giữa tháng 8/ 1990 xuống 11,5% vào giữa tháng 1/1991 và còn
8,8% vào cuối tháng 12/1991 đồng thời, tỷ giá cũng giảm một cách đáng kể.
Thời kỳ 6/1992 đến 3/1994: Ngân hàng tập trung vào việc ổn định giá cả thay cho
việc cố gắng làm giảm tỷ lệ lạm phát. Từ tháng 3/1991 đến tháng 3/1992, chỉ số CPI và
mức lạm phát cơ bản giảm xuống 0,8% và 1,3% tương ứng, kinh tế New Zealand bắt đầu
được khôi phục và nhiệm vụ của NHTW là ổn định giá cả cho môi trường phát triển.
Chính sách tiền tệ được nới lỏng hơn nữa khi lãi suất hối phiếu 90 ngày giảm xuống còn
6,6%. Đến tháng 12/1992, chính sách tiền tệ lại được thắt chặt, mức lãi suất hối phiếu 90
ngày lại tăng lên đến 7,8% do đó có sự xáo trộn nhỏ trên thị trường tài chính. Giai đoạn
sau đó, kinh tế trong nước tăng trưởng trong điều kiện kinh tế ổn định, lãi suất hối phiếu
90 ngày giảm xuống 5% vào tháng 12/1993, tâm lý trông đợi lạm phát của công chúng
giảm xuống.
Thời kỳ từ 6/1994 đến nay: Lạm phát và lãi suất tăng lên, tỷ giá biến động theo
chiều hướng cũ, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục giảm. Thời gian
này, khung mục tiêu hai lần bị vi phạm và sau đó được thiết kế lại như là kết quả của cuộc
bầu cử.
áp lực lạm phát bắt đầu tăng lên từ năm 1994. Vấn đề nổi lên là Ngân hàng Dự trữ
không xác định được một cách chắc chắn mức tăng trưởng kinh tế tiềm năng của New
Zealand mà tại đó sự tăng trưởng không tạo nên áp lực lạm phát. Tốc độ tăng GDP là 6%-
cao hơn dự tính đã tạo nên sự nghi ngờ về việc khung mục tiêu lạm phát có thể bị phá vỡ,
mà điều này lại gây lên tâm lý trông chờ lạm phát của công chúng. Để phản ứng lại, chính
sách tiền tệ đã bắt đầu có những điều chỉnh vào tháng 6/1994: lãi suất hối phiếu 90 ngày
được điều chỉnh tăng lên, đến tháng 12/1994 đạt 9,5%, tỷ giá tăng lên khoảng 4,5% trong
năm 1994. Đến thời điểm gần cuối năm 1995, việc thắt chặt chính sách tiền tệ vào cuối
năm 1994 mới có hiệu quả: lạm phát danh nghĩa giảm xuống nhanh vì sự tăng lên của lãi
suất cho vay cầm cố bất động sản tăng. Mặc dù vậy, mức lạm phát cơ bản chỉ giảm xuống
2% dù NHTW mong muốn tỷ lệ này giảm xuống còn 1,2%.
Với cơ chế hoạt động của New Zealand thì các quyết định liên quan đến chính
sách tiền tệ mang tính chất chính trị khá rõ rệt. Tháng 12/1996, một liên hiệp nghị viện
giữa Đảng Dân tộc và Đảng thứ nhất New Zealand đã được thống nhất trong thời hạn ba
năm. Thông báo đầu tiên là mục tiêu lạm phát có thể linh hoạt. PTA mới được ký giữa Bộ
trưởng Bộ Tài chính và Thống đốc vào ngày 10/12/1996 đã nới rộng khung mục tiêu lạm
phát là từ 0-3%. Việc mở rộng khung mục tiêu làm cho NHTW bớt gặp khó khăn trong việc
kiểm soát mục tiêu và hạn chế được những mối đe dọa đối với uy tín của nó [1, tr. 37].
1.3.3. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Hiện nay, việc theo đuổi chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát tại Việt Nam
chưa được thực hiện. Việt Nam đang theo đuổi chính sách đa mục tiêu: ổn định giá trị
đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc
phòng an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân. Tùy từng thời điểm khác nhau mà một
mục tiêu nào đó trong hệ thống các mục tiêu trên được coi trọng hơn; ví dụ như trong
những năm đầu của thập kỷ 90 mục tiêu ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát được coi trọng
nhất, còn những năm 1998-2000 thì ổn định tỷ giá được coi trong hơn. Việc theo đuổi
chính sách tiền tệ đa mục tiêu trong điều kiện chuyển đổi kinh tế là tương đối hợp lý do cơ
cấu kinh tế chưa hoàn thiện, hệ thống ngân hàng tài chính chưa phát triển, đồng thời nhu
cầu hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp duy trì hoạt động và phát triển là cần thiết.Từ việc
lựa chọn mục tiêu CSTT như trên, việc điều hành CSTT trong thời gian qua đã đạt được
những thành công đáng kể.
Đánh giá chung về việc điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam trong thời
gian qua
* Những thành công:
- Thứ nhất là sự góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy lùi và kiểm soát được lạm
phát, ổn định sức mua của đồng Việt Nam. Sự ổn định trong việc điều hành kinh tế vĩ mô
đã tạo điều kiện giúp nền kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định: năm
1995 tăng 9,54%, năm 1996 tăng 9,34%, năm 1997 tăng 8,15%, năm 1998 tăng 5,8%, năm
1999 tăng 4,8%; năm 2000 tăng 6,7%; năm 2001 tăng 6,85%; năm 2002 tăng 7,04%; năm
2003 tăng 7,24%.Các mục tiêu kinh tế xã hội khác như chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo
thêm công ăn việc làm, thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo... cũng được hỗ trợ bằng
các biện pháp cụ thể như: tỷ trọng cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh tăng lên, ưu tiên đầu tư tín dụng vào các ngành trọng điểm, mũi nhọn, cho vay
người nghèo...
- Thành công thứ hai: Các công cụ của CSTT được xây dựng tương đối hoàn chỉnh
chuyển dần từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp. Cho đến nay, các
công cụ trực tiếp được sử dụng ít đi. NHNN chủ yếu điều hành CSTT bằng các công cụ gián
tiếp như DTBB, chiết khấu, TCK, NVTT.
* Những tồn tại và hạn chế:
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được trong việc thực hiện CSTT đa mục
tiêu, thì Việt Nam còn có những hạn chế tồn tại nhất định như:
Do CSTT của Việt Nam theo đuổi đa mục tiêu nên đôi khi mục tiêu này lại triệt
tiêu mục tiêu kia, trong giai đoạn vừa qua, một số chỉ tiêu không đạt yêu cầu Chính phủ đề
ra, đặc biệt là mục tiêu lạm phát.
Bảng 1.1: Tình hình thực hiện chính sách mục tiêu lạm phát
Đơn vị tính: %
Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
Chỉ tiêu% 10 10 7 7-8 10 6 5 5-6 4-5 <5
Thực hiện% 12,7 4,5 3,6 9,0 0,1 -0,6 0,8 4 3 8,8
Nguồn: Báo cáo thường niên NHNN Việt Nam các năm từ năm 1997-2003
Mặc dù không đạt chỉ tiêu đề ra nhưng có những năm lạm phát lại ở mức hợp lý
góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như năm 1996 -1997. Tuy nhiên, vấn đề dự báo và
các biện pháp nhằm kiểm soát lạm phát của nền kinh tế nói chung và của NHNN nói riêng,
thì rõ ràng rằng khả năng dự báo lạm phát (cả về phương pháp tính và vấn đề thu thập, xử
lý thông tin về diễn biến trên thị trường) còn yếu kém, đồng thời,sự chỉ đạo và điều hành
giá cả tiêu dùng của nền kinh tế còn mang tính thụ động và hiệu quả không cao. Chính
điều này đã làm cho lạm phát thực tế những năm 1999- 2001 quá xa với chỉ tiêu đề ra và
trở thành lạm phát, còn năm 2004 lại vượt quá chỉ tiêu đề ra, gây nên những ảnh hưởng
không nhỏ tới sự phát triển kinh tế.
Trong những năm gần đây, tỷ lệ tăng trong từng khối lượng tiền như tỷ lệ tăng của
M2 và M3 đôi khi thể hiện những biến động khác nhau.Do đó, hiệu quả của tỷ lệ tăng M2
với vai trò là một mục tiêu trung gian của CSTT được coi là bị giảm xuống. Hơn nữa, mối
quan hệ chi phối giữa mục tiêu hoạt động cơ sở - MB với M2 ngày càng thiếu ổn định làm
cho việc sử dụng mục tiêu trung gian là M2 để điều hành CSTT bắt đầu có dấu hiệu kém
hiệu quả.
Một vấn đề cần quan tâm nữa là, hiện nay mức độ đô la hóa ở Việt Nam tương đối
cao đã có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế cũng như tới
việc hoạch định và điều hành CSTT, chính sách tỷ giá. Đồng thời đô la hóa là làm cho mối
quan hệ giữa TPTTT M2 với giá cả và sản lượng đôi khi không tuân thủ theo những quy
luật vốn có. Vì vậy, mục tiêu trung gian là M2 đã không phát huy hết tác dụng.
Về những hạn chế trong việc sử dụng các công cụ CSTT: Có thể nói hạn chế lớn
nhất trong việc thực thi CSTT ở Việt Nam thời gian qua là việc xây dựng và sử dụng các
công cụ của CSTT. Hệ thống các công cụ, đặc biệt là các công cụ gián tiếp, mới được xây
dựng và chưa có đủ điều kiện hoàn thiện, sự phối kết hợp các công cụ chưa thường xuyên
và thiếu hiệu quả. Một số hạn chế khác như việc xác định lượng tiền cung ứng hàng năm
chưa chính xác và chưa kịp thời so với các biến động kinh tế, chính trị: Khối lượng cung
ứng hàng năm chưa chính xác và chưa kịp thời so với các biến động kinh tế, chính trị, khối
lượng cung ứng được dự đoán thường quá lớn so với nhu cầu thực tế, gây khó khăn trong
việc kiểm soát tốc độ tăng của TPTTT, tạo ra áp lực lạm phát đối với nền kinh tế hay sự
phối kết hợp trong việc sử dụng các chính sách chưa cao.
Kinh nghiệm của các nước cũng chỉ ra rằng, các nước theo đuổi chính sách mục
tiêu kiểm soát lạm phát thường sử dụng lãi suất ngắn hạn làm mục tiêu điều hành, bởi kênh
truyền dẫn này, có ảnh hưởng rất hiệu quả đối với giá cả.Tuy nhiên, muốn sử dụng lãi suất
ngắn hạn là mục tiêu điều hành cần phải thỏa mãn các điều kiện sau: (i). Phải tồn tại một cơ
chế mà lãi suất ngắn hạn có thể đơn phương quyết định lãi suất dài hạn mà không có cơ chế
ngược lại; (ii). Cần thiết phải có sự kiểm soát nhờ đó NHTW có thể sử dụng các công cụ
chính sách thích hợp để điều chỉnh lãi suất ngắn hạn; (iii). NHTW có thể thông báo một cách
có hiệu quả dự định của mình tới dân chúng dưới góc độ là sự thay đổi trong mục tiêu điều
chỉnh sẽ tác động tới lãi suất ngắn hạn và sau đó tới lãi suất dài hạn thông qua sự thay đổi
trong dự đoán lạm phát. ở Việt Nam rõ ràng lãi suất trên thị trường tiền tệ vẫn chưa phải là
một công cụ quyền lực của NHNN và phần nào gây ra sự suy giảm hiệu lực của CSTT.
NHNN vẫn chưa xác định được cơ chế điều hành lãi suất ngắn hạn trên thị trường tiền tệ
một cách chuẩn mực. Đồng thời, quan hệ giữa các loại lãi suất chưa diễn ra theo đúng quy
luật cung cầu và lãi suất ngắn hạn hầu như không có ảnh hưởng đến thị trường vốn chung và
dài hạn [14, tr. 91].
Một lý do nữa cũng không kém phần quan trọng trong đó là việc xây dựng và điều
hành CSTT của Việt Nam thời gian qua còn nhiều bất cập và chưa thực sự tạo được niềm
tin của công chúng.
* Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế như sau: (1). Do nền kinh tế Việt Nam
đang trong thời kỳ chuyển đổi và mở cửa với điểm xuất phát là một nền kinh tế yếu kém,
lạc hậu chính vì vậy việc tiếp cận với những nền kinh tế thị trường nói chung còn gặp
nhiều khó khăn. Riêng đối với chính sách tiền tệ mới được xây dựng và thực thi trong hơn
10 năm qua nền kinh tế còn nhiều bỡ ngỡ cả về phương diện lý thuyết lẫn thực tế; (2). Thị
trường tài chính, tiền tệ kém phát triển làm cho công cụ của CSTT khó có điều kiện phát
huy hiệu quả. (3). Nền kinh tế Việt Nam đang ở trong giai đoạn đầu nền kinh tế thị trường
chưa ổn định. Chính vì vậy, quy luật thị trường vẫn chưa phát huy hết tác dụng của nó,
quan hệ cung - cầu trên thị trường còn bị tác động và can thiệp bởi nhiều yếu tố chủ quan
không theo quy luật thị trường; (4). Ngân hàng Nhà nước chưa thực sự là cơ quan hoạch
định CSTT mà về cơ bản chỉ là cơ quan thực thi CSTT, thậm chí quá trình điều hành còn
bị chi phối bởi các quyết định của Chính phủ. CSTT phụ thuộc quá nhiều vào các chính sách
khác, thậm chí làm hộ công việc của các cơ quan khác như chính sách hội chợ và thông
qua lãi suất, tỷ giá. Khoanh nợ, xóa nợ của các NHTM thêm vào đó còn có khá nhiều các
cơ quan, tổ chức tham gia chỉ đạo và giám sát việc xây dựng thực thi CSTT. (5). Sự thiếu
hụt về thông tin cũng như những khó khăn trong việc thu thập dữ liệu cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến quy trình xây dựng; (6). Sự phối hợp giữa các bộ ngành chưa làm tốt và chặt chẽ, có
những hạn chế trong việc ban hành các chính sách, văn bản hướng dẫn thực thi; (7). Trình độ
cán bộ điều hành thực thi CSTT còn chưa đồng đều về mặt chuyên môn và kinh nghiệm.
1.3.4. Bài học kinh nghiệm đối với Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
Lào là một nước kém phát triển, nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu là kinh tế nông nghiệp
chiếm 80%,và mới chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường. Vì vậy, Lào muốn theo đuổi được chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát cần phải đạt
được một số vấn đề cơ bản sâu đây:
1. Việc xác định thời điểm tốt nhất để tiến hành thực hiện mục tiêu là thời điểm
nào?. Có thể nói đây là yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của CSTT.Thông
thường thời điểm tốt nhất để tiến hành là sau khi đạt được một số thành công ban đầu
trong việc kiểm soát lạm phát.
2. Tính công khai minh bạch và sự giải thích có hiệu quả của chiến lược CSTT.
Chính là mục tiêu lạm phát phải được chuyển tải rộng rãi đến công chúng và thị trường
thông qua các phương tiện hợp lý nhất, kết hợp với việc chỉ dẫn tập quán..., NHTW cũng
phải thường xuyên phổ biến CSTT tới dân chúng để tạo lập được sự hỗ trợ và sự hiểu biết
mục tiêu, phải xác định cơ quan thiết lập và thực hiện mục tiêu nhằm xác định rõ trách
nhiệm của NHTW, Bộ tài chính. Có thể là NHTW, Chính phủ hoặc cả hai cơ quan thiết lập
mục tiêu, điều này có nghĩa là mục tiêu lạm phát được xác định trên cơ sở cấu trúc hoặc là
áp lực chính trị. Nhưng dù sao thì NHTW cũng cần phải có được sự độc lập tương đối của
mình trong việc thực thi chính sách này.
3. Việc lượng hóa chỉ tiêu, chỉ số lạm phát phải được công chúng quan tâm và hiểu
được một cách rõ ràng, chính xác, đúng lúc,đồng thời nó cũng phải loại trừ được những
ảnh hưởng của những cú sốc giá cả và những ảnh hưởng từ các hoạt động của CSTT được
thực hiện trước đây.
4. Việc xác định mức độ linh hoạt của CSTT, trong đó phải xác định được mục
tiêu lạm phát là một con số cụ thể hay được giới hạn trong một khung mục tiêu nhất định?
Độ lệch ngoài mục tiêu lạm phát được phép là bao nhiêu? Mục tiêu lạm phát có được thay
đổi theo thời gian hay không?
Như chúng ta đã biết những cú sốc có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ lạm phát bất cứ lúc
nào và những ảnh hưởng của CSTT là không ổn định, cho nên tỷ lệ lạm phát thường có
biến động lớn.Vì vậy, mục tiêu lạm phát nên được xác định bằng một khung nhất định để
có thể thích nghi với sự biến động của lạm phát. Đồng thời kinh nghiệm các nước cũng chỉ
ra rằng, việc duy trì một khung lạm phát hẹp, có thể dẫn tới sự biến động của các công cụ
hành chính mạnh hơn mức mà NHNN mong muốn và có thể dẫn tới sự thiếu ổn định của
các công cụ nếu những biến động này quá mạnh. Tuy nhiên, với một khung lạm phát rộng
sẽ làm cho công chúng nghi ngờ về cam kết của NHNN trong việc thực thi mục tiêu lạm
phát. Điều này làm phát sinh phương án tiếp cận thứ hai là mục tiêu lạm phát là một con số
cụ thể. Cách tiếp cận này là hạn chế tính linh hoạt của CSTT trong việc đáp ứng lại các cú
sốc, mà hiệu quả của chúng là làm cho tỷ lệ lạm phát bị lệch ngoài mục tiêu đề ra. Một vấn
đề nữa cần phải quan tâm là mục tiêu lạm phát có thể thay đổi theo thời gian, có nghĩa là
sử dụng thời gian như một công cụ để làm tăng tính linh hoạt của chính sách mục tiêu lạm
phát.
5. Việc xác định khung thời gian hợp lý đối với mục tiêu lạm phát: thường thì khi
theo đuổi chính sách này, NHTW khi thiết lập chính sách cần phải tính toán khung thời
gian như thế nào cho hợp lý; bởi vì, CSTT ảnh hưởng lên lạm phát với độ lệch về thời gian
tương đối dài; do đó, CSTT không thể đạt được mục tiêu lạm phát cụ thể ngay lập tức mà chỉ
có thể đạt được sau một thời gian nhất định. Ngoài ra các cú sốc kinh tế có thể xuất hiện trong
khoảng thời gian giữa thời điểm khởi xướng CSTT và thời điểm phát huy tác dụng của nó.
Chương 2
Thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ kiểm soát lạm phát ở cộng hòa dân chủ nhân dân lào
từ năm 1994 đến nay
2.1. Thực trạng lạm phát ở Lào từ năm 1994 đến nay
Sau những cải cách bước đầu về giá 1985, Lào bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm
lần thứ II (1986-1990). Giai đoạn 1986-1987, CHDCND Lào thực hiện thống nhất bảy tỷ
giá hối đoái chính thức khác nhau được áp dụng như: tỷ giá cho dự án, tỷ giá cho các hoạt
động thương mại, hoạt động du lịch, tiền gửi về nước, tỷ giá cho các công ty hỗn hợp xuất
nhập khẩu... Do những bất cập mà việc theo đuổi nhiều tỷ giá mang lại, vào tháng 9 năm
1987, Chính phủ đã hạ xuống còn bốn tỷ giá. Đến giữa năm 1988, Lào đã thiết lập tỷ giá
hối đoái thống nhất và duy nhất là 400$/ Kíp, và từ những năm 1990 trở lại đây thì tỷ giá
luôn ở mức 720 Kíp/ USD [25, tr. 110-111].
Tính từ thời kỳ năm 1990 - 1994, Trong những năm đầu của công cuộc đổi mới,
tình hình kinh tế-xã hội Lào phát triển tương đốt nhanh và ổn định. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế (GDP) bình quân hàng năm tăng khoảng 6,5%, trong đó nông nghiệp tăng 3,4%;
công nghiệp 13% và dịch vụ 7%. Lạm phát đã giảm xuống so với trước. Tỷ giá hối đoái
tương đối ổn định, khoảng 900 Kíp/1USD. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1995 đến 1999 tình
hình kinh tế của Lào đã có chuyển biến không lành mạnh. Tốc độ tăng trưởng GDP có xu
hướng chậm lại và giảm dần, năm 1998 tăng 4%. Tỷ lệ lạm phát tăng lên từ hai con số đến
ba con số, tháng 6/1998 tỷ lệ lạm phát lên tới 101,57%; vào tháng 12/1998 tỷ lệ lạm phát
là 142%, tỷ lệ lạm phát thời điểm cao nhất trong lịch sử của Lào là 167% vào tháng 3/1999
và bùng nổ trở thành siêu lạm phát năm 1998-1999. Xuất khẩu, đầu tư trực tiếp, viện trợ
nước ngoài giảm mạnh. Cán cân thanh toán quốc tế bội chi lớn và tỷ giá hối đoái biến
động không bình thường. Chỉ số giá cả tăng trung bình hàng năm ở mức 38,54% - 88,02%.
Lạm phát cao đã làm các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài hoạt động khó khăn;
kinh doanh kém hiệu quả, các nhà đầu tư nản lòng. Ngân hàng thương mại thiếu tiền mặt,
dư nợ quá hạn cao, đứng trước nguy cơ đổ vỡ.
Tuy nhiên, sau khi siêu lạm phát có những tác động tiêu cực cho kinh tế -xã hội thì
chính sách chống lạm phát, kiềm chế và đẩy lùi siêu lạm phát, tiến tới kiểm soát lạm phát mới
trở thành vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng ở Lào.
Trước tình hình đó, Chính phủ Lào đã có nhiều biện pháp kiểm chế lạm phát, đặc
biệt trong năm 1997-1999. Kiểm soát lạm phát là một trong những vấn đề ưu tiên trong
việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Để bình ổn giá cả, Nhà nước đã
áp dụng đồng bộ các biện pháp tài chính, tiền tệ và đã có được những thành công trong
việc đẩy lùi siêu lạm phát vào những năm cuối thập kỷ 90 và tiếp tục chống lạm phát vào
đầu những năm 2000. Lạm phát đang ở mức 128,38% (tính trung bình năm) vào năm 1999
giảm xuống rõ rệt vào năm 2000 còn 23,14% (tính trung bình năm) và đến năm 2001 giảm
xuống còn 7,81% (tính trung bình năm). Năm 2002 là 10,63%; 2003 là 15,49%; 2004 là
10,46% và cuối tháng 6/2005 tỷ lệ lạm phát là 8%, theo kế hoạch năm 2005 tỷ lệ lạm phát
là 8,5%.Trong thời gian trước những năm 2000, CSTT tác động đến giá cả thị trường chủ
yếu thông qua việc điều hòa lưu thông tiền tệ và chính sách lãi suất. Điều đáng nói ở đây là
do chưa thấy rõ tầm quan trọng của chính sách lãi suất trong việc điều chỉnh kinh tế, giảm
lạm phát nên ngân hàng quy định lãi suất huy động của dân thấp xa so với tốc độ lạm phát;
đồng thời, áp dụng lãi suất cho vay với nền kinh tế cũng thấp hơn so với lạm phát và thấp
hơn lãi suất tiền gửi. Chính sách lãi suất âm này đã làm tê liệt hoạt động của ngân hàng.
Phần lớn tiền mặt nằm ngoài lưu thông hoặc bị cất giữ trong tay dân chúng, trong khi các
đơn vị được vay vốn với lãi suất thấp nên cũng không quan tâm tới hiệu quả sử dụng vốn
thậm chí còn dùng nguồn vốn vay để đầu cơ tích trữ vật tư, hàng hóa. Kết quả là lạm phát
ngày càng tăng. Phải đến tháng 7 năm 2000, sự thay đổi trong điều hành lãi suất mới góp
phần ngăn chặn lạm phát. Trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay, CSTT đang được xây
dựng đúng hướng và góp phần không nhỏ vào kiểm soát lạm phát mặc dù không tránh khỏi
những hạn chế, vướng mắc.
128.38
Bảng 2.1: Tỷ lệ lạm phát từ năm 1994 - 6/2005
90.12
13 0 12 0 11 0 10 0 9 0 8 0 7 0 6 0 5 0 4
Tỷ lệ Năm l.phát
1994 6.74
1995 19.65
1996 15.84
1997 19.50
1998 90.12
1999 128.38
2000 23.14
2001 7.81
2002 10.63
2003 15.49
2004 10.46
6/2005 5.35
Biểu 2.1: Tỷ lệ lạm phát từ 1994 - 6/2005
2.1.1. Giai đoạn 1994 - 1996
2.1.1.1. Tỷ lệ lạm phát
Trong thời kỳ này lạm phát bắt đầu có biểu hiện biến động từ một con số đến hai
con số, đặc biệt là vào tháng 8/1995 tỷ lệ lạm phát lên tới 27,64%, đến cuối năm 1996 lạm
phát là 15,84% nhưng chỉ số giá cả lại tăng lên tới 16,96%, tỷ giá hối đoái cũng có sự biến
động năm 1994 là 1USD = 772 LAK (Kíp Lào) đến cuối năm 1996 là 1USD = 948,58 Kíp
trong 2 năm đồng Kíp Lào mất giá trung bình 11,9%. Qua những con số nêu trên có thể
thấy sự biểu hiện của lạm phát, sự tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm xuống từ 8,1%
(1994) xuống 7% (1995) và đến 6.8% (1996) và tác động của lạm phát trong giai đoạn này
không có tác hại đến nền kinh tế của Lào, lạm phát trong thời kỳ này đã chuyển từ dạng ẩn
sang mở. Tuy nhiên, việc nhận thức đúng đắn về lạm phát để đưa ra những giải pháp kiềm
chế trong thời gian này là hết sức cần thiết, và là nhiệm vụ cấp bách của các cơ quan có
liên quan đặc biệt là NHNN Lào. Chúng ta có thể xem tỷ lệ lạm phát dưới đây:
Bảng 2.2: Tỷ lệ lạm phát theo tháng từ năm 1994 - 1996
Đơn vị tính: %
Nă T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12 CN m
199 7.45 7.34 9.34 7.98 7.29 6.95 5.11 5.01 5.88 5.29 7.07 6.78 6.74
4
199 7.93 8.51 10.5 14.7 21.1 18.9 19.5 24.6 27.0 26.9 26.8 25.6 19.6
5 4 5 2 9 6 7 5 8 6 6 5
199 27.3 28.9 26.1 21.6 16.7 17.3 15.4 8.44 7.01 7.56 9.40 12.7 15.8
6 5 7 8 3 1 5 1 7 4
Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 1996.
Bảng 2.3: So sánh tỷ lệ tăng trưởng của GDP, tỷ lệ lạm phát
và chỉ số giá cả 1994-1996
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu 1993 1994 1995 1996
GDP 5.9 8.1 7.0 6.8
Tỷ lệ lạm phát 6.28 6.74 19.65 15.84
Chỉ số giá cả 11.47 12.24 14.64 16.96
Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 1996.
- Vào năm 1994 tỷ lệ lạm phát chỉ ở mức một con số, còn chỉ số giá cả ở mức hai
con số, cụ thể là: Tính cả năm tỷ lệ lạm phát là 6,74%, chỉ số giá cả là 12,24%. Nói chung
mức độ tỷ lệ lạm phát đã nêu trên cũng không ảnh hưởng đến nền kinh tế của Lào.
- Vào năm 1995- 1996 tỷ lệ lạm phát có sự biến động từ một con số đến hai con
số, tính trung bình năm (năm 1995 tỷ lệ lạm phát là 19,65% và đến năm 1996 là 15,84%).
2.1.1.2. Nguyên nhân của lạm phát
Ngày 2 tháng 12 năm 1975, nước CHDCND Lào ra đời, trải qua các cuộc chiến
tranh nửa thế kỷ, nền kinh tế Lào ở trong tình trạng yếu kém về mọi mặt, chủ yếu dựa vào
viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Đến năm 1986 Đại hội IV
Đảng Nhân dân cách mạng Lào đánh dấu một bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện và sâu
sắc của nền kinh tế Lào đó là việc chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước cùng với xu thế mở của và hội nhập với
quốc tế.
Như chúng ta biết từ những năm 80, nền kinh Lào mọi mặt điều yếu kém chủ yếu
là dựa vào việc hỗ trợ của nước ngoài, sản xuất hàng hóa trong nước coi như không có.
Đến năm 1991, Đại hội V Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã khai mạc, đánh giá thành tựu
đạt được trong những năm qua và rút ra những khuyết điểm còn tồn tại trong quá trình
thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV. Đại hội Đảng lần thứ V đã đề ra những
chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đổi mới hệ thống chính trị
nhằm tiếp tục xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân. Nền kinh tế đã khởi sắc và
đã có chiều hướng phát triển rõ rệt, GDP tăng trưởng tương đối ổn định, trung bình là
7,3% (từ 1994 - 1996), chủ yếu là sự phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ. Đối
với lĩnh vực tài chính ngân hàng cũng góp phần không ít vào chiến lược phát triển kinh tế
vĩ mô của đất nước.
Nguyên nhân lạm phát thời kỳ này bao gồm:
1. NHNN áp dụng CSTT nới lỏng về tỷ giá hối đoái có nghĩa là thị trường tự do quyết
định tỷ giá. NHNN là người quản lý chỉ số giá cả tăng lên theo tỷ giá hối đoái. Chính phủ đã
phải đưa ra một số biện pháp tăng cầu tiêu dùng nhằm tạo ra sự phát triển nhịp nhàng giữa
chống lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
2. Chính phủ phải chi tổng vốn đầu tư 198,2 tỷ Kíp Lào, so với năm trước tăng
35%, chủ yếu là chi xây dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp chiếm
phần lớn, làm cho việc cung tiền tiền lưu thông trong xã hội tăng lên.
3. Đầu tư nước ngoài vào Lào có dấu hiệu tăng lên so với năm trước, vì năm 1994
Lào đã có luật đầu tư nước ngoài vào Lào, đây cũng là một lý do làm cho lượng tiền trong
xã hội tăng lên [29]. Thể hiện qua con số sau đây:
Bảng 2.4: Tình hình đầu tư nước ngoài từ 1990-1996
Đơn vị tính: Triệu USD
Chỉ tiêu 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996
Số dự án 48 69 101 157 112 32 53
Số vốn đăng ký 91.62 123.10 110.71 125.7 547 603 975
Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 1996.
Như vậy, sự gia tăng của chi tiêu Chính phủ, đầu tư trong nước và đầu tư nước
ngoài tăng làm cho tổng cầu của nền kinh tế tăng làm cho giá cả tăng.
2.1.2. Giai đoạn 1997-1999
2.1.2.1. Tỷ lệ lạm phát
Trong giai đoạn này, tỷ lệ lạm phát là ở mức cao nhất trong lịch sử của Lào sau
Đại hội IV của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, đặc biệt là trong giai đoạn 1997-1998
Lào tiếp tục chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính trực tiếp của các nước trong
khu vực. Năm 1997 GDP tăng 7,2% nhưng 1998 GDP giảm xuống còn 4% và trong
tháng 3-1999 tỷ lệ lạm phát đột biến lên tới 167 % trở thành (siêu lạm phát), tỷ giá hối
đoái giữa đồng Kíp và đồng USD của NHNN quy định và thị trường tự do trong năm
1996 mất giá 5%, năm 1997 mất giá 26,7%, năm 1998 mất giá 61,94% và đến năm
1999 mất giá 54,34%, trong thời điểm nói trên nếu so sánh sự mất giá với đồng Baht
Thái Lan cũng khá cao (xem bảng 2.5). Sau thời kỳ tăng nhẹ nhưng liên tục và tương
đối đều đặn từ đầu năm, vào 1-1997 đến cuối quý I năm 1999 tỷ giá hối đoái giữa đồng
Kíp và USD đã tăng vọt lên đến 6.000 K/USD vào tháng 4, sau đó tăng vọt lên đỉnh cao
9.320 K/USD vào tháng 7 năm 1999. Cũng trong thời gian đó, chỉ số giá cả cũng tăng
vọt lên 167% vào tháng 3 năm 1999 từ mức 11,4% vào 1-1997. Còn năm 1998 là
62,75% trong tháng 5-1998 và đến tháng 6-1998 tăng vọt lên đến 101,5%, thì chỉ số giá
cả bình quân hàng năm từ 1997 -1999 tương ứng là 19,31%, 87,35% và 133,9%. Rõ
ràng năm 1999, nhất là trong nửa đầu năm 1999, mức lạm phát của Lào nghiêm trọng
nhất trong giai đoạn 1997 - 1999.
CHDCND Lào vẫn là nước nông nghiệp, nông nghiệp chiếm tới khoảng 52% GDP
trong mấy năm trở lại đây; công nghiệp chiếm chỉ khoảng 23% và dịch vụ là trên 25%.
Tăng trưởng của sản xuất nông nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với tăng trưởng chung
của toàn bộ nền kinh tế, đồng thời hỗ trợ quan trọng cho việc thực hiện các giải pháp tiền
tệ - tài chính chống lạm phát. Thực tế này cũng chỉ ra rằng, CHDCND Lào còn có tiềm
năng lớn trong tăng trưởng của khu vực công nghiệp và dịch vụ, đồng thời có thể giảm tỷ
lệ của khu nông nghiệp trong GDP nhưng tăng chất lượng của phát triển nông nghiệp thông
qua chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, áp dụng khoa học - công nghệ , lựa chọn các loại
cây giống, các con giống có năng suất cao vào trong lĩnh vực này.
Bảng 2.5: Tỷ lệ mất giá đồng Kíp Lào so với USD và Baht Thái Lan
Đơn vị tính: %
Năm 1996 1997 1998 1999
Kíp/USD -5 -29 -61,94 -54,34
Kíp/Baht -4,8 -14,06 -50,48 -56,88
Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 1999.
Bảng 2.6: Tỷ lệ lạm phát theo tháng từ năm 1997-1999
Đơn vị tính: %
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12 CN Nă
m
1997 11.4 11.9 12.4 12.2 16.2 15.9 19.5 25.6 27.6 26.8 25.1 26.5 19.5
4 7 4 8 3 3 7 9 4 5 2 6 0
1998 31.3 44.6 45.5 62.4 162.7 101.5 103.8 99.5 106.3 112.5 136.2 142.0 90.1
0 5 5 9 7 7 3 4 3 5 8 1 2
1999 150.8 150.4 167.0 159.2 155.4 128.6 135.7 140.1 122.6 121.1 94.3 86.4 128.3
0 2 6 1 4 6 1 7 2 0 3 6 8
Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 1999.
Bảng 2.7: Tỷ lệ GDP, lạm phát và chỉ số giá cả từ năm 1997- 1999
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu 1997 1998 1999
GDP 7.2 4.0 5.2
Tỷ lệ lạm phát 19.50 90.12 128.38
Chỉ số giá cả 20.27 38.54 88.02
Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 1999.
2.1.2.2. Nguyên nhân lạm phát (giai đoạn 1997 - 1999)
Nói chung, lạm phát ở Lào là hiện tượng rất phức tạp, phản ánh cả ba cấp độ
nguyên nhân lạm phát. (1) Lạm phát liên quan đến tiền tệ (tức là phát hành tiền để bù
đắp thâm hụt ngân sách). (2) Lạm phát liên quan đến giá cả (tức là sự bất cân đối về
cung - cầu hàng hóa, kể cả tiền tệ, tín dụng và quan hệ kinh tế với bên ngoài). (3) Lạm
phát liên quan tới cơ cấu (tức là những yếu kém về cơ cấu, thể chế thị trường và năng
lực quản lý vĩ mô nền kinh tế). Thực tế có những nguyên nhân sau:
1. Khủng hoảng kinh tế của các nước trong khu vực chủ yếu là từ Thái Lan, vì Lào
nhập khẩu hàng tiêu dùng của Thái chiếm 95%, đặc biệt là khủng hoảng trực tiếp về lĩnh
vực tài chính ngân hàng, riêng tỷ giá hối đoái giữa đồng kíp Lào và Bath Thái Lan đã làm
cho nền kinh tế Lào chậm phát triển so với những 3 năm trước GDP tính trung bình =
7,3% còn 1997-1999 tính trung bình GDP = 5,46%,
2. ảnh hưởng lớn của thiên tai lũ lụt ở miền Trung và miền Nam, làm thiệt hại cho
việc phát triển kinh tế đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và các lĩnh vực khác mà chính
phủ đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng làm hệ thống thủy lợi để phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp đảm bảo lương thực thực phẩm trong những năm tới. Chính vậy nhà nước đầu tư số
tiền lớn vào lĩnh vực xây dựng cơ bản quá mức cho phép.
3. Thâm hụt ngân sách: Thâm hụt ngân sách nhà nước đã được giảm xuống đáng
kể, tỷ lệ thâm hụt NS/GDP đã giảm từ 12,58% năm 1998 xuống 8,9% năm 1999 và
6,4% năm 2000, thể hiện rất rõ nỗ lực của Chính phủ Lào trong việc sử dụng các biện
pháp thắt chặt tài chính nhằm chống lạm phát và ổn định nền kinh tế, mặc dù việc thắt
chặt này không phải dễ dàng do sức ép chi tiêu ngân sách rất lớn, nhất là tỷ trọng chi
tiêu NSNN cho đầu tư phát triển (PIP) trên tổng chi NSNN của Lào rất lớn,chiếm
khoảng 50% tổng chi NSNN. Nợ nước ngoài tăng lên nhanh từ 51,6% trong năm 1997,
101% trong năm 1998 và 73,4% năm 1999, thực tế xem bảng dưới đây:
Bảng 2.8: Nợ nước ngoài, thâm hụt ngân sách
và thâm hụt thương mại/ GDP từ 1997-2004
Đơn vị tính: %
Chi tiêu 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
Nợ NNG/ GDP 51.6 101 73.4 65.7 69.1 70.9 65.6 81.7
TH TM/ GDP -18.9 -21.5 -17.3 -15.6 -10.9 -8.1 -5.8 -6.2
TH NS/ GDP -8.35 - -8.97 -6.5 -7.5 -5.1 -7.78 -3.8
12.58
Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 2004
4. Thâm hụt lớn thương mại, nếu tính 3 năm từ 1996-1999 thâm hụt thương mại của
Lào lên tới 1.162,8 triệu USD thâm hụt thương mại quá lớn, sản xuất hàng hóa trong nước yếu
kém. Chính vì vậy, 95% hàng hóa nhập khẩu là từ nước ngoài đặc biệt là Thái Lan sau đó nền
kinh tế Lào lại bị Đô la hóa và Baht hóa nặng nề, đồng thời với việc lưu hành trôi nổi một
lượng lớn USD và tiền Baht nằm ngoài sự kiểm soát ngân hàng làm cho giá trị đồng Kíp mất
giá. Một sự tăng cung ứng tiền kíp trên thị trường có thể rất nhạy cảm tạo ra sức ép làm giảm
giá đồng kíp và đẩy lạm phát tăng lên xem bảng dưới đây.
Bảng 2.9: Xuất nhập khẩu và thâm hụt thương mại năm 1996-1999
Đơn vị tính: triệu USD
Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999
Xuất khẩu 323 317 341 301,5
Nhập khẩu 690 648 553 554.3
Thâm hụt thương mại -367 -331 -212 -252,8
Nguồn:Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 1999.
5. Sự yếu kém của hệ thống tài chính, nhất là hệ thống ngân hàng, chưa thực sự
đóng vai trò quyết định trong lưu thông tiền tệ và điều hành thị trường tiền tệ, tín dụng,
quản lý ngoại hối lỏng lẻo dễ gây rối loạn thị trường ngoại tệ. Mặt khác, do gắn chặt
với đồng Bhat, khi khủng hoảng tài chính nổ ra ở Thái Lan từ mùa hè 1997, sự mất giá
của đồng Bhat kéo theo sự mất giá của đồng Kíp Lào trong hoàn cảnh thị trường nội tệ
và ngoại tệ liên ngân hàng; các NHTM, nhất là các NHTM quốc doanh chưa thực sự là
những tác nhân chủ chốt hoạt động trên thị trường tiền tệ tín dụng, hoạt động kém hiệu
quả, nợ không sinh lời quá lớn.
6. Năng lực của NHNN Lào chưa đủ mạnh cả về luật NH, luật các tổ chức tín
dụng, cơ cấu tổ chức, thể chế; chưa có các chính sách và quy chế cần thiết để giám sát và
điều tiết thị trường tiền tệ; chưa có các công cụ đắc lực, hoặc đã có một số công vụ nhưng
còn kém hiệu lực để điều tiết thị trường tiền tệ, tín dụng. Việc NHNN phát hành tín phiếu
ngân hàng lãi suất cao (5%/tháng, tức 60%/ năm) trực tiếp huy động từ dân và doanh
nghiệp vào cuối năm 1999. Xét về bản chất là biện pháp tài chính hơn là biện pháp tiền tệ
(mà lẽ ra là yêu cầu các NH thương mại huy động lãi tiết kiệm với mức lãi suất cao. Nhà
nước sẽ bù đắp mức chênh lệch lãi suất cho các NHTM); từ đó, chưa thực sự trao trách
nhiệm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng nói chung, tăng tính linh hoạt về chuyên môn của các
ngân hàng thương mại và trách nhiệm của NH nhà nước nói riêng.
7. Trong bối cảnh lạm phát cần xem xét kỹ thêm việc phối hợp thực hiện nhịp
nhàng các biện pháp chính sách tiền tệ (cung ứng tiền, dự trữ bắt buộc, lãi suất, tín phiếu và
kỳ phiếu ngân hàng...) và biện pháp chính sách tài chính (thuế, chi tiêu Chính phủ, trái phiếu
kho bạc, công trái). Thị trường tiền tệ kém phát triển, quản lý vĩ mô đối với tiền tệ yếu tất yếu
làm cho nạn đầu cơ tiền tệ gia tăng gây rối loạn thị trường tiền tệ nói riêng và hệ thống tài
chính nói chung.
8. Từ năm 1998, đặc biệt là năm 1999, lượng vốn ODA và FDI vào Lào đã giảm sút
rất mạnh làm hẫng hụt lớn, đột biến cán cân vĩ mô đã được hình thành trước đó, trong đó
có cân đối về tiền tệ, đồng thời ngoại tệ trở nên khan hiếm hơn nhiều so với các năm trước
đây, tức thời kỳ giá trị đồng Kíp được củng cố. Giá ngoại tệ do vậy tăng lên là rất yếu. Tình
hình này kết hợp với sự thiếu kiểm soát ngoại hối càng đẩy giá ngoại tệ lên cao, đến lúc
bùng lên lạm phát.
9. Việc phát hành tiền bù đắp thâm hụt ngân sách, nhất là chi cho khối lượng lớn
các công trình thuộc chương trình đầu tư công cộng đã làm trầm trọng thêm lạm phát, chưa kể
việc chi tiêu lớn cho đầu tư công cộng, cho nhiều công trình lớn và bù đắp thâm hụt ngân sách
liệu có đem lại hiệu quả thiết thực hay không.
Nói chung các nguyên nhân và các vấn đề trên có thể nhận thức được tương đối dễ
dàng, vì chúng bao giờ cũng biểu hiện rõ ràng thông qua các hiện tượng (chỉ số kinh tế vĩ
mô) có thể quan sát được.
2.1.3. Giai đoạn 2000 đến nay
Trong giai đoạn này, tình hình kinh tế-xã hội của Lào có nhiều chuyển biến tích
cực theo hướng ổn định và phát triển hơn những giai đoạn trước năm 2000, tốc độ tăng
trưởng kinh tế năm 1999 là 7,28% và năm 2000 là 5,81%, năm 2001 là 5,76%, năm 2004
là 5,91%.
2.1.3.1. Tỷ lệ lạm phát giai đoạn 2000 đến nay
Sau tháng 10 năm 1999, tỷ lệ lạm phát tại Lào đã giảm mạnh từ ba con số xuống
hai con số và đến nay đã ổn ở mức hai con số và có khi ở mức một con số, năm 1999 giá
cả lại có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên, việc nhận thức đúng đắn về lạm phát để đưa ra
những giải pháp kiềm chế. Từ sau năm 1999, chúng ta đã kiểm soát được lạm phát ở mức
2 con số và 1 con số.
Bảng 2.10: Tỷ lệ lạm phát theo tháng từ 2000-2004
Đơn vị tính: %
Nă T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12 CN
m
200 10.5 23.1 75.7 58.7 45.4 34.8 31.0 21.4 10.5 6.63 9.61 8.35 11.0
3 7 3 6 4 0
200 10.1 9.03 8.41 7.80 7.91 6.69 6.93 8.08 6.25 7.09 8.22 7.52 7.81
1
200 7.18 7.22 7.17 7.43 6.68 9.07 11.2 12.6 14.4 14.2 14.0 15.1 10.6
3 3 5 0 9 3 2
200 14.8 13.6 12.6 15.4 15.3 15.6 17.8 17.8 18.2 16.7 14.9 14.4 14.4
3 8 7 5 8 3 9 0
200 12.5 12.9 11.9 11.9 12.3 12.6 12.1 9.21 7.38 6.77 8.13 8.66 10.4
4 3 6 2
Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 2004.
Bảng 2.11: So sánh tỷ lệ tăng trưởng GDP, lạm phát và CPI năm 2000-2004
Đơn vị tính: %
Chi tiêu 2000 2001 2002 2003 2004
GDP 5,81 5.76 5.91 5.84 6.20
Tỷ lệ lạm phát 23.14 7.81 10.63 15.49 10.46
Chỉ số giá cả 108.38 116.64 129.26 149.28 164.89
Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 2004.
2.1.3.2. Nguyên nhân lạm phát
Về mặt lý thuyết, mức giá gia tăng có thể do một số các nguyên nhân:
1. Nhu cầu tiêu dùng tăng cao hơn mức cung ứng, với nguyên nhân này (nếu cung
ứng tiền không tăng thêm), thì giá cả sẽ tăng đến mức độ khi cầu hàng hóa được hạn chế
bằng mức cung do giá tăng.
2. Do chi phí sản xuất tăng làm giá thành sản phẩm tăng cao, qua đó làm tăng mức
giá bán.
3. Do cung tiền của NHTW quá mức và mức quản lý ngoại hối của nền kinh tế Đô
la hóa và Baht hóa cũng là một điều kiện quan trọng gây ra lạm phát. Về nguyên nhân của
lạm phát trong giai đoạn này ta có thể nhận xét như sau:
* Nguyên nhân khách quan:
1. Do nền kinh tế Lào là nền kinh tế nhập khẩu nên chịu tác động nhất định bởi sự
biến động giá cả trên thị trường thế giới. Trong 8 tháng đầu năm 2003 - 2004, giá cả một
số mặt hàng trên thế giới có biến động mạnh, như giá sắt thép, xăng dầu, phân bón, nhựa...
nên có tác động nhất định đến sự tăng giá thành sản phẩm một số mặt hàng sản xuất tại
Lào, nhất là chi phí vận chuyển hàng hóa, giá thành sản phẩm nông nghiệp, giá vật liệu
xây dựng v.v...
2. Xu hướng giảm lãi suất, và sự giảm giá của đồng USD trên thị trường quốc tế, đã
có tác động tích cực giảm chi phí khoản vay bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp và tạo
điều kiện thuận lợi để NHNN Lào bình ổn tỷ giá, qua đó góp phần giảm áp lực lạm phát.
* Nguyên nhân chủ quan:
+ Nguyên nhân từ điều hành chính sách tài khóa:
1. Trong năm tài khóa 2001 - 2002, nhu cầu xây dựng cơ bản của Nhà nước tăng
quá lớn: Chi xây dựng cơ bản ngoài và vượt kế hoạch khoảng 1.798 tỷ Kíp. Đây là nguyên
nhân chính làm tăng nhu cầu về vật liệu xây dựng, qua đó đã đẩy chỉ số giá xây dựng nhà
ở tăng 89,47% trong năm này. Để thanh toán khối lượng xây dựng cơ bản này ngân sách
đã phát hành séc khống để thanh toán (thực chất là phát hành thêm tiền vào lưu thông
ngoài mức tính toán về cung ứng tiền hàng năm của NHNN Lào căn cứ vào tốc độ tăng
trưởng và lạm phát dự kiến 1 con số), đã làm tăng mức lạm phát trong năm 2001 - 2003 do độ
trễ tác động của tiền cung ứng. Nguyên nhân này vừa xuất phát từ phía cầu vừa xuất phát từ
phía cung tiền tệ. Theo số liệu thống kê về việc đầu tư xây dựng cơ bản quá mức dẫn đến phá
vỡ các cân đối lớn của nền kinh tế, từ đó tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Sự mở rộng đầu tư
quá mức không những không thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vững chắc mà còn góp phần đẩy
lạm phát lên cao. Đến nay hậu quả đã tương đối rõ nét, việc đầu tư quá mức trong các năm
qua đã thực sự trở thành nhân tố cản trở mức tăng trưởng kinh tế, gây ra sự mất cân đối lớn
trong ngân sách và hoạt động ngân hàng cũng như các ngành kinh tế khác.
2. Việc thất thu thuế và nguồn thu ngân sách: Trên thực tế, ba năm qua ngân sách
hụt thu so với kế hoạch 390 tỷ Kíp, song chi không giảm, khoản chi đầu tư xây dựng cơ
bản vượt và ngoài kế hoạch 1.798 tỷ, làm cho mất cân đối ngân sách ngày càng trầm trọng
(9% GDP). Đây là nguyên nhân quan trọng tăng nhu cầu chi tiêu trong xã hội (thất thu
thuế sẽ làm tăng thu nhập khu vực phi chính phủ, qua đó tăng nhu cầu chi tiêu khu vực
này; chi vượt tăng nhu cầu chi khu vực chính phủ), qua đó gây áp lực lạm phát.
+ Nguyên nhân từ điều hành CSTT
1.Về điều hành tỷ giá: Từ năm 2000 đến nay, việc điều hành chính sách tiền tệ của
NHNN Lào về cơ bản đã kiểm soát được tỷ giá. Tỷ giá đã không còn là nhân tố làm gia tăng
lạm phát như những năm trước đây.Từ năm 2003 đến 2004 tỷ giá và CPI có sự biến động
không cùng chiều, nhất là tỷ giá giữa đồng Kíp với Đô la Mỹ. Từ năm 2000 - 2002, tỷ lệ mất
giá của đồng Kíp so với ngoại tệ ở mức 2 con số là tương đối cao, nhất là đối với đồng Baht
nên có tác động nhất định làm gia tăng giá thành sản phẩm (do nền kinh tế của Lào chủ yếu là
nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu hàng tiêu dùng từ Thái Lan chiếm tỷ trọng cao đến 95% tổng
giá trị nhập khẩu hàng tiêu dùng). Tuy nhiên, từ năm 2003 đến nay giá trị đồng Kíp giảm giá
không nhiều, song lạm phát vẫn tiếp tục ở mức cao hơn mức độ giảm giá của đồng Kíp so
với ngoại tệ, nên thực chất là đồng Kíp lên giá (tốc độ mất giá của đồng Kíp so với Đô la Mỹ
năm 2001 là 10,91%, năm 2002 là 11,4%, năm 2003 là 4,5%; năm 2004 là 0,7% và đến
6/2005 là 0,6%, tốc độ mất giá của đồng kíp so với đồng Baht năm 2001 là 1,11%, năm
2002 là 14,7%; năm 2003 là 7,6%; năm 2004 là 0,9% và đến 6/2005 là 0,9%). Do vậy, lạm
phát trong năm 2003 đến nay không chịu tác động bởi yếu tố tỷ giá.
2. Về cung ứng tiền và lãi suất: Mức trả lãi suất huy động cao từ tín phiếu của
NHNN Lào phát hành năm 1999 và kéo dài cho đến tận 3/2004 là hình thức tăng thêm tiền
phát hành mới vào lưu thông (mức lãi suất tuy có giảm dần từng năm từ 60%/năm còn
24%/ năm vào 2002). Ngoài ra, năm 2002 NHNN Lào đã thanh toán khoảng 150 tỷ tín
phiếu phát hành trong năm 1999 cũng đã cung ứng thêm lượng tiền vào lưu thông. Thêm
vào đó, việc trả lãi suất huy động cao (tỷ lệ lãi suất thực trên 10%/năm) của các NHTM
cho các khoản tiền huy động làm tăng thêm thu nhập kích thích tiêu dùng. Do vậy, việc
cung ứng tiền và trả lãi suất cao là một trong những nguyên nhân tác động làm tăng mức
giá trong năm 2002 -2004 nhất là chỉ số giá lương thực, thực phẩm tăng mạnh (18,76%)
trong năm tài khóa 2002 - 2003 chịu tác động một phần bởi tăng mức thu nhập từ lãi suất
và tín phiếu đến hạn.
3. Mức độ Đô la hóa của nền kinh tế theo tiêu chí đánh giá của IMF (tỷ trọng tiền
gửi ngoại tệ/ tổng tiền gửi và tỷ trọng tiền gửi ngoại tệ/M2) có xu hướng giảm mạnh từ
mức 78,24% và 64,4% năm 2000 xuống mức 66,49% và 52,6% tháng 5/2004. Tuy nhiên,
việc dùng ngoại tệ thanh toán mua bán hàng hóa với nhau trên thị trường không suy giảm,
mặc dù cơ chế quản lý ngoại hối có thắt chặt việc thanh toán này, song hiệu lực áp dụng
thấp. Thực tế NHNN Lào chưa kiểm soát được việc thanh toán với nhau bằng ngoại tệ của
các doanh nghiệp cũng như của dân cư. Do vậy, việc kiểm soát lạm phát qua việc khống
chế mức tăng tiền tệ của NHNN Lào rất hạn chế. Nguồn kiều hối tăng mạnh hàng năm từ
mức 0,6 triệu USD năm 2000 lên tới 14,8 triệu USD năm 2003 cũng phần nào giải thích
việc tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế ngoài tầm kiểm soát NHNN Lào
ngày càng tăng và có tác động nhất định đến sự tăng giá.
4. Nợ quá hạn lớn và gia tăng liên tục từ năm 2000 đến nay (năm 2000 tỷ lệ nợ
xấu so với tổng dự nợ là 38%, năm 2001 là 35,7%, năm 2002 là 41,9%, năm 2003 là 48%).
Tính đến 12/2003 nợ quá hạn tăng 205% so với mức nợ xấu cuối năm 2000. Tình trạng nợ
quá hạn gia tăng liên tục trong hệ thống ngân hàng, phản ánh chất lượng tín dụng cho tăng
trưởng kinh tế không có hiệu quả, một lượng tiền lớn được đưa ra nền kinh tế đã không tạo
ra sản phẩm, mà tạo ra sức ép lạm phát.
+ Nguyên nhân từ phía cung hàng hóa và nhân tố khác:
1. Cung hàng hóa về lương thực, thực phẩm giảm mạnh, tỷ trọng trong tổng hàng
hóa nhập khẩu giảm từ 32,6% năm 2000 xuống còn 9,9% năm 2002 và khoảng 4% năm
2003, trong khi đó sản lượng lương thực, thực phẩm sản xuất trong nước tuy có tăng,
nhưng mức tăng chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu trong nước, do vậy cũng có tác động đẩy
giá lương thực thực phẩm tăng mạnh trong năm 2003 và 8 tháng đầu năm 2003 - 2004 ta
có thể xem bảng sau đây:
Bảng 2.12: Chỉ số giá tiêu dùng từ năm 2001-2004
(Tính theo mức giá năm 1999= 100 tính theo năm dương lịch)
Đơn vị tính: %
Năm 2001 2002 2003 2004
Chỉ số bình quân, trong đó 7,81 10,66 15,46 12,39
- Lương thực, thực phẩm 6,69 9,62 15,23 14,6
- Phi lương thực, thực phẩm 8,88 11,50 15,65 10,54
- Chỉ phí xây dựng nhà cửa 24,28 58,85 42,84 21
- Đồ dùng gia định 7,97 11,54 13,43 6,25
Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 2004.
2. Giá điện điều chỉnh tăng liên tục từ năm 2000 đến nay để đảm bảo kinh doanh
không bị lỗ của ngành điện, do vậy cũng có tác động tăng giá trong hơn 3 năm qua.
Tóm lại, từ phân tích trên cho thấy, lạm phát của Lào giai đoạn 2000 - 2004 đã
giảm nhiều so với thời kỳ trước năm 2000, tuy nhiên từ năm tài khóa 2001 - 2002 đến nay
luôn ở mức trên 2 con số vượt với chỉ tiêu lạm phát đề ra và còn cao so với mức tăng
trưởng kinh tế dưới 6%. Nguyên nhân sâu xa là do nền sản xuất hàng hóa còn yếu cùng với
tiềm lực tài chính quốc gia và cơ chế quản lý tài chính ngân sách, điều hành CSTT còn quá
nhiều bất cập, đặc biệt là cơ chế quản lý ngân sách. Nguyên nhân trực tiếp và chủ yếu dẫn
đến lạm phát trên 14% trong hai năm tài khóa 2001 - 2003, chủ yếu là do nguyên nhân chủ
quan trong điều hành chính sách tài khóa [38].
2.2. Thực trạng điều hành Chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát ở Lào
trong những năm qua
2.2.1. Thực trạng điều hành giai đoạn 1994-1996
Cùng với sự đổi mới nền kinh tế, hệ thống NHNN Lào cũng bắt đầu quá trình chuyển
đổi cho phù hợp với xu thế chung. Đặc trưng cơ bản nhất là việc tách hệ thống ngân hàng 1
cấp sang hệ thống ngân hàng 2 cấp, trong đó, NHNN giữ chức năng là ngân hàng phát hành và
quản lý vĩ mô đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng, còn các NHTM làm chức năng kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ - tín dụng. Sự chuyển đổi này bắt đầu từ tháng 3/1990 nhưng do
chưa xây dựng được hệ thống văn bản pháp quy đối với cơ chế hoạt động của hệ thống ngân
hàng nên chức năng NHTW của NHNN vẫn chưa được phát huy còn hệ thống NHTM thì mặc
dù tăng về số lượng nhưng chất lượng hoạt động lại kém cỏi. Cho tới khi pháp lệnh về ngân
hàng và nghị định NHTM được ban hành, hoạt động của hệ thống mới bắt đầu được đổi mới
và phát triển. Từ năm 1991, NHNN Lào mới bắt tay vào việc xây dựng CSTT. Mục tiêu căn
bản của CSTT thời kỳ này là giữ ổn định giá trị đồng Kíp Lào và góp phần tăng trưởng kinh tế
và việc xây dựng CSTT chủ yếu dựa vào lượng tiền cung ứng nên việc xác định khối lượng
tiền cần cung ứng hàng năm phải phục vụ cho hai mục tiêu chính đó là:
Công cụ và biện pháp phòng chống lạm phát trong thời kỳ này như sau:
1. Công cụ lãi suất: NHNN đã tăng lãi suất tiết kiệm lên cao nhằm mục đích thu
hồi bớt tiền trong lưu thông. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm danh nghĩa cao hơn tỷ lệ lạm phát
làm cho lãi suất thực lớn hơn 0. Cung tiền giảm làm cho lãi suất cho vay cao lên, tiêu dùng
và đầu tư giảm, sản xuất bị thu hẹp, giá cả giảm xuống.
Trong thời kỳ này Nhà nước thu được một lượng tiền lớn. Tuy nhiên, do lãi suất
cho vay cao nên sản xuất bị ngưng trệ, nền kinh tế không phát triển được, thất nghiệp gia
tăng. Để giải quyết tình trạng này, Nhà nước từng bước giảm dần lãi suất cho vay thông
qua giảm dần lãi suất huy động. Thời kỳ này, lãi suất được xem như một công cụ quan
trọng nhất của CTTT.
Bảng 2.13: Lãi suất tiền gửi và cho vay năm 1994-1996
Đơn vị tính: % tháng
Chi tiêu 1994 1995 1996
Lãi suất tiền gửi bình quân tháng 12 16 17
Lãi suất cho vay bình quân tháng 20 23 24
Nguồn: Báo cáo Ngân hàng Nhà nước Lào năm 1997.
2. Công cụ tỷ giá: Trong thời điểm này tỷ giá hối đoái có sự biến động mạnh. Tỷ
giá có vai trò quan trọng trong việc giữ ổn định giá trị đồng Kíp Lào vì trên đất Lào, người
Lào chưa hoàn toàn tiêu tiền Lào. Nếu tỷ giá không được xác định hợp lý và điều hành
không tốt sẽ dẫn đến hiện tượng đầu cơ ngoại tệ. CSTT không còn ý nghĩa nữa. Vì lẽ đó, ở
Lào tỷ giá được coi như một giải pháp hỗ trợ để thực hiện mục tiêu CSTT.
Bảng 2.14: Tỷ lệ mất giá đồng kíp Lào/ USD và đồng Baht Thái
năm 1994-1997
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu 1994 1995 1996 1997
Kíp/USD -0,5 -23 -5 -29.5
Kíp/Baht -0.8 -0.22 -4.8 -14.0
Nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Lào năm 1997.
Năm 1994, hệ thống tỷ giá hối đoái nhiều tầng được hợp thành một loại tỷ giá
chính thức và do NHNN điều hành. Việc áp dụng hệ thống tỷ giá này làm cho nhu cầu tích
trữ hàng hóa, vàng, đô la giảm khiến đường tổng cầu dịch chuyển sang trái và xuống dưới,
chỉ số giá cả giảm xuống.
3. Đầu năm 1995 do tình hình lạm phát có biến động mạnh NHNN Lào cấm các
NHTM cho vay quá 25% tổng dư nợ và công cụ dự trữ bắt buộc từ năm 1994, dự trữ bắt
buộc trở thành công cụ điều hành CSTT chủ yếu của Lào. Nhằm thực hiện chính sách thắt
chặt tiền tệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD được công bố vào tháng 6/1994 là 10%.
2.2.2. Thực trạng điều hành giai đoạn 1997-1999
Đến cuối năm 1998 mức cung ứng tiền tăng 113,2% và tín dụng cho tư nhân tăng
lên 87,9%. Sự tăng lên của khối lượng tín dụng trong năm 1998 là một lý do làm cho lạm
phát tăng nhanh, từ đó NHNN đã áp dụng CSTT tạm thời để chống lạm phát.
1. Ra công văn cho các NHTM nâng lãi suất tiền gửi thấp nhất từ 16% - 19% và từ
19% - 22%;
2. Ra quyết định cho các NHTM cho vay tín dụng không quá 10% của tổng dư nợ
tháng 12 năm 1997, trong từng tháng của năm 1998;
3. NHNN đã xâm nhập vào việc phát hành trái phiếu kho bạc và phát hành trái
phiếu NHNN đến cuối năm 1998 tổng giá trị 47,7 tỷ [30].
Đến cuối năm 1999, tỷ lệ cung ứng tiền 78,5% cho vay tín dụng tư nhân tăng
74,3%, sự tăng lên của tín dụng năm 1999 làm cho tỷ lệ lạm phát tăng lên nhanh. Vì vậy
NHNN Lào đã áp dụng CSTT để chống lạm phát cụ thể như sau:
* Ngân hàng Nhà nước Lào phát hành trái phiếu kho bạc với lãi suất 24%- 30%,
đến cuối năm 1999 tổng giá trị 32,7 tỷ Kíp, phát hành trái phiếu NHNN Lào với lãi suất 26-
30- 60%, tổng giá trị 37,36 tỷ Kíp và huy động vốn với lãi suất ưu đãi là 48%- 60%. Trong
năm 1999 đã thực hiện hai lần, lần thứ nhất là cuối tháng 10 đến tháng 11 năm 1999; lần thứ
hai đầu tháng 12 đến cuối tháng 12 năm 1999 cả hai lần huy động đã thu được 132,37 tỷ
kíp [31].
Bảng.2.15: Lãi suất tiền gửi từ 1998-1999
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu 1998 1999
Tiền gửi tiết kiệm 22% 6- 12%
Tiền gửi có kỳ hạn
3 tháng 19- 23% 12- 15%
6 tháng 19- 24% 14- 20 %
12 tháng 19- 25% 16- 24%
Trên 1 năm 24% 24- 27%
Nguồn: Báo cáo Ngân hàng Nhà nước lào năm 1999.
biểu giá kip/usd và kip/baht
Bảng 2.16: Tỷ lệ mất giá đồng Kíp Lào/ USD và Baht Thái năm 1997-2004
Kịp/US Kíp/Ba Năm D ht
1997 -29,5 -14,0
1998 -61,9 -50.4
tỉ giá kíp/us d
1999 -54,3 -56,8
2000 -3,1 -3,08
tỉ giá kíp/bah t
2001 -10,9 -1,11
2002 -11,4 -14,6
Biểu 2.2: Tình hình mất giá đồng Kíp/ USD và Kíp/ Baht Thái Lan 1999-2002 2003 -4,5 -7,8 2.2.3. Thực trạng điều hành giai đoạn 2000 đến nay
Để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội năm 2000 Chính phủ cùng với
NHNN Lào đã áp dụng CSTT thắt chặt, thận trọng linh hoạt và phù hợp với diễn biến thực
tế nhằm đảm bảo sự ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và củng
cố hệ thống ngân hàng vững mạnh. NHTM tăng cường hoạt động kinh doanh có hiệu quả,
Chính phủ tăng thu giảm chi hạn chế nhập khẩu tăng tiết kiệm [32].
Năm 2001: áp dụng CSTT nới lỏng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, NHNN Lào
thông báo giảm lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay. Đặc biệt giảm lãi suất ưu đãi 3%/ tháng
xuống còn 2%/ tháng. Thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với NHTM 12% giữ lãi suất cho
vay của NHNN đối với NHTM 35%/ năm của việc thực hiện chính sách trên đã làm cho tỷ
lệ lạm phát ở 1 con số [33].
Đến tháng 6-2001, tỷ giá hối đoái giữa đồng kíp Lào và đồng Đô la Mỹ có sự
biến động mạnh lên tới 9.700 Kíp/ USD, trong tháng 10 năm 2001 để giải quyết sự biến
động của tỷ giá hối đoái đó NHNN Lào lại áp dụng CSTT thắt chặt bằng nâng lãi suất ưu
đãi 2,5% / tháng và áp dụng quản lý
tỷ giá hối đoái giữa thị trường chính thức và thị trường tự do, chênh lệch nhau 2%.
Năm 2002, để thực hiện tăng trưởng kinh tế theo kế hoạch 6- 7% / năm, lạm phát ở
mức một con số, cung ứng tiền khoảng 18%, cho vay không quá 18%. NHNN Lào đã áp
dụng CSTT kết hợp.
Đầu năm 2002 do tình hình kinh tế tài chính ổn định, để thúc đẩy kinh tế phát triển
theo kế hoạch đã đề ra, NHNN Lào đã áp dụng CSTT nới lỏng, giảm lãi suất cho vay của
NHNN đối với NHTM 35% còn 20%, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 12% xuống 6% trong
tháng 12 năm 2002 [34].
Cho đến giữa năm 2002, tình hình tài chính tiền tệ bắt đầu biến động, tỷ lệ lạm
phát cao liên tục từ 6,7% tháng 5 lên 9,1% tháng 6 và 11,23% tháng 7. Tỷ giá hối đoái 9.602
Kíp / USD trong tháng 5 lên 9.896 Kíp/ USD trong tháng 6 và lên 10.167 Kíp / USD trong
tháng 7. Vì vậy, NHNN Lào áp dụng CSTT thắt chặt, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 6% lên
8% đối với đồng Kíp. Đối với ngoại tệ từ 12%- 15 %. Bắt đầu thực hiện từ tháng 7 năm
2002
Bảng 2.17: Tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái và tỷ lệ dự trữ bắt buộc
(Từ 6/2000 - tháng 12/2004)
Năm 2002 Năm Năm
2003 2004 Chỉ tiêu Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng
12 12 5 6 7 12
5.8 6.2 Tỷ lệ l. phát 6.7 9.1 11.23 10.63
Kíp / USD 9.602 9.896 10.167 10.112 10.623 10.664
Tỷ lệ dự trữ bắt Kíp 6% 6% 8% 8% 8% 8%
buộc (tính theo USD12% 12% 15% 15% 15% 15%
%)
Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Lào năm 2004.
Năm 2003 NHNN Lào áp dụng CSTT kết hợp, trong đó hạn chế lượng cung ứng
tiền. NHNN Lào đã phát hành trái phiếu trong thời gian ngắn cuối tháng 9 -2003 để thu hút
số tiền 50 tỷ Kíp, từ xã hội và xử lý trái phiếu đã nói trên vào hệ thống ngân hàng tháng
12- 2003, thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng nội tệ và ngoại tệ như năm 2002. Tiếp tục
hạn chế tốc độ cho vay tín dụng của NHTM, NHNN Lào sẽ can thiệp vào tỷ giá hối đoái
nếu có sự cần thiết, rong năm 2003 NHNN Lào đã giữ được tỷ giá hối đoái của ngân hàng
so với tỷ giá hối đoái tự do chênh lệch < 1% [35].
2.3. Đánh giá việc điều hành Chính sách tiền tệ từ năm 1994 đến nay
2.3.1. Những kết quả đạt được
* Điều hành CSTT đã có chuyển biến tích cực và góp phần rất quan trọng vào
việc kiểm soát và đẩy lùi lạm phát:
Về cơ bản giữ được giá trị đối nội và đối ngoại của đồng kíp ổn định; lạm phát cao
đã được đẩy lùi; tỷ lệ lạm phát bình quân của năm 2000 là 23,14%, năm 2001 là 7,81%,
năm 2002 là 10,63%, năm 2003 là 15,49%, năm 2004 là 10,46% (lạm phát đến tháng 12
năm 2004 là 8,66%) và năm 2005 dự kiến khoảng 9%; trung bình 5 năm là 10,48%. Như
vậy, tỷ lệ lạm phát tuy còn cao hơn kế hoạch, nhưng vẫn kiểm soát được.
Tỷ giá tương đối ổn định; Tốc độ mất giá của đồng Kíp Lào so với Đô la Mỹ năm
2001 là 10,7%, năm 2002 là 13,18%, năm 2003 là 5,1%, tốc độ mất giá của đồng Kíp so với
đồng Baht, năm 2001 là 1,1%, năm 2002 là 16,7%, năm 2003 là 8,2%. Tỷ lệ mất giá của ngoại
tệ so với Kíp năm 2004 là 0,8%, năm 2005 ước tính 1-2%. Chênh lệch giữa tỷ giá trên thị
trường chính thức với tỷ giá trên thị trường tự do thu hẹp đáng kể và có xu hướng giảm dần
(năm 2000 tỷ giá kíp/ USD bình quân trên thị trường tự do cao hơn tỷ giá chính thức là 2,15%,
năm 2001 là 1,5%, năm 2002 là 1,09%, năm 2003 là 0,77%, năm 2004 là 0,48%). Điều này
cho thấy NHNN Lào đã có chủ động nhất định trong điều hành tỷ giá.
Đã có bước chủ động trong điều hành CSTT: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã được điều
chỉnh linh hoạt. Do vậy đã từng bước kiểm soát được mức độ gia tăng tiền tệ sát với định
hướng đề ra. Năm 2001 M2 tăng 18,38%, năm 2002 tăng 27,1%, năm 2003 tăng 31,2% và năm
2004 tăng 17% (Năm 2000 M2 tăng mạnh là do NHNN Lào cung ứng tiền để mua ngoại tệ
cho quỹ dự trữ khoảng 8 triệu USD và thanh toán tín phiếu NH Lào khoảng 38 tỷ Kíp; năm
2004 thu hồi tín phiếu 45 tỷ Kíp, mua ngoại tệ là 13,2 triệu USD). Do vậy, về cơ bản tốc độ
tăng của M2 đã phù hợp với dự kiến kế hoạch trong tháng 5 năm 2004 công cụ dự trữ bắt buộc
đã được đổi mới theo hướng nhập 2 tài khoản thanh toán và dự trữ bắt buộc vào một tài khoản
giúp cho các NHTM sử dụng linh hoạt nguồn vốn hơn.
Đã thực hiện mục tiêu tăng đáng kể dự trữ ngoại tệ của Nhà nước từ mức 2,6 tuần
nhập khẩu năm 2001 đến mức 6 tuần nhập khẩu vào cuối năm 2004. Đây là yếu tố cơ bản
giúp cho ngân hàng Lào chủ động trong việc kiểm soát tỷ giá.
* Thị trường tiền tệ đã từng bước phát triển
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được thành lập từ tháng 7 năm 2000, các giao
dịch trên thị trường tuy chưa nhiều nhưng có xu hướng tăng dần qua các năm. Nhất là từ
tháng 10 năm 2003 sau khi có sự thay đổi cơ chế tỷ giá, các NHTM cũng linh hoạt trong
mua bán ngoại tệ, thị trường hoạt động sôi nổi hơn. Thông qua thị trường này NHNN Lào
đã can thiệp kịp thời và có hiệu quả vào thị trường ngoại hối để ổn định giá cả.
- Từ tháng 2 năm 2004 NHNN Lào đã thực hiện mua bán lại giấy tờ có giá với các
tổ chức tín dụng, tổng số phiên giao dịch trong năm 2004 là 71 phiên với tổng giá trị giao
dịch là 208,7 tỷ Kíp. Từ đầu năm 17/3 năm 2005 tổng số phiên giao dịch là 71 phiên với
tổng giá trị giao dịch là 135,3 tỷ Kíp. Đây có thể nói là tiền đề quan trọng để NHNN Lào
hình thành công cụ nghiệp vụ thị trường mở cho điều hành CSTT.
- Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc đã được thực hiện từ tháng 12 năm 2002
với tổng giá trị giao dịch là 71,89 tỷ Kíp, số lượng thành viên tham gia giao dịch chủ yếu
là các NHTM nhà nước ngoài ra còn có sự tham gia của quỹ bảo vệ người gửi tiền và bảo
hiểm.
CSTT của Lào theo đuổi đa mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh và nâng cao đời
sống của nhân dân. Tùy từng thời điểm khác nhau mà một mục tiêu nào đó trong hệ thống
các mục tiêu trên được coi trọng hơn, trong thực tế những năm 1994-1996, mục tiêu ổn
định giá cả, kiểm soát lạm phát đã được coi trọng, tỷ lệ lạm phát có sự biến động từ một
con số đến hai con số GDP trung bình ba năm là 7,3%, tình hình kinh tế -xã hội tương đối
ổn định, GDP trên đầu người trung bình là 340 USD/ đầu người.
Những năm 1997-1999, như đã trình bày ở mục 2.1.2 về tình hình lạm phát trong giai
đoạn này, NHNN Lào nói riêng và Chính phủ Lào nói chung áp dụng các công cụ CSTT thắt
chặt để chống lạm phát kết hợp với việc tuyên truyền toàn dân chống lạm phát trong vòng 20
tháng chiến tranh chống lạm phát mới kết thúc.
Còn những năm 2000 - 2004 thì ổn định tỷ giá lại được coi trọng hơn. Việc đeo
đuổi CSTT đa mục tiêu trong điều kiện kinh tế chuyển đổi là tương đối hợp lý do cơ cấu
kinh tế chưa hoàn thiện, hệ thống ngân hàng tài chính chưa phát triển, đồng thời nhu cầu
hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp duy trì hoạt động và phát triển là cần thiết.
Để đạt được những mục tiêu cuối cùng đó, NHNN Lào lựa chọn TPTTT - M2 làm
mục tiêu trung gian (M2 bao gồm tiền mặt trong lưu thông tiền gửi không kỳ hạn của các
NHTM + tiền gửi có kỳ hạn + tiền gửi tiết kiệm + trái phiếu do NHTW). Đương nhiên chúng
ta có thể lý giải việc NHNN không dùng tỷ giá hay lãi suất thị trường làm mục tiêu trung
gian là vì: Mục tiêu trung gian là tỷ giá chỉ thực hiện được trong điều kiện là nền kinh tế
mở và trong khi thị trường tài chính Lào (bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn)
chưa phát triển, chưa hoàn thiện và ổn định thì mục tiêu trung gian là lãi suất cũng chưa
thực hiện được vì lãi suất lúc này chưa phản ánh khách quan mối quan hệ cung cầu vốn
trên thị trường. Đồng thời chúng ta cũng lý giải được việc NHNN không chọn M1 hay M3
làm mục tiêu trung gian. NHNN không chọn M1 (= tiền mặt trong lưu thông + tiền gửi
không kỳ hạn của các NHTM) vì M1 có phạm vi hẹp hơn M2 rất nhiều và NHNN không
kiểm soát được hệ số tạo tiền và tổng mức tín dụng trong nền kinh tế. Còn nếu chọn M3
(=M2 + trái phiếu, tín phiếu của kho bạc phát hành + thương phiếu + trái phiếu của các
công ty + cổ phiếu của các công ty cổ phần + các tài sản tài chính khác) thì phạm vi lại quá
rộng trong khi thị trường thứ cấp chưa phát triển, độ tin cậy của các giấy tờ có giá không
cao. Như vậy, việc lựa chọn M2 làm mục tiêu trung gian trong thời gian này là hợp lý.
Từ việc chọn lựa mục tiêu của CSTT như trên, việc điều hành CSTT trong thời
gian qua đã đạt được những thành công đáng kể sau: đầu tiên là sự góp phần ổn định kinh
tế vĩ mô, đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định sức mua của đồng Kíp. Sự ổn định
trong việc điều hành kinh tế vĩ mô đã tạo điều kiện giúp nền kinh tế Lào đạt được tốc độ
tăng trưởng tương đối và ổn định: năm 1995 tăng 7%, năm 1996 tăng 6,8%; năm 1997
tăng 7,2%; năm 1998 tăng 4%; năm 1999 tăng 5,2%; năm 2000 tăng 5,81%; năm 2001
tăng 5,7 %; năm 2002 tăng 5,91%; năm 2003 tăng 5,84%; năm 2004 tăng 6,2% dự kiến
năm 2005 tăng 6,5-7%. Các mục tiêu kinh tế xã hội khác như chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
tạo thêm công ăn việc làm, thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo. cũng được hỗ trợ
bằng các biện pháp cụ thể như: tỷ trọng cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh tăng lên, ưu tiên đầu tư tín dụng vào các ngành trọng điểm, mũi nhọn, cho vay
người nghèo.
Một thành công nữa là các công cụ của CSTT được xây dựng tương đối hoàn
chỉnh, chuyển dần từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp. Thời gian
đầu, công cụ CSTT được sử dụng chủ yếu là các công cụ trực tiếp như hạn mức tín dụng
(NHNN qui định mức tăng trưởng tín dụng cho từng NHTM dựa vào qui mô hoạt động
của từng ngân hàng), công cụ kiểm soát lãi suất. Tuy nhiên, ngay trong việc sử dụng công
cụ trực tiếp cũng có những chuyển biến tích cực: NHNN qui định tỷ lệ lãi suất cụ thể, tiếp
đến đặt lãi suất, lãi suất cơ bản và cuối cùng là lãi suất thỏa thuận. Cho đến nay, các công
cụ trực tiếp được sử dụng ít đi, NHNN chủ yếu điều hành CSTT bằng các công cụ gián
tiếp như DTBB, chiết khấu, TCK, NVTTM.
2.3.2. Những hạn chế, tồn tại
1. Về điều hành CSTT
- Việc điều hành chính sách tiền tệ vần còn nhiều bất cập:
+ Các công cụ chính sách tiền tệ còn quá ít và chưa hoàn thiện. Hiện nay việc điều
hành CSTT chủ yếu dựa vào công cụ dự trữ bắt buộc và việc phát hành tín phiếu NHNN
Lào trong thời kỳ lạm phát cao. Các nghiệp vụ cho vay tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường
mở chưa được sử dụng.
Đối với nghiệp vụ cho vay tái cấp vốn hiện nay chưa ban hành qui chế hoạt động.
Thực tế NHNN Lào cho vay ngắn hạn do thiếu hụt khả năng thanh toán với lãi suất cao
(20 % với kỳ hạn 1 tuần, 30 % với kỳ hạn 1 tháng) và cho vay theo chỉ định của Chính phủ
với Ngân hàng Nông nghiệp (dư nợ cho vay chỉ định đến nay hơn 100 tỷ kíp), với mức lãi
suất qui định tùy thuộc vào danh mục đầu tư mức lãi suất thấp nhất là 5% / năm, cao nhất
12 % / năm. Nguyên nhân chủ yếu do (1) NHNN Lào chưa thực sự thấy được vai trò của
công cụ này trong việc hình thành hành lang dao động lãi suất thị trường liên ngân hàng,
do thị trường nội tệ ngân hàng chưa phát triển; (2) bản thân các ngân hàng thương mại
chưa có nhu cầu tiếp cận nguồn vốn này.
Đối với nghiệp vụ thị trường mở, trên thực tế các hoạt động mua bán có kỳ hạn
trái phiếu, tín phiếu kho bạc đã được thực hiện tương đối thường xuyên giữa NHNN Lào
với các NHTM, song NHNN Lào chưa biến hoạt động này thành một công cụ NVTTM
cho điều hành CSTT. Như chưa hình thành bộ phận dự báo vốn khả dụng, chưa hình thành
ban điều hành thị trường mở và chưa định hướng hoạt động này để điều tiết vốn khả dụng
của các NHTM theo mục tiêu chính sách tiền tệ. Nguyên nhân là do NHNN Lào chưa thực
sự quan tâm hình thành và sử dụng NVTTM cho điều hành CSTT.
+ Việc kiểm soát lãi suất nền kinh tế của Ngân hàng Lào còn hạn chế: Chính sách
ưu đãi lãi suất đối với nền kinh tế của Ngân hàng Lào đã được tự do hóa từ trước những
năm 2000, song đến nay NHNN Lào chưa hình thành được lãi suất định hướng cho lãi suất
thị trường do chưa thực hiện nghiệp vụ tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường mở do vậy
chưa tạo ra lãi suất định hướng cũng như điều tiết vốn khả dụng của các NHTM kịp thời.
Lãi suất danh nghĩa về huy động và cho vay hầu như không biến động từ 2001, đến tháng
4/2004 lãi suất huy động bắt đầu hạ, nhưng lãi suất cho vay không hạ (chỉ có lãi suất cho nay
dài hạn bắt đầu hạ từ tháng 10/2004 từ mức 24% / năm xuống 23,4%/ năm), trong khi tỷ lệ
lạm phát có sự biến động không nhỏ, dẫn đến lãi suất thực trở nên quá lớn. Điều đó ảnh
hưởng đáng kể khả năng mở rộng tín dụng có hiệu quả để thúc đẩy sản xuất.
- Thị trường tiền tệ phát triển ở mức độ còn hạn chế:
Các định chế trung gian tham gia thị trường tiền tệ chỉ các NHTM, trên thị trường
chưa hình thành các tổ chức tài chính khác, như các công ty tài chính, các quỹ, các công cụ
hoạt động trên thị trường tiền tệ còn thiếu, thị trường thứ cấp chưa hình thành. Thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng đã có những cải thiện đáng kể, nhưng các hình thức giao dịch ít,
chủ yếu chỉ thực hiện các giao dịch giao ngay, nguyên nhân chủ yếu của thực trạng này là
do các thành viên tham gia thị trường còn thiếu tính chủ động, năng động, đặc biệt là các
ngân hàng thương mại, mặc dù đã tự do hóa lãi suất, nhưng các NHTM chưa điều chỉnh lãi
suất không linh hoạt theo diễn biến thị trường. Đồng thời các thành viên tham gia thị
trường chưa thực sự biết để có những nhu cầu sử dụng đa dạng các công cụ thị trường tiền
tệ - tài chính.
2. Kiểm soát tăng trưởng tín dụng còn nhiều hạn chế
- Mức tăng trưởng tín dụng còn thấp theo mục tiêu: Thể hiện ở tốc độ tăng trưởng
tín dụng qua các năm: Tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân trong 5 năm khoảng 13%,
trong đó từ năm 2001 đến năm 2003 tốc độ tăng trưởng tín dụng có nhiều biến động phức
tạp. Năm 2001 tăng 33,1%, năm 2002 tăng 4,6%, năm 2003 giảm (-10%), 2004 (tháng 12)
tăng 9,6% và năm 2005 tăng khoảng 18 % và có xu hướng giảm dần.
- Về cơ cấu đầu tư tín dụng chưa tập trung phát triển nông lâm nghiệp - Một lĩnh
vực có nhiều tiềm năng: Tỷ trọng đầu tư tín dụng vào lĩnh vực nông - lâm nghiệp có xu
hướng giảm từ 12,7% năm 2000 xuống 11,9 năm 2004. Lĩnh vực đầu tư trang thiết bị có
xu hướng tăng lên phản ánh chuyển dịch cơ cấu kinh tế tương đối rõ nét. Tuy nhiên, với
đặc điểm kinh tế là nước nông nghiệp thì tỷ trọng đầu tư tín dụng 11,9% là quá thấp. Điều
Nî N¦ í C NGOµ I/GDP
THU NG¢ N S¸ CH/GDP
TH¢ M Hô T THU¥ NG M¹ I/GDP
TH¢ M Hô T THU-CHI/GDP
này đã có ảnh hưởng nhất định đến việc hạn chế tăng trưởng kinh tế.
Biểu 2.3: Tình hình nợ nước ngoài - Thu ngân sách Thâm hụt thương mại, thâm hụt ngân sách/GDP từ 1998-
2004
Nguyên nhân của tình trạng trên là do:
1. Trong điều hành CSTT, NHNN Lào tập trung chủ yếu theo đuổi mục tiêu kiểm
soát lạm phát như mục tiêu CSTT đặt ra trong nghị quyết Đại hội VII. Do vậy, chưa thực sự
chú trọng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên đây không phải là nguyên nhân
chính.
2. Do các NHTM và Bộ Tài chính không thực hiện đúng các cam kết với ADB, từ
đó các điều kiện cho vay bị thắt chặt làm hạn chế tăng trưởng tín dụng. Song, chất lượng
tăng trưởng tín dụng có phần cải thiện hơn.
3. Nguyên nhân sâu xa là do chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp, nhất là
doanh nghiệp nhà nước cũng rất yếu, lỗ lớn không có khả năng trả nợ ngân hàng. Đối với
các hộ nông dân thì thiếu kỹ thuật về trồng trọt, không có khả năng tự tìm kiếm thị trường
nên tiếp cận hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của các NHTM. Mặt khác, năng lực tài
chính, khả năng quản trị điều hành và năng lực cán bộ tín dụng của các NHTM nhà nước
còn yếu: Nợ tồn đọng lớn,vốn tự có thấp, kinh doanh thiếu tính năng động. Thêm vào đó,
nợ tồn đọng của ngân sách đối với doanh nghiệp cũng là nguyên nhân quan trọng làm nợ
tồn đọng của các NHTM nhà nước tăng lên.
4. Cơ chế quản lý ngoại hối và hiệu lực thi hành còn nhiều hạn chế: Trên thị
trường Lào việc dùng ngoại tệ thanh toán mua bán hàng hóa với nhau không suy giảm,
mặc dù cơ chế quản lý ngoại hối có thắt chặt việc thanh toán này, song hiệu lực áp dụng
thấp. Thực tế NHNN Lào chưa kiểm soát được việc thanh toán với nhau bằng ngoại tệ của
các doanh nghiệp cũng như của dân cư. Do vậy, việc kiểm soát lạm phát qua việc khống
chế mức tăng tiền tệ của NHNN Lào bị hạn chế.
5. Về hoạt động thanh tra giám sát: Đã thực hiện việc thanh tra giám sát hoạt động
của các ngân hàng thương mại bằng các tiêu chí CAMELS (6 tiêu chí), bằng các hình thức
giám sát từ xa và giám sát tại chỗ. Tuy nhiên, trên thực tế các NHTM cung cấp thông tin
theo yêu cầu rất chậm và tính chính xác không cao nên ảnh hưởng rất lớn đến công tác
giám sát từ xa. Hầu hết việc thanh tra giám sát thực hiện tại chỗ và xuống tận các chi
nhánh của các NHTM. Bên cạnh đó, về cơ cấu tổ chức chưa hình thành bộ phận thanh tra
chuyên trách của NHNN Lào. Hiện nay nhiệm vụ này đang do Vụ Giám sát các định chế
tài chính và ngân hàng thực hiện. Nên phần nào cũng hạn chế công tác thanh tra giám sát
hoạt động ngân hàng của NHNN Lào.
6. Về cơ cấu tổ chức của NHNN Lào: Hiện nay NHNN Lào có 10 Vụ và 2 Văn
phòng đại diện tại tỉnh UĐômXay và ở tỉnh Pacsế. Chức năng của các Vụ tại Hội sở chính
tính chuyên trách chưa cao, chẳng hạn như Vụ Nghiên cứu Kinh tế đảm đương cả nhiệm vụ
quan hệ quốc tế, Vụ Giám sát các định chế tài chính và ngân hàng cũng thực hiện quá nhiều
chức năng. Bên cạnh đó, NHNN Lào chưa hình thành được trung tâm tin học riêng biệt, để
thực hiện hiện đại hóa công nghệ thanh toán và thông tin cho hệ thống ngân hàng. Với cơ cấu tổ
chức như vậy sẽ có những hạn chế nhất định trong việc thực hiện chức năng của một NHTW.
7. Các hạn chế khác trong hoạt động của NHNN Lào:
- Trong quan hệ với ngân sách: Đến nay, về cơ bản Ngân hàng Lào đã hạn chế
đáng kể việc phát hành cho ngân sách (tháng 12 năm 2003 chỉ tạm ứng chính thức cho
ngân sách 3 tỷ kíp với thời hạn 3 tháng). Tuy nhiên, việc phát hành trái phiếu để nhận nợ
các công trình của Chính phủ do các ngân hàng thương mại đã cho vay là một hình thức
bắt buộc các ngân hàng thương mại phải đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, làm cho các
NHTM bị động về nguồn vốn và bản thân kho bạc cũng bị động trong kế hoạch thu chi
ngân sách. Ngoài ra, các khoản thanh toán L/C đến hạn mà các NHTM đã phải thanh toán
cho nước ngoài nhưng đến nay Bộ Tài chính chưa thanh toán, làm ảnh hưởng nguồn vốn
kinh doanh của các NHTM.
- Nợ tồn đọng: Nợ của Chính phủ và nợ của một số doanh nghiệp đối với NHNN
Lào đã tồn đọng quá lâu chưa có hướng xử lý. Đến cuối năm 2004 nợ của Chính phủ với
NH là 1.256 tỷ Kíp tăng 249 tỷ Kíp so với cuối năm 2000, chủ yếu là do biến động của tỷ
giá, vì khoản nợ này là khoản vay 91.296 triệu USD phát sinh vay đã lâu. Các khoản nợ
của doanh nghiệp với NHNN Lào cuối năm 2004 khoảng 651 tỷ. Vấn đề này cũng cần
phải có giải pháp xử lý dứt điểm. Chúng ta có thể xem về thâm hụt thu - chi /GDP liên
30
28
22
20.8 9
21 .8
22.7 0
19. 52
19.5 8
19. 76
18.7 2
18.2 6
15.
14 .3
13. 18
13 .1
13.1 3
13. 05
12. 5
20
10.9 1
11 .8
11. 41
10.1 2
12. 55
10
quan đến nợ không sinh lời, kéo dài và nợ nước ngoài.
Biểu 2.4: Tỷ lệ thu - chi ngân sách/ GDP từ năm 1994-2003
8. Năng lực hoạt động của các NHTM còn nhiều yếu kém.Vốn tự có của các
NHTM nhà nước thấp, lỗ kéo dài nên thực chất là vốn tự có âm kéo theo tỷ lệ đủ vốn -18%.
Chất lượng tài sản có thấp chủ yếu là các khoản đầu tư tín dụng với tỷ lệ nợ quá hạn; theo
tính toán hiện nay của NHNN Lào, tỷ lệ an toàn vốn cuối tháng 12 năm 2004 toàn hệ thống
chỉ là 1,03% là quá thấp so với quy định tối thiểu 8% của tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng nói trên là do: (1); Ngân sách không đủ tiền cấp vốn
(2); Năng lực quản trị điều hành, quản trị rủi ro của các NHTM còn hạn chế, chưa năng động
điều chỉnh lãi suất hợp lý với diễn biến của thị trường (lạm phát trong 5 năm qua giảm
thấp quá nhiều, nhưng các NHTM nhà nước vẫn để mức lãi suất huy động và cho vay rất
cao, nên càng làm tăng mức độ rủi ro trong hoạt động cho vay) và vốn tồn đọng nhiều.
Hiện nay ba NHTM nhà nước đã lỗ khoảng 51 tỷ Kíp (chưa tính dự phòng rủi ro, nếu tính
thì lỗ khoảng 161 tỷ Kíp). (3); Các NHTM còn chịu sức ép về những khoản cho vay theo
chỉ định của Chính phủ.
- Nợ tồn đọng còn lớn: Tập trung chủ yếu của các NHTM nhà nước. Tuy đã thực
hiện chương trình cơ cấu lại nợ dưới sự giám sát của ADB, song tỷ lệ nợ quá hạn lớn và gia
tăng liên tục từ năm 2000 đến nay (năm 2000 tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ là 38 %,
năm 2001 là 35,7%, năm 2002 là 41,9%, năm 2003 là 48%). Tính đến tháng 12 năm 2003
nợ quá hạn tăng 205% so với mức nợ quá hạn cuối năm 2000. Tình trạng nợ quá hạn gia
tăng trong hệ thống ngân hàng, phản ánh chất lượng tín dụng cho tăng trưởng kinh tế
không có hiệu quả, năng lực của doanh nghiệp cũng như ngân sách quá yếu (66- 77% nợ
có liên quan đến ngân sách). Đây chính là vật cản khiến các NHTM không thể tăng đầu tư
tín dụng (trong năm 2003 các ngân hàng hầu như không thực hiện được cho vay, nợ tín
dụng giảm 10 %). Do vậy, việc đóng góp vào tăng trưởng kinh tế từ nguồn vốn ngân hàng
bị hạn chế. Vấn đề này cần được xử lý sớm trong năm 2004, nhưng đến nay tốc độ xử lý
còn rất chậm.
Tóm lại: Những tồn tại nêu trên, ngoài những nguyên nhân do công tác điều hành
của ngân hàng Lào còn nhiều lúng túng và chưa có kế hoạch dài hạn, còn có những nguyên
nhân khác, thậm chí quan trọng hơn, như những khó khăn rất lớn của nền kinh tế. Nổi bật
là NS thâm hụt lớn, việc phát hành trái phiếu khống trả nợ cho các công trình xây dựng cơ
bản cao; Các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả nhất là các doanh nghiệp của Nhà nước
(tỷ lệ nợ quá hạn vay ngân hàng của các doanh nghiệp nhà nước chiếm trên 50%, thâm hụt
cán cân thương mại lớn làm tăng luồng tiền trong lưu thông gây áp lực lạm phát ngoài tầm
kiểm soát của Ngân hàng Lào [39].
Do CSTT của Lào theo đuổi đa mục tiêu nên đôi khi mục tiêu này lại triệt tiêu
mục tiêu kia, vì vậy, trong giai đoạn vừa qua, một số chỉ tiêu không đạt yêu cầu Chính phủ
đề ra, đặc biệt là mục tiêu lạm phát.
Bảng 2.18: Tình hình thực hiện chỉ tiêu lạm phát năm 1994-6/2005
Đơn vị tính: %
Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Chỉ tiêu % 10 10 7 7-8 10 < 50 < 60 7,4 10,6 15 8 9
6.7 19.6 15.8 19.5 90.1 128. 23.1 7.81 10.6 15.4 10.4 Thực hiện
%
Nguồn: Báo cáo thường niên NHNN Lào các năm từ 1994 - 2004
Tất nhiên có những ý kiến cho rằng, mặc dù không đạt chỉ tiêu đề ra nhưng có
những năm lạm phát lại ở mức hợp lý góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như năm
1996, 1997. ở đây luận văn đang muốn đề cập đến vấn đề dự báo và các biện pháp nhằm
kiểm soát lạm phát của nền kinh tế nói chung và của NHNN nói riêng, thì rõ ràng rằng khả
năng dự báo lạm phát (cả về phương pháp tính và vấn đề thu thập, xử lý thông tin về diễn
biến trên thị trường) còn yếu kém; đồng thời, sự chỉ đạo và điều hành giá cả tiêu dùng của
nền kinh tế còn mang tính thụ động và hiệu quả không cao. Chính điều này đã làm cho lạm
phát thực tế những năm 1998 - 2000 quá xa với chỉ tiêu đề ra và gây nên những ảnh hưởng
không nhỏ tới sự phát triển kinh tế.
Sự đổi mới và nới lỏng tài chính trong những năm gần đây đã làm lu mờ sự khác biệt
giữa các khối lượng tiền và do vậy, tỷ lệ tăng trong từng khối lượng tiền như tỷ lệ tăng của M2
và M3 đôi khi thể hiện những biến động khác nhau. Do đó, hiệu quả của tỷ lệ tăng M2 với vai
trò là một mục tiêu trung gian của CSTT được coi là bị giảm xuống. Hơn nữa, mối quan hệ
chi phối giữa mục tiêu hoạt động tiền cơ sở - với M2 ngày càng thiếu ổn định làm cho việc
sử dụng mục tiêu trung gian là M2 để điều hành CSTT bắt đầu có dấu hiệu kém hiệu quả.
Một vấn đề cần quan tâm nữa là, hiện nay, mức độ Đô la hóa và Baht hóa ở Lào
tương đối cao, đã có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế
cũng như tới việc hoạch định và điều hành CSTT, chính sách tỷ giá. Đồng thời, Đô la hóa
và Baht hóa là làm cho mối quan hệ giữa TPTTT M2 với giá cả và sản lượng đôi khi không
tuân thủ theo những quy luật vốn có, vì vậy, mục tiêu trung gian là M2 đã không phát huy
hết tác dụng.
Về những hạn chế trong việc sử dụng các công cụ của CSTT: có thể nói hạn chế
lớn nhất trong việc thực thi CSTT ở Lào thời gian qua là việc xây dựng và sử dụng các
công cụ của CSTT. Hệ thống các công cụ, đặc biệt là các công cụ gián tiếp, mới được xây
dựng và chưa có đủ điều kiện hoàn thiện, sự phối kết hợp các công cụ chưa thường xuyên
và thiếu hiệu quả. Một số hạn chế khác như việc xác định lượng tiền cung ứng hàng năm
chính xác và chưa kịp thời so với các biến động kinh tế, chính trị, khối lượng cung ứng
được dự đoán thường quá lớn so với nhu cầu thực tế, gây khó khăn trong việc kiểm soát
tốc độ tăng của TPTTT, tạo ra áp lực lạm phát đối với nền kinh tế hay sự phối kết hợp
trong việc sử dụng các chính sách chưa cao. Cụ thể như sau:
Đối với công cụ lãi suất: Gồm có lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cho vay đối với
nền kinh tế. Lãi suất tái cấp vốn chưa có tác dụng mạnh trong việc điều tiết lãi suất cho
vay của các NHTM đối với nền kinh tế, bởi vì NHNN cho vay TCK đối với các NHTM
trên cơ sở các khế ước của NHTM với mức lãi suất tái cấp vốn thấp hơn lãi suất các
NHTM cho vay đối với nền kinh tế. Chính vì vậy, các NHTM thường đem các khế ước
cho vay với lãi suất thấp để xin vay tái cấp vốn. Thêm vào đó, các công cụ nợ để NHNN
thực hiện tín dụng còn ít và NHNN chủ yếu cho vay tái cấp vốn đối với các NHTM nhà
nước nên hiệu quả của công cụ này không cao. Còn đối với lãi suất cho vay đối với nền
kinh tế: NHNN bỏ quy định về biên độ lãi suất cơ bản, nhưng hàng tháng vẫn công bố lãi
suất cơ bản để định hướng lãi suất thị trường; các NHTM ấn định lãi suất cho vay đối với
nền kinh tế theo cơ chế thỏa thuận phù hợp với quan hệ cung - cầu vốn trên thị trường.
Như vậy, về mặt định hướng là chúng ta đã thả nổi lãi suất nhưng vẫn muốn có can thiệp
hành chính vào điều tiết lãi suất bằng cách công bố lãi suất cơ bản. Thực tế việc công bố
lãi suất này dường như không có tác dụng gì và vì thế mức độ can thiệp của NHNN đối với
công cụ lãi suất rất hạn chế. Đồng thời, giữa lãi suất cho vay ngoại tệ và cho vay bằng
đồng Kíp có thời kỳ còn chênh lệch cao làm cho khách hàng muốn vay ngoại tệ hơn vay
Kíp để hưởng chênh lệch lãi suất, từ đó làm ảnh hưởng đến thị trường tín dụng trong nước.
Đối với công cụ DTBB: NHNN chưa sử dụng công cụ này một cách chủ động để
điều chỉnh bơm thêm tiền hay rút bớt tiền ra khỏi lưu thông.
Đối với các công cụ hạn mức tín dụng: Việc phân bổ và quản lý hạn mức tín dụng
còn mang nặng tính chủ quan nên đã dẫn đến tình trạng có NHTM không sử dụng hết hạn
mức cho phép trong khi có NHTM lại thừa.
Đối với VNTTM: Do mới đi vào thực hiện nên hoạt động của thị trường mở vẫn
còn nhiều bất cập về pháp lý lẫn điều hành, về phía những người tham gia vào thị trường
cũng như các công cụ trên thị trường.
Bên cạnh những hạn chế trên, việc sử dụng các chính sách hỗ trợ cũng đem lại
không ít vướng mắc. CSTT đôi khi phải làm hộ công việc của các chính sách khác thông
qua các khoản tín dụng chỉ định hay khoanh nợ, xóa nợ, làm cho quy luật cung ứng tiền bị
sai lệch.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế tồn tại
Thứ nhất, do nền kinh tế Lào đang trong thời kỳ chuyển đổi và mở cửa với xuất
phát điểm là một nền kinh tế yếu kém, lạc hậu, chính vì vậy việc tiếp cận với những nền
kinh tế thị trường nói chung gặp rất nhiều khó khăn. Riêng đối với CSTT mới được xây
dựng và thực thi trong hơn 10 năm qua nên còn nhiều bỡ ngỡ cả về phương diện lý thuyết
lẫn thực tế (xem biểu 2.5).
Thứ hai, kinh tế hàng hóa Lào đang ở trong giai đoạn đầu nên thị trường chưa ổn
định, vì vậy, quy luật thị trường vẫn chưa phát huy hết tác dụng của nó. Quan hệ cung -
cầu trên thị trường còn bị tác động và can thiệp bởi nhiều yếu tố chủ quan, không theo quy
luật thị trường.
Thứ ba, thị trường tài chính, tiền tệ kém phát triển làm cho các công cụ của CSTT
khó có điều kiện phát huy hiệu quả (thị trường vốn nội địa còn nhiều hạn chế về qui mô khối
lượng, chủ thể và hàng hóa).
Thứ tư, NHNN chưa thực sự là cơ quan hoạch định CSTT mà về cơ bản chỉ là cơ
quan thực thi CSTT, thậm chí quá trình điều hành còn bị chi phối bởi các quyết định của
Chính phủ. CSTT phụ thuộc vào quá nhiều vào các chính sách khác, thậm chí làm hộ công
việc khác như chính sách hỗ trợ thông qua lãi suất, tỷ giá, khoanh nợ, xóa nợ của các
NHTM,... Thêm vào đó, còn có khá nhiều các cơ quan, tổ chức tham gia chỉ đạo và giám sát
việc xây dựng, thực thi CSTT.
Thứ năm, sự thiếu hụt về thông tin cũng như khó khăn trong việc thu thập dữ liệu
cũng ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình xây dựng và thực thi CSTT. Độ chính xác của các
kết quả tính toán dự tính đưa ra không cao làm cho NHNN thường xuyên thụ động điều
chỉnh theo nhu cầu thị trường - điều này trái với bản chất CSTT là chủ động tạo ra sự biến
động về số lượng tiền tệ để hướng nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế tới các mục tiêu kinh tế
vĩ mô.
Thứ sáu, sự phối kết hợp giữa các Bộ, Ngành còn những hạn chế trong việc ban
hành các chính sách, văn bản hướng dẫn thi hành luật.
g d p
c u n g øn g t i Òn
l ¹ m ph ¸ t
c h Ø sè g i ¸ c ¶
Thứ bảy, trình độ cán bộ điều hành và thực thi CSTT còn chưa đồng đều.
Biểu 2.5: Tổng kết so sánh tỷ lệ tăng trưởng GDP, lạm phát,
cung ứng tiền và CPI từ 1993-2004
Chương 3
Định hướng và giải pháp trong thực hiện
chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát
ở cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
3.1. Định hướng xây dựng, phát triển và điều hành chính sách tiền tệ ở lào
giai đoạn 2005-2010
3.1.1. Mục tiêu, nhiệm vụ và dự báo các chỉ tiêu phát triển của ngành ngân
hàng đến năm 2010
Kinh tế thế giới những năm qua có nhiều biến đổi không ngừng, các nước châu á
đang phát triển một cách mạnh mẽ và là điểm sáng của nền kinh tế thế giới, nước
CHDCND Lào cũng không nằm ngoài quỹ đạo phát triển đó.
Trong nghị quyết của Đại hội Đảng Nhân dân cách mạng Lào lần thứ VII, trong dự
báo chiến lược phát triển kinh tế- xã hội năm 2005 đến năm 2010 và phương hướng nhiệm
vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2005, phải thực hiện được những con số sau đây:
Tăng trưởng GDP so với năm 2004 tăng lên 6,5- 7%, GDP trên đầu
người cả năm 438 USD, tỷ lệ lạm phát trung bình năm không quá 8%, khối
lượng M2 không quá 17%, thu ngân sách đạt được 3.600 tỷ kíp hoặc bằng
12,8% của GDP tăng lên 23,8% thâm hụt ngân sách không quá 8% của GDP,
đầu tư phát triển kinh tế chiếm 28% của GDP, huy động đầu tư nước ngoài
không thấp hơn 500 triệu USD, xóa đói giảm nghèo cho 52.000 gia đình.Và đến
năm 2010 phải xây dựng cơ sở hạ tầng một cách vững chắc đặc biệt là trong
lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, xây dựng ngành công nghiệp cơ bản và từng bước
hiện đại hóa, dân số tăng lên 6,7 triệu người, GDP tăng trưởng trung bình 7%,
GDP trên đầu người trung bình 700- 750USD/ đầu người [42].
Như vậy, nhiệm vụ đặt ra khá nặng nề. Bên cạnh những khó khăn, CHDCND Lào
cũng có nhiều thuận lợi cũng như cơ hội cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
Lào là một nước có nền chính trị ổn định, là điểm an toàn cho các nhà đầu tư. Sự ổn định
về chính trị và xã hội là nền tảng vững chắc và là nhân tố thuận lợi lớn cho phát triển kinh
tế của đất nước và đó là thế mạnh cần khai thác của Lào hiện nay. Thể chế kinh tế thị
trường đã bước đầu hình thành và đang hoạt động có hiệu quả. Những cơ chế chính sách
đã ban hành đã đi vào cuộc sống đảm bảo an toàn cho việc đầu tư mọi lĩnh vực (cả đầu tư
trong nước và đầu tư nước ngoài).
Tuy nhiên, về lạm phát tại Lào vẫn là một vấn đề đáng quan tâm, bởi chỉ số lạm
phát trong thời gian từ 1994-1998 nằm trong tình trạng cực kỳ nguy hiểm cho dù điều đó
xảy ra là do cuộc khủng hoảng kinh tế chung của các nước châu á, mà đặc biệt là Thái Lan,
nước đối tác lớn nhất tại Lào. Hơn thế nữa, đầu tư nước ngoài tại Lào đã giảm sút. Hệ
thống ngân hàng của Lào phải được củng cố và phát triển theo hướng bền vững, đảm bảo
là cầu nối vững chắc cho các hoạt động kinh tế; phải giữ được ổn định hệ thống tiền tệ,
nâng cao vị thế của đồng kíp trong lĩnh vực thanh toán, chủ động kiểm soát được lạm phát;
tiếp tục củng cố vững chắc hệ thống ngân hàng và từng bước mở rộng thêm các định chế
tài chính khác nhằm đáp ứng đủ vốn cho sản xuất trong nước, phát triển thị trường tiền tệ
và tạo dựng những điều kiện cần thiết cho việc phát triển thị trường tiền tệ - thị trường
vốn.
Trước những vấn đề đã nêu trên, để có thể đứng vững trong vòng xoáy của toàn
cầu hóa, góp phần đảm bảo hội nhập thành công của nền kinh tế, sức cạnh tranh của hệ
thống ngân hàng trên trường quốc tế cũng như góp phần thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế của toàn ngành ngân hàng trong giai đoạn 2001- 2005 và đến năm 2010, mục tiêu
là:
- Đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời sống nhân
dân.
- Kiểm soát lạm phát ở mức một con số, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xóa đói
giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân, ổn định nền kinh tế vĩ mô.
- Chủ động mở cửa thị trường tài chính, tham gia hội nhập quốc tế, tạo ra môi
trường cạnh tranh lành mạnh kết hợp với môi trường quản lý minh bạch rõ ràng.
Theo đó, nhiệm vụ được xác định bao gồm:
- Xây dựng hệ thống các tổ chức tín dụng hoạt động an toàn và có sức cạnh tranh,
đảm bảo điều kiện cho việc huy động và phân bổ vốn có hiệu quả ngồn vốn tín dụng ngân
hàng, thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Hiện đại hóa hệ thống ngân hàng, nâng cao năng lực giám sát và quản lý, nâng
cao kỹ năng nghiệp vụ của toàn hệ thống ngang tầm khu vực
- Nâng cao vai trò của ngân hàng trong việc thúc đẩy triển khai các chủ trương
phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước như phát triển kinh tế theo ngành, theo vùng, theo
lĩnh vực.
Dự báo một số chỉ tiêu phát triển chủ yếu của ngành ngân hàng từ 2001-2005 và
đến 2010:
Dự báo một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô: (1) Tăng trưởng kinh tế bình quân là 7,5%;
(2) Lạm phát bình quân 8-9%; (3) Tăng trưởng xuất khẩu bình quân là 13%; (4) Tăng
trưởng nhập khẩu là 12%; (5) Đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm khoảng 10% GDP.
Đối với chỉ tiêu tiền tệ liên quan đến lĩnh vực ngân hàng có một số chỉ tiêu sau: (1)
Tăng trưởng tín dụng bình quân 21- 22%; (2) Huy động vốn tăng 26-27%; (3) Tăng trưởng
M2 bình quân năm 20- 21%; (4) Dự trữ ngoại hối 5,5% tháng nhập khẩu; (5) Thâm hụt cán
cân vãng lai bình quân 2,6% GDP; (6) Mức độ rủi ro vốn tự có/ Tổng tài sản có trên 9% (đối
với hệ thống NHTM); (7) Chất lượng tín dụng: Tỷ lệ nợ quá hạn dưới 4% (theo tiêu chuẩn
kiểm toán quốc tế); (8) Khả năng sinh lời của hệ thống ngân hàng thương mại bình quân
14- 16%; (9) Đối với lượng tiền cung ứng trên thị trường: Giảm tỷ trọng tiền mặt đưa vào
cung ứng trên thị trường từ 70% xuống còn 50%; (10) Một số NHTM phải có vốn tự có
đầy đủ trong hoạt đông kinh doanh; (11) Nâng cao tỷ trọng cán bộ ngân hàng có trình độ
đại học và trên đại học từ 20% hiện nay lên 45% vào năm 2005 và 65% năm 2010.
3.1.2. Quan điểm điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian tới
- Tiếp tục điều hành CSTT một cách thận trọng nhằm đạt mục tiêu ổn định tiền tệ,
kiểm soát lạm phát ở mức không quá 9% góp phần tăng trưởng kinh tế, tăng cường sự
vững mạnh của hệ thống ngân hàng, tăng dự trữ ngoại tệ, nâng cao năng lực điều hành
CSTT trên cơ sở hoàn thiện hệ thống các công cụ CSTT, đảm bảo sự phối hợp đồng bộ
giữa các công cụ và sự phối hợp chặt chẽ giữa điều hành CSTT với các chính sách kinh tế
vĩ mô khác để NHNN Lào thực sự là người chỉ đạo thị trường tiền tệ và chủ động điều
hành CSTT trước những diễn biến bất thường của thị trường trước mắt và lâu dài.
- Chính sách tín dụng được điều hành trên nguyên tắc hiệu quả, theo hướng tập
trung nguồn vốn trung dài hạn để cho vay đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế
nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ nghèo, doanh
nghiệp vừa và nhỏ, hợp tác xã ở những vùng chuyển dịch cơ cấu và vùng sâu vùng xa tiếp
cận nguồn vốn ngân hàng được dễ dàng.
- Việc thực hiện nhiệm vụ cho vay chuyển dịch cơ cấu kinh tế được đặt trong tổng
thể nhiệm vụ, định hướng trong giai đoạn tới, đặc biệt là gắn với nhiệm vụ ổn định kinh tế
vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng một cách bền vững. Do vậy, cho vay chuyển dịch cơ cấu được
thực hiện theo nguyên tắc gắn liền với mục tiêu kiểm soát lạm phát, đảm bảo tăng trưởng
kinh tế một cách ổn định.
- Nâng cao công nghệ thanh toán, thay đổi cơ cấu mệnh giá của đồng kíp để
thực hiện tốt chức năng trung tâm thanh toán của nền kinh tế, và nâng cấp công nghệ
thông tin trong hệ thống ngân hàng.
- Tăng cường công tác thanh tra giám sát và đổi mới hoạt động thanh tra của
NHNN Lào theo hướng thiết lập các thiết chế an toàn và xây dựng hệ thống thông tin để
thực hiện giám sát từ xa, nghiên cứu xây dựng hệ thống cảnh báo sớm.
- Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý một cách kịp thời, đồng bộ và hợp lý cho
hoạt động của hệ thống ngân hàng cho phù hợp với điều kiện thực tế, trên nguyên tắc an
toàn, hiệu quả, xây dựng các khuôn khổ pháp luật cần thiết để từng bước xây dựng và phát
triển thị trường vốn, thị trường tiền tệ theo hướng đảm bảo thị trường tiền tệ đóng vai trò
tiếp nhận, chuyển tải tác động của các quyết định điều tiết tiền tệ của NHNN Lào đến cung
cầu vốn của nên kinh tế, và tạo dựng các điều kiện cần thiết để phát triển thị trường vốn.
- Đổi mới hoạt động của các NHTM: (1) Đổi mới cơ cấu quản lý, cơ cấu tổ chức,
nâng cao năng lực quản trị điều hành và năng lực tài chính theo nguyên tắc đảm bảo hiệu quả
cao hạn chế rủi ro, thể hiện quyền tự chủ của các NHTM; (2) Cải cách công nghệ thông tin để
hiện đại hóa trong việc hoạt động kinh doanh của ngân hàng một cách tốt nhất và thông qua hệ
thống điều hành này NHNN Lào có thể kiểm soát được toàn bộ luồng vốn ra vào của các
NHTM; (3) Tăng cường công tác kiểm toán nội bộ của các NHTM, nhằm hạn chế rủi ro trong
hoạt động.
- Nâng cao năng lực tài chính và quản lý điều hành các NHTM, đặc biệt là NHTM
quốc doanh xử lý nợ tồn đọng một cách dứt điểm trong năm 2006, đảm bảo trong sạch
bảng cân đối cho các NHTM, nợ quá hạn thấp hơn 5%. Trên cơ sở đó tạo cơ sở vững chắc
từng bước phát triển đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế [36].
3.1.3. Định hướng xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ ở Lào giai đoạn
2000 - 2010
Đối với CSTT NHNN Lào thực hiện CSTT một cách hợp lý và linh hoạt và quản
lý mức cung ứng tiền tính trung bình 22%, tỷ lệ tín dụng tăng lên trung bình 20%. Đảm
bảo vững chắc mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô trên cơ sở xóa bỏ các công cụ quản lý hành
chính, xây dựng và hoàn thiện các công cụ mới của CSTT, đưa toàn bộ hệ thống từng bước
tham gia có hiệu quả vào quá trình hội nhập quốc tế, cụ thể:
- Tạo dựng một khuôn khổ CSTT thích hợp, xác định rõ mục tiêu hoạt động, mục
tiêu trung gian cho điều hành CSTT nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu cuối cùng.
- Nâng cao năng lực điều hành CSTT của NHNN Lào thông qua việc đổi mới điều
hành các công cụ. CSTT theo hướng nâng cao hiệu quả và tính nhạy bén của các công cụ
CSTT, đảm bảo sự phối hợp đồng bộ giữa các công cụ và sự phối hợp chặt chẽ trong điều
hành CSTT với các chính sách kinh tế vĩ mô khác để NHNN Lào thực sự là người chỉ đạo
thị trường tiền tệ.
- Xây dựng thị trường tiền tệ vững mạnh theo hướng đảm bảo thị trường tiền tệ
đóng vai trò tiếp nhận, chuyển tải tác động của các quyết định điều tiết tiền tệ của NHNN
Lào đến cung - cầu vốn của nền kinh tế.
- Xây dựng và hoàn thiện các nghiệp vụ thương mại, phát triển một số trung tâm
giao dịch nghiệp vụ này, coi đây là một trong những công cụ chủ yếu của CSTT giúp NHNN
Lào điều tiết kịp thời và có hiệu quả lượng tiền cung ứng thích hợp với yêu cầu kiểm soát
lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng tự do hóa giao
dịch vãng lai và giao dịch vốn, đồng thời xây dựng hệ thống kiểm soát chu chuyển vốn quốc
tế, đặc biệt là vốn ngắn hạn, kiểm soát nợ nước ngoài. Kiểm soát tiến tới xóa bỏ sử dụng
ngoại tệ trong thanh toán và tiết kiệm trong nội bộ tiến tới trên lãnh thổ CHDCND Lào chỉ
thanh toán bằng đồng Kíp Lào. Đa dạng hóa công cụ tài chính, các hình thức đầu tư,
phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt kết hợp biện pháp quản lý ngoại tệ một cách
hợp lý.
- Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi xuất đồng nội tệ và ngoại tệ theo hướng tự do
hóa có sự điều tiết gián tiếp của Nhà nước thông qua lãi suất định hướng của NHNN Lào
(lãi suất chiết khấu, lãi suất cơ bản).
- Xây dựng và hoàn thiện NVTTM, phát triển một số trung tâm giao dịch nghiệp
vụ này, coi đây là một trong những công cụ chủ yếu của CSTT giúp NHNN Lào điều tiết kịp
thời và có hiệu quả lượng tiền cung cấp phù hợp với yêu cầu kiểm soát lạm phát và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế trong từng thời kỳ.
- Kiểm soát, hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng Đô la hóa và Baht hóa trên cơ
sở nâng cao vị trí đồng kíp, đa dạng hóa các công cụ tài chính, các hình thức đầu tư,
phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt kết hợp với các biện pháp quản lý ngoại tệ
một cách có hiệu quả.
- Hiện đại hóa hệ thống thanh toán bù trừ. Hoàn thiện việc nối mạng giữa các
trung tâm giao dịch lớn ở các vùng với các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính
thuộc ngân hàng và phi ngân hàng trên từng vùng. Hệ thống thanh toán của NHNN Lào
cũng cung cấp dịch vụ thanh toán có hiệu quả cho hoạt động của thị trường tiền tệ, thị
trường tài chính và các giao dịch khác trong hoạt động kinh doanh ngoại hối.
- Đổi mới cơ cấu quản lý, nâng cao năng lực quản trị điều hành và năng lực tài
chính cho các ngân hàng thương mại theo nguyên tắc đảm bảo giảm thiểu rủi ro trong hoạt
động và quyền tự chủ trong kinh doanh của các ngân hàng.
- Tiếp tục nâng cao hơn nữa công nghệ ngân hàng, đặc biệt là công nghệ thanh
toán trong toàn hệ thống, đảm bảo thanh toán nhanh, kịp thời, và thông qua hệ thống thanh
toán này NHNN Lào có thể kiểm soát được toàn bộ luồng vốn ra vào hệ thống [37].
3.2. Những giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong việc thực thi chính sách
tiền tệ ở cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
3.2.1. Nâng cao tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước Lào
* Sự độc lập của NHTW CIB (Central Bank Independent) thể hiện:
1. Sự độc lập về mặt pháp lý cần được thiết lập rõ ràng và đồng bộ.
2. Sự độc lập mục tiêu có nghĩa là ủy ban CSTT của NHTW có thể độc lập và
quyết định mục tiêu lạm phát hay không sau khi đã tham vấn Chính phủ, vì nó mang tính
quyết định việc thực thi CSTT.
3. Trong thực tế, sự độc lập của NHTW trong việc điều hành CSTT với Chính
phủ, các sức ép chính trị và xã hội cũng cần được tăng cường. Trong nội dung này sự can
thiệp của Chính phủ vào CSTT cần được loại bỏ hoàn toàn. Thêm vào đó, cam kết ổn định
giá cả dưới góc độ chính trị cũng là quan trọng.
* Sự độc lập của NHTW trong việc thực thi CSTT nói chung và đặc biệt trong trường
hợp lựa chọn giải pháp sử dụng chính sách mục tiêu lạm phát là tối quan trọng, bởi vì sự phụ
thuộc về chính trị và kinh tế đã hạn chế các NHTW không thể lựa chọn mục tiêu, chính
sách mà không bị ảnh hưởng của Chính phủ. Điều này làm cho các đơn vị kinh tế không
tin tưởng vào CSTT của NHTW. Chính vì vậy, trong những năm gần đây rất nhiều quốc
gia đưa ra các kiến nghị về mặt pháp lý nhằm làm cho NHTW độc lập hơn.
ở CHDCND Lào, Luật Ngân hàng đến nay đã có Luật Ngân hàng số 04 ngày
10/07/1990 và được sửa đổi thông qua Quốc hội và có hiệu lực 14/10/ 1999. Quy định trong
Điều 3, NHNN Lào, là cơ quan của Chính phủ làm tham mưu cho Chính phủ trong việc
quản lý vĩ mô CSTT trong cả nước...; ... bảo vệ giá trị đồng Kíp Lào trong nước và quốc
tế... [40, tr. 3]. Và một số điều chưa quy định chi tiết, đến nay Luật các tổ chức tín dụng
chưa xây dựng được. Nhưng đến ngày 22/3/2000 Chủ tịch nước CHDCND Lào đã ký ban
hành Nghị định số 02/ CHDCNDL về hoạt động của ngân hàng thương mại.
Như vậy, sự độc lập của NHNN chưa đủ để có thể chủ động điều hành CSTT quốc
gia. Để nâng cao tính độc lập của NHNN Lào, luận văn đề nghị một số ý kiến sau đây:
1. Nâng cao tính độc lập tương đối của NHNN trong việc thực thi CSTT tức tăng
cường chức năng NHTW của NHNN để NHNN thực hiện các công cụ của CSTT một cách
linh hoạt, tự chủ hơn. Điều này không có nghĩa là NHNN hoàn toàn độc lập với Chính phủ
nhưng NHNN phải được trao thêm nhiều quyền hạn và trách nhiệm trong việc xây dựng và
thực thi CSTT để từ đó đạt được mục tiêu nói chung và mục tiêu lạm phát nói riêng mà
Chính phủ cho rằng hợp lý.
2. Tách bạch các chức năng không thuộc về NHNN là rất ít như đã nêu trên. Điều
này hàm ý rằng việc vay mượn của Chính phủ từ NHNN là rất ít hoặc không có, đồng thời
việc Chính phủ can thiệp, chỉ định những khoản tín dụng cũng phải rất hạn chế hoặc không
có.
3. Nhiệm kỳ của Thống đốc NHNN ít nhất là 5 năm nếu không cần thiết phải
chuyển công tác.
3.2.2. Tăng cường khả năng dự báo lạm phát
Chính sách mục tiêu lạm phát là một khung đón đầu nhìn xa của CSTT dựa trên
dự báo lạm phát trung hạn. Đồng thời, đây là một hệ thống trong đó CSTT được điều hành
thường sử dụng lãi suất ngăn hạn là mục tiêu điều hành mà không có mục tiêu trung gian
nhằm hội tụ lạm phát được dự báo trong tương lai vào gần mục tiêu lạm phát đã được lựa
chọn cho giai đoạn trung hạn. Do vậy, dự báo lạm phát chính xác có vai trò thiết yếu cho
một hệ thống lạm phát.
Nhưng, sự bất ổn định ngày càng tăng của môi trường kinh tế và tài chính làm cho
việc dự báo lạm phát trong tương lai trở nên khó khăn hơn. Hầu hết các NHTW đều sử
dụng nhiều mô hình trong đó bao gồm các mô hình cấu trúc, chuỗi thời gian, sưu tập các
chỉ số sức ép lạm phát nhằm tăng cường khả năng dự báo lạm phát.
- Trong thực tế ở CHDCND Lào, vấn đề dự báo lạm phát tương đối khó khăn. Cho
đến nay, việc tính chỉ số lạm phát CPI cũng còn đang có nhiều vấn đề cần xem xét lại. Trong
đó chủ yếu là nâng cao công tác phân tích dự báo đó là:
1. Hoàn thiện hệ thống thống kê của ngành ngân hàng: Xây dựng chế độ báo cáo
thống kê theo hướng yêu cầu các NHTM báo cáo chỉ tiêu, nâng cấp và hoàn thiện công
nghệ thông tin về thống kê.
2. Cần chú trọng đến việc trang bị đầy đủ các trang thiết bị cho việc phân tích định
lượng.
3. Cần bố trí cán bộ chuyên trách cho công việc phân tích và dự báo trên cơ sở
phân tích định tính và định lượng.
4. Có kế hoạch đào tạo cán bộ toàn diện nắm vững kiến thức về kinh tế vĩ mô hiện
đại, phân tích và lập chương trình tài chính, tiếp cận với phân tích dự báo theo mô hình
kinh tế lượng.
5. Xây dựng cơ chế phối hợp với các Bộ, ngành trong điều hành CSTT nhằm hạn
chế những tác động ngược chiều của các chính sách kinh tế vi mô, qua đó nâng cao hiệu
quả điều hành CSTT và quản lý ngoại hối cũng như khuyến khích sử dụng tiền Kíp.
6. Xây dựng một hệ thống cảnh báo về những biến động bất thường về lãi suất, tỷ
giá và tăng trưởng tín dụng của NHNN đối với các TCTD.
Đây là giải pháp rất cần thiết trong quá trình nâng cao năng lực điều hành chính
sách tiền tệ. Đặc biệt trong giai đoạn thị trường tiền tệ chưa phát triển, năng lực tài chính
của các NHTM còn yếu và các công cụ điều hành gián tiếp NHNN còn hạn chế, thì việc
hình thành một hệ thống cảnh báo của NHNN Lào là rất cần thiết để đảm bảo hiệu quả
điều hành CSTT.
7. Phát triển thị trường tiền tệ và thị trường trái phiếu Chính phủ
- Trong năm 2006, NHNN Lào cần nghiên cứu ban hành cơ chế hoạt động cho các
tổ chức tín dụng phi ngân hàng, xây dựng các qui định cho việc áp dụng các công cụ phát
sinh, như nghiệp vụ Swap, Forward, quyền lựa chọn, để tạo điều kiện đa dạng hóa các hoạt
động của thị trường.
- NHNN Lào cần chủ động tuyên truyền và hướng dẫn các chủ thể thị trường hiểu
và áp dụng các công cụ phát sinh của thị trường tiền tệ.
- Xây dựng thị trường thứ cấp của thị trường tiền tệ nhằm đảm bảo tính thanh
khoản của các công cụ và khả năng thanh toán của các NHTM.
- Nâng cao năng lực quản lý vốn khả dụng của các NHTM, các NHTM cần hình
thành bộ phận quản lý vốn khả dụng của mình nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn.
- Thị trường trái phiếu Chính phủ hiện nay đang ở mức rất sơ khai. Do vậy cần
phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ, qua đó hình thành được đường lãi suất chỉ đạo
hiệu quả. Để phát triển thị trường này, trước hết cần:
+ Chấm dứt việc phát hành trái phiếu Chính phủ để nhận nợ cho các NHTM.
+ Việc phát hành cần thực hiện bằng kênh đấu thầu qua NHNN Lào. Đối tượng
mua chỉ là các định chế tài chính.
+ Ngân sách cần có kế hoạch về khối lượng phát hành hàng năm, có chia theo quí
và thông báo với các NHTM chủ động cân đối nguồn vốn, đầu tư trái phiếu chính phủ một
cách tự nguyện.
8. Giải pháp kiểm soát mở rộng tín dụng phục vụ nhu cầu tăng trưởng:
Kiểm soát mức độ tăng trưởng tín dụng theo mục tiêu đã định có tầm quan trọng
đặc biệt, không chỉ phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế, mà còn kiểm soát được lạm phát
và giữ được sự phát triển an toàn của các NHTM. Để thực hiện được mục tiêu này, NHNN
Lào cần:
- Bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện các công cụ CSTT, xử lý nợ tồn đọng, nâng
cao năng lực tài chính của các NHTM, năng lực tài chính của các doanh nghiệp. NHNN
Lào cần đánh giá, rà soát lại cơ chế tín dụng hiện tại, trên nguyên tắc nâng cao quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về việc cho vay của các NHTM. Việc giám sát chất lượng cho
vay cần yêu cầu các NHTM thực hiện theo các quy định về thiết chế an toàn. Không nên
qui định cứng nhắc các khoản vay đều phải có thế chấp. Việc thế chấp hay không thế chấp
do các NHTM tự xem xét quyết định.
- Đề nghị Bộ Tài chính khẩn trương thực hiện các cam kết với ADB, để hệ thống
ngân hàng có thể xem xét nới lỏng điều kiện cho vay một cách chủ động, đảm bảo thực
hiện đúng tốc độ tăng trưởng tín dụng dự kiến.
9. Nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra giám sát.
- NHNN Lào tiếp tục hoàn thiện các quy định về thanh tra giám sát theo nguyên
tắc. Nâng cấp hệ thống giám sát từ xa một cách hợp lý, tiếp tục đào tạo nâng cao năng lực
cán bộ thanh tra có chuyên môn nghiệp vụ ngân hàng và được đào tạo cơ bản nghiệp vụ
thanh tra.
- Về xử lý nợ tồn đọng: Với mục tiêu xử lý dứt điểm nợ tồn đọng trong năm 2006,
NHNN Lào phối hợp với Bộ Tài chính đề tạo cơ sở cho các NHTM có năng lực hoạt động
kinh doanh của mình trong nền kinh tế cạnh tranh và hội nhập.
(1) Đẩy nhanh tiến độ thực hiện đề án xử lý nợ tồn đọng hiện nay. Bên cạnh
NHNN Lào cần nghiên cứu hình thành công ty mua bán nợ phù hợp với luật pháp của Lào,
đồng thời nghiên cứu xem xét tìm kiếm thêm các nguồn vốn khác của NHNN Lào không
vượt quá mức cung ứng tiền hàng năm để xóa các khoản nợ không có khả năng thu hồi.
Mô hình tổ chức của công ty mua bán nợ có thể trực thuộc Chính phủ, có quyền
lực lớn, để thực hiện mua bán lại nợ đọng hiện nay của các NHTM, nhằm làm trong sạch
cán cân đối với tài sản của các NHTM. Nguồn vốn của công ty này có thể là từ nguồn phát
hành trái phiếu dài hạn của Chính phủ, của công ty, nguồn tài trợ của nước ngoài và một
phần đóng góp của các NHTM, hoặc từng NHTM có nợ tồn đọng hình thành các công ty
mua bán nợ riêng để tập trung xử lý nợ tồn đọng của mình;
(2) Việc xử lý nợ tồn đọng của các NHTM cần có sự phối hợp đồng bộ với việc cơ cấu
lại nợ và củng cố năng lực tài chính của các doanh nghiệp nhà nước.
- Về nâng cao năng lực tài chính và hoạt động:
+ Để các NHTM nhà nước tạo được sức bật trong hoạt động vấn đề cần được xử lý
trong 2 năm 2006, 2007 là cấp hơn 700 tỷ kíp vốn điều lệ cho các NHTM nhà nước xử lý
nợ tồn đọng. Vì vậy, NHNN Lào cần phối hợp với Bộ Tài chính để xử lý việc cấp vốn điều
lệ và xử lý nợ tồn đọng của ngân sách nhà nước với các doanh nghiệp, qua đó giảm nợ tồn
đọng của các NHTM theo đúng với các cam kết với ADB. Hiện nay, do ngân sách khó
khăn, việc thực hiện cam kết với ADB không thực hiện được đúng tiến độ. Vì vậy NHNN
Lào cần nghiên cứu xây dựng phương án nâng cao vốn điều lệ cho các NHTM nhà nước từ
nhiều nguồn khác nhau, có thể tính đến khả năng thu hút nguồn vốn của tư nhân, của nước
ngoài để nâng cao vốn điều lệ cho các NHTM. Việc xây dựng phương án này nên tham
khảo thêm kinh nghiệm của Việt Nam và một số nước trong khu vực và thế giới.
+ Nâng cao hơn nữa chất lượng tài sản có bằng cách: Ngoài việc xử lý nhanh nợ
tồn đọng tiếp tục nâng cao năng lực thẩm định cho vay của cán bộ tín dụng, của ban thẩm
định cho vay, chấm dứt việc cho vay theo chỉ định của cấp trên.
+ Các NHTM cần xem xét hình thành bộ phận quản lý nguồn vốn (bộ phận này có
trách nhiệm cân đối nguồn vốn của NH đảm bảo khả năng thanh khoản và không để nguồn
vốn dư thừa. Đồng thời tính toán và quyết định mức lãi suất cơ bản của NH).
+ Ngân hàng Nhà nước Lào cần ban hành thiết chế an toàn và phòng chống rủi ro
buộc các NHTM phải thực hiện theo đúng các qui định đó.
+ Mở rộng và đẩy nhanh tiến độ thực hiện đề án đổi mới công nghệ thanh toán của
ngân hàng từ nguồn tài trợ của các nước.
- Về mở rộng mạng lưới hoạt động:
+ Để thúc đẩy hoạt động sản xuất ở vùng sâu,vùng xa, hỗ trợ người nghèo có vốn
sản xuất, NHNN Lào cần bắt tay xây dựng cơ chế tổ chức và hoạt động của ngân hàng
chính sách, tạo dựng những điều kiện cần thiết để đến năm 2006 có thể thành lập và đi vào
hoạt động của ngân hàng.
+ Trong thời gian chưa thành lập được ngân hàng này, cần đánh giá xem xét lại
các quy định về hoạt động của các quĩ tín dụng nhân dân hiện nay, để tiếp tục hoàn chỉnh
mô hình hoạt động này cho phù hợp với đặc điểm phân bố dân cư của Lào.
+ NHNN Lào cần nghiên cứu xem xét khả năng cho phép các chi nhánh ngân hàng
nước ngoài mở rộng thêm chi nhánh ở những tỉnh, huyện, bản đang có tiềm năng phát
triển.
3.2.3. Kiểm soát các công cụ và chính sách tiền tệ để đạt được mục tiêu điều
hành
+ Công cụ lãi suất
Tỷ lệ lãi suất ngắn hạn thường được sử dụng là mục tiêu điều hành trong chính
sách mục tiêu lạm phát. Một tỷ lệ lãi suất ngắn hạn để được chọn là mục tiêu điều hành
phải thỏa mãn các điều kiện sau: (1) phải tồn tại một cơ chế mà lãi suất ngắn hạn có thể
đơn phương quyết định lãi suất dài hạn mà không có cơ chế ngược lại. (2) Cần thiết phải
có sự kiểm soát nhờ đó NHTW có thể sử dụng các công cụ chính sách thích hợp để điều
chỉnh lãi suất ngắn hạn. (3) NHTW có thể thông báo một cách có hiệu quả dự định của
mình tới dân chúng dưới góc độ là sự thay đổi trong mục tiêu điều hành sẽ tác động tới lãi
suất ngắn hạn và sau đó tới lãi suất dài hạn thông qua sự thay đổi trong dự đoán lạm phát
[52].
Xét trong điều kiện Lào hiện nay (căn cứ trên những phân tích về hạn chế trong
việc điều hành công cụ lãi suất thời gian qua), luận văn đề nghị lựa chọn lãi suất ngắn hạn liên
ngân hàng làm mục tiêu điều hành. Tuy nhiên, để lãi suất ngắn hạn liên ngân hàng của Lào
thỏa mãn các điều kiện cần phải thúc đẩy sự phát triển của thị trường liên ngân hàng. Luận
văn đề nghị các giải pháp như sau:
- Tạo ra môi trường pháp lý cần thiết cho thị trường: rà soát và sửa đổi những văn
bản cũ, ban hành thêm những văn bản cần thiết mới.
- Tăng cường sự quản lý, giám sát của NHNN đối với TCTD về quản lý vốn khả
dụng NHNN có thể can thiệp kịp thời khi cần thiết.
- Mở rộng các thành viên tham gia thị trường theo hướng nới lỏng các tiêu chuẩn
được tham gia trên thị trường, đồng thời, thành lập các tổ chức môi giới tiền tệ và các nhà
kinh doanh tiền tệ chuyên nghiệp nhưng cũng phải chú ý đến trách nhiệm của các tổ chức
này trong việc tạo điều kiện thực hiện CSTT có hiệu quả.
- Mở rộng các loại hàng hóa trên thị trường như cho phép mua bán các giấy tờ có
giá dài hạn, hoàn thiện các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành Pháp lệnh thương phiếu để
đưa thương phiếu vào hoạt động, kết hợp với kho bạc nhà nước trong việc phát hành trái
phiếu, tín phiếu kho bạc.
- Kết hợp thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng một thị trường liên ngân
hàng thống nhất.
- áp dụng công nghệ thanh toán điện tử trong việc thanh toán trên thị trường liên
ngân hàng.
Cơ chế truyền dẫn của CSTT nói đến hàng loạt các quá trình thông qua đó, CSTT
ảnh hưởng đến giá cả, số lượng của các công cụ tài chính và các hoạt động kinh tế thực sự
như lạm phát và tăng trưởng. Các kênh truyền dẫn tiền tệ có thể phân loại thành kênh giá
cả và kênh số lượng: kênh giá cả sau đó có thể chia thành các kênh nhỏ: kênh lãi suất,
kênh tỷ giá và kênh giá tài sản; kênh số lượng được chia thành kênh tiền tệ và kênh tín
dụng. Trong hệ thống mục tiêu lạm phát, kênh lãi suất đóng vai trò quan trọng do lãi suất
Tiêu dùng, Đầu tư
LS dài hạn thực
LS dài hạn danh nghĩa
i
G á c ả
T ổ n g c ầ u
Xuất khẩu nhập khẩu
Tỷ giá thực
Tỷ giá danh nghĩa
ệ t n ề i t h c á s h n í h C
a ĩ h g n h n a d n ạ h n ắ g n S L
ngắn hạn được dùng làm mục tiêu điều hành để đạt được mục tiêu lạm phát.
Sơ đồ 3.1: Kênh truyền dẫn của lãi suất lên giá [52]
Để nâng cao hiệu quả của kênh lãi suất đối với nền kinh tế, luận văn đề nghị:
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM Lào vì hoạt động của hệ
thống NHTM đóng vai trò quyết định đến hiệu quả tác động của CSTT: các NHTM cạnh
tranh với nhau trên thị trường tín dụng và tiền gửi thông qua chính sách lãi suất của từng
ngân hàng. Hiển nhiên nếu lãi suất huy động của ngân hàng A cao hơn ngân hàng B thì ngân
hàng A sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến gửi tiền hơn và nếu lãi suất cho vay thấp hơn thì
sẽ cho vay được nhiều hơn. Do đó ảnh hưởng tới mức lãi suất chung trên thị trường liên
ngân hàng.
- Về cơ chế điều hành lãi suất: như đã đề cập ở chương 2, từ 1/6/2002, NHNN
thực hiện chuyển cơ cấu lãi suất cơ bản sang cơ chế lãi suất thỏa thuận. Lãi suất thỏa thuận
nghĩa là lãi suất được xác định trên cơ sở sự nhất trí cho vay và người đi vay trong thỏa
thuận về một hợp đồng vay mượn. Nếu mức lãi suất này không bị khống chế bởi biên độ
quản lý thì mức lãi suất thỏa thuận trong các quan hệ vay mượn song phương cũng không
nằm ngoài mức lãi suất thị trường hình thành trên quan hệ cung cầu. Quá trình tự do hóa lãi
suất ở các nước cho thấy tùy thuộc tình hình phát triển kinh tế, mức độ phát triển của thị
trường tiền tệ ở mỗi nước mà chính sách những bước khác nhau trong quá trình tự do hóa lãi
suất. Tuy nhiên, ở bất kỳ nước nào, quá trình tự do hóa lãi suất chỉ được xem là thành công
nếu sau khi tự do hóa lãi suất hệ thống tiền tệ vẫn được ổn định, lãi suất trên thị trường tiền tệ
không có những dao động lớn do sự cạnh tranh quá mức của các trung gian tài chính dẫn đến
sự sụp đổ của hệ thống tiền tệ, làm ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế - xã hội, đến lợi ích
của các nhà đầu tư, của người gửi tiền và các trung gian tài chính. Chính vì vậy, quá trình
tự do hóa lãi suất của Lào cần phải có những bước đi thận trọng phù hợp với điều kiện của
mình, đồng thời phải có sự phối hợp nhịp nhàng với các công cụ khác.
Hơn nữa, trong điều kiện đồng Kíp Lào còn yếu thì cần thiết phải điều hành lãi
suất Kíp Lào cao hơn so với lãi suất quốc tế, đặc biệt phải cao hơn mức lãi suất USD, Bath
Thái Lan nhằm hạn chế tình trạng Đô la hóa và Bath hóa. Đồng thời, phải có cơ chế điều
chỉnh tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt và ổn định tương đối nhằm ngăn chặn tình trạng
đầu cơ, tích trữ ngoại tệ và giảm thiểu rủi ro hối đoái cho các doanh nghiệp.
- Thị trường tiền tệ và thị trường tài chính phát triển không có sự can thiệp của Chính
phủ vào thị trường và không có sự sai lệch trong cơ cấu lãi suất là các điều kiện quan trọng để
nâng cao hiệu quả của cơ chế truyền dẫn của CSTT. Chính vì vậy, cần phải có những biện
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của hai loại thị trường này. Quá trình mở cửa thị trường tài
chính, tiền tệ Lào phải được tiến hành dần dần theo từng bước một cách thận trọng và nhất
thiết không được để kíp Lào mất giá quá lớn bởi sự chênh lệch về tỷ giá hối đoái hoặc lãi suất
trong điều kiện mở cửa thị trường tiền tệ là nguyên nhân căn bản và tạo cơ hội cho đầu cơ tiền
tệ, gây nên tình trạng kinh tế "bong bóng", cuối cùng tất yếu sẽ dẫn đến khủng hoảng tiền tệ và
khủng hoảng kinh tế đất nước. Do vậy, thị trường tài chính và thị trường tiền tệ Lào trong giai
đoạn 2000 - 2010 cần phải được thúc đẩy phát triển theo hướng sớm trở thành các thị trường
có đầy đủ vốn, đầy đủ hàng hóa được quản lý tốt và được điều tiết chặt chẽ - được chuẩn bị
tương đối kỹ càng để từng bước mở cửa hội nhập tài chính - tiền tệ khu vực và toàn cầu.
Việc thiết lập mối quan hệ giữa CSTT và mục tiêu điều hành chỉ là vấn đề liệu
NHTW có kiểm soát mục tiêu điều hành hay không? Việc phát triển một thị trường tiền tệ
ngắn hạn và các công cụ của CSTT gián tiếp rất quan trọng để tăng cường khả năng kiểm
soát của NHTW đối với mục tiêu điều hành.
+ Công cụ nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM)
Trong thời gian tới, NVTTM sẽ được thực hiện theo hướng trở thành công cụ chủ
yếu trong điều hành CSTT do khả năng tác động linh hoạt, chủ động và thường xuyên của nó.
Đây là một kỹ thuật điều chỉnh lãi suất được ưa chuộng.
Để nghiệp vụ TTM phát triển theo ý đồ can thiệp của mình, NHNN cần:
- Thường xuyên rà soát các cơ chế, quy chế làm cơ sở pháp lý cũng như các quy định
pháp luật liên quan đến hoạt động thị trường mới. NVTTM và điều chỉnh theo hướng tạo điều
kiện thuận lợi thu hút các thành viên tham gia thị trường. ở đây cần chú trọng đảm bảo sự
thông suốt về kỹ thuật giao dịch thông qua việc cải tiến, hoàn thiện chương trình phần mềm
giao dịch của Cục Công nghệ tin học ngân hàng. Về phía các NHTM cần đảm bảo đầu tư cơ
sở vật chất kỹ thuật ban đầu với các phương tiện nối mạng máy tính với trung tâm giao dịch
của thị trường đi đôi với nâng cao năng lực kinh doanh và hiểu biết nghiệp vụ.
- Mở rộng các loại hàng hóa cho thị trường. Những loại hàng hóa mới có thể bổ
sung thêm là các chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, hối phiếu ngân hàng, các hợp đồng bán
- mua lại hay các trái phiếu Chính phủ vẫn còn thời hạn không quá mức quy định... sau khi
NHNN Lào đã đưa ra được các chuẩn mực đảm bảo chi trả và chuyển giao kịp thời các
loại giấy tờ có giá đó, tạo điều kiện để thị trường hoạt động có hiệu quả.
- Tăng số lượng các phiên giao dịch.
- Đa dạng hóa các phương thức giao dịch.
Tuy nhiên, những điều nêu trên vẫn chưa đủ, mà cần phải có sự phối kết hợp uyển
chuyển nhịp nhàng với các công cụ khác như công cụ tái cấp vốn hay dự trữ bắt buộc.
+ Công cụ tái cấp vốn
Việc tái cấp vốn của NHNN cho các NHTM phải được lựa chọn, tính toán cẩn
thận giữa hai công cụ NVTTM và tái cấp vốn, bởi vì nếu cả hai công cụ cùng được áp
dụng, chúng rất dễ triệt tiêu nhau. Việc các NHTM lựa chọn công cụ nào ở đây phụ thuộc
vào lãi suất chiết khấu và lãi suất trên thị trường mở. Nghiên cứu thực trạng thực thi CSTT
ở các nước theo đuổi chính sách mục tiêu lạm phát cho thấy hầu hết các nước này đều coi
trọng việc sử dụng NVTTM hơn. Xét về mặt lý thuyết, việc chọn lựa NVTTM cũng hợp lý
hơn vì đối với nghiệp vụ này, những thành viên tham gia thị trường không biết trước được
mức lãi suất sẽ là bao nhiêu, nên việc đặt giá thầu rất thận trọng và như vậy, nó phản ánh
sát thực hơn quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường. Hơn nữa, trên thị trường mở, NHNN
chủ động hơn trong việc thực hiện ý đồ can thiệp của mình do họ chính là người đặt ra yêu
cầu mua bán trên thị trường.
Chính vì vậy, luận văn đề nghị NHNN phải có những biện pháp để hạn chế việc
lui tới cửa sổ chiết khấu của các NHTM, đặc biệt phải chấm dứt tình trạng cho vay chỉ
định qua kênh tái cấp vốn vì đây là khoản vốn không xuất phát từ cầu vốn khả dụng của
các NHTM.
+ Công cụ dự trữ bắt buộc
Hiện tại và trong những năm tới công cụ dự trữ bắt buộc ở Lào vẫn có tác động tới
nhu cầu vốn khả dụng của các NHTM và đồng thời cũng tác động đến hiệu quả của CSTT.
Vì vậy, cần phải có những biện pháp nâng cao hiệu quả điều tiết của công cụ này. Luận
văn đề nghị:
- Điều chỉnh cách tính dự trữ bắt buộc theo số dư tiền gửi của các TCTD tại Sở
Giao dịch NHNN và các chi nhánh NHNN.
- Cần phải có tiền gửi dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi trên 12 tháng. Việc tăng
diện tiền gửi phải chịu bắt buộc để NHNN Lào có thể kiểm soát chặt hơn lượng tiền dự trữ
tại các NHTM.
- Cần chú ý khi phối hợp sử dụng công cụ khác, đặc biệt khi cần có sự tác động
kép cả về giá cả và về lượng việc kết hợp giữa NVTTM với DTBB có hiệu quả rất nhanh
chóng.
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc phải được điều chỉnh linh hoạt phù hợp với diễn biến thị
trường.
3.2.4. Tăng cường sự rõ ràng, tính nhất quán và tin cậy của chính sách tiền tệ
Tính rõ ràng và nhất quán có vai trò thiết yếu để đảm bảo tính tin cậy của CSTT.
Chúng giúp cho dân chúng có thể hiểu được các quyết định của những người làm chính
sách. Do vậy, tạo động lực cho các nhà chính sách đạt tới mục tiêu lạm phát và tăng độ tin
tưởng của dân chúng vào việc đạt được mục tiêu lạm phát.
Như vậy, để nâng cao tính rõ ràng, nhất quán của CSTT, luận văn kiến nghị như
sau:
- Thứ nhất, NHNN phát hành một bản báo cáo về tình trạng lạm phát hoặc báo cáo
CSTT trong đó có bao gồm dự báo lạm phát và tăng trưởng kinh tế cho các năm sau đó
trình báo cáo này lên Quốc hội.
- Thứ hai, Quốc hội có thể chất vấn Thống đốc NHNN hoặc các thành viên của
Hội đồng tư vấn CSTT quốc gia.
- Thứ ba, nếu tỷ lệ lạm phát lệch khỏi mục tiêu, Thống đốc ngân hàng phải báo
cáo lên Quốc hội hoặc Chính phủ giải thích nguyên nhân và dự định phương hướng điều
chỉnh của Hội đồng tư vấn CSTT quốc gia.
Mất lòng tin vào CSTT sẽ làm tăng dự đoán lạm phát. Tăng dự đoán lạm phát đến
lượt nó sẽ làm tăng chi phí đưa lạm phát trở về mức kiểm soát được; do vậy, sự đáng tin cậy
cũng rất quan trọng đối với CSTT. Tuy nhiên, nếu CSTT chỉ tập trung chủ yếu vào mục tiêu
duy nhất là ổn định giá cả để tăng cường tính tin cậy của chính sách thì có thể xảy ra những
biến đổi trong ngắn hạn của đầu ra một cách không cần thiết do có một sự đánh đổi ngắn hạn
giữa lạm phát và tăng trưởng mặc dù không có sự đánh đổi ngược chiều dài hạn giữa hai yếu
tố này. Có thể có một sự đánh đổi nào đó giữa tính tin cậy và sự năng động. Khi thực hiện một
CSTT tự do, vấn đề không nhất quán sẽ nảy sinh. Trong trường hợp này, tăng cung tiền tệ sẽ
mang lại tỷ lệ lạm phát cao mà không tăng việc làm cũng như sản lượng. Do vậy, chúng ta cần
một cách thức thực hiện CSTT khoa học hơn để phản ánh mức đổi tối ưu giữa tính tin cậy và
sự năng động. Quy trình như vậy chính là nguyên tắc tự do của CSTT. Các nhà làm chính sách
thường cam kết với dân chúng và điều hành CSTT tuân theo các quy tắc CSTT; do vậy, thị
trường tài chính có thể tạo ra những dự đoán rõ ràng về các hành động chính sách trong tương
lai.
Mục tiêu lạm phát đôi khi cũng bị chỉ trích do chỉ quan tâm đến mục tiêu lạm phát
mà bỏ qua sản lượng. Tuy nhiên, sự chỉ trích này đặt không đúng chỗ. Xét về khía cạnh lý
thuyết, thậm chí nếu áp dụng mục tiêu lạm phát chặt chẽ, nghiên cứu sản lượng vẫn rất
quan trọng bởi vì sản lượng đóng vai trò xác định lạm phát trong tương lai. NHTW sẽ vẫn
phải quan tâm đến chỉ tiêu sản lượng trong chức năng phản ứng của mình.
Một vấn đề khác liên quan đến độ tin cậy của CSTT là dân chúng hiểu tỷ lệ lạm
phát cơ sở đến mức độ nào. Cần có những cố gắng để phổ cập khái niệm này và mục đích của
mục tiêu lạm phát và tỷ lệ lạm phát cơ sở cũng như cố gắng tính ra tỷ lệ lạm phát cơ sở chính
xác hơn để có tính được lạm phát cơ sở tốt hơn.
3.2.5. Các bước thực hiện chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát
Các bước thực hiện chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát ở Lào.
Thứ nhất: Xác định được cơ quan và thực hiện mục tiêu: Trong luận văn này kiến
nghị việc theo đuổi mục tiêu ổn định giá cả là mục tiêu duy nhất của CSTT và để thực hiện
mục tiêu này, NHNN Lào sử dụng chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát được quy định
trong Luật Ngân hàng và Chính phủ cũng phải quy định rõ ràng cơ quan thực hiện mục
tiêu là NHNN Lào
Thứ hai: Trong quá trình điều hành CSTT, NHNN lựa chọn công cụ trực tiếp của
CSTT là lãi suất ngắn hạn làm mục tiêu điều hành kết hợp với các công cụ khác để hướng
tới mục tiêu đề ra.
Thứ ba: Trên cơ sở NHNN là cơ quan xây dựng và thực thi CSTT, NHNN phải
tính toán để đưa ra khung thời gian của mục tiêu, khung lạm phát mục tiêu. Như chúng ta
đã biết lạm phát và tăng trưởng có mối quan hệ mật thiết với nhau và đối với mỗi quốc gia
một tỷ lệ lạm phát thích hợp nào đó sẽ có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế ở Lào,
theo các nhà nghiên cứu thì tỷ lệ lạm phát thích hợp đủ để kích thích tăng trưởng là 8-9%;
chính vì vậy, luận văn đề nghị xác định khung lạm phát mục tiêu là 8-10% và thời gian để
đạt được mục tiêu là 2 năm.
Thứ tư: Định kỳ 3 tháng, NHNN Lào họp đánh giá tổng kết tình hình thực thi
chính sách để đưa ra định hướng điều hành cho giai đoạn tiếp theo.
3.3. Một số kiến nghị
Trước hết chúng ta cần xác định rằng để có thể đạt được mục tiêu đề ra không chỉ
sử dụng các biện pháp công cụ từ phía NHNN cụ thể là các công cụ của CSTT, mà cần
phải có hàng loạt những biện pháp tổng thể phối hợp trong việc hoạch định và thực thi
chính sách tài chính- tiền tệ quốc gia. Việc hoạch định và thực thi này lại phải đảm bảo
nằm trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế xã hội và đồng thời phải tạo điều kiện
thuận lợi cho phát triển kinh tế và hướng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô đã
xác định ở từng năm và cho cả giai đoạn phát triển. Chính vì vậy, luận văn đưa ra một số
kiến nghị trong việc phối hợp thực thi chính sách này như sau:
1. Đối với Chính phủ
- Tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, tạo điều kiện thuận lợi, bình đẳng cho các
thành phần kinh tế phát triển, hạn chế và tiến tới chấm dứt việc cho vay theo chỉ định của
Chính phủ.
- Chính phủ nên hạn chế sự can thiệp của mình vào hoạt động của NHNN, chỉ nên
chỉ đạo hoạt động mang tính chất định hướng mà không nên theo tính định lượng. Đồng
thời, việc chỉ đạo điều hành CSTT phải thực hiện nhanh chóng, kịp thời.
- Đề nghị xem xét thay đổi mệnh giá đồng Kíp cho hợp lý với từng giai đoạn có
tính kinh tế cao và hợp lý vì nó liên quan đến giá trị và tâm lý đến bản sắc dân tộc của
mình.
- Nên tập trung các chu chuyển tiền tệ qua một đầu mối quản lý duy nhất là
NHNN nhằm thực hiện chức năng NHTW tốt hơn trong việc thực hiện chính sách tiền tệ
quốc gia như:
+ Hoạt động tiết kiệm của Bưu điện và các tổ chức được phép hoạt động kinh
doanh về tài chính - tiền tệ phải báo cáo đều đặn, chính xác, đầy đủ cho NHNN một cách
kịp thời.
+ Việc tồn tại hệ thống kho bạc nhà nước nhằm tạo điều kiện để NHNN thực hiện vai
trò là ngân hàng của Chính phủ. Đồng thời, việc phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc và
công trái nên thông qua hệ thống ngân hàng.
2. Đối với Quốc hội
Đến nay, Luật NHNN Lào đã và đang có hiệu lực thi hành. Đây là giai đoạn hoạt
động NHNN Lào gắn chặt với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội với những đặc điểm có nhiều nhân tố mới bởi những thời cơ và
thách thức vận động đan xen rất mạnh mẽ và mang tính thời đại mới. Do những biến đổi
nhanh chóng và mang tính khách quan của quá trình phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế mà
vai trò của Luật Ngân hàng cần phải được đổi mới để mở rộng đối tượng điều chỉnh, tăng
cường vị thế pháp lý và trách nhiệm cao hơn cho NHNN. Chính vì vậy, luận văn kiến nghị
sửa đổi Luật NHNN và xây dựng thêm Luật các TCTD theo hướng như sau:
+ CHDCND Lào hiện nay chưa có Luật Tổ chức tín dụng, vì vậy cần phải nhanh
chóng xây dựng Luật Các tổ chức tín dụng để các tổ chức tín dụng đáp ứng được đòi hỏi
của hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh có liên quan đến tài chính - ngân hàng.
+ Sửa đổi Luật NHNN Lào
Nhìn chung, qua thực tế áp dụng, Luật NHNN đã thấy xuất hiện những hạn chế
sau:
- Quy định về vị thế của NHNN còn nhấn mạnh chủ yếu là cơ quan của Chính
phủ, quá coi nặng chức năng quản lý nhà nước trực tiếp, xem nhẹ vai trò là NHTW của các
ngân hàng. Quyền hạn của Thống đốc cũng thể hiện khá mờ nhạt và bị chia sẻ.
- Các quy định pháp lý về vận hành các công cụ của CSTT như: chiết khấu, tái
chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở lãi suất cơ bản, quản lý ngoại hối v.v.. chưa chi tiết,
vừa không rõ ràng, vừa thiếu điều kiện ràng buộc và mang nặng tính hành chính.
- Một số quy định cụ thể khác như quy định về lãi suất cơ bản, về hàng hóa của
nghiệp vụ thị trường mở cần xem xét để hủy bỏ hoặc phải định nghĩa lại.
Từ những hạn chế trên, luận văn kiến nghị sửa đổi như sau:
1. Vị thế của NHNN Lào cần được độc lập hoặc độc lập tương đối tùy điều kiện
phát triển. Tính độc lập không bao gồm việc NHNN không phải là cơ quan Chính phủ mà chỉ
độc lập tương đối trên nguyên tắc Chính phủ trao nhiều quyền hạn, trách nhiệm mới cho
NHNN và Thống đốc NHNN trên lĩnh các lĩnh vực: Xây dựng và trình dự án CSTT quốc
gia; chủ động sắp xếp bộ máy tổ chức và nhân sự; độc lập tương đối về tài chính theo cơ
chế đơn vị nộp NSNN.
2. Bổ sung các ràng buộc và sửa đổi theo chuẩn quốc tế các nội dung liên quan đến
nghiệp vụ NHTW như đã phân tích ở trên.
3. Đổi mới việc quy định về nghiệp vụ, về chức năng, về mô hình tổ chức, về mô hình
tổ chức của thanh tra ngân hàng để tránh song trùng lãnh đạo, mở rộng đối tượng thanh tra và tổ
chức lại bộ máy thanh tra phù hợp với nghiệp vụ mới.
4. Quy định minh bạch các quan hệ tiền tệ, tín dụng giữa NHTW với các Bộ,
ngành nhất là với Bộ Tài chính - trong đó những quy định quan trọng là: Quy định về việc
NHTW thống nhất quản lý ngoại hối, dự trữ quốc gia (cả ngoại tệ Xuất khẩu tài nguyên và
đáp ứng nhu cầu ngoại tệ nhập khẩu thông qua các NHTM), việc bắt buộc Kho bạc Nhà
nước phải mở tài khoản và thanh toán duy nhất qua hệ thống thanh toán quốc gia của hệ
thống NHTW.
5. Bỏ qua các quy định về trách nhiệm của Bộ, Hội đồng Nhân dân các cấp,...
trong việc tham gia giám sát hoạt động của NHTW.
3. Đối với các Bộ, Ngành có liên quan
- Cần tạo lập mối quan hệ thường xuyên giữa các Bộ, Ngành đặc biệt là Bộ Tài
chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại, Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải quan
trong việc xây dựng và ban hành hệ thống thông tư liên Bộ. Trong việc thu thập, cung cấp
và trao đổi thông tin cũng như việc cung cấp thông tin cho công chúng. Bộ Tài chính và
NHNN cần phải kết hợp chặt chẽ trong việc điều hành CSTT và chính sách tài chính một
cách hợp lý.
Kết luận
Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, nền kinh tế không chỉ chịu ảnh
hưởng của các yếu tố bên trong mà còn chịu tác động mạnh mẽ bởi những yếu tố bên
ngoài và việc thực hiện chính sách tiền tệ mục tiêu kiểm soát lạm phát đối với CHDCND
Lào là vấn đề rất mới. Trên cơ sở sử dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử làm cơ sở cho phương pháp luận và tổng hợp các phương pháp thống kê và
miêu tả, tổng hợp, so sánh, luận văn đã đạt được những nhiệm vụ sau:
1. Hệ thống hóa lý luận về chính sách lạm phát, CSTT và chính sách mục tiêu
kiểm soát lạm phát.
2. Kinh nghiệm thực tiễn CSTT theo mục tiêu lạm phát ở một số nước trên thế giới
và bài học cho CHDCND Lào.
3. Đánh giá thực trạng lạm phát và những nguyên nhân gây ra lạm phát tại Lào từ
năm 1994 đến nay. Đồng thời, luận văn cũng tập trung phân tích, đánh giá thực trạng điều
hành CSTT với mục tiêu kiểm soát lạm phát trong giai đoạn này nhằm đưa ra được những
thành công và hạn chế trong việc lựa chọn phương thức điều hành CSTT.
4. Trên cơ sở những phân tích ở trên, luận văn đưa ra đề xuất theo đuổi chính sách
mục tiêu lạm phát trong việc thực thi CSTT tại Lào và hệ thống các giải pháp điều kiện
nhằm thực hiện chính sách này.
5. Để có được sự hỗ trợ đắc lực từ Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan hữu quan
khác, luận văn đưa ra các kiến nghị cần thiết để có thể thực hiện chính sách này tại Lào.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Duệ (2000), Chính sách mục tiêu lạm phát, Nxb Thống kê, Hà Nội.
2. Hoàng Ngọc Hà (2001), "Nguyên nhân của tình trạng lạm phát ở Việt Nam hiện nay và
khuyến nghị hướng khắc phục", Ngân hàng, (12), tr.1-6.
3. Nguyễn Văn Hà - Lê Văn Tề, (2005), Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ, Nxb
Thống kê, Hà Nội.
4. Phí Trọng Hiển (2005), "Lạm phát mục tiêu: Kinh nghiệm thế giới và giải pháp cho Việt
Nam", Nghiên cứu kinh tế, (323), tr. 53- 63.
5. Lê Xuân Hiếu (2004), "Lạm phát và thực tiễn hiện nay ở Việt Nam", Ngân hàng, (10),
tr. 22-25.
6. Nguyễn Đắc Hưng (2001), "Mục tiêu lạm phát", Ngân hàng, (2), tr. 55-57.
7. Nguyễn Thị Hương, Nguyễn Đồng Tiến (2005), "Kết hợp các chính sách kinh tế vĩ mô
trong việc giải quyết mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam
giai đoạn 1986 - 2004", Ngân hàng, (2), tr. 1.
8. Ngô Hưởng (2004), "Lạm phát hiện nay nguyên nhân và giải pháp kiềm chế", Ngân
hàng, (11), tr. 1-2.
9. Hoàng Xuân Kế (2004), "Lạm phát ở Việt Nam - Nguyên nhân và giải pháp", Nghiên
cứu kinh tế, (319), tr. 26-33.
10. Lý Minh Khai (2004), Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và phương pháp tính của Tổng cục
Thống kê hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Học viện Tài chính, Hà Nội.
11. Trần Mạch Kiên (2000), "Mục tiêu lạm phát một cách tiếp cận mới về chính sách tiền
tệ", Ngân hàng, (5), tr. 61- 62.
12. Nguyễn Đại Lai (2004), "Một số ý kiến về lạm phát và những giải pháp khắc phục",
Ngân hàng, (11), tr. 3- 4.
13. Lê Quốc Lý (2005), Lạm phát hành trình và giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam,
Nxb Tài chính, Hà Nội.
14. Đỗ Thị Đức Minh (2005), Chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát một cách tiếp cận
trong việc điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hà Nội.
15. S. Mishkin Frederic, Tiền tệ, ngân hàng, và thị trường tài chính, Nxb Khoa học và kỹ
thuật, Hà Nội.
16. Nguyễn Thị Mùi (2004), "Sử dụng linh hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm
kiểm soát lạm phát", Tài chính, (9), tr. 27-28.
17. Nguyễn Đăng Nam (2004), Một số giải pháp tài chính - tiền tệ để bình ổn giá cả kiềm chế
lạm phát, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Học viện Tài chính, Hà Nội.
18. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Một số vấn đề cơ bản về tài chính - tiền tệ của
Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010, Nxb Thống kê, Hà Nội.
19. Nguyễn Thiện Nhân (2002), Khủng hoảng kinh tế tài chính ở châu á 1997 - 1999, Nxb
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
20. Nguyễn Minh Phong (2000), Lý thuyết lạm phát giảm phát và thực tiễn ở Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Dương Hồng Phương (2004), "Nhìn nhận lạm phát ở Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập", Ngân hàng, (8), tr. 9-13.
22. Bùi Thiên Sơn (2004), Kinh nghiệm một số nước về kiểm soát và kiềm chế lạm phát trong
điều kiện nền kinh tế thị trường, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Học viện Tài chính Hà
Nội.
23. Nguyễn Văn Sỹ (2005), "Nhận xét về quá trình kiểm soát lạm phát", Nghiên cứu kinh
tế, (2), tr. 53.
24. Hồ Khắc Tân (2001), "Tăng trưởng kinh tế và lạm phát", Tài chính, (10), tr. 36.
25. Trần Cao Thành (2000), Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào 20 năm xây dựng và phát
triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
26. Nguyễn Quang Thép (2001), "Sự lựa chọn giải pháp chính sách tiền tệ", Ngân hàng,
(5), tr. 59.
27. Nguyễn Đồng Tiến (2000), "Cần có cách nhìn nhận đúng đắn khi đánh giá lạm phát ở
Việt Nam", Ngân hàng, (9), tr. 19-22.
28. Nhật Trung (2004), "Những vấn đề chung về lạm phát cơ bản - kinh nghiệm của
Philippnes", Ngân hàng, (9), tr. 67- 69.
Tiếng Lào (dịch sang tiếng Việt)
29. Báo cáo thường niên năm 1997 - Ngân hàng Nhà nước Lào.
30. Báo cáo thường niên năm 1998 - Ngân hàng Nhà nước Lào.
31. Báo cáo thường niên năm 1999 - Ngân hàng Nhà nước Lào.
32. Báo cáo thường niên năm 2000 - Ngân hàng Nhà nước Lào.
33. Báo cáo thường niên năm 2001 - Ngân hàng Nhà nước Lào.
34. Báo cáo thường niên năm 2002 - Ngân hàng Nhà nước Lào.
35. Báo cáo thường niên năm 2003 - Ngân hàng Nhà nước Lào.
36. Báo cáo thường niên năm 2004 - Ngân hàng Nhà nước Lào.
37. Chiến lược phát triển ngành ngân hàng 2005- 2020.
38. Đánh giá về tình hình lạm phát ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào năm 2000 (5/2004).
39. Đánh giá hoạt động ngân hàng 5 năm 2001-2005 Ngân hàng Nhà nước Lào.
40. Ngân hàng Nhà nước Lào (2000), Luật Ngân hàng nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào,
Viêng Chăn.
41. Ngân hàng Nhà nước Lào (2000), Quyết định về hoạt động Ngân hàng Thương mại
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Viêng Chăn.
42. Văn kiện Đại hội Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lần thứ VII (2001).
Tiếng Anh
43. Alina Carare, Adrea Schaechter, Mark Stone, and Mark Zelmer, Establishing Initial
Conditions in Support of Inflation Targeting- IMF Working paper.
44. David Dodge Govermor of Reserve Bank of Canada "Inflation targeting in Canada:
Experience and Lesson: 5/2002.
45. Donald T Brash Govermor of Reserve Bank of New Zealand " Inflation targeting 14 years
on" 5/2002.
46. Donald T Brash Govermor of Reserve Bank of New Zealand " Inflation targeting in New
Zealand 1988 - 2000" 9/2000.
47. "Economics"- P.A.Samuelsonva W,D. Norhaus- Xuất bản lần thứ 4, 1992, trang 587-
588.
48. Edwin M. Truman- Inflation Targeting and the International Financial System- 9/2001.
49. Frederic S. Mishkin, Klaus Schmidt Hebbel- One decade of inflation targeting in the world:
what do we know and what do we need to know- Working paper 8397- National
Bureau of Economic Research 7/2001.
50. Guy Debelle, Paul Masson, Miguel Savastano and Sunil Sharma- Inflation targeting as
a Framework for Monetary Policy.
51. International Monetary Fund (IMF): Lao PDR: Recent ecomic development SM/88/26
1.1988. table 11.
52. Junggun Oh - Inflation Targeting: A New Monetary Policy Framework in Korea
10/2000.
Phụ lục
Việc thiết lập và thực hiện mục tiêu lạm phát ở các nước
Ngà Thời gian Cơ quan Tên y Khung mục Chỉ số mục tiêu thực hiện thiết lập nước thực tiêu mục tiêu mục tiêu hiện
9/94 Core CPI 2-3% 1 chu kỳ Chính phủ ểc
kinh doanh và NHTW
6/99 Headline 1 năm Chính phủ Brazil 1999: 8% 2%
có sự tư 2000: 5% 2% vấn của
2001: 4% 2% NHTW
1991: 3-5% 1991: 22 Chính phủ Canada 2/91 Core CPI có loại
thàng và NHTW trừ giá thực phẩm, 1992: 2-4% năng lượng và thuế từ 1992 nhiều 6/1994: 1,5- gián thu năm 3,5%
1995-2001L: 1-
3%
1991: 15-20% 1991-2000: 1 NHTW có Chi Lê 1/91 Headline CPI
năm sự tư vấn 1992: 13-16% của Chính 2001-nay: 1993: 10-12% phủ không xác
1994: 9-11% định cụ thể
1995: 8%
1996: 6,6%
Ngà Thời gian Cơ quan Tên y Khung mục Chỉ số mục tiêu thực hiện thiết lập nước thực tiêu mục tiêu mục tiêu hiện
1997: 5,5%
1998: 4,5%
1999: 4,3%
2000: 3.5%
2001-nay: 2-4%
9/99 Headline CPI 1999: 15% 1 năm Chính phủ Colombi
và NHTW a 2000: 10%
2001: 8%
2002: 6%
1/98 Core CPI có loại 1998: 5,5-6,5% 1 năm NHTW Czech
trừ giá thực phẩm, 1999: 4-5% năng lượng và
2000: 3,5-5,5% thuế gián thu
2001: 2-4%
Core CPI có loại dài Trung bình 2% 93-95 NHTW Phần Lan 2/93
- trừ thuế gián thu, hạn 1996:
6/98 các khoản trợ giá, không xác
giá nhà và lãi suất định
thế chấp
Chính phủ 1/92 Headline 1992: 14-15% 1 năm Israel
có sự tư CPI 1993: 10% vấn của
Ngà Thời gian Cơ quan Tên y Khung mục Chỉ số mục tiêu thực hiện thiết lập nước thực tiêu mục tiêu mục tiêu hiện
NHTW 1994: 8%
1995: 4-11%
1996: 8-10%
1997: 7-10%
1998: 7-10%
1994: 4%
2000: 3-4%
2001: 3-4%
1999: 13% 1 năm NHTW Mexico 1/99 Headline
CPI 2000 < 20%
2001: 6,5%
2002: 4,5%
NHTW có 1/94 Headline 1994: 14-20% 1 năm Peru
sự tư vấn CPI 1995: 9-11% của Chính 1996: 9,5- phủ 11,5%
1997: 8-10%
1998: 7,5-9%
1994: 5-6%
2000: 3,5-4%
Ngà Thời gian Cơ quan Tên y Khung mục Chỉ số mục tiêu thực hiện thiết lập nước thực tiêu mục tiêu mục tiêu hiện
2001: 2,5-3,5%
2002: 1,5-2,5%
10/9 1 năm 2000- Headline 1998: <9,5% NHTW Ba Lan
8 2002 nhiều CPI 199: 6,6-7,8% năm 2003: 2000: 5,4%- không xác 6,8% định
2001: <4%
3-6% Nhiều năm NHTW 2/200 Core CPI có loại Nam
0 trừ biến động lãi Phi
suất
Mục lục
T
rang
Mở đầu 1
Chương 1: lạm phát và chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm 5
phát
1.1. Những vấn đề cơ bản về lạm phát 5
1.2. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát 13
1.3. Chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát ở một số nước 34
trên thế giới và bài học kinh nghiệm
48 Chương 2: Thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ kiểm soát lạm
phát ở cộng hòa dân chủ nhân dân lào từ năm 1994
đến nay
2.1. Thực trạng lạm phát ở Lào từ năm 1994 đến nay 48
2.2. Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát ở Lào 63
trong những năm qua
2.3. Đánh giá việc điều hành chính sách tiền tệ từ năm 1994 đến nay 68
83 Chương 3: định hướng và giải pháp trong thực hiện chính sách tiền
tệ nhằm kiểm soát lạm phát ở cộng hòa dân chủ nhân
dân lào
3.1. Định hướng xây dựng, phát triển và điều hành chính sách tiền tệ ở Lào 82
giai đoạn 2005 - 2010
3.2. Những giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong việc thực thi chính 89
sách tiền tệ ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
3.3. Một số kiến nghị 104
Kết luận 10
7
Danh mục tài liệu tham khảo 108
phụ lục 112