
QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐÀO HỮU DŨNG - Viện Đại Học Quốc Tế Josai (J.I.U.), Tokyo Trang 119/182
thuật cũng phải họp riêng, ngay cả những việc làm sau khi hoàn thành sản phẩm
(hậu sản xuất = post production) cũng phải được đề cập tới vào lúc này. Sau khi
các tiểu tổ đã họp riêng, truớc lúc quay phim, toàn thể nhân viên lại họp thêm
lần nữa (All Staff Meeting) để nhất trí về tiến trình thu hình.Thường thường,
phim quảng cáo đuợc làm trong những điều kiện bí mật nên nhân viên phải hứa
chắc là không để lọt tin tức ra bên ngoài.
10) Hội ý với chủ quảng cáo (Advertiser Reviews and Approvals)
Cuộc họp với chủ quảng cáo (PPM) là thời điểm hai bên (người cậy làm và
người thực hiện) xét lại toàn dự án xem mọi chuẩn bị dã vạn toàn để có một bộ
phim quảng cáo có chất lượng cao với chi phí hợp lý chưa. Cuộc họp này còn
được gọi là PPM1 (Pre Production Meeting) với sự có mặt của đại diện chủ
quảng cáo hay người của hãng quảng cáo, đặc biệt đảm đương công việc của chủ
quảng cáo (AE hay Account Executive) và các nhân vật có trách nhiệm then
chốt (Main Staff) trong việc thực hiện phim. Nội dung phải bàn đến sẽ xoay
chung quanh mục đích quảng cáo, kế hoạch quảng cáo và cách thực hiện. Ngoài
ra, sau khi đả sản xuất xong rồi, mọi người là họp mặt lần thứ hai hay PPM2
(Post Production Meeting) truớc khi tiến hành việc biên tập phim thực thụ bằng
máy vi tính chuyên dụng (On-line Editing). Trong cuộc họp PPM2, với thủ pháp
biên tập tạm thời (Off-line Editing) xem đi xem lại phim nhiều lần, các nhân vật
liên hệ trao đổi ý kiến về việc cắt xén phim để khỏi mất thờì giờ lúc biên tập
thực thụ.
11) Thiết định bảng phân cảnh (Shooting Script)
Bảng phân cảnh do Quản Đốc Sản Xuất (Production Manager) viết ra là tư liệu
không có không được vì nó có mọi thông tin giúp người đạo diễn an tâm thu
hình, từ lúc tập hợp đến khi giải tán. Nó có đủ tin tức về phân chia giờ giấc,
phân đoạn, phân vai với lời chú thích tường tận.
12) Chuẩn bị dụng cụ (Preparation of Tools)
Dụng cụ phải sửa soạn trước tiên là thương phẩm phải quảng cáo nhưng thường
thường nó không thể đem ra trình bày như thế mà phải trải qua tay những người
chuyên môn để được thay hình đổi dạng sao cho hấp dẫn hơn. Ngoài thương
phẩm, còn vô số thứ dụng cụ nhỏ nhất phải được chuẩn bị nhưng nên nhớ là
không được đem vào phim trường những thương phẩm của các hãng cạnh tranh
(ví dụ một chai Pepsi Cola đem đến cho nhân viên thu hình uống có khả năng vô
tình hiện ra giữa phim quảng cáo Coca Cola).
Chúng ta cũng đừng quên rằng việc hội ý với chủ quảng cáo tuy quan trọng
nhưng ý kiến của khán giả lại có sức thuyết phục những người này hơn cả. Do
đó, một cuộc điều tra sơ khởi (Pre-Test) ý kiến của một nhóm "khán giả mẫu"
về thảo án phim (Script Board) hay băng truyện Video bằng phương pháp ví như
ASI Test (Audience Studies Investigation) rất quý báu. Để thực hiện điều tra,
người ta tụ tập một số khán giả ở nơi nào đó và chiếu cho họ xem nhiều "bản
nháp" băng truyện khác nhau rồi qua những số liệu thu thập được, xem độ hứng
thú, độ quan tâm của họ đối với mọi băng truyện, độ thuyết phục của mỗi băng