Hiện tượng rơi rụng bớt từ ngữ
1. Trong ngôn ngvốn có một nguyên tắc chung là chlưu giữ những yếu tố,
những đối lập hữu ích; những yếu tố, những đối lập nào thừa (chứ không phải là
yếu tố dư hiểu theo cách của lí thuyết thông tin) không phù hợp với như cầu sử
dụng của con người, thì đều bị loại bỏ.
Ví dụ: Trước đây, tiếng Việt có những từ như: mựa (chớ), (nên), nữa (hơn), tác
(tuổi), chiền (chùa)... hoặc những từ như: thái y, thái giám,... quả thực, nông hội,
khổ chủ... thế nhưng ngày nay, trong đời sng giao tiếp thường nhật, chúng gần
như vắng bóng hẳn, hoặc hoàn toàn không còn nữa.
2. Nguyên nhân làm cho một từ rơi rụng đi, có thể trong ngôn ngữ; nhưng cũng có
thể là những nguyên nhân ngoài ngôn ngữ.
2.a. Nguyên nhân trong ngôn ngữ cơ bản là do sự tranh chấp về giá trị và vị trí sử
dụng. Sự va chạm bởi quan hệ đồng âm hoặc đồng nghĩa đã dn tới tình trng tranh
chấp đó.
Sự va chạm trong quan hệ đồng âm giữa hai từ A và B không phi bao giờ cũng
làm cho một từ phải "ra đi". Chỉ trong một số ít trường hợp, khi cả hai cùng hiện
diện được trong ngữ cảnh và gây nên tình trạng lộn xộn, gây mơ hồ hoặc hiu lầm
thì lúc đó mt trong hai từ mi bị triệt thoái. Ví dụ: Trong tiếng Anh có từ leten
(cho phép) và letten (cn trở, vướng). Cả hai từ này đều biến đổi thành let và đồng
âm với nhau. Trong một số hoàn cnh, chúng gây nên những hiểu lầm. Từ let (cản
trở, vướng) nay đã biến mất khỏi đời sống giao tiếp tng thường và chỉ còn để lại
bóng dáng của mình trong một số lối nói chuyên môn hoá của môn thể thao quần
vợt và môn luật học mà thôi.
Va chạm về đồng nghĩa là khnăng thường gặp trong rất nhiều trường hợp. Nếu A
và B đồng nghĩa với nhau và mỗi từ không một giá trị, phẩm chất riêng, khác
biệt nhau thì một trong hai từ đó sẽ dần dần bị rơi rụng. Ngoài ra, nếu A và B như
nhau vmọi mặt nhưng một trong hai từ đó lại có những khó khăn trong sử dụng
chẳng hạn, thì nó cũng dần dà bị lãng quên. Tình trng của các cặp từ tiếng Việt:
tác = tuổi, chác = đổi, chiền = chùa, han = hỏi; gìn = giữ... đều là những từ như
vậy.
Khi có tranh chấp và một từ bị rơi rụng thì thể nó “một đi không trở lại”. Đó là
những trường hợp như các từ của tiếng Việt xưa: mựa (chớ); bui (chỉ); nhẫn (tới);
phen (so bì); tua (nên); khng (chịu); khóng khảy (vui mừng); thửa ([gii từ])...
Ngược li, cũng có khi nó còn để lại tàn dư của mình trong tvựng hiện đại mà
ngày nay ta khoặc rất khó nhận ra. Chẳng hạn tiếng Việt xưa có các từ như: đòi
(theo), chin (chùa), tác (tuổi), han (hỏi), nữa (hơn), âu (lo), chác (đổi), ngặt
(nghèo),... Trong tvựng tiếng Việt ngày nay, chúng kng còn tư cách là từ nữa,
mà chỉ còn để lại dấu vết của mình trong các từ theo đòi, ca chiền, tuổi tác, hỏi
han, hơn nữa, lo âu, đổi chác, ngặt nghèo,... mà thôi.
2.b. Nguyên nhân trong ngôn ngthhai là sự biến đổi ngữ âm. Trong quá trình
diễn biến của ngôn ngữ nói chung và tvựng nói riêng, bmặt ngữ âm của một từ
có thể biến đổi đến nối khác lạ hẳn với dạng vốn có ban đầu. Kết cục là dng cũ
của từ b mất đi bởi vì dng mới hình thành về sau đã thay thế vào chỗ của nó. Các
từ: mấy > với; hoà > và; liễn > lẫn; phen > nh; mlời > li... của tiếng Việt đã b
rụng đi bởi nguyên do biến đổi ngữ âm như thế.
2.c. Một nguyên nhân trong ngôn ngnữa là sự rút gọn từ. Nếu một từ nào đó li
có dng rút gọn của mình thì thông thường, dạng nguyên ban đầu dần dần nhường
chỗ cho dạng rút gọn. Điu này được định luật Zipf ủng hộ. Zipf đã chứng minh
rằng trong ngôn ngữ, những từ thông dụng thường có xu hướng ngắn hơn những từ
không thông dụng. Ví dụ: Tiếng Anh hin nay đã rút ngn các từ refrigerator,
televison, aeroplane thành fridge, TV, plane và chúng được dùng phổ biến hơn.
Trong tiếng Việt, ta cũng có thể thấy hàng loạt trường hợp tương tnhư vậy: Liên
bang Cng hoà Xã hi Chủ nghĩa Xô Viết → Liên Xô; Việt Nam Độc lập Đồng
minh Hi → Việt Minh; vô tuyến truyền hình vô tuyến...
Tuy nhiên, dù có kích thước dài nhưng không phải từ nào cũng rút gn được, nhất
là đối với những từ phổ biến, được dùng với tần số cao. Khi đó ta thường không
gặp dạng rút gọn ca nó thay thế cho nó, mà có thể gặp một từ khác ngắn hơn thay
thế cho nó. Chẳng hạn, tiếng Anh đã dùng pram (cái xe nôi – dng rút gọn của t
perambulator) thay thế cho baby carriage và đang ưa dùng car hơn là automobile.