ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ AN TOÀN

CỦA THUỐC KÍCH THÍCH MIỄN DỊCH TRONG ĐIỀU TRỊ

VÀ PHÒNG NGỪA VIÊM MŨI XOANG Ở NGƯỜI LỚN

TÓM TẮT

Mục tiêu: Viêm xoang là bệnh lý thường gặp và hay tái phát. Mục đích

nghiên cứu là đánh giá tính hiệu quả và an toàn của thuốc Broncho-Vaxom

trong điều trị và phòng ngừa viêm xoang mạn hoặc viêm xoang tái phát.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đay là một nghiên cứu ngẫu nhiên,

mù đôi, có so sánh nhóm chứng với thuốc Broncho-Vaxom trên 440 bệnh

nhân tuổi từ 18-50 bị viêm mũi xoang mạn hay hồi viêm cấp tại bệnh viện

Tai Mũi Họng TP HCM từ tháng 6/2005 đến tháng 8/2006. Bệnh nhân được

ngẫu nhiên chia vào hai nhóm điều trị với Broncho-Vaxom (một viên mỗi

ngày trong 10 ngày, lặp lại trong 3 tháng) + Augmentin hoặc chỉ dùng

Augmentin.

Kết quả Độ an toàn và dung nạp của thuốc thử nghiệm là tốt.

Kết luận Với những kết quả điều trị trên đợt cấp của viêm mũi xoang mạn và

hồi viêm cấp cho thấy hiệu quả điều trị và phòng ngừa của Broncho-Vaxom.

ABSTRACT

TO DETERMINE THE SAFETY AND EFFICACY OF BRONCHO-

VAXOM IN TREATMENT AND PROPHYLAXIS WITH THE CHRONIC

OR RECURRENT SINUSITIS

Nguyen Thi Thanh Thuy, Vo Quang Phuc

* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 267 -

274

Objectives: Sinusitis is the common and recurrent disease. The purpose of

this study was to determine the safety and efficacy of Broncho-Vaxom in

treatment and prophylaxis with the chronic or recurrent sinusitis.

Methods This is a randomized, double-blind, placebo-controlled with

Broncho-Vaxom in 440 patients aged 18-50 with chronic or recurrent acute

sinusitis, at ENT Hospital – HCMC, from June 2005 to August 2006.

Patients were randomized devided in 2 groups and treated with Broncho-

Vaxom (1 capsule daily for a period of 10 days per month during 3

consecutive months) + Augmentin or Augmentin only.

Results:Safety and tolerance of test medication were good.

Conclusion The results of treatment of acute episodes of chronic and

recurrent acute sinusitis demonstrated the curative and prophylatic efficacy

of Broncho-Vaxom.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Viêm mũi xoang là một thử thách thường gặp của các bác sĩ Tai Mũi Họng.

Nó chiếm tỉ lệ cao nhất trong các bệnh lý Tai Mũi Họng và tỉ lệ này không

ngừng tăng cao ở mỗi quốc gia. Chỉ riêng tại Mỹ, tỉ lệ này là 14,1% trong

dân số trưởng thành và tiêu tốn 3,4 tỉ đô mỗi năm(1). Riêng tại Việt Nam, số

liệu thống kê viêm mũi xoang ở mỗi vùng và tại mỗi thời điểm có khác nhau

song số lượng bệnh nhân đến khám và điều trị bệnh lý mũi xoang tại các

bệnh viện chuyên khoa luôn dẫn đầu. Những vi khuẩn chủ yếu gây viêm mũi

xoang cấp gồm: H. influenza, S. pneumoniae và Moraxella catarhalis. Trong

viêm mũi xoang mạn, vi khuẩn thường là: những dòng Staphylococcus, vi

khuẩn gram âm, vi khuẩn kỵ khí và ngay cả nấm(4). Một số yếu tố thuận lợi

gây viêm mũi xoang, bao gồm yếu tố thuộc về đối tượng như viêm mũi dị

ứng, nhiễm siêu vi, trào ngược dạ dày thực quản, tắc nghẽn do giải phẫu, suy

giảm miễn dịch, di truyền và bệnh bẩm sinh. Ngoài ra cũng có các yếu tố

môi trường như tác nhân kích ứng (khói thuốc lá), vi sinh vật (siêu vi, vi

nấm, vi khuẩn) và thậm chí là do thuốc như tình trạng viêm mũi do thuốc(8).

Miễn dịch liệu pháp là một phần trong điều trị nội khoa viêm mũi xoang và

ngày càng đươc quan tâm nghiên cứu phát triển sâu hơn. Nhiều nghiên cứu

cho thấy sự thay đổi nồng độ các kháng thể trong máu và dịch tiết liên quan

mật thiết đến một số dạng viêm mũi xoang. IgG3 huyết thanh thấp, có liên

quan với tình trạng nhiễm khuẩn tái phát. Shapiro và cộng sự8 đã xác định,

nồng độ IgG3 trong huyết thanh thấp, liên quan với bệnh nhân viêm mũi

xoang mạn bất trị bằng thuốc. Đối với bệnh nhân có tăng IgE trong máu, có

chiều hướng dễ bị nhiễm khuẩn và gần đây người ta đã xác định có hiện

tượng ức chế trực tiếp ảnh hưởng trên chức năng neutrophil bởi IgE(1). Ở

bệnh nhân với viêm mũi dị ứng bội nhiễm và viêm mũi xoang mạn, liệu

pháp giải mẫn cảm có thể mang lại hiệu quả có lợi. Liệu pháp miễn dịch đặc

hiệu phòng ngừa nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp, hiện vẫn còn giới hạn ở

một số loại vắc-xin (Influenza, Pneumococcus, Haemophilus) và thường chỉ

dùng trên một số bệnh nhân chọn lọc như bệnh nhân suy giảm miễn dịch hay

người lớn tuổi.20 Liệu pháp miễn dịch không đặc hiệu nhằm phòng ngừa

nhiễm khuẩn đường hô hấp tái phát bằng tác nhân kích thích miễn dịch đã

thu hút sự chú ý của các nhà khoa học suốt 20 năm qua, không ngừng phát

triển và được ứng dụng điều trị trong những bệnh lý lâm sàng khác nhau(2)

Tác nhân kích thích miễn dịch bao gồm một nhóm có nhiều loại thuốc khác

nhau: các loại vắc-xin, interferon, các hợp chất hóa học và thuốc chiết xuất

từ vi khuẩn. Một loại thuốc được chiết xuất từ vi khuẩn đã được làm giảm

độc tính thế hệ mới nhất là OM-85, có tên thương mại là Broncho-Vaxom do

công ty OMPharma của Thuỵ Sĩ sản xuất. Broncho-Vaxom được chiết xuất

từ 8 loại vi khuẩn thường gặp nhất trong nhiễm khuẩn đường hô hấp trên là:

Haemophilus influenzae, Klebsiella pneumoniae, Klebsiella ozaenae,

Staphylococcus aureus, Streptococcus pneumoniae, Streptococcus pyogenes,

Streptococcus viridans, Moraxella catarrhalis. Loại thuốc này không những

kích thích miễn dịch tại chỗ, thông qua kích hoạt các mô lympho ở niêm

mạc hô hấp, mà còn kích thích miễn dịch toàn cơ thể, thông qua việc kích

hoạt hoạt động của các đại thực bào và hiện tượng thực bào, quá trình thanh

lọc tế bào, cũng như làm gia tăng nồng độ IgA trong nước bọt & huyết

tương, IgG trong máu. Broncho –Vaxom có tác dụng làm tăng nồng độ

Interferon gamma, Interleukin (IL-2, IL-6, IL-8 và cả IL-11, IL-12), kích

thích T-helper & T-killer và kích thích hoạt động của Lympho B(3,10). Loại

thuốc này đã được chứng minh là hiệu quả không những trong phòng ngừa

& làm giảm tần suất đợt nhiễm khuẩn hô hấp trên ở bệnh nhân suyễn mà còn

có hiệu quả làm giảm và phòng ngừa những đợt tái phát của viêm mũi

xoang(5) Với mong muốn tìm hiểu về hiệu quả và an toàn của một loại

thuốc mới có thể hỗ trợ trong điều trị và phòng ngừa viêm mũi xoang, giảm

thời gian dùng kháng sinh và số lần dùng kháng sinh, lâu dài giúp giảm tình

trạng đề kháng kháng sinh, chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu trên một số

bệnh nhân viêm mũi xoang tại bệnh viện Tai mũi Họng TP HCM.

Mục tiêu tổng quát

Đánh giá hiệu quả và an toàn của thuốc kích thích miễn dịch trong điều trị

và phòng ngừa viêm mũi xoang ở người lớn. (Trong nghiên cứu này chúng

tôi dùng: Broncho-Vaxom viên 7mg, do công ty OM Pharma-Thuỵ Sĩ sản

xuất).

Mục tiêu chuyên biệt

1. Đánh giá hiệu quả giảm thời gian sử dụng kháng sinh trên bệnh nhân

viêm mũi xoang có điều trị với Broncho-Vaxom.

2. Đánh giá hiệu quả làm giảm đợt tái phát của Broncho-Vaxom.

3. Đánh giá độ dung nạp của Broncho-Vaxom.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng

440 bệnh nhân đến khám và được chẩn đoán viêm mũi xoang mạn hay hồi

viêm cấp tại bệnh viện Tai Mũi Họng TP HCM tuổi từ 18-50, trong thời gian

từ tháng 6/2005 đến tháng 8/2006. Bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu

phải đáp ứng các tiêu chuẩn sau:

- Hỏi bệnh sử, thăm khám, chụp x.quang(Blondeau, Hirtz) và nội soi mũi

xoang xác nhận đang bị viêm mũi xoang.

- Thời gian bị viêm mũi xoang ≥12 tuần (viêm mạn) hoặc có tiền sử viêm

mũi xoang ≥4 lần/năm (hồi viêm cấp)

- X.quang và nội soi mũi xoang không phát hiện bất thường cấu trúc hoặc

tình trạng bệnh lý mũi xoang nặng cần phải phẫu thuật ngay.

- Chưa từng phẫu thuật mũi xoang trước đó.

- Không bị các bệnh toàn thân như: suy giảm miễn dịch, tiểu đường,…

- Bệnh nhân nữ không trong giai đoạn thai kỳ hoặc cho con bú.

- Bệnh nhân không ở trong môi trường thường xuyên tiếp xúc hoá chất.

Thời gian tiến hành

Từ tháng 6-2005 đến tháng 8-2006

Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu tiền cứu, ngẫu nhiên, mù đôi, có so sánh nhóm chứng.

Phương pháp tiến hành

440 bệnh nhân viêm mũi xoang thoả các điều kiện chọn bệnh đến khám và

điều trị tại bệnh viện Tai Mũi Họng trong thời gian từ 6-2005 đến 8-2006

được mời tham gia nghiên cứu. Bệnh nhân bốc thăm và ngẫu nhiên được

chia vào hai nhóm điều trị:

- Nhóm 1: Augmentin (50mg/kg/ngày)

- Nhóm 2: Augmentin (50mg/kg/ngày + Broncho-Vaxom 1 viên/ngày/10

ngày x 3 tháng

Sau 3 tuần nếu không đáp ứng điều trị với Augmentin sẽ được chuyển sang

nhóm Quinolone (Tavanic 0,5mg, 1 viên/ngày)

Bệnh nhân được khám theo lịch sau:

- Lần 1: hỏi bệnh sử, chụp x.quang, nội soi mũi xoang, bốc thăm đưa vào

nhóm điều trị

- Lần 2: sau 1 tuần - đánh giá hiệu quả điều trị, cho chỉ định điều trị.

- Lần 3: sau 2 tuần - đánh giá hiệu quả điều trị, cho chỉ định điều trị.

- Lần 4: sau 3 tuần – nội soi mũi xoang, chụp lại x.quang hoặc CT scan +

đánh giá hiệu quả điều trị, cho chỉ định điều trị.

- Sau đó bệnh nhân sẽ được tái khám sau 1, 2, 3 và 6 tháng.

Điều kiện ngừng điều trị kháng sinh: các triệu chứng lâm sàng cải thiện hoàn

toàn + nội soi mũi xoang (hết xuất tiết đục) & X.quang (không còn hình ảnh

mờ xoang hàm trên phim Blondeau) cho kết quả tốt.

Trường hợp can thiệp phẫu thuật: bệnh nhân chỉ được can thiệp phẫu thuật

khi điều trị nội khoa thất bại. Trong nghiên cứu này, những bệnh nhân được

điều trị nội khoa với thời gian ≥ 3 tháng mà triệu chứng lâm sàng & cận lâm

sàng không cải thiện sẽ được cho chụp CT scan xác định thêm và hội chẩn

phẫu thuật nếu cần.

KẾT QUẢ

Bệnh nhân tham gia nghiên cứu:

440 bệnh nhân lúc ban đầu tham gia nghiên cứu, sau 6 tháng theo dõi có 43

bệnh bị loại do các nguyên nhân sau ở cả 2 nhóm:

Bệnh nhân tham gia lúc đầu(n=440)

BV(n=220) Không dùng BV (n=220)

Bệnh nhân bị loại nhóm BV(n= 25)

Bệnh nhân bị loại nhóm không dùng BV(n=18)

Không tuân thủ điều trị 3

Không tái khám đúng hẹn 21

Có bệnh/ chấn thương khác 1

Không tuân thủ điều trị 1

Không tái khám đúng hẹn 15

Có bệnh/ chấn thương khác 2

Bệnh nhân tổng kết cuối nghiên cứu(n=397)

BV (n=195) Không dùng BV(n=202)

Kết quả nghiên cứu

Kết quả thống kê trên hai nhóm nghiên cứu

Từ 440 bệnh nhân tham gia nghiên cứu ban đầu, đến cuối cuộc nghiên cứu

có 397 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn tổng kết: nhóm Broncho-Vaxom là 195

bệnh nhân, nhóm không dùng Broncho-Vaxom là 202 bệnh nhân.

Có 2 bệnh nhân nhóm Broncho-Vaxom và 3 bệnh nhân nhóm không dùng

Broncho-Vaxom có chỉ định phẫu thuật nội soi mũi xoang do không đáp ứng

điều trị nội khoa. Cả 5 trường hợp này cho kết quả phẫu thuật: thoái hoá

polyp nhiều xoang sàng 2 bên, các xoang khác có nhầy mủ nhiều. Sau phẫu

thuật, tình trạng viêm mũi xoang cải thiện rõ rệt. Không có sự khác biệt về

thống kê giữa 2 nhóm nghiên cứu trên số bệnh nhân phải can thiệp phẫu

thuật. Tỉ lệ chung thất bại điều trị nội khoa, phải can thiệp phẫu thuật là

1,25%.

Thời gian điều trị kháng sinh trung bình trên một bệnh nhân trong thời gian

6 tháng của nhóm Broncho-Vaxom là 37,14±13,02 ngày (trung bình là 33,5

ngày) so với nhóm không dùng Broncho-Vaxom là 62,18±22,35 ngày (trung

bình là 56,5 ngày), khác biệt là -24,55 ngày(95%Cl, -35,05 đến -14,05 ngày)

với p<0.001, giảm 39,2%.

Số bệnh nhân phải đổi kháng sinh của nhóm Broncho-Vaxom là 21 trường

hợp (chiếm tỉ lệ 10,76%) và của nhóm không dùng Broncho-Vaxom là 32

trường hợp (chiếm tỉ lệ 15,85%). Trong 53 trường hợp phải đổi kháng sinh

này thì 48 trường hợp sau đó đáp ứng điều trị tốt (tỉ lệ 90,56%), còn 5 trường

hợp không đáp ứng điều trị & phải can thiệp phẫu thuật (tỉ lệ 9,44%).

Số lần tái phát viêm mũi xoang trung bình trên một bệnh nhân trong thời

gian 6 tháng của nhóm Broncho-Vaxom là 0,58±0,13 lần (trung bình là 0,55

lần) so với nhóm không dùng Broncho-Vaxom là 0,86±0,21 lần (trung bình

là 0,85 lần), khác biệt là -0,28 lần (95%Cl, -0,40 đến -0,17 lần) với p<0.005,

giảm 32,5%.

Nếu tính tích luỹ theo thời gian (tính đơn vị bằng tháng) trong thời gian 6

tháng về số bệnh nhân không bị tái phát viêm mũi xoang, chúng tôi có kết

qủa khác biệt giữa 2 nhóm như biểu đồ sau:

Thaùng

0.0%

Sau 6 tháng, có 63,57% bệnh nhân ở nhóm Broncho-Vaxom so với 42,05%

bệnh nhân ở nhóm không dùng Broncho-Vaxom không có đợt viêm xoang

tái phát.

Kết quả trên nhóm bệnh nhân có triệu chứng dị ứng

Số bệnh nhân có triệu chứng dị ứng (có những đợt ngứa, sổ mũi, nghẹt mũi

trước đó) ở cả hai nhóm là 132 bệnh nhân nhóm Broncho-Vaxom (chiếm tỉ

lệ 67,69%) và 131 bệnh nhân nhóm không dùng Broncho-Vaxom (chiếm tỉ

lệ 64,85%).

Chúng tôi tiến hành thống kê số đợt tái phát viêm mũi xoang trên số bệnh

nhân này ở cả hai nhóm nghiên cứu cho kết quả như sau:

Số lần tái phát viêm mũi xoang trung bình trên một bệnh nhân trong thời

gian 6 tháng ở nhóm Broncho-Vaxom là 0,45±0,14 lần (trung bình là 0,40

lần) so với nhóm không dùng Broncho-Vaxom là 1,04±0,25 lần (trung bình

là 0,95 lần), khác biệt là -0,54 lần (95%Cl, -0,72 đến -0,35 lần) với p<0.001,

giảm 52,05%.

Nếu tính tích luỹ theo thời gian (tính đơn vị bằng tháng) trong thời gian 6

tháng về số bệnh nhân không bị tái phát viêm mũi xoang, chúng tôi có kết

qủa khác biệt giữa 2 nhóm như biểu đồ sau:

40.0%

20.0%

0.0%

100.0%

80.0%

60.0%

Sau 6 tháng, có 70,45% bệnh nhân ở nhóm Broncho-Vaxom so với 36,64%

bệnh nhân ở nhóm không dùng Broncho-Vaxom không có đợt viêm xoang

tái phát.

Hình ảnh nội soi mũi xoang trên bệnh nhân trước khi điều trị và sau khi điều

trị ổn định:

Trước điều trị Sau điều trị

Hình ảnh X.quang trên bệnh nhân trước khi điều trị và sau khi điều trị ổn

định:

Trước điều trị Sau điều trị

Trước điều trị Sau điều trị

Độ an toàn

Các tác dụng phụ chúng tôi ghi nhận được trên cả hai nhóm nghiên cứu

trong thời gian 6 tháng như sau:

Tác dụng phụ

nhóm Broncho-Vaxom

Nhóm không dùng Broncho-Vaxom

Tiêu chảy

6

10

Mệt mỏi

3

5

Đau bụng

2

3

Tiểu nhiều

3

1

Ban đỏ ngoài da

0

1

Tổng cộng

14(7,1%)

20 (9,9%)

Không có sự khác biệt thống kê về tác dụng phụ giữa 2 nhóm.

Những tác dụng phụ này đều nhẹ, thoáng qua và không làm thay đổi phác đồ

điều trị.

BÀN LUẬN

Nghiên cứu được thực hiện trên hai nhóm bệnh nhân có đặc điểm về tuổi,

giới, tình trạng bệnh khá tương đương. Tuổi trung bình nhóm nghiên cứu là

trung niên, trung bình 46 tuổi. Tỉ lệ bệnh nhân có triệu chứng dị ứng trên cả

hai nhóm khá cao: chiếm khoảng 62%. Triệu chứng thường gặp nhất là chảy

mũi đục, nhức đầu và ho. 100% bệnh nhân được nội soi mũi xoang và đều

có nhầy đục đọng ở khe mũi. Chỉ có khoảng 36% số bệnh nhân có kèm hình

ảnh mờ xoang hàm trên phim Blondeau, chứng tỏ sự giới hạn của phim

x.quang trong chẩn đoán viêm mũi xoang. Nếu được điều trị đúng cách và

đủ thời gian thì viêm mũi xoang mạn hay viêm mũi xoang hồi viêm cấp

cũng cho kết quả điều trị khá tốt, trong nghiên cứu này tỉ lệ phẫu thuật chỉ là

1,25%.

Có sự khác biệt đáng kể về thời gian sử dụng kháng sinh trung bình trên một

bệnh nhân trong thời gian 6 tháng giữa 2 nhóm nghiên cứu: 37,14±13,02

ngày (nhóm Broncho-Vaxom) so với 62,18±22,35 ngày (nhóm không dùng

Broncho-Vaxom), khác biệt là -24,55 ngày(95%Cl, -35,05 đến -14,05 ngày)

với p<0.001. Nhóm bệnh nhân trong nhóm Broncho-Vaxom có số ngày điều

trị kháng sinh giảm 39,2% so với nhóm không dùng Broncho-Vaxom. Số

trường hợp không đáp ứng với kháng sinh ban đầu (Augmentin) và phải đổi

sang dùng nhóm Quinolone (Tavanic) chiếm tỉ lệ khoảng 13%. Điều này

chứng tỏ Amoxycillin + clavulanate (Augmentin) vẫn là kháng sinh đầu tay

và vẫn rất có hiệu quả không những trong điều trị viêm mũi xoang cấp mà

còn trong viêm mũi xoang mạn và viêm mũi xoang hồi viêm cấp.

Chúng tôi cũng thấy có sự khác biệt đáng kể về số lần tái phát viêm mũi

xoang trung bình trên một bệnh nhân trong thời gian 6 tháng của nhóm

Broncho-Vaxom là 0,58±0,13 lần (trung bình là 0,55 lần) so với nhóm

không dùng Broncho-Vaxom là 0,86±0,21 lần (trung bình là 0,85 lần), khác

biệt là -0,28 lần (95%Cl, -0,40 đến -0,17 lần) với p<0.005. Bệnh nhân trong

nhóm Broncho-Vaxom có số lần tái phát viêm mũi xoang trong 6 tháng giảm

32,5% so với nhóm không dùng Broncho-Vaxom. Đặc biệt khi thống kê trên

nhóm bệnh nhân có triệu chứng dị ứng ở cả hai nhóm chúng tôi nhận thấy số

lần tái phát giảm đáng kể ở nhóm có điều trị với Broncho-Vaxom. Số lần tái

phát viêm mũi xoang trung bình trên một bệnh nhân có triệu chứng dị ứng

trong thời gian 6 tháng ở nhóm Broncho-Vaxom là 0,45 ± 0,14 lần (trung

bình là 0,40 lần) so với nhóm không dùng Broncho-Vaxom là 1,04 ± 0,25

lần (trung bình là 0,95 lần), khác biệt là -0,54 lần (95%Cl, -0,72 đến -0,35

lần) với p<0,001. Điều này có nghĩa là bệnh nhân có triệu chứng dị ứng khi

điều trị với Broncho-Vaxom sẽ có số lần tái phát viêm mũi xoang trong 6

tháng giảm 52,05% so với không dùng Broncho-Vaxom. So sánh số liệu

thống kê của chúng tôi với các công trình nghiên cứu khác: có rất nhiều

nghiên cứu dùng Broncho-Vaxom trên bệnh nhân suyễn, COPD hay viêm

đường hô hấp trên tái phát, ngược lại có rất ít công trình nghiên cứu trên

bệnh nhân viêm mũi xoang. Có hai công trình nghiên cứu của Heintz10 trên

người lớn bị viêm mũi xoang mạn và Zagar trên trẻ em bị viêm mũi xoang

đều cho thấy có sự cải thiện triệu chứng nhanh chóng ở nhóm có điều trị với

Broncho-Vaxom so với nhóm chứng. Trong một nghiên cứu trên trẻ em19

cho thấy nhóm điều trị với Broncho-Vaxom có số đợt tái phát viêm đường

hô hấp trên là 5,04±1,99 so với nhóm chứng là 8,0±2,55 và số ngày điều trị

là 35,23±17,64 so với nhóm chứng là 60,75±25,44. Đặc biệt Broncho-

Vaxom làm giảm đáng kể tỉ lệ viêm đường hô hấp trên tái phát trên nhóm trẻ

có tiền sử viêm hô hấp trên nhiều lần (> 5 lần/năm trước đó)(5). Broncho-

vaxom cũng làm giảm triệu chứng cũng như tỉ lệ bội nhiễn đường hô hấp

trên ở bệnh nhân viêm phế quản mạn và viêm phổi tắc nghẽn mạn thể nhẹ:

giảm 25% và 29,1% so nhóm chứng. Không có sự khác biệt có ý nghĩa

thống kê về các tác dụng phụ giữa hai nhóm dùng Broncho-Vaxom và không

dùng Broncho-Vaxom, chứng tỏ tính an toàn khá cao của Broncho-Vaxom

khi sử dụng điều trị trên bệnh nhân.

KẾT LUẬN

Broncho-Vaxom giúp làm giảm thời gian sử dụng kháng sinh trung bình trên

một bệnh nhân trong thời gian 6 tháng: 37,14±13,02 ngày (nhóm Broncho-

Vaxom) so với 62,18±22,35 ngày (nhóm không dùng Broncho-Vaxom),

khác biệt là -24,55 ngày(95%Cl, -35,05 đến -14,05 ngày) với p<0.001.

Nhóm bệnh nhân trong nhóm Broncho-Vaxom có số ngày điều trị kháng

sinh giảm 39,2% so với nhóm không dùng Broncho-Vaxom. Broncho-

Vaxom giúp làm giảm số lần tái phát viêm mũi xoang trung bình trên một

bệnh nhân trong thời gian 6 tháng: nhóm Broncho-Vaxom là 0,58±0,13 lần

(trung bình là 0,55 lần) so với nhóm không dùng Broncho-Vaxom là

0,86±0,21 lần (trung bình là 0,85 lần), khác biệt là -0,28 lần (95%Cl, -0,40

đến -0,17 lần) với p<0.005. Bệnh nhân trong nhóm Broncho-Vaxom có số

lần tái phát viêm mũi xoang trong 6 tháng giảm 32,5% so với nhóm không

dùng Broncho-Vaxom. Đặc biệt, trên bệnh nhân có triệu chứng dị ứng,

Broncho-Vaxom làm giảm số lần tái phát đáng kể hơn: 0,45±0,14 lần (trung

bình là 0,40 lần) so với nhóm không dùng Broncho-Vaxom là 1,04±0,25 lần

(trung bình là 0,95 lần), khác biệt là -0,54 lần (95%Cl, -0,72 đến -0,35 lần)

với p<0.001. Bệnh nhân có triệu chứng dị ứng khi điều trị với Broncho-

Vaxom sẽ có số lần tái phát viêm mũi xoang trong 6 tháng giảm 52,05% so

với không dùng Broncho-Vaxom. Broncho-Vaxom là một loại thuốc kích

thích miễn dịch có tính an toàn cao. Tóm lại có thể kết luận Broncho-Vaxom

là một loại thuốc có thể hỗ trợ điều trị tốt những trường hợp viêm mũi xoang

mạn, viêm mũi xoang hồi viêm cấp và đặc biệt viêm mũi xoang có triệu

chứng dị ứng. Do đặc tính làm giảm số lần tái phát nên còn có thể sử dụng

thuốc này như một điều trị phòng ngừa trên những bệnh nhân viêm xoang tái

phát nhiều lần, viêm xoang sau phẫu thuật.