intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Học thuyết về phương pháp giáo dục đạo đức của I. Kant trong tác phẩm phê phán lí tính thực hành

Chia sẻ: ViHitachi2711 ViHitachi2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

75
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Học thuyết về phương pháp là một phần cơ bản trong đạo đức học của I.Kant. Thực chất học thuyết về phương pháp chính là quan niệm của Kant về giáo dục đạo đức trong thực tiễn. Tuy nhiên, ông chỉ dừng lại ở việc khái quát những nguyên tắc phương pháp luận của việc hiện thực hóa các giá trị, chuẩn mực đạo đức vào thực tiễn. Trong bài viết này, tác giả trình bày những nội dung cơ bản trong học thuyết về phương pháp của Kant, từ đó chỉ ra giá trị hiện thời của nó.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Học thuyết về phương pháp giáo dục đạo đức của I. Kant trong tác phẩm phê phán lí tính thực hành

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br /> Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 5, pp. 93-98<br /> This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br /> <br /> DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0065<br /> <br /> HỌC THUYẾT VỀ PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CỦA I. KANT<br /> TRONG TÁC PHẨM PHÊ PHÁN LÍ TÍNH THỰC HÀNH<br /> Vũ Thị Hải<br /> Khoa Triết học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br /> <br /> Tóm tắt. Học thuyết về phương pháp là một phần cơ bản trong đạo đức học của I.Kant.<br /> Thực chất học thuyết về phương pháp chính là quan niệm của Kant về giáo dục đạo đức<br /> trong thực tiễn. Tuy nhiên, ông chỉ dừng lại ở việc khái quát những nguyên tắc phương pháp<br /> luận của việc hiện thực hóa các giá trị, chuẩn mực đạo đức vào thực tiễn. Trong bài viết<br /> này, tác giả trình bày những nội dung cơ bản trong học thuyết về phương pháp của Kant, từ<br /> đó chỉ ra giá trị hiện thời của nó.<br /> Từ khóa: I.Kant, đạo đức học, đạo đức học Kant, triết học Kant, triết học đạo đức.<br /> <br /> 1.<br /> <br /> Mở đầu<br /> <br /> Đạo đức xã hội ở Việt Nam hiện nay đang có những biểu hiện suy thoái nghiêm trọng, điều<br /> đó được thể hiện trong nhiều hiện tượng và hành vi vô đạo đức đang xuất hiện hàng ngày với mức<br /> độ ngày càng nghiêm trọng. Việc nghiên cứu về đạo đức và vấn đề giáo dục đạo đức trong lịch tư<br /> tưởng phương Đông và phương Tây góp phần xây dựng phương pháp giáo dục đạo đức có ý nghĩa<br /> to lớn đối với việc cải thiệc thực trạng đạo đức ở Việt Nam hiện nay.<br /> I.Kant là một trong những nhân vật tiêu biểu của nền triết học phương Tây thời kì cận đại.<br /> Nói về lí luận đạo đức thời kì này phải kể đến đạo đức học của Kant. Nghiên cứu về đạo đức học<br /> Kant, cho đến nay, đã có nhiều bài viết và các công trình nghiên cứu, tiêu biểu phải kể đến: Chủ<br /> nghĩa nhân đạo trong đạo đức học của I. Kant. Ảo tưởng hay hiện thực? (qua việc phân tích ý<br /> tưởng của I. Kant hướng tới một nền hoà bình vĩnh cửu) (2005) của Nguyễn Quang Hưng [3];<br /> "Hướng tới nền hòa bình vĩnh cửu" - Khát vọng của nhân loại (kỉ niệm 210 năm ra đời tác phẩm<br /> "Hướng tới nền hòa bình vĩnh cửu" của I.Cantơ) (2005) của Nguyễn Thị Phương Mai [6], Vấn đề<br /> giá trị đạo đức trong đạo đức học Cantơ (2006) của Vũ Thị Thu Lan (2006) [5]; . . . Tuy nhiên,<br /> cho đến nay, hầu như chưa có bài viết nào về phương pháp giáo dục đạo đức trong đạo đức học của<br /> I. Kant. Vì vậy, trong bài viết này, tác giả sẽ trình bày những nội dung cụ thể trong học thuyết về<br /> phương pháp của I.Kant từ đó rút ra những giá trị hiện thời của nó.<br /> <br /> Ngày nhận bài: 15/1/2015. Ngày nhận đăng: 2/5/2016<br /> Liên hệ: Vũ Thị Hải, e-mail: vuhai100286@gmail.com<br /> <br /> 93<br /> <br /> Vũ Thị Hải<br /> <br /> 2.<br /> 2.1.<br /> <br /> Nội dung nghiên cứu<br /> I.Kant và tác phẩm Phê phán lí tính thực hành<br /> <br /> I.Kant (1724 - 1804) được biết đến với tư cách là một triết gia, một nhà khoa học tự nhiên<br /> người Đức nổi tiếng thế kỉ XVIII. Ông sinh ra ở Koenigsberg - một thành phố miền Đông nước<br /> Phổ (Đức), trong một gia đình làm nghề thuộc da và theo đạo Tin lành. Kant có một người mẹ là<br /> một tín đồ sùng đạo, đức tin nơi người mẹ đã vun trồng mầm thiện nơi cho ông và khiến ông trở<br /> thành một tín đồ Tin lành đến suốt cuộc đời. Đó cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng rất lớn<br /> đế hệ thống tư tưởng của Kant.<br /> Kant đã trải nghiệm một nền giáo dục tốt và đạt được nhiều thành tựu trong cuộc đời. Năm<br /> 30 tuổi ông đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ với tên đề tài Lịch sử tự nhiên và lí thuyết về<br /> thiên hà (1755). Năm 1770, Kant trở thành giáo sư Lôgic học và Siêu hình học tại trường Đại học<br /> Koenigsberg. Năm 1786, ông trở thành Hiệu trưởng trường Đại học Koenigsberg và năm1787, ông<br /> được bầu làm viện sỹ Viện Hàn lâm khoa học Hoàng gia Phổ ở Berlin. Ông đã để lại cho nền triết<br /> học phương Tây nói chung và triết học Đức nói riêng nhiều tác phẩm có giá trị lớn về khoa học và<br /> tư tưởng: Sự ma sát của thủy triều (1954); Lịch sử tự nhiên và lí thuyết về bầu trời (1955); Đặt cơ<br /> sở cho siêu hình học về luân lí (1785); Phê phán lí tính thuần túy (1781); Phê phán lí tính thực<br /> hành (1788); Phê phán năng lực phán đoán (1790); Tôn giáo trong giới hạn của lí tính (1793);<br /> Hướng tới một nền hòa bình vĩnh cửu (1795); Siêu hình học về luân lí (1797);. . .<br /> Cả cuộc đời, Kant không đi ra khỏi thành phố quê hương, thậm chí là một vài dặm. Vì sức<br /> khỏe yếu, ông phải sinh hoạt theo một thời khóa biểu nghiêm ngặt, cứng nhắc. Buổi sáng ông thức<br /> dậy lúc 5 giờ để chuẩn bị bài lên lớp giảng dạy. Sau mỗi buổi giảng dạy, ông lại dành thời gian để<br /> nghiên cứu khoa học, đọc sách và suy ngẫm. Đến 4 giờ chiều thì ông đi dạo và đi ngủ vào lúc 10<br /> giờ đêm. Thời gian biểu của ông được thực hiện một cách đều đặn, nghiêm túc, vì thế khi ông ra<br /> khỏi nhà thì người dân sống trong vùng biết lúc đó là mấy giờ để lên giây cót đồng hồ. Ông mất<br /> vào năm 1804 tại thành phố quê hương nơi mà ông đang sống.<br /> Tác phẩm Phê phán lí tính thực hành là một tác phẩm quan trọng trong hệ thống những<br /> nguyên tác của Kant, nằm trong bộ ba tác phẩm “Phê phán”: Phê phán lí tính thuần túy; Phê phán<br /> lí tính thực hành; Phê phán năng lực phán đoán. Nếu như tác phẩm Phê phán lí tính thực hành tập<br /> trung lí giải các vấn đề về nhận thức luận; tác phẩm Phê phán năng lực phán đoán giải quyết các<br /> vấn đề của thẩm mĩ học thì tác phẩm Phê phán lí tính thực hành lại tập trung vào các vấn đề của<br /> đạo đức. Tác phẩm này có vị trí quan trọng bậc nhất trong hệ thống tác phẩm về đạo đức học của<br /> Kant. Tác phẩm được chia làm hai phần: phần I: Học thuyết cơ bản về lí tính thuần túy thực hành;<br /> phần II: Học thuyết về phương pháp của lí tính thuần túy thực hành. Ở phần I, ông đã trình bày<br /> những vấn đề cơ bản của đạo đức: nguyên tắc, đối tượng, động cơ của đạo đức. Ở phần II, trên cơ<br /> sở làm rõ những vấn đề cơ bản của đạo đức, Kant đã vạch ra những nguyên tắc phương pháp luận<br /> của việc thực hành đạo đức. So với phần I, phần II tuy ngắn hơn nhiều về dung lượng nhưng lại có<br /> vị trí quan trọng trong đạo đức học của Kant và chứa đựng những quan niệm có giá trị thực tiễn to<br /> lớn.<br /> <br /> 2.2.<br /> <br /> Những nội dung cơ bản của học thuyết về phương pháp giáo dục đạo đức<br /> của I.Kant trong tác phẩm Phê phán lí tính thực hành<br /> <br /> Học thuyết về phương pháp giáo dục đạo đức trong đạo đức học Kant được trình bày ở phần<br /> II của tác phẩm Phê phán lí tính thực hành với tiêu đề “Học thuyết về phương pháp của lí tính<br /> thuần túy thực hành”. Học thuyết được ông trình bày sau khi giải quyết toàn diện những vấn đề cơ<br /> 94<br /> <br /> Học thuyết về phương pháp giáo dục đạo đức của I. Kant trong tác phẩm Phê phán lí tính thực hành<br /> <br /> bản trong đạo đức học: nguyên tắc, đối tượng, động cơ và mục đích của đời sống đạo đức. Kant<br /> xác lập nhiệm vụ của ông trong Học thuyết về phương pháp là để “(. . . ) phác họa những châm<br /> ngôn tổng quát nhất cho phương pháp luận của việc đào luyện và thực tập luân lí” [4;278]. Ông<br /> muốn vạch ra những nguyên tắc mang tính phương pháp luận cho sự thực hành đạo đức trong đời<br /> sống hiện thực.<br /> Kant đã bắt đầu học thuyết của mình bằng việc làm rõ khái niệm “học thuyết về phương<br /> pháp” hay là phương pháp giáo dục đạo đức. Ông viết, “ta hiểu “học thuyết về phương pháp” là<br /> phong cách làm sao để những quy luật của lí tính thuần túy thực hành có thể đi vào trong tâm thức<br /> con người và có ảnh hưởng lên những châm ngôn của tâm thức ấy, nghĩa là, nhờ đó ta biến lí tính<br /> thực hành khách quan thành lí tính thực hành chủ quan” [4;265]. Mục đích của Kant trong Học<br /> thuyết về phương pháp là phác họa phương pháp nhằm thiết lập và vun bồi những ý đồ hay tình<br /> cảm luân lí. Thực chất của phương pháp ấy là con đường để xây dựng động cơ luân lí thuần túy có<br /> thể mang lại giá trị đạo đức cho hành vi.<br /> Kant cho rằng, hạn chế lớn nhất trong hành vi đạo đức của con người từ trước đến nay là<br /> nó không đạt đến giá trị đạo đức thuần túy, vì trong cuộc sống con người thường bị quy định bởi<br /> những ham muốn, dục vọng mà ông gọi là những động cơ cảm tính. Những động cơ cảm tính ấy,<br /> hoặc dẫn dắt con người ra khỏi “đường ray luân lí”, hoặc khiến họ nằm trong đường ray ấy một<br /> cách nửa vời. Những hành vi của họ, hoặc là hoàn toàn sai quy luật đạo đức hoặc là chỉ có tính hợp<br /> lệ so với những quy luật ấy mà thôi. Vấn đề đặt ra là phải làm sao để con người trở về với “đường<br /> ray luân lí” hay là giúp con người sống một đời sống đạo đức thực sự mà ông gọi là “thuần túy”?<br /> Đó cũng chính là lí tưởng đạo đức mà xã hội loài người đang hướng tới.<br /> Trong thời đại của Kant, có nhiều yếu tố tham gia vào việc giáo dục đạo đức cho công dân<br /> nhưng chưa thực sự đạt được kết quả, vì thế đạo đức xã hội vẫn mang tính nửa vời. Những phương<br /> pháp giáo dục đạo đức trong thời đại của Kant là giáo dục đạo đức bằng luật pháp và giáo dục đạo<br /> đức trong trường học. Luật pháp tham gia vào giáo dục đạo đức cho các công dân bằng việc đưa ra<br /> những quy phạm điều chỉnh hành vi và những hình thức trừng phạt, răn đe. Trong chừng mực nhất<br /> định, nó cũng có ý nghĩa lớn đối với đời sống đạo đức, ở chỗ đã đem lại tính hợp lệ cho hành vi<br /> của mỗi công dân và đó là bước đầu tiên trong tiến trình vươn tới một đời sống đạo đức đích thực<br /> - “thuần túy”. Nhưng theo Kant, pháp luật chỉ như là “chiếc xe tập đi” trên con đường của đạo đức<br /> mà thôi.<br /> Giáo dục đạo đức trong nhà trường ở thời đại của Kant cũng không đem lại nhiều kết quả.<br /> Như Kant nói, trong thời đại ấy “người ta đang hi vọng có thể tác động lên tâm hồn bằng những<br /> tình cảm mềm yếu, ủy mị hoặc những tham vọng bay bổng, rỗng tuếch làm khô héo trái tim thay<br /> vì tăng cường cho nó” [4;272]. Ở thời đó, trong nhà trường, các thầy giáo giáo dục đạo đức cho<br /> học sinh bằng cách đưa ra những mẫu hình lí tưởng với những con người thực hiện những hành vi<br /> cao cả, vĩ đại, phi thường. Trong các sách giáo khoa về đạo đức cũng tràn ngập những tấm gương<br /> về những người anh hùng như vậy. Theo Kant, phương pháp giáo dục đó không mang lại lợi ích gì<br /> về lâu dài mà thậm chí còn có hại cho học sinh, bởi những câu chuyện ấy chỉ tạo ra cho học sinh<br /> những cảm xúc nhất thời, rồi sau đó lại lắng dịu xuống ngay và thậm chí khiến chúng rơi vào tình<br /> trạng bạc nhược. Vậy điều cốt yếu là làm sao cho học sinh ý thức về việc thực hiện hành vi đạo<br /> đức là thực hiện những nghĩa vụ, bổn phận của mình và xuất phát từ lòng tôn kính đối với quy luật<br /> đạo đức. Để làm được điều đó thì phải tìm ra một phương pháp khác những phương pháp đương<br /> thời. Đó là lí do Kant trình bày phương pháp của ông.<br /> Mục đích cốt lõi của phương pháp giáo dục đạo đức, theo Kant là nhằm thiết lập nên động<br /> cơ luân lí thuần túy cho mỗi chủ thể đạo đức. Động cơ luân lí thuần thúy, theo quan niệm của Kant,<br /> là việc thực hành đạo đức từ lòng tôn kính đối với quy luật đạo đức mà không vì bất cứ lí do gì<br /> 95<br /> <br /> Vũ Thị Hải<br /> <br /> khác. Để đạt được điều đó, Kant vạch ra hai bước của phương pháp giáo dục đạo đức:<br /> Thứ nhất là thực hành thói quen quan sát và phán đoán đạo đức. Theo Kant, người thầy<br /> giáo hãy tập cho các học sinh thói quen quan sát về hành vi của những người xung quanh và đánh<br /> giá về nó. Thầy giáo cũng có thể kể cho các học sinh nghe những câu chuyện về những con người<br /> có thật trong cuộc sống đời thường với những hành vi của họ, hoặc để cho các học sinh quan sát<br /> những hành động của những con người cụ thể mà bản thân các em gặp. Sau đó, người thầy giáo sẽ<br /> yêu cầu các học sinh nhận xét, đánh giá về hành vi của người đó là tốt hay xấu, đúng hay sai. Thói<br /> quen đó dần dần làm hình thành trong mỗi học sinh sự phân biệt rạch ròi giữa cái đúng sai, thiện<br /> ác và lòng yêu quý đối với những điều đúng đắn, lương thiện, thuần khiết và khinh ghét cái ác, cái<br /> xấu, sự giả dối. Thói quen ấy cần được đào luyện thường xuyên, liên tục giúp mài sắc khả năng<br /> phán đoán đạo đức cho học sinh ngay từ khi còn nhỏ.<br /> Trong việc thực hành quan sát và phán đoán đạo đức của học sinh, người thầy giáo có nhiệm<br /> vụ hướng dẫn để học sinh biết cách đánh giá về giá trị của hành vi đạo đức: hành vi nào đó có đúng<br /> hay không về nguyên tắc? về động cơ? Có giá trị đạo đức thực sự không hay chỉ có tính hợp lệ<br /> về đạo đức? Người thầy giáo còn có nhiệm vụ giúp học sinh phân biệt những nghĩa vụ khác nhau<br /> trong một hành vi đạo đức. Kant cho rằng, trong một hành vi đạo đức có những nghĩa vụ cơ bản<br /> và những nghĩa vụ không cơ bản: nghĩa vụ cơ bản là nghĩa vụ mà người khác có quyền đòi hỏi ta<br /> phải làm; nghĩa vụ không cơ bản là những điều người khác mong đợi ta làm cho họ. Từ đó, học<br /> sinh sẽ hiểu rõ hành vi từ hai mặt: tính hợp lệ và tính luân lí. Có những hành vi có thể đúng nhưng<br /> chưa hẳn đã có giá trị đạo đức thực sự hoặc có những hành vi đã đạt được giá trị đạo đức thực sự.<br /> Việc xây dựng thói quen quan sát và phán đoán đạo đức cho học sinh nhằm thu hút sự quan<br /> tâm của chúng đối với đời sống đạo đức, hành vi đạo đức và đặt nền móng cho tình yêu của chúng<br /> đối với cái thiện, cái tốt và khinh chê cái xấu, cái ác. Kant ví con đường đến với đạo đức giống<br /> như: “Một nhà nghiên cứu về Tự nhiên rút cục đi đến chỗ yêu thích những đối tượng mà lúc đầu<br /> giác quan họ rất khó chịu, khi ông ta phát hiện trong chúng tính hợp mục đích lớn lao về mặt tổ<br /> chức của chúng, khiến cho lí tính của ông ta thấy bổ ích trong việc nghiên cứu chúng” [4;276].<br /> Mục đích cuối cùng của bước thực hành này là vun đắp một nền móng tốt đẹp trong tâm hồn các<br /> học sinh để dẫn chúng đến một cuộc đời ngay thẳng, công chính trong tương lai. Đó là toàn bộ<br /> những việc làm của bước đi thứ nhất trên con đường đến với một đời sống đạo đức đích thực.<br /> Kant cho rằng, “Việc làm này mới chỉ khiến ta thích thú đi vào sự bình phẩm như thế và nó<br /> mang lại cho đức hạnh hay lề lối suy tư phù hợp với những quy luật luân lí một hình thức của vẻ<br /> đẹp (thẩm mĩ) được ngưỡng mộ những chưa phải đã được cầu tìm” [4;276]. Đó là lí do cần phải<br /> thực hiện bước thứ hai của phương pháp giáo dục đạo đức. Bước thứ hai của phương pháp giáo<br /> dục đạo đức “là sự trình bày sống thực về ý đồ luân lí bằng những ví dụ điển hình, trong đó sự chú<br /> ý được hướng đến tính thuần túy của ý chí (. . . )” [4;276]. Nội dung của bước thực tập thứ hai là<br /> việc thực hành đạo đức trong đời sống hàng ngày mà Kant gọi là “trình bày sống thực”. Mục đích<br /> quan trọng và cốt lõi nhất của bước thứ hai - thực hành đạo đức không chỉ dừng lại ở việc thực<br /> hiện đúng quy luật đạo đức mà quan trọng hơn là xác lập trong mỗi học sinh một động cơ đạo đức<br /> thuần túy là lòng tôn kính đối với quy luật đạo đức.<br /> Trong quá trình thực hành đạo đức học, học sinh luôn phải giải quyết mâu thuẫn diễn ra<br /> trong nội tâm mỗi người. Nếu thực hiện những hành vi đạo đức thì chúng buộc phải từ bỏ những<br /> ham muốn, dục vọng đời thường và ngược lại nếu lựa chọn những ham muốn đời thường thì không<br /> thể thực hành những hành vi đạo đức. Việc thực hành đạo đức buộc học sinh phải từ bỏ ham muốn,<br /> dục vọng, điều đó đã tạo nên những cảm giác đau đớn, khó chịu, không hài lòng đối với chúng. Tuy<br /> nhiên, bên cạnh những cảm giác tiêu cực ấy đã xuất hiện những cảm giác tích cực từ một nguồn<br /> khác. Cảm giác tích cực là cảm giác được giải thoát, trút bỏ những gánh nặng, sự ràng buộc tâm<br /> 96<br /> <br /> Học thuyết về phương pháp giáo dục đạo đức của I. Kant trong tác phẩm Phê phán lí tính thực hành<br /> <br /> hồn do những ham muốn, dục vọng của bản thân người thực hành gây ra. Kant gọi những cảm giác<br /> tích cực ấy là “Tự do nội tâm” trong con người.<br /> Sự “Tự do nội tâm”, trút bỏ gánh nặng từ những ham muốn, dục vọng đã đem lại cảm giác<br /> mãn nguyện và lòng tôn kính đối với chính bản thân người thực hành. Cho đến khi, người thực<br /> hành không còn thấy e sợ điều gì và thậm chí khinh dẻ chính mình khi vi phạm quy luật đạo đức,<br /> đó là lúc quy luật đạo đức đã được xác lập vững vàng trong tâm hồn người thực hành. Kant viết:<br /> “Một khi điều này đã được xác lập vững vàng, một khi con người không còn e sợ điều gì hơn là,<br /> thông qua sự tự kiểm, thấy chính mình không xứng đáng và đáng khinh ngay trong mắt của chính<br /> mình, bấy giờ ý đồ luân lí thiện hảo mới có thể thực sự được cấy ghép, bởi đó là kẻ gác cổng tốt<br /> nhất, thậm chí, duy nhất có thể đẩy lùi sức ép của những động lực xấu xa và đồi bại” [4;277]. Như<br /> vậy, việc thực hành đạo đức đã giải phóng con người dần dần thoát tâm hồn khỏi sự cầm tù của<br /> những ham muốn, dục vọng và thay vào đó xác lập vững chắc trong tâm hồn học sinh lòng tôn<br /> kính đối với quy luật đạo đức. Đó chính là động cơ thuần túy khiến cho những hành vi có giá trị<br /> đạo đức, đó cũng là điều kiện đẩy đủ của đời sống đạo đức chân chính.<br /> <br /> 2.3.<br /> <br /> Giá trị của học thuyết về phương pháp giáo dục đạo đức của I.Kant trong<br /> tác phẩm Phê phán lí tính thực hành<br /> <br /> Học thuyết về phương pháp giáo dục đạo đức của I.Kant đã đưa ra quan niệm về phương<br /> pháp giáo dục đạo đức, một vấn đề mà ít triết gia bàn tới. Kant đã nói về Học thuyết về phương<br /> pháp của ông: “Ở đây tôi chỉ muốn phác họa những châm ngôn tổng quát nhất cho phương pháp<br /> luận của việc đào luyện và thực tập luân lí. Vì lẽ tính đa tạp của những nghĩa vụ đòi hỏi những sự<br /> quy định đặc thù cho từng loại, và đó ắt sẽ là một công việc rất dài dòng, nên tôi thành thật cáo lỗi<br /> nếu trong một tác phẩm như thế này, vốn chỉ có tính sơ bộ, tôi đành vừa lòng với những nét phác<br /> họa cơ bản ấy mà thôi”[4;278]. Ở đây, Kant đã vạch ra những quy tắc tổng quát cho việc đào luyện<br /> và thực tập luân lí mà ông gọi đó là “những châm ngôn tổng quát cho phương pháp luận của việc<br /> đào luyện và thực tập luân lí” [4;277]. Học thuyết về phương pháp của Kant chứa đựng nhiều giá<br /> trị thực tiễn sâu sắc.<br /> Học thuyết về phương pháp của I.Kant chỉ ra việc giáo dục đạo đức phải trải qua hai giai<br /> đoạn: Thứ nhất, quan sát và phán đoán đạo đức; Thứ hai, thực hành đạo đức. Quan niệm của ông<br /> hoàn toàn hợp quy luật của quá trình nhận thức và hành động. Hành động chỉ thực sự có giá đạo<br /> đức khi nó được thực hiện như mệnh lệnh tuyệt đối, vô điều kiện, xuất phát từ lòng tôn kính đối<br /> với quy luật và ý thức về bổn phận đạo đức. Hành động đạo đức là hành động tự giác, xuất phát từ<br /> ý chí tự do. Người thực hành đạo đức chỉ hành động tự do, tự giác khi ý chí đã quy phục hoàn toàn<br /> những quy luật đạo đức. Những điều Kant khái quát đã vạch phương pháp luận đúng đắn cho quá<br /> trình đưa đạo đức vào đời sống hiện thực của con người. Từ “quan sát” đến “thấu hiểu” và “thực<br /> hành” là những bước tất yếu của quá trình đạo đức. Học thuyết phương pháp của Kant có ý nghĩa<br /> lớn trong việc định hướng hành động của con người và có thể áp dụng nó vào công tác giáo dục<br /> đạo đức trong thực tiễn.<br /> Bên cạnh đó, quan niệm về giáo dục đạo đức của Kant còn có ý nghĩa trong việc định hướng<br /> giá trị đạo đức cho con người trong xã hội hiện đại. Trong bối cảnh hiện nay, lối sống thực dụng,<br /> vụ lợi của giới trẻ đang ngày càng trở nên trầm trọng hơn. Một căn bệnh trầm kha của xã hội dưới<br /> sự ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, con người luôn mưu cầu lợi ích coi nhẹ nghĩa tình, giá trị<br /> và bổn phận đạo đức. Đạo đức học Kant đã chỉ cho xã hội hiện đại thấy được bản chất thực sự của<br /> đạo đức chính là mệnh lệnh tuyệt đối vô điều kiện, loại trừ mọi lợi ích của người thực hành đạo<br /> đức. Hành động đạo đức chỉ đơn giản là để thực hiện đúng nghĩa vụ, bổn phận đạo đức vì lòng tôn<br /> 97<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
65=>2