ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------------------

CHU MAI ANH

ẢNH HƯỞNG CỦA DUNG THÔNG TAM GIÁO

ĐẾN TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở VIỆT

NAM THỜI LÝ – TRẦN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2015-X

Hà Nội - 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------------------

CHU MAI ANH

ẢNH HƯỞNG CỦA DUNG THÔNG TAM GIÁO

ĐẾN TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

THỜI LÝ – TRẦN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2015-X

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS NGUYỄN THANH BÌNH

Hà Nội - 2019

Lời cảm ơn

Trong suốt quá trình làm khoá luận, đã có rất nhiều cá nhân cùng cộng

đồng đã giúp đỡ, hộ trợ em. Trước tiên với tình cảm sâu sắc và chân thành

nhất, cho phép em được bày tỏ lòng biết ơn đến tất cả các cá nhân và tổ chức

đã tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu

đề tài này.

Để hoàn thành khóa luận này, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS

Nguyễn Thanh Bình, đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá

trình viết Khoá luận tốt nghiệp.

Em chân thành cảm ơn quý thầy, cô trong khoa Triết học cùng Bộ môn

Tôn giáo học, Trường Đại học KHXH và NV đã tận tình truyền đạt kiến thức

trong những năm em học tập. Với vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình

học không chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên cứu khóa luận mà còn là hành

trang quí báu để em bước vào đời một cách vững chắc và tự tin.

Do kinh nghiệm thực tế còn non yếu, nên chắc chắn em còn nhiều thiếu

sót nên rất mong các thầy cô bỏ qua. Đồng thời mong nhận được nhiều ý kiến

đóng góp từ các thầy cô để giúp em tích lũy thêm kinh nghiệm để hoàn thiện

bài báo cáo tốt nghiệp sắp tới đạt kết quả tốt hơn. Em xin kính chúc quý thầy,

cô dồi dào sức khỏe và thành công trong sự nghiệp cao quý.

Hà Nội, ngày 29 tháng 4 năm 2019

Chu Mai Anh

Em xin chân thành cảm ơn!

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khoá luận ......................................... 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khoá luận ...................................... 2

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 3

5. Kết cấu của khoá luận ................................................................................... 3

NỘI DUNG ....................................................................................................... 4

CHƯƠNG 1. ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ DUNG THÔNG TAM

GIÁO Ở VIỆT NAM THỜI LÝ – TRẦN ..................................................... 4

1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội thời Lý – Trần ................................................... 4

1.2 Những nhiệm vụ chính trị thực tiễn đặt ra ................................................ 12

1.3 Những tiền đề tư tưởng cho sự dung thông tam giáo Nho – Phật – Đạo .......... 17

1.3.1 Khái quát chung về Nho giáo ................................................................. 17

1.3.2 Khái quát chung về Phật giáo ................................................................ 28

1.3.3 Khái quát về Đạo giáo ........................................................................... 34

CHƯƠNG 2. NHỮNG ẢNH HƯỞNG NỔI BẬT CỦA DUNG THÔNG

TAM GIÁO TRONG LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI THỜI LÝ –

TRẦN .............................................................................................................. 41

2.1 Ảnh hưởng của sự dung thông tam giáo đến đường lối trị nước thời Lý –

Trần ................................................................................................................. 41

2.2 Ảnh hưởng của sự dung thông tam giáo trong việc xây dựng và phát triển

giáo dục - khoa cử ........................................................................................... 46

2.3 Ảnh hưởng của sự dung thông tam giáo đến việc xây dựng và thực thi

phát triển pháp luật .......................................................................................... 57

KẾT LUẬN .................................................................................................... 64

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 66

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Dung thông tam giáo ở Việt Nam thời Lý – Trần là một hướng nghiên cứu

quan trọng, luôn có ý nghĩa lý luận và tính thời sự cấp thiết. Bởi vì, Nho –

Phật – Đạo là các học thuyết triết học – tôn giáo có nguồn gốc từ Trung Quốc

và Ấn Độ, chúng đã sớm du nhập vào nước ta và dần chiếm một vị trí quan

trọng trong kiến trúc thượng tầng của xã hội phong kiến Việt Nam, đã ảnh

hưởng và tác động tới nhiều mặt của đời sống xã hội. thời Lý – Trần, Nho

giáo cùng với Phật giáo và Đạo giáo trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác

động mạnh mẽ vào các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực

chính trị. Để hiểu rõ hơn vai trò, vị trí, đánh giá những ảnh hưởng của dung

thông tam giáo trong lĩnh vực chính trị, chúng ta phải đặt nó trong những điều

kiện kinh tế -xã hội cụ thể mà ở đó nó tồn tại và phát triển. Vì vậy, việc cần

thiết phải đi sâu vào việc nghiên cứu thời kỳ Việt Nam khôi phục nền độc lập

tự chủ, xây dựng và phát triển quốc gia Đại Việt với sự dung thông của ba tôn

giáo chính Nho – Phật – Đạo là hướng tiếp cận quan trọng, có ý nghĩa bản lề.

Có điều, qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu về dung thông tam giáo thời

Lý – Trần tại Việt Nam chúng tôi thấy rằng, các công trình tìm hiểu ảnh

hưởng của dung thông tam giáo thời Lý -Trần đến lĩnh vực chính trị còn chưa

nhiều và có nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ, cần có sự nghiên cứu và xem xét sâu

hơn, tìm hiểu dung thông tam giáo Nho – Phật – Đạo ngay từ thời kỳ nó có

những bước phát triển mạnh mẽ ban đầu và trên nhiều mặt Hơn nữa, việc

nghiên cứu dung thông tam giáo trong thời Lý -Trần còn giúp hiểu được khí

phách tự lập trong học phong, học thuật của ông cha ta lúc bấy giờ cũng như

bản lĩnh của dân tộc Việt Nam trong việc tiếp thu các yếu tố văn hoá ngoại

nhập. Từ đó, chúng ta có thể rút ra nhiều bài học quý giá trong việc bảo vệ và

1

phát triển nền văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập và giao lưu quốc tế.

Hiện nay, để phục vụ mục tiêu đổi mới và hội nhập quốc tế trong bối cảnh

toàn cầu hoá thành công, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước,… thì việc nghiên cứu di sản dung thông tam giáo Nho

– Phật – Đạo ở Việt Nam càng trở thành một nhu cầu thiết yếu. Việc nghiên

cứu ấy nhằm đưa ra những căn cứ để đánh giá một cách khách quan về đặc

điểm và nội dung, những ảnh hưởng và giá trị của dung thông tam gíao trong

lĩnh vực chính trị đối với lĩnh vực chính trị dân tộc thời Lý – Trần, từ đó có

thái độ và căn cứ đúng đắn trong việc tiếp thu những di sản của quá khứ để

xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Vì những lý do trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề nghiên cứu “Ảnh hưởng

của dung thông tam gíao Nho – Phật – Đạo trong lĩnh vực chính trị - xã hội ở

Việt Nam thời Lý -Trần” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khoá luận

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là ảnh hưởng của dung thông tam

giáo Nho – Phật – Đạo trong lĩnh vực chính trị - xã hội ở Việt Nam thời Lý –

Trần

2.2. Phạm vi nghiên cứu của khoá luận

Phạm vi nghiên cứu của khoá luận là những ảnh hưởng của dung thông

tam giáo trong lĩnh vực chính trị - xã hội cụ thể là ở ba phương diện sau:

đường lối trị nước, giáo dục – khoa cử và pháp luật.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khoá luận

3.1 Mục đích của khoá luận

Mục đích của khoá luận là trình bày một cách có hệ thống ảnh hưởng

của việc dung thông tam giáo ở Việt Nam trong lĩnh vực chính trị - xã hội

thời Lý -Trần

3.2 Nhiệm vụ của khoá luận

Nhiệm vụ của khoa luận là phân tích khái quát điều kiện và tiền đề cho

2

sự dung thông tam giáo Nho – Phật – Đạo ở Việt Nam thời Lý – Trần.

Phân tích ảnh hưởng của dung thông tam giáo Nho – Phật – Đạo trong

lĩnh vực chính trị - xã hội ở Việt Nam thời Lý – Trần.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1 Cơ sở lý luận

Cơ sở lý luận của khoá luận là những nguyên lý cơ bản của triết học

Mác – Lênin, quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam về xã

hội và con người

4.2 Phương pháp nghiên cứu của khoá luận

Phương pháp nghiên cứu của khoá luận là phương pháp biện chứng

duy vật của Triết học Mác – Lênin, phương pháp nghiên cứu lịch sử triết học

và kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu khoa học như : phân tích –

tổng hợp, logic – lịch sử, đối chiếu – so sánh,…

5. Kết cấu của khoá luận

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung khoá luận gồm hai chương :

Chương 1 : Điều kiện và tiền đề cho sự dung thông tam giáo thời Lý – Trần

Chương 2 : Những ảnh hưởng nổi bật của dung thông tam giáo đền lĩnh vực

3

chính trị - xã hội thời Lý – Trần

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ DUNG THÔNG TAM

GIÁO Ở VIỆT NAM THỜI LÝ – TRẦN

1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội thời Lý – Trần

Sau hơn một nghìn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, với chiến

thắng Bạch Đằng năm 938, nước ta đã bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên

độc lập dân tộc. Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV là thời kỳ đất nước ta đạt được

sự ổn định về kinh tế, chính trị, văn hoá và thống nhất dân tộc - những tiền đề

quan trọng tạo nên sự phát triển rực rỡ trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã

hội, thể hiện sức sống của dân tộc trong thời kỳ Lý - Trần.

Trong thời kỳ này, vấn đề phát triển kinh tế được nhà nước phong kiến

đặc biệt quan tâm, vì đó là cơ sở để ổn định tình hình chính trị - xã hội.

Về kinh tế, bằng các chính sách khác nhau, nông nghiệp được đưa lên vị

trí hàng đầu. Nông nghiệp phát triển kéo theo sự phát triển của thủ công

nghiệp, nhiều nghề của nước ta được hình thành và phát triển, như đồ gốm,

dệt gấm, kiến trúc... Kinh tế Đại Việt vốn là nền kinh tế nông nghiệp lúa nước

cho nên triều Lý Trần thực hiện chính sách trọng nông, khuyến nông rất mạnh

mẽ. Nhà nước phong kiến Việt Nam thời Lý - Trần đã dùng nhiều biện pháp

nhằm phát triển nông nghiệp, tăng diện tích ruộng đất. Các vua còn thân

chinh xuống ruộng tịch điền cày mẫu để khuyến khích sản xuất nông nghiệp.

Triều Trần còn lập Ty khuyến nông, đặt các chức quan Hà đê chánh phó sứ.

Các vua Trần thường xuyên đi thăm việc đắp đê. Bên cạnh đó, nhà nước còn

thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông” nhằm kết hợp phát triển kinh tế với

bảo vệ an ninh, quốc phòng.

Thời Lý - Trần mở đầu cho nền văn minh Đại Việt, vì vậy kinh tế - xã

hội nói chung, thủ công nghiệp nói riêng, có bước phát triển đáng kể so với

4

trước đó. Kỹ thuật thủ công nghiệp góp phần đảm bảo mọi nhu cầu thiết yếu

của đời sống xã hội: ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, sinh hoạt....Thời kỳ này, sản

phẩm của nghề dệt cũng tạo nên nét văn hóa đặc sắc của ĐạiViệt. Nghề dệt

vốn đã nổi tiếng với những sản phẩm: tơ tằm, lông sợi, tơ chuối, đay gai.

Làng Nghi Tàm nổi tiếng với nghề dâu tằm, có công chúa Quỳnh Hoa (con

vua Lý Thần Tông) làm tổ sư nghề dệt. Công chúa xin vua cha ra tu ở chùa

Đống Long (tức chùa Kim Liên) và tại đây, Công chúa đã dạy cho dân làng

biết nghề tằm tang canh cửi. Thời kỳ này, nghề gốm đã sản xuất được khá

nhiều loại hình sản phẩm phục vụ đắc lực cho công cuộc kiến thiết đất nước,

tư liệu sinh hoạt, trang trí xa xỉ, xây dựng chùa chiền... Thời ấy, các làng gốm

đã nổi tiếng như: Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội)... Có thể nói, gốm Lý - Trần

là đỉnh cao của nghệ thuật gốm trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Nghệ

thuật đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc khắc hoạ nghệ thuật của các công

trình Phật giáo. Dưới thời Lý Trần, các nghề thủ công mỹ nghệ đã tiến một

bước khá dài. Nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Đại Việt được phong

kiến nước ngoài coi là báu vật. Khắp nông thôn miền xuôi, đâu cũng có thợ

rèn, thợ đúc... Ở miền núi, nghề khai mỏ rất phát đạt, hiện tượng mua bán

nhân công cũng đã xuất hiện. Một sử gia Trung Quốc viết: “Giao Chỉ có cái

lợi mỏ vàng, mới mua dân về làm nô.”

Các nghề mộc, nề, khắc chạm, sơn thếp cũng phát triển đáp ứng cho nhu

cầu xây dựng nhiều chùa chiền của nhà nước và nhân dân. Ngoài ra, nước ta

lúc đó còn có nghề in giấy, in bản gỗ đã ra đời. Sau khi Lý Công Uẩn dời đô

về Thăng Long, nhiều làng nghề làm giấy đã xuất hiện ở kinh thành như làng

Yên Thái, Yên Hoà (làng giấy), làng Hồ, làng Nghè (Nghĩa Đô)... Sản phẩm

đó phục vụ cho học hành, thi cử và để viết kinh Phật.

Từ đó, hình thành những trung tâm buôn bán lớn trong nước và ngoài

nước, như Thăng Long, Vân Đồn.

Nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của sản xuất và trao đổi, mạng lưới

5

giao thông thuỷ, bộ, hệ thống trạm dịch trong thời Lý – Trần cũng được mở

mang thêm. Từ Thăng Long toả đi các nơi có cả các hệ thống đường thuỷ, bộ;

nhất là trên các đường sông và ven biển đã có nhiều thuyền lớn đi lại tấp nập.

Trong giai đoạn này, "có thể nói, bộ mặt kinh tế của nước Đại Việt đã

phát triển với một sinh lực dồi dào và đạt đến trình độ khá cao”[26, 134].

Vấn đề ruộng đất là vấn đề quan trọng bậc nhất không chỉ trong thời kì

này mà ở các thời kỳ sau này của xã hội phong kiến Việt Nam. Đối với quốc

gia phong kiến như Đại Việt thời Lý Trần có nền kinh tế là nông nghiệp lúa

nước thì cơ sở tạo nên chế độ kinh tế đó chính là chế độ sở hữu ruộng đất.

Đặc điểm của quan hệ sản xuất của chế độ phong kiến Việt Nam nói chung và

của thời kỳ Lý – Trần nói riêng là chế độ sở hữu ruộng đất của nhà nước.

Những hình thức chia ruộng gồm có các loại ruộng công làng xã, điền trang

thái ấp, ruộng tư và ruộng của nhà chùa; nhưng hình thái tư hữu về ruộng đất

cũng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong chế độ sở hữu lúc bấy giờ.

Chế độ sở hữu ruộng đất thuộc về nhà nước có liên quan trực tiếp tới chế

độ canh tác dựa trên cơ sở thuỷ lợi. Dân tộc Việt Nam từ trước đều gắn với

nền nông nghiệp lúa nước. Nhận biết được sự cần thiết của vấn đề thuỷ lợi,

nhà Lý vào năm 1108 đã huy động nhân dân đắp đê Cơ Xá và đặc biệt là

công trình đắp đê Đỉnh Nhĩ hay còn gọi là đê Quai vạc dưới thời Trần.

Chính hình thức sở hữu ruộng đất của nhà nước đã quy định địa vị và quan

hệ qua lại của các tầng lớp xã hội trong sản xuất , quy định hình thức phân

phối sản phẩm của xã hội trong xã hội phong kiến. Hay nói cách khác, chế độ

này khiến cho sự phân hoá giai cấp hình thành nhưng sự hình thành của giai

cấp địa chủ chưa thực sự mạnh mẽ như dưới thời Trần. Đầu thời Trần , chế độ

tư hữu về ruộng đất càng ngày càng gia tăng. Thời kỳ này, nhà nước cho phép

bán ruộng đất công thành ruộng đất tư. Thích hợp với quan hệ kinh tế đó là

một xã hội có kết cấu giai cấp còn tương ứng. Giai cấp phong kiến thống trị là

tầng lớp quý tộc và quan liêu, đại biểu là vua nắm quyền hành trong triều đình

6

và xã hội. Tiếp đó là tầng lớp địa chủ lúc đầu còn ít nhưng về sau tăng dần lên.

Tăng lữ cũng là tầng lớp xã hội đáng kể và là lực lượng đông đảo từ cuối Bắc

thuộc đến đầu thời Trần. Nhà nước đã dùng tầng lớp này và tầng lớp Nho sĩ

mới xuất hiện để duy trì sự ổn định xã hội và củng cố quyền lực triều đình.

Xuất hiện tầng lớp trí thức, chủ yếu bao gồm nhà sư và nhà Nho. Nhà sư

trưởng thành từ hai dòng thiền Tinida lưu chi và Vô ngôn thông. Nhà Nho

trưởng thành từ giáo dục – khoa cử Nho học và trong đó có nhiều người tham

gia bộ máy hành chính của nhà nước phong kiến quân chủ. Các nhà sư còn

học cả các kinh sách của Nho giáo, của Đạo gia.

Đông đảo quần chúng nhân dân bị thống trị bao gồm nông dân các làng xã

lĩnh canh công điền, công thổ hoặc ruộng của địa chủ , nông nô, nô tỳ, thợ thủ

công, lái buôn,...

Một điều đáng chú ý ở thời kỳ này là sự trưởng thành của tầng lớp địa chủ

và tầng lớp nho sĩ. Sự trưởng thành này diễn ra trên cơ sở chế độ đại điền

trang dần dần nhường bước cho chế độ tư hữu ruộng đất. Nó làm cho cơ cấu

bộ máy nhà nước phong kiến từ thời Lý tới Trần có nhiều thay đổi lớn. Nho sĩ

dần dần thay thế những chức vụ quan trọng của nhà nước mà trước đó do tầng

lớp quý tộc nắm giữ. Đến cuối thời Trần, tầng lớp nho sĩ quan liêu cũng đã trở

thành chỗ dựa cho nhà vua trong việc trị nước.

Xã hội Đại Việt từ thế kỷ X trở đi, nhất là thời Lý - Trần, kinh tế thương

nghiệp phát triển lên một bước đáng kể,có những thành tựu rực rỡ. Tiền tệ

xuất hiện và sử dụng rộng rãi. Giao thông vận tải luôn được cải tạo và mở

rộng, góp phần tích cực cho ngoại thương phát triển.

Từ trước, thuyền buôn các nước phương Nam và phương Tây như Diệp

Điều (Gia va), Thiện (Miến Điện), Thiên Túc (Ấn Độ), An Tức (I răng), Đại

Tấn (Đông La Mã) đều đã qua lại buôn bán trên vùng biển nước ta. Đến thời

Lý - Trần, thuyền buôn các nước không những chỉ có qua lại ghé đậu mà còn

thực sự buôn bán trực tiếp với nước ta [29, 185]. Buôn bán giữa Đại Việt và

7

các nước khác lúc đó không chỉ là sự giao lưu kinh tế, mà kéo theo đó là giao

lưu văn hóa, tôn giáo. Chắc chắn Đại Việt lúc đó phải có sự giao lưu Phật

giáo trong nước và khu vực, đặc biệt với các nước láng giềng: Trung Quốc,

Chiêm Thành và xa hơn nữa là: Tây Vực, Miến Điện, Gia va, Ấn Độ... Năm

1187, “Có nhà sư Tây Vực đến. Vua xuống chiếu hỏi vua ấy có tài năng gì,

trả lời có tài sai bảo được hổ. Bảo thử tài, không hiệu nghiệm "[5, 878]. Năm

1311, “Lấy con gái của sư người Hồ là Chu Di Bà Lam vào cung. Nhà sư này

đời Nhân Tôn đã sang nước ta...” [5,526].

Dưới thời Trần, Tá Thánh thái sư Chiêu Văn Vương Nhật Duật là người

rất giỏi, thường giao lưu với nước ngoài, am hiểu phong tục các nước, lại nói

được tiếng các nước: Lại đến chơi chùa Tường Phù, nói chuyện với sư người

Tống, ngủ lại rồi về. Phàm là người nước ngoài đến kinh sư, thường kéo đến

chơi nhà, nếu là người Tống thì ngồi nghế đối nhau, đàm luận suốt ngày, là

người Chiêm hay người Man khác đều theo quốc tục của họ mà tiếp đãi [5,

558].

Đặc biệt, quan hệ ngoại giao giữa Đại Việt và Tống đã tạo điều kiện để du

nhập kinh Phật từ Trung Quốc, làm cho Phật pháp phát triển. Các nhà sư Đại

Việt lúc đó cũng chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng thiền Tông Trung Quốc.

Chẳng hạn như phái thiền Vô Ngôn Thông thời Lý, phái Thảo Đường, phái

Trúc Lâm Yên Tử là những phái chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Trung Hoa.

Cùng với nền chính trị độc lập nêu cao ý chí tự lực tự cường, nền kinh tế

có bước phát triển đạt được nhiều thành tựu rực rỡ, Đại Việt có một nền văn

hoá phát triển tương thích. Văn hoá Đại Việt thời Lý - Trần để lại một dấu ấn

khá đậm trong tiến trình phát triển lịch sử dân tộc. Như Lê Quý Đôn đã nhận

định “Nước Nam ở hai triều Lý - Trần nổi tiếng là văn minh.”

Nền giáo dục Nho học có tính chất thế tục do nhà nước phong kiến quản lý

đã xuất hiện, khác hẳn với nền giáo dục của nhà chùa. Điều này có tác động

trực tiếp vào sự hình thành của đội ngũ trí thức dân tộc và sự tuyển lựa nhân

8

lực cho bộ máy quan liêu; ảnh hưởng cả đến thế giới quan và những quy phạm

chính trị, đạo đức con người và hơn thế là phong cách tư duy trong sáng tác

văn học , nghệ thuật.

Thời kỳ này giáo dục được chú ý phát triển, thi cử được tiến hành để tuyển

người tài bổ sung vào hàng ngũ quan lại giúp việc cho triều đình .

Trên lĩnh vực văn học, nhiều áng thơ văn đặc sắc đã xuất hiện. Bên cạnh

những bài thơ và văn bia xoay quanh các chủ đề của đạo Phật là những áng

văn chính luận nổi tiếng phản ánh công cuộc dựng nước và giữ nước của dân

tộc. Trong đó, tiêu biểu là bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn. Đến thời Trần,

hoạt động thơ văn diễn ra rất sôi nổi, đặc biệt thời kỳ này chữ Nôm đã được

vận dụng rộng rãi. Chủ đề thơ văn thời kỳ này không những xoay quanh

những vấn đề của đạo Phật mà còn cả của đạo Nho và nhất là của đời sống

hiện thực. Chữ Nôm được đưa vào sử dụng đồng thời với chữ Hán tạo nên sự

phong phú trong các sáng tác đương thời, đạo Phật cũng nhờ đó mà phát triển

và ảnh hươngr rộng rãi vào trong nhân dân. Chữ Hán không thoả mãn được

nhu cầu quảng đại của quần chúng nhân dân. Chữ Nôm xuất hiện (có thể đã

được dùng khá phổ biến thời Trần) để ghi âm tiếng nói dân tộc, giảm bớt sự

phức tạp của chữ Hán và cùng chữ Hán đáp ứng rộng rãi hơn nữa nhu cầu của

xã hội. Tác phẩm Khoá hư lục của Trần Thái Tông được ít người biết đến bởi

sáng tác bằng chữ Hán, sau này Tuệ Tĩnh phải giải nghĩa bộ Kinh này bằng

quốc âm để phổ biến rộng rãi trong tín đồ của đạo Phật. Tác phẩm Cư trần lạc

đạo của Trần Nhân Tông được viết bằng chữ Nôm nên phổ biến rộng rãi, giúp

cho tư tưởng Phật giáo đến gần với quảng đại quần chúng.

Mặt khác, sự ra đời và sử dụng phổ biến chữ Nôm thể hiện tinh thần tự

chủ của dân tộc Đại Việt. Chữ Nôm là sản phẩm của văn hoá Đại Việt nhằm

phục vụ cho văn hóa Đại Việt. Không giống như chữ Hán được truyền bá từ

phương Bắc và ban đầu nó mang tính chất áp đặt, do người Hán sang xâm

lược đem theo.

Thời kỳ này, văn học nghệ thuật đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Do sự

9

phát triển chữ Nôm, bên cạnh ngôn ngữ vay mượn là chữ Hán nên văn học

thời Lý - Trần đã có nhiều tác phẩm có giá trị. Các tác phẩm văn học thời kỳ

này phản ánh tinh thần dân tộc, phát huy cao độ tính độc lập, tự chủ, tự cường

của một thời được gọi là “hào khí Đông A”. Có những tác phẩm tiêu biểu như:

bài “Nam quốc sơn hà" được xem là tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước;

“Hịch tướng sĩ”, bài “Phú sông Bạch Đằng”... với các tác giả lớn như: Trần

Quang Khải,Trần Quốc Tuấn, Trương Hán Siêu...Bên cạnh nêu cao tư tưởng

yêu nước, tự hào dân tộc, thơ văn Lý - Trần còn ca ngợi cảnh thiên nhiên giàu

đẹp như:

Sáng dậy mở cửa sổ

Xuân đi nào có hay

Một đôi bươm bướm trắng

Phất phơ lướt hoa bay

(Dịch thơ Trần Nhân Tông)

Một bộ phận không nhỏ đóng góp cho văn thơ Lý Trần là lực lượng

những tác gia là các nhà sư. Làm những bài kệ hầu như là sở thích, thói quen

của các nhà sư thời kỳ này. Thậm chí, đối đáp nhau họ còn dùng thơ. Trong

Thiền uyển tập anh, hầu như nhà sư nào trước khi thoát xác, họ cũng đọc một

bài kệ để lại cho đệ tử của mình. Nội dung chủ yếu của các bài kệ mang đậm

màu sắc Phật giáo. Các tác phẩm ấy cũng không tách khỏi tinh thần của thời

đại.Thời Lý - Trần cũng để lại nhiều văn bia dài, nhiều bài phú hay như: Đông

hồ bút, Trảm xà kiếm, Ngọc tỉnh liên, Thiên Hưng trấn...Ngoài ra, thể loại

truyện cũng ra đời như Báo cực truyện, Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái,

Nam ông mộng lục..Hai tác phẩm “Việt điện u linh”, “Lĩnh Nam chích quái”

hiện nay trở thành tư liệu quý để chúng ta tìm hiểu về tôn giáo, tín ngưỡng

Việt Nam giai đoạn này.

Thời kỳ này, các ngành nghệ thuật sân khấu, ca vũ nhạc cũng có những

tiến bộ đáng kể, đã xuất hiện một số loại hình ca kịch như ả đào, chèo, tuồng,..

10

Đặc biệt là thành tựu về kiến trúc và điêu khắc. Tiêu biểu là Văn Miếu, chùa

Một Cột, chùa Keo,… của thời Lý; đến nhà Trần, có cổ tháp Bình Sơn, chùa

Phật Tích, tháp Báo Thiên,…

Ngoài ra, thời kì này còn đánh dấu sự xuất hiện của sử học. Đáng chú ý

nhất là bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu

Một số ngành như thiên văn, lịch pháp, y học của dân tộc đã xuất hiện và

có những thành tích đáng chú ý với đại biểu như Đặng Lộ và Trần Nguyên

Đán trong lĩnh vực lịch pháp; hay nhà y học và dược học lỗi lạc là Tuệ Tĩnh.

Chúng ta còn biết khoa học kĩ thuật thời Trần đã chế tạo súng thần

công.Hồ Nguyên Trừng là người nắm vững kĩ thuật đó. Theo Trần Quốc

Vượng - Hà Văn Tấn:

Ngày nay, chúng ta còn được đọc những điều ghi chép về các máy tự

động thời Lý. Bia Sùng thiện diên linh ở núi Đọi (Hà Nam, dựng năm 1121)

có chép về máy Kim Ngao:

“Ngày trung thu và ngày Tết, vua (Nhân Tông) ngự ở điện Linh Quang

trên bờ sông Lô. Dưới sông hàng nghìn thuyền gióng trống đua bơi. Ở giữa

sông, một con rùa vàng nổi, lưng đội ba hòn núi. Rùa lội lờ đờ trên mặt nước,

lộ vân trên vỏ và soải bốn chân. Chuyển mắt nhìn lên bờ, miệng thì phun

nước lên bến. Quay đầu hướng tới ngai vua mà cúi chào”. Bia Sùng thiện diên

linh còn tả máy đèn quay và người máy đánh chuông. Lý Nhân Tông đặt hội

đèn Quảng Chiếu:“dựng đèn Quảng Chiếu ngoảnh ra cửa Đoan Môn. Giữa

nêu một cột, ngoài đặt 7 tầng. Rồng uốn mà nở toà sen vàng, rèm lồng mà che

đèn sáng rực. Có máy dấu kín dưới đất, làm đài quay như bánh xe. Lại có 2

toà lầu hoa. Treo quả chuông đồng, tạc chú tiểu mặc áo cà sa, vặn mày kín thì

giơ dùi đánh. Nghe tiếng sáo liền quay mặt lại. Trông bóng vua lại biết cúi

đầu. Tựa như có trí khôn, biết khi động, khi tĩnh” [35, 334-335]

Tóm lại, những lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn hoá tinh thần thời kỳ Lý –

11

Trần bị chi phối sâu sắc bởi cả Nho giáo, Phật gíao và Đạo giáo.

1.2 Những nhiệm vụ chính trị thực tiễn đặt ra

Từ năm 938, chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng đã chấm

dứt hàng ngàn năm thời Bắc thuộc và mở ra kỷ nguyên độc lập, tự chủ của dân

tộc. Trong thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo được đưa vào nước ta chủ yếu là theo

vó ngựa quân xâm lược, đóng vai trò là công cụ của giai cấp thống trị nhà Hán

trong âm mưu đồng hoá dân tộc ta, cho nên thái độ nhân dân ta là phản ứng lại

Nho giáo nhằm bảo vệ, khẳng định nền độc lập và chủ quyền đất nước, bảo

tồn nòi giống, tín ngưỡng, phong tục và di sản văn hoá cổ truyền của dân tộc.

Trong thời gian đó, Phật giáo được du nhập và được nhân dân tiếp nhận rộng

rãi, nó góp phần vào việc khôi phục chủ quyền đất nước. Điều này lý giải vai

trò nổi bật của Phật giáo trong ba triều đại: Ngô - Đinh - Tiền Lê (thế kỷ X -

XI). Tuy nhiên, Phật giáo được vận dụng vào cai trị đất nước khó lòng thiết

lập trật tự, kỷ cương một cách có hiệu quả, vì vậy, từ khi đất nước độc lập, đặc

biệt là từ thời Lý, Nho giáo dần được nhà nước phong kiến Việt Nam thừa

nhận và chú trọng phát triển. Đó không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà

nó xuất phát từ những nhu cầu tổ chức, quản lý xã hội đặt ra lúc bấy giờ, đó

là:

Trước hết, việc chú trọng phát triển Nho giáo xuất phát từ nhu cầu xây

dựng và phát triển bộ máy chính quyền nhà nước quân chủ quý tộc lớn mạnh

và nhu cầu thiết lập trật tự kỷ cương xã hội, ổn định đời sống nhân dân, đảm

bảo nền độc lập dân tộc Ngay từ khi được giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột

của chính quyền đô hộ vào thế kỷ thứ X, việc xây dựng nhà nước phong kiến

tập quyền đã được đặt ra. Bộ máy hành chính đô hộ cũ bị xoá bỏ, được thay

thế bằng bộ máy chính quyền độc lập, tự chủ đối với phương Bắc và được

hoàn thiện dần. Khác với họ Khúc, họ Dương, Ngô Quyền đã lập ra một nhà

nước riêng biệt mà tính chất căn bản của Nhà nước đó là một nhà nước phong

12

kiến trung ương tập quyền.

Tuy nhiên, dưới các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, công việc đó mới chỉ

làm được những bước đầu tiên và chưa được đẩy mạnh. Những gì mà các

vương triều đạt được trong thời gian này cũng chỉ như một bước đi đầu tiền

cho sự phục hưng quốc gia Đại Việt, nền văn hoá dân tộc đạt được cũng chỉ

dừng lại ở những yếu tố mang tính chất khởi động, bản lề. Mặt khác, chế độ

phong kiến ấy chưa hoàn toàn vững chắc, trong lòng nó còn chứa đựng nhiều

mầm mống, nguy cơ làm cho chế độ đó suy yếu và tan rã. Cung cách cai trị,

quản lý xã hội của các ông vua trong thời kỳ này là khá tuỳ hứng, mang vóc

dáng của một thủ lĩnh hữu dũng mà chưa thấy ở họ những mưu tính, những kế

sách lâu dài cho dân tộc, chưa có ở họ tầm vóc của một vị Hoàng đế và một

triều đại với điển chế hoàn bị. Không những thế, qua Đại Việt sử ký toàn thư,

các ông vua thời kỳ này còn tuỳ ý sử dụng hình phạt hết sức tàn khốc trong

việc cai trị và bảo vệ ngai vàng. Ở họ, thiếu hẳn đi một đường lối, một lý luận

cai trị làm nền, làm cái căn bản. Chế độ sở hữu ruộng đất - cơ sở kinh tế của

chế độ phong kiến, ít nhiều chứa đựng trong bản thân nó những yếu tố phân

tán và đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng rối loạn, đe doạ sự ổn

định xã hội và sự thống nhất đất nước. Nạn 12 sứ quân cát cứ các vùng diễn

ra sau thời Ngô, nạn phế lập liên tục xảy ra trong các triều đại ấy là những

minh chứng cho điều này. Trong khi đó, nạn lũ lụt ở đồng bằng sông Hồng,

thiên tai diễn ra hàng năm đe doạ đến sản xuất và đời sống đòi hỏi phải tập

hợp trí tuệ và lực lượng của dân tộc để khắc phục.

Ngoài ra, mặc dù đất nước đã được độc lập, nhưng nạn ngoại xâm vẫn

thường xuyên xảy ra đe doạ nền độc lập và chủ quyền quốc gia, đòi hỏi phải

tập hợp, đoàn kết và động viên sức mạnh của toàn dân tộc để đối phó thành

công. Tình hình trên đặt ra một yêu cầu khách quan là phải xây dựng, củng cố

và phát triển chế độ phong kiến trung ương tập quyền, phải tập trung và thống

nhất quyền lực chính trị vào một dòng họ có thế lực, có sức mạnh. Nhưng để

13

xây dựng và phát triển chế độ phong kiến trung ương tập quyền mạnh mẽ, duy

trì sự ổn định và phát triển đất nước, đè bẹp những hành động xâm lược từ bên

ngoài, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của giai cấp phong kiến thống

trị, vào tâm lý và nguyện vọng chủ quan của con người. Muốn thực hiện được

những yêu cầu và đòi hỏi khách quan đó, trước hết và chủ yếu là phải có một

học thuyết, một lý luận soi đường. Các triều đại phong kiến cần phải tìm ra cho

mình một hệ tư tưởng làm chỗ dựa trong việc cai trị, quản lý xã hội để đưa đất

nước từng bước vững chắc trên con đường phát triển. Yêu cầu và đòi hỏi khách

quan đó đã tạo tiền đề kinh tế - xã hội thuận lợi cho không chỉ Phật giáo mà

chủ yếu là Nho giáo có vị trí lớn hơn so với các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê.

Nho giáo với tư tưởng thiên mệnh, tôn quân quyền, với thuyết tam cương - ngũ

thường, đường lối đức trị... cùng nhiều bài học kinh nghiệm được đúc rút ra từ

thực tiễn cai trị và quản lý xã hội lại đáp ứng được những yêu cầu và đòi hỏi

trên. Vì vậy mà, các triều đại phong kiến Lý - Trần và cả các triều đại phong

kiến về sau đã chọn Nho giáo với tư cách là học thuyết chính trị - xã hội làm

chỗ dựa tư tưởng trong việc cai trị, quản lý xã hội, trong việc kiến tạo, duy trì

và phát triển chế độ phong kiến về mọi mặt.

* Đến cuối thế kỷ X đầu thế kỷ XI, để củng cố và phát triển đất nước

về mọi mặt, một trong những điều kiện có ý nghĩa quyết định là triều đại phải

thiết lập và duy trì xã hội có trật tự kỷ cương, ổn định. Có như vậy mới tạo ra

những động lực, tạo đà để phát triển. Muốn thực hiện và đáp ứng được đòi hỏi

này không thể không dựa vào một hình thái tư tưởng nhất định làm căn cứ

cho sự định hướng và chỉ đạo. Như trên đã nói, cùng với Nho giáo, Phật giáo

và Đạo giáo cũng sớm du nhập vào Việt Nam. Đặc biệt, đến thời Lý -Trần,

Phật giáo đã có sự phát triển khá thịnh, được nhà nước phong kiến suy tôn,

chọn làm quốc giáo. Nhưng trong bản chất và nội dung học thuyết của nó,

Phật giáo và Đạo giáo chủ yếu không phải là đạo trị nước. Với những quan

niệm về sinh, lão, bệnh, tử, luân hồi, nghiệp báo... của Phật giáo; với phương

14

pháp tu luyện trường sinh bất tử và thuật phù thuỷ đầy tính chất mê tín, dị

đoan của Đạo giáo khó có một vai trò đáng kể trong việc tổ chức, duy trì và

phát triển bộ máy Nhà nước phong kiến, duy trì trật tự, kỷ cương và ổn định

xã hội, cai trị, quản lý xã hội và xây dựng, phát triển đất nước...

Trong khi đó, Nho giáo với tư cách là một học thuyết chính trị -xã hội,

đã trở thành công cụ hữu hiệu để giải quyết những vấn đề thiết thân của việc

xây dựng củng cố nhà nước phong kiến như vấn đề tôn quân quyền, sử dụng

bề tôi, những quy định, các điển chương lễ chế và cơ cấu hành chính từ triều

đình trung ương cho đến địa phương... Nho giáo chủ trương quyền hành phải

thống nhất, tập trung vào thiên tử, bảo vệ sự chính thống mà trên thực tế là

bảo vệ các vương triều với quyền lợi của dòng họ thống trị và các địa vị tôn

quý của nó. Đồng thời, nó còn đưa ra những quy tắc, chuẩn mực đạo đức cho

hành vi ứng xử của con người, những yêu cầu đối với các mối quan hệ vua -

tôi, cha - con, chồng - vợ, đối với việc tu thân... có tác dụng to lớn trong việc

giúp các triều đại củng cố sự thống trị giai cấp, sự thống nhất đất nước vào

chính quyền trung ương, ổn định trật tự xã hội. Nhìn chung, nội dung học

thuyết Nho giáo với tư tưởng bảo vệ vương quyền, sự liên kết gia đình, dòng

họ, bảo vệ sự liên kết giữa cá nhân và xã hội xung quanh triều đình, duy trì sự

phân chia đẳng cấp xã hội theo danh phận; với khả năng dung hợp sự phân

chia và liên kết này trên nền tảng đạo đức, luân lý, chính trị mà cơ sở của nó

nằm ở những nguyên tắc về lễ, pháp hoà lẫn nhau và được thần thánh hoá là

thiên mệnh, trung hiếu, tam cương ngũ thường đã phục vụ đắc lực cho yêu

cầu của giai cấp thống trị đương thời.

Nhà nghiên cứu Quang Đạm khi đánh giá vai trò của Nho giáo, đã đưa

ra ý kiến rằng, “ít có một thứ đạo nào làm được tỉ mỉ chu đáo, chặt chẽ như

thế để giữ bệ ngọc ngai vàng cho các vua chúa. Lễ giáo của Khổng - Mạnh,

Trình - Chu là một công cụ mạnh mẽ của các triều đại đặt kỷ cương chặt chẽ

trên toàn bộ đất nước” [6, 246]. Chính vì vậy, dưới thời Lý -Trần,nhà cầm

15

quyền tuy theo Phật giáo, nhưng dần dần nhận thức ra khả năng là bệ đỡ

chính trị cho nhà nước của Nho giáo, và vì vậy Nho giáo ngày càng được

trọng dụng và có điều kiện mở rộng tầm ảnh hưởng.

Cùng với khả năng đáp ứng yêu cầu về tổ chức quản lý xã hội và tổ

chức bộ máy hành chính nhà nước, sự phát triển của Nho giáo còn gắn với

nhu cầu phát triển văn hoá, giáo dục. Khi chế độ phong kiến tập quyền đã bắt

đầu ổn định và triển khai theo quy mô lớn thì yêu cầu về việc xây dựng và

phát triển một nền văn hoá và giáo dục độc lập, tự chủ được đặt ra. Để nắm

quyền quản lý đất nước, các triều đại Lý -Trần đã quan tâm đến việc nâng cao

tri thức. Đồng thời, do yêu cầu củng cố và phát triển của nhà nước phong

kiến, nên việc bổ nhiệm quan lại bằng con đường cũ - con đường “nhiệm tử”

và “thủ sĩ” không đáp ứng được, mà cần phải có một quy trình, phương thức

đào tạo và tuyển lựa quan lại mới để bổ sung vào đó. Phương thức này chỉ có

thể thực hiện được bằng việc phát triển một nền giáo dục mới, với chế độ thi

cử để tuyển lựa nhân tài.

Với yêu cầu như vậy, hệ thống đào tạo, giáo dục theo Phật giáo không

thể đáp ứng được nhu cầu này, mà chỉ có Nho giáo, với hệ thống lý thuyết

đầy đủ về nội dung giáo dục và khoa cử, mới có thể đảm đương được nhiệm

vụ lịch sử đó. Thực tế lịch sử đã khẳng định điều này. Thời kỳ đầu nhà Lý

đến đầu nhà Trần còn tổ chức các kỳ thi Tam giáo, nhưng cuối thời Trần, giáo

dục Nho học dần dần chiếm ưu thế. Từ đây, Nho giáo có cơ hội bám rễ sâu

vào đời sống chính trị - xã hội của nước ta. Bởi lẽ, theo con đường phát triển

của giáo dục - khoa cử, Nho giáo không những tác động trực tiếp vào sự hình

thành đội ngũ trí thức của dân tộc và sự tuyển lựa nhân tài cho bộ máy nhà

nước, mà nó còn tác động toàn diện đến thế giới quan, nhân sinh quan, đến

những quy phạm chính trị và những chuẩn mực đạo đức của con người. Hơn

thế nữa, nó còn dẫn đến những biến đổi căn bản trong phong cách tư duy,

16

sáng tác văn học, nghệ thuật và ngay cả trong nhu cầu, thị hiếu của xã hội...

1.3 Những tiền đề tư tưởng cho sự dung thông tam giáo Nho – Phật – Đạo

1.3.1 Khái quát chung về Nho giáo

Nho giáo hay còn gọi là Khổng giáo, do Khổng Tử (Khổng Khâu: 551-

479 trước công nguyên), nhà tư tưởng lớn của Trung Quốc cổ đại sáng lập ra.

Sau Khổng Tử, các học trò của ông đã phát triển Nho giáo theo nhiều hướng

khác nhau. Mạnh Tử (khoảng 372 - 289 trước công nguyên) phát triển về phía

duy tâm và Tuân Tử (khoảng 325 - 238 trước công nguyên) phát triển về phía

duy vật. Nho giáo từ Khổng Tử đến Tuân Tử gọi là Nho Tiên Tần hay Nho

nguyên thuỷ, đặc điểm của nó là chưa thần bí hoá và chưa khắc nghiệt nhiều.

Đến đời Hán, Đổng Trọng Thư (thế kỷ II trước công nguyên), đại biểu tư

tưởng của chế độ phong kiến trung ương tập quyền chuyên chế Hán đã phát

triển Nho giáo theo hướng duy tâm thần bí và gia tăng tính chất đẳng cấp

nghiệt ngã, gọi là Hán Nho. Thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc Triều (thế kỷ III -VI),

đạo Nho kết hợp với đạo Lão -Trang trở thành Huyền học. Đến thời Tống,

Chu Đôn Di (1017-1073), Trình Hạo (1032-1085), Trình Di (1033-1107) và

nhất là Chu Hy (1130-1200) kết hợp Nho giáo truyền thống với tư tưởng của

Phật giáo thành Nho học mới, gọi là “Tống Nho” hay “Lý học”...Trải qua các

giai đoạn phát triển ngay tại Trung Quốc, Nho giáo đã khác nhiều so với lúc

nó mới xuất hiện. Tuy nhiên, có thể nêu lên một số đặc điểm chung của Nho

giáo như sau:

Thứ nhất, đó là một học thuyết chính trị - đạo đức của giai cấp phong kiến

Trung Quốc. Nó chủ trương dùng “nhân trị”, “đức trị”, “lễ trị” để quản lý xã hội.

Thứ hai, Nho giáo, đặc biệt là Nho giáo Khổng -Mạnh, nêu lên một xã hội

lý tưởng, xã hội “đại đồng”, xem đó là mục tiêu phấn đấu của mình.

Thứ ba, Nho giáo xây dựng ý thức tôn ti trật tự trong xã hội. Thể hiện

trong các quan niệm về“lễ”, “chính danh”.

Thứ tư, Nho giáo chủ trương bất bình đẳng xã hội, dưới phải tuyệt đối

phục tùng trên, nữ phải tòng phục nam. Thể hiện qua các khái niệm: tam

17

cương, cương thường, trung hiếu, tiết nghĩa.

Thứ năm, càng về sau xu hướng Nho giáo là một học thuyết có tính chất

tôn giáo càng rõ.

Với những đặc điểm đó, buổi đầu du nhập, Nho giáo hoàn toàn không phù

hợp với một xã hội vừa thoát thai từ thời Văn Lang -Âu Lạc, với chế độ lạc

hầu, lạc tướng như xã hội nước ta hồi đầu Bắc thuộc. Nho giáo vào nước ta

lúc đầu là do sự áp đặt của bọn thống trị Trung Quốc xâm lược. Song dần dà

một bộ phận các trí thức Nho học đã lánh nạn sang Giao Châu, một bộ phận

giai cấp thống trị bị Việt hoá đã khiến tình hình đổi khác.Có thể tính dấu mốc

mà Nho giáo vào nước ta là từ thế kỷ II trước công nguyên, khi người Hán đặt

chân lên đất nước ta. Năm 179 trước công nguyên, Triệu Đà, vua nước Nam

Việt, đóng đô ở Phiên Ngung (nay thuộc Quảng Đông, Trung Quốc) sang

xâm chiếm nước Âu Lạc (Việt Nam ngày nay), chia Âu Lạc ra thành hai

quận: Giao Chỉ và Cửu Chân. Theo Hà Thành Hiên trong Nho học Nam

truyền sử thì Triệu Đà là “nhân vật đầu tiên mở màn cho Nho học vào Lĩnh

Nam”. Ông được xem là “từ tư tưởng đến hành động đều chịu ảnh hưởng của

Nho học”. Chính sách cai trị của ông theo nguyên tắc “dĩ hoà vi quý” của Nho

giáo. Ông rất tích cực truyền bá chữ Hán. Hai lần Giả Nghị (nhà nho đời Hán)

đến thuyết phục ông thần phục nhà Hán theo tư tưởng Nho giáo, ông đều chấp

thuận...Tuy nhiên, phải đến năm 111 trước công nguyên, khi nước Nam Việt

của Triệu Đà bị nhà Hán thôn tính, nước Việt trở thành một quận của nhà

Hán, thì quá trình xâm nhập và ảnh hưởng của văn hoá Hán (trong đó có Nho

giáo) mới có thêm điều kiện thuận lợi và dần rõ nét trong đời sống tinh thần

của người Việt. Còn theo Đại Việt sử ký toàn thư thì việc truyền bá Nho giáo

vào nước ta với việc “dựng học hiệu, dạy lễ nghĩa” bắt đầu từ đầu công

nguyên, thời Tích Quang và Nhâm Diên làm thái thú ở hai quận Giao Chỉ và

Cửu Chân: Tích Quang là người quận Hán Trung, khi ở Giao Chỉ lấy lễ nghĩa

dạy dân. Sau nhà Hán lại lấy Nhâm Diên làm thái thú Cửu Chân. Diên là

18

người Uyển Huyện. Tục người Cửu Chân chỉ làm nghề đánh cá đi săn, không

biết cày cấy. Diên mới dạy dân khai khẩn ruộng đất, hàng năm cày trồng,

trăm họ no đủ. Dân nghèo không có sính lễ thì Diên bảo các trưởng lại trở

xuống bớt bổng lộc ra để giúp đỡ, cùng một lúc lấy vợ có đến 2000 người.

Diên coi việc 4 năm thì bị gọi về. Người Cửu Chân làm đền thờ. Những

người đẻ con đều đặt tên là Nhâm. Phong hoá văn minh của đất Lĩnh Nam bắt

đầu từ hai thái thú ấy[5, 108-109].

Đến cuối thế kỷ II, khi Sĩ Nhiếp làm thái thú Giao Chỉ thì việc học Nho ở

nước ta đã tương đối phổ biến. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Sử thần

Ngô Sĩ Liên bàn: Nước ta được thông thi thư, tập lễ nhạc làm một nước văn

hiến là bắt đầu từ Sĩ Vương, công đức ấy không những chỉ ở đương thời mà

có thể truyền mãi đời sau, há chẳng lớn sao?” [24, 126].

Như vậy, có thể thấy rằng, buổi đầu du nhập Nho giáo vào Việt Nam

chủ yếu theo “con đường của vó ngựa xâm lược”. Chính quyền Hán muốn

núp dưới chiêu bài “khai hóa” để nô dịch nhân dân ta. Mục đích của việc

truyền bá Nho giáo ở nước ta lúc bấy giờ là để đào tạo nên những người

làm việc cho chính quyền đô hộ, để đồng hoá dân tộc Việt. Nói như Lê Sỹ

Thắng thì khi đó ở nước ta, Nho giáo “làm thêm chức năng là công cụ tinh

thần của giặc ngoại xâm” [9, 109].

Thời kỳ đầu, khi mới du nhập vào nước ta, Nho giáo vấp phải sự phản

kháng mãnh liệt của nhân dân với tư tưởng và nếp sống truyền thống của

người Việt. Bởi vì, Nho giáo với tư tưởng Tam cương, Ngũ thường, tư tưởng

Thiên mệnh hết sức khắc nghiệt và phản động đã được quân xâm lược phương

Bắc sử dụng như một công cụ chủ yếu để thống trị, nô dịch nhân dân ta. Đồng

thời, Nho giáo còn đóng vai trò thiết yếu trong quá trình hợp thức hoá chế độ

Bắc thuộc và biến nước ta thành quận, huyện của Trung Quốc, biến văn hoá

nước ta phụ thuộc và là một bộ phận của văn hoá Hán. Vì vậy, ngay từ đầu,

nhân dân ta đã căm ghét, xa lánh Nho giáo. Cũng vì vậy mà, chống Nho giáo,

19

chống Hán hoá đã trở thành một bộ phận, một mục tiêu quan trọng trong sự

nghiệp đấu tranh chống quân xâm lược phương Bắc, bảo vệ sự sống còn của

dân tộc ta trong suốt thời kỳ Bắc thuộc. Với ý thức về một nền văn hoá riêng,

lâu đời và phát triển khá cao (từ trước khi bị thuộc Bắc) cùng ý chí quật

cường, hành động dũng cảm của những người Việt yêu nước quyết tâm bảo vệ

nền văn hoá riêng của mình, khôi phục chủ quyền dân tộc đã đẩy lùi được

chiều hướng tư tưởng bị áp đặt bởi kẻ xâm lược.

Nho giáo gặp trở ngại nên rất khó bám rễ được vào đời sống của nhân dân

ta, nó đã thất bại trong nhiệm vụ chiến lược là thực hiện chính sách “đồng

hoá” mà chính quyền đô hộ giao cho, nó chỉ có thể ảnh hưởng ở những nơi mà

giai cấp phong kiến phương Bắc đặt ách thống trị. Hơn nữa, do vị thế ở ngã ba

các đường lan truyền, giao thoa kinh tế, văn hoá mà tại Việt Nam không chỉ

có Nho giáo mà nhiều dòng tư tưởng khác cũng được du nhập vào như Phật

giáo, Đạo giáo...trong đó Phật giáo với nội dung và đặc tính từ bi, bình đẳng

cho nên ngay từ đầu, Phật giáo đã có ưu thế hơn Nho giáo rất nhiều.

Trong khi Nho giáo chỉ dừng lại ở tầng lớp trên xung quanh chính quyền

ngoại bang, bào chữa cho sự xâm lược của chúng, thuyết phục nhân dân ta

quy thuận sự thống trị của phương Bắc, thần phục nhà vua của nước lớn, gò

bó con người vào trật tự chính trị đương thời...thì Phật giáo lại thuận lợi trong

việc thâm nhập vào các tầng lớp nhân dân, đứng về phía những người đau

khổ. Phật giáo không hoàn toàn là công cụ của kẻ xâm lược. Với tư tưởng

bình đẳng bác ái, Phật giáo đã đóng vai trò là vũ khí tinh thần để đoàn kết

nhân dân lao động, khuyến khích tinh thần chiến đấu chống lại ách đô hộ của

phong kiến Trung Hoa. Nhiều tư tưởng của đạo Phật khá gần gũi với những

tập quán, tín ngưỡng dân gian của người Việt, nên nó nhanh chóng được

người Việt chấp nhận, phát triển khá nhanh mà hầu như không gặp phải sự

phản ứng và chống đối gay gắt từ phía nhân dân. Bên cạnh đó, cũng giai đoạn

này, Đạo giáo mà nhất là Đạo giáo phù thuỷ gần với tín ngưỡng ma thuật của

20

người Việt cổ cũng được tiếp nhận và ảnh hưởng khá sâu rộng trong nhân dân.

Như vậy, trong giai đoạn đầu, Nho giáo chưa vào sâu được trong dân gian.

Trong đời sống tinh thần, ưu thế vẫn thuộc về Phật giáo và Đạo giáo.

Ở buổi đầu, ý thức về vai trò của Nho giáo đối với việc cai trị, hai thái thú

Tích Quang và Nhâm Diên, một số quan lại Trung Quốc đã “dựng học hiệu để

dạy lễ nghĩa” ở Giao Chỉ và Cửu Chân. Tuy nhiên, các sách kinh điển của

Khổng giáo được dùng chủ yếu để giảng dạy cho con em quan lại địa chủ Hán

tộc. Ngoài ra, cũng có một số là con em tầng lớp trên của xã hội Việt Nam

tham gia học. Nhưng số người học hành đỗ đạt còn ít và đều được tuyển lựa

vào bộ máy cai trị, một số được đưa về Trung Quốc sử dụng. Để đạt mục tiêu

bóc lột và đồng hoá nhân dân ta, nhà Đông Hán đã củng cố và hoàn thiện

chính quyền đô hộ ở Giao Chỉ, muốn xoá bỏ lối “dùng tục cũ mà cai trị”, áp

dụng pháp luật Hán ở Giao Chỉ để trói buộc nhân dân và hạn chế quyền hành

của Lạc tướng (thời Tích Quang và Nhâm Diên làm thái thú ở Giao Chỉ và

Cửu Chân vẫn để cho các lạc tướng làm chủ trong các lạc ấp của họ). Thái thú

Giao Chỉ Tô Định thay thế Tích Quang, là kẻ tàn bạo, tham lam. Hắn ra sức

vơ vét thuế khoá, khống chế, đè nén các lạc tướng và con cháu họ, khiến cho

cả quý tộc cũ và nhân dân đều oán hận chính quyền đô hộ. Hành vi bạo ngược

của Tô Định đã dẫn tới phong trào nổi dậy của nhân dân trên toàn đất nước ta

mà đỉnh cao nhất là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Cuộc khởi nghĩa đó

thể hiện sự phản kháng của người Việt trước ách đô hộ ngoại xâm, cũng qua

đó mà phản kháng công cụ tinh thần mà nhà Hán sử dụng. Sự phản kháng này

là tự nhiên và tất yếu của một cộng đồng tự trị. Tuy nhiên, không lâu sau, khi

Mã Viện đem quân sang xâm lược nước ta, đàn áp nghĩa quân của Hai Bà

Trưng, đất nước ta lại mất quyền độc lập. Sự thất bại của khởi nghĩa Hai Bà

Trưng cho thấy, mô hình chính trị -văn hoá thời các Vua Hùng mà Hai Bà

khôi phục lại đã trở nên bất cập trước đòi hỏi của lịch sử. Đồng thời, sự thất

bại đó cũng đem lại một bài học lớn: trước một kẻ thù hùng mạnh gấp nhiều

21

lần cả về quân sự và văn hoá là đế quốc Trung Hoa, dân tộc ta cần có một thời

gian để trưởng thành về mặt tư duy và tích luỹ kinh nghiệm. Quá trình vận

động này diễn ra trong điều kiện nhà Hán thi hành nhiều chính sách hiểm độc

nhằm đồng hoá cộng đồng Việt về mọi mặt văn hoá, chính trị, xã hội...nên hết

sức gay go, trải qua nhiều bước thăng trầm và lâu dài mà ở mỗi giai đoạn, tư

duy dân tộc lại tiến thêm một bước phù hợp hơn cho việc giải quyết thách

thức mà lịch sử đặt ra là: bảo vệ chủ quyền dân tộc và chống lại sự đồng hoá.

Vì vậy, bắt đầu từ khởi nghĩa Hai Bà Trưng, trong tư duy người Việt luôn

song song tồn tại hai xu hướng vừa đấu tranh, vừa hội nhập với các yếu tố tinh

thần ngoại nhập. Hai xu hướng này tương tác với nhau đã đưa đến một diện

mạo mới trong thế giới quan, nhân sinh quan của người Việt trong điều kiện

kinh tế, văn hoá xã hội mới của đất nước thời Bắc thuộc sau khởi nghĩa Hai

Bà Trưng. Sĩ Nhiếp là một điển hình cho khuynh hướng hội nhập các yếu tố

văn hoá ngoại lai trong đời sống tinh thần của người Việt ở ba thế kỷ đầu công

nguyên. Ông gốc là người Quảng Tín, Thương Ngô, quận Giao Chỉ. Thủa nhỏ

theo học ở kinh sư nhà Hán, chuyên chú vào tác phẩm Tả thị Xuân Thu, đậu

Hiếu liêm, được bổ làm Thượng thư lang. Năm 187 đời Hán Linh Đế, được cử

làm thái thú Giao Chỉ. Trong thời Sĩ Nhiếp, Nho giáo đã được phổ biến rộng

rãi hơn trong tầng lớp quí tộc và nhằm ổn định nền thống trị ở Giao Châu. Nhà

nho nước ta đời sau đã đề cao Sĩ Nhiếp tôn là Sĩ Vương, lại gọi ông là “Nam

giao học tổ”.

Điều đó cho thấy, đến thời kỳ này, tri thức Hán học của tầng lớp ưu tú

trong xã hội đã có một bước tiến khá dài cũng như mức độ ảnh hưởng của các

yếu tố văn hoá Hán vào cộng đồng Việt đã đậm nét hơn trước. Chính sách cai

trị Sĩ Nhiếp không chỉ thu hút các nhân sĩ tài ba của Trung Nguyên xuống

Giao Chỉ lánh nạn và qua đó truyền bá các yếu tố của văn hoá Hán trong đó có

Nho giáo, mà ông còn tạo ra một môi trường thuận lợi để người Việt chủ động

tiếp thu các yếu tố đó.Bằng tấm gương Hán học thông tuệ và chính sách cai trị

22

khôn ngoan, ông đã khởi xướng cho một hướng đi mới trong việc giải bài toán

chính trị - lịch sử: làm thế nào để bảo vệ nền tự chủ của Giao Chỉ trước một

thế lực lớn?

Sĩ Vương biết lấy khoan hậu khiêm tốn để kính trọng kẻ sĩ, được

người thân yêu mà đạt đến quý thịnh một thời. Lại hiểu lễ nghĩa, thức

thời, tuy tài và dũng không bằng Triệu Vũ Đế, nhưng chịu nhún mình

thờ nước lớn, để giữ vẹn bờ cõi, có thể coi là người trí [5, 228].

Đường hướng cai trị này thực chất là sản phẩm kết hợp giữa lối tư duy

mềm dẻo yêu hoà bình, chuộng sự hoà hợp của người Việt với việc vận dụng

các chuẩn mực đạo đức - chính trị Trung Hoa vào thực tiễn xã hội Việt Nam.

Nhìn chung, sau mấy trăm năm cho đến thời Sĩ Nhiếp làm thái thú Giao Chỉ,

Nho giáo đã có bước phát triển trong tầng lớp trên của xã hội. Đã có nhiều

người Việt thành danh theo con đường Nho học, khoa cử ở triều đình Trung

Hoa. Đời Hán Minh Đế (năm 68 -75), một người Giao Châu tên là Trương

Trọng được các sử gia đánh giá là có học vấn, trí mưu, dũng cảm. Ông được

cử làm Kê lại (chức quan coi sổ sách) ở Nhật Nam (thuộc Nghệ An, Hà Tĩnh

ngày nay) và sau được làm thái thú ở Kim Thành, Trung Quốc. Thế kỷ II có

Lý Tiến, người Cao Hưng quận Giao Chỉ, thông hiểu kinh truyện, được bổ

làm chức công tào ở quận, rồi thăng dần lên chức kỵ đô uý. Năm 137, được

bổ làm thái thú quận Linh Lăng, Trung Quốc và khoảng năm 184-189 được

cử làm thứ sử Giao Châu. Bấy giờ ở Giao Châu có nhiều Hiếu liêm, Mậu tài

được cử làm trưởng lại ở Giao Châu theo lời xin của Lý Tiến, nhưng không

được làm quan ở Trung Nguyên vì Hán Đế sợ “người phương xa nói láo mà

chỉ trích triều đình Trung Quốc” [3, 121]

Thế kỷ III có Lý Cầm là người Giao Châu làm túc vệ ở điện đài, sau làm

đến chức tư lệ hiệu uý.Tuy nhiên, sự mở rộng đó của Nho giáo chỉ là trong

một phạm vi nhỏ thuộc tầng lớp trên được ưu đãi, những người Việt đỗ đạt

đều trở thành những người phục vụ cho chính quyền đô hộ. Còn trong dân

23

gian, phong tục, tập quán tín ngưỡng và tình cảm Lạc Việt vẫn là gốc rễ phổ

biến và bền chặt. Người dân Việt lúc đó vẫn ở nhà sàn chứ không ở nhà đất, đi

đất mà chẳng đi giày, chèo thuyền, cưỡi voi chứ không đi xe cưỡi ngựa, đúc

trống đồng chứ không đúc đỉnh vạc, mở hội làng mà chẳng tế Nam giao, hôn

nhân nam nữ còn tương đối bình đẳng, tự do chứ chưa biến hẳn phụ nữ thành

món hàng để bán mua sai khiến, hát giao duyên nam nữ mà chẳng tấu

nhạc cung đình...

Trong đời sống tinh thần của dân tộc ta lúc ấy thể hiện rõ nét sự hoà đồng

giữa người với người trong cộng đồng của mình chứ chưa bị ràng buộc bởi cái

tôn ti trật tự hà khắc mà Nho giáo áp đặt...Tóm lại, thời kỳ đầu công nguyên

đã diễn ra cuộc đấu tranh dưới nhiều dạng thức giữa văn hoá cổ truyền của

dân tộc với sự xâm nhập của Nho giáo. Cuộc đấu tranh đó khi thì âm ỉ, khi thì

bùng nổ thành các cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ khác nhau nhằm đưa đất nước ta

thoát khỏi ách thống trị của Trung Hoa cũng như âm mưu đồng hoá của

chúng. Đáng chú ý là, ngoài con đường du nhập Nho giáo mang tính chất áp

đặt, cưỡng bức như đã trình bày ở trên, trong thời kỳ Bắc thuộc còn diễn ra

con đường du nhập “hoà bình” thông qua những trí thức, binh lính, lái buôn,

thợ thủ công, nông dân Trung Quốc. Những tầng lớp người này vì những lý do

khác nhau đã sang định cư hẳn ở nước ta. Họ đã mang vào nước ta nhiều yếu

tố của văn hoá Hán tộc, trong đó có Nho giáo, vì họ thường chịu ảnh hưởng

của Nho giáo, hệ ý thức thống trị ở Trung Quốc lúc bấy giờ. Nghiên cứu các

truyền thuyết dân gian nảy sinh ở nước ta trong thời Bắc thuộc có thể thấy, thứ

Nho giáo đã “dân gian hoá” ở Trung Quốc được văn hoá dân gian Việt tiếp

thu dễ hơn là thứ Nho giáo trong các sách kinh điển mà quan lại và nho sĩ

Trung Quốc “dạy dỗ” cho dân ta. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các tầng lớp

nhân dân lao động Trung Quốc khi nhập cư có đem theo những yếu tố này nọ

của văn hoá Trung Hoa như vậy, nhưng cuối cùng thì họ đã không đồng hoá

24

được nhân dân ta vào Hán tộc.

Trái lại, để có thể thích nghi với môi trường thiên nhiên và xã hội, họ đã

phải đồng hoá vào nhân dân Việt, vào văn hoá Việt, một nền văn hoá có bản

sắc độc đáo, thể hiện sự hài hoà giữa những con người trong môi trường xã

hội...Một dẫn chứng tiêu biểu cho tình hình ấy là sự kiện sau khi chiến thắng

được Hai Bà Trưng thì tướng giặc là Mã Viện đã thiết lập ở nhiều nơi trên đất

nước ta những cụm cư dân người Hán để dễ bề kiểm soát và kìm kẹp người

Việt. Sử cũ gọi đó là dân Mã Lưu, tức là dân Hán do Mã Viện lưu ở Giao Chỉ.

Nhưng dân Mã Lưu đã không đồng hoá được người Việt vào Hán tộc mà rút

cục họ lại hoà nhập vào nhân dân Việt. Và cái tên Mã Lưu chỉ lưu lại trong sử

sách một thí nghiệm thất bại của đế chế Hán trong việc thiết lập những cụm

thực dân với mục đích Hán hóa nhân dân Việt. Mặc dù mục đích truyền bá

Nho giáo của chính quyền xâm lược để khuất phục, đồng hoá dân tộc Việt

không thành công, nhưng nó cũng làm cho người Việt quen với Nho giáo, rồi

từ đó có sự thay đổi trong nhận thức, trong thái độ đối với Nho.

Từ thế kỷ VI trở đi, cùng với sự trưởng thành của ý thức độc lập của người

Việt, việc tiếp thu các giá trị phù hợp với dân tộc trong Nho giáo trở nên một

nhu cầu thực tế của đất nước. Chính sự thống trị cưỡng bức của nhà Hán và các

điều kiện xã hội dần được xác lập ở Việt Nam gần giống với xã hội Trung Quốc

thời Hán mà ở mức độ nhất định, Nho giáo đã có ảnh hưởng đến văn hoá và tư

tưởng (đặc biệt là tư tưởng chính trị - xã hội) của người Việt. Số người Việt

chống đối Nho và xa lánh Nho vẫn còn, nhưng bên cạnh đó đã xuất hiện

khuynh hướng học Nho để sử dụng kiến thức Nho học vào việc chống lại ách

thống trị của người Hán. Kinh điển của Nho giáo đã cung cấp cho người Việt

một tư duy chính trị, lịch sử, xã hội mang tính lý luận cao và bằng chính tư duy

lý luận đó, người Việt ngày càng tự ý thức rõ hơn về con đường đấu tranh giành

lại chủ quyền cho dân tộc. Nhận thức rõ âm mưu thống trị của Trung Hoa và dã

25

tâm đồng hoá của kẻ ngoại bang, các thế hệ thủ lĩnh người Việt dần dần từ bỏ

con đường thoả hiệp, hoà bình với kẻ thù và đã không ngừng tận dụng những

cơ hội lịch sử có được để nổi dậy giành lại quyền tự chủ.

Hơn nữa, với sự tiếp thu Nho giáo, tầng lớp ưu tú người Việt đã nâng ý

thức cộng đồng, ý thức dân tộc, ý thức độc lập tự chủ lên một tầm lý luận mới

cao hơn để tự ý thức này ngày càng trở thành động lực, thành chất keo liên kết

các thành viên trong cộng đồng Việt đấu tranh không mệt mỏi vì độc lập và

chủ quyền dân tộc. Ý thức cộng đồng dần dần phát triển thành tinh thần yêu

nước nồng nàn. Sự tôn trọng thủ lĩnh đã dần phát triển thành lòng trung thành

với vị quân vương đại diện cho lợi ích của dân tộc. Ý thức độc lập, tự chủ đã

triển khaithành các đường lối chiến lược đấu tranh và những dự án xây dựng

đất nước ngang tầm với kẻ thù phương Bắc. Những bước phát triển đó cho

thấy, người Việt lúc này không chỉ chống sự xâm lược, đồng hoá của kẻ thù

mà còn biết tận dụng những thành tựu tư duy văn hoá của kẻ đi xâm lược, biến

nó thành vũ khí lý luận tinh thần chống lại chính kẻ thù đó. Triều đại Tiền Lý

của Lý Bí chính là được xây dựng theo xu hướng theo, tinh thần của Nho giáo,

từ tư tưởng của Châu Công, Khổng Tử. Lý Bí tự xưng đế (Nam Việt Đế),có

nghĩa là ngang hàng với đế vương phương Bắc, lấy niên hiệu là “Thiên Đức”,

có nghĩa là đức chính của triều Lý có nguồn gốc tự trời, chịu mệnh ở trời. Tư

tưởng “Thiên mệnh”, “Đức trị” là những tư tưởng cơ bản của Nho giáo.

Khổng Tử từng cho rằng, chỉ có đức trị mới quy tụ được lòng người.

Mô hình về triều đại của Nam Việt Đế Lý Bí là sự thử nghiệm đầu tiên về

việc dùng lý thuyết chính trị của Nho giáo để cai trị đất nước. Các triều đại

phong kiến Việt Nam về sau cũng cơ bản lựa chọn mô hình này. Nội dungvà

hình thức của các tổ chức nhà nước qua các thời kỳ “độc lập” ngắn ngủi do

Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Khúc Hạo...lập nên đã

chứng tỏ điều đó. Như vậy, từ thế kỷ VI nửa cuối thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo

đã từng bước đi sâu vào đời sống tư tưởng người Việt trên phương diện một

26

nhãn quan chính trị - xã hội, cung cấp cho người Việt những tri thức và kinh

nghiệm hữu ích về lịch sử, về cách thức tổ chức xã hội, Nhà nước...Nho học

thời kỳ này cũng được truyền bá sâu hơn trong tầng lớp trên của xã hội.

Những người Việt có điều kiện học hành cũng đỗ đạt cao. Số người thi vào

cấp bậc cao của hệ thống Nho học ngày một nhiều. Đến nỗi năm 845, nhà

Đường phải quy định: sĩ tử An Nam thi khoa tiến sĩ không được quá 8 người,

thi khoa minh kinh không được quá 10 người. Tiêu biểu cho những nhà nho

có học vị cao và có trình độ thực lực Nho học ở cuối thế kỷ VIII đầu thế kỷ IX

dưới triều đại nhà Đường là hai anh em Khương Công Phụ và Khương Công

Phục. Công Phụ đậu tiến sĩ, làm quan đến Gián nghị đại phu, sau vì thẳng thắn

can gián vua Đường, bị giáng chức. Công Phục cũng đậu tiến sĩ, làm đến Bắc

bộ thị lang.

Cũng từ thế kỷ VI, VII trở đi, từ Trung Quốc vào, Phật giáo đã mang

trong mình nó những yếu tố văn hoá phương Bắc, trong đó có Nho giáo. Phật

giáo đã thông qua những nhà trí thức biết đọc chữ Hán để phổ biến kinh sách

của nó. Chính vì thế mà những trí thức Phật giáo thường am hiểu cả Nho

giáo. Họ nghiên cứu văn hoá Trung Quốc, viết văn và làm thơ bằng chữ Hán.

Kinh Phật có khi còn được chú dịch, lý giải theo quan điểm kinh điển Nho gia

và được biện chính bằng lịch sử văn hoá Trung Quốc. Còn Nho giáo lúc này

thì đã mang tính chất huyền học (pha Đạo giáo và Phật giáo). Như vậy, mối

quan hệ giữa Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo đã trở nên khá gần gũi và đó là

một nhân tố, điều kiện của sự “chuẩn bị cho chính sách Tam giáo đồng

nguyên thời Lý -Trần” [15, 12].

Thời Lý, Nho giáo được nhà nước chấp nhận, nhưng vẫn giữ một vị trí khá

khiêm tốn.

Năm 1070, Văn Miếu được xây dựng, thờ Chu Công, Khổng Tử và các vị

tiên hiền, làm nơi dạy các Hoàng Thái tử học.

Năm 1075, nhà Lý tổ chức khoa thi đầu tiên, người đỗ đầu là Lê Văn

27

Thịnh.

Năm 1076, nhà Lý mở trường Quốc Tử giám.

Đến năm 1086, Triều đình lập Hàn lâm viện, nho sĩ Mạc Hiển Tích được

tuyển bổ làm Hàn lâm học sĩ.

Năm 1195, mở khoa thi tam giáo đầu tiên.

Sang thời Trần, Nho giáo và Nho học khởi sắc hơn. Nhiều trường Nho học

được mở, khoa cử được tổ chức thường xuyên và theo định kỳ.

Các vua Trần đã cố gắng dung hòa Phật – Nho trong đường lối trị nước.

Đây không phải là một trường hợp ngẫu nhiên mà xuất phát từ những nhu cầu

tổ chức, quản lý xã hội đặt ra lúc bấy giờ.Tầng lớp nho sĩ ngày một phát triển,

trong đó có những gương mặt nổi bật như Lê Văn Hưu, Đoàn Nhữ Hài,

Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An…Họ đã

dần dần tham chính, nắm giữ các chức vụ trọng trách trước đây chỉ dành cho

tầng lớp quý tộc tông thất.

Sự phát triển của Nho giáo đã lấn át dần Phật giáo. Nho giáo quy định

chặt chẽ chế độ tôn ty trật tự của xã hội phong kiến từ gia tộc đến quốc

gia.Giai cấp thống trị lúc bấy giờ muốn dựa vào Nho giáo và chế độ đào tạo

nhân tài theo mô hình phương Bắc để khống chế đời sống tư tưởng của nhân

dân. Đây là lẽ tất yếu, bởi Phật giáo về bản chất là một học thuyết tôn giáo và

chủ trương xuất thế cầu giải thoát, về lâu dài không thể đảm đương nổi chức

nặng gánh vác công việc xã hội, xây dựng chế độ quân chủ trung ương tập

quyền quan liêu.

Cuối thế kỷ XIV cuộc đấu tranh giữa 2 phái Nho giáo và Phật giáo bắt

đầu bùng lên. Ngoài dân gian Phật giáo vẫn phát triển mạnh mẽ bắt nguồn từ

những điều kiện mà chế độ phong kiến đương thời không thể giải quyết được:

vấn đề tâm linh.

1.3.2 Khái quát chung về Phật giáo

Phật giáo là một tôn giáo thế giới, được xuất hiện ở Ấn Độ, vào khoảng

28

thế kỷ thứ VI TCN. Với hệ thống giáo lý chủ trương bình đẳng giữa các chúng

sinh, mở đường giải thoát cho họ khỏi bất hạnh khổ đau..., đạo Phật đã nhanh

chóng được phổ biến và ảnh hưởng rộng rãi trong quần chúng nhân dân.

Sự phát triển của Phật giáo đã ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống lúc đó,

không chỉ trong phạm vi dân tộc mà lan rộng ra cả quốc gia khác, đặc biệt là

ở khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.

Phật giáo vào Việt Nam trước tiên bằng đường biển, từ phương Nam lên,

do các nhà Sư Ấn Độ theo thuyền buôn. Luy Lâu (vùng Dâu, Hà Bắc) có thể

là cửa ngõ để từ Việt Nam, các nhà sư, nhà buôn viễn xứ mượn đường đi vào

đất Hán. Theo “Thiền uyển truyền đăng tập lục”, Pháp sư Đàm Thiên trong

khi đàm đạo với vua Nhà Tuỳ (thế kỷ VI -VII) đã cho biết Giao Châu có

đường thông thương với Ấn Độ, nên khi ở Giang Đông (Trung Quốc) đạo

Phật hãy còn xa lạ thì tại thủ đô Luy Lâu của Giao Châu đã có trên hai mươi

Chùa Phật, hơn năm trăm Nhà Sư, đã biết đến mười lăm bộ kinh. Có bằng

chứng cho thấy Phật giáo đã từ Việt Nam vào Trung Quốc trước khi Phật giáo

từ Trung Quốc truyền sang Việt Nam.

Thế kỷ III, Ngô Tôn Quyền ở Giang Đông đã được sư Khương Tăng Hội

từ Giao Châu sang truyền đạo, Tôn Quyền đã cho cất chùa Kiến Sơ vào dịp

này. Đại Việt sử ký Toàn thư và Ngô Chí (viết vào thế kỷ IV) chép lại lá thư

của một người Hán là Viên Huy, gửi cho Thượng thư Lịch Tuân Úc, năm

207. Thư kể rằng Thái thú Sĩ Tiếp (Sĩ Nhiếp) ở Giao Châu mỗi khi ra đường

đều có các nhà Sư Ấn Độ theo xe, xông trầm đốt hương, đánh chuông khánh,

thổi kèn sáo.

Do miền Bắc sớm trực tiếp gặp Phật giáo Ấn Độ nên người miền Bắc có

từ Bụt (tục ngữ: Gần chùa gọi Bụt bằng anh; Đi với Bụt mặc cà sa, đi với ma

mặc áo giấy ...) Bụt do gốc tiếng Ấn Buddha. Sau này tiếp xúc Phật giáo

Trung Quốc nên có thêm từ Phật, mượn ở cách người Hoa phiên âm từ

Buddha (tiếng Hán -Việt là Phật đà).Về sau, việc truyền đạo trực tiếp từ Ấn

29

sang Ta giảm bớt dần, trong lúc theo đường bộ và đường biển đạo Phật từ

phương Bắc du nhập chiếm ưu thế hơn. Do ảnh hưởng từ phương Bắc xuống,

hay Bắc tông, Phật giáo Việt Nam chủ yếu thuộc ngành đại thừa. Trái lại, do

ảnh hưởng từ phương Nam lên, hay Nam tông, các nước lân bang như Lào,

Cam-pu-chia, Thái thuộc ngành tiểu thừa.

Họ là những người đầu tiên truyền đạo Phật vào nước ta với tín ngưỡng

đơn sơ: thờ Phật, đốt trầm, tụng kinh, chữa bệnh, trừ tà và bày phép cúng

dường, bố thí cho dân bản địa cùng truyền pháp Tam quy Ngũ giới cho cư

dân ở đây chứ chưa có sự truyền giảng kinh điển gì.

Từ cuối thời kỳ Bắc thuộc, Phật giáo đã lan rộng đến nhiều vùng đất ở

nước ta và đã xuất hiện một lớp cao tăng người Việt, trong đó nhiều người đã

đến Trung Quốc, xuống Nam Dương, sang Ấn Độ, hiểu rộng, biết nhiều, kiêm

thông Hán ngữ và Phạn ngữ, có thể coi là những trí thức đương thời. Lực

lượng Phật giáo với các nhà sư và các tín đồ đã thực sự tham gia vào cuộc vận

động giải phóng dân tộc, đứng vào hàng ngũ nhân dân chống áp bức, giành lại

nền độc lập cho đất nước.

Sau chiến thắng của Ngô Quyền trên song Bạch Đằng năm 938, đất nước

đã được độc lập, nhà nước độc lập non trẻ lại đang cần một điểm tựa về ý

thức, một công cụ tinh thần để xây dựng và quản lý đất nước. trong bối cảnh

đó, Phật giáo là một lựa chọn được ưu tiên.

Dưới thời nhà Lý, tư tưởng Phật giáo đã khẳng định được tầm quan trọng

trong đời sống tâm linh, tinh thần của dân tộc ta. Phật giáo lúc này không chỉ

có ảnh hưởng đến đời sống tâm linh, đời sống văn hóa dân tộc mà còn chi

phối cả đời sống chính trị - xã hội. Ở giai đoạn lịch sử này,vương triều

phong kiến trong sự phát triển ngày càng quy củ của mình, cần tìm chỗ dựa

tinh thần vững chắc, làm cơ sở cho chủ trương chính sách cai trị của giai cấp

phong kiến và chiếm được sự đồng tình ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân

trong xã hội. Do vậy, những lời giáo huấn của Đức Phật đều được truyền bá

30

rộng rãi trong nhân dân. Phật giáo trong giai đoạn từ Lý Nam Đế trở đi đã

chính thức đứng ra gánh vác trách nhiệm trước dân tộc và đạo pháp do yêu

cầu đoàn kết để bảo vệ độc lập của Tổ quốc đã trở nên bức thiết. Phật giáo

thời kỳ này đã chỉ ra rằng, trong mỗi con người đã tiềm tàng tính Phật và

con người có thể xây dựng cho mình một thếgiới an lạc tại chính cuộc đời

này. Việc xây dựng một thế giới như thế đòi hỏi mọi người phải đoàn kết

với nhau. Vì lẽ đó, thời nhà Lý tư tưởng của Phật giáo đã hỗ trợ cho chính trị

một cách hiệu quả thông qua hoạt động của các vị Thiền sư nhập thế, tích cực

tranh đấu cho tự chủ của dân tộc, nổi bật là hai Thiền sư Khuông Việt (sư

Ngô Chân Lưu) và Vạn Hạnh.Thời Trần, Phật giáo tiếp tục thịnh hành trên cơ

sở phát triển từ thời Lý, biểu hiện ở việc nhà nước xây dựng thêm chùa

chiền, đúc tượng chuông thờ Phật ởkhắp nơi. Đời Trần Thái Tông, “thượng

hoàng xuống chiếu rằng trong nước, chỗ nào có đình trạm đều phải đắp

tượng Phật để thờ” [30,13], “làm cầu Lâm Ba ởchùa Chân Giáo, qua hồ

Ngoạn Thiềm, đến quán Thái Thanh cung Cảnh Linh, cực kỳ tráng lệ” [30,

21], hay “trùng tu chùa Diên Hựu, xuống chiếu vẫn làm ở nền cũ” [30, 22],

năm 1256, cho “đúc 330 quả chuông bằng đồng” [30, 27]. Đến năm 1262, ở

hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, quê hương của các vua Trần, nhà Trần

“làm chùa ở phía tây cung Trùng Quang gọi là chùa Phổ Minh” [30, 33] để

cho các vua Trần khi nhường ngôi về ngự ở đây. Thế mới thấy ở đầu nhà

Trần, Phật giáo thịnh hành đến chừng nào. Trong giai cấp thống trị, không

những nhiều vua thời Lý - Trần hầu hết nửa cuộc đời dành cho đất nước, nửa

đời còn lại dành cho Phật, mà còn sử dụng Phật giáo như một công cụ tư

tưởng để giáo huấn đạo đức, tu dưỡng nhân cách, củng cố khối đoàn kết

trong nội bộ vương hầu quý tộc và trong nhân dân. Vị vua đầu tiên của nhà

Trần là Trần Thái Tông - tập đại thành đầu tiên của Phật giáo Việt Nam.

Trong lời đề tựa cho tác phẩm “Thiền tông chỉ nam ca”, Trần Thái Tông viết:

31

“Phật không chia Nam Bắc, đều có thể tu mà tìm; tính người có trí ngu, cũng

nhờ giác ngộ mà thành đạt. Vì vậy, phương tiện dẫn dụ người mê muội; con

đường tắt sáng tỏ lẽ tử sinh, ấy là đạo giáo của đức Phật. Đặt mực thước cho

hậu thế; làm khuôn mẫu cho tương lai, ấy là trách nhiệm của tiên thánh... Thế

thì nay lẽnào trẫm không coi trách nhiệm của tiên thánh là trách nhiệm của

mình, giáo lý của đức Phật là giáo lý của mình ư” [32, 27-28].

Tuệ Trung Thượng Sỹ với quan niệm đạo với đời không tách rời nhau,

đời cũng là đạo và đạo cũng là đời:

“Hải giốc thiên đầu thị dưỡng chân”

Dịch nghĩa:

“Góc bể chân trời là nơi nuôi dưỡng chân tính của ta” [32, 226]

“Tu tri thế hữu nhân trung Phật Hưu quái lô khai hỏa lý liên”

Dịch nghĩa;

“Nên biết rằng đời có vị Phật trong đám người bình thường

Thì đừng lạ gì đóa sen nở ra trong lò lửa” [32, 259]

Như vậy, ông đã mong muốn thiết lập nên một hệ tư tưởng mới phù

hợp với hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Tuệ Trung Thượng Sỹ, cũng như các

bậc tài trí trong thiên hạthời bấy giờ, đứng trước vận mệnh tồn vong của dân

tộc, không khoanh tay đứng nhìn, dù đi theo đường lối tu Phật nhưng không

xuất gia mà vừa tham vấn thiền học, vừa nhập thế giúp đời bằng những

hành động cụ thể đáp ứng đòi hỏi của thời cuộc là đuổi giặc, cứu nước,

đem lại hòa bình cho đất nước, hạnh phúc cho muôn dân. Tiếp tục đảm

đương trọng trách đó, Trần Nhân Tông, sau khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử

mà dân tộc giao phó, lãnh đạo thành công cuộc kháng chiến chống quân xâm

lược Nguyên - Mông, thổi bùng lên tinh thần bất khuất, ý thức tự cường dân

tộc; đã từ bỏ địa vị cao sang, phú quí tột cùng, chấp nhận sống tu hành đạm

32

bạc, theo nếp sống thiện của Phật giáo:

“Yên bề phận khó,

Kiếm chốn dưỡng thân;

Khuất tịch non cao,

Náu mình sơn dã.” [32, 533]

Trần Nhân Tông đề cao yếu tố con người đến cao độ, mang lại niềm tin

vững chắc vào sức mạnh tinh thần nơi con người, mọi người đều có thểtìm

được chân tâm ở chính mình.

“Bụt ở trong nhà;

Chẳng phải tìm xa.

Nhân khuấy bản nên ta tìm Bụt;

Đến cốc hay chỉn Bụt là ta.” [32, 506].

Ông còn hô hào dân chúng khắp nơi theo nếp sống “thập thiện” của Phật

giáo, trở thành tổ thứ nhất của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Thiền phái này

phát triển đạt đến đỉnh cao ở Pháp Loa rồi đến thoái trào sau khi tổ thứ ba là

Huyền Quang mất. Với tinh thần nhập thế tích cực, các thiền sư của thiền

phái Trúc Lâm đã hướng vào xã hội để phụng sự dân tộc, hòa mình vào đời

sống xã hội, lo lắng, đóng góp công sức vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất

nước. Do vậy, đó là những hành động mang mục đích và ý nghĩa xã hội tích

cực. Những hành động đó kết hợp với tư tưởng nhân bản đềcao sứcmạnh và ý

chí con người, lôi cuốn, khuyên răn con người vào cuộc sống đức độ “từ, bi,

hỷ, xả”của Phật giáo, đã không chỉ vì mục đích chính trị của giai cấp thống

trị mà còn vì chính cuộc sống của con người, của nhân dân Đại Việt.

Các nhà sư vừa giỏi Phật học vừa biết Nho học trở thành những người trí

thức cần thiết cho triều đại như thiền sư Khuông Việt, thiền sư Pháp Thuận,

thiền sư Vạn Hạnh,… Từ đó cho thấy, văn hoá Phật giáo thời Lý – Trần đã

tiếp thu tính nhập thế trong đời sống kinh tế, xã hội, chính trị , tạo được mối

liên hệ của văn hoá Phật giáo với chính quyền phong kiến, một lớp tăng nhân

33

nổi tiếng thế tục hoá và tích cực tham gia vào chính trị cùng chính quyền, giữ

mối quan hệ trực tiếp, lấy phương thức đặc biệt của tôn giáo để phục vụ chính

trị, xây dựng một tiểu hệ thống kiến trúc thượng tầng bền vững

Mặt khác, ở những thế kỷ đầu độc lập, Nhà nước trung ương tập quyền

mới thành lập chưa khẳng định ngay được công cụ thống trị về mặt tư tưởng

của mình. Phật giáo bấy giờ đã phát triển, dễ dàng được chấp nhận để làm

công cụ thống trị tinh thần cần thiết đó.

Đạo Phật dưới thời Lý – Trần đã ảnh hưởng đến đường lối cai trị của Nhà

nước đó chính là chính sách thân dân, khoan dung và đối trọng với nó là tư

tưởng của Nho giáo để bổ sung cho sự thiếu hụt của Phật giáo.

1.3.3 Khái quát về Đạo giáo

Học thuyết Lão Trang trong sáu, bảy thế kỷ trước công nguyên ở Trung

Quốc (thời Xuân thu Chiến quốc), là một trong các học thuật tư tưởng nổi

tiếng. Các đạo gia khởi thuỷ Lão Tử Trang không chủ trương những điều Tôn

giáo huyền bí, trước cảnh thiên hạ đại loạn họ chọn cuộc sống thuận với tự

nhiên, bỏ lễ nghĩa ẩn dật, di dưỡng thiên chân, đời sau Đạo gia chuyển biến.

Từ thế kỷ I, thời Đông Hán (Hậu Hán), với Trương Đạo Lăng, cái học Lão

Trang biến thành một Tôn giáo, gọi là Đạo giáo, Lão giáo và tiếp tục phân

phái, có phái thiên về luyện khí, luyện đan để cầu trường sinh, bất lão thường

tự nhận là Đạo giáo thần tiên .Đạo giáo phát triển muôn vẻ. Các đạo sĩ

(phương sĩ) chuyên tâm vào bùa chú (phù chú hay phù lục), luyện đan. Họ

được gọi là phái thần tiên đan đỉnh và phù lục.

Toàn bộ kinh điển Đạo giáo rất phức tạp, gồm 5.485 quyển, gọi chung là

Đạo tạng, gồm Chính Đạo tạng, Tục Đạo tạng. Càng về sau Đạo giáo có

nhiều môn phái, rất phức tạp, một số phái chủ yếu là:

- Phái Chính nhất (Thiên sư đạo), phát triển mạnh ở phương Nam, tôn

Trương Đạo Lăng làm Thiền sư; con cháu họ Trương đời đời làm thủ lãnh.

Các đạo sĩ không xuất gia, gọi là hoá cư đạo sĩ.

- Có phái kết hợp với đủ loại ma thuật để trừ tà, chữa bệnh gọi là Đạo giáo

34

phù thuỷ. Phái Đạo giáo này vào Việt Nam được biết đến nhiều.

- Phái Toàn Chân, xuất hiện thời Liêu Kim, phát triển rộng ở phương Bắc,

có cả Đạo sĩ và đạo cổ, đều xuất gia, gọi là Mao Sơn đạo sĩ.

Có thể Đạo giáo du nhập Việt Nam khoảng thế kỷ II, bấy giờ đã mang

màu sắc Đạo giáo, nguyên vì ở Trung Quốc, sau khi Hán Linh Đế mất (năm

189), xã hội đại loạn, người Hán có học chạy sang Giao Châu lánh nạn rất

đông, trong đó có nhiều đạo sĩ tịch cốc (nhịn ăn), luyện pháp trường sinh.

Quan lại Trung Quốc sang đô hộ nước Nam hầu như đều sính phương thuật.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 3, Thái thú Sĩ Tiếp (Sĩ Nhiếp) lâm

bịnh, chết đã ba ngày, lại được một đạo nhân là Đồng Phụng đến cho thuốc

cải tử hoàn sinh. Lại chép việc Thứ sử Trương Tân (sang Giao Châu từ năm

201) hay đội khăn đỏ, đọc kinh sách Đạo giáo có nhiều phương thuật. Đời

Đường, năm 865, Cao Biền sang nước Nam đàn áp các cuộc khởi nghĩa của

dân Việt. Họ Cao là một thuật sĩ có hạng, chuyên về phong thủy, ráo riết tìm

phá long mạch, trấn yểm các nơi anh linh tú khí của nước Nam, cố ý cho nước

Nam không còn sinh nhân tài, anh hùng hào kiệt, sẽ phải lệ thuộc dưới ách đô

hộ của phương Bắc đời đời, song không trấn áp nổi linh khí mạnh mẽ của đất

phương Nam Ngũ lĩnh này. Mấy khuynh hướng tiêu biểu của Đạo giáo Việt

Nam trước thời Lê Thánh Tông.

a. Khuynh hướng phù chú trừ tà ma :

Tiêu biểu là hình thức trừ ma tà bằng bùa chú trong một thời gian dài có

ảnh hưởng đến sinh hoạt dân gian xã hội. Chẳng hạn, cọp được coi là loài thú

có thể khu trừ tà ma, do đó nhiều nhà dân, chùa miếu có dán bùa vẽ hình cọp

trước cửa để trấn trạch che chở gia đình, và lá bùa ấy có tên "Trừ tà trị bệnh,

trấn trạch bình an".

Có thời kỳ bùa chú Đạo giáo có sức lôi cuốn nông dân vào các hội bí mật,

hoặc để tương trợ nhau chống lại cường hào ác bá, hoặc để mưu đồ quốc gia

đại sự.Đời Trần Phế đế, ở lộ Bắc Giang có Nguyễn Bố, năm 1379 xưng

Vương, hiệu Đường lang Tử Y. Đời Hồ có Trần Huy cũng dùng phương thuật

35

thu hút đông người theo bị Hồ Quý Ly dẹp năm 1403.

b.Khuynh hướng phong thủy và sấm ký

Khoa phong thuỷ (địa lý) ở nước Nam và việc tiên tri loan truyền sấm ký

rất được quần chúng tin theo. Từ đời Lý đã sử dụng phương thức Sấm ký để

tạo thanh thế Đời Trần - Hồ ở lộ Tân Hưng có Trần Quốc Kiệt làm quan chức

An Phủ sứ, soạn hình thế địa mạch cạ.

Sấm ký cũng được nhiều Cao Tăng sử dụng. Làng Cổ Pháp, tỉnh Bắc

Ninh, trong Phái Tỳ -niđda -lưu -Chi (Vinitaruci) có nhiều nhân vật lừng lẫy:

sư Định Không (thế kỷ VIII, đời thứ tám); sư La Quý An (852 - 939, đời thứ

mười), sư Vạn Hạnh (thế kỷ XI, đời thứ mười hai) ...

c. Khuynh hướng trường sinh, bí thuật tu tiên :

Vua Trần Dụ Tông (1341 -1369) cầu đạo trường sinh với đạo sĩ Huyền

Vân tu ở núi Niết (núi Phụng Hoàng), huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Đời

Trần Thuận Tông (1388 -1398) có quan tri huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh,

tên Từ Thức, người Hoả Châu cầu trường sinh.

Đời Trần - Hồ ở xã Cố Định, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá, có Trần

Tu vào ẩn tu ở núi Nưa (Na Sơn) cầu trường sinh.

d. Phương hướng cầu thanh tĩnh, nhàn lạc theo tinh thần thuận tự nhiên

phóng khoáng.

Triết lý vô vi thanh tĩnh của Lão Trang ảnh hưởng giới Nho sĩ rất nhiều,

tạo cho con người xu hướng nhàn dật, ưa thích gần thiên nhiên, tìm cái thú

nhàn lạc bên chén rượu cuộc cờ, tiêu dao với mây núi gió trăng ngón đàn, vần

thơ, hay nét thư hoạ ... Xu hướng này thích hợp khi con người không gặp thời,

hoặc khi đã mỏi mệt vì đời phồn tạp. Vì thế, Nho sĩ Việt Nam thời xưa luôn

luôn dự bị hành trang cho bản thân tư tưởng Lão Trang an nhàn xuất xứ. Gặp

thời hay sung mãn khí huyết, được thi thố tài năng thì xuất, tham gia Triều

Chính. Lúc mất ngủ, muốn thanh nhàn bất đắc chí, khi tuổi già hay chán quan

36

trường thì tự rút lui chốn bụi trần xin về thiên nhiên, điền dã.

Đạo giáo kết hợp với thần đạo Việt Nam làm thành nét tín ngưỡng đặc

sắc. Từ lâu đời, người Việt có một đức tin sâu sắc vào sự trường cửu của anh

linh những công thần, hào kiệt. Lúc sống, họ làm rường cột chống đỡ sơn hà

xã tắc, cứu dân giúp nước, khi thác, trở thành Thần Thánh hiển tích, âm phù

mặc trợ cho đồng bào. Thần đạo Việt Nam giản dị như vậy, và đó cũng là một

khía cạnh truyền thống yêu nước và lòng kính trọng nghìn đời của dân tộc đối

với các vị tiên liệt anh hùng, những bậc kỳ tài của đất nước. Cái đình làng, tục

thờ Thành Hoàng, Đền thờ hay Lăng, Miếu các danh tướng lương thần đều là

nét tín ngưỡng Thần đạo của người Việt.

Đạo giáo cũng như đạo Phật đã khéo dung hợp, hòa nhập với những tín

ngưỡng cổ truyền trong lòng xã hội Việt Nam. Trong lúc đất nước mất chủ

quyền, chính tín ngưỡng thần đạo đã nuôi dưỡngý thức quốc gia, khơi lòng

yêu nước, để khi thời cơ đến thì gây phong trào khởi nghĩa, đánh đuổi ngoại

xâm. Vua quan Trung Quốc đã nhiều phen thất bại khi tìm cách dập tắt tín

ngưỡng bản địa này của người Việt để hòng duy trì ách xâm lược của phương

Bắc suy đồi thất bại.Trong toàn bộ lịch sử lâu dài vừa đấu tranh giữ nước vừa

ra sức dựng nước, dân tộc Việt Nam đã chiến đấu bất khuất, không phải chỉ

đối đầu với phương tiện vật chất hữu hình, mà còn có cả sức mạnh Thần

thiêng vô hình nên dần dần bồi đắp đức tin mãnh liệt vào hồn thiêng sông núi,

tin rằng có biết bao thế hệ anh linh tiền nhân dân tộc đang hậu thuẫn cùng

đứng chung chiến tuyến với chính nghĩa của dân tộc để bảo vệ sự độc lập,

thống nhất, trường tồn của Việt Nam.

Tam giáo ví như ba cỗ xe cùng đi đến một đích. Đối chiếu ba cặp phạm

trù tam cương, ngũ thường (của Nho) với tam nguyên, ngũ khí (của Đạo), và

với tam quy, ngũ giới (của Phật) Sư Trịnh Tuệ diễn giải bằng bài thơ về quan

niệm vai trò đối với giáo hoá đạo đức của Tam giáo rất hay như sau:

Trong nơi danh giáo có ba,

37

Nho hay giúp nước, sửa nhà, trị dân.

Đạo thời dưỡng khí an thần.

Thuốc trừ tà bệnh, chuyên cần luyện đan.

Thích độ nhân miễn tam đồ khổ,

Thoát cửu huyền thất tổ siêu phương.

Nho dùng tam cương, ngũ thường,

Đạo gìn ngũ khí, giữ giềng ba nguyên.

Thích giáo nhân tam quy, ngũ giới,

Thể một đường xe phải dụng ba. [28, 145]

"Nhà Nho có tam tài, nhà Phật có tam thế, nhà Đạo có tam thanh, cũng

chẳng khác gì trời có mặt trời, trăng, sao, như vạc ba chân, quan hệ mật thiết

với nhau và không tách rời nhau được. Nói cho rõ là lễ nhạc, hình, chính của

nhà Nho dùng để ngăn ngừa lòng người khiến cho người ta xu hướng về điều

thiện và cấm chỉ các điều ác, xa rời cái xấu và tăng thêm cái đẹp, hiển nhiên

là như vậy. Thanh tĩnh, từ bi của nhà Phật, trừ bỏ nghiệp chướng cứu người

độ vật, cùng đi đến chỗ giác ngộ, thì đó lại là uyên vi trong uyên vi. Nhà Nho

chủ trương chỉnh đốn luân thường, duy trì giáo hóa, làm cho người ta đổi thói

bạc làm thói hậu, bỏ điều bạo chăm điều nhân. Đó là công việc rõ ràng. Nhà

Đạo chủ trương rửa sạch lụy trần, từ bỏ tham dục, vượt cõi phàm vào cõi

thánh, cùng chung duyên lành thì đó lại là huyền diệu trong huyền diệu. Sách

Đại học nói. Sáng tỏ đức mình, làm mới đức dân, dừng ở chỗ chí thiện. Kinh

Phật nói Bát nhã ba la mật, nói "bồ đề tát đóa", nói Ma ha tát. Về ý nghĩa, hai

đằng có trái ngược nhau đâu... Cho nên Tam giáo vẫn là một môn, ba dòng

vẫn là một lý, vốn không phải nước lửa, đen trắng, ngọt đắng có tính chất

chống lại nhau... Thế mới biết Nho tức là Thích mà Thích tức là Nho. Đạo

cũng là Nho mà Nho cũng là Đạo". Cuối bài, Trịnh Tuệ kết luận: Ai hay Tam

giáo bất đồng,Thích Ca, Lão Tử cùng dòng Nho Gia... [28, 145 ]

Tam giáo tuy phân làm ba song suy đến rốt ráo về phương diện đạo đức dạy

38

đời cũng chỉ một nhà, tuy công dụng ở đời có khác nhưng lại hỗ trợ cho nhau

trong việc giáohóa, cứu độ, trị an dân chúng. Tam giáo như ba ngả đường mà

cùng dẫn về một đích điểm. Quan niệm Tam giáo không thể thiếu một, vì thiếu

một thì sẽ nguy hiểm, cũng như chiếc vạc phải đủ ba chân, bầu trời phải đủ mặt

trời, mặt trăng và các vì sao (tam quang, nhật, nguyệt, tinh). Trong Xã hội

phong kiến cũ phải vững vàng ba mối giềng trung chánh bậc giữa đó là ba cương

: quan hệ của bậc Vua trị nước với dân, giữa cha với con, giữa vợ với chồng

(tam cương: quân thần cương, phụ tử cương, phu thê cương).

Tuy Tam giáo ra đời chủ yếu từ thực trạng của xã hội Trung Quốc và du

nhập vào Việt Nam từ lâu. Mục đích của những người tiếp nhận du nhập và

phát triển Tam giáo nhằm giải đáp vấn đề và nhiệm vụ thực tiễn của xã hội

Việt Nam ta đặt ra lúc bấy giờ là sự cần thiết phải khắc phục cái “Thực trạng”

đó, phải ổn định trật tự, kỷ cương của xã hội và đưa xã hội từ “ loạn” tới “trị”.

Tại thời Lê sơ bị chi phối bởi hoàn cảnh xã hội vànhững yêu cầu của thực tiễn

xã hội đặt ra như vậy, Tam giáo với tư cách là hệ thống rộng lớn sâu sắc đề

cập tới nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội và con người như :

Chính trị, xã hội, triết học và đặc biệt là lĩnh vực đạo đức, đạo đức chính

trị.Khi vào Việt Nam qua các đời, vì có sự tương thích và không tương thích

mà các nội dung thế giới quan triết học ít được chú ý, còn nội dung chính trị

đạo đức cơ bản được chú trọng tiếp biến trở thành của Việt Nam qua nhiều

đời làm nên tư tưởng chính trị và đạo đức truyền thống. Tam giáo thẩm thấu

với tư tưởng yêu nước bản địa được coi là những học thuyết đạo đức tại Việt

Nam đưa ra những quan niệm về thiện ác, đạo làm người cùng những chuẩn

mực, những qui tắc, quy phạm đạo đức để điều chỉnh hành vi con người trong

mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với gia đình, quốc

gia, thiên hạ là sự tổng hợp chắt lọc, những quan niệm về đạo đức trong Tam

giáo trở nên là một nội dung của “đạo trị quốc” mà sau này các nhà Nho cũng

như các bậc minh quân ở Việt Nam và luôn coi đó là kim chỉ nam trong suốt

39

quá trình trị vì của mình.

Tiểu kết chương 1

Tư tưởng chính trị - xã hội thời Lý - Trần được hình thành xuất phát từ

những điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa tư tưởng của nước ta giai đoạn đầu

thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIV, đồng thời phản ánh những nhu cầu và

nhiệm vụ thực tiễn của quốc gia Đại Việt là thống nhất về chính trị - xã hội,

củng cố trật tự xã hội, duy trì địa vị thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp

cầm quyền, chống giặc ngoại xâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trước hiểm

họa xâm lược . Đó là những tiền đề hình thành tư tưởng chính trị -xã hội thời

Trần.

Cùng với đó, văn hóa và tư tưởng của dân tộc Đại Việt cũng không

ngừng được tiếp biến, giao thoa và phát triển, đó là sự kết hợp hài hòa các

dòng văn hóa được du nhập và tồn tại trong thời kỳ này là: Phật giáo, Nho

giáo, Đạo giáo. Đó đã là những điều kiện và tiền đề giúp xã hội Đại Việt đi

vào thế phát triển ổn định, kinh tế phát triển, văn hóa tư tưởng ngày càng

hưng thịnh, trực tiếp quyết định đến sự hình thành tư tưởng chính trị - xã hội

và đến lượt nó, tư tưởng chính trị - xã hội lại hướng dẫn, chỉ đạo các hoạt

động xây dựng và bảo vệ quốc gia Đại Việt dưới thời Trần.

Thực tiễn ấy đòi hỏi giai cấp thống trị thời Trần phải xây dựng và

hoàn thiện tư tưởng chính trị - xã hội có khả năng quản lý và điều hành đất

nước ngày càng quy mô, toàn diện hơn, giải quyết thỏa đáng các mâu thuẫn

nảy sinh trong xã hội; đồng thời tư tưởng chính trị - xã hội đó phải đáp ứng

được nhu cầu xã hội đặt ra trong quá trình phát triển, không chỉ nhằm bảo vệ

địa vị, quyền lợi của giai cấp thống trị phong kiến thời Lý - Trần, mà quan

trọng hơn cả là tiến hành thắng lợi công cuộc đấu tranh giữ nước, xây dựng và

40

phát triển Đại Việt về mọi mặt.

CHƯƠNG 2. NHỮNG ẢNH HƯỞNG NỔI BẬT CỦA DUNG THÔNG TAM

GIÁO TRONG LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI THỜI LÝ – TRẦN

2.1 Ảnh hưởng của sự dung thông tam giáo đến đường lối trị nước thời

Lý – Trần

Trong thời Lý – Trần, những quan niệm về độc lập tự chủ của đất nước

có liên hệ khăng khít với sự nhận thức về nhân dân vì nhân dân là lực lượng

quyết định trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Luận điểm “ dĩ dân vi

bản” ( lấy dân làm gốc) là một luận điểm cốt lõi trong tư tưởng của Nho giáo,

nhưng vai trò của Phật giáo cũng được phát huy cao độ, tinh thần Phật giáo đã

là chất liệu cố kết nhân tâm, là cầu nối giữa chính quyền trung ương với địa

phương. Từ đó, cho thấy, sự kết hợp giữa các tam giáo luôn luôn xuất hiện

cùng nhau trong các tư tưởng chính trị xã hội thời kỳ này.

Thời kỳ này, tư tưởng dân bản, thân dân được thể hiện khá đậm nét trong

đời sống xã hội, là sản phẩm của tư tưởng chính trị Nho giáo, nó đã được bồi

bổ làm phong phú và có sức sống bởi những tư tưởng bình đẳng của Phật

giáo, trong một xã hội mà phân tầng xã hội còn khá mờ nhạt.

Những đại biểu về tư tưởng của giai cấp phong kiến nước ta thời Lý

thường coi “ ý dân”, “lòng dân” là một điều đáng quan tâm khi tiến hành các

hoạt động chính trị. Đối với họ, “ý dân”, “lòng dân” trở thành căn cứ, mục

đích cho những chủ trương chính trị lớn như chủ trương dời đô, kế vị, thay

đổi vương triều, hay phát động chíến tranh. Đào Cam Mộc, một quyền thần

có công gây dựng triều Lý đã đặc biệt quan tâm đến lòng dân, đến ý muốn

của trăm họ và coi đó là cơ sở ủng hộ Lý Công Uẩn lên ngôi. Chiếu dời đô

của Lý Công Uẩn cũng khẳng định “Trên vâng mệnh trời, dưói theo ý dân,

thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài phong tục ổn định”.

[29, 69]

Các vua Lý đều có những câu nói về trách nhiệm của mình đối với dân

41

như “thuận lòng dân” (vua Lý Thái Tổ), hay “yêu dân như con” (vua Lý

Thánh Tông). Quan hệ vua quan – thần dân là khá gần gũi, dân chúng kinh

thành Thăng Long trong những ngày hội ( như hội đền Quảng Chiếu) đựơc

vào tận Đoan Môn tham dự. Triều đình còn cho phép vào điện Long Trì đánh

chuông kêu cầu oan ức. Đầu năm, vua Lý Anh Tông đã ra tận ruộng, cày

ruộng tịch điền cùng dân chúng.

Ngay từ đầu thời Lý, xu thế tập trung quyền lực vào tay nhà vua đã được

thể hiện rõ. Nhưng tính chất tập quyền của thời kỳ này là một kiểu tập quyền

thân dân, quyền lực của nhà vua và triều đình dựa trên sự ủng hộ của dân. Mô

hình này đã phát huy cao độ tính chất làng – nước hoà đồng đã hình thành từ

buổi đầu dựng nước. Thay vì dựa vào quân đội thường trực mạnh như thời

Đinh, nhà Lý thực thi chính sách “Ngụ binh ư nông ” ( gửi lính vào nhà nông)

với nguyên tắc“ tĩnh vi nông, động vi binh” (khi hoà bình thì làm nhà nông,

lúc chiến tranh thành chiến binh). Theo đó, triều đình quản lý chặt chẽ dân

đinh, thường xuyên tổ chức các kỳ huấn luyện quân sự cho các trai làng, sau

đó họ lại trở về làm ruộng như các nông dân khác. Khi có chiến tranh, họ tòng

quân nhập ngũ, tham gia chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Để thực thi chính

sách này, nhà Lý phải dựa vào làng xã trên cơ sở thực thi đường lối thân dân.

Nhận rõ vai trò của nhân dân như vậy, sự quan tâm đến đời sống và

nguyên vọng của nhân dân đã được xem là việc hàng đầu của đạo trị nước.

Trong bài Văn lộ bố , khi đánh Tống của Lý Thường Kiệt có nói: “ Trời sinh

ra dân chúng vua hiền ắt hoà mục. Đạo làm chủ dân, cốt ở nuôi dân” [29, 69]

Kế tục sự nghiệp của triều Lý, triều Trần ( 1225 – 1400 ) đã phát triển

mô hình tập quyền thân dân lên một tầm cao mới.

Trần Thái Tông khi đang đêm bỏ kinh thành vào núi Yên Tử, đã kết hợp

hành động xuất gia tu hành Phật giáo với cách diễn đạt về chủ nghĩa dân bản

theo tinh thần Nho giáo: “ Trẫm muốn ra ngoài chơi để được nghe tiếng nói

42

của dân, xem xét lòng dân, cho biết tình trạng khó khăn của dân”. [29, 70]

Các vua thời Trần có những quan hệ khá gần gũi với dân chúng, chứ

không chỉ ngồi yên vị trên ngai vàng xa cách như các triều đại sau này. Sử cũ

chép, các vua thường xuyên đi xuống các làng mạc địa phương, thăm hỏi việc

đắp đê, gặt hái, đánh cá, dự các lễ hội đấu vật, đua thuyền hoặc vi hành đi

chơi phố, có khi “ thâu đêm suốt sáng”. Dấu hiệu gây ấn tượng nhất của tinh

thần thân dân đó là Thượng hoàng Trần Thánh Tông mời các bô lão trong

nước đến dự Hội nghị Diên Hồng, hỏi ý kiến về việc đánh giặc Nguyên, thật

sự có ý nghĩa là một “quốc dân đại hội” trong thời kỳ này.

Quan điểm thân dân của các vua Trần đã được các triều thần văn võ tán

đồng ủng hộ. Sử gia Lê Văn Hưu đã đưa ra quan điểm: “ trời sinh ra dân mà

đặt vua để chăn dắt, chứ không phải để cung phụng riêng cho nhà vua”. [29,

70]

Tư tưởng lấy dân là gốc của vị tướng kiệt xuất, anh hùng giải phóng dân

tộc Trần Quốc Tuấn – Hưng Đạo Vương được quán xuyến trong mọi chủ

trương , chính sách của triều đình. Tư tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn

được thể hiện thông qua một số tác phẩm, tiêu biểu nhất là Hịch tướng sĩ và

những câu nói bất hủ của ông được các nhà sử học ghi lại qua thực tiễn 3 lần

lãnh đạo kháng chiến chống quân Nguyên. Thông qua Hịch tướng sĩ, Trần

Quốc Tuấn đã thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí quyết tâm đánh giặc của

quân dân nhàTrần. Đứng trước quân Nguyên thiện chiến, tàn bạo và hùng

mạnh hơn nước ta gấp nhiều lần, ông đánh tan tư tưởng sợ giặc, phát huy tinh

thần quyết chiến, quyết thắng trong binh sĩ và nhân dân. Phê phán tư tưởng tự

mãn, lối sống hưởng lạc, ông khích lệ tướng sĩ bảo vệ danh dự, lợi ích của

dân tộc và của cá nhân, không thờ ơ với vận nước lâm nguy, kêu gọi nêu cao

tinh thần thượng võ, chuẩn bị giết giặc.

Ông chủ trương thân dân, dựa vào dân để đánh giặc cứu nước. Theo ông,

triều đình “phải khoan thư sức dân” quan tâm đến đời sống nhân dân,vì chính

43

họ có sức mạnh vô địch. Ông nêu bật chân lý của chiến tranh giữ nước là phải

đoàn kết toàn dân tộc, vì theo ông, chỉ khi “vua tôi đồng lòng, anh em hoà

thuận, cả ước góp sức” thì mới thắng được giặc. Bản thân ông luôn nêu gương

về đoàn kết, xoá bỏ hiềm khích gia đình, đặt lợi ích của dân tộc lên trên. Sự

nhất trí cao trong bộ máy lãnh đạo đã tạo niềm tin tuyệt đối của nhân dân vào

triều đình, đã tạo thành sức mạnh vô địch để chiến thắng kẻ thù. Tư tưởng

“khoan thư sức dân” mà Trần Quốc Tuấn đưa ra là sự vận dụng một nội dung

tư tưởng của người sáng lập Nho giáo Khổng Tử về chính sách “huệ dân”. Có

thể nói, trong nhận thức của Trần Quốc Tuấn thì nhân dân chính là nơi chứa

chất những tiềm lực to lớn về kinh tế, quốc phòng đảm bảo vững chắc cho

nền độc lập, tự chủ và chủ quyền của đất nước. Vì vậy, ông đã coi việc

“khoan thư sức dân là kế sâu gốc, bền rễ” và là “thượng sách để giữ nước”.

Như vậy, tuy kế thừa Nho giáo, song Trần Quốc Tuấn đã nâng cao nhận

thức đó lên mang tính đúng đắn, sáng suốt về một cuộc chiến tranh nhân dân

bảo vệ Tổ quốc. Chân lý đó có tính chất phổ biến cho mọi cuộc chiến tranh

chính nghĩa nhằm chống lại các đội quân xâm lược hùng mạnh. Chân lý đó đã

được ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên ở thế kỷ XIII

và thực tiễn chống ngoại xâm của dân tộc ta qua hàng chục thế kỷ xác nhận là

hoàn toàn đúng đắn. Có tiếp nhận tư tưởng đức trị song lần đầu tiên trong lịch

sử Việt Nam, Trần Quốc Tuấn đã nâng thành quan điểm lý luận chỉ đạo sát

hợp với thực tiễn bảo vệ và xây dựng Tổ quốc của nhân dân ta. Đánh giá về

vai trò của nhân dân trong cuộc kháng chiến thời Trần, nhà sử học Phan Huy

Chú viết: “Thế là đời Trần, nhân dân ai cũng là binh, nên mới phá được giặc

dữ, làm cho thế nước được mạnh” [2, 316].

Ở đây, tư tưởng Nho, Phật, Đạo đã gặp nhau, diễn giải rõ quan điểm

“thân dân” ghi ở đầu sách Đại học: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại

thân dân, chỉ ư chí thiện” ( cái đạo học lớn là làm rõ đức sáng, thân thiết với

nhân dân, đứng vững ở điều thiện). Còn Đạo đức kinh của Lão Tử cũng đã

viết tương tự: “ Bậc thánh nhân không có thành kiến, lấy tấm lòng thiên hạ

44

làm tấm lòng mình”

Tóm lại, trên phương diện tư tưởng thời Lý – Trần, sự quan tâm nhân

dân được đề cập đến như một vấn đề cấp thiết của đạo trị nước, và cũng là

một yếu tố của khái niệm đức trị trong Nho học. Có thể thấy rõ sự kế thừa tư

tưởng đức trị khi bàn về vai trò của dân. Như Nho giáo truyền thống, các nhà

tư tưởng Việt Nam thời Lý -Trần luôn coi dân là gốc nước, luôn nêu lên rằng,

ông vua muốn được nước phải được lòng dân, việc làm phải hợp ý dân.

Nhưng nếu như ở Nho giáo Trung Quốc, dân không phải là mọi thần dân nói

chung, mà chỉ là những người biết nghe và làm theo giáo hoá, biết tuân phục

mới được gọi là dân, thì trong quan niệm của các nhà Nho Việt Nam thời Lý -

Trần, dân được xem là toàn thể nhân dân, là trăm họ, là đồng bào. Như Trần

Minh Tông nói: “Hết thảy sinh dân đều là đồng bào của ta. Nỡ lòng nào để

cho bốn bể khốn cùng” [32, 787].

Dân còn là cả những người dân đen đau khổ, đói rét, như lời Trần

Nguyên Đán: “Dân muôn nước như cá trong vạc nước sôi” [14, 174]. Với Lý

Thường Kiệt, dân còn bao gồm cả những người dân nước ngoài: “chỉ có ý

phân biệt quốc thổ, không phân biệt chúng dân” [34, 320].

Ở Việt Nam thời Lý -Trần, tư tưởng “đức trị” được xây dựng trên cơ sở

kết hợp giữa truyền thống nhân đạo của dân tộc với tinh thần từ bi, bác ái,

nhân từ của Phật giáo và tư tưởng “đức trị” tiến bộ của Nho giáo, nhằm mục

đích cuối cùng là đoàn kết toàn dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều này

phần nào được thể hiện qua bài thơ của Trần Dụ Tông:

“Đường Việt, hai vua hiệu Thái Tông,

Đường xưng: Trinh Quán, Việt: Nguyên Phong.

Kiến Thành bị giết, An Sinh sống,

Miếu hiệu tuy đồng, đức chẳng đồng.” [33, 242]

Ở trong Hịch tướng sĩ, một người ảnh hưởng tư tưởng trung - hiếu -

nghĩa của Nho giáo như Trần Quốc Tuấn, nhưng vẫn chan chứa tinh thần bình

45

đẳng bác ái, vô ngã của Phật giáo: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ

gối, ruột đau như cắt nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt

gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác

này gói trong da ngựa ta cũng cam lòng” [14, 92 ]

Thông qua hai sự kiện lịch sử giống nhau ở hai nước để khẳng định

đường lối đức trị của Việt Nam khác với đường lối cai trị của nhà Đường, tuy

rằng cả hai đều chịu ảnh hưởng của Nho giáo. “Đức trị” thời Lý -Trần dựa

trên lòng thương người, sự khoan dung đại độ của nhà vua, đồng thời nó cũng

xuất phát từ chính thực tiễn xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam.

2.2 Ảnh hưởng của sự dung thông tam giáo trong việc xây dựng và

phát triển giáo dục - khoa cử

Có thể nói, hệ thống giáo dục - khoa cử của Đại Việt thực sự hiện hữu

từ khi nhà Lý mở khoa thi đầu tiên (năm 1075) và mở trường công ở trung

ương với tên gọi là Quốc Tử Giám (năm 1076). Như vậy, chúng ta có thể xác

nhận một cách có cơ sở rằng, trước các sự kiện xuất hiện hệ thống giáo dục

với các thành tố công lập và tư thục, khoa cử (bao gồm tuyển cử và tiến cử),

v.v, dường như chỉ tồn tại nền giáo dục tư thục và những người dạy học xuất

thân từ nhiều kiểu trí thức khác nhau, trong đó trí thức Phật giáo và Đạo giáo

đóng vai trò chủ đạo.

Đặc điểm căn bản nhất của hệ thống giáo dục - khoa cử thời Lý mang

tính sơ khai, bởi nửa cuối thế kỷ XI, tức là sau 70 năm từ khi thiết lập vương

triều, nhà Lý mới xây dựng được mô hình giáo dục - khoa cử của mình, trong

đó kế thừa các yếu tố mang tính tự phát trong nhân dân là chính. Ngoài con

đường thi tuyển do triều đình mở, còn có sự tiến cử những người không qua

mô hình đào tạo ở Quốc Tử Giám, nơi chỉ dành cho con em hoàng gia, quý

tộc. Các thiết định về quy chế thi cử còn lỏng lẻo, đặc biệt là về kỳ hạn. Mặc

dù vậy, có thể nói, đây là bước khởi đầu của một hệ thống mà nhờ có nó,các

triều đại phong kiến về sau mới hoàn thiện dần để hệ thống giáo dục - khoa

46

cử Đại Việt trở nên hoàn chỉnh hơn.

Sang thời Trần, do nhu cầu phát triển bộ máy nhà nước quân chủ trung

tương tập quyền, vấn đề trị nước được đặc biệt chú trọng bởi các yếu tố chủ

quan và khách quan chi phối. Đặc biệt, vận mệnh của đất nước trước nguy cơ

chiến tranh do đội quân viễn chinh khét tiếng khắp lục địa Á - Âu thời bấy giờ

là Nguyên Mông, vấn đề củng cố bộ máy nhà nước và khối đại đoàn kết toàn

dân càng được nhà Trần quan tâm. Đây là vấn đề mà Phật giáo không thể đảm

đương xét từ góc độ giáo lý của nó. Chính vì vậy, để có nhà nước mạnh, nhân

dân đoàn kết một lòng dưới sự lãnh đạo của các “vua hiền chúa thánh minh”,

cần phải có sự đào tạo thường xuyên, liên tục nguồn nhân lực đủ cả về lượng

lẫn chất đáp ứng cho nhu cầu của đất nước và thời đại. Đó là nguyên nhân để

nhà Trần phát triển giáo dục - khoa cử một cách có quy củ, bài bản trên cơ sở

ưu tiên cho lĩnh vực giáo dục theo tinh thần Nho giáo. Nhờ đó, hệ thống giáo

dục - khoa cử được thiết lập và hoàn thiện hơn nhiều so với thời Lý. Các kỳ

thi, nội dung và cách thức thi cử rõ ràng hơn, đồng thời kéo theo cách dạy và

học ở hệ thống giáo dục công cũng như tư thục phát triển. Mô hình giáo dục

tư thục có thể lấy trường của Thầy Chu Văn An làm thí dụ. Trong điều kiện

Phật giáo chiếm ưu thế là, các bậc quân vương chủ yếu là các nhà sư uyên

bác, mà nhà nho - nhà giáo dục Chu Văn An được tôn vinh “vạn thế sư

biểu”, ngang hàng với Khổng Tử Trung Hoa cổ đại là điều phi thường.

Việc xác lập triều Lý năm 1009 và Lý Công Uẩn dời kinh đô từ Hoa Lư

ra Thăng Long vào năm 1010 với ý đồ xây dựng một vương triều bền vững

lâu dài, nhằm “mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu”, đã mở

ra một thời kỳ phát triển mới về mọi mặt của quốc gia Đại Việt. Đó cũng là

dấu mốc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với toàn bộ quá trình phát triển

của chế độ phong kiến Việt Nam về sau. Xét nước Việt ở thế kỷ X, sau hơn

một nghìn năm Bắc thuộc, nhu cầu tất yếu phải xây dựng được nhà nước quân

chủ độc lập vững chắc. Do vậy, cần phải có hệ tư tưởng lý luận soi đường,

47

phải có tầng lớp trí thức đảm nhiệm trọng trách lớn lao trong bộ máy chính

quyền. Trước đòi hỏi tất yếu của tồn tại xã hội và nhu cầu xây dựng nhà nước

quân chủ trung ương tập quyền, phải bắt đầu từ việc xây dựng và phát triển

nền giáo dục. Ngoài ra, môt măt, trong khi yếu tố bản địa có mặt hạn chế của

nó là không có văn tự, trình độ dân trí thấp; mặt khác, các hệ thống triết học

du nhập vào nước ta (Nho, Phật, Lão) lại uyên thâm và khá hoàn chỉnh. Cho

dù mỗi dòng tư tưởng này có những hạn chế nhất định, cũng như nội dung tư

tưởng, chức năng và phạm vi ảnh hưởng của Nho, Phật, Lão về cơ bản là khác

nhau, mâu thuẫn nhau, nhưng vì đều tồn tại trên một cơ sở kinh tế - xã hội

nhất định và đáp ứng được nhu cầu cai trị và quản lý xã hội của giai cấp

phong kiến Đai Việt. Vì thế, ba đạo ấy có thể bổ sung cho nhau, kết hợp với

nhau tạo nên hệ tư tưởng Nho - Phật – Lão cho giai cấp phong kiến Đai Việt

dưới triều Lý (và cả triều Trần sau này). Việc các ông vua đầu triều Lý trong

buổi đầu kiến tạo và phát triển vương nghiệp của mình đã dung hòa ba dòng

tư tưởng này kết thành hệ tư tưởng Nho - Phật -Lão là một sự lựa chọn đúng

đắn. Thực tiễn lịch sử đất nước Đại Việt dưới thời Lý -Trần cho thấy, chính

sự lựa chọn này là một trong những nhân tố quan trọng giúp cho quốc gia Đại

Việt vượt qua nhiều thử thách khốc liệt và góp phần đáng kể vào việc bảo vệ,

phát triển đất nước về mọi mặt. Tuy nhiên, vị trí, tính chất và vai trò của ba

dòng tư tưởng này trong hệ tư tưởng Nho - Phật - Lão từ thời Lý trở đi có

những biến đổi qua từng thời kỳ, thậm chí từng triều vua. Dưới thời Lý -

Trần, Phật giáo được coi là quốc giáo, là tôn giáo của triều đình. Nhiều ông

vua rất uyên thâm và tôn sùng Phật giáo, nhiều vị cao tăng được trọng dụng,

nhưng nhìn chung, vị trí, vai trò của Nho giáo ngày càng lớn, hiệu quả hơn

trong cai trị và quản lý xã hội, cũng như trong việc triển khai và thực thi

những nhiệm vụ chính trị của giai cấp phong kiến Việt Nam.

Sự phát triển của Nho giáo trong lĩnh vực giáo dục - khoa cử bắt đầu thể

hiện rõ từ thời Lý. Từ đây, hệ thông giáo dục của nước ta được xây dựng theo

48

mô hình của Nho giáo và có sự điều hành trực tiếp của nhà nước phong kiến.

Mặc dù dưới thời Lý, Nho giáo được nhà nước chấp thuận là một thành

tố của hệ tư tưởng Nho - Phật - Đạo; mở mang nền giáo dục khoa cử Nho học

và như GS Trần Văn Giầu khẳng định, “nhà Lý ngày càng dựa vào Nho giáo”

[8, t2, 64], nhưng Nho giáo vẫn giữ một vị trí khá khiêm tốn. Tuy nhiên, theo

thời gian, Nho giáo ngày càng có vị trí, vai trò nhiều hơn trong đời sống tinh

thần của con người và xã hội Việt. Nếu như lúc đầu, Nho giáo mới chỉ được

triều đại phong kiến chấp nhận trên nguyên tắc để trị nước thì đến cuối triều

Trần, nó đã trở thành ý thức hệ đang trên đà thống trị xã hội. Đến giữa thế kỷ

XIV, Nho giáo đã chiếm được ưu thế trong cung đình và đi sâu vào sinh hoạt

tinh thần của nước Đại Việt trên nhiều mặt.Chúng ta có thể thấy được sự phát

triển của Nho giáo thời kỳ Lý - Trần thông qua việc khảo sát ảnh hưởng ngày

một sâu rộng của nó trên các lĩnh vực của đời sống xã hội lúc bấy giờ.

Tiến trình khẳng định vai trò Nho học trên lĩnh vực giáo dục, khoa cử,

theo PGS.TS Nguyễn Quang Ngọc thì, “Thời Lý -Trần, Nho học phát triển từ

trên xuống dưới”[19, 99]. Năm 1070, Lý Thánh Tông cho xây dựng Văn

Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử và các vị tiên hiền. Đây cũng là nơi dành

riêng để dạy học cho các Hoàng Thái tử. Năm 1076, nhà Lý cho lập Quốc Tử

Giám ngay giữa kinh thành. Từ đây, nền đại học nước ta được khai sinh. Tuy

nhiên, cũng chỉ có các quý tộc, quan liêu và con em họ mới được theo học.

Nhìn chung, việc giáo dục Nho học ở thời Lý còn khá hạn chế. Trường

học mới chỉ có ở Thăng Long, chưa mở đến các phủ huyện. Nền giáo dục

Nho học lúc này chỉ dành cho quý tộc, con quan. Số lượng nho sĩ so với thời

Bắc thuộc tăng nhưng vẫn chưa có nho sĩ xuất thân từ bình dân. Sang đến nhà

Trần, Quốc tử viện được lập cũng không phải dành cho tất cả các đối tượng

mà chỉ dành cho con em các văn quan và tụng quan vào học mà thôi. Sách

Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mùa đông, tháng 10, cho Phạm Ứng Thần làm

thượng thư tri Quốc tử viện, trông nom cho con em các văn quan và tụng

49

quan vào học”[5, 448]. Việc cho con em các văn quan và tụng quan học Nho

giáo lúc này cốt là đào tạo người kế tục sự nghiệp của các thế hệ đi trước.

Song, cùng với sự phát triển của dân tộc, nhu cầu xây dựng và bảo vệ đất

nước đòi hỏi phải từng bước kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước từ trung

ương đến địa phương, cho nên giáo dục Nho học đã không chỉ dừng lại ở đối

tượng con em các quan trong triều nữa mà đến năm 1253, cùng với việc thành

lập Quốc học viện, thì đối tượng vào học đã là tất cả các đối tượng trong

nước. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Tháng 6, lập Quốc học viện, tô

tượng Khổng Tử, Chu Công và Á Thánh, vẽ tượng 72 người hiền để

thờ...Tháng 9, xuống chiếu cho các nho sĩ trong nước đến Quốc học viện

giảng học tứ thư lục kinh” [5, 463].

Về trường học, ngoài Quốc học viện ở kinh đô và nhà học ở phủ Thiên

Trường (lập năm 1281) do Nhà nước quản lý, còn có các trường dân lập khá

nổi tiếng như trường của Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc, trường Cung

Hoàng của nho sĩ Chu Văn An (trước đó đã từng giữ chức Tư nghiệp Quốc tử

giám) cũng thu hút được nhiều học sinh từ các nơi đến học. Ở các trường này

cũng có nhiều người có đạo đức, có thực lực Nho học, đỗ đạt cao, được bổ

nhiệm làm quan. Sử chép: An (người huyện Thanh Đàm), tính người cương

trực, ít giao du, sửa mình trong sạch, bền giữ tiết tháo, không cầu danh lợi

hiển đạt, ở nhà đọc sách, học vấn tinh thuần, tiếng đồn gần xa, học trò đầy

cửa; thỉnh thoảng học trò đỗ đại khoa, vào chính phủ, như Phạm Sư Mạnh, Lê

Bá Quát đã làm hành khiển mà đều giữ lễ học trò [5, 660]. Trường của Chiêu

Quốc vương từng được mở ở bên hữu phủ đệ, thu hút các văn sĩ bốn phương

đến học tập: Ích Tắc là con thứ của Thượng hoàng, thông minh, chăm học,

thông hiểu kinh sử và lục nghệ, văn chương nhất đời...Từng mở trường học ở

bên hữu phủ đệ, họp các văn sĩ bốn phương cho học tập, cấp cho ăn mặc, dạy

bảo nên tài, như bọn Mạc Đĩnh Chi ở Bàng Hà, Bùi Phóng ở châu Hồng 20

người, đều được dùng cho đời [5, 482-483]. Đến năm 1397, vua Trần Thuận

50

Tông chính thức sai đặt nhà học và chức học quan (được nhà nước trợ cấp

ruộng công thu hoa lợi) ở các lộ phủ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông với chức

năng là giáo hóa dân chúng, giữ gìn phong tục, dạy bảo học trò thành tài

nghệ, chọn người ưu tú tiến cử lên triều đình. Nhà vua này đã ra chiếu viết:

Đời xưa, nước có nhà học, đảng có nhà tự, toại có nhà tường, là để tỏ rõ

giáo hoá, giữ gìn phong tục, ý trẫm rất mộ. Nay quy chế ở kinh đô đã

đủ mà ở châu huyện thì còn thiếu, làm thế nào mở rộng giáo hoá cho

dân được? Nên hạ lệnh cho các lộ phủ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông,

đều đặt một học quan, cho ruộng công theo thứ bậc khác nhau, phủ

châu lớn thì 15 mẫu, phủ châu vừa thì 11 mẫu, phủ châu nhỏ thì 10

mẫu, để cung chi phí cho nhà học. (Một phần để cúng ngày mồng một,

một phần về nhà học, một phần về đèn sách). Quan lộ và quan đốc học

dạy bảo học trò cho nên tài nghệ, cứ đến cuối năm chọn người nào ưu

tú tiến cử lên triều đình, trẫm sẽ thân hành thi để lấy dùng [5, 717].

Qua đó chúng ta thấy, việc giáo dục ở địa phương vào cuối thời Trần đã

được đề ra một cách quy củ và được triều đình quan tâm không chỉ đối với

các quan lại phụ trách việc dạy học mà còn rất chú trọng đến việc tuyển người

tài giỏi ở các địa phương cho triều đình. Như vậy, việc mở rộng trường học

phản ánh sự phát triển về quy mô đào tạo của nền giáo dục Nho học thời

Trần. Thời kỳ này, Nhà nước phong kiến chỉ nắm giữ một bộ phận công việc

tổ chức trường học, còn phần nhiều trường học lại nằm trong dân chúng.Cùng

với giáo dục, khoa cử ở Đại Việt đã có từ thời Lý. Khoa thi đầu tiên được nhà

Lý tổ chức vào năm 1075 gọi là “Minh Kinh bác sĩ và Nho học tam trường”

đã chính thức khai sinh cho lịch sử thi cửNho giáo lâu dài ở nước ta. Khoa thi

ấy, Lê Văn Thịnh (người Bắc Ninh) đỗ đầu Thái học sinh (Tiến sĩ sau này),

được cho vào hầu vua học, sau này được thăng đến chức Thái sư. Năm 1086,

triều đình lập Hàn lâm viện, nho sĩ Mạc Hiển Tích trúng tuyển, được bổ làm

Hàn lâm học sĩ. Năm 1152, nhà Lý tổ chức thi điện. Năm 1156, Lý Anh Tông

51

lại cho lập miếu riêng để thờ Khổng Tử.

Điều đó thể hiện khuynh hướng muốn dựng Nho giáo thành một giáo lý

độc tôn, đem Khổng Tử từ bậc tử (thầy) như các Chư Tử lên bậc Thánh

Khổng vậy. Các kỳ thi tiếp theo được tổ chức vào năm 1165, 1185, 1193 và

1195. Cả triều Lý đã tổ chức được 6 khoa thi, lấy đỗ 27 người.

Với việc tổ chức khoa cử, nhà Lý đã mở đầu cho lịch sử khoa cử của

nước Việt ta kéo dài hơn 800 năm, qua đây tuyển chọn những người tài cho

bộ máy nhà nước, nêu cao vị trí của Nho học, thúc đẩy việc truyền bá và phát

triển Nho giáo. Tuy vậy, ở thời Lý, việc học tập và thi cử chưa được tổ chức

thường xuyên, chưa có quy chế rõ ràng và do đó số nho sĩ được đào tạo ra hãy

còn ít.

Sang đời Trần, do yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc,

yêu cầu tuyển lựa nhân tài để bổ dụng cho bộ máy quan liêu, giáo dục Nho

học được đẩy mạnh, số người tiến thân bằng con đường cử nghiệp ngày càng

nhiều hơn, giới nho sĩ đông đảo hơn trước.Chỉ một năm sau khi nắm chính

quyền, tức năm 1227, nhà Trần mở khoa thi Tam giáo. Từ đó, các khoa thi

được tổ chức đều đặn và thường xuyên hơn thời Lý. Năm 1232, nhà Trần mở

khoa thi Thái học sinh, lần đầu tiên chia thành ba hạng (tam giáp). Đỗ đệ nhất

giáp là Trương Hanh, Lưu Diễm, đệ nhị giáp là Đặng Diễn, Trịnh Phẫu, đệ

tam giáp là Trần Chu Phổ. Khoa thi thái học sinh năm 1239 Lưu Miễn và

Vương Giát đỗ đệ nhất giáp, đệ nhị giáp là Ngô Khắc, đệ tam giáp là Vương

Thế Lộc. Đến năm 1246 định lệ thi tiến sĩ cứ 7 năm thi một khoá.

Song trên thực tế, nhà Trần gần như không thực hiện được định kỳ 7

năm kể từ khi quy định đó được ban hành. Năm 1247, nhà Trần mở khoa thi

tiến sĩ, lần đầu tiên chia thành tam khôi (người đỗ đầu là trạng nguyên, người

đỗ thứ hai là bảng nhãn, người đỗ thứ ba là thám hoa lang, sau này có đặt

thêm một học vị cấp cao nữa là hoàng giáp). Khoa ấy Nguyễn Hiền đỗ trạng

nguyên, Lê Văn Hưu đỗ bảng nhãn (sau này là người soạn Đại Việt Sử Ký và

52

là sử gia đầu tiên của Việt Nam), Đặng Ma La đỗ thámhoa lang; 48 người đỗ

thái học sinh, xuất thân theo các thứ bậc khác nhau (Cùng năm ấy, triều đình

lại mở khoa thi Tam giáo).

Các khoa thi sau được tổ chức liên tục vào các năm 1256, 1266, 1275,

1304, 1314, 1345, 1374, 1381, 1384 và 1393. Đặc biệt phải kể đến khoa thi

năm 1304, lần đầu tiên, triều đình phong kiến đã tôn vinh cả về mặt học vấn

lẫn danh dự cho những thí sinh trúng tuyển bằng việc cho “dẫn ba người đỗ

đầu ra cửa Long Môn của Phượng Thành đi du ngoạn đường phố ba ngày”.

Năm 1374, vua Trần Duệ Tông đổi khoa thi Thái học sinh thành Tiến sĩ. Đến

cuối thời Trần, năm 1396, vua Thuận Tông thêm khoa thi Cử nhân theo lệ cứ

năm trước thi Hương thì năm sau thi Hội rồi vào thi Đình để chọn Tam khôi.

Cả thời Trần có tất cả 14 khoa thi (10 khoa chính thức và 4 khoa phụ), số

người đỗ đạt khá nhiều và đều được tặng học vị Thái học sinh. Khoa thi năm

1247 lấy đỗ 48 người; khoa thi năm 1256: 43 người; khoa thi năm 1266: 47

người; khoa thi năm 1275: 27 người; khoa thi năm 1304: 44 người...Nhiều

danh nho nổi tiếng tài giỏi và được triều đình trọng dụng. Lê Văn Hưu đỗ

bảng nhãn khoa thi năm 1247. Ông là người chấp bút viết bộ sử đầu tiên của

nước ta là bộ Đại Việt sử ký. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mùa xuân, tháng

giêng, Hàn Lâm viện học sĩ kiêm Quốc tử viện giám tu là Lê Văn Hưu vâng

chỉ soạn xong bộ Đại Việt sử ký, từ Triệu Vũ đế đến Lý Chiêu Hoàng, cộng

30 quyển, dâng lên, vua xuống chiếu khen ngợi” [5, 485]. Mạc Đĩnh Chi đỗ

trạng nguyên trong khoa thi tháng 3 năm 1304. Mạc Đĩnh Chi nổi tiếng học

giỏi đỗ cao, danh tiếng “Lưỡng quốc trạng nguyên” lẫy lừng đến ngày nay.

Ông từng làm quan và hoạt động dưới 4 triều vua Trần: Trần Anh Tông

(1293-1314), Trần Minh Tông (1314-1328), Trần Hiến Tông (1329-1341) và

Trần Dụ Tông (1341-1369). Đỗ cùng khoa thi với Mạc Đĩnh Chi còn có

Nguyễn Trung Ngạn đỗ hoàng giáp. Nguyễn Trung Ngạn và Trương Hán

Siêu được nhà vua giao cho biên soạn bộ Hoàng triều đại điển và bộ Hình thư

53

(năm 1341).

Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mùa thu, tháng 8 năm...sai Trương

Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn biên định bộ Hoàng triều đại điển và khảo

soạn bộ Hình thư để ban hành” [5, 625]. Nguyễn Trung Ngạn đã từng giữ

nhiều chức quan trọng, trong đó có thời kỳ ông là người đứng đầu quản lý

Kinh đô Thăng Long với chức Đại Doãn Kinh sư (năm 1341). Có một số

người đỗ đại khoa khi tuổi đời còn rất trẻ như: trạng nguyên Nguyễn Hiền (13

tuổi), bảng nhãn Lê Văn Hưu (18 tuổi), thám hoa Đặng Ma La (14 tuổi),

hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn (16 tuổi). Quan trường không chỉ dành cho

những người khoa bảng mà còn mở rộng cho cả nho sinh. Phan Huy Chú

nhận xét rằng: Triều Trần dùng người thật công bằng. Tuy đã đặt khoa mục

mà việc kén dùng chỉ cốt tài là được, cho nên những nho sĩ có chí hướng thì

thường được trổ tài của mình, không đến nỗi bị bó buộc hạn chế vì tư cách,

như khoảng đời Hưng Long (1293), Đại Khánh (1314) nhân tài có rất nhiều,

mặc áo triều, ở ngôi trọng, học sinh với khoa giáp ngang nhau, lịch duyệt trên

đường làm quan chưa hề khác nhau (làm quan ở triều báy giờ duy có Đĩnh

Chi, Trung Ngạn là người khoa giáp,còn bọn Hán Siêu, Lê Quát, Phạm Mại

đều do học sinh xuất thân), chỉ cần người dùng được, chứ không câu nệ ở

đường xuất thân”.

Toàn thư cũng chép: “Mùa thu, tháng 8 (1236), chọn những nho sinh, ai

thi đỗ cho vào chầu hậu, sau làm định lệ [5, 448] và tháng 12 năm 1274 “Chọn

người Nho học trong nước, người nào có đức hạnh sung vào hầu Đông cung” [5,

487]. Giáo dục khoa cử của nhà nước đã tạo cơ hội cho nho sĩ không chỉ có điều

kiện thi thố tài năng, tiến thân trên con đường quan chức mà quan trọng là qua

đó nhà nước tuyển chọn được những người tài giỏi phục vụ đất nước. Phác qua

các đường nét diện mạo nho sĩ, tình hình khoa cử nói trên cho thấy, càng về cuối

thời Trần, vị thế của Nho giáo càng được nâng cao.

Về nội dung giáo dục và thi cử từ thời Lý đến thời Trần đã đạt được

54

một bước tiến đáng kể. Dưới thời Lý và đầu thời Trần, Nho giáo chưa phải là

nội dung duy nhất trong học tập và thi cử. Bởi vì ảnh hưởng của Phật giáo và

sự hiện diện phổ biến của Đạo giáo trong thời Lý, cũng như ảnh hưởng của

vai trò tăng lữ trong thời gian này đã chi phối mọi mặt sinh hoạt của xã hội

trong đó có giáo dục, thi cử. Vào năm 1299, sử cũ cho biết, Nhà nước còn cho

in sách Phật giáo pháp sự ban bố cho thiên hạ. Các kỳ thi Tam giáo được tổ

chức không chỉ ở thời Lý mà còn ở cả buổi đầu thời Trần. Việc dạy Phật giáo

vẫn tiếp tục trong nhân dân và trong các cơ sở chùa tháp của Phật giáo, chủ

yếu do các nhà sư đảm nhiệm. Và việc dạy Đạo giáo diễn ra trong các quán

do các Đạo sĩ giảng dạy.

Thời Lý – Trần có ba kì thi Tam gíao vào các năm : 1185 dưới thời Lý

Cao Tông trị vì; năm 1227 và 1247 dứoi thời Trần Thái Tông trị vì.

Ngoài ra, để nhà nước cấp Độ điệp cho các nhà sư hành đạo, thì họ phải

học và thi cả Nho giáo và Phật giáo. Còn để nhà nước cấp Ký lục cho các đạo

sĩ hành nghề, họ phải học và thi cả Nho giáo và Đạo giáo

Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú nhận xét: “Đời

Lý - Trần đều chuộng Phật giáo và Đạo giáo, cho nên buổi ấy chọn người

muốn được thông cả hai giáo ấy, dù là chính đạo hay dị đạo, đều tôn chuộng

không phân biệt,mà học trò đi thi khoa ấy (khoa tam giáo) nếu không học

rộng biết nhiều thì cũng không đỗ được”[3, 152].

Tuy nhiên cho đến tận lúc này, nội dung học tập và thi cử vẫn chưa

được quy định cụ thể, chặt chẽ. Tình hình có sự thay đổi khi nhà Trần cho lập

Quốc học viện, tô tượng Khổng Tử, Chu Công và Á Thánh, vẽ tượng 72

người hiền để thờ và xuống chiếu cho các nho sĩ trong nước đến Quốc tử viện

để giảng học Tứ thư, Ngũ kinh vào năm 1253. Học Tứ thư gồm Luận ngữ,

Mạnh Tử, Đại học, Trung dung; Ngũ kinh gồm: Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh

Thi, Kinh Thư, Kinh Xuân Thu.

Dưới thời Trần, nội dung học tập và thi cử Nho học đã bắt đầu được

55

quy định và cũng khá quy củ. Đến năm 1304, triều đình mới ban hành quy

định về nội dung thi Thái học sinh và quy định này được áp dụng trong cả

nước. Các nho sinh trong nước phải trải qua bốn kỳ thi: kỳ thứ nhất thi ám tả;

kỳ thứ hai thi kinh nghi, kinh nghĩa, đề thơ, phú; kỳ thứ ba thi chiếu, chế,

biểu; kỳ thứ tư thi đối sách.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: Về phép thi thì trước thi ám tả thiên

Y quốc và truyện Mục thiên tử để loại bớt. Thứ đến kinh nghi, kinh nghĩa; đề

thơ (tức thể cổ thi ngũ ngôn trường thiên) thì hỏi về “vương độ khoan mãnh”,

theo luật “tài nan xạ trĩ”; đề phú thì dùng tám vấn đề “đế đức hiếu sinh, diệp

vu dân tâm”. Kỳ thứ ba thì thi chế, chiếu, biểu. Kỳ thứ tư thi đối sách [5,

565].

Về sau, trong các kỳ khoa cử về cơ bản đều được tiến hành theo định lệ

này. Đến khoa thi Thái học sinh năm 1345 thì không thi chế, chiếu, biểu và

văn sách. Đặc biệt, từ kỳ thi đó về sau không quy định thi kinh nghi nữa (điều

đó thể hiện sự tôn sùng tuyệt đối với Nho giáo), phép thi dùng: ám tả cổ văn,

kinh nghĩa, thi phú: “Mùa xuân, tháng 3 (1345), thi thái học sinh, phép thi

dùng ám tả cổ văn, kinh nghĩa, thi phú” [5, 628].

Ngoài những kỳ thi chọn tiến sĩ và tuyển dụng quan lại bổ sung vào bộ

máy nhà nước theo tinh thần Nho giáo, ở nước ta từ giữa thế kỷ XIV, đặc biệt

có tính chất phổ biến và trở thành một chủ trương lớn của nhà nước, đó là

việc tổ chức các kỳ khảo thí (thi định kỳ hoặc không định kỳ) theo tinh thần

“vi quan nhi tắc học” để kiểm tra lại thực lực Nho học của quan lại. Căn cứ

vào kết quả của lần khảo thí này, những người đỗ thì được thăng quan tước,

còn ai không đỗ sẽ bị giáng chức hoặc bãi chức. Qua nội dung học và đặc biệt

là nội dung và phương thức thi cử để chọn nhân tài và chọn người làm quan

cho thấy, yêu cầu cơ bản đối với người đỗ đạt, cho bậc nhân tài, cho kẻ làm

quan là phải có thực lực Nho học, uyên thâm kinh sách của Nho giáo, phải

biết trình bày ý kiến riêng của mình về kinh sách ấy, về thời cuộc xưa và nay

56

và biết đem những điều mình đã học để vận dụng trong trị quốc, an dân...

Như vậy, giáo dục và khoa cử thời Lý - Trần (đặc biệt là từ giữa thế kỷ

XIII) đã thực sự phát triển mạnh và có những đóng góp tích cực cho sự phát

triển xã hội phong kiến. Các khoa thi ngày càng được tổ chức thường xuyên

và đều đặn đã sản sinh ra một đội ngũ trí thức Nho giáo ngày một đông đảo

và trong đó nhiều người được tuyển chọn tham gia vào bộ máy quan liêu của

nhà nước phong kiến. Bên cạnh đó, sự lớn mạnh của giới nho sĩ đã thúc đẩy

sự phát triển nền học vấn của nước nhà. Nó đã tạo ra một bước nhảy vọt trong

lĩnh vực văn hoá, tư tưởng của dân tộc.

2.3 Ảnh hưởng của sự dung thông tam giáo đến việc xây dựng và

thực thi phát triển pháp luật

Pháp luật là một trong những lĩnh vực chủ yếu trong lĩnh vực chính trị -

xã hội, có quan hệ biện chứng, tác động qua lại với các lĩnh vực khác của xã

hội và con người.

Trong chế độ phong kiến ở Việt Nam, Nho giáo với hệ tư tưởng thống

trị và pháp luật đều biểu hiện ý chí và công cụ của giai cấp phong kiến thống

trị nhằm chế thúc, ràng buộc, bắt mọi ngừoi vào khuôn khổ của chế độ phong

kiến và nhằm duy trì trật tự, kỷ cương xã hội, bảo vệ và duy trì sự tồn tại của

chế độ đó.

Thời Ngô, Đinh, Tiền Lẽ là thời ki đầu giành được độc lập kéo dài 70

năm ( 939 -1009), sách sử không ghi chép về việc ban hành luật lệ. Nhưng sử

sách cũng ghi chép về các biện pháp xử lí được áp dụng dưới các triều Đinh,

Tiền Lê. Về nhà Đinh, sử chép: “Vua muốn dùng uy chế ngự thiên hạ, bèn

đặt vạc lớn ở sàn triều, nuôi hổ dừ trong cùi, hạ lệnh ràng: "Kẻ nào trái phép

phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn". Mọi người đều sợ phục, không ai dám

phạm” [17, 59].

Nhằm để giữ vững nền độc lập dân tộc, sự thống nhất của quốc và duy

trì địa vị thống trị, quyền lợi của mình, duy trì trật tự, kỷ cương xã hội, các

57

triều đại phong kiến này đã áp dụng những hình phạt hết sức tàn khốc, khắc

nghiệt, dã man, tàn bạo đối vơi lương dân, đối với những thế lực chống đối.

Bên cạnh đó, pháp luật dưới hình thức tục lệ là phổ biến và có vai trò quan

trọng. Thời Tiên Lê, Lê Hoàn cũng giết dễ dàng những quần thần có lỗi,

và theo Tông sử thì ông đã đặt hình phạt roi vọt để áp dụng phổ biến cho các

tội phạm nhẹ (từ 30 đến 200 roi). Lê Long Đĩnh dùng những hình phạt giết

người tàn bạo, phi nhân như thiêu người, xẻo thịt cho chết dần, giam người

vào nhà tù dưới nước (thuỷ lao) để nước triều dâng lên làm ngập chết, bắt

phạm nhân trèo cây rồi đẵn cây cho đổ, róc mía trên đầu sư,...

Đặc điểm của hình pháp thời ki này là tính chất khắc nghiệt cao độ và

việc thực thi tuỳ tiện, bừa bãi của kẻ nắm quyền. Nó phản ánh việc tổ chức

nhà nước còn sơ sài, quyền lực tập trung ở bộ máy nhà nước trung ương còn

non yếu. Trong buổi đầu của nền quân chủ phong kiến tự chủ, để bảo vệ nền

thống trị mới được thành lập còn chưa vững vàng, để trấn áp mạnh mẽ

những lực lưọng đối địch nhằm gây uy thế cho mình, các vua quan đã tích cực

sử dụng các biện pháp bạo lực mạnh mẽ, các hình phạt tàn khốc đổi với con

người. Hình pháp tàn bạo là sự tiếp tục và hỗ trợ cho Đinh Tiên Hoàng chống

lại của các lực lượng cát cứ vũ trang đã gây loạn trong thời kì các sứ

quân. Lê Long Đĩnh thường bị đánh giá là một hôn quân bạo ngược nếu

xem xét trên phương diện đạo đức. Nhưng thực ra những hành vi tàn ác của

Lê Long Đĩnh còn có tính chất thị uy vè mặt chính trị, các cuộc "biểu diễn"

giết người của ông vê thực chất là để uy hiếp mọi biểu hiện chống đối từ quẩn

thần đến dân chúng hơn là tính cách tàn bạo hay hứng thú giết người của cá

nhân Lê Long Đĩnh. Điểm này có thể giải thích rằng những hành vi cùa Lê

Long Đĩnh được mô tả lại bởi các sử gia là nhà Nho, đứng ở góc độ giáo

hoá của Nho gia mà chép sử để “khuyến trừng”, từ việc bản thân ông lên

ngôi được là sau khi đã trải qua cuộc chiến tranh tương tàn với chính các anh

58

em cùa mình, mà cùng có thể bắt nguồn từ đặc điểm chung cùa xã hội

Đại Việt lúc đó vẫn chưa được lập trật tự sau nạn chiến tranh và cát cứ. Bạo

lực vẫn là vũ khí duy nhất để thể hiện sức mạnh.

Sang triều Lý, Trần, về mặt pháp luật có một điểm quan trọng so

với thời kì trước là sự tăng cường hoạt động lập pháp của nhà nước. Lúc

này, xã hội Việt Nam đã dần đi vào ổn định nhưng các quan hệ xã hội và mâu

thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội ngày càng gia tăng và trở nên

phức tạp. Do vậy, việc quản lý xã hội bằng “luật tục” không thể đáp ứng được

trong việc cai trị, củng cố ngôi vua, trong việc xây dựng chế độ phong kiến và

ổn định xã hội. Không thể phủ nhận vai trò của Phật giáo trong việc trị nước,

an dân cũng như trong việc hình thành, hoàn thiện đạo đức con ngừoi và đạo

đức xã hội. Nhưng Phật giáo chỉ là giáo luật chứ không phải là pháp luật. Phật

giáo đề cao đức hạnh, tuy rất cần thiết nhưng không thể đáp ứng những nhu

cầu trên, nhất là không thể giúp ngăn ngừa, loại trừ có hiệu quả các hành vi

vô đạo đức, vô nhân tính của con người. Ngoài ra, nếu tiếp tục sử dụng những

hình luật nghiêm khắc như trước đó, cũng sẽ không thể thu phục được nhân

tâm, nhân lực cũng như không thể tập hợp, đoàn kết dân tộc trong việc thực

hiện có hiệu quả nhiệm vụ xây dựng, phát triển chế độ phong kiến và đất

nước về mọi mặt mà còn đe doạ sựu ổn định, sự thống nhất quốc gia và địa vị

, quyền uy của nhà vua, của giai cấp phong kiến thống trị.

Bởi vậy, nhà Lý đã lựa chọn Nho giáo là thành tố chủ yếu trong hệ tư

tưởng Nho – Phật – Đạo, tăng cường vị trí vai trò của Nho giáo nói chung, tư

tưởng đạo đức của Nho giáo nói riêng và vận dụng nó trong việc trị nước, trị

dân, quản lý xã hội, nhà nước phong kiến Việt Nam đã ban hành các bộ luật

và các văn bản luật khác nhằm phục vụ cho các mục đích chính trị.

Nhà Lý đã ban hành những bộ luật đầu tiên trong lịch sử nước ta.

Năm 1042, Lý Thái Tông cho biên soạn bộ Hình thư: “Trước kia, việc kiện

tụng trong nước phiên nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm

59

cho khắc nghiệt, thậm chí có người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm

thương xót, sai trung thư san định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với

thời thế, chia ra môn loại, biên thành điều khoản, làm thành sách Hình thư

cùa một triều đại, để cho nsười xem dễ hiểu. Sách làm xong, xuống chiếu

ban hành, dân lây làm tiện. Đên đây phép xử án được bàng thẳng rõ ràng, cho

nên mới đổi niên hiệu là Minh Đạo và đúc tiền Minh Đạo” [17,98-99]

Đến thời Trần, hoạt động pháp chế lại được tăng cường hơn nữa. Năm

1230, Trần Thái Tông cho “khảo xét các luật lệ của triều trước, soạn

thành Quốc triều thống chế và sửa đổi hình luật lễ nghi, gồm 20 quyên”

[17, 162],

Sang đời Nhân Tông, năm 1244, “định các cách thức về luật hình”

[17, 167], Năm 1341, Trần Dụ Tông “sai Trương Hán Siêu, Nguyễn

Trung Ngạn làm biên soạn bộ Hoàng triều đại điển và khảo soạn bộ Hình

thư để ban hành” [17, 247]. Tên Hình thư và Hình luật nói rõ tính chất các

bộ luật thời đó, về cơ bản là các bộ luật hình. Việc nhà Lý ra lệnh san định

luật lệnh, sưu tập lại thành sách là một việc có ý nghĩa lịch sử quan trọng.

Điều đó chứng tỏ tính chất tương đối ổn định của chế độ nhà nước trung ương

tập quyền, xuất hiện nhu cầu và khẳng định ý chí của giai cấp thống trị băng

những luật lệ có giá trị thi hành thống nhất trong cả nước. Trước thời Lý,

trong tình hình đất nước còn rối ren do cuộc đấu tranh giữa các khuynh hướng

tập trung và phân tán, yêu cầu quy định pháp luật áp dụng chung cho cả nước

chưa phải là bức thiết và gặp nhiều khó khăn, thì sang triều Lý, việc biên soạn

Hình thư đã biểu hiện ý chí của một tập đoàn thống trị mới có học vấn, có

quy mô văn hiến.

Cuốn Hình thư, theo các nhà nghiên cứu luật pháp nổi tiếng như Insun

Yu, có chịu ảnh hưởng của luật nhà Đường và phần nào luật nhà Tống. Theo

như sách Toàn thư ghi chép lại, bộ Hình thư được áp dụng thống nhất trong

cả nước, phạm vi điều chỉnh rộng rãi đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã

60

hội,con người, hơn nữa bộ luật này còn chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng

khoan dung, độ lượng của Phật giáo và cả nhiều tư tưởng của Nho giáo. Tư

tưởng đức trị, quan niệm về dân đậm tính nhân văn, nhân bản của Khổng Tử,

Mạnh Tử như yêu cầu nhà vua, ngừoi cầm quyền phải luôn yêu thương dân

chúng, đặc biệt là ngừoi già, kẻ cô đơn, trẻ con thể hiện khá rõ ở bộ luật này

Trong Hình thư đã có những quy định về thập ác, ngũ hình, giảm nhẹ

và cho chuộc tội đổi với những đối tượng người già từ 70 - 80 tuổi, trẻ

con từ 10 - 15 tuổi, người ốm yếu bệnh tật cùng các hoàng thân, quốc thích

từ hàng đại công trờ lên. Cho dù bị ảnh hường của Phật giáo khiến cho việc

vay mượn các quan niệm thập ác chỉ dừng ở hình thức, thì điều này cũng đã

thể hiện sự vượt xa hơn hẳn luật pháp của các triều đại trước ở chỗ nó đã xác

định chuẩn mực của các loại tội phạm tương ứng với các mức hình phạt,

trừng trị hay răn đe không còn là tuỳ hứng và bừa bãi như trước nữa.

Song, hình luật thời Lý không phải là chặt chẽ hoàn toàn. Thứ nhất là

do ảnh hường của tính khoan dung Phật giáo khiến cho nhà nước thường

xuyên đại xá thiên hạ, khoan giảm với những trọng tội, thậm chí tội mưu

phản, còn nếu phạm tội gây án mạng, thì cũng chỉ bị xử 100 trượng và thích

50 chữ vào mặt, đồ làm khao giáp. Vì không chú trọng tử hình nên các hình

phạt phổ biến dưới thời Lý là xuy và trượng, thậm chí đánh trượng đã là

trọng hình. Nội dung của thập ác liên quan đến những loại tội phạm đối với

gia tộc, đạo đức và lòng trung hiếu không được chú trọng như việc Lý Thái

Tông lên ngôi đã xá miễn và khôi phục danh phận cho hai người em trai

mưu toan đoạt ngôi vua. Tính chất của pháp luật thời Lý còn khoan giản và

không khắc nghiệt như các triều đại sau. Thứ hai là do chưa xác lập rõ cơ

chế vận hành và giám sát việc thi hành luật pháp, các thế lực vẫn có thể ngăn

cản việc thực thi pháp luật của nhà chức trách, dẫn đèn việc thi hành pháp

luật dưới thời Lý vẫn chưa thực hiệu quả và công bằng.

Pháp luật thời Trần, đặc biệt qua bộ Quốc triều hình luật thể hiện rất rõ

61

tinh thần trọng pháp, nội dung của bộ luật này và một số văn bản pháp luật

thời kỳ này chịu ảnh hưởng chính từ Hán Nho. Biểu hiện rõ nhất là , tư tưởng

chính trị, đạo đức của Nho giáo trở thành nội dung của pháp luật, tức là

những nguyên tắc, quy phạm đạo đức và chính trị hết sức khắc nghiệt của

Nho giáo đã trở thành cái bắt buộc. Ví dụ như tháng 5 năm 1315, vua Trần

Minh Tông “ xuống chiếu cấm cha con, vợ chồng và gia nô không được tố

cáo lẫn nhau” [5,135] là nhằm bảo vệ chế độ phụ quyền, đạo lý Tam cương

theo tư tưởng Hán Nho.

Ngoài ra, pháp luật triều Trần đặc biệt đề cao tư tưởng “tôn quân” của

Nho giáo. Theo đó, tội mưu phản nhà vua được coi là tội lớn nhất trong thập ác

và vì vậy mà “mưu phản thì phải giết hết cả thân tộc”. Cũng như pháp luật thời

Lý, pháp luật thời Trần đều bảo vệ trật tự luân lý, trật tự đẳng cấp theo tinh thần

Nho giáo. Như quy định: cấm nô tỳ không được lấy con cái của dân tự do, không

xăm mình giống như dân tự do, dân thường không được xây dựng nhà cửa, ăn

mặc như lớp quý tộc quan liêu. Hoặc là cùng tội danh, nếu người phạm tội là

hoàng thân quốc thích thì bị xử nhẹ hơn quan lại và dân đinh.

Như vậy, dưới các triều đại Lý – Trần, pháp luật đều có chức năng chủ

yếu là củng cố ngôi vua, duy trì địa vị thống trị và duy trì trật tự xã hội. Chức

năng đó ít nhiều được xây dựng từ cơ sở tư tưởng Nho giáo. Tuy nhiên, Nho

giáo cũng không phải yếu tố chi phối hoàn toàn. Vả lại, ảnh hưởng của Nho

giáo cũng không triệt để. Trên thực tế, quan hệ cha con , chồng vợ, Tam

cương, Ngũ thường không được thực hiện nghiêm túc theo đúng “lễ” của Nho

giáo, việc khuyến khích hôn nhân nội tộc là một ví dụ điển hình. Ngoài Nho

giáo, pháp luật của thời kỳ này cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều từ tư tưởng từ bi

hỷ xả của Phật giáo và nhiều nguồn tư tưởng khác, từ điều kiện kinh tế - xã

hội lúc bấy giờ và chủ yếu góp phần thực hiện những nhiệm vụ không chỉ của

62

giai cấp phong kiến mà còn của cả dân tộc.

Tiểu kết chương 2

Được hình thành từ những điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng

của nước ta giai đoạn đầu thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIV, đồng thời phản ánh

những nhu cầu thực tiễn của nhân dân Đại Việt dưới thời Lý - Trần, dung

thông tam giáo đã thể hiện rõ ảnh hưởng của mình lên các lĩnh vực chính trị -

xã hội như : tư tưởng trị nước, chính sách phát triển nền gíao dục khoa cử, và

cả trong việc xây dựng, thực thi pháp luật.

Về tư tưởng trị nước, luận điểm “ dĩ dân vi bản” ( lấy dân làm gốc) là

một luận điểm cốt lõi, vai trò của Phật giáo và Nho giáo cũng được phát huy

cao độ, tinh thần Phật giáo đã là chất liệu cố kết nhân tâm, là cầu nối giữa

chính quyền trung ương với địa phương. Từ đó, cho thấy, sự kết hợp giữa các

tam giáo luôn luôn xuất hiện cùng nhau trong các tư tưởng chính trị xã hội

thời kỳ này.

Về giáo dục – khoa cử, đến thời Lý, do nhu cầu xây dựng và củng cố nhà

nước quân chủ trung ương tập quyền, việc triển khai nền giáo dục khoa cử

những năm 70 của thế kỷ XI càng ngày càng được quan tâm và hoàn thiện.

Về luật pháp, dưới các triều đại Lý – Trần, pháp luật đều có chức năng

chủ yếu là củng cố ngôi vua, duy trì địa vị thống trị và duy trì trật tự xã hội

Chức năng đó ít nhiều được xây dựng từ cơ sở tư tưởng Nho giáo. Tuy nhiên,

Nho giáo cũng không phải yếu tố chi phối hoàn toàn, pháp luật của thời kỳ

này cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều từ tư tưởng “từ bi hỷ xả” của Phật giáo và

63

nhiều nguồn tư tưởng khác,

KẾT LUẬN

Xét một cách khái quát, cả ba tôn gíao Phật, Đạo và Nho đều mang tính

chất nhân văn, đều chú trọng đến con ngừoi trần thế, mà ít bàn đến những

hiện tượng siêu nhiên, thần thánh. Cả ba học thuyết này đều lấy con ngừoi

làm trung tâm, lấy việc giải thoát con người, đem lại hạnh phúc cho con

người làm mục đích. Tuy nhiên, Phật nhấn mạnh cái tâm của con người, đề

cao cái bên trong. Đạo chú trọng đến cái thân, trong mối quan hệ hoà đồng

giữa con ngừoi và thiên nhiên. Nên hai tôn giáo này thường bị phê phán mang

tính chất mê tín dị đoan. Trong khi đó, Nho giáo lại quá nhấn mạnh đến tính

thực tiễn của của con người, cố định nó trong những mối quan hệ xã hội, ràng

buộc bởi thuyết chính danh định phận mang tính đẳng cấp tôn ti, nên bị đánh

gía là “ chủ nghĩa nhân văn bị đẳng cấp hoá”

Quan điểm dung thông tam giáo thòi Lý – Trần đã sửa chữa những

khiếm khuyết của cả những tư tưởng trên, tìm ra những quan điểm chung của

những tôn giáo áy về sự quan tâm và chăm lo đến hạnh phúc của con ngừoi,

cả phần đạo và đời, cả cuộc sống tâm linh và cuộc đời thực tế trong xã hội,

tiếp cận đến chủ nghĩa nhân văn đích thực. Các trí thức, thiền tăng, nho sĩ thời

Lý – Trần đã điều hoà gắn kết giữa các tư tưởng “ hiếu sinh” ( tôn trọng Phật

giáo) với quan niệm “nhân giả, nhân dã” ( điều nhân, tức là yêu con người)

của Nho giáo. Vì thế, đạo Phật và Nho của thời kỳ này đã thực tiễn hơn, mềm

dẻo hơn so với nguyên bản.

Như vậy, ảnh hưởng của dung thông tam giáo thời kỳ này đến lĩnh vực

chính trị - xã hội có những nội dung bao gồm như sau: góp phần bồi bổ, phát

huy đời sống tinh thần, tâm linh của nhân dân, trong đó có tinh thần dân tộc; góp

phần khẳng định , bồi bổ hiện thực hoá tư tưởng “ lấy dân làm gốc” ; góp phần

hình thành và phát huy tinh thần nhân văn khai phóng; xây dựng nên một nhà

64

nước phong kiến tập quyền lấy tư tưởng tam giáo làm bệ đỡ tư tưởng.

Hiện nay, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư

tưởng trong xã hội ta ngày nay, song Tam giáo vẫn còn giữ những giá trị tích

cực nhất định đối với đời sống xã hội và con ngừoi thời hiện đại. Trong điều

kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, những giá trị về đức từ

bi của đạo Phật, đạo tu thân của nhà Nho, quan niệm nhân sinh xem con

người là một bộ phận đồng nhất về chất của vũ trụ của Đạo giáo và nhiều giá

trị khác vẫn phát huy tác dụng tích cực của cuộc sống đương đại.

Tóm lại, có thể nói rằng, sự dung thông tam giáo là một phức thể tinh

thần đặc biệt của con người Việt Nam. Có hiện tượng này, suy cho cùng, là

do con người Việt Nam khoan dung, văn hoá Việt Nam là nền văn hoá mở.

Nhờ vạy nó không chỉ đón nhận mà còn có khả năng hấp thụ các giá trị ngoại

lai song vẫn bảo tồn được bản sắc của mình. Bản sắc ấy hiện vẫn được lưu trữ

65

và chi phối suy nghĩ, hành động của con người trong xã hội đương đại.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Doãn Chính (chủ biên) (2002), Đại cương Triết học Trung Quốc, Nxb

Thanh niên, Hà Nội

2. Phan Huy Chú (2008), Lịch triều hiến chương loại chí(tập I), (Tổ

phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải), Nxb Giáo dục, Hà Nội

3. Phan Huy Chú (2008), Lịch triều hiến chương loại chí (tập II), (Tổ

phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải), Nxb Giáo dục, Hà Nội

4. Tăng Xuân Dẫn (2010), Vai trò của Phật giáo với sự xây dựng và phát

riển nhà nước phong kiến Đại Việt thời Lý – Trần, Luận văn Thạc sĩ

Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học

Quốc gia Hà Nội

5. Đại Việt sử ký toàn thư (tập 1) (2004), (Cao Huy Giu, Đào Duy Anh

dịch và hiệu đính), Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội

6. Quang Đạm (1994), Nho giáo xưa và nay, Nxb Văn hoá, Hà Nội.

7. Nguyễn Tài Đông (2013), “Tam giáo đồng nguyên và tính đa nguyên

trong truyền thống văn hoá Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt

Nam, tr. 35-43.

8. Trần Văn Giầu (1990), Các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc

Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội

9. Hồ Trọng Hoài, Nguyễn Thị Nga (2009), “Tam giáo đồng nguyên: Một

phức thể tinh thần độc đáo Việt Nam”, Tạp chí Lý luận Chính trị, 10, tr.

54-58,32

10. Đỗ Thị Hoà Hới (2001), “Về một số đặc điểm của Nho giáo thời Lý”,

Tạp chí Triết học, (9).

11. Hoàng Hưng (1968), “Trần Quốc Tuấn và vai trò của ông trong cuộc

kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch

66

sử, (114).

12. Trần Thị Lan Hương (2006), Phạm trù “trung, hiếu” trong Nho giáo

và sự tiếp biến của chúng khi du nhập vào Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ

Triết học, Viện Triết học, Hà Nội

13. Nguyễn Thừa Hỷ (1976), “Về kết cấu đẳng cấp của thiết chế chính trị -

xã hội thời Lý -Trần”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (4).

14. Đinh Gia Khánh (chủ biên) (1962), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ

X - thế kỷ XVII, Nxb Văn hoá, Hà Nội

15. Vũ Khiêu (chủ biên) (1990), Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

16. “Kỷ niệm 720 năm ngày sinh danh nhân Nguyễn Trung Ngạn” (2009),

Tạp chí Xưa và Nay, (327).

17. Cao Văn Liên (2004), Pháp luật các triều dại Việt Nam và các

nước, NXB Thanh Niên, Hà Nội

18. N.I.Niculin (1999), “Mỹ học Nho giáo và cá tính sáng tạo của các nhà

thơ Việt Nam trung đại”, Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, (11).

19. Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên) (2008), Tiến trình lịch sử Việt Nam,

Nxb Giáo dục, Hà Nội

20. Trần Thị Thuý Ngọc (2005), Tư tưởng Nho giáo trong Quốc triều hình

luật, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội

21. Nguyễn Thị Như (2009), Những đặc điểm của Nho giáo Việt Nam thời

Lý – Trần, Luận Văn Thạc sĩ Triết học ,Trường Đại học Khoa học Xã

hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội

22. Phạm Thị Quỳnh (2014), Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo tới lĩnh

vực giáo dục – khoa cử Việt Nam từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV, Luận án

Tiến sĩ Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại

67

học Quốc gia Hà Nội

23. Nguyễn Thị Tâm ( 2012), Vai trò của Phật giáo trong đời sống chính

trị ở Việt Nam thời Lý – Trần ( 1009 – 1400 ), Luận văn Thạc sĩ Triết

học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia

Hà Nội

24. Lê Sỹ Thắng (1977), “Nho giáo trong lịch sử Việt Nam”, Tạp chí Triết

học, (2).

25. Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam (tập 1), Nxb đại

học sư phạm, Hà Nội.

26. Nguyễn Tài Thư ( chủ biên ) “Tam giáo đồng nguyên” - tượng tư

tưởng chung của các nước Đông Á, Tạp chí Hán Nôm, số 3.

27. Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý -Trần (1981), Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội

28. Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định, Viện

Lịch sử quân đội Việt Nam (2000), “Anh hùng dân tộc, thiên tài quân

sự Trần Quốc Tuấn và quê hương Nam Định”, Nxb Quân đội nhân

dân, Hà Nội

29. Nguyễn Hoài Văn ( 2009), “Tam giáo đồng nguyên thời Lý – Trần:

Một giá trị đặc sắc của nền chính trị Việt Nam truyền thống”, Tạp chí

Lý luận chính trị, số 4 , tr. 67 -72

30. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2,

Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội

31. Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý - Trần (tập I), Nxb Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

32. Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý -Trần (tập II), Nxb Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

33. Viện Văn học (1978), Thơ văn Lý - Trần (tập III), Nxb Khoa học Xã

68

hội, Hà Nội.

34. Trần Quốc Vượng,Hà Văn Tấn (1963), Lịch sử chế độ phong kiến Việt

Nam, tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

35. Nguyễn Thanh Xuân (2007), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn

69

giáo, Hà Nội.