BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THẢO

KHẢO SÁT NHU CẦU TƯ VẤN

CỦA BỆNH NHÂN VÀ THỰC TRẠNG

TƯ VẤN SỬ DỤNG THUỐC

TẠI PHÒNG CẤP PHÁT THUỐC

BẢO HIỂM Y TẾ

BỆNH VIỆN BẠCH MAI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƯỢC SĨ

HÀ NỘI-2013

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THẢO

KHẢO SÁT NHU CẦU TƯ VẤN

CỦA BỆNH NHÂN VÀ THỰC TRẠNG

TƯ VẤN SỬ DỤNG THUỐC

TẠI PHÒNG CẤP PHÁT THUỐC

BẢO HIỂM Y TẾ

BỆNH VIỆN BẠCH MAI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƯỢC SĨ

Người hướng dẫn:

1. ThS. Trịnh Trung Hiếu

2. ThS. Hoàng Hà Phương

Nơi thực hiện:

Phòng cấp phát thuốc Bảo hiểm y tế

bệnh viện Bạch Mai

HÀ NỘI-2013

Lời cảm ơn

Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới hai người

thầy: ThS. Trịnh Trung Hiếu và ThS. Hoàng Hà Phương – giảng viên Bộ môn

Dược Lâm Sàng – trường Đại học Dược Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và

động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.

Tôi xin chân thành cảm ơn DSCK II. Nguyễn Thị Hồng Thủy – Trưởng khoa

Dược Bệnh viện Bạch Mai, ThS. Lê Vân Anh và các dược sĩ làm việc tại phòng tư vấn

sử dụng thuốc bệnh viện Bạch Mai đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình

thực hiện nghiên cứu.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo và các dược sĩ, cán bộ công nhân viên

khoa Dược Bệnh viện Bạch Mai đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành

nghiên cứu này.

Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô – Bộ môn Dược

lâm sàng – trường Đại học Dược Hà Nội – là những người thầy đã chia sẻ và giải đáp

các vướng mắc của tôi trong suốt quá trình làm khóa luận.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trường Đại học Dược Hà Nội –

những người thầy đã dìu dắt tôi suốt 5 năm học vừa qua.

Cuối cùng, tôi muốn gửi lời cảm ơn tới bố mẹ, gia đình, người thân và bạn bè,

những người đã luôn sát cánh động viên và giúp đỡ tôi vượt qua những lúc khó khăn

nhất trong học tập và quá trình hoàn thành khóa luận.

Hà nội, ngày 21 tháng 05 năm 2013

Sinh viên

Nguyễn Thị Thảo

MỤC LỤC

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục chữ viết tắt

Danh mục bảng

Danh mục hình

Danh mục đối chiếu Anh – Việt

ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................................ 1

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN .................................................................................... 3

1.1 Khái niệm và các mô hình tư vấn bệnh nhân ................................................ 3

1.1.1 Các định nghĩa về tư vấn bệnh nhân ...................................................... 3

1.1.2 Các mô hình tư vấn bệnh nhân ............................................................... 4

1.2 Mục tiêu của tư vấn bệnh nhân ..................................................................... 6

1.2.1 Mục tiêu giáo dục bệnh nhân ................................................................. 6

1.2.2 Mục tiêu hỗ trợ bệnh nhân ..................................................................... 6

1.3 Các cách tiếp cận của bệnh nhân trong quá trình tư vấn bệnh nhân ............. 7

1.3.1 Tuân thủ (Compliance) .......................................................................... 8

1.3.2 Đồng thuận (Concordance) .................................................................. 11

1.4 Lợi ích của việc tư vấn bệnh nhân .............................................................. 12

1.4.1 Lợi ích đối với bệnh nhân .................................................................... 12

1.4.2 Lợi ích của đối với dược sĩ ................................................................... 13

1.5 Vai trò của dược sĩ trong tư vấn bệnh nhân ................................................ 13

1.5.1 Vai trò của dược sĩ ............................................................................... 13

1.5.2 Thách thức đối với tư vấn bệnh nhân ................................................... 14

1.6 Nội dung của tư vấn bệnh nhân .................................................................. 15

1.6.1 Hoàn cảnh tư vấn .................................................................................. 15

1.6.2 Các nội dung trong quá trình tư vấn ..................................................... 15

1.6.3 Kĩ thuật tư vấn ...................................................................................... 20

1.6.4 Kĩ năng giao tiếp trong tư vấn bệnh nhân ............................................ 21

1.6.5 Tư vấn bệnh nhân tập trung vào bệnh mãn tính ................................... 22

1.7 Công tác tư vấn sử dụng thuốc ở bệnh viện Bạch Mai ............................... 23

CHƯƠNG II: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................. 25

2.1 Đối tượng và phương pháp nghiên cứu ...................................................... 25

2.1.1 Khảo sát nhận thức và nhu cầu được tư vấn của bệnh nhân BHYT ngoại

trú 25

2.1.2 Khảo sát tình hình tư vấn sử dụng thuốc tại phòng cấp phát thuốc BHYT

26

2.1.3 Khảo sát mức độ hài lòng của bệnh nhân sau khi được tư vấn ............ 27

2.2 Phương pháp xử lí số liệu ........................................................................... 28

CHƯƠNG III: KẾT QUẢ ...................................................................................... 29

3.1 Nhận thức và nhu cầu được tư vấn của bệnh nhân ..................................... 29

3.1.1 Đặc điểm nhân khẩu học của bệnh nhân .............................................. 29

3.1.2 Nhận thức của bệnh nhân về việc sử dụng thuốc ................................. 31

3.1.3 Nhu cầu tư vấn sử dụng thuốc của bệnh nhân ..................................... 34

3.2 Tình hình tư vấn sử dụng thuốc tại phòng tư vấn ....................................... 36

3.2.1 Hoạt động tư vấn sử dụng thuốc của dược sĩ ....................................... 36

3.2.2 Mức độ đáp ứng của dược sĩ với việc tư vấn ....................................... 39

3.3 Mức độ hài lòng của bệnh nhân sau khi tư vấn .......................................... 43

CHƯƠNG IV: BÀN LUẬN ................................................................................... 45

4.1 Nhận thức và nhu cầu tư vấn của bệnh nhân .............................................. 45

4.2 Tình hình tư vấn sử dụng thuốc tại phòng tư vấn ....................................... 50

4.3 Mức độ hài lòng của bệnh nhân sau khi được tư vấn ................................. 54

4.4 Một số khó khăn và hạn chế khi thực hiện nghiên cứu .............................. 54

CHƯƠNG V: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT ........................................................... 56

5.1 Kết luận ....................................................................................................... 56

5.2 Đề xuất ........................................................................................................ 57

Tài liệu tham khảo

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Kí hiệu Tên đầy đủ

: BHYT Bảo hiểm y tế

: Dược điển Mỹ (United States Pharmacopoeia) USP

: Khoảng tứ phân vị (Interquatile range) IQR

Hiệp hội Dược sĩ Mỹ (American Society of Health – System : ASHP

Pharmacists)

DANH MỤC BẢNG

Bảng Tên bảng Trang

3.1 Thông tin chung của bệnh nhân 30

3.2 Nhận thức của bệnh nhân về việc uống thuốc 31

3.3 Nhận thức của bệnh nhân về tìm hiểu thông tin về thuốc 34

3.4 Nhu cầu tư vấn của bệnh nhân 35

3.5 Số thuốc được dược sĩ tư vấn 37

3.6 Tương tác giữa dược sĩ và bệnh nhân trong quá trình tư vấn 38

3.7 Thời gian cho 1 cuộc tư vấn 39

3.8 Số bệnh nhân và thời gian phòng tư vấn mở cửa theo ngày 41

3.9 Tương quan giữa hoạt động tư vấn và hoạt động cấp phát thuốc 43

44 3.10 Mức độ hài lòng của bệnh nhân sau tư vấn

DANH MỤC HÌNH

Hình Tên hình Trang

Phòng tư vấn bệnh viện Bạch Mai 23 1.1

23 1.2 Một số trang thiết bị phòng tư vấn bệnh viện Bạch Mai

Các nội dung dược sĩ đã thực hiện 36 3.1

Số bệnh nhân vào tư vấn theo ngày 40 3.2

Thời gian phòng tư vấn mở cửa và số bệnh nhân tư vấn theo ngày 41 3.3

Tương quan giữa thời gian phòng tư vấn mở cửa và số bệnh nhân 42 3.4

tư vấn

DANH MỤC ĐỐI CHIẾU ANH – VIỆT

Tiếng Anh Tiếng Việt

Monolog Độc thoại của dược sĩ

Dialog Hỏi đáp đơn thuần

Conversation Đối thoại

Discussion Thảo luận

Magisterial health counselling Mô hình tư vấn một chiều

Participative health counselling Mô hình tư vấn hai chiều

Promotional health counselling Mô hình tư vấn khuyến khích

Compliance Tuân thủ

Concordance Đồng thuận

Department of Health Human Services Ủy ban chăm sóc sức khỏe

Resources Nguồn lực

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Tư vấn và giáo dục bệnh nhân là một phần quan trọng của công tác chăm sóc

Dược [3]. Đặc biệt đối với bệnh mãn tính, những bệnh phải điều trị trong thời gian

dài thì tư vấn thuốc càng đóng vai trò quan trọng để nâng cao mức độ tuân thủ và

khả năng tự kiểm soát bệnh của bệnh nhân. Theo hướng dẫn tư vấn thuốc của Dược

điển Mỹ (USP) năm 1997, tư vấn bệnh nhân chia thành 4 mức độ: độc thoại của

dược sĩ (monolog), hỏi đáp đơn thuần (dialog), đối thoại (conversation) và thảo luận

(discussion) [34]. Trong đó mức độ cao nhất là thảo luận, ở đây dược sĩ và bệnh

nhân có những trao đổi chi tiết dựa trên mối tương tác ngang bằng để đưa ra những

lời khuyên dùng thuốc có hiệu quả nhất cho bệnh nhân. Theo dự thảo Luật sửa đổi

và bổ sung một số điều của Luật dược 2013, tư vấn và hướng dẫn cách sử dụng

thuốc cho bệnh nhân là trách nhiệm của dược sĩ lâm sàng tại các cơ sở khám chữa

bệnh [2]. Để thực hiện nhiệm vụ này, dược sĩ không chỉ cần có năng lực chuyên

môn mà khi tư vấn phải đồng cảm với bệnh nhân đồng thời nắm bắt nhu cầu và kiến

thức sẵn có của bệnh nhân để đưa ra nội dung tư vấn hợp lý.

Tại Việt Nam, mô hình tư vấn sử dụng thuốc cho bệnh nhân còn ít phổ biến,

hoạt động tại các nhà thuốc bệnh viện vẫn tập trung chủ yếu vào việc cấp phát

thuốc, chưa thực sự có sự trao đổi, tư vấn và tương tác giữa dược sĩ và bệnh nhân.

Chưa có những nghiên cứu về nhu cầu được tư vấn của bệnh nhân làm cơ sở thúc

đẩy hoạt động này trên thực tế.

Bệnh viện Bạch Mai là một trong những đơn vị đầu tiên triển khai áp dụng mô

hình tư vấn sử dụng thuốc cho bệnh nhân ngoại trú. Hoạt động này bước đầu được

triển khai từ tháng 11 năm 2012 tại phòng cấp phát thuốc cho bệnh nhân có Bảo

hiểm y tế (BHYT). Các dược sĩ tại bệnh viện Bạch Mai đang không ngừng rút kinh

nghiệm để hoàn thiện, nâng cao chất lượng tư vấn và đưa ra một quy trình tư vấn

phù hợp nhất với nhu cầu và đặc điểm của bệnh nhân BHYT ngoại trú. Việc nhìn

nhận lại nội dung tư vấn, cũng như nắm bắt được nhận thức, nhu cầu, nguyện vọng

và mức độ hài lòng của bệnh nhân sẽ giúp các dược sĩ có một cái nhìn toàn diện, từ

đó nâng cao hiệu quả của quy trình tư vấn hiện có.

2

Chính vì lý do trên chúng tôi thực hiện đề tài “Khảo sát nhu cầu tư vấn của

bệnh nhân và thực trạng tư vấn sử dụng thuốc tại phòng cấp phát thuốc Bảo hiểm y

tế bệnh viện Bạch Mai” với ba mục tiêu sau:

1. Khảo sát được nhận thức và nhu cầu được tư vấn của bệnh nhân BHYT

ngoại trú tại bệnh viện Bạch Mai.

2. Khảo sát được hoạt động tư vấn sử dụng thuốc tại phòng cấp phát thuốc

BHYT, bệnh viện Bạch Mai.

3. Khảo sát được mức độ hài lòng của bệnh nhân sau khi được tư vấn ở phòng

tư vấn thuốc.

3

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN

1.1 Khái niệm và các mô hình tư vấn bệnh nhân

1.1.1 Các định nghĩa về tư vấn bệnh nhân

Theo Hepler (1987) thì các định nghĩa về tư vấn bệnh nhân bắt đầu được thảo

luận vào những năm 1960. Các định nghĩa này thường có xu hướng tập trung vào

nội dung, ví dụ như thông tin mà dược sĩ cung cấp cho bệnh nhân. Các định nghĩa

về tư vấn bệnh nhân dần dần được bổ sung, thay đổi và hoàn thiện hơn [10].

Một trong những định nghĩa sớm nhất về tư vấn bệnh nhân được đưa ra bởi

Puckett và cộng sự năm 1978. Tác giả này cho rằng tư vấn bệnh nhân là “bất kì sự

thông báo nào được dược sĩ nói hay viết ra về thuốc và cách sử dụng thuốc” [10].

Theo định nghĩa của Hepler thì tư vấn bệnh nhân dừng lại ở mức cung cấp cho bệnh

nhân thông tin về thuốc. Năm 1997, Aslanpour và Smith đã đưa ra một định nghĩa

hoàn thiện hơn về tư vấn bệnh nhân, không chỉ là cung cấp thông tin về thuốc mà

cao hơn tư vấn bệnh nhân là “việc cung cấp các thông tin về thuốc và các vấn đề

liên quan đến sức khỏe” [5]. Nhìn nhận về tư vấn bệnh nhân ở mức cao hơn, không

đơn thuần là việc cung cấp thông tin một chiều, Schommer và Wiederholt năm 1994

cho rằng “tư vấn bệnh nhân là việc dược sĩ đưa ra lời khuyên dựa trên quan điểm

hợp lí, chủ quan của mình và hướng tới bệnh nhân trong phạm vi sử dụng thuốc”

[27]. Như vậy các định nghĩa về tư vấn bệnh nhân thay đổi theo thời điểm và không

được xây dựng trên bất kì nền tảng lí thuyết nào. Các định nghĩa vẫn chưa thể hiện

được bản chất của sự tương tác giữa bệnh nhân và dược sĩ cho dù quá trình tư vấn là

độc thoại của dược sĩ hay hỏi đáp đơn thuần giữa dược sĩ và bệnh nhân [10].

Một trong những định nghĩa toàn diện nhất về tư vấn bệnh nhân được xây

dựng bởi dược điển Mỹ (USP) năm 1997. Theo USP, tư vấn bệnh nhân là “cách tiếp

cận tập trung vào nâng cao kỹ năng giải quyết vấn đề của bệnh nhân với mục tiêu

cải thiện hoặc duy trì chất lượng sức khỏe và chất lượng cuộc sống” [34]. Định

nghĩa này nhấn mạnh rằng nhân viên y tế cung cấp và thảo luận về thông tin thuốc

với từng đối tượng bệnh nhân để đạt được mục tiêu trên. Bản chất của mối quan hệ

4

giữa bệnh nhân và nhân viên y tế là tương tác và học hỏi kinh nghiệm cho cả hai

bên [23].

Theo USP, tư vấn sử bệnh nhân được phân thành 4 mức độ: độc thoại của

dược sỹ, hỏi đáp đơn thuần, đối thoại và thảo luận. Các mức độ phát triển liên tục từ

mức thấp nhất là độc thoại của dược sĩ đến mức cao nhất là thảo luận, từ chỗ dược

sĩ chỉ cung cấp thông tin một chiều đến có những trao đổi chi tiết với bệnh nhân để

đưa ra lời khuyên sử dụng thuốc hợp lí nhất cho bệnh nhân [10]. Các mức độ tư vấn

này có thể coi là tương ứng với các mô hình tư vấn bệnh nhân khác nhau.

1.1.2 Các mô hình tư vấn bệnh nhân

Mô hình tư vấn bệnh nhân là cách thức của quá trình tương tác giữa dược sĩ và bệnh

nhân trong tư vấn. Năm 1993, Ingrosso chia mô hình tư vấn bệnh nhân thành 3 loại:

• Mô hình tư vấn một chiều (magisterial health counselling)

• Mô hình tư vấn hai chiều (participative health counselling)

• Mô hình tư vấn khuyến khích (promotional health counselling) [10]

Mô hình tư vấn một chiều

Mô hình tư vấn một chiều (magisterial health counselling) là mô hình trong đó

bệnh nhân được coi như một cỗ máy thực hiện tiếp nhận thông tin một chiều.

Tynjälä năm 1999 cho rằng mô hình tư vấn một chiều có thể so sánh với mức độ

độc thoại của dược sĩ trong 4 mức độ của tư vấn bệnh nhân theo USP. Tương tự như

trong tư vấn độc thoại của dược sĩ, bệnh nhân tiếp nhận thông tin một cách thụ động

mà không có sự phản hồi đối với dược sĩ [10].

Mô hình tư vấn một chiều được coi là trung lập, bất đối xứng và dựa trên lý

thuyết học tập hành vi. Tuy nhiên, mô hình này vẫn chưa chú ý đến điểm riêng biệt

của mỗi bệnh nhân, chưa nhìn nhận đúng về khả năng giải quyết vấn đề một cách

độc lập của họ. Do đó, bệnh nhân chỉ kiểm soát và tuân thủ nghiêm túc những lời

khuyên của dược sĩ mà không xem xét liệu việc điều trị có phù hợp với mình hay

không [10].

Mô hình tư vấn hai chiều

5

Mô hình tư vấn hai chiều (participative health counselling) là mô hình trong đó

bệnh nhân có quyền tự đưa ra các lựa chọn, quyết định liên quan đến việc điều trị

của mình. Mô hình tư vấn hai chiều có thể so sánh với mức độ hỏi đáp đơn thuần

giữa dược sĩ và bệnh nhân trong 4 mức độ tư vấn bệnh nhân theo USP. Theo đó quá

trình tư vấn được coi như là sự chia sẻ thông tin giữa bệnh nhân và dược sĩ [10].

Mô hình tư vấn hai chiều dựa trên lí thuyết về khả năng học của bệnh nhân, theo

đó mỗi bệnh nhân tự có ý thức về bệnh và thuốc của mình. So với mô hình tư vấn

một chiều, mô hình này đã nhấn mạnh sự phù hợp đối với từng bệnh nhân, bệnh

nhân có thể tự đưa ra những quyết định có lợi cho tình trạng sức khỏe của mình

[10]. Tuy nhiên, mô hình vẫn chưa đề cập đến khả năng suy nghĩ và đánh giá những

quyết định đưa ra liên quan đến điều trị của bệnh nhân [17, 20].

Mô hình tư vấn khuyến khích

Mô hình tư vấn khuyến khích (promotional health counselling) là mô hình bao

gồm quá trình tương tác học hỏi kinh nghiệm giữa dược sĩ và bệnh nhân. Mô hình

này tăng cường các kĩ năng giải quyết vấn đề, cách suy nghĩ và cách đánh giá riêng

của bệnh nhân về mỗi hành động của mình. Mô hình tư vấn khuyến khích có thể so

sánh với mức độ đối thoại và thảo luận giữa dược sỹ và bệnh nhân trong 4 mức độ

tư vấn bệnh nhân theo USP [10].

Tư vấn sức khỏe khuyến khích được thiết lập dựa trên tâm lí học nhận thức và

học thuyết hành động liên quan đến nhận thức [17]. Bàn về vấn đề này, Rauste-von

Wright năm 1994 cho rằng việc học ở đây dựa trên quan niệm học tập mang tính

chất xây dựng, thông tin không được truyền trực tiếp cho người học, mà họ sẽ tự

nhận thức và tự tìm thông tin cho chính mình. Mô hình tư vấn khuyến khích đã

quan tâm tới hiểu biết và suy nghĩ độc lập của từng bệnh nhân trong suốt quá trình

tư vấn [10]. Đây chính là vấn đề mà hai mô hình tư vấn trước chưa đề cập đến.

Như vậy từ mô hình tư vấn một chiều tới mô hình tư vấn khuyến khích đã

từng bước hướng tới bệnh nhân trong quá trình tư vấn. Mỗi mô hình tư vấn hướng

tới và giải quyết những mục tiêu riêng, nhưng tư vấn khuyến khích là mô hình đạt

được đầy đủ nhất các mục tiêu của một quá trình tư vấn bệnh nhân.

6

1.2 Mục tiêu của tư vấn bệnh nhân

Tư vấn bệnh nhân là quá trình dược sĩ thảo luận với bệnh nhân về các thuốc điều

trị của họ nhằm hai mục tiêu chính:

• Giáo dục bệnh nhân những thông tin liên quan đến thuốc.

• Giúp đỡ bệnh nhân để đạt được lợi ích tốt nhất của việc dùng thuốc.

1.2.1 Mục tiêu giáo dục bệnh nhân

Mục tiêu giáo dục bệnh nhân bao gồm nâng cao kĩ năng và kiến thức để

mang lại những thay đổi trong thái độ và hành vi dùng thuốc của bệnh nhân [13].

Để đạt được mục tiêu giáo dục bệnh nhân theo nhiều cách khác nhau, dược sĩ phải

thực hiện từng bước. Các dược sĩ thường nghĩ giáo dục bệnh nhân là cung cấp

thông tin thông qua lời nói hay văn bản. Tuy nhiên, việc cung cấp thông tin đơn

thuần không đảm bảo được kĩ năng và kiến thức về bệnh và việc dùng thuốc của

bệnh nhân được cải thiện [24].

Với mục tiêu giáo dục thì dược sĩ phải đưa thông tin phù hợp với nhu cầu

của từng bệnh nhân. Thông qua việc thảo luận với bệnh nhân dược sĩ phải xác định

được bệnh nhân biết về bệnh hoặc về thuốc đến đâu, họ có bất kì sự hiểu sai nào về

thuốc và bệnh không. Ví dụ, bệnh nhân có thể nghĩ rằng bệnh tăng huyết áp của họ

là kết quả của trạng thái thần kinh căng thẳng, thuốc điều trị tăng huyết áp là để hạ

huyết áp và thuốc này chỉ cần khi bệnh nhân cảm thấy huyết áp của mình tăng. Sau

khi khám phá ra nhận thức, suy nghĩ của bệnh nhân, dược sĩ cũng cần phải truyền

đạt thông tin rõ ràng về bệnh tăng huyết áp, mục tiêu của thuốc và tầm quan trọng

của việc dùng thuốc đều đặn [24].

1.2.2 Mục tiêu hỗ trợ bệnh nhân

Mục tiêu của tư vấn bệnh nhân là giúp đỡ bệnh nhân vượt qua bệnh tật và

những thay đổi do bệnh gây ra. Ví dụ bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường hoặc

tăng huyết áp có thể cần giúp đỡ để vượt qua những thay đổi trong chế độ ăn, trong

thói quen công việc và hoạt động giải trí [24].

Thêm vào việc giải quyết những vấn đề trước mắt, tư vấn bệnh nhân nên có

những thảo luận để phòng tránh vấn đề có thể xảy ra trong quá trình bệnh nhân

7

dùng thuốc và nâng cao khả năng giải quyết những vấn đề này cho bệnh nhân [14].

Thông qua tư vấn bệnh nhân, dược sĩ có thể dự đoán trước một số vấn đề nhờ đó có

thể phòng ngừa được hoặc ít nhất là giảm thiểu tối đa các vấn đề bất lợi của thuốc.

Dược sĩ thảo luận với bệnh nhân để biết ý định và khả năng tuân thủ hướng dẫn

dùng thuốc của bệnh nhân. Ví dụ một bệnh nhân đi ăn tiệc có thể quyết định bỏ qua

một liều thuốc tăng huyết áp và uống rượu trong bữa tiệc. Nếu tình huống này được

dự đoán trước và thảo luận với dược sĩ thì bệnh nhân có thể có một quyết định tốt

hơn. Dược sĩ có thể chỉ ra những nguy cơ khi bệnh nhân bỏ một liều thuốc hoặc gợi

ý những thay đổi như bệnh nhân nên hạn chế uống rượu trong khi đang uống thuốc

[24].

Một vấn đề khác cần chú ý đó là sự gia tăng tác dụng không mong muốn của

thuốc. Ví dụ, các tác dụng không mong muốn như táo bón, nước tiểu đổi màu cũng

có thể làm bệnh nhân lo âu và có thể dẫn đến dừng thuốc. Vì vậy trong quá trình tư

vấn dược sĩ nên tư vấn để bệnh nhân nhận ra những triệu chứng nào là tác dụng

không mong muốn của thuốc, tìm cách giải quyết và không tự ý dừng thuốc [24].

Như vậy trong trường hợp bệnh nhân phải điều trị lâu dài, mục tiêu của tư

vấn là phát hiện ra tất cả những vấn đề nói trên và đảm bảo mọi thứ diễn ra tốt đẹp.

Khi đã phát hiện ra các vấn đề có thể xảy ra thì mục tiêu của tư vấn là nâng cao khả

năng giải quyết những vấn đề này cho bệnh nhân [24].

Tư vấn bệnh nhân với hai mục tiêu chính là giáo dục bệnh nhân các thông tin

liên quan đến thuốc và giúp đỡ bệnh nhân vượt qua những vấn đề gặp phải trong

quá trình sử dụng thuốc. Như vậy, việc dược sĩ có thực hiện được 2 mục tiêu này

trong quá trình tư vấn hay không sẽ quyết định cách tiếp cận của bệnh nhân với

những gì họ được tư vấn.

1.3 Các cách tiếp cận của bệnh nhân trong quá trình tư vấn bệnh nhân

Bệnh nhân có cách tiếp cận khác nhau đối với từng mô hình tư vấn cũng như

từng mức độ tư vấn. Khi mô hình tư vấn phát triển từ một chiều đến khuyến khích,

từ mức độ tư vấn độc thoại của dược sĩ đến mức độ thảo luận thì cách tiếp cận của

bệnh nhân thay đổi dần từ tuân thủ đến đồng thuận.

8

1.3.1 Tuân thủ (Compliance)

Khái niệm chung về tuân thủ

Haynes và cộng sự năm 1979 đã đưa ra định nghĩa tuân thủ là “mức độ một

bệnh nhân tuân theo chế độ ăn, thực hiện thay đổi lối sống theo các lời khuyên về

thuốc và sức khỏe” [10]. Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO), tuân thủ là “mức độ

bệnh nhân tuân theo lời hướng dẫn của bác sĩ” [31]. Năm 1999, Blenkinsopp cho

rằng tuân thủ thuốc đề cập đến hành vi của bệnh nhân liên quan đến các loại thuốc

của họ [10].

Trong tư vấn bệnh nhân, cách tiếp cận tuân thủ không công nhận bệnh nhân

là người có thể chủ động kiểm soát việc điều trị của họ. Thay vào đó, cách tiếp cận

này xem các chuyên gia chăm sóc sức khỏe là người đưa ra quyết định cho bệnh

nhân. Vì vậy, quá trình tư vấn coi như một quá trình truyền thông tin từ nhân viên y

tế tới bệnh nhân một cách thụ động [10, 32].

Cách tiếp cận tuân thủ tương ứng với mô hình tư vấn một chiều và giai đoạn

tư vấn độc thoại của dược sĩ. Bản chất của mô hình này chưa nhìn nhận đúng khả

năng và cách giải quyết vấn đề của bệnh nhân, chưa chú ý đến thái độ và niềm tin

của bệnh nhân, vì vậy tạo cho bệnh nhân cách tiếp cận vấn đề một cách thụ động,

chỉ tuân thủ mà không xem xét sự phù hợp với bản thân mình. Với cách tiếp cận

này bệnh nhân không có cơ hội thảo luận với dược sĩ những khó khăn họ gặp phải

trong quá trình dùng thuốc để tìm cách giải quyết. Và chính những vấn đề này ảnh

hưởng và là rào cản tới sự tuân thủ thuốc của bệnh nhân.

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ thuốc của bệnh nhân

Tuân thủ là một hiện tượng đa chiều được xác định bởi sự tương tác qua lại

của nhóm 5 yếu tố: yếu tố kinh tế - xã hội, yếu tố liên quan đến hệ thống chăm sóc

sức khỏe, yếu tố liên quan đến bệnh, yếu tố liên quan đến phác đồ điều trị, yếu tố

liên quan đến bệnh nhân, trong đó bệnh nhân chỉ là một yếu tố quyết định [31].

❖ Yếu tố kinh tế - xã hội

Một vài yếu tố được cho là có ảnh hưởng đáng kể đến sự tuân thủ như: tình

trạng kinh tế xã hội kém phát triển, nghèo đói, mù chữ, trình độ học vấn thấp, thất

9

nghiệp, điều kiện sống không ổn định, xa trung tâm điều trị, chi phí đi lại cao, chi

phí cho thuốc điều trị cao, thay đổi môi trường, thái độ và niềm tin về bệnh, về

phương pháp điều trị (Albaz RS 1997, trích dẫn trong [31]).

❖ Yếu tố liên quan đến hệ thống chăm sóc sức khỏe

Những yếu tố liên quan đến hệ thống chăm sóc sức khỏe ảnh hưởng đến sự

tuân thủ của bệnh nhân bao gồm dịch vụ y tế và hệ thống phân phối thuốc kém phát

triển, đội ngũ nhân viên chăm sóc sức khỏe thiếu kiến thức trong việc quản lí bệnh

mãn tính, năng lực của hệ thống giáo dục bệnh nhân còn yếu, thiếu kiến thức về

tuân thủ và những can thiệp có hiệu quả để cải thiện sự tuân thủ của bệnh nhân [31].

❖ Yếu tố liên quan đến bệnh

Các yếu tố này tiêu biểu cho những yêu cầu đặc biệt liên quan đến bệnh mà

bệnh nhân phải vượt qua. Một số yếu tố quan trọng quyết định sự tuân thủ liên quan

đến mức độ nặng của triệu chứng bệnh, mức độ khuyết tật (thể chất, tâm lí, xã hội),

mức độ tiến triển của bệnh, sự sẵn có của các phác đồ điều trị có hiệu quả. Tác động

của những yếu tố này phụ thuộc vào việc nó ảnh hưởng đến nhận thức về nguy cơ

của bệnh nhân, đến tầm quan trọng của việc tuân thủ phác đồ điều trị, đến sự ưu tiên

việc tuân thủ như thế nào [31]. Loại bệnh cũng là một yếu tố ảnh hưởng, ví dụ bệnh

nhân bệnh tim thường tuân thủ tốt, trong khi bệnh nhân bệnh hen thường không

tuân thủ [24].

❖ Yếu tố liên quan đến phác đồ điều trị

Có nhiều yếu tố của phác đồ điều trị ảnh hưởng tới sự tuân thủ. Đáng chú ý

nhất là những yếu tố liên quan sự phức tạp của chế độ điều trị, thời gian điều trị,

thất bại của phác đồ điều trị trước đó, sự thay đổi thường xuyên phác đồ điều trị,

hiệu quả tức thì của phác đồ, tác dụng không mong muốn, và các biện pháp y tế sẵn

có để giải quyết những vấn đề này [31].

❖ Yếu tố thuộc về bệnh nhân

Các yếu tố liên quan đến bệnh nhân có ảnh hưởng đến sự tuân thủ tiêu biểu

là kiến thức, thái độ, niềm tin, nhận thức và nguồn lực của bệnh nhân (resources).

Các yếu tố này bao gồm: tính hay quên, tâm lí căng thẳng, thiếu kiến thức và kĩ

10

năng kiểm soát triệu chứng và phương pháp điều trị, thiếu nhu cầu tự nhận thức về

phương pháp điều trị, thiếu nhận thức về hiệu quả của phương pháp điều trị, thiếu

hiểu biết về bệnh, không tin tưởng vào chẩn đoán, hiểu sai về hướng dẫn điều trị,

thiếu sự kiểm soát và theo dõi, bi quan, thất vọng, lo lắng về tác dụng không mong

muốn của thuốc, cảm giác bị kì thị vì mắc bệnh [31].

Rào cản tới sự tuân thủ thuốc

Năm 1984, Becker cho rằng rào cản thứ nhất của sự tuân thủ thuốc là sự

phức tạp của phác đồ điều trị và sự khó khăn trong việc tuân thủ phương pháp điều

trị đã đưa ra. Phác đồ điều trị càng phức tạp thì bệnh nhân càng ít tuân thủ thuốc.

Khó khăn trong việc nhớ uống thuốc vài lần mỗi ngày hoặc trong việc điều chỉnh

dùng thuốc cho phù hợp với thói quen hàng ngày của bệnh nhân cũng được xem

như lý do để bệnh nhân ít tuân thủ thuốc hơn [7].

Thời gian điều trị dài cũng làm cho bệnh nhân ít tuân thủ hơn. Nguyên nhân

của việc này là do bệnh nhân gặp khó khăn trong việc nhớ và sắp xếp lịch uống

thuốc [24]. Việc giảm tuân thủ theo thời gian sẽ làm bệnh nhân ít quan tâm đến

bệnh hơn hoặc ít có nhu cầu tiếp tục dùng thuốc [8].

Tác dụng không mong muốn của thuốc khi xảy ra cũng làm giảm sự tuân thủ

thuốc, do bệnh nhân thấy khó chịu, lo lắng tác dụng này sẽ nặng thêm. Đặc biệt khi

bệnh nhân không được cảnh báo trước về khả năng xảy ra tác dụng không mong

muốn hoặc không được hướng dẫn các biện pháp để làm giảm những tác dụng

không mong muốn này [24].

Rào cản về nhận thức, ngôn ngữ, khả năng đọc viết làm bệnh nhân không

hiểu được lí do phải dùng thuốc, hướng dẫn sử dụng thuốc. Vì vậy bệnh nhân sẽ

không thể tuân thủ đúng cách dùng thuốc [24].

Các yếu tố ảnh hưởng và rào cản làm giảm sự tuân thủ thuốc của bệnh nhân

cần được thảo luận với dược sĩ trong tư vấn để cùng nhau tìm ra cách giải quyết các

vấn đề bệnh nhân gặp phải. Khi bệnh nhân thảo luận những vấn đề này với dược sĩ

tức là họ đã chuyển sang một cách tiếp cận mới, từ tuân thủ một cách thụ động đến

đồng thuận trong quá trình tư vấn.

11

1.3.2 Đồng thuận (Concordance)

Năm 1997, Marinker cho rằng đồng thuận là cách tiếp cận dựa trên quan điểm

dược sĩ và bệnh nhân tương tác ngang bằng, do đó giữa họ sẽ hình thành sự liên hệ

về điều trị. Bàn về vấn đề Blenkinsopp năm 1999 cũng khẳng định đồng thuận

không đồng nghĩa với tuân thủ, trong đồng thuận bệnh nhân có quyền đưa ra quyết

định việc chăm sóc sức khỏe của mình [10].

Đồng thuận dựa trên quan niệm mới về việc trao đổi thông tin giữa dược sĩ và

bệnh nhân. Trong phương pháp đồng thuận, vai trò của dược sĩ là để hỗ trợ bệnh

nhân hình thành kiến thức và thái độ trong việc sử dụng thuốc. Bệnh nhân được

xem như chuyên gia về bệnh và việc sử dụng thuốc của mình [25]. Điều này không

làm giảm vai trò chuyên gia thuốc của dược sĩ, mà thay vào đó một cuộc trao đổi,

thảo luận giữa dược sĩ và bệnh nhân là cần thiết để thúc đẩy và hỗ trợ bệnh nhân

theo dõi bệnh của mình [10].

Như vậy, cách tiếp cận đồng thuận tương ứng với mô hình tư vấn khuyến

khích hay giai đoạn đàm luận, thảo luận trong tư vấn bệnh nhân. Mô hình và giai

đoạn này đã chú ý hướng tới bệnh nhân, đề cập đến khả năng, thái độ, suy nghĩ và

cách giải quyết vấn đề của bệnh nhân, bởi vậy tạo cơ hội cho bệnh nhân trao đổi với

dược sĩ và tự đưa ra quyết định phù hợp nhất với hoàn cảnh của mình.

Cách tiếp cận đồng thuận buộc dược sĩ định hình lại về thái độ của mình đối

với việc tư vấn bệnh nhân. Dược sĩ với vai trò là chuyên gia chăm sóc sức khỏe có

thể giúp mọi người duy trì sức khỏe tốt nhất và nâng cao lợi ích của việc dùng thuốc

[9]. Để đảm nhận vai trò này dược sĩ đòi hỏi phải có năng lực chuyên môn mới và

khi tư vấn phải lấy bệnh nhân làm trung tâm [10, 32]. Dược sĩ nên chuyển từ cách

tư vấn chỉ tập trung vào thuốc, tư vấn một chiều sang tư vấn tập trung vào bệnh

nhân và đưa thông tin phù hợp với nhu cầu từng bệnh nhân để đạt được hiệu quả

điều trị tốt hơn [33]. Thực hiện được những điều này thì quá trình tư vấn bệnh nhân

sẽ không chỉ mang lại lợi ích cho bệnh nhân mà còn mang lại lợi ích cho dược sĩ.

12

1.4 Lợi ích của việc tư vấn bệnh nhân

1.4.1 Lợi ích đối với bệnh nhân

Lợi ích quan trọng nhất của tư vấn bệnh nhân là cải thiện chất lượng cuộc

sống và chất lượng việc chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân. Những biến cố xảy ra

được gọi là những rủi ro khi dùng thuốc (như tác dụng không mong muốn của

thuốc, tương tác thuốc và những sai sót khác khi dùng thuốc) và việc không tuân

thủ điều trị đã làm giảm chất lượng của cuộc sống và gây trở ngại tới chất lượng

chăm sóc sức khỏe của bệnh nhân [24].

Dược sĩ có tác động lớn tới những vấn đề này thông qua tư vấn bệnh nhân.

Theo ủy ban chăm sóc sức khỏe Mỹ (Department of Health Human Services) thì

việc thiếu thông tin về thuốc là một trong bốn lí do khiến người cao tuổi thất bại

trong việc tuân thủ phác đồ điều trị. Một nghiên cứu trên 306 nhà thuốc tại

Memphis, Tenessee cho thấy 84,7% bệnh nhân được nhận đầy đủ thông tin đã tuân

thủ điều trị, trong khi con số này ở nhóm bệnh nhân biết ít thông tin chỉ là 63,0%

[11]. Như vậy tư vấn bệnh nhân có thể giảm thiểu những sai sót và sự không tuân

thủ trong việc dùng thuốc của bệnh nhân [24].

Thêm vào vấn đề không tuân thủ, bệnh nhân có thể chịu một số phản ứng có

hại của thuốc. Nếu bệnh nhân được tư vấn các dấu hiệu sớm để thông báo cho dược

sĩ hoặc nếu dược sĩ hỏi bệnh nhân về phác đồ đang điều trị thì có thể phát hiện và

phòng ngừa sớm hơn. Như vậy tư vấn bệnh nhân sẽ hạn chế phản ứng có hại của

thuốc [24]

Ngoài ra, tư vấn bệnh nhân còn mang lại lợi ích cho bệnh nhân theo một số

cách khác liên quan đến việc cải thiện hiệu quả điều trị và sự hài lòng với việc chăm

sóc sức khỏe. Bệnh nhân thường muốn đảm bảo chắc chắn thêm một lần nữa là

thuốc của họ an toàn và hiệu quả [24]. Họ có thể cần sự giải thích thêm do bác sĩ

của họ quá bận hoặc không thoải mái để hỏi. Nhiều nghiên cứu cho rằng một tương

tác hiệu quả giữa nhân viên y tế và bệnh nhân có thể cải thiện hiệu quả điều trị của

bệnh nhân [29].

13

1.4.2 Lợi ích của đối với dược sĩ

Nhìn chung, các dược sĩ cho rằng việc tư vấn và giáo dục bệnh nhân khiến

họ cảm thấy hài lòng về công việc của mình và muốn dành thời gian nhiều hơn cho

việc tư vấn (Chi J 1992, trích dẫn trong [24]). Portner T và cộng sự năm 1993 lại

khẳng định tư vấn bệnh nhân tạo cơ hội cho dược sĩ thể hiện năng lực chuyên môn

và sử dụng những kiến thức họ tích lũy sau nhiều năm. Đây chính là sự hài lòng của

mỗi cá nhân khi giúp đỡ người khác, đặc biệt trong việc giúp bệnh nhân duy trì và

cải thiện sức khỏe [24].

Năm 1989, Rybka – Miki, trong một nghiên cứu của mình, cho rằng tư vấn

bệnh nhân giúp dược sĩ bớt căng thẳng trong công việc. Công việc của dược sĩ phải

thường xuyên tiếp xúc với bệnh nhân nên không tránh khỏi những lúc khó chịu hay

căng thẳng. Vì vậy thông qua quá trình tư vấn, dược sĩ sẽ hiểu hoàn cảnh của bệnh

nhân hơn, làm cho mối quan hệ trở nên gần gũi hơn. Việc này tạo cảm giác thoải

mái và làm giảm bớt căng thẳng cho cả dược sĩ và bệnh nhân [24].

Ngoài ra thông qua tư vấn bệnh nhân, dược sĩ có cơ hội để thảo luận với các

chuyên gia y tế khác về các vấn đề liên quan đến thuốc. Ví dụ trong những trường

hợp như: giáo dục y tá trong việc chăm sóc tại nhà, trao đổi thảo luận toàn khoa,

hoặc dược sĩ có thể liên lạc với bác sĩ hoặc y tá để cùng giải quyết các vấn đề có

liên quan đến thuốc [24].

Như vậy tư vấn bệnh nhân mang lại lợi ích cho cả bệnh nhân và dược sĩ theo

nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên một cuộc tư vấn có thể mang lại đầy đủ tất cả lợi

ích trên đòi hỏi dược sĩ phải có cái nhìn mới về vai trò và trách nhiệm của mình

trong việc tư vấn bệnh nhân.

1.5 Vai trò của dược sĩ trong tư vấn bệnh nhân

1.5.1 Vai trò của dược sĩ

Khi bệnh nhân tiến đến cách tiếp cận đồng thuận trong tư vấn thì đây là một

thử thách để dược sĩ nhìn lại vai trò của mình đối với việc tư vấn bệnh nhân. Đảm

nhiệm vai trò này đòi hỏi dược sĩ phải có năng lực mới, khi tư vấn phải lấy bệnh

14

nhân làm trung tâm để đưa thông tin phù hợp với từng đối tượng nhằm đạt được

hiệu quả điều trị cao nhất [10].

Thông qua quá trình tư vấn, dược sĩ tìm hiểu nhu cầu hiện tại và tương lai

của bệnh nhân. Dược sĩ phải đánh giá được bệnh nhân đã biết những gì, kĩ năng gì

họ muốn cải thiện, vấn đề gì họ đang gặp phải và muốn giải quyết. Thêm vào đó

dược sĩ phải xác định được những hành vi, thái độ mà bệnh nhân cần phải thay đổi

[24].

Dược sĩ cũng cần cung cấp cho bác sĩ thông tin về nhu cầu, sở thích của bệnh

nhân để hỗ trợ mối quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân. Ví dụ bệnh nhân có thể nói

với dược sĩ những điều mà họ không muốn thảo luận với bác sĩ hoặc hỏi dược sĩ về

việc lựa chọn phương pháp điều trị của bác sĩ. Vì vậy dược sĩ có thể giúp cả hai bên

trở nên hiểu nhau hơn bằng cách khuyến khích bệnh nhân thảo luận các vấn đề với

tất cả nhân viên y tế và nếu bệnh nhân cho phép có thể thay mặt bệnh nhân thảo

luận với nhân viên y tế khác [24].

1.5.2 Thách thức đối với tư vấn bệnh nhân

Dược sĩ thường được coi là có vai trò chính trong tư vấn bệnh nhân và mô

hình này có lợi cho cả bệnh nhân và dược sĩ [24]. Mặc dù cả dược sĩ và bệnh nhân

đều thấy được những lí do thuyết phục cho sự cần thiết của tư vấn bệnh nhân, nhiều

dược sĩ vẫn không thực hiện vai trò này [30].

Một bài tổng quan của Young về thực trạng giao tiếp giữa dược sĩ và bệnh

nhân ở Bắc Mỹ đã kết luận rằng chất lượng và số lượng của giao tiếp giữa dược sĩ

và bệnh nhân cải thiện rất ít qua hơn 25 năm (1970 – 1996). Mặc dù dược sĩ có cái

nhìn tích cực đối với tư vấn bệnh nhân, thực tế họ thảo luận với khoảng một nửa

bệnh nhân đơn mới trong vòng khoảng 1 phút hoặc ít hơn [33]. Svarstad và cộng sự

cho rằng các chính sách, quy trình, và việc thực hiện một số chương trình thúc đẩy

hỗ trợ dược sĩ có ảnh hưởng tới việc thực hành tư vấn bệnh nhân [30].

Như vậy với vai trò mới trong tư vấn bệnh nhân dược sĩ phải đối mặt với thử

thách trong công việc mới và những khó khăn sẽ gặp phải trong việc thực hành tư

vấn bệnh nhân. Muốn vượt qua những trở ngại trên và làm tốt công tác tư vấn bệnh

15

nhân dược sĩ phải hoàn thiện các kĩ năng, khi tư vấn phải xác định rõ ràng nội dung

cần tư vấn cho bệnh nhân.

1.6 Nội dung của tư vấn bệnh nhân

1.6.1 Hoàn cảnh tư vấn

Số lượng và loại thông tin dược sĩ cung cấp cho bệnh nhân phụ thuộc vào nhu

cầu và hoàn cảnh tư vấn. Lý tưởng nhất, dược sĩ nên tư vấn bệnh nhân trên tất cả

đơn mới và đơn kê lại. Nếu dược sĩ không thể tư vấn theo phạm vi này thì nên phân

loại bệnh nhân và các loại thuốc dược sĩ thường tư vấn. Các bệnh nhân cần tư vấn

bao gồm:

• Bệnh nhân phải dùng nhiều thuốc

• Bệnh nhân có vấn đề nhìn, nghe, đọc

• Bệnh nhân nhi

• Bệnh nhân dùng nhóm thuốc cần lưu ý đặc biệt như thuốc chống đông

• Bệnh nhân có sự thay đổi về thuốc hoặc về liều trong đơn

• Bệnh nhân mới hoặc bệnh nhân lần đầu tiên nhận một thuốc mới

• Bệnh nhân nhận thuốc có cách bảo quản hoặc cách dùng đặc biệt, hoặc có tác

dụng phụ đáng chú ý

Nếu bệnh nhân là trẻ em hoặc cần có người khác chăm sóc, dược sĩ thảo luận

việc sử dụng thuốc với cha mẹ hoặc người chăm sóc của bệnh nhân [22].

1.6.2 Các nội dung trong quá trình tư vấn

Năm 1997, hiệp hội dược sĩ Mỹ (ASHP) đưa ra một hướng dẫn về cách tư vấn

bệnh nhân cho dược sĩ. Theo đó, quá trình này gồm 4 bước: (1) thiết lập mối quan

hệ với bệnh nhân, (2) đánh giá kiến thức và thái độ của bệnh nhân về thuốc và bệnh,

khả năng bệnh nhân có thể sử dụng thuốc hợp lí, (3) cung cấp thông tin bằng lời nói

và các phương tiện hỗ trợ khác để nâng cao, cải thiện nhận thức và hiểu biết của

bệnh nhân, (4) kiểm tra lại nhận thức và hiểu biết của bệnh nhân về cách sử dụng

thuốc [21]. Tuy nhiên 4 bước này còn tương đối cô đọng. Năm 2007, Rantuci đã cụ

thể hóa quá trình này theo 5 bước sau:

• Mở đầu tư vấn

16

• Thảo luận để thu thập thông tin và xác định nhu cầu bệnh nhân

• Thảo luận để đưa ra kế hoạch chăm sóc và giải quyết vấn đề

• Thảo luận để cung cấp thông tin

• Kết thúc thảo luận [24].

Các nội dung của quá trình tư vấn nên diễn ra theo một trình tự logic. Nhiều

nghiên cứu cho thấy bệnh nhân sẽ hiểu và nhớ thông tin tốt hơn nếu thông tin được

xếp thành từng nhóm hoặc từng mục [18].

Mở đầu tư vấn

Mục tiêu của phần mở đầu là làm cho bệnh nhân cảm thấy thoải mái tham gia

vào quá trình tư vấn, từ đó xây dựng mối liên hệ thân mật giữa dược sĩ và bệnh

nhân và tạo cho bệnh nhân cảm giác tin tưởng vào dược sĩ.

Nếu bệnh nhân và dược sĩ trước đây chưa từng gặp nhau, dược sĩ nên tự giới

thiệu bản thân và làm cho cuộc thảo luận trở nên thoải mái, đồng thời giải thích mục

tiêu của cuộc tư vấn cho bệnh nhân. Nếu bệnh nhân không có thời gian để thảo luận

ngay lúc đó, cần phải sắp xếp một cuộc thảo luận khác có thể là gặp trực tiếp hoặc

là bằng điện thoại ở thời điểm khác.

Đối với bệnh nhân có đơn mới, dược sĩ cần nhấn mạnh tầm quan trọng của việc

tư vấn nếu trước đó bệnh nhân chưa từng được tư vấn. Đối với bệnh nhân có đơn kê

lại dược sĩ nên đánh giá hiệu quả của thuốc, theo dõi việc sử dụng thuốc để xác định

những vấn đề liên quan đến thuốc có thể xảy ra đặc biệt là việc không tuân thủ và

tác dụng không mong muốn của thuốc.

Thảo luận để thu thập thông tin và xác định nhu cầu của bệnh nhân

❖ Đối với bệnh nhân mới

Nếu bệnh nhân mới, dược sĩ cần thu thập thông tin cơ bản của bệnh nhân như:

tên, địa chỉ, số điện thoại, tuổi và giới tính. Thêm vào đó cần thu thập thông tin về

tiền sử dị ứng, phản ứng thuốc của bệnh nhân.

❖ Đối với bệnh nhân khám lại

17

Trong trường hợp này, các thông tin đã có sẵn từ lần tư vấn trước hoặc từ đơn

của bệnh nhân. Dược sĩ chỉ cần xác nhận bệnh nhân không có sự thay đổi gì như có

thêm bệnh mới, hay dùng thuốc khác kể cả thuốc kê đơn và thuốc không kê đơn.

❖ Đối với bệnh nhân có đơn mới

Đối với bệnh nhân có đơn mới, các thông tin dưới đây nên được thu thập, thêm

vào những thông tin về tiền sử dùng thuốc của bệnh nhân như đã được thảo luận ở

trên:

• Tiền sử dùng thuốc

Dược sĩ phải xác định xem liệu rằng trước đó bệnh nhân đang có sử dụng thuốc

gì không. Thậm chí đối với bệnh nhân khám lại, những thuốc không có trong đơn

nhưng bệnh nhân có thể mua ở nơi khác, trực tiếp từ bác sĩ hoặc qua thời gian nằm

viện. Nếu bệnh nhân đã dùng thuốc trước đó, phần còn lại của cuộc tư vấn sẽ

chuyển sang tư vấn cho đơn kê lại phù hợp hơn là cho đơn mới.

• Kiến thức về bệnh và về mục đích của thuốc

Nếu thực sự là đơn mới thì dược sĩ phải xác định bệnh đang được điều trị, hiểu

biết và nhận thức của bệnh nhân về tình trạng bệnh này. Dược sĩ cũng nên hỏi bệnh

nhân về những gì bác sĩ đã nói với họ về mục đích sử dụng thuốc. Điều này cho

phép dược sĩ đánh giá mức độ nhận thức và hiểu biết của bệnh nhân về bệnh và về

mục đích của thuốc, đây là cơ hội cho bệnh nhân bày tỏ vấn đề liên quan đến tình

trạng bệnh của họ. Từ đó dược sĩ có thể đánh giá được nhu cầu của bệnh nhân và

xác định được những vấn đề bệnh nhân hiểu sai hoặc sự thiếu động lực dẫn đến

không tuân thủ trong dùng thuốc. Thông qua thảo luận dược sĩ có thể thu thập được

thông tin để đánh giá tính phù hợp của thuốc được kê. Nếu có thể, dược sĩ nên cung

cấp thêm những thông tin về chẩn đoán hoặc mục tiêu điều trị thực sự của bác sĩ.

• Kiến thức về chế độ dùng thuốc

Dược sĩ phải xác định hiểu biết của bệnh nhân về cách sử dụng thuốc. Dược sĩ

nên hỏi xem bác sĩ đã nói cho họ biết cách sử dụng chưa và liệu bệnh nhân có bất kì

khó khăn nào trong quá trình dùng thuốc được kê không. Điều này cho phép dược sĩ

18

đánh giá nhu cầu của bệnh nhân và có thể tiết kiệm thời gian nếu bệnh nhân cho biết

họ đã biết những thông tin đó một cách rõ ràng.

• Mục tiêu điều trị

Bệnh nhân có thể được hỏi họ muốn đạt tới điều gì khi dùng thuốc. Điều này sẽ

làm sáng tỏ bất kì nhận thức nào của bệnh nhân về thuốc liên quan đến sự không

tuân thủ.

• Những vấn đề có thể xảy ra

Ở thời điểm này, dược sĩ có thể bắt đầu xác định những vấn đề có thể xảy ra.

Hỏi bệnh nhân cảm thấy thế nào khi uống thuốc và liệu có bất kì khó khăn nào mà

họ sẽ gặp phải với việc dùng thuốc hay không để dược sĩ đánh giá và đưa ra cách

giải quyết.

❖ Đối với đơn kê lại hoặc theo dõi việc dùng thuốc tiếp theo

Trong trường hợp này, những thông tin dưới đây nên được thu thập, thêm vào

những thông tin về bệnh nhân và cách sử dụng thuốc đã được bàn ở trên khi cần

thiết:

• Chi tiết việc sử dụng thuốc

Dược sĩ nên xác định bệnh nhân đang sử dụng thuốc thế nào, có gặp bất kì khó

khăn nào khi dùng thuốc không (ví dụ quá liều hay chưa đủ liều…). Nếu thấy bệnh

nhân không tuân thủ thuốc, dược sĩ nên hỏi về việc thường xuyên dùng thuốc hoặc

lí do cho sự không tuân thủ. Nhờ đó những yếu tố làm bệnh nhân không tuân thủ sẽ

được phát hiện.

• Hiệu quả của thuốc

Dược sĩ nên đánh giá liệu thuốc có hiệu quả hay không, thuốc có tác dụng như

những gì mong muốn không, những dấu hiệu cho thấy thuốc có hiệu quả. Thảo luận

này cho phép dược sĩ phát hiện những mối nghi ngại của bệnh nhân (ví dụ bệnh

nhân có thể cho biết giảm mức huyết áp nhưng họ không cảm thấy có sự khác biệt

gì , bởi vậy có thể ít tiếp tục sử dụng thuốc hơn).

• Tác dụng không mong muốn xảy ra

19

Dược sĩ nên xác định xem có bất kì tác dụng không mong muốn nào xảy ra hay

không, thu thập thông tin về thời gian và mức độ nặng để dược sĩ và bác sĩ có thể

quyết định tác dụng này có thể kiểm soát được hay phải thay thuốc. Việc khai thác

thông tin về tác dụng không mong muốn nên được cân bằng với việc nhắc lại lợi ích

của thuốc.

Thảo luận để đưa ra kế hoạch chăm sóc và giải quyết vấn đề

❖ Đối với đơn mới

Khi đã xác định được các vấn đề có thể xảy ra thì dược sĩ nên thông báo với

bệnh nhân và thảo luận để đưa ra cách giải quyết. Tiếp đó, thiết lập mục tiêu về

hiệu quả điều trị cho mỗi vấn đề. Nếu thảo luận với bệnh nhân dẫn đến phác đồ của

bệnh nhân cần thay đổi, dược sĩ phải làm rõ sự thay đổi. Sự thay đổi này phải được

thảo luận với bệnh nhân và nếu có sự thay đổi về thuốc thì phải thảo luận với bác sĩ.

Sau khi cân nhắc kĩ dược sĩ nên xác định giải pháp tốt nhất và phù hợp với điều trị

của từng bệnh nhân. Cuối cùng dược sĩ nên thảo luận kế hoạch theo dõi điều trị cho

bệnh nhân.

❖ Đối với đơn kê lại hoặc tiếp tục theo dõi việc dùng thuốc tiếp theo

Trong phần này của quá trình tư vấn dược sĩ nên ghi lại tất cả những thay đổi về

kế hoạch điều trị và thông tin bệnh nhân cung cấp trong các cuộc thảo luận về

những việc bệnh nhân đã làm được trong kế hoạch điều trị.

Thảo luận để đưa thông tin và giáo dục bệnh nhân

❖ Đối với đơn mới

Đối với đơn mới, bệnh nhân cần được giáo dục về tất cả các vấn đề của thuốc.

Các loại thông tin cần thiết cung cấp cho bệnh nhân mới được liệt kê dưới đây:

• Tên và mô tả về thuốc

• Mục tiêu tác dụng của thuốc

• Cách dùng và thời gian uống

• Cách tuân thủ và tự theo dõi điều trị

• Tác dụng phụ và phản ứng có hại của thuốc

• Thận trọng, chống chỉ định và tương tác thuốc

20

• Hướng dẫn bảo quản thuốc

• Thông tin nếu phải kê đơn lại và kế hoạch theo dõi tiếp theo.

❖ Đối với đơn kê lại hoặc tiếp tục theo dõi việc dùng thuốc tiếp theo

Nếu vấn đề như không tuân thủ, tác dụng phụ hay phản ứng có hại của thuốc

được phát hiện trong quá trình thu thập thông tin của bệnh nhân thì dược sĩ không

cần cung cấp thêm thông tin mới cho bệnh nhân. Dược sĩ chỉ nhấn mạnh lại thông

tin về những thận trọng cần theo dõi trong quá trình sử dụng thuốc, khuyến khích

bệnh nhân nên tiếp tục tuân thủ sử dụng thuốc.

Đối với các vấn đề liên quan đến tuân thủ thuốc dược sĩ có thể cung cấp

thông tin về tình trạng bệnh, thông tin về cách thuốc hoạt động trong cơ thể, khẳng

định lại hiệu quả của thuốc, đề nghị thay đổi chế độ điều trị để cải thiện sự tuân thủ,

hướng dẫn bệnh nhân tự theo dõi, hoặc đề nghị những thảo luận chi tiết hơn với bác

sĩ.

Nếu tác dụng phụ hoặc phản ứng có hại của thuốc xảy ra, dược sĩ nên cung

cấp thông tin về cách để làm giảm các tác dụng phụ, cách tiếp tục theo dõi tác dụng

phụ và cách giải quyết nếu nó trở nên nặng hơn, hoặc đề nghị những thảo luận chi

tiết hơn với bác sĩ.

Kết thúc thảo luận

Trong phần kết thúc thảo luận, dược sĩ nên để bệnh nhân có cơ hội để xem

xét lại các thông tin đã được tư vấn và hỏi lại những gì chưa hiểu. Dược sĩ cũng nên

yêu cầu bệnh nhân nhắc lại hầu hết các thông tin đã được tư vấn như hướng dẫn

cách sử dụng thuốc. Dược sĩ nên tạo cho bệnh nhân cảm giác thoải mái khi hỏi bất

cứ vấn đề gì. Phần kết thúc thảo luận dược sĩ nên tóm lại và nhấn mạnh điều quan

trọng nhất của cuộc tư vấn, vì thông điệp cuối cùng thường là cái mà bệnh nhân nhớ

nhất [24].

1.6.3 Kĩ thuật tư vấn

Raynor (1998) cho rằng việc kết hợp giữa thông tin nói và thông tin viết sẽ

cho hiệu quả cao hơn trong tư vấn. Ở nhiều nước, tờ thông tin dành cho bệnh nhân

thường có sẵn để đảm bảo bệnh nhân tiếp cận được thông tin viết. Nhưng tờ thông

21

tin này thường không đạt tiêu chuẩn giúp ích và dễ hiểu cho bệnh nhân (Federal

Register 1998, trích dẫn trong [32]). Đó là lí do tại sao cần thiết phải có một số

phương tiện hỗ trợ việc tư vấn để tăng cường hiệu quả của việc tư vấn và để chắc

chắn rằng bệnh nhân biết cách giải quyết các vấn đề liên quan đến thuốc của mình.

Điều quan trọng là xem xét mức độ đọc, viết và bất kì sự trở ngại nào khi lựa chọn

phương tiện hỗ trợ tư vấn phù hợp. Các phương tiện hỗ trợ tư vấn đã phát triển và

được báo cáo trong y văn có thể bao gồm:

• Các bài giảng điện tử để trình chiếu cho bệnh nhân trong suốt quá trình tư

vấn, ví dụ cho bệnh nhân xem các bước hướng dẫn sử dụng thuốc nhỏ mắt

hoặc thuốc điều trị hen dạng hít.

• Các tài liệu phát tay (hướng dẫn viết tay hoặc in máy).

• Các phương tiện hỗ trợ sự tuân thủ như phương tiện hỗ trợ đo lường, thiết bị

cắt nhỏ viên, thiết bị theo dõi đường huyết sẽ giúp tăng cường kế hoạch kết

hợp giữa chế độ điều trị với thói quen hàng ngày của bệnh nhân.

• Sổ thuốc liệt kê tất cả các thuốc bệnh nhân đang dùng sẽ giúp nhìn tổng thể

tất cả các thuốc để phòng tránh những vấn đề liên quan đến thuốc (như quá

liều hoặc không đủ liều hoặc tương tác thuốc).

• Các hình vẽ, mô hình liên quan đến thuốc có thể hỗ trợ quá trình tư vấn đối

với một số đối tượng đặc biệt là khi có rào cản về ngôn ngữ, khả năng đọc,

nhìn và viết kém. Các mô hình có thể kết hợp với tài liệu phát tay hoặc tờ

thông tin dành cho bệnh nhân hay tách riêng thành một cuốn sách nhỏ hoặc

một tập tài liệu riêng [32].

1.6.4 Kĩ năng giao tiếp trong tư vấn bệnh nhân

Giao tiếp là sự trao đổi thông tin, ý tưởng, suy nghĩ và cảm giác, nó không

đơn thuần chỉ là giao tiếp bằng lời nói mà còn biểu hiện qua ngữ điệu của lời nói, sự

biểu cảm của khuôn mặt, ngôn ngữ cơ thể. Giao tiếp với bệnh nhân có hiệu quả hay

không phụ thuộc rất nhiều vào mức độ đồng cảm của dược sĩ trong suốt quá trình tư

vấn. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng tư vấn bệnh nhân có hiệu quả làm giảm đáng

kể việc không tuân thủ thuốc hoặc thất bại trong điều trị. Để làm tốt việc này dược

22

sĩ cần hài hòa giữa câu hỏi và cách hỏi bệnh nhân, tránh sự lặp lại nhàm chán

(Ranelli 2000, Roter và cộng sự 1998, trích dẫn trong [19]). Dược sĩ tư vấn tốt phải

lắng nghe bệnh nhân một cách cẩn thận và chia sẻ vấn đề một cách thân mật để

bệnh nhân nói cảm xúc của mình khi bị bệnh. Dược sĩ phải tập trung trong suốt

cuộc tư vấn, không được phân tâm sang việc khác, thậm chí một cuộc điện thoại

cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng của cuộc tư vấn [19].

Dược sĩ không sử dụng thuật ngữ quá chuyên sâu vì sẽ làm bệnh nhân khó

hiểu, làm giảm hiệu quả tuân thủ điều trị. Với một số đối tượng như người có trình

độ văn hóa thấp, trẻ em dưới 10 tuổi, nên sử dụng cả ngôn ngữ và kí hiệu, nói, làm

mẫu và mô tả điều muốn truyền đạt [3].

1.6.5 Tư vấn bệnh nhân tập trung vào bệnh mãn tính

Bệnh mãn tính là những bệnh điều trị lâu dài có khi suốt đời, cần thay đổi lối

sống hoặc điều trị không dùng thuốc. Bệnh mãn tính thường liên quan đến một số

hành vi cụ thể như: hút thuốc lá, chế độ ăn uống không điều độ, lối sống ít vận

động, lạm dụng thuốc. Muốn phòng và điều trị bệnh hiệu quả đòi hỏi sự thay đổi về

hành vi. Vì bệnh mãn tính có khi phải điều trị suốt đời nên nó thường ảnh hưởng

đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân hơn là bệnh cấp tính. Khi tư vấn thuốc cho

bệnh nhân mắc bệnh mãn tính, dược sĩ phải linh hoạt lường trước được những thử

thách mà bệnh nhân đang phải đối mặt [15]. Đối với bệnh nhân mắc bệnh mãn tính

thì bệnh nhân thường điều trị và theo dõi bệnh tại nhà, vì vậy họ cần nhiều kiến

thức hơn để quản lí bệnh mạn tính của mình. Một vài bệnh mãn tính phổ biến mà

dược sĩ có thể chủ động trong quá trình tư vấn bao gồm:

• Bệnh tăng huyết áp

• Bệnh đái tháo đường

• Bệnh mạch vành

• Bệnh rối loạn lipid huyết

• Bệnh hen phế quản

• Bệnh viêm khớp dạng thấp

• Bệnh động kinh [19]

23

1.7 Công tác tư vấn sử dụng thuốc ở bệnh viện Bạch Mai

Bệnh viện Bạch Mai là một trong những đơn vị đầu tiên ở miền Bắc triển khai

mô hình tư vấn sử dụng thuốc cho bệnh nhân. Phòng tư vấn được đặt ở bên cạnh

khu vực cấp phát thuốc BHYT cho bệnh nhân, bước đầu giải quyết nhu cầu tư vấn

cho bệnh nhân lĩnh thuốc BHYT. Đảm nhiệm công việc tư vấn chính là các dược sĩ

ở khoa Dược bệnh viện Bạch Mai.

Tuy mới đi vào hoạt động từ khoảng tháng 11 năm 2012, phòng tư vấn đã dần

dần được trang bị thiết bị phục vụ cho công việc tư vấn. Về cơ sở vật chất, phòng có

đầy đủ bàn tư vấn, ghế ngồi cho bệnh nhân tư vấn và bệnh nhân ngồi chờ, tủ đựng

sách và tài liệu phát tay (Hình 1.1).

Hình 1.1. Phòng tư vấn thuốc bệnh Hình 1.2. Một số trang thiết bị phòng

viện Bạch Mai tư vấn bệnh viện Bạch Mai

24

Về trang thiết bị tư vấn, có một máy tính xách tay phục vụ cho việc tra cứu

thông tin và lưu thông tin khi tư vấn, sổ lưu thông tin tư vấn, danh mục các thuốc

nằm trong danh mục thuốc BHYT cần tư vấn đặc biệt, đĩa hướng dẫn cách sử dụng

các dạng bào chế đặc biệt, máy in giấy màu để dán lên vỏ hộp thuốc hoặc vỉ thuốc

khi có chú ý đặc biệt (Hình 1.2).

Do đây là lần đầu tiên triển khai mô hình tư vấn, các dược sĩ ở Bệnh viện Bạch

Mai vừa tự học, tự triển khai và tự rút kinh nghiệm để hoàn thiện và nâng cao chất

lượng tư vấn. Là những người đi đầu nên các dược sĩ cũng phải đối mặt với nhiều

khó khăn: những ngày đầu bệnh nhân chưa biết nhiều đến phòng tư vấn, một phần

do chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc tư vấn, một phần do vị trí đặt

phòng tư vấn ở chỗ khuất tầm nhìn của bệnh nhân. Ngoài ra, các dược sĩ phải kiêm

nhiệm công việc tư vấn bên cạnh công việc chính của mình nên khó khăn trong việc

sắp xếp thời gian tư vấn. Thêm vào đó, các dược sĩ phải tự soạn danh mục thuốc tư

vấn, tự thảo ra quy trình tư vấn cho phù hợp…Tuy nhiên sau thời gian hoạt động,

bệnh nhân đã biết đến phòng tư vấn nhiều hơn, các dược sĩ sau quá trình triển khai

đang trong quá trình hoàn thiện quy trình tư vấn sao cho phù hợp nhất với đặc điểm

bệnh nhân, thời gian và quy mô của phòng tư vấn.

25

CHƯƠNG II: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1 Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

2.1.1 Khảo sát nhận thức và nhu cầu được tư vấn của bệnh nhân BHYT ngoại

trú

• Đối tượng nghiên cứu

Bệnh nhân được cấp phát thuốc BHYT đang chờ lấy thuốc, trước khi vào phòng

tư vấn thuốc.

• Thời gian và địa điểm nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện từ ngày 12/03/2013 đến ngày 12/04/2013 tại phòng

cấp phát thuốc BHYT Bệnh viện Bạch Mai.

• Thiết kế nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu định tính sử dụng bộ câu hỏi (phụ lục I) đã được thiết

kế và thử nghiệm trước.

• Phương pháp chọn mẫu

Chọn mẫu ngẫu nhiên thuận tiện.

• Phương pháp thu thập số liệu

Phỏng vấn trực tiếp dựa vào bộ câu hỏi thiết kế sẵn.

• Các biến số nghiên cứu

Các biến số nghiên cứu liên quan đến nhận thức của bệnh nhân về việc uống

thuốc

✓ Tần suất các cách bệnh nhân dùng để phân biệt các loại thuốc trong đơn

✓ Tần suất các cách bệnh nhân dùng để nhớ giờ uống các thuốc trong đơn

✓ Tần suất các cách xử trí của bệnh nhân khi quên thuốc

✓ Tần suất các thời điểm uống thuốc khi được kê nhiều thuốc đồng thời

✓ Tần suất các loại nước bệnh nhân dùng để uống thuốc

✓ Tần suất các cách uống thuốc: uống nguyên viên, bẻ, nhai, nghiền thuốc của

bệnh nhân

Các biến số nghiên cứu liên quan đến nhận thức của bệnh nhân về việc tìm hiểu

thông tin thuốc

26

✓ Tần suất bệnh nhân tìm hiểu tờ hướng dẫn sử dụng thuốc

✓ Tỉ lệ các nguồn thông tin bệnh nhân thu được từ cán bộ y tế

✓ Tần suất bệnh nhân đã được nghe hướng dẫn sử dụng thuốc

Các biến số liên quan đến nhu cầu được tư vấn sử dụng thuốc

✓ Tần suất bệnh nhân muốn được tư vấn về thuốc hoặc về bệnh

✓ Tần suất các lí do khiến bệnh nhân không muốn được tư vấn

✓ Tần suất các nội dung cụ thể bệnh nhân muốn được tư vấn

2.1.2 Khảo sát tình hình tư vấn sử dụng thuốc tại phòng cấp phát thuốc

BHYT

Khảo sát hoạt động tư vấn sử dụng thuốc của dược sĩ

• Đối tượng nghiên cứu

Dược sĩ hoạt động tư vấn sử dụng thuốc.

• Thời gian và địa điểm nghiên cứu

Nghiên cứu thực hiện từ ngày 12/03/2013 đến ngày 12/04/2013 tại phòng tư

vấn sử dụng thuốc dành cho bệnh nhân BHYT.

• Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu mô tả hoạt động tư vấn sử dụng thuốc của dược sĩ theo mẫu (phụ

lục III) đã được thiết kế và thử nghiệm trước.

• Phương pháp chọn mẫu

Chọn mẫu ngẫu nhiên thuận tiện.

• Phương pháp thu thập số liệu

Quan sát, ghi chép theo mẫu có sẵn.

• Các biến số nghiên cứu

✓ Tần suất các nội dung tư vấn các dược sĩ đã thực hiện

✓ Số thuốc trong đơn được các dược sĩ tư vấn

✓ Tần suất các cách hỏi dược sĩ của bệnh nhân trước khi dược sĩ bắt đầu tư

vấn

✓ Tần suất các nội dung cụ thể bệnh nhân xin tư vấn

✓ Tần suất bệnh nhân có hỏi lại dược sĩ trong quá trình tư vấn

27

✓ Tần suất các nội dung cụ thể bệnh nhân hỏi trong quá trình tư vấn

✓ Thời gian trung bình cho một cuộc tư vấn

Khảo sát mức độ đáp ứng với nhu cầu tư vấn của dược sĩ

• Đối tượng nghiên cứu

Thông tin hành chính thu thập từ phòng cấp phát thuốc BHYT và phòng tư vấn

sử dụng thuốc.

• Thời gian và địa điểm nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện tại phòng cấp phát thuốc BHYT và phòng tư vấn sử

dụng thuốc từ ngày 12/03/2013 đến ngày 12/04/2013.

• Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu thu thập thông tin theo mẫu có sẵn (phụ lục II).

• Phương pháp chọn mẫu

Thu thập thông tin từ ngày 12/03/2013 đến ngày 12/04/2013.

• Phương pháp thu thập số liệu

Ghi chép thông tin theo mẫu có sẵn.

• Các biến số nghiên cứu

✓ Số bệnh nhân vào tư vấn theo ngày

✓ Thời gian phòng tư vấn mở cửa theo ngày

✓ Tỷ lệ số bệnh nhân được tư vấn so với số bệnh nhân lĩnh thuốc theo ngày

✓ Tỷ lệ tổng số thời gian phòng tư vấn mở cửa so với tổng số thời gian lĩnh

thuốc theo ngày

2.1.3 Khảo sát mức độ hài lòng của bệnh nhân sau khi được tư vấn

• Đối tượng nghiên cứu

Bệnh nhân BHYT sau khi được tư vấn tại phòng tư vấn sử dụng thuốc BHYT,

bệnh viện Bạch Mai.

• Thời gian và địa điểm nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện từ ngày 12/03/2013 đến ngày 12/04/2013 tại phòng

tư vấn sử dụng thuốc BHYT Bệnh viện Bạch Mai.

• Thiết kế nghiên cứu

28

Phương pháp nghiên cứu định tính sử dụng bộ câu hỏi (phụ lục IV) đã được

thiết kế và thử nghiệm trước.

• Phương pháp chọn mẫu

Chọn mẫu ngẫu nhiên thuận tiện.

• Phương pháp thu thập số liệu

Phỏng vấn trực tiếp bệnh nhân dựa vào bộ câu hỏi có sẵn.

• Các biến số nghiên cứu

✓ Tần suất bệnh nhân hài lòng với những gì được tư vấn

✓ Tần suất bệnh nhân tin và làm theo những gì được dược sĩ tư vấn

✓ Tần suất bệnh nhân muốn tiếp tục vào phòng tư vấn nếu đi khám lần sau

2.2 Phương pháp xử lí số liệu

Dữ liệu được quản lí bằng phần mềm SPSS 16.0 theo các biến và trường trong

phiếu nghiên cứu. Số liệu sau khi được nhập, nếu thấy xuất hiện giá trị bất thường

được kiểm tra lại phiếu gốc để chỉnh sửa. Trường hợp không xác minh được theo

phiếu gốc, giá trị của biến được gán là bị mất (missing). Biến định danh và biến

phân hạng được trình bày dưới dạng tần suất. Biến liên tục nếu là phân phối chuẩn

được trình bày dưới dạng giá trị trung bình và độ lệch chuẩn, nếu không phải là

phân phối chuẩn trình bày dưới dạng trung vị và khoảng tứ phân (IQR).

29

CHƯƠNG III: KẾT QUẢ

3.1 Nhận thức và nhu cầu được tư vấn của bệnh nhân

3.1.1 Đặc điểm nhân khẩu học của bệnh nhân

Trong thời gian từ ngày 12/03/2013 đến ngày 12/04/2013 nhóm nghiên cứu

đã phỏng vấn 100 bệnh nhân chờ lĩnh thuốc trước khi vào phòng tư vấn, thông tin

chung được trình bày trong bảng 3.1.

Do thời gian bệnh nhân chờ lấy thuốc ngắn, không gian hạn hẹp, nghiên cứu

chỉ ghi nhận được tuổi của 69 bệnh nhân và nghề nghiệp của 67 bệnh nhân. Phần

lớn bệnh nhân ở độ tuổi từ 60 trở lên (50,0%), tiếp theo là độ tuổi 40 – 59 (18,0%)

và độ tuổi 20 – 39 (1,0%). Đa số bệnh nhân là cán bộ về hưu (53,0%), ít hơn là làm

nông nghiệp (11,0%) và các nghề khác (3,0%). Trong nghiên cứu này sự phân bố

giới tính không đồng đều với chủ yếu là bệnh nhân nữ (67,0%).

Hầu hết bệnh nhân trong nghiên cứu đi khám lại theo chương trình hoặc theo

giấy hẹn của bác sĩ (96,0%). Bệnh nhân nằm trong chương trình điều trị các bệnh

mãn tính chiếm tỷ lệ lớn (63,0%). Trong các bệnh mắc phải thì phổ biến nhất là

bệnh tăng huyết áp (55,0%), tiếp đó là bệnh tim mạch (27,0%) và bệnh đái tháo

đường (25,0%). Trong số bệnh nhân được phỏng vấn, có tới 34,0% bệnh nhân mắc

kèm từ hai bệnh trở lên, 66,0% bệnh nhân chỉ mắc một bệnh đơn thuần.

30

Bảng 3.1. Thông tin chung của bệnh nhân

Thông số Số bệnh nhân (%)

≥ 80 1 (1,0)

60 – 79 49 (49,0)

Tuổi (n=100) 40 – 59 18 (18,0)

20 – 39 1 (1,0)

Không ghi nhận được 31 (31,0)

Nam 33 (33,0) Giới (n=100) Nữ 67 (67,0)

Cán bộ về hưu 53 (53,0)

Nông nghiệp 11 (11,0) Nghề nghiệp (n=100) Nghề nghiệp khác 3 (3,0)

Không ghi nhận được 33 (33,0)

Tăng huyết áp 55 (55,0)

Tim mạch 27 (27,0)

Đái tháo đường 25 (25,0)

Bệnh (n=100) Rối loạn lipid máu 5 (5,0)

Hen phế quản 2 (2,0)

Viêm khớp dạng thấp 0 (0,0)

Bệnh khác 31 (31,0)

1 66 (66,0)

2 24 (24,0) Số bệnh mắc phải (n=100) 3 9 (9,0)

4 1 (1,0)

Lần đầu 4 (4,0) Lần khám (n=100) Khám lại 96 (96,0)

Bệnh nhân trong chương trình quốc Có 63 (63,0)

gia về các bệnh mãn tính (n=100) Không 37 (37,0)

31

3.1.2 Nhận thức của bệnh nhân về việc sử dụng thuốc

Nhận thức của bệnh nhân về việc uống thuốc

Nghiên cứu đã tìm hiểu nhận thức của bệnh nhân về việc uống thuốc thông

qua các khía cạnh: cách bệnh nhân dùng để phân biệt thuốc uống và để nhớ giờ

uống thuốc, cách xử trí khi bệnh nhân quên uống thuốc và khi được kê nhiều thuốc

đồng thời, các loại nước bệnh nhân dùng để uống thuốc và các cách uống thuốc của

bệnh nhân (chi tiết được trình bày ở bảng 3.2).

Bảng 3.2. Nhận thức của bệnh nhân về việc uống thuốc

Thông số Số bệnh nhân (%)

Đối chiếu với tên thuốc trong đơn 82 (82,0)

Màu hộp vỉ 9 (9,0)

Nhờ người khác phân biệt hộ 4 (4,0) Các cách phân biệt thuốc Giấy dán kí hiệu từng loại 2 (2,0) (n=100) Khác 3 (3,0)

Chưa uống thuốc (nên không rõ) 1 (1,0)

Không ghi nhận được 1 (1,0)

Dựa vào đơn thuốc 38 (38,0)

Dùng lâu nên nhớ 32 (32,0)

9 (9,0) Cách nhớ giờ uống thuốc Viết lên hộp thuốc

4 (4,0) (n=100) Chia thuốc vào 3 túi riêng

Hỏi người khác 4 (4,0)

Uống theo bữa ăn 4 (4,0)

Dùng giấy dán tường 3 (3,0)

Để thuốc nơi dễ nhìn 2 (2,0)

Chưa uống thuốc (nên không rõ) 1 (1,0)

Cách khác 3 (3,0)

32

Không quên (theo bệnh nhân) 54 (54,0)

Bỏ qua liều đó uống liều sau 25 (25,0)

Uống ngay khi nhớ ra 11 (11,0) Cách xử trí khi bị quên Liều sau uống gấp đôi 0 (0,0) thuốc (n=100) Liên hệ với bác sĩ kê đơn 0 (0,0)

Chưa uống thuốc bao giờ 1 (1,0)

Không ghi nhận được 9 (9,0)

Uống từng thời điểm theo đơn 50 (50,0) Thời điểm uống thuốc khi Uống cùng thời điểm 21 (21,0) được kê nhiều thuốc đồng Chỉ uống 1 thuốc 1 (1,0) thời (n=100) Không ghi nhận được 28 (28,0)

Nước lọc 77 (77,0)

Nước chè, nước vối 3 (3,0) Các loại nước bệnh nhân Nước hoa quả 1 (1,0) dùng để uống với thuốc Sữa 1 (1,0) (n=100) Khác 4 (4,0)

Không ghi nhận được 22 (22,0)

Uống nguyên viên 75 (75,0)

Bẻ 13 (13,0) Các cách bệnh nhân uống Nhai 7 (7,0) thuốc (n=100) Nghiền 2 (2,0)

Không ghi nhận được 22 (22,0)

Nghiên cứu cho thấy phần lớn bệnh nhân phân biệt các loại thuốc của mình

dựa vào cách đối chiếu với tên thuốc trong đơn (82,0%), một số ít bệnh nhân dựa

vào màu của hộp thuốc, vỉ thuốc (9,0%). Ngoài ra dùng giấy dán kí hiệu cho từng

loại thuốc, nhờ người khác phân biệt hộ cũng được dùng với tỷ lệ nhỏ (<5,0%).

Trong các cách để nhớ giờ uống thuốc, phần lớn bệnh nhân dựa vào đơn

thuốc (38,0%), tiếp đó là viết lên hộp thuốc (9,0%), chia thuốc vào 3 túi riêng cho 3

33

buổi sáng, trưa, tối (4,0%), viết vào giấy dán tường (3,0%) và để thuốc nơi dễ nhìn

(2,0%). Một tỷ lệ lớn bệnh nhân không dùng cách cụ thể nào mà do dùng thuốc lâu

ngày nên nhớ giờ uống thuốc (32,0%).

Khi được hỏi về cách xử trí khi quên dùng thuốc, phần lớn bệnh nhân cho

biết họ chưa quên uống thuốc bao giờ (54,0%), tiếp theo là bỏ qua liều đó, chờ đến

liều sau uống tiếp (25,0%) và uống ngay khi nhớ ra (11,0%). Không có bệnh nhân

nào liên hệ với bác sĩ để hỏi lại hoặc uống với liều gấp đôi.

Xét về mặt nhận thức thời điểm uống thuốc khi đơn kê nhiều thuốc đồng

thời, nhóm nghiên cứu ghi nhận được câu trả lời của 72 bệnh nhân. Phần lớn bệnh

nhân uống thuốc theo từng thời điểm của thuốc (50,0%), số bệnh nhân còn lại vẫn

uống các thuốc cùng 1 thời điểm (21,0%).

Đối với các loại nước để uống thuốc và cách bệnh nhân uống thuốc nhóm

nghiên cứu ghi nhận được ý kiến của 78 bệnh nhân. Trong đó đa số bệnh nhân

(77,0%) uống thuốc với nước lọc, rất ít bệnh nhân dùng nước chè, nước vối để uống

thuốc (3,0%). Phần lớn bệnh nhân cho biết khi uống thuốc họ uống nguyên cả viên

(75,0%), 13,0% bệnh nhân bẻ một vài thuốc khi uống, một số bệnh nhân nhai và

nghiền thuốc để uống nhưng tỷ lệ này rất nhỏ (<10,0%).

Nhận thức của bệnh nhân về việc tìm hiểu thông tin về thuốc

Nghiên cứu đã đưa ra một vài thông số để khảo sát về nhận thức của bệnh

nhân về mức độ tìm hiểu thông tin thuốc bao gồm mức độ tìm hiểu thông tin từ tờ

hướng dẫn sử dụng thuốc, nguồn thông tin từ cán bộ y tế và số bệnh nhân đã từng

nghe tư vấn sử dụng thuốc (Bảng 3.3 trình bày chi tiết nội dung này)

Kết quả này cho thấy tờ hướng dẫn sử dụng thuốc là tài liệu được đa số bệnh

nhân tìm hiểu để có kiến thức về thuốc với tỷ lệ 92,0%. Ngoài ra, nguồn thông tin

từ cán bộ y tế mà bệnh nhân tìm hiểu chủ yếu vẫn từ bác sĩ (50,0%), nguồn thông

tin từ dược sĩ chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ (5,0%), . Một tỷ lệ lớn bệnh nhân (66,0%) đã từng

được nghe tư vấn sử dụng thuốc do chuyên gia hoặc do bác sĩ, dược sĩ tư vấn .

34

Bảng 3.3. Nhận thức của bệnh nhân về tìm hiểu thông tin về thuốc

Thông số Số bệnh nhân (%)

Có 92 (92,0) Bệnh nhân tìm hiểu tờ

hướng dẫn sử dụng thuốc Không 7 (7,0)

(n=100) Không ghi nhận được 1 (1,0)

Bác sĩ 50 (50,0) Nguồn thông tin bệnh Dược sĩ 5 (5,0) nhân thu được từ cán bộ y Không nhận thông tin từ CBYT 31 (31,0) tế (n=100) Không ghi nhận được 14 (14,0)

Đã từng 66 (66,0) Bệnh nhân đã từng nghe

tư vấn sử dụng thuốc Chưa 28 (28,0)

(n=100) Không ghi nhận được 6 (6,0)

CBYT: cán bộ y tế

3.1.3 Nhu cầu tư vấn sử dụng thuốc của bệnh nhân

Thông qua quá trình phỏng vấn, nhóm nghiên cứu đã ghi nhận được ý kiến

của 93 bệnh nhân về nhu cầu tư vấn (chi tiết được trình bày ở bảng 3.4). Phần lớn

bệnh nhân có nhu cầu tư vấn (62,0%), số còn lại không có nhu cầu tư vấn (31,0%).

Trong 31 bệnh nhân không có nhu cầu tư vấn, lí do được đưa ra nhiều nhất là

đã được bác sĩ tư vấn (45,2%), một số bệnh nhân cho rằng họ đã có đủ kiến thức để

dùng thuốc (25,8%), một số khác (19,4%) không có thời gian nên không muốn vào

tư vấn thuốc.

Đối với 62 bệnh nhân có nhu cầu tư vấn, lĩnh vực thuốc được bệnh nhân quan

tâm nhiều nhất (41,9%), tiếp đó là lĩnh vực bệnh (35,5%), một số bệnh nhân muốn

tư vấn cả hai lĩnh vực (6,5%) .

Trong các nội dung cụ thể bệnh nhân muốn được tư vấn, chiếm tỷ lệ nhiều

nhất là bệnh lí (41,9%), tiếp đó là tác dụng không mong muốn của thuốc (19,4%) và

lối sống (16,1%). Các nội dung khác như: thời điểm uống thuốc, thuốc uống kèm,

35

tác dụng hay tương tác thuốc cũng được một số bệnh nhân quan tâm muốn được tư

vấn nhưng với tỷ lệ thấp hơn (<10,0%).

Bảng 3.4. Nhu cầu tư vấn của bệnh nhân

Thông số Số bệnh nhân(%)

Có 62 (62,0) Bệnh nhân muốn được Không 31 (31,0) tư vấn (n=100) Không ghi nhận được 7 (7,0)

Đã được bác sĩ tư vấn 14 (45,2)

Đã có kiến thức 8 (25,8) Lí do bệnh nhân không Không có thời gian 6 (19,4) muốn được tư vấn Đã điều trị lâu ngày 3 (9,7) (n=31) Sợ tính phí tư vấn 0 (0)

Khác 5 (16,1)

Tư vấn về thuốc 26 (41,9) Lĩnh vực bệnh nhân Tư vấn về bệnh 22 (35,5) muốn được tư vấn Tư vấn về thuốc và bệnh 4 (6,5) (n=62) Tư vấn lĩnh vực khác 10 (16,1)

Bệnh lí 26 (41,9)

Tác dụng không mong muốn 12 (19,4)

Lối sống 10 (16,1)

Thuốc dùng kèm 6 (9,7) Nội dung cụ thể bệnh Thời điểm uống 6 (9,7) nhân muốn được tư vấn Tác dụng điều trị của thuốc 5 (8,1) (n=62) Tương tác thuốc 4 (6,5)

Độ dài đợt điều trị 3 (4,8)

Liều dùng 2 (3,2)

Dạng bào chế 2 (3,2)

Nội dung khác 8 (12,9)

36

3.2 Tình hình tư vấn sử dụng thuốc tại phòng tư vấn

3.2.1 Hoạt động tư vấn sử dụng thuốc của dược sĩ

Từ ngày 12/03/2013 đến 12/04/2013, nhóm nghiên cứu đã thực hiện ghi nhận

hoạt động tư vấn sử dụng thuốc tại phòng tư vấn thuốc Bảo hiểm y tế Bệnh viện

Bạch Mai và đã thu được số liệu của 50 cuộc tư vấn cho 50 bệnh nhân.

Nội dung dược sĩ đã thực hiện được

Các nội dung dược sĩ đã thực hiện được trong các cuộc tư vấn được thể hiện

100%

100%

ở hình 3.1 và bảng 3.5.

100%

Chào hỏi

1

82%

Tra cứu thông tin, xem xét

2

80%

tính hợp lí của đơn thuốc

70%

3 Hỏi tiền sử thuốc, dị ứng cua

62%

thuốc trong đơn

60%

Hướng dẫn tên, chỉ định

4

42%

42% 44%

Tư vấn liều dùng

5

40%

Chú thích:

m ă r t n ầ h p ệ

l

40%

ỷ T

Tư vấn thời điểm dùng thuốc

6

Tư vấn độ dài đợt điều trị

7

20%

20%

Tư vấn cách sử dụng

8

Tư vấn tác dụng không mong

9

muốn, cách khắc phục

0%

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

10 Lưu thông tin tư vấn

Hình 3.1. Các nội dung dược sĩ đã thực hiện

.

37

Bảng 3.5. Số thuốc được dược sĩ tư vấn

Thông số Số lượt (%)

Số thuốc được Đầy đủ theo đơn 29 (58,0)

dược sĩ tư vấn trong Tư vấn thuốc dược sĩ thấy lưu ý 19 (38,0)

đơn(n=50) Tư vấn thuốc bệnh nhân hỏi 2 (4,0)

Nội dung được dược sĩ thực hiện đầy đủ nhất là chào hỏi (100%), lưu thông

tin tư vấn (100%). Trước khi tư vấn, các dược sĩ đã thực hiện tra cứu thông tin và

xem xét tính hợp lý của đơn với tỷ lệ 82,0% các cuộc tư vấn. Trong quá trình tư

vấn, các nội dung tên và chỉ định thuốc, thời điểm dùng thuốc cũng đã được tập

trung tư vấn với tỷ lệ lần lượt là 70,0% và 62,0%. Các nội dung khác như tác dụng

không mong muốn của thuốc, liều dùng, cách sử dụng, tiền sử dùng thuốc cũng

được các dược sĩ chú ý tư vấn với tỷ lệ mỗi nội dung khoảng 40,0%. Trong 50 cuộc

tư vấn ghi nhận được, phần lớn (58,0%) các dược sĩ tư vấn đầy đủ các thuốc trong

đơn, 38,0% chỉ tư vấn các thuốc dược sĩ thấy cần thiết cho bệnh nhân.

Tương tác giữa dược sĩ và bệnh nhân trong quá trình tư vấn

Tương tác giữa dược sĩ và bệnh nhân được nhóm nghiên cứu ghi nhận thông qua

hai thời điểm trước khi dược sĩ bắt đầu tư vấn và trong quá trình tư vấn (bảng 3.6).

Trước khi dược sĩ bắt đầu tư vấn, phần lớn bệnh nhân chủ động hỏi dược sĩ các

nội dung mình muốn tư vấn (52,0%). Các nội dung này chủ yếu tập trung vào cách

sử dụng thuốc (23,0%), phản ứng có hại đã gặp phải khi dùng thuốc (19,2%), tiếp

đó là tác dụng không mong muốn của thuốc (15,4%) và liều dùng (15,4%). Một số

nội dung khác như: tác dụng không mong muốn của thuốc, liều dùng, tương tác

thuốc cũng được bệnh nhân quan tâm hỏi dược sĩ nhưng với tỷ lệ thấp hơn.

38

Bảng 3.6. Tương tác giữa dược sĩ và bệnh nhân trong quá trình tư vấn

Số bệnh Thông số nhân (%)

Không hỏi 5 (10,0) Cách hỏi của bệnh Hỏi “tư vấn chung” 19 (38,0) nhân (n=50) Hỏi câu hỏi cụ thể 26 (52,0)

Trước Cách dùng 6 (23,0) khi Phản ứng đã gặp khi dùng thuốc 5 (19,2) dược Tác dụng không mong muốn 4 (15,4) sĩ bắt Liều dùng 4 (15,4) Các nội dung cụ thể đầu bệnh nhân xin tư vấn Tác dụng của thuốc 3(11,5) tư (n=26) Tương tác thuốc 2 (7,7) vấn

Bệnh lí 1 (3,9)

Lối sống 0 (0,0)

Khác 7 (26,9)

Có 35 (70,0) Bệnh nhân có hỏi lại

dược sĩ (n=50) Không 15 (30,0)

Tác dụng không mong muốn 11 (31,4) Trong

Liều dùng 6 (17,1) khi

Tác dụng của thuốc 6 (17,1) dược Nội dung cụ thể bệnh sĩ Bệnh lí 4 (11,4) nhân hỏi (n=35) tư Cách dùng 2 (5,7)

vấn Tương tác thuốc 1 (2,9)

Lối sống 0 (0,0)

Khác 14 (40,0)

Trong quá trình tư vấn, nhóm nghiên cứu ghi nhận được 35 cuộc tư vấn

(70,0%), trong đó bệnh nhân hỏi lại dược sĩ đối với những thông tin vừa được tư

39

vấn. Các nội dung bệnh nhân quan tâm thảo luận với dược sĩ nhiều nhất là tác dụng

không mong muốn của thuốc (31,4%), tiếp theo là tác dụng của thuốc (17,1%), liều

dùng (17,1%) và bệnh lí (11,4%). Ngoài ra vấn đề cách dùng hay tương tác thuốc

cũng được đề cập đến trong các cuộc thảo luận nhưng với tỷ lệ thấp hơn (<10,0%).

Thời gian trung bình cho 1 cuộc tư vấn

Trong 50 cuộc tư vấn ghi nhận được, nhóm nghiên cứu đã thu thập được

thông tin về thời gian của 49 cuộc tư vấn do 5 dược sĩ tư vấn, thông tin về các dược

sĩ được mã hóa và giữ kín (xem bảng 3.7).

Bảng 3.7. Thời gian cho 1 cuộc tư vấn

Thời gian trung bình cho Độ lệch chuẩn Thông số 1 cuộc tư vấn (phút) (phút)

Dược sĩ 1(n=14) 1,4 4,1

Dược sĩ 2 (n=6) 1,1 3,0

Dược sĩ 3 (n=13 2,1 5,0

Dược sĩ 4 (n=9) 1,7 4,1

Dược sĩ 5 (n=7) 2,9 7,0

Toàn bộ dược sĩ (n=49) 2,4 4,8

Trong 49 cuộc tư vấn ghi nhận được, thời gian trung bình cho một cuộc tư

vấn là 4,8 phút. Thời gian các cuộc tư vấn thực hiện bởi các dược sĩ khác nhau cũng

dao động, dài nhất lên tới 7 phút và ngắn nhất là 3 phút. Thời gian của các cuộc tư

vấn do một dược sĩ thực hiện cũng dao động nhiều (độ lệch chuẩn của với thời gian

trung bình nhiều nhất lên tới 2,9 phút).

3.2.2 Mức độ đáp ứng của dược sĩ với việc tư vấn

Trong thời gian từ 12/03/2013 đến 12/04/2013 nhóm nghiên cứu đã thực hiện

ghi nhận thông tin hành chính tại phòng tư vấn thuốc và phòng cấp phát thuốc Bảo

hiểm y tế. Thông tin về số bệnh nhân vào phòng tư vấn được ghi chép dựa vào sổ

lưu thông tin của phòng tư vấn trong 20 ngày thực hiện nghiên cứu. Do phòng tư

40

vấn không lưu lại thông tin giờ mở cửa từng ngày nên thông tin này nhóm nghiên

cứu chỉ ghi nhận được trong 11 ngày có mặt đầy đủ cả hai buổi.

Đặc điểm về thời gian tư vấn và số bệnh nhân vào tư vấn

Trong thời gian thực hiện nghiên cứu, số bệnh nhân vào phòng tư vấn có xu

hướng giảm dần theo thời gian (hình 3.2). Trong tháng 3 số bệnh nhân vào tư vấn ở

mức cao, có ngày lên tới 30 hoặc 40 bệnh nhân. Đến 2 tuần đầu tháng 4 số bệnh

nhân vào tư vấn giảm, ngày nhiều nhất cũng chỉ có 12 bệnh nhân.

Số bệnh nhân vào tư vấn dao động không theo quy luật nhất định. Trong

tháng 3 số bệnh nhân dao động rất lớn, ngày nhiều nhất có thể lên tới 40 bệnh nhân,

trong khi đó ngày ít nhất chỉ có 2 bệnh nhân. Tuy nhiên đến đầu tháng 4, số bệnh

nhân vào tư vấn ít dao động hơn, nhiều nhất là 12 bệnh nhân và ít nhất là 3 bệnh

nhân. Bảng 3.8 cho thấy số bệnh nhân vào tư vấn theo ngày dao động lớn (giá trị

45

40

40

36

34

35

30

25

25

17

20

16

16

trung vị là 9, khoảng tứ phân vị: 5 – 16).

n â h n h n ệ b ố S

12

15

11

9

9 8 9

7

10

5

5

5

3

3

2

5

0

Hình 3.2. Số bệnh nhân vào tư vấn theo ngày

41

Bảng 3.8. Số bệnh nhân và thời gian phòng tư vấn mở cửa theo ngày

Trung vị Khoảng tứ phân Thông số (Median) (IQR)

Số bệnh nhân tư vấn trong ngày 9 5 – 16

Thời gian phòng tư vấn mở cửa (h) 2,75 2,3 – 4,5

Đi tìm hiểu nguyên nhân cho xu hướng giảm này nhóm nghiên cứu đã xem

xét sự tương quan giữa thời gian phòng tư vấn mở cửa với số bệnh nhân vào tư vấn

trong 11 ngày ghi nhận được thời gian phòng tư vấn mở cửa (hình 3.3 và hình 3.4

thể hiện rõ sự tương quan này).

)

n ấ v ư

ờ i g ( n ấ v ư

i

t n a g

i

ờ h T

t n â h n h n ệ b ố S

2

5 4.5 4 3.5 3 2.5 2 1.5 1 0.5 0

50 45 40 35 30 25 20 15 10 5 0

Thời gian

1 4

2 4.5

3 4.8

4 2.5

5 2.7

6 2.8

7 4.5

8 1

9 4.5

10 2

11 1.8

Số bệnh nhân

40

16

36

2

12

3

11

5

9

8

9

Hình 3.3. Thời gian phòng tư vấn mở cửa và số bệnh nhân vào tư vấn theo

ngày

Kí hiệu

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

Ngày

13/3

14/3

15/3

18/3

29/3

01/4

04/4

09/4

10/4

11/4

12/4

Chú thích:

45

40

35

30

25

20

15

42

n â h n h n ệ b ố S

10

5

0

0

0.5

1

2

1.5

2.5

3.5

3

4

5

5.5

4.5 Thời gian phòng tư vấn mở cửa (giờ)

Hình 3.4. Tương quan giữa thời gian phòng tư vấn mở cửa và số bệnh

nhân tư vấn

Hình 3.4 thể hiện sự tương quan giữa số bệnh nhân vào tư vấn và thời gian

phòng tư vấn mở cửa. Hình 3.3 cho thấy số bệnh nhân vào tư vấn dao động cùng

chiều với thời gian phòng tư vấn mở cửa. Nhưng xét về mức độ dao động, thời gian

phòng tư vấn mở cửa có xu hướng dao động mạnh vào đầu tháng 4. Trong khi đó số

bệnh nhân vào tư vấn dao động nhiều trong tháng 3, đến đầu tháng 4 ổn định và ít

dao động hơn. Như vậy, thời gian phòng tư vấn mở cửa không ổn định, và xu hướng

thời gian đầu tháng 4 có ảnh hưởng tới số lượng bệnh nhân vào tư vấn.

Tương quan giữa hoạt động tư vấn và hoạt động cấp phát thuốc BHYT

Bảng 3.9 thể hiện tương quan giữa hai hoạt động cấp phát thuốc và tư vấn

thuốc cho bệnh nhân BHYT. Kết quả cho thấy giá trị trung vị của số bệnh nhân lĩnh

thuốc trong 1 ngày là 736 (IQR: 676 – 789), trong khi giá trị trung vị của số bệnh

nhân vào tư vấn là 9 (IQR: 5 – 16). Tỷ lệ giữa số bệnh nhân tư vấn và số bệnh nhân

lĩnh thuốc có trung bình là 0,02. Tỷ lệ này rất thấp và dao động khá nhiều theo

ngày.

Thời gian bệnh nhân lĩnh thuốc trong 1 ngày là 8 giờ, trong khi thời gian

phòng tư vấn mở cửa có trung vị 2,8 giờ. Tỷ lệ giữa thời gian phòng tư vấn mở cửa

và thời gian bệnh nhân lĩnh thuốc có trung bình là 0,4.

43

Bảng 3.9. Tương quan giữa hoạt động tư vấn và hoạt động cấp phát thuốc

Trung vị Khoảng tứ Thông số (Median) phân (IQR)

Số bệnh nhân tư vấn trong ngày 9 5 – 16

Số bệnh nhân lĩnh thuốc trong ngày 736 676 – 789

Thời gian phòng tư vấn mở cửa (h) 2,8 2,3 – 4,5

Thời gian bệnh nhân lĩnh thuốc trong ngày (h) 8 _

Tỷ lệ giữa tổng số bệnh nhân được tư vấn và tổng 0,02 _

số bệnh nhân lĩnh thuốc theo ngày (trung bình)

Tỷ lệ giữa tổng thời gian phòng tư vấn mở cửa và 0,4 _

tổng thời gian lĩnh thuốc theo ngày (trung bình)

3.3 Mức độ hài lòng của bệnh nhân sau khi tư vấn

Từ ngày 12/03/2013 đến ngày 12/04/2013 nhóm nghiên cứu đã phỏng vấn được

50 bệnh nhân sau khi ra khỏi phòng tư vấn về mức độ hài lòng sau tư vấn (bảng

3.10)

Trong 50 bệnh nhân được phỏng vấn, hầu hết bệnh nhân hài lòng với những gì

được tư vấn (82,0%). Các bệnh nhân đều tin tưởng và làm theo những gì dược sĩ tư

vấn (98,0%). Sau khi được tư vấn, đa số các bệnh nhân được phỏng vấn đều cho

rằng sẽ vào tư vấn tiếp nếu khám lần sau (76,0%), sẽ vào tư vấn khi có thắc mắc

(14,0%).

44

Bảng 3.10. Mức độ hài lòng của bệnh nhân sau tư vấn

Số bệnh nhân Thông số (%)

Không 0 (0,0)

Bệnh nhân hài lòng với việc tư Bình thường 9 (18,0)

Hài lòng vấn (n=50) 32 (64,0)

Rất hài lòng 9 (18,0)

Bệnh nhân tin tưởng và làm theo Có 49 (98,0)

những gì được tư vấn (n=50) Không ghi nhận được 1 (2,0)

Khác 0 (0,0)

38 (76,0) Bệnh nhân lần sau khám muốn tư Có

Có thắc mắc mới vào khám 7 (14,0) vấn tiếp (n=50)

Không muốn vào tư vấn tiếp 1 (2,0)

Không ghi nhận được 4 (8,0)

45

CHƯƠNG IV: BÀN LUẬN

4.1 Nhận thức và nhu cầu tư vấn của bệnh nhân

Phần lớn bệnh nhân trong nghiên cứu là bệnh nhân cao tuổi và chủ yếu là cán

bộ về hưu, khám lại theo chương trình để điều trị một số bệnh mãn tính, trong đó

phổ biến nhất là tăng huyết áp (55,0%), tim mạch (27,0%) và đái tháo đường

(25,0%). Trong 100 bệnh nhân, có 34 bệnh nhân mắc kèm từ 2 bệnh trở lên. Nhóm

bệnh nhân cao tuổi là đối tượng dễ mắc nhiều bệnh cùng một lúc, do đó phải dùng

nhiều thuốc đồng thời. Mặt khác, tình trạng đa bệnh lí dẫn đến rối loạn hoạt động

của nhiều cơ quan trong cơ thể như suy giảm trí nhớ (hay quên dùng thuốc, nhầm

lẫn liều), mắt kém (đọc đơn thuốc kém, đọc lẫn, nhất là khi đơn chữ ghi nhỏ khó

đọc) [1]. Vì vậy, nắm bắt được nhận thức, kĩ năng về việc dùng thuốc cũng như nhu

cầu tư vấn của nhóm bệnh nhân này có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao chất lượng

tư vấn.

Nhận thức của bệnh nhân về việc sử dụng thuốc

Đối với việc phân biệt nhận biết các loại thuốc, phần lớn bệnh nhân dựa vào

cách đối chiếu với tên thuốc trong đơn (82,0%), các cách dựa vào màu của hộp hoặc

vỉ thuốc, dùng giấy dán kí hiệu riêng cho từng loại thuốc, hay hỏi người khác ít

được bệnh nhân dùng hơn. Việc đối chiếu với đơn thuốc sẽ thuận lợi khi bệnh nhân

mắt tinh, đơn thuốc in vi tính dễ đọc dễ nhìn. Thực tế tại bệnh viện Bạch Mai, hệ

thống kê đơn điện tử cho bệnh nhân ngoại trú đã được triển khai, không có tình

trạng đơn viết tay, chữ khó đọc. Khi tư vấn, dược sĩ nói cho bệnh nhân tên từng

loại thuốc sẽ giúp bệnh nhân làm quen với việc nhận dạng các loại thuốc của họ [6].

Đối với những bệnh nhân mắt kém, khả năng đọc,viết hạn chế thường sử dụng 3

cách: dựa vào màu hộp hoặc vỉ thuốc, dùng giấy dán kí hiệu từng loại hoặc hỏi

người khác nhiều hơn. Trong quá trình tư vấn, dược sĩ nên nắm bắt được khả năng

nhìn, đọc, viết của bệnh nhân để đưa ra cách tư vấn hợp lí, có thể là hướng dẫn cách

đối chiếu tên thuốc, hoặc có thể là đưa ra một số gợi ý khác nếu bệnh nhân không

có khả năng đọc được tên thuốc.

46

Phần lớn bệnh nhân dựa vào đơn để nhớ giờ uống thuốc (38,0%), một số ít

bệnh nhân dùng cách khác như: viết vào giấy dán tường, soạn thuốc vào 3 hộp riêng

cho 3 bữa sáng, trưa, tối, hay để thuốc nơi dễ nhìn, viết giờ uống lên hộp thuốc hoặc

uống thuốc theo bữa ăn. Thực tế, tại phòng tư vấn sử dụng thuốc ở bệnh viện Bạch

Mai đã được trang bị máy in các tờ giấy màu khác nhau tương ứng với từng thời

điểm uống thuốc để dán lên hộp hoặc vỉ thuốc cho bệnh nhân. Các màu khác nhau

giúp bệnh nhân phân biệt được các thuốc phải uống ở các thời điểm khác nhau.

Nhóm bệnh nhân cao tuổi thường hay quên dùng thuốc hoặc nhầm lẫn liều [1].

Trong những trường hợp này, dược sĩ nên nắm bắt và dự đoán trước những tình

huống tương tự có thể xảy ra để đưa ra gợi ý thích hợp cho bệnh nhân. Ví dụ,với

bệnh nhân cao tuổi hay quên thì cách soạn thuốc vào 3 túi (hộp) cho sáng, trưa, tối

nên được áp dụng. Theo cách này, bệnh nhân có thể biết mình đã dùng thuốc hay

chưa, tránh trường hợp nhầm lẫn, uống thừa hoặc thiếu thuốc. Dược sĩ cũng có thể

gợi ý cho bệnh nhân nhắc nhở người nhà kiểm soát việc dùng thuốc cho họ. Một số

bệnh nhân cho rằng khi đến giờ phải uống thuốc mà chưa uống thì trong người có

cảm giác khó chịu và chính điều này nhắc nhở bệnh nhân đi uống thuốc. Những ghi

nhận này giúp dược sĩ có cái nhìn khái quát về đối tượng mình tư vấn để có đưa ra

thông tin phù hợp nhất với bệnh nhân.

Cách xử trí khi bệnh nhân quên dùng thuốc là nội dung dược sĩ nên giải thích

rõ ràng trước khi bệnh nhân rời khỏi phòng tư vấn [6]. Một nghiên cứu của Ascione

đã phỏng vấn 187 bệnh nhân dùng thuốc tim mạch cho thấy bệnh nhân nhận thức

nhiều nhất về chế độ và mục tiêu điều trị của thuốc, cách xử trí khi quên thuốc được

nhận thức với tỷ lệ ít hơn [4]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, 25,0% bệnh nhân

khi quên thuốc bỏ qua liều đó và chờ đến liều sau uống tiếp, 11,0% bệnh nhân uống

ngay khi nhớ ra, không có bệnh nhân nào khi quên thuốc liên hệ với bác sĩ kê đơn.

Bệnh nhân có thể không nhớ hết được những thông tin được tư vấn về cách sử dụng

thuốc, khi đó có thể liên hệ với bác sĩ để hỏi lại. Nghiên cứu này cho thấy khi quên

thuốc bệnh nhân thường tự mình giải quyết theo một hướng hoặc là bỏ qua liều

thuốc đó hoặc uống ngay khi nhớ ra. Ở Việt Nam khi mô hình tư vấn thuốc do dược

47

sĩ đảm nhiệm vẫn chưa phổ biến thì liên hệ với bác sĩ là cách tốt nhất để hỏi rõ

thông tin về thuốc của mình. Tuy nhiên hầu hết bệnh nhân còn có tâm lý e ngại,

hoặc sợ làm phiền, làm mất thời gian của bác sĩ nên có thể không dám hỏi. Như

vậy, bệnh nhân nên được dược sĩ tư vấn kiến thức sâu hơn để xử trí khi quên thuốc

đối với các loại thuốc khác nhau. Dược sĩ khi tư vấn cũng nên nhấn mạnh về chế độ

dùng thuốc tránh trường hợp để bệnh nhân không biết xử trí thế nào khi quên dùng

thuốc.

Thức ăn và đồ uống có thể ảnh hưởng đến dược động học của thuốc, trong

một số trường hợp có thể làm giảm tác dụng hoặc dẫn đến độc tính. Hiểu được mối

liên hệ này dược sĩ có thể tư vấn chọn nước để uống thuốc, chỉ dẫn thời gian uống

hợp lí và dặn dò bệnh nhân tránh những thức ăn, đồ uống có ảnh hưởng nhiều đến

tác dụng và độc tính của thuốc [1]. Nghiên cứu này cho thấy 77,0% bệnh nhân ý

thức tương tác thuốc – nước uống nên luôn uống thuốc với nước lọc, vẫn còn một

số bệnh nhân vẫn dùng nước chè, nước vối, nước linh chi, nước hoa hòe để uống

thuốc. Tỷ lệ này rất nhỏ nhưng dược sĩ cũng nên chú ý trong quá trình tư vấn để

bệnh nhân dùng thuốc đúng cách.

Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy còn tới 25,0% bệnh nhân vẫn uống

các thuốc cùng một lúc trong khi các thuốc được kê có thời điểm dùng khác nhau.

Trong 100 bệnh nhân phỏng vấn, có 34 bệnh nhân mắc từ 2 bệnh trở lên, phải dùng

nhiều thuốc đồng thời để điều trị các bệnh khác nhau trong thời gian dài. Mặt khác,

khi các thuốc được dùng đồng thời có thể dẫn đến nguy cơ gặp tương tác thuốc và

tác dụng không mong muốn [1]. Việc phải dùng nhiều thuốc cùng với sự phức tạp

trong chế độ uống thuốc và thời gian điều trị dài có thể là rào cản tới sự tuân thủ

thuốc của bệnh nhân [24]. Bởi vậy khi tư vấn cho nhóm bệnh nhân này dược sĩ nên

lập cho bệnh nhân lịch uống thuốc thật cụ thể sáng, trưa, chiều và thời điểm uống

trước hay sau bữa ăn, đồng thời phải nhấn mạnh lợi ích của việc tuân thủ thuốc để

bệnh nhân làm theo.

Về cách thức uống thuốc phần lớn bệnh nhân (75,0%) để nguyên viên khi

uống, 13,0% bệnh nhân có bẻ một số thuốc trong khi uống. Nhóm nghiên cứu đã

48

ghi nhận một số lí do hợp lí bệnh nhân đưa ra cho việc bẻ thuốc này như để chia

liều nhỏ hơn đơn vị viên hoặc chỉ bẻ những viên có gạch ở giữa. Ngoài ra có một số

lí do khác ghi nhận được như bẻ Mobic (hoạt chất Meloxicam), các thuốc giảm đau

để giảm tác dụng không mong muốn trên dạ dày. Nghiên cứu cũng ghi nhận được

7,0% bệnh nhân có nhai một số thuốc với một số lí do ghi nhận như: “thuốc antacid

thì phải nhai” hay “phải nhai viên to để giảm đau dạ dày”. Có 2,0% bệnh nhân

nghiền thuốc với lí do đưa ra nghiền Medrol (hoạt chất Methylprednisolon) để giảm

tác dụng phụ trên dạ dày. Như vậy có thể thấy bệnh nhân thường quan tâm và lo

lắng đến tác dụng phụ trên dạ dày nhưng lại có cách xử trí chưa hợp lí để giảm tác

dụng phụ này hoặc có thể có những suy nghĩ sai lầm. Các dạng bào chế của thuốc

dù có tốt đến đâu nhưng nếu không được sử dụng đúng cách cũng không phát huy

được tác dụng điều trị. Lĩnh vực này là một trong những thế mạnh của dược sĩ với

vai trò là chuyên gia về thuốc [1].Trong quá trình tư vấn dược sĩ phải xác định được

bệnh nhân biết về bệnh hoặc về thuốc đến đâu, họ có bất kì sự hiểu sai nào về thuốc

và bệnh không [24]. Dược sĩ nên nắm bắt được thói quen uống thuốc của bệnh nhân

hoặc một số vấn đề mà bệnh nhân gặp phải trong quá trình uống thuốc, ví dụ như

gặp khó khăn trong việc nuốt để từ đó có cách xử trí thích hợp.

Về việc tìm hiểu thông tin thuốc, 92,0% bệnh nhân có tìm hiểu tờ hướng dẫn

sử dụng thuốc. Bệnh nhân trong nghiên cứu phần lớn là cán bộ về hưu, họ ý thức tốt

việc tự tìm hiểu thông tin và kiểm soát bệnh của mình. Một nghiên cứu ở Mỹ cho

rằng hầu hết bệnh nhân muốn nhận cả thông tin nói và thông tin viết, thông tin viết

sẽ hỗ trợ cho thông tin nói [16]. Ở nhiều nước, tờ thông tin dành cho bệnh nhân

thường có sẵn để đảm bảo bệnh nhân tiếp cận được thông tin viết. Nhưng tờ thông

tin này thường không đạt tiêu chuẩn giúp ích và dễ hiểu cho bệnh nhân (Federal

Register 1998, trích dẫn trong [32]). Ở Việt Nam, mỗi sản phẩm thuốc chỉ có một tờ

hướng dẫn sử dụng thuốc chung cho cán bộ y tế và bệnh nhân. Mặt khác, tờ thông

tin này chưa ngắn gọn, có thể gây khó hiểu cho bệnh nhân với nhiều thuật ngữ

chuyên môn. Hơn nữa, những bệnh nhân chỉ được nhận thuốc ra lẻ sẽ không có cơ

hội nhận tờ hướng dẫn sử dụng thuốc. Vì vậy, dược sĩ nên soạn những tờ thông tin

49

ngắn gọn của từng thuốc để trong khi tư vấn nếu bệnh nhân cần có thể phát cho

bệnh nhân để họ tìm hiểu thêm về thuốc. Tờ thông tin này giúp ích cho bệnh nhân

tra cứu lại khi quên bất kì thông thông tin nào về thuốc. Nếu có thể, dược sĩ nên

soạn tờ thông tin này riêng cho từng đối tượng. Ví dụ, đối với tờ thông tin dành cho

bệnh nhân nam không cần các thông tin liên quan đến thận trọng cho phụ nữ có thai

hay cho con bú…Việc soạn thông tin cụ thể cho từng đối tượng sẽ giúp bệnh nhân

dễ theo dõi, dễ nhớ và tập trung hơn vào thông tin mình cần quan tâm.

Các nguồn thông tin từ nhân viên y tế mà bệnh nhân tìm hiểu chủ yếu là từ

bác sĩ (50%), nguồn thông tin từ dược sĩ chiếm tỷ lệ nhỏ (5%). Kết quả này cho

thấy hoạt động tư vấn sử dụng thuốc ở bệnh viện từ trước thường do bác sĩ đảm

nhiệm. Dược sĩ vẫn đảm nhiệm vai trò truyền thống là chuẩn bị và cấp phát thuốc

theo hướng dẫn của bác sĩ [15]. Một nghiên cứu ở Israel, cho biết theo đánh giá của

bệnh nhân, chất lượng của các cuộc tư vấn đạt mức trên trung bình cho 75,0% cuộc

tư vấn do bác sĩ kê đơn và 63,0% do dược sĩ [28]. Theo một nghiên cứu tại bang

Ohio – Mỹ của Schomer, nhiều bệnh nhân chưa nhận thức được vai trò của dược sĩ

trong tư vấn bệnh nhân, họ thường nghĩ công việc của dược sĩ đơn thuần là cấp phát

thuốc [26]. Đây là thách thức lớn mà các dược sĩ phải đối mặt. Khi thực hiện nhiệm

vụ mới – tư vấn bệnh nhân, dược sĩ phải nâng cao vai trò là chuyên gia về thuốc,

bằng cách cải thiện chất lượng của quá trình tư vấn bệnh nhân, dần tạo sự tin tưởng

trong bệnh nhân.

Nhu cầu tư vấn của bệnh nhân

Nhóm nghiên cứu ghi nhận được 62,0% bệnh nhân có nhu cầu tư vấn, 31,%

bệnh nhân không có nhu cầu tư vấn. Trong số các bệnh nhân không có nhu cầu tư

vấn lí do được đưa ra nhiều nhất là đã được bác sĩ tư vấn. Một số bệnh nhân tin

tưởng bác sĩ có thể cung cấp đầy đủ các thông tin về thuốc và bệnh. Bệnh nhân

chưa ý thức được dược sĩ sẽ hỗ trợ cho bác sĩ, cung cấp cho họ những thông tin liên

quan đến thuốc điều trị. Đặt trong hoàn cảnh hiện tại của Việt Nam, khi mà mô hình

dược sĩ sử dụng thuốc trong bệnh viện mới bắt đầu phát triển tư vấn, thì đây vừa là

50

thử thách, vừa là động lực thúc đẩy các dược sĩ phải học tập, thay đổi cách nhìn,

cách tiếp cận để thực hiện tốt hơn vai trò mới này.

Trong số bệnh nhân có nhu cầu tư vấn thì nhu cầu được tư vấn về bệnh và về

thuốc tương đương nhau, nhu cầu về thuốc tập trung chủ yếu vào tác dụng không

mong muốn của thuốc. Tác dụng không mong muốn ảnh hưởng trực tiếp đến sinh

hoạt và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Ngoài ra, nó là một trong những rào

cản làm giảm sự tuân thủ của bệnh nhân [24]. Vì vậy trong khi tư vấn dược sĩ nên

cho bệnh nhân biết những tác dụng không mong muốn có thể xảy ra, chỉ bệnh nhân

biết cách ngăn ngừa và xử lý kịp thời.

Như vậy việc nắm bắt được nhận thức, thói quen, kĩ năng cũng như nhu cầu

tư vấn của bệnh nhân sẽ giúp dược sĩ định hướng việc đưa ra thông tin phù hợp nhất

với từng bệnh nhân.

4.2 Tình hình tư vấn sử dụng thuốc tại phòng tư vấn

Hoạt động tư vấn sử dụng thuốc của dược sĩ

Nhóm nghiên cứu đã ghi nhận được thời gian của 49 cuộc tư vấn do 5 dược

sĩ tư vấn. Trong đó thời gian trung bình cho 1 cuộc tư vấn là 4,8 phút (độ lệch

chuẩn 2,4 phút). Theo một nghiên cứu của Young, các dược sĩ ở Bắc Mĩ tương tác

với khoảng một nửa bệnh nhân có đơn mới trong một phút hoặc ít hơn [33]. Điều

cần lưu ý là nghiên cứu này tiến hành vào năm 1996 và khảo sát hoạt động tư vấn

bắt đầu từ những năm 1960 – 1970, khi mà công tác tư vấn của các dược sĩ Bắc Mĩ

mới manh nha xuất hiện. Như vậy, các dược sĩ ở Bệnh viện Bạch Mai dành nhiều

thời gian để tương tác với bệnh nhân hơn so với kết quả theo nghiên cứu của Young

năm 1996. Tuy nhiên thời gian giữa các cuộc tư vấn dao động nhiều, dài nhất lên

đến 7 phút và ngắn nhất là 3 phút. Sự dao động này có thể giải thích do: sức ép thời

gian từ phía bệnh nhân và việc chưa có một quy trình thực hiện thống nhất nên các

dược sĩ chưa kiểm soát được thời gian của mỗi cuộc tư vấn. Vì vậy, các dược sĩ nên

dựa vào hoàn cảnh tư vấn của từng đối tượng bao gồm bệnh nhân mới, bệnh nhân

khám lại, đơn mới, đơn kê lại để xây dựng quy trình tư vấn và phân bố thời gian

51

hợp lý. Đối với những bệnh nhân mới hoặc có đơn mới thì dành nhiều thời gian để

tư vấn hơn.

Nghiên cứu ghi nhận được một số nội dung dược sĩ đã thực hiện trong quá

trình tư vấn, đầy đủ nhất là chào hỏi (100%) và lưu thông tin tư vấn (100%). Việc

lưu thông tin tư vấn giúp các dược sĩ theo dõi được số bệnh nhân vào tư vấn hàng

ngày, đồng thời khi có bất kì vấn đề gì liên quan đến đơn thuốc có thể liên hệ với

bác sĩ kê đơn để thảo luận. Tuy nhiên việc lưu thông tin mới chỉ dừng ở mức ghi lại

thông tin của bệnh nhân, thuốc tư vấn, chưa lưu lại những câu hỏi của bệnh nhân,

câu trả lời của dược sĩ để có thể tập hợp thành nguồn thông tin tra nhanh khi gặp

tình huống tương tự. Khó khăn mà các dược sĩ ở bệnh viện Bạch Mai gặp phải là:

dược sĩ vừa phải tra cứu thông tin, vừa tư vấn, vừa lưu thông tin. Ở bệnh viện Bạch

Mai đã có hệ thống kê đơn điện tử, nếu có thể phòng tư vấn xin trang bị hệ thống

nối mạng với hệ thống kê đơn, để khi bệnh nhân vào tư vấn dược sĩ chỉ cần lưu lại

mã số đơn và những câu hỏi liên quan của bệnh nhân.

Tra cứu thông tin thuốc và xem xét tính hợp lí của đơn được thực hiện với tỷ

lệ 82,0%. Các dược sĩ đã soạn danh mục thuốc đặc biệt cần tư vấn làm tài liệu tra

cứu nhanh trong quá trình tư vấn. Tuy nhiên, các tài liệu về tra cứu tương tác thuốc

phòng tư vấn vẫn còn thiếu, trong khi bệnh nhân đang có xu hướng quan tâm hơn

đến vấn đề này.

Tư vấn tên, chỉ định của thuốc và tư vấn thời điểm dùng thuốc được dược sĩ

thực hiện với tỷ lệ lần lượt là 70,0% và 62,0%. Các nội dung khác như tác dụng

không mong muốn của thuốc, liều dùng, cách sử dụng, tiền sử dùng thuốc cũng

được các dược sĩ chú ý tư vấn với tỷ lệ mỗi nội dung khoảng 40,0%. Như vậy,

những nội dung dược sĩ thực hiện đáp ứng phần nhận thức còn thiếu của bệnh nhân:

tên thuốc để nhận biết, thời điểm uống các thuốc khác nhau, cách sử dụng các dạng

bào chế đặc biệt. Tuy nhiên cách xử trí khi quên thuốc là nội dung bệnh nhân chưa

có nhiều kiến thức vẫn chưa được dược sĩ chú ý tư vấn. Theo một nghiên cứu của

McMahon và cộng sự tiến hành trên một bệnh viện giảng dạy (không ghi rõ tên

nước) năm 1987, 154 bệnh nhân được phỏng vấn cho thấy dược sĩ thường cung cấp

52

thông tin về số lần uống thuốc (68,0%), liều dùng của thuốc (64,0%), cách uống

thuốc (71,0%) [16]. Như vậy nội dung dược sĩ tư vấn phụ thuốc nhiều vào đặc

điểm, nhu cầu của bệnh nhân và đặc điểm của thuốc trong danh mục thuốc cần tư

vấn. Tần suất thực hiện mỗi nội dung có thể là cơ sở để các dược sĩ xem xét đưa ra

một quy trình tư vấn hợp lí.

Tương tác giữa bệnh nhân và dược sĩ trong quá trình tư vấn thể hiện trong 2

phần trước khi tư vấn và trong khi tư vấn. Trước khi tư vấn có 52,0% bệnh nhân

chủ động hỏi dược sĩ câu hỏi cụ thể, trong quá trình tư vấn có 70,0% có tương tác

giữa dược sĩ và bệnh nhân. Nghiên cứu của McMahon năm 1987 đã phỏng vấn 154

bệnh nhân sau khi nhận thuốc và thấy rằng 1/3 bệnh nhân có hỏi các câu hỏi liên

quan đến thuốc [16]. Bệnh nhân trong nghiên cứu ở Bạch Mai đã chủ động hỏi, và

chủ động tương tác với dược sĩ, bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình. Qua đó dược sĩ

có thể có thể nắm bắt được nhận thức, nhu cầu của bệnh nhân để có cách tư vấn hợp

lí.

Mô hình tư vấn bệnh nhân của dược sĩ ở Bệnh viện Bạch Mai đã bước đầu

tiếp cận tới phương pháp đồng thuận trong tư vấn bệnh nhân. Các dược sĩ không chỉ

cung cấp thông tin một chiều, ở đây đã có thời gian tương tác, thảo luận giữa dược

sĩ và bệnh nhân, qua đó dược sĩ có thể nắm bắt được nhu cầu và nhận thức của bệnh

nhân, tuy nhiên người đưa ra quyết định cho bệnh nhân vẫn là dược sĩ. Mô hình này

tương ứng với mô hình tư vấn sức khỏe hai chiều theo Kansanaho, hay tương ứng

với giai đoạn đối thoại theo USP. Theo một nghiên cứu được tiến hành trên 506

dược sĩ cộng đồng tại bang Ohio, Mĩ của Kirking năm 1982, các cuộc tư vấn do

dược sĩ thực hiện thường ngắn, dược sĩ là người chủ động hỏi và đưa thông tin một

chiều tới bệnh nhân [12]. Nghiên cứu này được tiến hành năm 1982 khi vấn đề tư

vấn bắt đầu được quan tâm gần giống tình hình tư vấn ở bệnh viện Bạch Mai. Như

vậy muốn tiến đến mô hình tư vấn khuyến khích hay cách tiếp cận đồng thuận trong

tư vấn bệnh nhân cần thời gian tư vấn dài hơn. Với số lượng bệnh nhân lĩnh thuốc

trong ngày rất đông, nhân lực của phòng tư vấn hạn chế, thì đây là một khó khăn

lớn cho các dược sĩ ở Bệnh viện Bạch Mai. Vấn đề này có thể được giải quyết nếu

53

dược sĩ của phòng tư vấn liên hệ với các câu lạc bộ của bệnh nhân điều trị bệnh mãn

tính, kết hợp để giáo dục trang bị kiến thức cho bệnh nhân để giúp họ có thể hiểu và

tự đưa ra quyết định lựa chọn trong các cuộc tư vấn.

Mức độ đáp ứng của dược sĩ đối với việc tư vấn

Trong thời gian thực hiện nghiên cứu, số bệnh nhân lĩnh thuốc trong một

ngày có giá trị trung vị là 736, thời gian lĩnh thuốc là 8 giờ, trong khi số bệnh nhân

vào tư vấn có giá trị trung vị là 9, thời gian phòng tư vấn mở cửa có trung vị 2,75

giờ. Như vậy nếu áp dụng tỷ lệ bệnh nhân muốn được tư vấn của nghiên cứu này là

62%, thì số lượng bệnh nhân vào tư vấn trung bình một ngày là vào khoảng 456

bệnh nhân. Nếu muốn tư vấn cho 456 bệnh nhân một ngày thì dược sĩ phải đảm

nhận một khối lượng công việc lớn đòi hỏi phòng tư vấn phải có thêm nhân lực,

công việc tư vấn phải được coi như công việc chính của dược sĩ. Thực tế ở bệnh

viện Bạch Mai, bệnh nhân sau khi lĩnh thuốc ít được dặn dò sang phòng tư vấn

thuốc, trong khi phòng tư vấn đặt ở vị trí bệnh nhân ít để ý đến, do đó số bệnh nhân

vào tư vấn ít hơn so với số bệnh nhân có nhu cầu. Như vậy các hoạt động thúc đẩy

hỗ trợ việc thực hành tư vấn chưa đẩy mạnh nên phòng tư vấn vẫn chưa giải quyết

được hết nhu cầu tư vấn của bệnh nhân. Đối với vấn đề này, các nhân viên phòng

cấp phát thuốc BHYT có thể hỗ trợ bằng cách khi nhận đơn sẽ phân loại đơn mới,

đơn mắc bệnh mãn tính, từ đó định hướng giới thiệu bệnh nhân có thể sang phòng

tư vấn. Việc này vừa giúp bệnh nhân biết đến mô hình tư vấn vừa hỗ trợ hoạt động

tư vấn của các dược sĩ tại bệnh viện Bạch Mai.

Số bệnh nhân vào tư vấn phụ thuộc nhiều vào nhận thức, nhu cầu, thói quen

và niềm tin của bệnh nhân, tuy nhiên thời gian làm việc của phòng tư vấn cũng là

một yếu tố cần lưu ý. Tỷ lệ thời gian phòng tư vấn mở cửa so với thời gian bệnh

nhân lĩnh thuốc trong một ngày rất thấp (trung bình 0,4). Giờ mở cửa của phòng tư

vấn ít hơn giờ lĩnh thuốc và không cố định không tạo cho bệnh nhân thói quen vào

tư vấn sau khi lĩnh thuốc. Tư vấn chưa được coi là công việc chính của dược sĩ,

dược sĩ kiêm nhiệm công việc tư vấn bên cạnh các công việc chính khác như: cấp

phát, duyệt đơn nội trú. Điều này cho thấy chính các dược sĩ chưa được trao cơ hội

54

để nhìn nhận tư vấn là vai trò chính của mình. Có thể đây cũng là một thách thức

lớn trong công tác tư vấn ở Bệnh viện Bạch Mai.

Xét về dao động số bệnh nhân vào tư vấn nghiên cứu cho thấy, từ cuối tháng

3 đến hai tuần đầu tháng 4 số bệnh nhân vào tư vấn giảm dần, sự giảm có liên quan

đến thời gian phòng tư vấn mở cửa không cố định và thời điểm đầu tháng 4. Khi

thời gian phòng tư vấn làm việc không cố định sẽ tạo cho bệnh nhân tâm lí không

tin tưởng và có thể không muốn vào tư vấn. Theo khảo sát có những ngày thời gian

phòng tư vấn mở cửa là 2,5 giờ nhưng cũng chỉ có 2 bệnh nhân vào tư vấn. Điều

này cho thấy vẫn có những thời gian dược sĩ ngồi ở phòng tư vấn nhưng không có

bệnh nhân, điều này có thể tạo cho dược sĩ tâm lí không hài lòng với công việc

mình đang làm và ảnh hưởng đến chất lượng tư vấn.

4.3 Mức độ hài lòng của bệnh nhân sau khi được tư vấn

Sau tư vấn có 82,0% bệnh nhân hài lòng với việc tư vấn, 98,0% bệnh nhân

cho rằng họ tin tưởng và làm theo những gì được tư vấn. Lí do cho việc hài lòng ghi

nhận được chủ yếu là bệnh nhân thấy hiểu về thuốc, nhớ cách dùng, các dược sĩ tư

vấn tận tình thoải mái tạo cho bệnh nhân cảm giác an tâm. Qua khảo sát bệnh nhân

có thể thấy trong quá trình tư vấn các dược sĩ đã dần tạo được sự tin tưởng của bệnh

nhân và cho họ nhận thức được tầm quan trọng của việc tư vấn. Do đó có đến

76,0% bệnh nhân muốn lần sau vào tư vấn tiếp, 14,0% bệnh nhân muốn tư vấn khi

có thắc mắc. Như vậy, nghiên cứu mới chỉ đánh giá được mức độ hài lòng và lợi ích

của việc tư vấn bệnh nhân thông qua nhận thức của bệnh nhân. Mục tiêu và lợi ích

thực sự của tư vấn bệnh nhân phải được đánh giá thông qua hiệu quả điều trị và việc

tuân thủ của bệnh nhân. Như vậy, cần thêm nghiên cứu sâu hơn đánh giá hiệu quả

của quá trình tư vấn thông qua cả lợi ích và nhận thức của bệnh nhân.

4.4 Một số khó khăn và hạn chế khi thực hiện nghiên cứu

Khi thực hiện phỏng vấn bệnh nhân chờ lĩnh thuốc trước khi vào phòng tư vấn,

nhóm nghiên cứu gặp một số khó khăn. Bệnh nhân xếp hàng lĩnh thuốc rất đông

trong khi ghế ngồi chờ lại có hạn nên khó tiếp cận bệnh nhân và chọn không gian

phù hợp để phỏng vấn. Thời gian ngồi chờ lĩnh thuốc ngắn, không gian ồn ào, bệnh

55

nhân lại muốn tập trung nghe tên mình để lên lĩnh thuốc nên một số cuộc phỏng vấn

bị đứt đoạn và không lấy đủ thông tin. Thêm vào đó tâm lí một số bệnh nhân lĩnh

thuốc xong muốn về ngay nên không nhiệt tình với cuộc phỏng vấn, trả lời không

đầy đủ.

Đối với việc ghi nhận hoạt động tư vấn sử dụng thuốc và phỏng vấn bệnh nhân

sau tư vấn khó khăn chủ yếu là nhóm nghiên cứu không chủ động được thời gian.

Các dược sĩ kiêm nhiệm công tác tư vấn bên cạnh các công việc chính khác nên

chưa chủ động thời gian hoạt động, thời gian phòng tư vấn mở cửa không cố định,

số lượng bệnh nhân vào tư vấn rời rạc và ít nên mất khá nhiều thời gian nhóm mới

lấy đủ mẫu. Do bước đầu triển khai thực hiện nên phòng tư vấn vẫn chưa có quy

trình tư vấn thống nhất, do đó việc ghi nhận hoạt động tư vấn sử dụng thuốc phải

thực hiện theo quy trình tư vấn sử dụng thuốc theo hướng dẫn tư vấn thuốc của USP

[34].

Ngoài ra nghiên cứu sử dụng phương pháp lấy mẫu thuận tiện nên số liệu chưa

phản ánh toàn diện thực tế. Việc đánh giá hiệu quả của quá trình tư vấn mới chỉ

dừng lại ở mức độ hài lòng của bệnh nhân mà chưa khảo sát sự thay đổi nhận thức,

hành vi của bệnh nhân sau tư vấn.

56

CHƯƠNG V: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT

5.1 Kết luận

Nhóm nghiên cứu đã phỏng vấn 100 bệnh nhân chờ lĩnh thuốc trước khi vào

phòng tư vấn để tìm hiểu nhận thức và nhu cầu tư vấn của bệnh nhân. Phần lớn

bệnh nhân dùng cách đối chiếu với tên thuốc trong đơn để phân biệt các loại thuốc

(82,0%), một số khác dựa vào sự khác nhau giữa màu của hộp, vỉ thuốc để phân biệt

(9,0%). Đơn thuốc là tài liệu được đa số bệnh nhân dùng để nhớ giờ uống thuốc.

Nhóm nghiên cứu cũng ghi nhận được một số cách xử trí khi bệnh nhân bị quên

thuốc, trong đó 25,0% bệnh nhân bỏ qua liều đó chờ đến liều sau mới uống, 11,0%

bệnh nhân uống ngay khi nhớ ra. Khi được kê các thuốc phải uống ở các thời điểm

khác nhau, phần lớn bệnh nhân nhận thức và uống theo từng thời điểm của thuốc

(50,0%), tuy nhiên vẫn còn 21,0% bệnh nhân vẫn uống thuốc cùng một thời điểm.

Theo nghiên cứu, 77,0% bệnh nhân nhận thức được và uống thuốc với nước lọc,

vẫn còn một số lượng nhỏ bệnh nhân uống thuốc với các nước khác như: nước chè,

nước vối, nước hoa quả, nước actiso. 75,0% bệnh nhân khi uống thuốc để nguyên cả

viên, 13,0% bệnh nhân có bẻ thuốc khi uống.

Về việc tìm hiểu thông tin, tờ hướng dẫn sử dụng thuốc được phần lớn bệnh

nhân đọc để biết thêm thông tin về thuốc (92,0%). Tuy nhiên tờ hướng dẫn sử dụng

thuốc ở Việt Nam vẫn chưa ngắn gọn dễ hiểu cho bệnh nhân và không phải lúc nào

bệnh nhân cũng được nhận tờ hướng dẫn sử dụng thuốc. Các nguồn thông tin từ cán

bộ y tế, bệnh nhân nhận chủ yếu từ bác sĩ (50,0%), từ dược sĩ rất nhỏ (5,0%)

Trong nghiên cứu này, phần lớn bệnh nhân có nhu cầu tư vấn (62,0%), nhu

cầu tư vấn về thuốc và về bệnh tương đương nhau. Trong các bệnh nhân có nhu cầu

tư vấn, xu hướng chiếm ưu thế là nhu cầu tư vấn về bệnh (41,9%), về tác dụng

không mong muốn (19,4%), về lối sống (16,1%). Đối với các bệnh nhân không có

nhu cầu tư vấn, lí do được ghi nhận nhiều nhất là bệnh nhân đã được bác sĩ tư vấn

(45,2%).

Trong 50 cuộc tư vấn nhóm nghiên cứu ghi nhận được, phần lớn các dược sĩ

tư vấn đầy đủ các thuốc trong đơn (58,0%), trong đó nội dung được thực hiện đầy

57

đủ nhất là chào hỏi (100%), lưu thông tin tư vấn (100%), tra cứu thông tin thuốc

(82,0%), tư vấn tên và chỉ định thuốc (70,0%), tư vấn thời điểm dùng thuốc

(62,0%). Các nội dung dược sĩ thực hiện trong quá trình tư vấn phụ thuộc phần lớn

vào đặc điểm, nhu cầu của bệnh nhân. Trong 50 cuộc tư vấn, phần lớn đã có thảo

luận tương tác giữa dược sĩ và bệnh nhân (70,0%).

Trong thời gian nghiên cứu, số lượng bệnh nhân vào tư vấn dao động không

theo quy luật và có xu hướng giảm theo thời gian. Hai yếu tố được tìm hiểu liên

quan đến vấn đề này là thời gian phòng tư vấn mở cửa không cố định và thời điểm 2

tuần đầu tháng 4. Số lượng bệnh nhân vào tư vấn (trung vị: 9 bệnh nhân) so với

tổng số bệnh nhân lĩnh thuốc (trung vị 736 bệnh nhân) là rất nhỏ.

Nhóm nghiên cứu đã phỏng vấn 50 bệnh nhân sau khi ra khỏi phòng tư vấn về

mức độ hài lòng. Phần lớn bệnh nhân hài lòng với những gì được tư vấn (82,0%).

Sau khi được tư vấn, bệnh nhân đều tin tưởng và làm theo những gì được tư vấn

(98,0%). Như vậy các dược sĩ đã tạo được sự tin tưởng của bệnh nhân và đáp ứng

được phần nào nhu cầu của bệnh nhân. Vì vậy có tới 76,0% bệnh nhân muốn tư vấn

tiếp lần sau, 14,0% bệnh nhân nếu có thắc mắc sẽ vào nhờ dược sĩ tư vấn.

5.2 Đề xuất

Từ kết quả của nghiên cứu nhóm nghiên cứu xin đưa ra một số đề xuất sau :

❖ Các dược sĩ nhanh chóng hoàn thiện quy trình tư vấn và đưa vào hoạt động

để thống nhất về nội dung tư vấn và phù hợp với nhu cầu tư vấn của bệnh

nhân.

❖ Dược sĩ nên xác định đối tượng bệnh nhân ưu tiên và các nhóm thuốc ưu tiên

để xây dựng quy trình riêng và phù hợp.

❖ Song song với việc tiếp tục xây dựng mô hình tư vấn, cần thực hiện tiếp các

nghiên cứu để đánh giá hiệu quả thực tế của hoạt động tư vấn lên sự thay đổi

nhận thức và hành vi của bệnh nhân.

❖ Soạn thảo tờ thông tin về các thuốc ngắn gọn, dễ hiểu cho bệnh nhân để có

thể đưa cho bệnh nhân khi họ có nhu cầu.

❖ Cố định nhân lực và giờ mở cửa phòng tư vấn.

58

59

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Bộ Y tế (2006), Dược lâm sàng, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, pp. 153-160.

2. Cục Quản lý Dược (2013), Dự thảo 02 ngày 03/05/2013: Luật sửa đổi bổ sung

một số điều của Luật Dược. pp. 8.

3. Hoàng Thị Kim Huyền (2011), Chăm sóc dược, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội,

pp. 32-43.

Tiếng Anh

4. Ascione F. J., Kirscht J. P., Shimp L. A. (1986), "An assessment of different

components of patient medication knowledge", Medical Care, 24(11), pp.

1018-1028.

5. Aslanpour Z., Smith F.J. (1997), "Oral counselling on dispensed medicaton: a

survey of its extent and associated factors in a random sample of community

pharmacies", International Journal of Pharmacy Practice, 5(2), pp. 57-63.

6. Berger B.A. (2009), Communication skills for pharmacists, Washington, D.C

:American Pharmacists Association, Washington, D.C, pp. 59-73.

7. Cockburn J., Gibberd R., Reid A, etal (1987), "Determinants of non-

compliance with short term antibiotic regimens", British Medical Journal, 295,

pp. 814-818.

8. Conrad P. (1985), "The meaning of medication : Another look at compliance",

Social Science & Medicine, 20(1), pp. 29-37.

9. Helper C., Strand L., Guerrero R., Nickman N. et al (1990), "Opportunities and

responsibilities in pharmaceutical care ", American Journal of Hospital

Pharmacy, pp. 533-534.

10. Kansanaho H. (2006), Implementation of the principles of patient counselling

into practice in Finnish community pharmacies, University of Helsinki, pp. 19-

38.

11. Kessler D.A. (1992), "A challenge for American pharmacists", American

Pharmacy, NS32(1), pp. 33-36.

12. Kirking D.M. (1982), "Pharmacists’ perceptions of their counselling activities",

Contemp Pharmacy Practice 5, pp. 230–238.

13. Knowles M.S. (1980), "What is andragogy?", The modern practice of adult

education : from pedagogy to andragogy, Wilton, Conn. : Association Press,

pp. 40-62.

14. Krumboltz J.D., Thoresen C.E. (1976), Counseling methods, New York : Holt,

Rinehart and Winston, pp. 1-25.

15. Lewis R.K., Lasack N.L., Lambert B.L., Connor S.E. (1997), "Patient

counseling--a focus on maintenance therapy", American Journal of Health-

System Pharmacy, 54(18), pp. 2084-2098.

16. McMahon T., Clark C.M., Bailie G.R. (1987), "Who provides patients with

drug information?", British Medical Journal 294(6568), pp. 355-356.

17. Mezirow J. (1991), Transformative dimensions of adult learning, Jossey-Bass,

San Fransisco, pp. 198-234.

18. Morrow D., Leirer V., Altieri P., Tanke E. (1991), "Elders' schema for taking

medication: implications for instruction design", Journal of Gerontology,

46(6), pp. 378-385.

19. Palaian S., Prabhu M., Shankar P. R. (2006), "Patient counseling by pharmacist

- a focus on chronic illness", Pakistan journal of pharmaceutical sciences,

19(1), pp. 65-72.

20. Peter J. (1992), "Reflective practice and nursing ", Nurse Education Today,

12, pp. 174-181.

21. Pharmacists American society of Health – System, ASHP guidelines on

pharmacist-conducted patient education and counseling, in Am J Health Syst

Pharm. 1997. p. 431-434.

22. Prince Edward Island Pharmacy Board (Canada), Guidlines on counseling

2005. p. 1-4.

23. Puumalainen I. (2005), Development of Instruments to Measure the Quality of

Patient Counselling University of Kuopio

24. Rantucci M.J. (2007), Pharmacists Talking With Patients: A Guide to Patient

Counseling, Philadelphia : Lippincott Williams & Wilkins, pp. 1-99.

25. Raynor D., Nicolson M., Nunney J., Petty D., Vail A., Davies L. (2000), " The

development and evaluation of an extended adherence support program by

community pharmacists for elderly patients at home", International Journal of

Pharmacy Practice 8, pp. 157–164.

26. Schomer J.C. (1997), "Patient's expectation and knowledge of patient

counseling services that are available from pharmacists", Am J Pharm Ed, 61,

pp. 402-406.

27. Schommer J., Wiederholt J. (1994), "Pharmacists’ perceptions of patients’

needs for counselling", American Journal of Hospital Pharmacy, 51(4), pp.

478–485.

28. Shani S., Morginstin T., Hoffman A. (2000), "Patients' perceptions of drug

therapy counseling in Israel", The Israel Medical Association journal, 2(6), pp.

438-41.

29. Stewart M. (1995), "Effective physician-patient communication and health

outcomes: a review", Canadian Medical Association journal, 152(9), pp. 1423-

33.

30. Svarstad B.L., Bultman D.C., Mount J.K. (2004), "Patient counseling provided

in community pharmacies: effects of state regulation, pharmacist age, and

busyness", Journal of the American Pharmacists Association, 44(1), pp. 22-9.

31. World Health Organisation (2003), " Towards the solution", Adherence to

long-term therapies: evidence for action, pp. 27-30.

32. Wuliji T., Airaksinen M. (2005), Counseling and concordance,

communication. Innovative for education pharmacist, New York, NY :

Springer, pp. 6-29.

33. Young M.D. (1996), "A review of the research on pharmacists’ patient-

communication views and practices", American Journal of Pharmaceutical

Education 60, 60(1), pp. 60-77.

34. United States of Pharmacopeia, Medication Counselling Behaviour Guidelines.

1997.

PHỤ LỤC I

Phiếu 1

Bộ câu hỏi khảo sát nhu cầu được tư vấn sử dụng thuốc của bệnh nhân

Ngày …../…../…..

1. Tuổi ...................... Giới..............................Nghề nghiệp.............................

 Tăng huyết áp

 Tim mạch

 Hen phế quản

 Viêm khớp dạng thấp

 Đái tháo đường

 Rối loạn Lipid máu

 Khác :………………………….

2. Bác đi khám bệnh gì?

3. Bác đi khám lần đầu hay khám lại?

 Lần đầu  Khám lại

4. Bác có đi khám theo chương trình điều trị nào không? ( Nếu có) Là chương

 Có……………………………………………………………………

 Không

trình nào?

 Dựa vào màu của từng loại hộp, vỉ

 Dùng giấy dán kí hiệu cho từng loại thuốc

5. Khi uống thuốc làm thế nào bác phân biệt được các loại thuốc khác nhau?

 Đối chiếu với tên thuốc trong đơn

 Nhờ con ,cháu chỉ giúp

 Khác……………………

 Hỏi con, cháu

 Giấy nhớ dán tường

 Dùng lâu nên nhớ

 Chia thuốc vào 3 túi riêng sáng, trưa, chiều dễ nhớ.

6. Làm thế nào bác nhớ được giờ uống các thuốc trong đơn?

 Khác……………

 Dựa vào đơn thuốc

7. Khi quên uống thuốc bác thường làm gì?

 Bỏ qua liều đó, đến liều sau uống

 Liên hệ với bác sĩ kê đơn

 Không quên

bình thường

 Uống ngay khi nhớ ra.

 Liều sau uống gấp đôi

 Chưa uống thuốc bao giờ

8. Bác có bao giờ đọc tờ hướng dẫn sử dụng thuốc không? Bác thường đọc phần

 Có ……………………………………………………………

 Không

 Nhờ con cháu đọc hộ

nào trong đó?

 Đã từng ( trả lời tiếp câu 10)  Chưa ( chuyển sang câu 11)

9. Bác đã bao giờ được ngồi nghe hướng dẫn ( tư vấn) sử dụng thuốc chưa?

 Bác sĩ

 Dược sĩ

 Chuyên gia của những CLB, buổi phổ biến kiến thức về

10. Bác biết những thông tin về thuốc (bệnh) từ nguồn nào?

 Sách, báo , tạp chí, ti vi

 Khác…………………………………………………….

bệnh..................................................................................

 Có ( chuyển sang câu 13)

 Không ( trả lời tiếp câu 12)

11. Bác có muốn được tư vấn thêm cách sử dụng các thuốc trong đơn không?

12. Tại sao bác không muốn được tư vấn (hướng dẫn) cách sử dụng thuốc ?

 Không có thời gian

 Đã dùng nhiều lần nên biết cách sử dụng

 Sợ mất tiền

 Đã có kiến thức từ sách báo, ti vi, sinh

 Khác…………………

 Đã được bác sĩ tư vấn đầy đủ

hoạt CLB

13. Nếu được tư vấn bác muốn nghe hay muốn được tư vấn về vấn đề gì?

 Liều dùng Thời điểm dùng thuốc

 Cách dùng, dạng bào chế Tác dụng phụ

 Lối sống  Bệnh lý

 Thuốc dùng kèm- TPCN  Tác dụng của thuốc

 Khác…………………….

 Uống cùng 1 thời điểm

 Uống theo chỉ dẫn trong đơn

 Khác :………………………………………………………….

14. Khi được kê nhiều thuốc vào cùng một buổi, bác uống như thế nào?

 Nước lọc

 Nước hoa quả

 Sữa

 Nước chè, nước vối

 Khác………………

15. Bác thường uống thuốc với nước gì?

16. Khi uống thuốc bác thường uống nguyên viên hay nhai hoặc nghiền thuốc? Tại

 Uống nguyên viên…………………………………………..

 Nhai…………………………………………………………

 Nghiền………………………………………………………

 Bẻ thuốc……………………………………………………..

sao bác lại làm như vậy?

PHỤ LỤC II

Phiếu 2: Thu thập thông tin hành chính

Số bệnh Số bệnh Thời gian tư vấn Thời gian lĩnh thuốc

Ngày nhân tư nhân lĩnh Sáng Chiều Sáng Chiều vấn thuốc

PHỤ LỤC III

Phiếu 3: Hoạt động tư vấn sử dụng thuốc

Ngày …../…../…… DS:……………………… Khoa…………………

1. Mã số đơn:……………………

2. Tuổi:…………………………. Giới :………………..

3. Bệnh:…………………………………

4. Số thuốc trong đơn:……………..

5. Thời gian tư vấn :………………..

6. Nội dung tư vấn : Các nội dung dược sĩ đã thực hiện.

a) Tiếp nhận bệnh nhân:

 Chào hỏi

 Giới thiệu tên DS

 Giải thích mục đích của việc tư vấn

 Tra cứu thông tin xem xét tính hợp lí của đơn thuốc

b) Ghi nhận thông tin cơ bản liên quan đến việc dùng thuốc:

Tiền sử dùng thuốc , tiền sử dị ứng

Bệnh mắc kèm khác không được ghi trong đơn

Hiện tại có vấn đề sức khỏe đặc biệt không?

Hiện có đang sử dụng thuốc gì không ( OTC, thực phẩm chức năng)

Bác sĩ đã hướng dẫn thuốc điều trị bệnh gì và cách sử dụng chưa?

c) Tư vấn :

Tên , chỉ định của thuốc

Chế độ liều

Thời điểm uống thuốc

Độ dài đợt điều trị

 Cách sử dụng ( đặc biệt thuốc có dạng bào chế và cách dùng đặc biệt)

Tác dụng phụ và cách khắc phục tác dụng phụ

Giải thích cách khắc phục khi bệnh nhân trót quên thuốc

Giải thích về tương tác T-T, T-Thức ăn ( nếu có)

Tư vấn việc cần làm sau khi hết đơn

Hướng dẫn cách bảo quản

d) Kết thúc tư vấn

Đối với những thuốc có dạng dùng đặc biệt => yêu cầu BN thao tác lại

Kiểm tra BN đã nắm được thông tin chưa?

Hỏi BN còn câu hỏi gì nữa không?

Lưu thông tin của BN và quá trình tư vấn vào sổ tư vấn.

7. Dược sĩ có tư vấn đầy đủ các thuốc trong đơn không?

 Có

 Chỉ tư vấn những thuốc bệnh nhân hỏi

 Chỉ tư vấn những thuốc dược sĩ thấy lưu ý.

8. BN có chủ động hỏi dược sĩ trước khi tư vấn không ?

 Chủ động hỏi câu hỏi cụ thể (trả lời tiếp câu 9)

 Không hỏi gì ( chuyển sang câu 10)

 Chỉ hỏi câu hỏi “tư vấn chung” ( chuyển sang câu 10)

9. Nội dung bệnh nhân hỏi:

 Liều dùng  Cách dùng (dạng bc)

 Tương tác thuốc  Lối sống

 Bệnh lý  Tác dụng của thuốc

 Phản ứng BN đã gặp khi dùng thuốc  Khác……

10. Trong quá trình tư vấn khi dược sĩ đưa thông tin BN có hỏi thêm không?

 Có (trả lời tiếp câu 11)

 Không (chuyển sang câu 12)

11. Nội dung bệnh nhân hỏi:

 Liều dùng  Cách dùng

 Tương tác thuốc  Lối sống

 Tác dụng phụ của thuốc  Bệnh lý

 Khác…………………………  Tác dụng của thuốc

12. Kết thúc tư vấn Dược sĩ hỏi lại BN có nhắc lại những thông tin được tư vấn không?

 Có  Không  Nhắc lại 1 phần

PHỤ LỤC IV

Phiếu 4: Mức độ hài lòng của bệnh nhân sau khi tư vấn

1. Tuổi ...................... Giới..............................Nghề nghiệp.............................

2. Bác đi khám bệnh gì?

 Tăng huyết áp

 Tim mạch

 Hen phế quản

 Viêm khớp dạng thấp

 Đái tháo đường

 Rối loạn Lipid máu

 Khác…………………………

3. Bác đi khám lần đầu hay khám lại?

 Lần đầu  Khám lại

4. Bác có đi khám theo chương trình điều trị nào không? ( Nếu có) Là chương trình

 Có………………………………………………………………

 Không

nào?

5. Bác có hài lòng với những gì được tư vấn không?

 Không  Hài lòng

 Bình thường  Rất hài lòng

6. Bác có tin tưởng và làm theo những gì được tư vấn không?

 Có  Không

 Khác………………………………

7. Nếu lần sau đi khám bác có vào tư vấn tiếp không? Vì sao?

 Có………………………………………………….

 Không……………………………………………...

1.