TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

KHOA NGỮ VĂN

--------  -------

NGUYỄN THỊ THU

SONG TINH BẤT DẠ - DẤU MỐC CỦA SỰ

CHUYỂN ĐỔI TƯ DUY NGHỆ THUẬT

TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI, 2018

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

--------  -------

KHOA NGỮ VĂN

NGUYỄN THỊ THU

SONG TINH BẤT DẠ - DẤU MỐC CỦA SỰ CHUYỂN ĐỔI TƯ DUY NGHỆ THUẬT TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học

TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HẰNG

HÀ NỘI, 2018

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp em xin chân thành cảm ơn các

thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và

rèn luyện tại Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2. Đặc biệt em xin gửi lời cảm

ơn sâu sắc nhất tới TS. Nguyễn Thị Việt Hằng đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn

em thực hiện khóa luận này.

Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2018

Sinh viên

Nguyễn Thị Thu

LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan những nội dung trình bày trong khóa luận là kết quả

nghiên cứu của bản thân dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Việt Hằng.

Kết quả thu được hoàn toàn trung thực và không trùng khớp với các công

trình nghiên cứu khác. Nếu sai sót, em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2018

Sinh viên

Nguyễn Thị Thu

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1

2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 6

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 6

6. Đóng góp của khóa luận ................................................................................ 7

7. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 7

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ........................................................ 8

1.1. Thể loại truyện Nôm trong văn học trung đại Việt Nam ........................... 8

1.1.1. Thuật ngữ - khái niệm ............................................................................. 8

1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển ......................................................... 9

1.2. Tác giả và tác phẩm .................................................................................. 12

1.2.1. Thân thế tác giả ..................................................................................... 12

1.2.2. Tác phẩm ............................................................................................... 14

1.2.3. Tình trạng văn bản ................................................................................ 16

Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 17

Chương 2. SONG TINH BẤT DẠ - DẤU MỐC CỦA BƯỚC CHUYỂN

ĐỔI TỪ PHẠM TRÙ CHỮ “TÂM” SANG CHỮ “THÂN” .................... 18

2.1. Sự chuyển đổi tư duy từ phạm trù chữ “tâm” sang chữ “thân” trong văn

học trung đại Việt Nam ................................................................................... 18

2.2. Sự chuyển đổi tư duy nghệ thuật của Song Tinh Bất Dạ ......................... 26

2.2.1. Thể hiện qua khát vọng tình yêu vượt qua lễ giáo phong kiến ............. 26

2.2.2. Thể hiện qua khát vọng lứa đôi vượt qua các thế lực đen tối ............... 35

Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 40

Chương 3. NHỮNG PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ............................ 41

3.1. Cốt truyện – Kết cấu ................................................................................ 41

3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................. 44

3.3. Ngôn ngữ .................................................................................................. 48

Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 58

KẾT LUẬN .................................................................................................... 59

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 61

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Trong văn học Việt Nam trung đại, truyện Nôm giữ vị trí khá quan trọng

không chỉ bởi số lượng tác phẩm còn lại đến ngày nay mà còn bởi chất lượng

và sức hấp dẫn của nó đối với nhiều thế hệ độc giả. Cùng với thơ Nôm Đường

luật, ngâm khúc, hát nói,... truyện Nôm là một trong những thể loại văn học đặc

biệt đã làm nên bản sắc riêng, diện mạo riêng của văn học trung đại Việt Nam.

Truyện Nôm (hay còn gọi truyện thơ Nôm) là di sản văn hóa tinh thần riêng

của người Việt, được hình thành trên cơ sở văn tự chữ Nôm, sử dụng thể thơ

lục bát của người Việt và thể hiện xu hướng dân tộc hóa, dân chủ hóa. Nhận

thấy, truyện Nôm giữ một vị trí quan trọng và là niềm tự hào của văn hóa, văn

học nước nhà cho nên nghiên cứu một tác phẩm truyện Nôm là đề tài hấp dẫn.

Theo những nguồn tư liệu hiện có, Song Tinh Bất Dạ của tác giả Nguyễn

Hữu Hào được coi là truyện Nôm bác học đầu tiên xuất hiện ở Đàng Trong, và

cũng là truyện Nôm bác học có tên tác giả đầu tiên trong nền văn học Việt Nam.

Sự phát triển của truyện Nôm bác học được đánh dấu bằng những dấu mốc cụ

thể như sau: Truyện Song Tinh Bất Dạ (ở Đàng Trong) và Truyện Hoa tiên

(Đàng Ngoài) được xem là bước khởi đầu cho sự hình thành thể loại; Truyện

Kiều là đỉnh cao, là kết tinh, đem lại niềm tự hào cho nghệ thuật nước nhà; còn

Truyện Lục Vân Tiên là dấu chấm, khép lại một thời vàng son mà thể loại truyện

Nôm từng ngự trị trên văn đàn dân tộc trong thế kỷ XVIII - XIX.

Đến thời điểm này, mặc dù Song Tinh Bất Dạ được đánh giá là giữ vị trí

quan trọng, là dấu mốc khởi đầu của dòng truyện Nôm bác học song trên thực

tế vẫn có rất ít người biết đến sự tồn tại của tác phẩm. Trong chương trình phổ

thông tên truyện Song Tinh Bất Dạ cũng chỉ được nhắc đến là ví dụ minh chứng

cho thể loại truyện Nôm trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 tập 2 Nâng cao,

còn sách giáo khoa cơ bản không đề cập đến. Ngay cả trong các chương trình

1

giảng dạy ở bậc đại học, truyện này hầu như ít có cơ hội được nhắc đến, hoặc

nếu có thì cũng chỉ là điểm qua một cách sơ sài. Vì vậy lựa chọn truyện Song

Tinh Bất Dạ để nghiên cứu là một cách để người viết bổ sung kiến thức về

truyện Nôm nói riêng và văn học trung đại nói chung.

Là một sinh viên khoa Ngữ văn và một giáo viên tương lai, việc nắm được

một cách sâu rộng giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện Song Tinh Bất Dạ

nói riêng và thể loại truyện Nôm nói chung có ý nghĩa quan trọng trong công

việc và góp phần bổ sung kiến thức cá nhân.

Từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Song Tinh Bất Dạ - dấu

mốc của sự chuyển đổi tư duy nghệ thuật trong văn học trung đại” làm hướng

nghiên cứu chính trong luận văn tốt nghiệp này.

2. Lịch sử nghiên cứu

Mặc dù là một truyện Nôm có vị trí đặc biệt là khởi đầu, nhưng hiện nay

không có nhiều công trình nghiên cứu về Song Tinh Bất Dạ. Chủ yếu là một số

những bài giới thiệu về quá trình định danh cho tác phẩm trên tạp chí, lời dẫn

đầu sách, hoặc nhắc đến trong một tiểu mục nghiên cứu về thể loại.

Vào năm 1943, ông Trần Văn Giáp là người đầu tiên thấy ghi trong Đại

Nam thực lục tiền biên chép Nguyễn Hữu Hào là tác giả của Song Tinh Bất Dạ

[8; 220]. Nhưng Đông Hồ Lâm Tấn Phát (1906 - 1969) ở Hà Tiên (nay tỉnh

Kiên Giang) mới là người đầu tiên có công lao to lớn. Ông đã kiên trì suốt 50

năm để tìm nguồn cội cho quyển truyện Nôm này. Vào năm 1942, Đông Hồ có

viết một thiên khảo luận dài về Song Tinh Bất Dạ, gửi đăng nguyệt san của Hội

Khai Trí Tiến Đức ở Hà Nội, số 7 - 8, kể lại quá trình tìm thấy bản truyện, với

mục đích thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu đối với việc tìm tác giả

cho truyện. Sau đó, Đông Hồ lại đăng một vài đoạn khảo cứu về Truyện Song

Tinh trên Tuần báo Nhân loại, từ số 15 năm 1953 đến số 22 năm 1954. Nhưng

mãi năm 1962, sau khi trải qua chín năm nghiên cứu, Đông Hồ mới cho công

2

bố toàn bộ văn bản lần đầu tiên. Mặc dù đây chỉ là một bản phiên âm quốc ngữ,

và nội dung sao chép còn có một số nhầm lẫn, sửa chữa nhiều, văn bản không

được chú thích nhưng Đông Hồ đã chứng minh khá thuyết phục rằng Truyện

Song Tinh chính là văn bản truyện Nôm đầu tiên của văn học viết Việt Nam.

Năm 1979, nhà nghiên cứu Đặng Thanh Lê với cuốn sách “Truyện Kiều”

và thể loại truyện Nôm, trong một tiểu mục “Truyện Song Tinh (Đường Trong)

và Truyện Hoa tiên (Đường Ngoài) - Những truyện Nôm có tên tác giả đầu tiên

trong văn học thế kỷ XVIII” cũng đã giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm,

cốt truyện của Song Tinh Bất Dạ. Sau đó, tác giả đưa ra kết luận: “Có lẽ đây là

một trong những truyện Nôm đầu tiên trong văn học viết thế kỷ XVIII đã lấy

tình yêu tuổi trẻ làm chủ đề tác phẩm. Gắn liền vào đó là một tinh thần tự do

yêu đương có ý nghĩa chống lễ giáo phong kiến và một nội dung đề cao phẩm

chất tốt đẹp của con người, chống lại thói cưỡng bức hôn nhân của cường quyền

phong kiến” [11; 58 - 59]. Không những thế, tác giả còn nhận định: “với cốt

truyện như trên, ta có thể thấy rõ tiếng nói báo hiệu cho các truyện Nôm sau

này qua Truyện Song Tinh” [11; 60].

Năm 1984, tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân một lần nữa giới thiệu

Truyện Song Tinh đến độc giả và giới học thuật. GS. Lê Trí Viễn đã viết phần

“Cùng bạn đọc”, và một lời “Dẫn”, trình bày về tiểu sử tác giả và tình hình văn

bản tác phẩm, cùng mục đích và phương pháp hiệu đính văn bản. Dù ngắn gọn

nhưng GS. Lê Trí Viễn đã chỉ cho ta thấy được những nét tiêu biểu của: “Song

Tinh là truyện tình yêu tự do”, “là truyện bác học mà khí vị lại rất dân gian”,

rồi cốt truyện của Truyện Song Tinh là công thức chung “muôn thuở” của các

truyện thơ Nôm [4; 8-9].

Sau đó, năm 1987, ông Hoàng Xuân Hãn đã biên khảo, giới thiệu và cho

ấn hành lại Truyện Song Tinh. Ông viết lời “Tựa”, “Dẫn” trình bày công phu

về tác giả, thời điểm sáng tác, lai lịch văn bản, tên truyện, nội dung, nguồn gốc,

3

cách hiệu đính và diễn nghĩa nội dung truyện… Với công trình này, ông là

người đầu tiên đề cập đến bản nguyên tác mà Nguyễn Hữu Hào dựa theo để

viết Truyện Song Tinh là tác phẩm Định tình nhân, ra đời trong khoảng cuối

Minh – đầu Thanh ở Trung Quốc. Trong lời “Tựa”, Hoàng Xuân Hãn đã đưa

ra vài lời so sánh với kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ông viết: “Về cách

diễn ca, Nguyễn Hữu Hào cũng như Nguyễn Du, đều theo mạch lạc nguyên tác,

không thêm nhân vật hay hành động gì. Trái lại, cả hai đều bỏ những tiết đoạn

rườm rà không cần cho cốt truyện. Về sắc thái từ chương, hai truyện Nôm khác

nhau nhiều. Khi tả cảnh, Nguyễn Du chỉ phác họa để gợi ý tình; và khi tả tình

thì lời sâu sắc, đằm thắm. Còn Nguyễn Hữu Hào thì tả cảnh một cách tỉ mỉ, cốt

để xúc động tai mắt người đọc, chứ không khêu gợi được tình sâu xa; và hầu

như chỉ chú ý đến phần kể chuyện, đối thoại, chứ không phân tích tình cảm…”

[5; 6-7].

Tiếp tục, Kiều Thu Hoạch trong Truyện Nôm - lịch sử phát triển và thi

pháp thể loại (Nxb Giáo dục, năm 2007), Trần Đình Sử trong Mấy vấn đề thi

pháp văn học trung đại Việt Nam (Nxb Giáo dục, năm 1999),… đều nhắc tên

Truyện Song Tinh là một tác phẩm có giá trị khởi đầu của thể loại truyện Nôm.

Tuy nhiên, truyện này gần như chưa được khảo cứu kỹ lưỡng với tư cách là

một đối tượng nghiên cứu độc lập.

Mãi đến năm 2006, TS. Lê Thị Hồng Minh mới cho công bố một công

trình nghiên cứu về Ngôn ngữ nghệ thuật “Truyện Song Tinh”. Lần đầu tiên,

Song Tinh Bất Dạ được nghiên cứu một cách công phu, tỉ mỉ về yếu tố ngôn

ngữ nghệ thuật. Bà nghiên cứu khá kỹ về ngôn ngữ của truyện như: ngôn ngữ

ước lệ tượng trưng, ngôn ngữ bình dân, ngôn ngữ hài hước, ngôn ngữ pha màu

sắc “sắc dục”, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại “giàu giọng điệu”,… Tác giả coi

Song Tinh Bất Dạ là “viên ngọc quý” [13; 165] trong kho tàng văn học trung

đại và đưa ra kết luận đây “không chỉ là một trong những tác phẩm đi đầu, mở

4

ra một trào lưu sáng tác truyện thơ Nôm trên văn đàn văn học viết (…) mà bản

thân nó còn là một đóng góp lớn, một thành công đáng kể về mặt ngôn ngữ

nghệ thuật trong nền văn học dân tộc” [13; 164].

Kế đó, năm 2009, Trần Thanh Thủy cũng là một trong số những học giả

dành nhiều công sức nghiên cứu và đưa ra một công trình luận văn thạc sĩ Song

Tinh Bất Dạ và bước khởi đầu của truyện Nôm bác học đã góp phần vào lí giải sự

xuất hiện và vai trò của truyện Song Tinh Bất Dạ trong dòng chảy của truyện Nôm

bác học Việt Nam, một lần nữa khẳng định truyện Song Tinh là một trong số

những tác phẩm có vai trò đi đầu trong việc hình thành thể loại. Bên cạnh đó, công

trình còn tìm hiểu lý do vì sao sau Song Tinh Bất Dạ, truyện Nôm tài tử - giai nhân

không tiếp tục phát triển ở Đàng Trong mà lại bị gián đoạn một thời gian, rồi sau

đó phát triển ở Đàng Ngoài và những tác phẩm đạt đỉnh cao, có thành tựu lại là

sáng tác của tác giả Đàng Ngoài chứ không phải Đàng Trong [24; 5].

Với việc điểm qua quá trình công bố, giới thiệu và nghiên cứu Song Tinh

Bất Dạ như trên, chúng tôi mong muốn làm rõ tính chất dấu mốc chuyển đổi tư

duy nghệ thuật của tác phẩm này trong dòng truyện Nôm bác học và trong văn

học trung đại Việt Nam. Tất cả những công trình, những bài viết, những ý kiến,

nhận định, đánh giá của các nhà nghiên cứu trên đây là những gợi ý quý báu trong

việc đi sâu khai thác tác phẩm về mặt nội dung và nghệ thuật.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của khóa luận là hoàn thành một công trình nghiên cứu về vai

trò là dấu mốc của sự chuyển đổi tư duy nghệ thuật trong văn học trung đại Việt

Nam của truyện Song Tinh Bất Dạ.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu về thuật ngữ - khái niệm, quá trình hình thành và phát triển

của truyện Nôm trong văn học trung đại Việt Nam

5

- Tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Hữu Hào cùng những vấn đề

liên quan đến tác phẩm.

- Làm rõ tính chất dấu mốc, bước chuyển đổi tư duy nghệ thuật của truyện

Song Tinh Bất Dạ dựa trên cơ sở những khía cạnh về nội dung và nghệ thuật

của tác phẩm Song Tinh Bất Dạ.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là truyện Song Tinh Bất Dạ. Ở đây

chúng tôi sử dụng văn bản trong cuốn Nguyễn Hữu Hào, Truyện Song Tinh,

Hoàng Xuân Hãn biên khảo – giới thiệu, Nhà xuất bản Văn Học, 1987.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Trong khuôn khổ của đề tài, chúng tôi tiến hành nghiên cứu giá trị nội

dung và nghệ thuật của tác phẩm truyện Song Tinh Bất Dạ để làm sáng tỏ vai

trò là dấu mốc quan trọng trong bước chuyển đổi tư duy nghệ thuật trong văn

học trung đại Việt Nam.

Trong quá trình đó, với chừng mực có thể, chúng tôi sẽ cố gắng so sánh,

đối chiếu cùng một số truyện Nôm bác học giai đoạn sau (như Truyện Kiều,

Truyện Hoa tiên…) và một số tác phẩm khác để thấy được sự giao thoa, sự kế

thừa, phát triển của tác phẩm trong dòng chảy chung của thể loại.

5. Phương pháp nghiên cứu

Khóa luận sử dụng một số phương pháp sau:

– Phương pháp nghiên cứu văn học Sử.

– Phương pháp nghiên cứu liên ngành.

– Phương pháp so sánh.

– Các thao tác phân tích chứng minh, lập luận, phân tích tổng hợp.

6

6. Đóng góp của khóa luận

Đưa ra một công trình nghiên cứu khái quát về giá trị nội dung và nghệ

thuật của truyện Song Tinh Bất Dạ, từ đó khẳng định được vai trò “dấu mốc”

trong sự chuyển đổi tư duy nghệ thuật từ chữ “tâm” sang chữ “thân” trong văn

học trung đại Việt Nam.

7. Bố cục của khóa luận

Khóa luận được triển khai theo ba phần: Mở đầu, Nội dung và Kết luận.

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phần Nội dung được chia thành ba chương:

– Chương 1: Những vấn đề chung

– Chương 2: Song Tinh Bất Dạ - dấu mốc của bước chuyển từ phạm trù

chữ “tâm” sang chữ “thân”

– Chương 3: Những phương diện nghệ thuật

7

NỘI DUNG

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Thể loại truyện Nôm trong văn học trung đại Việt Nam

1.1.1. Thuật ngữ - khái niệm

Truyện Nôm là một bộ phận văn học khá độc đáo và có giá trị của nền

văn học trung đại Việt Nam. Có nhiều tên gọi khác nhau được dùng như: truyện

thơ, truyện dài, truyện thơ Nôm, truyện nôm na, truyện diễn ca, truyện thơ bình

dân, truyện quốc âm… Có thể gọi tên đầy đủ chính xác nhất cho thể loại văn

học này là truyện thơ Nôm. Tuy nhiên, nhìn chung và phổ biến nhất vẫn là xu

hướng gọi thể loại này là truyện Nôm.

GS. Trần Đình Sử đã có lần đề cập trong cuốn sách Mấy vấn đề thi pháp

văn học trung đại, coi truyện Nôm “là cách rút gọn của khái niệm truyện thơ

Nôm, và cũng do điều kiện lịch sử văn xuôi Nôm không phát triển, nghĩa là văn

Nôm chỉ tồn tại dưới dạng văn vần và biền ngẫu” [20; 395]. Cho nên, chúng tôi

chọn dùng thuật ngữ truyện Nôm như nhiều nhà nghiên cứu đã sử dụng mà

không sợ nhầm lẫn với truyện văn xuôi Nôm.

Qua cách định nghĩa của Đặng Thanh Lê (“Truyện Kiều” và thể loại

truyện Nôm), Kiều Thu Hoạch (Truyện Nôm, lịch sử phát triển và thi pháp thể

loại), Trần Đình Sử - Lê Bá Hán - Nguyễn Khắc Phi (Từ điển thuật ngữ văn

học), Trần Thị Khang (Văn học trung đại Việt Nam, tập 2, Trần Đăng Na chủ

biên)… về cơ bản, truyện Nôm là loại hình tác phẩm tự sự bằng thơ, phản ánh

về cuộc đời số phận, về khát vọng hạnh phúc, công lý mang tính nhân bản của

con người trong đời sống hiện thực đầy éo le, phức tạp; tác phẩm được viết

bằng ngôn ngữ của dân tộc là chữ Nôm (có tác phẩm được viết bằng thể Đường

8

luật như truyện: Tô Công phụng sứ, Vương Tường, Lâm tuyền kì ngộ) …nhưng

phổ biến là những tác phẩm viết bằng thể lục bát.

1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển

Quá trình hình thành, phát triển và giã từ văn đàn của truyện Nôm trải

qua bốn giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhất: Thế kỷ XVI - giai đoạn hình thành thể loại. Thế kỷ

XVI không chỉ là thời kỳ cực thịnh của chế độ phong kiến mà còn là giai đoạn

phát triển rực rỡ của nền văn học dân tộc, trong đó có văn học Nôm. Lúc này,

chữ Nôm được sử dụng ngày càng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực cuộc sống.

Đặc biệt, với các tác giả văn học thì chữ Nôm đã trở thành một phương tiện khá

thuận lợi để thể hiện tâm hồn dân tộc. Đặc biệt, hầu hết những đại biểu ưu tú

của văn học thời kỳ này đều làm nhiều thơ Nôm. Nguyễn Trãi có Quốc âm thi

tập, gồm trên 250 bài thơ Nôm. Tao Đàn Nhị thập bát tú do vua Lê Thánh Tông

làm chủ soái có Hồng Đức quốc âm thi tập với hơn 300 bài thơ Nôm. Thơ quốc

ngữ thời kỳ này khá phổ biến với thể thất ngôn xen lục ngôn, tự do, phóng

khoáng, không bị gò bó về niêm luật như thơ Đường. Tuy nhiên, văn học Nôm

thời này vẫn có phần đơn điệu về thể loại.

Có nhiều ý kiến cho rằng các truyện Nôm làm theo lối Đường luật cũng

xuất hiện vào thế kỷ này. Hình thức ban đầu của truyện Nôm có lẽ là từ một số

bài thơ Nôm Đường luật xâu chuỗi lại, vịnh về một nhân vật nào đó theo diễn

biến cuộc đời của họ. Chẳng hạn như cụm bài vịnh “Truyện Vương Tường” in

trong Hồng Đức quốc âm thi tập (gồm 45 bài thơ, trong đó có 35 bài bát cú và

10 bài tứ tuyệt), Tô Công phụng sứ (gồm 24 bài thất ngôn bát cú), Lâm tuyền

kỳ ngộ (gồm 146 bài bát cú, 1 bài tứ tuyệt, 1 ca khúc). Ngoài loại “vịnh truyện”

còn có những bài “kể hạnh” hát cửa đình. Các bài “hạnh” thường là kể lại sự

tích và đức hạnh của chư Phật hoặc các vị thần thánh được thờ ở chùa làng làm

theo thể thơ lục bát hoặc lục bát biến thể đã góp phần cung cấp cho thể loại

9

truyện Nôm một nguồn đề tài, cốt truyện hấp dẫn và cả những tiền đề nghệ

thuật cần thiết để góp phần hình thành thể loại.

Giai đoạn thứ hai: Thế kỷ XVII - truyện Nôm lục bát chính thức ra đời.

Lúc này, nhu cầu phán ánh cuộc sống bằng phương thức tự sự dài hơi ngày

càng lớn, mà thể thơ Đường luật với cấu trúc ổn định với yêu cầu khắt khe về

niêm luật, vần đối, mang tính cô đọng, hàm súc lại không đáp ứng được. Hơn

nữa, sử dụng thể thơ này để tự sự làm cho cốt truyện rời rạc, không thể hiện

được nội dung dài và liên tục. Từ đó, các tác giả phải đi tìm một thể loại mới.

Đầu thế kỉ XVII, Đào Duy Từ có nhiều sáng tác bằng chữ Nôm, nổi tiếng là hai

tác phẩm Ngọa Long cương vãn gồm 136 câu lục bát và Tư Dung vãn gồm 236

câu Nôm lục bát. Đặc biệt, thời kỳ này có ba tập diễn ca lịch sử dài bằng chữ

Nôm, rất gần gũi với thể truyện Nôm, là: Việt sử diễn âm, dài 2.332 câu thơ lục

bát; Thiên Nam minh giám, gồm 936 câu thơ song thất lục bát; và Thiên Nam

ngữ lục, dài hơn 8136 câu lục bát. Với Thiên nam ngữ lục, một sử ca đại trường

thiên, thơ Nôm lục bát mới thực sự được sử dụng để viết nên tác phẩm có nội

dung tự sự.

Cũng trong thế kỉ XVII, có sự ra đời của của một số tác phẩm khuyết

danh gồm truyện Nôm lịch sử và diễn ca tôn giáo như Quan Âm tống tử bản

hạnh, Địa Tạng bản hạnh, Liễu Hạnh công chúa diễn âm, Ông Ninh cổ truyện,

Chúa Thao cổ truyện,... Ngoài ra còn một số những truyện Nôm về đề tài xã

hội như Lý Công, Thoại Khanh – Châu Tuấn, Phạm Tải – Ngọc Hoa, Tống

Trân – Cúc Hoa,... Ở giai đoạn này, truyện Nôm đã khẳng định việc sử dụng

thành công thơ lục bát để kể lại một cốt truyện hoàn chỉnh với hình thức một

tác phẩm độc lập.

Giai đoạn thứ ba: Thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX - giai đoạn phát triển

rực rỡ nhất của truyện Nôm, thời kỳ hoàng kim của thể loại. Từ thế kỷ XVIII,

chữ Nôm với tư cách ngôn ngữ văn học thứ hai ở Việt Nam đã trở thành một

10

công cụ sáng tạo chiếm ưu thế hơn so với chữ Hán, mà bằng chứng là sự xuất

hiện của các kiệt tác, các tác giả lớn sáng tác bằng chữ Nôm và hơn thế là sự

hình thành của cả một trào lưu văn học. Truyện nhiều về số lượng, phong phú

về nội dung, có nhiều tác phẩm xuất sắc. Truyện Nôm nhiều nhất và cũng nổi

bật nhất là những truyện nói về tình yêu tự do, hạnh phúc lứa đôi; đấu tranh cho

quyền sống của con người; vấn đề số phận con người mà đặc biệt là số phận

người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Giai đoạn này, bên cạnh những tác phẩm

thuộc truyện Nôm bình dân, có sự hiện diện của hàng loạt truyện Nôm bác học,

làm nên những gương mặt tiêu biểu của thể loại. Nhưng truyện Nôm có tên tác

giả đầu tiên có thể được kể đến như Truyện Song Tinh của Nguyễn Hữu Hào

(?- 1713). Sau đó nở rộ với hàng loạt tác phẩm như khác như Truyện Hoa Tiên

của Nguyễn Huy Tự (1743 - 1790), Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du

(1765 - 1820), Sơ kính tân trang của Phạm Thái (1777 - 1813), truyện Tây

Sương của Lí Văn Phức (1785 - 1849),... cùng hàng loạt các tác phẩm khuyết

danh được ưa chuộng như Phan Trần, Nữ tú tài, Nhị độ mai, Lưu Bình Dương

Lễ, Hoàng Trừu,... Truyện Nôm giai đoạn này thật sự khẳng định được sức

mạnh của thể loại, tạo được dấu ấn đặc biệt, có những đóng góp lớn trên bước

đường phát triển văn học dân tộc ở cả phương diện nội dung và hình thức nghệ

thuật.

Giai đoạn thứ tư: Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX - thời kỳ nhường bước,

giã từ văn đàn, kết thúc sứ mạng lịch sử của thể loại. Lúc này, hoàn cảnh lịch

sử xã hội nước nhà có nhiều biến động, vấn đề sống còn của dân tộc là chống

cuộc xâm lược của thực dân Pháp. Nền giáo dục của Tây học dần thay thế Nho

học truyền thống. Chữ Quốc ngữ hiện đại thắng thế, hệ thống tri thức mới, thế

hệ trí thức mới hình thành, thế giới quan nghệ sĩ thay đổi. Chữ Nôm mất vị thế

bởi không đáp ứng được nhu cầu diễn đạt nội dung mới của thời đại. Bởi vậy,

những vấn đề riêng tư của cá nhân - chủ đề chính và cũng là thế mạnh của

11

truyện Nôm - đã nhường bước cho những vấn đề quan trọng và cần thiết hơn

của dân tộc, như tiếng nói đòi độc lập, tự chủ… Vì vậy, truyện Nôm với những

chủ đề nóng bỏng của một thời đã lùi vào “hậu trường”. Vào giai đoạn này,

Dương Từ Hà Mậu, Ngư tiều y thuật vấn đáp của Nguyễn Đình Chiểu, Giai

nhân kỳ ngộ diễn ca của Phan Châu Trinh,... tuy vẫn viết theo tư duy tự sự trung

đại nhưng đã phản ánh vấn đề mới của xã hội, chưa kể còn có một số tác phẩm

được viết bằng chữ quốc ngữ theo phương thức tư duy trung đại như Trạng Lợn

tân truyện của Nguyễn Thúc Khiêm, Truyện trạng ăn diễn ca, Truyện Trạng

Trần diễn ca của Vũ Như Do... Đó là những tác phẩm cuối cùng của truyện

Nôm, để rồi từ đó thể loại tự sự này giã từ văn đàn nhường chỗ cho tiểu thuyết

văn xuôi hiện đại.

Như vậy, truyện Nôm đã trải qua quá trình hình thành và phát triển trong

khoảng bốn thế kỉ và đạt được đỉnh cao ở giai đoạn thế kỉ XVIII đến nửa đầu

thế kỉ XIX. Sự ra đời của thể loại này trong đời sống nghệ thuật trung đại cùng

với những thành tựu đạt được đã khẳng định sự ra đời của chúng là sản phẩm

tất yếu.

1.2. Tác giả và tác phẩm

1.2.1. Thân thế tác giả

Theo Đại Nam liệt truyện tiền biên và Đại Nam thực lục tiền biên thì

Nguyễn Hữu Hào chưa rõ năm sinh. Tuy nhiên, Hoàng Xuân Hãn phỏng đoán

tác giả sinh chừng năm 1647 (?). Ông xuất thân trong gia đình thuộc dòng dõi

võ tướng nhưng có truyền thống văn học và đều là những bậc công thần của

triều Nguyễn Đàng Trong. Tổ tiên của ông ở trang Gia Miêu, huyện Tống Sơn,

Thanh Hóa, theo chúa Nguyễn vào Nam.

Cha ông là Chiêu Vũ hầu Nguyễn Hữu Dật, một danh thần bậc nhất của

chúa Nguyễn, văn võ kiêm toàn. Nguyễn Hữu Hào là con đầu và có em nối lòng

là Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, một trong những danh nhân “mang gươm

12

đi mở cõi” của triều Nguyễn, mang về cho giang sơn Việt Nam một vùng đất

Nam Bộ rộng lớn, giàu có như hôm nay. Chính truyền thống gia đình như vậy

đã bồi dưỡng ở ông một tài năng quân sự mưu dũng và một tấm lòng nhân nghĩa

cao cả.

Ngay từ thời trai trẻ, ông thường theo cha dự các trận đánh lớn, bộc lộ

nhiều dũng lược và tài dùng binh. Cho nên vào năm Kỷ Tỵ 1689, ông được bổ

làm Cai cơ, Thống binh. Xuân Canh Ngọ (1690), Nguyễn Hữu Hào giữ chức

thống suất, lãnh trách nhiệm đi bình định phía Nam. Tướng quân Hào Lương

hầu muốn dùng chính sách ngoại giao hơn là quân sự, với lòng nhân ái, yêu

mến binh lính, săn sóc dân chúng. Ông không muốn lấy thế thắng để trấn áp kẻ

đã quy phục mình “Thừa lúc chi nguy mà làm điều phi tín nghĩa, rất không phải

đạo”. Với chính sách ôn hòa đó, mà biên cảnh được yên bình, quân lính được

vẹn toàn, thế nhưng Nguyễn Hữu Hào lại bị dèm pha, ông bị chúa Nguyễn Phúc

Trăn kết tội “đã trù chừ làm hỏng việc quân”, cách chức, truất tước hầu, về làm

dân thường. Trở lại với cuộc sống thứ dân, Nguyễn Hữu Hào vẫn bình thản,

vui vẻ, thong dong ngắm cảnh, đọc sách, ngâm vịnh thơ phú… Năm Tân Mùi

(1961), ông được chúa Nguyễn Phúc Chu mười bảy lên tuổi nối ngôi, phục

chức Cai cơ rồi dần lên chức Chưởng cơ. Đến năm 1704, Nguyễn Hữu Hào

được bổ nhậm chức trấn thủ Quảng Bình, đóng tại Dinh trấn Võ Xá. Trong khi

cầm quân cũng như lúc làm quan, ông lo việc quân sự, huấn luyện quân đội,

săn sóc đời sống dân chúng nên ai nấy đều kính mến. Đại Nam thực lục tiền

biên khi chép về ông đã khen rằng biết “vỗ yên trăm họ, yêu nuôi sĩ tốt, được

quân dân mến phục”, chủ trương dùng y đức quy phục nhân tâm, ngoại giao

hòa hiếu, không muốn động binh, không dùng hình phạt. Bởi vậy mà mùa thu

năm Qúy Tỵ (1713) sau khi ông mất đã được nhà chúa ban hiệu “Đôn hậu công

thần” và tên thụy là “Nhu Từ”.

13

Triều chúa Nguyễn Phúc Chu văn học và Phật học được chú trọng.

Nguyễn Hữu Hào là một nhà quân sự tài ba nhưng cũng là một người am hiểu

văn học và là một người mộ đạo Phật. Không chỉ để lại tác phẩm Song Tinh Bất

Dạ, ông còn có một bài thơ, một bức thư, một tờ khải bằng chữ Hán, ghi lại

những trao đổi tranh luận giữa ông và sư Thích Đại Sán về giáo thuyết của nhà

Phật. Cả ba đều chép trong Hải ngoại kỷ sự.

Từ những văn phẩm còn lại cho đến ngày nay, có thể nói Nguyễn Hữu

Hào là một người tài năng uyên bác, lại có nhiều trải nghiệm thực tiễn. Ông

“am hiểu cả Phật, Nho và Lão, thể hiện một vũ trụ thanh thoát, không gò bó

theo kinh viện Khổng giáo và một học phong độc lập trên tinh thần phê phán

lối cố chấp, giáo điều…” [3; 12]. Tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân đánh giá

Nguyễn Hữu Hào là người tiêu biểu cho tầng lớp “trí thức hiếm” [3; 12] ở Đàng

Trong.

1.2.2. Tác phẩm

Qua tài liệu ghi lại, Song Tinh Bất Dạ được Nguyễn Hữu Hào viết trong

những năm làm trấn thủ Quảng Bình (1704 - 1713), thuộc văn học xứ Đàng

Trong. Hầu hết các nhà nghiên cứu, trong nhiều năm qua đều khẳng định Song

Tinh Bất Dạ dựa theo cốt truyện một cuốn tiểu thuyết đô thị “thường thường

bậc trung”, ít được biết đến của một tác giả khuyết danh, của Trung Quốc thời

Minh – Thanh , gồm 16 hồi “dài độ tám vạn chữ, gấp năm lần truyện Nôm”.

Người đầu tiên tìm ra tác phẩm mà Nguyễn Hữu Hào phỏng theo - Định tình

nhân (nghĩa là truyện những người có tình gắn bó) là Hoàng Xuân Hãn. Theo

ông suy đoán, “Trong đám Hoa thương và người Minh di tản sang đất ta, chắc

có kẻ đã mang theo những tiểu thuyết dan gian khác chừng 50 năm trước đó.

Trong số tiểu thuyết ấy có sách Định Tình Nhân, bán ở đàng Trong.(...) Nguyễn

Hữu Hào đã chọn truyện Định Tình Nhân có kết thúc trung hậu, tốt đẹp và thích

thú. Vì vậy, ông đem ra diễn ca để ngâm nga” [5; 9]. Và Hoàng Xuân Hãn đã

14

đưa ra ý tưởng, nên đặt tên cho cuốn truyện Nôm này là “Định tình nhân diễn

ca”.

Theo Hoàng Xuân Hãn, thì tác phẩm có 2396 câu thơ lục bát, xen kẽ cả

bài thơ Vịnh yến, bức thư của Nhụy Châu viết cho Song Tinh và bài văn điếu

mà chàng Song đọc tế Nhụy Châu bên bến Thiên Tân. Truyện chia thành 18

tiết, nội dung truyện như sau:

Song Tinh tên chữ là Bất Dạ, người quê Tứ Xuyên, thuộc dòng dõi quý

tộc. Từ nhỏ chàng được ông bà họ Giang, bạn của cha, sống ở Triết Giang nhận

làm con nuôi. Sau khi Song Ông mất, Song Tinh về sống cùng mẹ ở Tứ Xuyên.

Đến tuổi học hành, Song Tinh giã biệt gia đình đi tầm sư học đạo và cầu duyên.

Trên đường, chàng gặp lại Giang Ông, người bạn tâm giao đồng triều năm xưa

của cha. Giang Ông nhận ra, đưa chàng về chăm nuôi và dạy học. Chàng được

gặp Nhụy Châu, người con gái tài sắc tuyệt vời. Đem lòng yêu nhưng lại sợ

tiếng “loạn luân” (vì là con nuôi) nên chàng ốm tương tư. Rồi được nàng trao

tình thề bồi gắn bó và gia đình ưng thuận gả người con gái “kim chi ngọc diệp”

cho, hẹn ngày bảng vàng xướng tên sẽ là ngày chàng - nàng nên duyên vợ chồng.

Nào ngờ, khi chàng lên kinh ứng thí thì ở quê nhà, có tên công tử bột Hách

Sinh, con quan đại tướng Hách nguyên nhung, cầu hôn nàng bị khước từ, bèn

nuôi hận sắp đặt mưu kế tiến nàng vào cung để vua chọn phi cho thái tử. Trước

khi xuống thuyền vào cung, nàng thuyết phục cha mẹ nhận người hầu gái thân

tín là Thể Vân làm con nuôi phụng dưỡng về già, viết di thư khuyên chàng

Song nối duyên cùng em nuôi. Gần đến đất kinh kỳ, thuyền dừng ở bến Thiên

Tân nàng nhảy xuống sông tự tận. Thần Sông báo mộng cho người đày tớ của

Song Tinh cứu nàng, đưa về quê ở với mẹ chàng ở Thục Xuyên. Còn Song Tinh

thi đỗ trạng nguyên, có gã phò mã họ Đồ muốn gả con gái cho chàng nhưng bị

từ chối nên bày mưu đẩy chàng đến vùng phong cương để trả thù. Chàng dẹp

yên biên giới và được vua ban khen. Khi biết tin nàng đã tự tận, chàng cũng

15

nghe lời nàng ký thác, sánh đôi cùng Thể Vân song không chung chăn gối để

trọn nghĩa với nàng. Chàng lại lên kinh đô, lúc về quê thăm mẹ, chàng bất ngờ

được gặp mặt cả hai người vợ và rước họ về sum họp, cùng hưởng hạnh phúc

đoàn viên.

1.2.3. Tình trạng văn bản

Văn bản Song Tinh Bất Dạ không có nhiều, cho đến nay, chỉ có ba văn

bản chữ quốc ngữ được lưu hành. Đó là:

– Truyện Song Tinh, Đông Hồ khảo cứu và sao lục, Nxb Bốn Phương,

Viện Văn nghệ - Hiên cổ lục, Sài Gòn, 1962.

– Truyện Song Tinh, Nguyễn Thị Thanh Xuân khảo đính, phiên âm và chú

thích, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1984.

– Truyện Song Tinh, Hoàng Xuân Hãn biên khảo, giới thiệu, Nxb Văn học,

Hà Nội, 1987.

Trong quá trình làm sáng rõ vấn đề “Song Tinh Bất Dạ - dấu mốc của sự

chuyển đổi tư duy nghệ thuật trog văn học trung đại Việt Nam”, chúng tôi chọn

bản do Hoàng Xuân Hãn biên khảo - giới thiệu vào năm 1987 làm cơ sở dữ liệu

để nghiên cứu. Bởi cho đến nay, bản phiên âm này được đánh giá cao nhất,

khảo chứng cẩn thận, kỹ lưỡng nhất.

Một vấn đề nữa mà học giả Hoàng Xuân Hãn đã đưa ra trong lời Dẫn,

trên thực tế, văn bản Nôm nay còn thấy không mang tên truyện. Tên Song Tinh

Bất Dạ được xem là không ổn, “vì Song Tinh là họ và tên vai chủ động trong

truyện, mà Bất Dạ chỉ là tự của y mà thôi” [5; 21]. Theo Đông Hồ thì cũng có

một cơ sở ở Hà Tiên, khi tìm thấy văn bản Nôm in năm Gia Long thì người ta

đã gọi là “Truyện Song Tinh”. Trong khóa luận này, chúng tôi chọn gọi tên tác

phẩm là Song Tinh Bất Dạ, theo cách ghi trong Đại Nam liệt truyện tiền biên -

tài liệu cổ nhất ghi chép về tác phẩm.

16

Tiểu kết chương 1

Xuất hiện ở giai đoạn thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX, truyện Song

Tinh Bất Dạ là một tác phẩm có vai trò là truyện Nôm bác học đầu tiên thuộc

văn học xứ Đàng Trong. Truyện viết về đề tài tình yêu nam nữ với những khát

vọng tình yêu chính đáng của con người đời thường là một bước ngoặt quan

trọng trong việc hình thành thể loại truyện Nôm tài tử - giai nhân, thể hiện sự

thay đổi quan trọng trong tư duy nghệ thuật của các tác giả văn học trung đại

Việt Nam.

17

Chương 2

SONG TINH BẤT DẠ - DẤU MỐC CỦA BƯỚC CHUYỂN ĐỔI TỪ

PHẠM TRÙ CHỮ “TÂM” SANG CHỮ “THÂN”

2.1. Sự chuyển đổi tư duy từ phạm trù chữ “tâm” sang chữ “thân” trong

văn học trung đại Việt Nam

Văn học trung đại Việt hình thành và phát triển là một hành trình dài từ

hế kỷ X đến hết thế kỷ XIX. Trong suốt hành trình đó, các tác giả văn học có

những bước chuyển về tư duy nghệ thuật. Theo nhà nghiên cứu GS. Trần Đình

Sử, tư duy văn học là một tiêu chí để phân kì văn học và thế kỷ XVIII là một

dấu mốc quan trọng. Bởi vậy, ông phân chia văn học trung đại thành hai giai

đoạn lớn: từ thế kỷ X đến thế kỷ XVII và từ thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX.

Ông khẳng định rằng, cách chia này, phù hợp với tiến trình tự ý thức của con

người trong văn học: “Trước thế kỷ XVIII con người trong văn học chủ yếu

được khẳng định trong các lý tưởng lớn, vì dân tộc, trong đạo đức phong kiến

theo quan điểm Nho giáo hay trong sự siêu thoát với đạo lão, đạo thiền; từ thế

kỷ XVIII trở đi con người trong văn học tự khẳng định mình qua các nhu cầu

sống trần tục” [20; 56]. Như vậy, có thể thấy giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỷ

XVII, tư duy nghệ thuật của các tác giả trung đại hướng đến vấn đề lý tưởng

lớn lao về đạo đức, nghĩa vụ hay nói cách khác là hướng đến vấn đề chữ “tâm”;

còn giai đoạn sau đó, các tác giả đã chuyển sang vấn đề chữ “thân” tức là hướng

đến ý thức về thân phận khổ đau của cá nhân và những khát vọng về tình yêu

hạnh phúc đôi lứa, nhu cầu trần tục, đời thường nhất của con người.

Giai đoạn thế kỉ X – XVII có thể nói là giai đoạn văn học hướng về chữ

“tâm”. Cái “tâm” của con người thời này phản ánh là lương tâm, nghĩa vụ, trách

nhiệm, đạo lí, là hướng tới những vấn đề tư tưởng lớn lao của xã hội, dân tộc,

thậm chí là cái tâm siêu nghiệm, đứng ngoài sinh diệt, đau khổ. Những nhu cầu,

18

khát vọng đời thường thường không được chú trọng, ít nhắc đến mà có nhắc

đến cũng không thoát ra được khỏi vòng của chữ “tâm” lí tưởng.

Theo quan điểm của đạo Thiền, thân xác con người chỉ là pháp tướng, là

một dạng thức tồn tại của bản thể, thân xác có chết đi cũng chỉ là kết thúc một

dạng thức tồn tại, còn bản thể thì không mất. Cái “tâm” của nhà Phật là cái tâm

thanh tịnh, hư không, vạn vật, kể cả thân xác mình dầu có hay không cũng

không quan hệ gì:

“Thân như điện ảnh, hữu hoàn vô,

Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô”.

(Thân người như bóng chớp, có rồi lại không,

Cây cối đến tiết xuân thì tươi, đến tiết thu lại héo.)

(Thị đệ tử - Vạn Hạnh)

“Thân như tường bích dĩ đồi thi,

Cử thế thông thông thục bất bi”

(Thân người ta khi đã thành cái xác chết giống như tường vách đổ,

Thì ai đời mà chẳng hoảng hốt, buồn đau.)

(Tâm không - Viên Chiếu)

Người ta coi vô thân mới là chân thân, coi mọi biến đổi của vạn vật như

không, không cần sợ, không kinh ngạc, hơn nữa là có thái độ điềm nhiên, bình

thản trước cái chết của chúng sinh và của chính mình. Thái độ của Phật giáo

xem bản thân, cuộc đời con người như huyễn ảnh, không có thực. Như vậy, là

đã phủ nhận cái thân của chính mình mà chỉ chú trọng đến cái tâm siêu nghiệm,

hướng đến thoát tục lên với cõi niết bàn.

Cũng có khi, người ta thấy văn học Phật giáo cũng có con người giải

phóng cá tính khỏi các giáo điều của Thiền tông như Trần Tung (1230 – 1291)

khi trả lời em gái hỏi tại sao ông lại ăn thịt, đã nói : “Phật là Phật, anh là anh.

Anh không cần làm Phật, Phật chẳng cần làm anh”. Ý nói không cần theo giới

19

luật quá cứng nhắc, Phật là tâm, tâm là Phật, mình phải an nhiên theo con đường

của mình, theo cái tâm của mình. Mọi thứ đều xuất hiện với “tâm” và mất đi

với “tâm”. Đó là con người “dĩ bất biến ứng vạn biến”, “Đói thì ăn chừ, cơm

tuỳ ý/ Mệt thì ngủ chừ, làng không làng!...” làm chủ trong mọi biến đổi. Có thể

nói đó là con người tự do nhưng tự do này là tư do hướng nội, tự do vứt bỏ tất

cả để tạo lập một thế giới riêng trong tâm tưởng của riêng mình chứ chưa gắn

với đời sống thực tại.

Đậm đặc hơn, văn học thời kì này chủ yếu phản ánh ý thức của con người

là hướng đến vấn đề đạo đức, lí tưởng lớn theo tư tưởng của Nho giáo. Con

người được thể hiện với cái tâm lớn lao là trách nhiệm, nghĩa vụ với đất nước

độc lập, dân chủ, tâm thế sánh ngang tầm vũ trụ thể hiện được chí nợ tang bồng,

công danh “Chí làm trai dặm nghìn da ngựa/ Gieo thai sơn nhẹ tựa hồng mao”,

xả thân vì nghĩa lớn:

“Hoành sóc giang san cáp kỷ thu

Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”

(Thuật hoài- Phạm Ngũ Lão)

Tư duy của con người trung đại hướng đến những vấn đề đạo đức như

chữ “trung” – trung quân ái quốc, cái chí của nhà nho, “Trai thời trung hiếu làm

đầu/ Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình” (Nguyễn Đình Chiểu). Trong đó

không thể không nhắc đến Nguyễn Trãi, một con người nhân nghĩa, yêu nước,

thương dân. Là một nhà nho đích thực nặng mối tiên ưu, “lòng hãy lo bền đạo

Khổng môn”, ông luôn đeo đẳng lí tưởng: “Bui có một niềm chăng nỡ trễ –

Đạo làm con với đạo làm tôi”, mong được đem sức tàn giúp việc đời, trọn đạo

vua tôi:

20

- “Bui một tấc lòng ưu ái cũ,

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.”

(Thuật hứng - IV)

- “Còn có một lòng âu việc nước,

Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung.”

(Thuật hứng - XXIII)

Hay như Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhà nho cũng mang nặng một “Tấm

lòng tiên ưu đến già chưa thôi”. Cả cuộc đời vẫn muốn giúp nước, giúp dân

nhưng cuối cùng chỉ biết “thẹn già không có tài”, không đem được tài, sức ra

để thực hiện lí tưởng, đạo lí.

Xuyên suốt trong văn học trước thế kỉ XVIII, các tác giả là các nhà nho

mang trong mình những lý tưởng lớn lao, vĩ đại của xã hội, vấn đề thân phận

và những khát vọng cá nhân thường không được nhắc đến. Con người sống

theo luân lí đạo đức, theo lí tưởng thời đại thì được coi là chân chính; còn những

người sống theo xúc cảm, theo những ước muốn trần thế, nhân bản thì bị coi

thường, chê trách.

Nói như vậy, không có nghĩa là văn học thời kì này không nhắc đến con

người đời thường nhưng nó chỉ xuất hiện như những chấm sáng nhỏ bé. Đó là

những lúc Nguyễn Trãi muốn “lại tu thân khác, mặc thi thư” (Mạn thuật - XII),

muốn an phận, an lòng trở về với thiên nhiên để hưởng thân nhàn “Lều nhàn

vô sự ấy lâu đài” (Tự thán - XIV). Hoặc như Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn lối

sống ẩn dật, khép kín, yên phận “Yên đòi phận, dầu tự tại/ Lành dữ khen chê

cũng mặc ai”, tự nhận mình là ngu dại, kém cỏi “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/

Người khôn người đến chốn lao xao”. Mặc dù, các nhà nho dần ý thức về số

phận cá nhân, về bản lĩnh con người, muốn được sống thảnh thơi cho mình.

Song, thân muốn nhàn nhưng tâm không nhàn, họ vẫn bắt buộc mình đi theo

21

khuôn khổ lễ giáo với đạo vua tôi, làm việc lớn, ích quốc lợi dân, chứ không

phải đi tìm cái lợi cho con người cá nhân của mình.

Sang Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, con người của hoài bão, lí tưởng

cao siêu theo quan niệm Nho giáo dần bị phai nhạt, con người không đi theo lí

tưởng, hoài bão lớn lao nữa mà đã hướng đến thể hiện tình yêu trai gái, hạnh

phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, đời sống và lý tưởng của kẻ sĩ. Mặc dù đã

hướng tới nhu cầu cơ bản của con người nhưng lại được biểu hiện với những

mặt phản diện tiêu cực như: Trình Trung Ngộ tham dục với hồn ma cây gạo

(Nhị Khanh); chàng Hà Nhân đắm chìm với hai hồn hoa Liễu Nương, Đào

Nương; Đào Hàn Than với sư Vô Kỷ tham dục sau biến thành Thuồng

luồng; Lý tướng quân làm ác bị Diêm Vương trị tội; người con gái Nam Xương

chết oan vì chồng ghen bóng ghen gió, v.v... Tức là, đã táo bạo trong việc thể

hiện cuộc sống cũng như quan niệm cá nhân về con người, lên tiếng đấu tranh

cho quyền sống, khát khao hạnh phúc, tự do cá nhân nhưng về cơ bản quan

niệm chủ đạo của Nguyễn Dữ là bảo vệ lễ giáo phong kiến. Những nhu cầu,

khát vọng đời thường nhất của con người như tình yêu và chữ “dục” vẫn bị xem

khinh, lên án qua các cuộc tình của những giống yêu ma, những kẻ đa dục.

Bước sang thế kỷ XVIII đã xảy ra một bước ngoặt lớn trong tư duy, tư

tưởng con người, làm nở rộ một dòng văn học nhân đạo, khác với văn học nhân

nghĩa làm chủ đạo trước đó. Bước ngoặt làm đổi thay tư duy của con người ấy

là: Trước thế kỷ XVIII con người chỉ được đánh giá trong thang bậc của đạo lý

và ở sức mạnh tinh thần, con người lý trí càng vươn lên khắc phục được cá

nhân nhỏ bé, phàm tục thì càng có giá trị. Sang thế kỷ XVIII tình hình đổi thay,

dần hướng đến quyền sống của con người đời thường, giá trị con người thân

xác với bao thứ “dục” chính đáng được xem là trung tâm.

Khác với con người tinh thần trong văn học mấy thế kỷ trước không biết

đến chữ “thân”, nên không ý thức được rõ rệt ý nghĩa của tuổi trẻ, lúc nào họ

22

cũng hướng đến một cái tâm cống hiến cho lí tưởng, con người trong văn học

thế kỷ XVIII bắt đầu tự ý thức từ chữ thân, từ tuổi trẻ, từ quyền được sống cuộc

đời thường ân ái vợ chồng. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn (bản Hán văn)

và của Đoàn Thị Điểm (bản dịch Nôm) tập trung biểu hiện khát vọng được

hưởng hạnh phúc tuổi trẻ, cái phần vật chất nhất của con người. Giờ đây không

phải là cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ đất nước trước giặc ngoại xâm, con

người không mang khí thế hào hùng của chí làm trai quyết xả thân vì độc lập

tự do của dân tộc nữa. Cuộc chiến phi nghĩa của nhà nước phong kiến đàn áp

khởi nghĩa nông dân khiến con người chỉ thấy sự mất mát hy sinh, để lại sự cô

đơn sầu muộn cho những người vợ ở hậu phương. Người phụ nữ lúc này lên

tiếng oán trách, than thở về cuộc sống lẻ loi cô đơn và thể hiện khao khát tình

hạnh phúc gia đình. Bao nhiêu chờ mong, khắc khoải đều tập trung vào nỗi lo

sợ lỡ tuổi xuân thì, khi nhan sắc đang chừng hoa nở:

- “Gió xuân ngày một vắng tin,

Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì.”

-“ Thoi đưa ngày tháng ruổi mau,

Người đi thấm thoắt qua màu xuân xanh.”

Người phụ nữ ý thức được tuổi trẻ, sắc đẹp của bản thân nên lúc nào

cũng “nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa”, sợ “Gái tơ mấy chốc mà ra nạ dòng”, sợ

lỡ mất xuân xanh.

Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều vừa là tiếng nói lên án, tố

cáo tính chất vô nhân đạo của chế độ cung nữ trong xã hội phong kiến, vừa là

ý thức về số phận của người phụ nữ. Tác phẩm thể hiện số phận bi thảm của

một người phụ nữ luôn khao khát hạnh phúc nhưng thực chất lại đang chết dần

chết mòn trong bức tường lạnh lẽo của cung vua phủ chúa. Họ bị rơi vào cảnh

ngộ “Bỗng không mà hóa ra người vị vong”, có chồng mà sống như một người

góa bụa nên lúc nào cũng xót thương cho số phận bạc bẽo của mình “Hoa này

23

bướm nỡ thờ ơ/ Để gầy bông thắm để xơ nhụy vàng”. Cô cung nữ ấy luôn khao

khát hạnh phúc ái ân, lo sợ cho nhan sắc, tuổi xuân của mình sẽ tàn tạ và nguyệt

tàn hoa rụng, bị bỏ rơi nàng than thở cho số phân mình: “Nghĩ mình lại ngán

cho mình/ Cái hoa đã trót gieo cành xiết bao”. Nàng lên tiếng căm hờn một

cách đanh thép, mạnh mẽ: “Trên chín bệ có hay chăng nhẽ?/ Khách quần thoa

mà để lạnh lùng”. Cung oán ngâm khúc không chỉ là một tiếng nói tố cáo xã

hội phong kiến mà còn là tiếng nói mạnh mẽ đòi cho con người quyền được

yêu đương, thỏa mãn cuộc sống ân ái riêng tư.

Một biểu hiện hiếm có, độc đáo trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII

là con người bản trần tục trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Bà là một cá nhân,

cá tính mạnh mẽ, ngang tàng, tự khẳng định mình “Thân này đâu đã chịu già

tom”. Thơ bà thể hiện một cách chân thực những khát khao cháy bỏng của

người phụ nữ trong hạnh phúc ái ân. Ở đâu, đi đâu bà cũng thấy những quả mít,

con ốc nhồi, chiếc quạt, đến việc dệt cửi, đánh đu ngày tết, đến đèo Ba Dội,...

mang một ý nghĩa khác của chuyện riêng trong buồng kín của vợ chồng:

- “Hai chân đạp xuống năng năng nhắc

Một suốt đâm ngang thích thích mau”

(Dệt cửi đêm)

- “Quân tử có yêu thì đóng cọc,

Xin đừng mân mó nhựa ra tay.”

(Quả mít)

Bà còn là một người ý thức rất rõ về thân phận và nỗi khổ của người phụ

nữ trong xã hội phong kiến. Đó là nỗi khổ trong tình cảnh éo le bi kịch của

những người “lấy chồng chung”, hay “không chồng mà chửa”,... Bà đã thét lên

một cách mạnh mẽ đòi quyền sống hạnh phúc cho người phụ nữ:

-“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Năm thì mười họa hay chăng chớ,

24

Một tháng đôi lần có cũng không.

Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,

Cầm bằng làm mướn, mướn không công”

(Làm lẽ)

- “Quản bao miệng thế lời chênh lệch,

Không có, nhưng mà, có mới ngoan.”

(Không chồng mà chửa)

Từ những sự cảm thông, thấu hiểu thân phận khổ đau của người phụ nữ

trong xã hội phong kiến và cá tính mạnh mẽ, táo bạo Hồ Xuân Hương đã nói

lên khát vọng chính đáng của cá nhân. Con người không chịu nhẫn nhục, bị chà

đạp, coi thường khi làm trái với khuôn khổ của luật lệ hà khắc nữa mà vươn lên

đòi hỏi những nhu cầu ái ân, hạnh phúc rất đời thường.

Có thể thấy vấn đề chuyển từ chữ “tâm” của lý tưởng sang chữ “thân”

của khát vọng đời thường trong văn học trung đại Việt Nam là cả một hành

trình dài. Để tạo được một dòng văn học nhân đạo, hướng đến những khát khao

tình yêu, hạnh phúc cá nhân trần tục trong suốt cả thế kỷ như vậy cần có một

tác phẩm mở màn. Song Tinh Bất Dạ với tư cách là một truyện Nôm tài tử -

giai nhân xuất hiện những năm đầu của thế kỷ XVIII, viết về đề tài ca ngợi tình

yêu nam nữ có thể coi là tác phẩm mở đầu và là dấu mốc đánh dấu bước chuyển

đổi tư duy nghệ thuật của các tác giả trung đại. Văn học Việt Nam từ thế kỉ

XVIII bắt đầu từ Truyện Song Tinh Bất Dạ, Truyện Hoa Tiên đến Truyện Kiều

là cả một dòng văn học chữ thân mà khởi đầu là Song Tinh Bất Dạ và Truyện

Kiều của Nguyễn Du là sự thể hiện đầy đủ nhất, sâu sắc nhất. Những con người

trong truyện Nôm thời kì này không còn là những con người như văn học chính

thống là con người của nghĩa vụ, không có quyền tồn tại như một cá nhân, cá

thể với những ham muốn trần thế, mà nó đã phá vỡ tính quy phạm để trở thành

con người tài tử - giai nhân, chủ động nói lên những tâm tư tình cảm hạnh phúc

25

riêng tư của mình. Truyện Song Tinh Bất Dạ hiện diện có vai trò như một dấu

gạch nối, một dấu mốc quan trọng trong trong bước chuyển đổi trong tư duy từ

hệ tư tưởng cũ sang hệ tư tưởng mới.

2.2. Sự chuyển đổi tư duy nghệ thuật của Song Tinh Bất Dạ

2.2.1. Thể hiện qua khát vọng tình yêu vượt qua lễ giáo phong kiến

Như đã nói ở trên, thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX - giai đoạn phát triển

rực rỡ nhất của truyện Nôm, thời kỳ hoàng kim của thể loại. Bên cạnh những

tác phẩm truyện Nôm bình dân, thời kì này xuất hiện hàng loạt truyện Nôm bác

học tài tử - giai nhân mà nội dung chủ yếu là hướng đến chữ “thân” tức là nói

về khát vọng tình yêu nam nữ, hạnh phúc lứa đôi; đấu tranh cho quyền sống

chính đáng của con người; vấn đề số phận con người mà đặc biệt là số phận

người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Trước cuộc sống bị bó buộc trong những khuôn khổ khắc chế của chế độ

phong kiến, con người luôn khát khao được giải phóng để có một tình yêu tự

do, được hạnh phúc và sống cuộc sống bình đẳng. Nhất là trong giai đoạn đất

nước xảy ra rất nhiều biến động với những cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra

khắp nơi chống lại chế độ phong kiến mục ruỗng đã thúc đẩy sự vùng lên của

ý thức cá nhân tự do dân chủ. Văn học không còn xuất hiện những con người

lớn lao của lí tưởng đạo đức, hay trốn tránh thực tại mà thay vào đó là con người

sống với hiện thực, với những mong muốn trần tục đời thường, cụ thể là khát

vọng tình yêu nam nữ vừa truyền thống vừa táo bạo, mạnh mẽ. Truyện Song

Tinh Bất Dạ của Nguyễn Hữu Hào được xem là sự khởi đầu của thể loại truyện

Nôm trong thế kỉ XVIII, thể hiện sự thay đổi trong tư duy nghệ thuật của các

tác giả trung đại.

Ở giai đoạn đầu của sự hình thành thể loại, Song Tinh Bất Dạ mang đúng

tính chất của một truyện Nôm tài tử - giai nhân, có nghĩa là mọi biến cố và kết

thúc của truyện đều xoay quanh một chữ “tình”. Các tác giả Đặng Thanh Lê,

26

Bùi Duy Tân, Hoàng Xuân Hãn khi bàn về truyện Song Tinh đều khẳng định:

“Truyện miêu tả một cuộc tình duyên tự do vượt ra khỏi sự ràng buộc của lễ

giáo phong kiến hẹp hòi và cường quyền... cuối cùng kết thúc bằng sự thắng

lợi của tình yêu chung thủy”.

Tác giả Nguyễn Hữu Hào đã thành công khi xây dựng mối tình giữa hai

nhân vật Song Tinh và Nhụy Châu. Mặc dù, trong lời Tựa, Hoàng Xuân Hãn

đánh giá là “truyện Song Tinh không uyển khúc như Truyện Kiều của Nguyễn

Du về tình cảm, để lại cho độc giả ấn tượng kém sâu sắc” nhưng mối tình ấy

vẫn là một mối tình đẹp, thể hiện khát vọng trong yêu đương rất mạnh mẽ. Thực

tế, đến thế kỷ XVII Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đã có 5/20 truyện gián

tiếp ca ngợi tình yêu tự do nhưng thế giới ấy vẫn là thế giới của những con

người sống chìm đắm trong bể dục ma quái, mộng mị chưa thực sự gắn với con

người trần tục đời thường. Truyện Song Tinh Bất Dạ là truyện mở đầu của dòng

truyện Nôm bác học, hơn nữa lại là truyện tài tử - giai nhân nói chuyện nam nữ

yêu nhau, khẳng định khát vọng hạnh phúc lứa đôi theo một cách khác gần với

cuộc sống thực hơn, qua đó, phần nào thẳng thắn, trực tiếp thể hiện tư tưởng

tiến bộ chống lại lễ giáo phong kiến.

Trong Song Tinh Bất Dạ, chữ “thân” thể hiện trước hết ở khát vọng về

một tình yêu tự do không theo quan niệm của lễ giáo. Nói như vậy, không thể

khẳng định ngay rằng truyện đã phủi sạch trơn hết những vấn đề của đạo đức

Nho giáo. Vì xuất hiện ở thời kì đầu, trong sự giao thoa giữa hệ tư tưởng cũ và

mới cho nên Song Tinh Bất Dạ vẫn còn dấu ấn truyền thống bởi vẫn học hành

thi cử đậu đạt làm quan, theo chí hướng nam nhi, vẫn làm trọn đạo vua tôi, hoàn

thành nghĩa vụ với đất nước, nhưng cái chính là trong tư tưởng của con người

đã dần thay đổi, thoát li, luôn luôn hướng đến tình yêu, hạnh phúc cá nhân.

Điều đó, ngay từ đầu một phần đã thể hiện qua cuộc đối thoại giữa Song Bà và

Song Tinh. Nho giáo luôn quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, theo ý

27

muốn của cha mẹ, theo khuôn phép của gia quy. Song Bà nghĩ tới chồng mình

tuy đã mất nhưng từng làm quan cao, bà giục con lấy vợ sớm kẻ người ta quên

gia thế nhà mình: “Đương khi thế thái trọng vì/ Dễ lời môi ước, tiện bề hôn

nhơn/ Trước là phỉ thửa dạ con/ Sau thì lòng mẹ, kẻo còn phòng mang”. Song

Tinh tuy thương mẹ một mình nuôi hai con khôn lớn, nhưng vẫn lấy lời lẽ của

kẻ làm con không dám quên đạo “tam cương ngũ thường” và để chờ “Nguyệt

lão xe tơ”. Bởi đương tuổi ăn học nên chàng vẫn muốn đi học theo đạo Khổng

sân Trình, thi cử đỗ đạt, còn duyên vợ chồng thì chờ người xứng đôi:

Con rày muốn trẩy phương xa,

Trước là du học, sau là cầm duyên,

Mặc cơn kỳ ngộ dẩy dun,

Trăng già mối kết, đào non thơ bài.

Giai nhân tài tử sánh hai,

Đạo hòa cầm sắt, duyên hài phượng loan.

Có thể thấy chàng Song Tinh đã ý thức rõ rệt về hạnh phúc riêng tư của

mình cho nên đã từ chối chuyện hôn nhân theo sự sắp đặt, định sẵn của gia đình.

Phần nào cho thấy con người giai đoạn này đã tự quyết định lấy bản thân mình,

không đi theo lối mòn của lễ giáo, cha mẹ cũng đã để con nói lên tâm tư nguyện

vọng và đi tìm hạnh phúc cá nhân. Bởi sự ý thức đó mà sau này Song Tinh mới

có những hành động đi theo tiếng gọi trái tim một cách mạnh mẽ hướng đến

một tình yêu tự do, từ ốm tương tư, vật vờ mơ màng đã tìm cách nói dối người

hầu “Một mình rén tới thửa cong tệ đường” chờ người yêu.

Trong truyện Nôm tài tử - giai nhân, chủ yếu là những con người thị tài,

đa tình, sống chủ tình, vị tình, chứ không lụy công danh. Cho nên, chàng Song

tuy vẫn muốn đi học nhưng đó chỉ là cái cớ để được đi tìm tình yêu của riêng

mình, tiếng gọi tình yêu tự do mạnh hơn vấn đề lí tưởng, danh vọng. Nhân vật

Song Tinh, được xây dựng đi ngược lại cái chuẩn mực của lễ giáo nho phong

28

đã định cho những người quân tử. Những điều luôn được răn dạy trung hiếu

làm đầu, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, những sứ mệnh cao một phần

vẫn được thực hiện nhưng giờ chẳng còn nghĩa lý gì ngoài một mảnh tình con

và chút má hồng. Ngay sau khi được gặp nhau đôi trai tài gái đẹp đều bị ái tình

dao động “Dắc duyên đã hợp bốn dòng thu ba” tức là bốn làn sóng mắt đã dắt

díu duyên ưa và cả hai đều đã “Tương tư từ kết hai lòng/ Kẻ chờ cá nhảy người

trông chim truyền” đều mong đợi tin nhau. Sau khi Song Tinh đọc xong bài

thơ Vịnh yến của người đẹp và được gợi ý ra vườn tây nhà để cảm nhận thơ

vịnh nàng viết thì tiếng gọi tình yêu khiến chàng liền chớp ngay cơ hội muốn

cùng nàng ra vãn cảnh vườn xuân để tỏ rõ tâm nguyện yêu dấu của mình. Rõ

ràng, chàng trai đã mạnh dạn nắm thời cơ để thể hiện, bày tỏ tình cảm của mình

với cô gái. Song Tinh lụy tình, ốm tương tư mà sinh trọng bệnh, bút nghiên chí

nản, “Sách đèn từ ấy, dọc ngang biếng nhìn/ Hảo cầu luống nghĩ một thiên/

Mảng ham nuôi ngựa mà quên cưỡi kình”, thậm chí là ngất lên xỉu xuống không

dưới bốn lần. Chàng ý thức được vị trí của mình, vẫn giữ luân thường, giữ đạo

con nuôi: “Một là phận tiện, hai là nghĩa con” và biết mình “Ba là hoàng các

chu môn/ Hạc bầy dễ khứng chim còn sánh lông” cho nên chàng đã quyết định

“chờ ngày Cửa Vũ hóa rồng” để sánh duyên cho hợp với nàng. Khát vọng tình

yêu của chàng Song cũng rất mạnh mẽ ngay khi mới đỗ đầu kì thi hương chàng

đã “Kíp toan trở ngựa lại miền Thiệu Hưng” để gặp người yêu như đã hứa hẹn.

Như vậy, có thể thấy con người lúc này không quá lụy công danh, việc chàng

sau đó nghe lời mẹ đi thi để đậu cao thực tế là muốn “phận danh ngõ chính”

cho bằng với vị thế nhà Giang Ông. Kể từ Song Tinh về sau cũng xuất hiện ko

ít những chàng trai như Lương Sinh, Kim Trọng,... có tư tưởng muốn chinh

phục tình yêu, chiến thắng trong tình yêu trước khi lên đường thi cử, đỗ đạt.

Sau khi đỗ Trạng nguyên, có gã Đồ Công có ý muốn chàng làm con rể

nhưng chàng từ chối vì đã hứa duyên cùng Nhụy Châu, không chịu để cho

29

người khác hay bất kì một thế lực nào quyết định hôn nhân của mình. Khát

vọng tình yêu chân chính, tự do của chính mình thúc giục chàng luôn hướng về

người yêu nên viết thư về cho Giang ông “kíp đưa nàng tới cửa cong kinh kì”,

trước là cho Đồ công biết mình đã có người kết duyên, sau là “hoa chúc phải

thì giao loan”- nhanh chóng làm lễ cưới để được hưởng hạnh phúc vợ chồng.

Tuy trở về thì đã mất người yêu nhưng chàng luôn hướng về Nhụy Châu “Kiếp

này chẳng hợp đài gương/ Quyết dò đấy biển suối vàng thấy ai” thể hiện sự

chung thủy, một lòng. Kể cả khi buộc lòng phải cưới Thể Vân theo di thư của

Nhụy Châu nhưng Song Tinh vẫn quyết “Há mê tình dục dập dìu Vu Phong/

Ví khi màn ánh đèn chong/ Một nhà vầy hợp, hai phòng xin phân” không thể

vui vẻ với người mới mà quên tình cũ.

Nho giáo quan niệm “nam đáo nữ phòng nam tắc loạn, nữ đáo nam

phòng nữ tắc dâm”, những con người tài tử - giai nhân trong truyện thơ Nôm

giai đoạn này đã tự do tìm đến nhau và hứa hẹn đính ước trăm năm là một khát

vọng tình yêu táo bạo, vượt lên trên lễ giáo phong kiến. Nhụy Châu là một nhân

vật tiêu biểu nhất, xem như là người mở đường đi theo tiếng gọi tình yêu cá

nhân mà sau này ta thấy xuất hiện một nàng Kiều táo bạo hơn. Là một tiểu thư

khuê các thông hiểu tam cương ngũ thường, công, dung, ngôn, hạnh nàng một

mặt vẫn ý thức rất rõ về những quan niệm đạo đức Nho giáo, một mặt lại vì sự

tương tư trọng bệnh của người trong mộng mà tự ý hẹn hò, thề thốt chuyện trăm

năm với tâm niệm “Trong cơn nguy hiểm chi nề tiết danh”. Nàng một mặt ngại

ngùng “khí tượng đeo hồng”, “chân hòng bước lui” mỗi khi gặp chàng nhưng

một mặt lại tương tư, thương nhớ than rằng “...Dòng Hán bao sâu/ No nao ô

thước bắc cầu Ngân Giang”, “vì ai nỗi để lòng mang não sầu?”. Nàng sai Thể

Vân đến hẹn với người yêu nơi gặp gỡ:

“Mày tua kíp tới ngỏ tình

Hẹn lời tận mặt tệ đường ngày mai.”

30

Điều đáng trân trọng ở mối tình Song Tinh và Nhụy Châu là bởi nó bắt

nguồn từ một tình yêu tự do, đôi lứa đến với nhau trên cơ sở tự nguyện chứ

không phải do mối lái hoặc thế lực phong kiến nào quyết định, phá vỡ dần

những quan niệm cha “mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, “trung, hiếu, tiết, hạnh” hằn

sâu trong tâm thức con người trung đại.

Song Tinh được Nhụy Châu trao lời thề rằng sông cạn núi mòn lòng cũng

thay đổi và khuyên chàng nên tu chí học hành cho đỗ đạt: “Thủy chung muốn

vẹn, tiết danh chẳng nề/ Mệnh này đã phó tay kia/ Đá mài sông dải chẳng khuy

tấc lòng.” Từ đó, tinh thần Song Tinh lại tươi tỉnh, bệnh tật sầu muộn đều tan

sạch. Như vậy, ngay từ một truyện Nôm khởi đầu ta đã thấy những nhân vật

trai tài gái sắc có khát vọng tự do trong yêu đương, dẫn đến hành động táo bạo

tìm cách ra ngoài gặp nhau để tự do đính ước, thề bồi hứa hẹn. Kể từ mối tình

này về sau đã xuất hiện nhiều cặp đôi mạnh dạn, táo báo đi tìm tình yêu như

Phan Trần dám làm loạn nơi cửa thiền, hay Thúy Kiều đã tự mình “Xăm xăm

băng lối vườn khuya một mình” mà sang nhà Kim Trọng. Như vậy, có thể xem

Song Tinh, rồi Nhụy Châu là tiền thân, dự báo cho sự xuất hiện của những

chàng Phan nàng Kiều trong truyện Nôm các thế kỷ sau.

Là truyện Nôm tài tử - giai nhân khởi đầu, Song Tinh Bất Dạ đã xây dựng

nhân vật nữ tự tử đầu tiên. Sau Nhụy Châu cũng không ít người như Ngọc

Khanh (Truyện Hoa Tiên), Nàng Thúy Kiều (Truyện Kiều), Kiều Nguyệt Nga

(Truyện Lục Vân Tiên),... tìm đến cách quyên sinh, giữ mình vì tình yêu. Có

mấy ai dám nghĩ việc làm vợ thái tử là một sự nhơ danh, như nàng Nhụy Châu

và nhất định không muốn vào cung. Không chịu để cho bọn quyền thần định

đoạt số phận của mình trong chốn thâm cung, Nhụy Châu đã có ý định ngay từ

khi chưa lên thuyền: “Rắp toan gieo giếng đó vay?/ Lại e mất thỏ họa lây đến

rừng”. Nàng lại sợ hoạn quan mất mồi mà làm hại cả gia đình nên đi gần đến

đất kinh kì mới gieo mình. Hành động nhảy sông tự tận, không vâng mệnh vua

31

vào cung để chờ ngày chọn phi cho thái tử của Nhụy Châu vừa là một hành

động thể hiện được sự thủy chung, một lòng với tình nhân, vừa là hành động

thể hiện rõ sự chống đối quyết liệt với thế lực phong kiến định đoạt quyền tự

do hôn nhân của của người.

Hơn thế, khát khao tình yêu, hạnh phúc cá nhân được thể hiện rõ rệt và

táo bạo hơn cả là ở khát vọng được hưởng hạnh phúc ái ân vợ chồng. Nếu như

văn học thế kỷ X - XVII đề cao con người lí tưởng và xem thường, coi khinh

những con người thể hiện tâm tưởng dục vọng tầm thường, thì sang thế kỷ

XVIII văn học đã có Song Tinh Bất Dạ mở đầu với nhu cầu tình dục rất đời

thường. Ở cuối truyện, tác giả Nguyễn Hữu Hào đã tả rất chân thực, trực diện

cái khát vọng trần tục nhất của con người trong phòng the. Sau bao nhiêu ngày

xa cách, Song Tinh và Nhụy Châu quấn quýt trong phòng tân hôn cho thỏa nỗi

nhớ mong: “Xuân sang hoa cỏ gặp thì/ Nhụy đòa mơn mởn tuyết, cánh quì

đượm sương/ Mây vần chặp chặp Đài Dương/ Chưa thôi nắn nguyệt lại xoang

chày kình/ Đảo chày đã trướng lại bình/ Má đào phấn quẹn, tóc xanh lỏng cài.”

Cảnh ái ân chốn buồng the được tác giả miêu tả rất sống động không gây cho

người đọc cảm thấy sống sượng, thô tục mà dưới lớp ngôn từ ước lệ ta thấy

được sự thỏa mãn cái khát vọng trần tục nhất của con người trong hạnh phúc

yêu đương. Văn học trung đại ít được nói đến những vấn đề tình dục, vậy mà

bước sang giai đoạn này, Nguyễn Hữu Hào đã tả rất sống động những cảnh mà

lễ giáo phong kiến không cho phép. Như vậy, Song Tinh Bất Dạ chẳng phải là

tác phẩm thể hiện được những thay đổi trong tư duy nghệ thuật hướng tới những

vấn đề tình yêu, hạnh phúc đời thường hay sao?

Trong Song Tinh Bất Bạ còn có một nhân vật táo bạo, liều lĩnh hơn trong

việc thể hiện khát vọng tình yêu mà lại là nhân vật người hầu. Một người con

gái, sống trong bối cảnh không gian văn hóa đầu TK XVIII lại dám đưa ra

phương thuốc “Đem người mà chữa cho người mới yên”, thì có lẽ chẳng mấy

32

ai táo bạo hơn nàng hầu Thể Vân của Song Tinh Bất Bạ. Cô nàng Thể Vân lanh

lợi ấy khá táo bạo và tinh nghịch khi dám trêu chọc chàng Song Tinh, người

vừa là khách vừa là con nuôi của gia đình chủ, sao không liều bỏ dăm ba lạng,

tìm khách hương phấn mà thỏa lòng ham muốn cá nhân ở nơi kín đáo, cần gì

phải tưởng tượng, một mình than thở với bức vách: “Liều năm ba lạng đỡ khi

ngặt ngào/ Hơi đâu vẽ nguyệt điểm sao/ Reo cười nhà vắng, than chào vách

không”. Có lẽ trong thời phong kiến, hiếm có cô người hầu nào táo bạo như cô

nàng này.

Thể Vân là một trường hợp đặc biệt trong văn chương trung đại, nhất là

ở một tác phẩm mở đầu. Từ một nàng hầu thuộc tầng lớp bình dân, cô bước vào

thế giới thượng lưu, là con nuôi, là em kết nghĩa của tiểu thư Nhụy Châu, sau

đó trở thành phu nhân quan trạng. Ở nhân vật này, biểu hiện của chữ “thân” thể

hiện khá rõ, không chỉ ở sự táo bạo trong tình yêu mà còn ở ý thức về thân phận,

số phận người phụ nữ. Ngay từ khi biết được nỗi lòng của Nhụy Châu và ý thức

được cái hữu hạn của tuổi trẻ: “Người đời thường ngựa qua song/ Xuân qua

thu lại má hồng dễ phai”,“Khá thương phận gái quá thì trở duyên.” Cô dám

khuyên chủ nên phá rào đi theo tiếng gọi của trái tim “quyết liều chiêu bướm,

ắt lần nếm châu” để có được tình yêu với chàng Song.

Với một sự sắc sảo, quyết đoán và liều lĩnh, táo bạo như vậy, Thể Vân

đã tạo ấn tượng về một trong số ít những cô gái của văn chương trung đại nói

riêng và xã hội phong kiến nói chung dám chủ động định đoạt cuộc sống của

mình. Nàng một mặt ý thức được thân phận mình là người hầu “Rằng: sinh

phận tiện hồng nhan/ Dung nghi tuy chẳng sánh miền yên hoa”- sinh phận con

gái, mặt mũi hình dáng không được tốt đẹp. Bởi vậy, khi nhận “sứ mệnh” mà

Nhụy Châu giao phó, cô hiểu rằng chàng Song có thể từ chối cô nhưng cô vẫn

nhận lời. Là phận con gái, tuy là người hầu hay chỉ thay người làm tròn đạo

nghĩa thì ở Thể Vân vẫn khao khát có được yêu đương, hưởng hạnh phúc cá

33

nhân. Bởi vậy nên cô “nửa thương nỗi chị, nửa trông tin chàng”, và cũng lo

lắng cho bản thân mình khi không biết chàng Song đi sứ bao giờ mới trở về.

Cô tìm cách nhắc chàng vì “thương lan” mà hãy “đoái trúc”, nhất là khi Nhụy

Châu đã thủ tiết vì chàng mà thành người thiên cổ. Cô càng sắc sảo hơn khi

muốn chàng Song phải đến tận nơi gặp nàng để trao bức tin thư để rồi dùng lời

lẽ buộc Song Tinh vào danh dự của người quân tử, nhắc chàng nhớ lời hẹn ước

cùng Nhụy Châu rồi tiếp tục buộc chàng vào những lời khắc khoải trong bức di

thư của Nhụy Châu. Nghĩa là, Thể Vân đang từng bước buộc chặt Song Tinh

vào với chính mình. Có thể mọi người sẽ nghĩ cô nàng tham lam nhưng mấy ai

hiểu được cái khát vọng trần tục đời thường được yêu đương, hạnh phúc của

người phụ nữ khi rơi vào cảnh “khát đứng bờ ao”,“đói ăn bánh vẽ, chiêm bao

thấy vàng”. Mấy ai hiểu được đêm tân hôn mà hai phòng chia cách, “hoa xuân

tới kì” mà “ong bướm bặt hơi” nàng thổ lộ “Phu thê dù chẳng xứng tình/ Kết

làm bằng hữu muội huynh ngại gì?” mong “Cũng xin đoái thiếp trăng hoa thẹn

thùng”. Là một truyện Nôm bác học có tính chất khởi đầu, Song Tinh Bất Dạ

đã xây dựng được một nhân vật người hầu đầu tiên có sự thay đổi táo bạo trong

số phận, vừa có một khát khao yêu đương mạnh mẽ, vừa ý thức thân phận của

người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Mà sau này, có Vân Hương và Bích

Nguyệt trong truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự cũng táo bạo, phóng khoáng

trong quan niệm về tình yêu và hôn nhân nhưng về cơ bản vẫn nằm trong khuôn

khổ của lễ giáo phong kiến.

Như vậy, cả ba nhân vật Song Tinh, Nhụy Châu, Thể Vân đều sống hết

mình, mạnh dạn, táo bạo thể hiện khát vọng tình yêu tự do, hạnh phúc lứa đôi

chính đáng. Điều đó cho thấy truyện Nôm thế kỉ XVIII đã thể hiện con người

với nhu cầu chính đáng trần tục đời thường là được yêu đương, hưởng hạnh

phúc ái ân. Con người giờ đây xem xét chủ yếu trong phạm vi của chữ “thân”

là nhu cầu cá nhân, không đi sâu vào vấn đề con người với trách nhiệm xã hội

34

và đã phá vỡ những quy phạm để chủ động nói lên tâm tư tình cảm của mình,

chống lại lễ giáo phong kiến, thói cưỡng bức hôn nhân của cường quyền. Từ

đó cho thấy Song Tinh Bất Dạ đã thể hiện tư duy nghệ thuật rất táo bạo, mới

mẻ, dấu mốc quan trọng trong tư duy của văn học trung đại Việt Nam.

2.2.2. Thể hiện qua khát vọng lứa đôi vượt qua các thế lực đen tối

Mặc dù sang thế kỉ XVIII, ý thức hệ phong kiến dần lung lay, những

khuôn vàng thước ngọc của Nho giáo dần rạn nứt nhưng vẫn còn ảnh hưởng và

tác động dai dẳng trong cuộc sống và trong văn học. Trong việc bảo vệ hạnh

phúc cá nhân bị hiện thực phũ phàng và các thế lực đen tối dồn nén, trở thành

rào cản, trở ngại, con người càng ý thức về quyền sống tự do, tình yêu lứa đôi,

hạnh phúc cá nhân mạnh mẽ hơn. Song Tinh Bất Dạ là tác phẩm khởi đầu khẳng

định rằng càng đặt trong những hoàn cảnh khó khăn, khốc liệt, con người lại

càng vươn lên thể hiện khát vọng tình yêu cá nhân, muốn vùng vẫy vượt qua

tất cả những trắc trở để đến được hạnh phúc cuối cùng viên mãn.

Theo như T.S Nguyễn Thị Nhàn có nhiều nguyên nhân trắc trở trong tình

yêu như do đôi bên nam nữ hiểu lầm nhau, do cha mẹ sắp đặt hôn nhân, do gia

đình mắc tai họa, do tệ nạn xã hội, và do những thói xấu sẵn có trong phần u

tối của con người,...

Trước tiên, mối tình chàng Song và Nhụy Châu trong Song Tinh Bất Dạ

gặp trắc trở là do thói xấu sẵn có trong phần u tối của con người đó là thói ganh

tỵ, thích đưa chuyện của cô hầu Nhược Hà. Con người được thể hiện với tất cả

những nét tính cách của con người đời thường trần tục, chứ không phải những

tính cách cao cả, nhân, lễ, nghĩa, trí, tín,... của bậc hiền nhân quân tử. Việc xây

dựng nhân vật người hầu ở tầng lớp bình dân có vai trò quan trọng trong việc

thể hiện những tư tưởng, tình cảm của con người đời thường. Mặc dù là người

với thân phận tôi tớ nhưng nhân vật này lại có phần tác động không nhỏ đến

tâm tư, tình cảm của chàng Song. Sau khi nghe Song Tinh than thở về lời một

35

người bạn khuyên chàng “toan bề thật rể chẳng thà giả con”, lúc đầu Nhược

Hà tỏ ra đồng thuận với ý kiến này, rồi cô nàng nói thêm một câu: “Nuôi con

thật rể thế hòng loạn luân”. Lại thêm khi Sinh hỏi “Chẳng hay tiếng ấy ngươi

luần hay ai?” thì Nhược Hà lập tức chối bay chối biến và đẩy sang cho tiểu thư:

“Dịp nhân từng thấy tiểu thư/ Giảng luần đạo lý lời xưa dặn bày”. Cô nàng

khiến cho chàng thư sinh chao đảo, sinh bệnh thất tình. Khi cần, cô nàng này

đã biết đem đạo lý để nói đạo lý, biến cái vô tình thành cái hữu ý, đánh trúng

vào tâm trạng phấp phỏng, nghi ngờ của Song Tinh khiến chàng càng thêm

hoang mang, lo lắng. Ngay từ những bước đi đầu tiên, tình yêu của tài tử - giai

nhân đã gặp một nỗi trắc trở bởi vị thế con nuôi mà mang tiếng loạn luân. Kiểu

người ganh ghét, đố kỵ chuyên phá đám chủ của Nhược Hà đã trở thành một

trong những nguyên nhân dẫn đến nam nữ phải lo lắng, hoang mang sợ không

đến được với nhau. Tuy nhiên, càng đặt trong tình cảnh cấm đoán, trớ trêu thì

đôi Song Tinh và Nhụy Châu càng chạy theo tiếng gọi tình yêu, tìm cách đến

với nhau để được hứa hẹn, định ước nhờ sự giúp đỡ của Thể Vân. Rõ ràng,

Song Tinh và Nhụy Châu không có quan hệ huyết thống, chỉ có danh nghĩa anh

em nuôi, lại xa cách lâu ngày chưa hề biết nhau. Hai nhân vật này khi được đặt

trong những tình cảnh éo le, trớ trêu của định kiến xã hội lại càng muốn vươn

lên thể hiện khát vọng tình yêu chính đáng.

Truyện Song Tinh Bất Dạ là “tác phẩm mở đầu cho trào lưu truyện thơ

tài tử - giai nhân” (chữ dùng của Trần Đình Hượu). Bởi vậy, sau khi chuyện

tình yêu của Song Tinh và Nhụy Châu gặp trắc trở dẫn đến chia ly thì trên văn

đàn văn học thế kỉ XVIII đã xuất hiện không ít những câu chuyện tình yêu khác

ly biệt như Dao tiên và Lương Sinh yêu nhau say đắm nhưng cha mẹ bắt chàng

trai kết duyên với Ngọc Khanh (truyện Hoa tiên), Quân Thụy và Oanh Oanh

phải xa nhau vì Thôi phu nhân nuốt lời hứa (Truyện Tây Sương), Kim – Kiều

36

cũng đã thề nguyền hứa hẹn nhưng gia đình gặp tai biến mà cách trở suốt mười

lăm năm kiếp đoạn trường (Truyện Kiều),...

Bên cạnh đó, gia đình mắc tai họa do các thế lực cường quyền xấu xa

cũng đã đẩy một số chàng trai, cô gái chia lìa để chứng tỏ được sức mạnh của

tình yêu đôi lứa. Hứa hẹn chưa được bao lâu Song Tinh phải lên kinh ứng thí,

Nhụy Châu lại bị lên Hách Sinh con Hách Nguyên nhung, cậy thế cậy quyền

đến cầu hôn không được sinh lòng căm tức tìm cách trả thù: “Trai đâu luống

chịu mặt dày/ Trời kia còn đội, thù này chẳng quên.” Đúng lúc vào đầu mùa

xuân, vua ngầm truyền chia cho các hoạn quan phải đi tìm ở các thị trấn những

người con gái đẹp để bổ sung và cung thái tử. Tên tiểu nhân Hách Sinh không

có được người đẹp liền đạp đổ dùng mưu kế đẩy nàng Nhụy Châu vào tay tên

công công Doãn Diêu nhằm phá hoại hôn nhân của họ Giang. Như vậy, con

người mang những đặc điểm tính cách xấu như ghen ghét đố kị, không ăn được

thì đạp đổ được đưa vào trong văn học bác học một cách chân thực, phản ánh

được những góc khuất rất đời thường của con người.

Không giống như truyện Kiều đặt vào chính trị thực tế “năm Gia Tĩnh

triều Minh”, truyện Song Tinh Bất Dạ chỉ là “chuyện phiếm đặt vào thời phong

kiến nào cũng được, và cũng có thể xảy ra ở nước ta” [5; 6]. Nhưng qua đó, tác

giả phần này đã nói lên những kiểu luật lệ phong kiến chung như vua tuyển

chọn mỹ nhân đã khiến cho bao cô gái xinh đẹp như Nhụy Châu phải xa rời gia

đình, chia lìa người yêu vào chốn thâm cung chờ ngày được sủng ái. Các thế

lực đen tối gây tai họa cho người vô tội là nhà vua và bọn gian thần. Doãn công

công như bắt được vàng “lòng mừng chẳng khác nghìn vàng đến tay” cứ thẳng

nhà Giang Ông mà đến không cần đi tìm ở đâu cả. Tai biến ập đến đột ngột

khiến cho gia đình họ Giang không khỏi lo lắng bất an cho con gái, còn Nhụy

Châu thì đành phải nhờ Thể Vân thay mình nối duyên với Song Tinh. Tình yêu

đầu đời tan vỡ, dù đã phá rào mà hẹn gặp thề nguyền với nhau nhưng các thế

37

lực đen tối đã đẩy nhân vật chính vào tình cảnh éo le. Nhụy Châu buộc phải

nhờ Thể Vân:

- “Mai sau chàng có về đây,

Duyên xưa tác hợp, cậy mà thế tao.

Em cùng chàng hợp loan giao,”

- “Một là phỉ thửa duyên hài,

Hai là phụng dưỡng song đài vậy vay.

Ba là ưng thửa dạ này,

Trước an kẻ khuất, sau khuây người còn.”

Như vậy, nàng Nhụy Châu bị đặt trong ba tình thế khó xử. Một là tình

thế lệnh vua đã ban, không thể chối cãi. Hai là, lòng hiếu của một người con,

nàng không thể để cha mẹ liên lụy khi định tự vẫn nhưng còn nghĩ sợ tên hoạn

quan mất mồi mà họa lây đến bậc sinh thành. Ba là, lòng thủy chung của nàng

với người yêu, đã thề bồi cùng chàng Song nhưng tai biến bất kì nên buộc nàng

phải nhờ Thể Vân thay mình lấy Song Tinh. Chính những thế lực phong kiến

đen tối đã trở thành rào cản khiến cho tình yêu của đôi trai gái phải xa lìa nhau,

ép chặt người con gái mỏng manh vào những khuôn khổ của đạo đức xã hội.

Hành động tự tử, quyết một phen “chơi miền thủy cung” của Nhụy Châu thể

hiện sự mạnh mẽ, quyết liệt chống đối lại các thế lực phong kiến để bảo vệ danh

tiết, thủy chung với người yêu, mong muốn được tự do trong tình yêu và hạnh

phúc cá nhân.

Khi “Bàn về Nguyễn Đình Chiểu - người nghệ sĩ từ và trong truyện Nôm”

Trần Đình Hượu nhận định: “hai nhân vật chính này trải qua những tình tiết hội

ngộ, trắc trở, chịu gian nan để giữ chung thủy cuối cùng được đoàn viên hưởng

hạnh phúc.” [9; 182] Không chỉ Nhụy Châu, phải chịu cảnh hồng nhan bạc

mệnh mà người như Song Tinh cũng phải chịu số phận tài tử đa cùng. Chàng

Song Tinh sau khi thi cử đỗ đạt, “Long đầu giáp đệ Trạng Nguyên” thì có quan

38

phò mã họ Đồ vì trọng tài mà kiếm người đưa mối muốn gả con gái cho. Chàng

quả quyết “Đã định duyên hài bố kinh” khiến cho Đồ Công “Quyết ý nghiêng

mình thù tây”,“Dương lời công tiến, tiếm toan tư thù”, đẩy chàng đi sứ đến

vùng nguy hiểm. Thế lực phong kiến cậy quyền, cận thần mà tìm cách trả thù

khiến cho tài tử vừa vinh danh bảng vàng chưa kịp về thăm cha mẹ và người

yêu đã phải làm việc công cho đúng đạo làm tôi của Nho giáo: “Tang bồng là

chí nam nhi/ Sá chi hải gốc thiên nhai dặm trường.” Nhưng người tài tử trong

truyện Nôm được xây dựng là những người có tài và luôn hướng về tình yêu

của mình nên cuộc đời nhiều sóng gió vẫn vượt qua và dành chiến thắng để trở

về hưởng trọn vẹn hạnh phúc bên người thề bồi hẹn ước trăm năm. Chàng Song

Tinh với cái tài đối đáp đường hoàng trôi chảy đã thuyết phục được vua quan

nước phiên theo chân thiên tử. Chàng trở về với tư thế oai vệ, lòng mừng vì đã

làm tròn sứ mệnh quốc gia nhưng khi về đến Thiệu Hưng thì mất người yêu,

khiến chàng ngây người bất tỉnh, nước mắt ròng ròng thương nhớ Nhụy Châu.

Thế nhưng tình duyên trắc trở đến đâu, người tài tử - giai nhân cũng được

trở về bên nhau. Tác giả Nguyễn Hữu Hào đã mở đầu thiên truyện:

“Cùng sinh nhúc nhích dưới trời

Khỏi loài rằng lạ, hơn người rằng ngoan.

Định tình biết đủ mới an,

Trải tường sự vật, mấy trang anh hùng!”

Tức là: con người sinh ra đông đúc sàn sàn như nhau. Kẻ xuất chúng thì

xem là lạ, kẻ hơn người thì gọi là ngoan. Sự hôn nhân có nhiều chướng ngại,

có trải qua đủ những biến cố éo le thì con người mới đến được với nhau. Tuy

Nhụy Châu và Song Tinh không trải qua nhiều hoạn nạn, hết nạn này đến nạn

kia như Kim – Kiều của Nguyễn Du, nhưng qua khó khăn trắc trở dù nhiều hay

ít cũng đã khẳng định được tình yêu của nhân vật tài tử - giai nhân đã vượt lên

mọi hoàn cảnh để đến được đích cuối cùng là hôn nhân, hạnh phúc gia đình.

39

Hơn thế, nàng Nhụy Châu trải qua cuộc bể dâu vẫn giữ được trọn vẹn danh tiết

mà trở về bên chàng Song. Song Tinh cũng khuất phục được các nước chư hầu

oai phong trở về kết duyên cùng hai người con gái tốt.

Như vậy, hiện thực cuộc sống, các thế lực phong kiến đã đẩy con người

vào những tình thế éo le mà chia li trắc trở. Cũng chính nhờ đó mà càng khẳng

định được vấn đề chữ “thân” qua tình yêu của con người, vượt lên trên lễ giáo

phong kiến và hiện thực khắc nghiệt để đến với hạnh phúc đời thường của mỗi

cá nhân. Con người giờ đây không quá đặt cao vấn đề đạo đức, công danh lên

trên hết mà dần đi tìm cho mình hạnh phúc riêng tư, sống cho bản thân.

Tiểu kết chương 2

Là truyện Nôm bác học tài tử giai nhân đầu tiên nói về tình yêu nam nữ,

xuất hiện đầu thế kỉ XVIII, Song Tinh Bất Dạ đã thể hiện khát vọng tình yêu

trần tục đời thường của con người thông qua chuyện tình yêu của ba nhân vật

Song Tinh, Nhụy Châu và Thể Vân. Truyện thể hiện sự vùng vẫy, vượt lên trên

lễ giáo phong kiến và các thế lực đen tối để khẳng định tình yêu tự do, hướng

đến hạnh phúc cá nhân chính đáng của con người trong văn học trung đại Việt

Nam. Song Tinh Bất Dạ đã trở thành một dấu mốc quan trọng trong việc thay

đổi tư duy nghệ thuật từ chữ “tâm” của con người lí tưởng, đạo đức, trách nhiệm,

nghĩa vụ cao cả sang chữ “thân” của con người cá nhân đời thường với những

khát vọng yêu đương trần tục.

40

Chương 3

NHỮNG PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT

3.1. Cốt truyện – Kết cấu

Về khái niệm cốt truyện T.S Nguyễn Thị Nhàn dẫn trong Thi pháp cốt truyện

truyện thơ Nôm và Truyện Kiều, thường được hiểu theo một số cách như sau:

“Cốt truyện là một hệ thống cụ thể những biến cố ở trong tác phẩm, hệ

thống đó bộc lộ các tính cách trong những mối quan hệ và tác động qua lại của

chúng” (L.I.Timôfêép) [17; 72].

“Cốt truyện là hệ thống các biến cố trong trật tự nghệ thuật đã được lựa

chọn sắp xếp” (Trần Đình Sử) [17; 72].

Theo một cách diễn đạt khác thì, “cốt truyện trải qua một tiến trình vận

động có hình thành, phát triển và kết thúc [...]. Mỗi cốt truyện thường bao gồm

các thành phần: trình bày, khai đoạn (thắt nút), phát triển, đỉnh điểm (cao trào)

và kết thúc (mở nút)” [17; 72].

Điểm khác biệt dễ nhận thấy đầu tiên của hầu hết các truyện Nôm bác học

như Truyện Hoa tiên, Truyện Kiều, Nhị độ mai… là sự vay mượn cốt truyện

của Trung Quốc. Truyện Song Tinh Bất Dạ là truyện Nôm bác học đầu tiên vay

mượn cốt truyện truyện Định Tình Nhân (khuyết danh) của Trung Hoa, thể hiện

được tính chất đánh dấu một bước quan trọng trong việc hình thành thể loại

này. Kể từ sau Nguyễn Hữu Hào không ít tác giả như Nguyễn Huy Tự mượn

bản Đệ bát tài tử Hoa tiên ký, Truyện Phan Trần mượn Ngọc Trâm ký của Cao

Liêm, Nguyễn Du mượn truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài

Nhân,... để làm phong phú thêm cho văn học truyện Nôm nước nhà.

Truyện Song Tinh Bất Dạ là truyện vay mượn cũng “tuân theo mạch lạc

nguyên tác, không thêm nhân vật hay hành động gì” song vẫn chủ động “bỏ

những tiết đoạn rườm rà không cần cho cốt truyện” [4; 6,7]. Ở điểm này, Hoàng

41

Xuân Hãn đã nói khi giới thiệu Song Tinh Bất Dạ đến với độc giả. Theo ông,

trong 16 hồi của Định tình nhân đã có tới “hai hồi rưỡi kể chuyện Hách Sinh

cầu hôn Nhụy Châu mà không được rồi quyết tâm trả thù” [5; 28]. Song Nguyễn

Hữu Hào đã rút lại vào 24 vế (từ vế 1071 đến 1102), vì nguyên truyện đã thêm

vào nhiều nhân vật và hành động, đối thoại không có ích gì cho ý “định tình

nhân”. Mặc dù, việc lược bớt chi tiết này làm giảm đi tính cách hiện thực của

tiểu thuyết Trung Quốc, nhưng lại có tác dụng làm nổi bật cốt chính của truyện.

Điều này góp phần thể hiện sự sáng tạo của tác giả trong quá trình tiếp nhận

văn học Trung Hoa. Cũng từ đó, các tác giả của truyện Nôm bác học tuy vay

mượn nhưng cũng ý thức trong việc sáng tạo và thêm thắt các chi tiết để nội

dung truyện gần với hiện thực cuộc sống xã hội Việt Nam.

Thứ hai, về phương diện kết cấu, có thể hiểu kết cấu là hệ thống những

yếu tố, những mối quan hệ, liên hệ giữa bộ phận và tổng thể. Kết cấu là toàn

bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm [3; 156]. Nó sắp xếp, gắn kết

toàn bộ các yếu tố, thành phần để tạo nên một sinh thể nghệ thuật toàn vẹn.

Không có kết cấu, những yếu tố, những thành phần chỉ là những mảnh vụn rời

rạc. Như vậy, kết cấu là một phương tiện cơ bản của sáng tác nghệ thuật.

Có nhiều hướng khi nghiên cứu mô hình kết cấu truyện thơ Nôm, TS.

Nguyễn Thị Nhàn đã có công trình nghiên cứu về mô hình kết cấu truyện thơ

Nôm. Nhà nghiên cứu đưa ra hai mô hình mới: mô hình kết cấu cốt truyện thơ

Nôm theo trình tự thời gian và mô hình kết cấu cốt truyện thơ Nôm không theo

trình tự thời gian, trong đó lại chia nhỏ thành nhiều loại.

Truyện Nôm là tác phẩm tự sự và dường như “các truyện Nôm đều cho

thấy một cấu trúc truyện tương đồng” [16; 19]. Truyện Song Tinh Bất Dạ được

xây dựng theo mô hình ổn định của hệ thống cốt truyện với ba sự kiện cơ bản:

Gặp gỡ – Tai biến – Đoàn tụ. Là truyện Nôm bác học có vai trò khởi đầu truyện

Song Tinh xây dựng mô típ chàng trai là tài tử con nhà trâm anh thế phiệt, có

42

chí hướng học hành theo cửa Khổng sân Trình, đang trên đường đi tìm thầy

giỏi thì gặp cô gái Nhụy Châu xinh đẹp nên “bút nghiên chí nản” mà “son phấn

tình nồng”. Chàng muốn có được tình yêu trước rồi mới quay về nghiệp thi cử.

Từ đó, trên văn đàn truyện Nôm dần xuất hiện các nhân vật như Phương Châu

– Dao Tiên (Truyện Hoa Tiên), Kim Trọng – Thúy Kiều (Truyện Kiều),... Sau

khi gặp nhau họ tạm biệt ly để chàng lên kinh ứng thí. Rồi nàng bị ép duyên,

nhảy xuống sông thủ tiết, còn chàng cũng vì từ chối làm con rể kẻ phú quý mà

bị đẩy ra miền biên cương. Nhưng nàng được thần cứu giúp còn chàng lập nên

công trạng hiển hách. Họ đoàn tụ có được hạnh phúc viên mãn. Câu chuyện

diễn ra theo thời gian tuyến tính, chảy trôi từ trong quá khứ đến hiện tại. Với

vai trò là một truyện mở đầu, Song Tinh Bất Dạ đã hình thành một kết cấu ổn

định cho truyện Nôm bác học về sau.

Kiều Thu Hoạch có nhận xét như sau: “Về mặt xây dựng cốt truyện, hình

thái cấu trúc của truyện Nôm cũng vẫn là truyện cổ tích, tức là cấu trúc theo

mô hình kết thúc có hậu”. Ở đây, truyện Song Tinh Bất Dạ là truyện Nôm với

một cái kết có hậu, có phần còn ảnh hưởng của truyện dân gian. Đó là chi tiết

Thần Sông báo mộng cho người đầy tớ của Song Tinh cứu vớt Nhụy Châu lúc

tự tận và đưa nàng về sống bên Song Bà ở Thục Xuyên. Bên cạnh đó, nhờ tính

chất định tình mà chàng Song Tinh trở về vừa được hạnh phúc với người mình

yêu lại vừa có thêm một người vợ bé, theo quan niệm xưa thì như thế là có phúc.

Nhụy Châu cũng không bị thiệt gì đến thân vẫn giữ được tiết hạnh, trở về được

kết duyên cùng Song Tinh và có thêm người em nuôi thân tín cùng giúp đỡ

chồng. Phải có một tác phẩm mở màn ở vào giai đoạn giao thoa như truyện

Song Tinh Bất Dạ thì sau này, đến Truyện Kiều mới có một đỉnh cao mới. Nhân

vật Thúy Kiều sau này được trở về đoàn tụ cùng chàng Kim Trọng cũng chỉ có

thể “cầm sắt đổi ra cầm kì” chứ không thể chung chồng với em như Nhụy Châu.

Dường như đến Truyện Kiều, truyện Nôm đã hướng đến tư duy tiểu thuyết, gần

43

với hiện thực, kết thúc theo logic cuộc sống, chứ không như truyện cổ tích dân

gian phủ một lớp màu nhiệm kì ảo.

Truyện Song Tinh Bất Dạ với tư cách là bước khởi đầu của truyện Nôm

bác học đã cho thấy cốt truyện tuy vay mượn của tiểu thuyết Trung Quốc nhưng

kết cấu chặt chẽ, tình tiết phong phú, không rườm rà, thể hiện được tài năng và

sáng tạo của tác giả Nguyễn Hữu Hào. Nhờ sự sáng tạo ấy, truyện được dựng

lên như vừa có chủ tâm nghệ thuật, vừa ngẫu nhiên, đơn giản, tinh tế. Với cách

kết cấu như vậy, truyện Song Tinh Bất Dạ đã xây dựng kiểu kết cấu ổn định

cho truyện Nôm bác học đời sau và đánh một dấu mốc đầu tiên trong việc hình

thành tư duy nghệ thuật mới về phương diện nghệ thuật.

3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

Nhân vật văn học là những con người được miêu tả trong tác phẩm bằng

phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay sơ lược,

sinh động hoặc không rõ nét, xuất hiện một lần hoặc nhiều lần, giữ vai trò quan

trọng nhiều, ít hoặc không làm ảnh hưởng nhiều đối với tác phẩm. Để xây dựng

thành công một nhân vật văn học, nhà văn phải có khả năng đồng cảm, phát

hiện những đặc điểm bền vững ở nhân vật, đòi hỏi nhà văn phải hiểu đời, hiểu

người. Nhưng có một điều không kém phần quan trọng là nhà văn phải miêu tả,

khắc họa nhân vật ấy sao cho có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người đọc.

Đây là vấn đề liên quan trực tiếp đến những biện pháp xây dựng nhân vật trong

tác phẩm văn học.

Nhân vật chính trong truyện Nôm bác học thường là những bậc giai nhân

- tài tử, xuất thân trong gia đình quan sang giàu có. Bắt đầu từ Song Tinh -

Nhụy Châu là hai nhân vật chính của truyện Song Tinh Bất Dạ. Về sau là

Lương Sinh - Dao Tiên trong Truyện Hoa tiên, Trương Quỳnh Thư - Phạm Kim

trong Sơ kính tân trang, Kim Trọng - Thúy Kiều trong Truyện Kiều…

44

Song Tinh được xây dựng là một chàng trai tài sắc kiêm toàn, nho phong

nổi nền đầu tiên:

“Mực rơi điểm ngọc, thơ nên gõ vàng.

Thế tình khí vũ hiên ngang,

Thâm khơi độ lượng, rỡ ràng nghi dung.”

Tuy sống trong cảnh mẹ góa con côi nhưng cũng xuất thân từ gia đình

quyền quý có truyền thống học hành, cha từng làm quan cao. Mỗi lần “họp bạn

nhà chiên” thì tài văn chàng sáng như nạm ngọc, thơ đọc kêu hay như gõ vàng.

Dù cảnh nhà từ ngày cha mất “rương không châu báu” thì cũng “giá đầy thi

thư”. Chàng mang đầy đủ những nét đẹp đẽ, lí tưởng của một nhân vật tài tử

học hành thi cử đỗ đạt quan cao, lại có chuyện tình duyên kết thúc viên mãn.

Nhụy Châu, cũng như những giai nhân đầu tiên của truyện Nôm bác học,

vừa có nhan sắc hơn đời “Mỉa dường Tần nữ, kém nào Hạ Cơ” vừa “giỏi nghề

thêu dệt, trổ tài phú thơ”. Trong tình yêu, Nhụy Châu tỏ ra hết sức táo bạo và

chủ động. Từ đó về sau, truyện Nôm có bước tiến mạnh mẽ hơn đã có hành

động“bẻ lối vườn đào” của nàng Kiều một trăm năm sau: “Xăm xăm băng nẻo

đường khuya một mình” để tìm tới Kim Trọng cùng nhau tự tình.

Trong Song Tinh Bất Dạ, bên cạnh hai nhân vật chính là tài tử - giai nhân,

Nguyễn Hữu Hào còn sáng tạo ra những nhân vật có tính cách phức tạp, nhiều

mặt: vừa có những nét của nhân vật chính diện, vừa có những nét của nhân vật

phản diện hoặc vừa có biểu hiện của tầng lớp bình dân, vừa có biểu hiện của

tầng lớp quý tộc. Đó là hai cô hầu Nhược Hà và Thể Vân. Sau này ta thấy có

thêm Thúy Kiều, Thúc Sinh, Hoạn Thư trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, là

những hiện tượng độc đáo của văn học trung đại. Đặc biệt, Nguyễn Hữu Hào

đã đạt đến trình độ “cá thể hóa” cao khi xây dựng nhân vật Nhược Hà. Kiểu

nhân vật này có ý nghĩa rất đặc biệt khi xuất hiện ở một tác phẩm thuộc thời kỳ

đầu của thể loại truyện Nôm bác học.

45

Theo TS. Lê Thị Hồng Minh, “Trong các chân dung những người hầu

mà văn học cổ trung đại từng xây dựng, thì chân dung cũng như ngôn ngữ

Nhược Hà trong Truyện Song Tinh được xây dựng sinh động và thật hơn cả”

[13; 135]. Nhược Hà là cô hầu đầu tiên để lại ấn tượng mạnh bởi tính cách đáo

để, nhiều chuyện. Cô hầu này không thể nhầm lẫn với những cô hầu khác bởi

tính ghen tị, nhiều chuyện, lại ngụy biện và có tài ăn nói. Tác giả đã xây dựng

nhân vật Nhược Hà biến hóa khá linh hoạt, khi thì ngôn ngữ của người hầu, kẻ

ở, nhanh nhảu có phần vô lễ; khi là lời lẽ của một cô gái đáo để, thông minh.

Tính cách của cô nàng bộc lộ ngay từ những lời nói đầu tiên. Bất ngờ bắt gặp

chàng Song Tinh đang đứng nói một mình với bức vách, không dám tỏ bày tình

cảm với tiểu thư, Nhược Hà liền đi báo sự nực cười ấy cho cả gia đình Nhụy

Châu biết: “Xưa nhìn ngỡ đấng trượng phu/ Nay xem hình tướng mĩa đồ ma

trơi”. Nhược Hà dám gọi chàng Song là “đồ”, rằng xưa thì “ngỡ” chàng là

“đấng trượng phu” , còn nay đã rõ thực chất chỉ là “đồ ma trơi”. Cô hầu này đã

thể hiện rõ thái độ khinh thị chàng con nuôi của ông bà chủ rất công khai.

Nhược Hà tỏ ra đồng thuận với ý kiến mà Song Tinh than thở về lời một

người bạn khuyên chàng “toan bề thật rể chẳng thà giả con”, rồi cô nàng nói

thêm một câu: “Nuôi con thật rể thế hòng loạn luân”. Đó là ý bịa đặt của Nhược

Hà, nhưng khi Song Tinh tỏ ra nghi ngờ hỏi lại: “Chẳng hay tiếng ấy ngươi

luần hay ai?” thì Nhược Hà lập tức nói mình là “phận bé nữ hài” không biết gì

và đẩy hết những đạo lí là Nhụy Châu từng giảng:

“Dịp nhân từng thấy tiểu thư

Giảng luần đạo lý lời xưa dặn bày.”

Khôn khéo hơn, Nhược Hà còn tự nhận mình ngu si, dại dột, thấy sao

nói vậy chứ không biết gì về lề luật, phép tắc: “Trân trân nan hóa thói ngây/

Vào tai ra miệng, há hay luật lề”.Với cô người hầu nhanh nhảu này chỉ cần

46

một vài chi tiết có thật, cô nàng đã xuyên tạc theo ý muốn chủ quan, làm cho

sự việc mang một ý nghĩa hoàn toàn khác theo hướng tiêu cực.

Không những thế, khi Thể Vân hỏi cô nói gì mà khiến chàng Song trở

bệnh thì cô kể lại nguyên si sự việc và quay lại trách móc Thể Vân là người

nhỏ mọn, bới móc chuyện người khác. Cô nàng chua ngoa, đáo để, nói rằng

đến con vật còn biết thương nhau vậy mà Thể Vân là người cùng cảnh tôi tớ,

“bạn bè cây nứa”, lại kiếm chuyện châm biếm Nhược Hà:

“Vật còn chút tính thương loài

Bạn bè cây nứa, nỡ lời buộc nhau!

Lọ là vặt mắt châm sâu

Lý xin cho mỏi, khôn đầu thì thôi.”

Sau này khi ngày Song Tinh trở thành trạng nguyên, trở về nhà Giang

Ông tìm gặp Nhụy Châu gặp lại Nhược Hà thì cô nàng đổi ngay giọng điệu, đổi

cả cách xưng hô, nói lời rất kính cẩn, ân tình:

- “Quý nhân sao hãy nhớ chưng danh hèn?”

- “Sang hèn chẳng phụ, xưa nay mấy người.”

Nhưng khi Song Tinh hỏi đến Thể Vân thì qua lời đối đáp của Nhược

Hà, ta lại thấy cô nàng hay đố kỵ, ghen tị của ngày xưa lại lộ diện với bốn hành

động chau mày, lắc đầu, chắc lưỡi, cắn tay diễn ra liên tiếp: “Hà nghe phút chốc

chau mày/ Lắc đầu chắc lưỡi cắn tay trừng trừng.”. Nhược Hà dùng những từ

ngữ đầy mai mỉa, nói xấu về Thể Vân, cho rằng:

“Thể Vân vẽ dạng làm hình

Khuyên lời phiền não, đẹp tình Nàng ta.

Liệu bề cắt một trọn ba,

Nhện vò đàu trác, phượng gà đoàn loan.

Từ ngày chế biến nghĩa con,

Khác hình khác dạng chẳng còn như xưa

47

Hòa nhà đều gọi “tiểu thư”,

Ra vào hài hán xem như là Nàng.”

Từ một vài chi tiết, sự kiện có thật là Thể Vân nhận lời Nhụy Châu làm

con nuôi ông bà chủ để tiện chăm sóc khi về già, cô nàng biến tấu đi một chút,

khiến cho sự hi sinh chân tình của Thể Vân bị biến thành những mưu mô toan

tính.

Nhược Hà còn tỏ ra quan tâm, lo lắng cho người khác chứ không nhận

mình là người hay đưa chuyện: “Vậy nên tỏ ấy nỗi vay/ Há rằng thèo lẻo, thày

lay việc người.” Chỉ bằng hai từ “thèo lẻo”, “thày lày” Nguyễn Hữu Hào đã

lột tả được bản chất con người của Nhược Hà. Xây dựng nhân vật Nhược Hà

với ngôn ngữ thể hiện tuy chưa đạt đến mức điển hình đặc sắc như Nguyễn Du

xây dựng ngôn ngữ Tú Bà, nhưng không thể phủ nhận đây là một thành công

đáng kể của một truyện khởi đầu của thể loại này.

Có thể khẳng định rằng trong văn học trung đại nói chung chứ không kể

riêng gì thể tài truyện Nôm, Nguyễn Hữu Hào là một tác giả vừa xây dựng được

nhân vật chính một cách xuất sắc, lại vừa dụng công tái hiện hình ảnh nhân vật

người hầu - một kiểu nhân vật phụ mang tính cá thể hóa. Mà đặc biệt đây là tác

phẩm của một nhà quân sự mưu lược có am hiểu về văn học, lại ở một tác phẩm

xuất hiện những năm đầu của thế kỉ XVIII thì Song Tinh Bất Dạ là một dấu

mốc quan trọng trong việc xây dựng nhân vật trong truyện Nôm bác học thời

kì đầu và về sau.

3.3. Ngôn ngữ

Theo Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong Từ điển thuật

ngữ văn học thì “ngôn ngữ văn học là một trong những yếu tố quan trọng thể

hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn” [3; 215]. Truyện Nôm

sử dụng ngôn ngữ của dân tộc để sáng tác và chữ Nôm thường bị xem là “nôm

na mách qué”, không được xem trọng. Tuy nhiên sang thế kỉ XVIII, chữ Nôm

48

trở thành phương tiện quan trọng chiếm ưu thế hơn chữ Hán. Truyện Nôm

chiếm văn đàn và đạt được nhiều thành tựu đỉnh cao.

Trong ngôn ngữ của Song Tinh Bất Dạ có sự kết hợp hài hòa giữa ngôn

ngữ ước lệ tượng trưng và ngôn ngữ bình dân. Có điều, xuất hiện với tư cách

mở đầu cho nên truyện này cũng có vai trò quan trọng trong việc chứng tỏ sự

thay đổi trong việc sử dụng ngôn ngữ của truyện Nôm bác học. Ngoài ra, Song

Tinh Bất Dạ cũng là một trong số ít những tác phẩm của văn học trung đại đề

cập đến vấn đề tình dục một cách hết sức táo bạo, và là tác phẩm của xứ Đàng

Trong cho nên sử dụng ngôn ngữ Nam Bộ cũng tạo nên đặc sắc cho truyện

Nôm này.

Thứ nhất, Song Tinh Bất Dạ sử dụng ngôn ngữ ước lệ tượng trưng, mang

tính điển nhã. Thể hiện rõ nhất là ở quan niệm và nghệ thuật miêu tả con người.

Con người được hình dung qua các hình tượng thiên nhiên tươi đẹp như mây,

núi, trăng, hoa, tuyết, ngọc, mai, lan, trúc,… Vậy nên hình ảnh nàng Nhụy Châu

mới đẹp đến ngòi bút của Vương Duy cũng không vẽ được vẻ tươi sáng của

nàng: “Dầy dầy da ngọc tuyết ken/ Mày nga khói dạm, tóc choang mây lồng/

Gót sen đua nở bạch hồng/ Sóng ngời mắt phượng, ráng phong má đào/ Rỡ

ràng ánh nguyệt chói sao/ Mỉa dường Tần nữ, kém nào Hạ Cơ.” Hay sau này

có thêm vẻ đẹp khuê các hài hòa với thiên nhiên“Mây thua nước tóc, tuyết

nhường màu da” của Thúy Vân và vẻ đẹp khiến tạo hóa phải ghen phải

hờn“Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh” như Thúy Kiều… Tất cả vẻ đẹp

của con người đều phải gắn với nét đẹp nào đó của thiên nhiên, vũ trụ.

Riêng đối với nhân vật chính diện, tính chất ước lệ, uyên bác trong ngôn

ngữ sẽ được đẩy lên cao hơn, nhiều hơn. Khi nghe trong lời tâm tình, thề thốt

của Nhụy Châu và Song Tinh, thấy quả là “Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm

thêu”:

Sinh rằng: “Hổ thửa tài hèn,

49

Bỗng nghe lời huyễn nhiễm nên bệnh nghèo.

Ơn thay linh dược khéo điều,

Chẳng chi đã dõi Vương Kiều chơi tiên.”

Nàng rằng: “Lời đã trước nguyền,

Dễ đâu trở bạc làm đen cho đành.

Bởi chưng quý thể bất bình,

Thủy chung muốn vẹn, tiết danh chẳng nề.

Mệnh này mã phó tay kia,

Đá mài sông dải chẳng khuy tấc lòng.

Hãy tua đăng hỏa gia công,

Chỉ ngày nhảy bến hóa rồng cướp biêu.

Bấy giờ ghe nỗi ơn yêu,

Dầu lòng chàng lại xuy tiêu phượng đài.

E khi cao bước cửa Trời,

Giàu sang bội bạc phụ lời Tống Công.”

Sinh rằng: “Bao nỡ nghi lòng,

Dù ai lỗi hẹn, phó cùng tứ tri…”

Ngôn ngữ của những “nam thanh nữ tú” như Nhụy Châu và Song Tinh,

từ đầu đến cuối tác phẩm, đều nhất quán một sự nghiêm túc, trang trọng, hoa

mỹ.

Bên cạnh đó, trong Song Tinh Bất Dạ còn có một số nhân vật mà ngôn

ngữ của họ rất phong phú, đa giọng điệu, muôn sắc màu, thể hiện những nét

tính cách khác nhau, hoặc những tình huống, cảnh ngộ khác nhau. Các nhân vật

Nhược Hà, Thể Vân có hai kiểu giọng, khi trang nhã, lúc khẩu ngữ tự

nhiên…còn tên Hách Sinh, trong lời hắn nói với tay công công Diêu Doãn về

vẻ đẹp của Nhụy Châu cũng lịch lãm, cao sang, quý phái, không kém ai, khiến

người đọc ngỡ hắn tử tế, sang trọng:

50

“Vóc mai hình liễu nõn nà,

Hoa nhường, trăng thẹn, nhạn sa, cá chìm.

Khuê môn nữ tắc đoan nghiêm,

So đường cung Quảng thác rèm chói trăng.

Nức danh quốc sắc tột chừng,

Non Côn ngọc rắc, sông vàng châu rây.”

Nhưng khi Giang Ông từ chối gả Nhụy Châu cho thi hắn liền đổi giọng,

lộ rõ bản chất của một kẻ xấc xược, hằn học, vô lễ:

“Hách Sinh nghe nói thêm hằn,

Mắng rằng: “Lão tặc nói năng nhiều lời!

Ví so, ai dễ thua ai,

Lão chức khoa đài, cha mỗ nguyên nhung.

Gớm lời đáo trác dẻ dung,

Trong đời há bượp má hồng ấy vay!

Trai đâu luống chịu mặt dày,

Trời kia còn đội, thù này chẳng quên.”

Nhân vật Hách Nhược Sinh của Song Tinh Bất Dạ có lẽ là nhân vật đầu

tiên mà sau này có những Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Bạc Bà,… của

Truyện Kiều là số ít những nhân vật mang trong mình cái bản chất thực của

cuộc đời để bước vào văn học trung đại một cách chân thực nhất.

Nguyễn Hữu Hào còn sử dụng các điển tích điển cố xuất hiện hết sức tự

nhiên, nhuần nhị. Tác giả dùng điển “tơ hồng”, “xích thằng”, “Trăng già”,

“Nguyệt lão xe tơ”, “phượng loan, sắt cầm” để nói đến chuyện tình duyên.

Hay khi thể hiện sự cách trở của hai người yêu nhau, không thể không dùng

đến “chuyện tình Ngưu Lang, Chức Nữ” và mong muốn bắc cầu Ô thước qua

dòng Ngân Giang. Nói đến ước vọng vinh hiển, đỗ đạt bảng vàng, phải có điển

“cửa Vũ hóa rồng. Sự chảy trôi vùn vụt của thời gian thì đã có “bóng ngựa qua

51

song”. Hay khi nhắc đến chuyện Tử Bình, Đậu Nghị, Tú Uyên là ẩn ý muốn

nhắc việc cầu hôn, đính ước… Việc sử dụng điển tích, điển cố làm cho lời thơ

ngắn gọn, hàm súc, lời ít mà ý nhiều.

Thứ hai, Song Tinh Bất Dạ không chỉ sử dụng thứ ngôn ngữ ước lệ, tượng

trưng có tính chất bác học mà còn đậm đặc chất bình dân. Giang Ông lâu ngày

gặp nên liền hỏi Song Tinh về tình cảnh gia đình chàng bằng một lối nói rất

giản dị: “Chẳng hay điền sản gia tư/ Mẹ con ngày tháng đói nó thế nào?”. Và

Song Tinh đáp lời rất thực thà về cảnh sống của mình: “Lần hồi muối bạc cơm

thô/ Đông chầy áo mỏng, bếp trưa khói tàn.”

TS. Lê Thị Hồng Minh đã chỉ tài năng của Nguyễn Hữu Hào trong việc

tạo ra kiểu “đối thoại một câu”, nghĩa là một lượt lời nằm trong khuôn khổ một

câu thơ, kiểu như:

-“ Vân đon: “Lời ấy đâu ra?”

Sinh rằng: “Ở miệng Nhược Hà chứ ai.”

- “Vân rằng:“Hà nói chẳng vu”

- “Chài rằng:“Nguyện đã ghi lòng”

Điều mà ở truyện Nôm bình dân đối thoại đã ít thì đối thoại một câu có

lẽ là rất hiếm. Thậm chí, ngay cả khi chỉ có hai từ lặp lại, trong khuôn khổ một

câu thơ: “Nàng cùng Vân thị ngả kề/ Than rằng: “Chị chị!”, “Dì dì!” tiếng

vang.” Đó là tâm trạng mừng tủi của chị em Nhụy Châu và Thể Vân khi gặp

lại nhau sau cơn sóng gió.

Ngôn ngữ Song Tinh Bất Dạ còn để lại dấu ấn về cách dùng một số từ

cổ. Tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân đã lập Bảng ghi từ cổ và từ địa phương [3;

233], thống kê được 158 từ cổ và từ địa phương trong truyện:

- “Tôi rày muốn nối nghiệp xưa

Thôn quê bượp đấng minh sư giảng cầu.”

- “Rỡ ràng ánh nguyệt chói sao

Mỉa dường Tần Nữ, khác nào Hạ Cơ.”

- “Mầy tua kíp đến thăm người

52

Hẳn trong hư thật, kíp hồi tao hay.”

-“ Tao rằng: “Lẽ ấy chỉn khôn”

Sự xuất hiện của từ cổ, không chỉ thấy riêng trong sáng tác của Nguyễn

Hữu Hào. Sau này một trăm năm sau, trong thơ Nguyễn Du, cũng thấy sự đan

cài rất khéo léo, tài tình:

- “Chập chờn cơn tỉnh cơn mê,

Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.”

- “Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi,

Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn.”

Bên cạnh đó, tưởng như các nhân vật chính trước sau chỉ nói những lời

hoa mỹ, châu ngọc thể hiện sự trang trọng, quý phái. Trong Song Tinh Bất Dạ,

các nhân vật như Nhụy Châu khi nói với kẻ ăn người ở cũng thấy xưng “mày

mày, tao tao” với nhau rất đời thường.

Nguyễn Hữu Hào sử dụng rất chất liệu dân gian một cách nhuần nhuyễn,

linh hoạt. Có thể lấy lời của Thể Vân đêm tân hôn mà chồng không “hợp ý

xuân” và đang nhớ đến bóng hình của người xưa: “Vân rằng: “Khát đứng bờ

ao/ Đói ăn bánh vẽ, chiêm bao thấy vàng!/ Đèn xuyên hang tối không tường/

Dép xuyên khăn sửa, lẽ thường ai suy.” Những câu tục ngữ, thành ngữ - đói ăn

bánh vẽ, dép xuyên khăn sửa - được Nguyễn Hữu Hào sử dụng nói lên được

tình cảnh bẽ bàng, tủi phận của một người phụ nữ tuy chấp nhận thế thân nhưng

cũng khát khao được đoái hoài, cần được hưởng hạnh phúc ái ân.

Bên cạnh đó, sử dụng từ láy cũng là cách mà tác giả đem đến cho Song

Tinh Bất Dạ một nét đặc sắc. Tâm trạng Giang Bà khi nghe tin con gái bị tiến

kinh: “Giang Bà bối rối lòng sơ/ Giang Ông thim thíp thở vô phập phò”, “Ngất

ngơ đoạn thảm nỗi phiền/ Đòi phen dạy dỗ, đòi lần nhủm nha/ Dùng dằng dừng

kiệu dẫy xe”. Các từ láy đã diễn tả đúng tâm trạng chua xót, tức giận, tiếc thương

của người mẹ và sự bối rối của người cha khi con gái phải vào cung.

53

Với Song Tinh Bất Dạ, Nguyễn Hữu Hào đã nâng ngôn ngữ đời thường,

ngôn ngữ dân gian lên thành ngôn ngữ nghệ thuật. Tác phẩm lại ra đời trong

những buổi đầu hình thành thể loại, khi truyện Nôm bình dân ngự trị văn đàn

với một thứ ngôn ngữ bình dị, mộc mạc, ít điển cố, từ Hán, và trước kiệt tác

Truyện Kiều cả trăm năm thì mới thấy những đóng góp của tác giả Nguyễn

Hữu Hào đối với ngôn ngữ dân tộc.

Thứ ba, ngôn ngữ truyện Song Tinh Bất Dạ mang đậm màu sắc sắc dục.

Song Tinh Bất Dạ là truyện Nôm tài tử - giai nhân, nên “tình” là âm hưởng chủ

đạo. Có điều tình ở đây là tình gắn liền với chữ “dục”, với nhu cầu ân ái xác

thịt rất trần tục của con người. “Dục”ở đây gắn liền với cái “tình” đẹp của người

nam và nữ yêu nhau chứ không phải thứ “dục” cuồng loạn, đáng khinh bỉ. Vì

vậy, nó xuất hiện rất tự nhiên, như một nhu cầu cơ bản của con người, mà không

trở nên thô lỗ, sống sượng.

Thực tế, không phải đến Song Tinh Bất Dạ, chuyện phòng the của đôi

lứa mới được đề cập đến. Từ Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ đã không ít lần tỏ

ra táo bạo và phóng túng khi thể hiện quan hệ yêu đương có tính chất không

lành mạnh giữa Trình Trung Ngộ và Nhị Khanh (Truyện cây gạo), giữa Hà

Nhân và hai nàng Đào, Liễu (Truyện kỳ ngộ ở Trại Tây), giữa sư Vô kỷ và Đào

Hàn Than (Truyện nghiệp oan của Đào thị),… Cách tác giả này tả cảnh nam

nữ giao tình rất thực: “Sinh rủ rê hai ả đến chơi chỗ trọ của mình, chuyện trò

đằm thắm. Chàng lả lơi cợt ghẹo, hai ả thẹn thò nói rằng: “Chúng em việc

xuân chưa trải, nhụy thắm còn phong, chỉn e mưa gió nặng nề, hoặc không

kham nổi cho những tấm thân hoa mềm yếu”. Sinh khuyên lơn dịu ngọt rồi cùng

tắt đèn đi nằm. lửa đượm hương nồng, ân ái mười phần thỏa nguyện” (Truyện

kỳ ngộ ở Trại Tây). Chuyện ân ái trong Truyền kỳ mạn lục không phải tình ân

ái của người bình thường, luôn bị coi là những chuyện dâm dục của giống yêu

54

ma, kì quái. Đến với Song Tinh Bất Dạ, chuyện phòng the trở nên dí dỏm, tinh

nghịch gần với đời thường hơn.

Tìm hiểu trong ngôn ngữ và cách thức mô tả tỉ mỉ, chi tiết những chuyện

ân ái vợ chồng của đôi lứa ta thấy được sự táo bạo, vượt trước thời đại của nhà

nho Nguyễn Hữu Hào. Lúc đầu ta thấy Song Tinh cũng thẳng thắn từ chối

chuyện hợp hoan khi cưới chay Thể Vân, mà không một lời đậy che: “Sinh

rằng: “E tủi lòng Nàng/ Há đem tình dục ra đường mây mưa/ Lòng này sắt đá

còn ưa/ Ví cho Thần nữ tiên cơ khôn dùng.” Điều này khiến nàng nghẹn ngào,

xót xa: “Tính gương Chàng đã chẳng nhơ, Cũng xin đoái thiếp trăng hoa thẹn

thùng”, thương thân tủi phận không được đoái hoài.

Nhưng sau đó, tình yêu của hai người con gái đẹp đều được đền đáp.

Ngôn ngữ sắc dục trong truyện thể hiện rõ nhất ở chuyện ái ân thể xác của Song

Tinh với hai người vợ. Trước tiên chàng đến với Nhụy Châu: “Xuân sang hoa

cỏ gặp thì/ Nhụy đào mơn mởn, cánh quỳ đượm sương./ Mây vần chặp chặp

Đài Dương,/ Chưa thôi nắn nguyệt lại xoang chày kình./Đảo chày đã trướng

lại bình,/Má đào phấn quẹn, tóc xanh lỏng cài./ Trưa tàn, đẩu đã đảo giùi,/

Chơi tiên nửa gối, ngày dài quá đêm./ Ác đà trở bóng ló rèm,/Giấc mai mới

tỉnh, bóng thiềm còn mơ./Trướng hoa lại sánh mặt hoa,/Bõ khi hải giốc thiên

nha những ngày.”

Rồi chàng liền sang với Thể Vân: “Tưng bừng phượng họp mặt loan,/

Mưa xuân nhặt rưới, hồ xuân kíp trào./ Đuốc lòa tỏa bóng gương giao,/ Nệm

nhung sương đượm, quần đào tuyết rơi./ Vui thay thôi nói lại cười,/ Mấy niềm

trách móc sạch trôi như mài/ Lại toan lập trận song đài/ Sực nhìn ác đã xế

ngoài non đông. Nguyễn Hữu Hào đã mạnh dạn miêu tả chuyện phòng the rất

chân thực đời thường của con người.

Sau Song Tinh Bất Dạ, khó có thể thấy có tác phẩm nào mà yếu tố sắc

dục lại được miêu tả táo bạo, trực diện như thế. Tình yêu của Dao Tiên và

55

Lương Phương Sinh là một mối tình rất thuần khiết, trong sáng, thanh cao,

không gợn dục vọng có phần tuân theo chuẩn mực của lễ giáo phong kiến. Hoặc

như Truyện Kiều, Thúy Kiều trong suốt mười lăm năm có tới hai lần lưu lạc

chốn thanh lâu, vậy mà tác giả cũng chỉ dùng những điển tích hàm ẩn kín đáo

để miêu tả cảnh “phượng chạ loan chung”, “sống làm vợ khắp người ta”,“ong

qua bướm lại”, “mưa Sở mây Tần”,“lá gió cành chim”… chứ không trực tiếp

miêu tả chuyện ân ái, phòng the. Như vậy, có thể thấy sự táo bạo, tiên phong

trong việc thể hiện những chuyện ái ân trần tục của Song Tinh Bất Dạ trong

văn học trung đại Việt Nam, một diện mạo hoàn toàn mới so với văn học chữ

Hán trước đó.

Thứ tư, là một tác phẩm của văn học xứ Đàng Trong, Song Tinh Bất Dạ

không thể không mang dấu ấn của ngôn ngữ con người Nam Bộ. Bởi vậy, trong

truyện Nguyễn Hữu Hào đã sử dụng rất nhiều những từ đậm sắc thái Nam Bộ

như: “hôn nhơn”, “đọt cây”, “lén dòm”, “qua - bậu”, “ni”, “chi”… Qua đó,

thấy được tác phẩm những dấu ấn, đặc điểm riêng rất thú vị, độc đáo.

Không chỉ biểu hiện qua ngôn ngữ mang sắc thái phương ngữ Nam Bộ,

tác giả còn thể hiện được đặc điểm tâm lí của con người miền trong với những

nét tính cách hài hước, dí dỏm. Sự hài hước là một thú vị trong ngôn ngữ truyện

Song Tinh Bất Dạ. Tiếng cười bật lên ở khắp nơi, trong mọi hoàn cảnh, rất tự

nhiên tạo không khí vui tươi, dí dỏm. Đó là khi Giang Ông gặp Song Tinh, ông

vui mừng khi gặp lại người con nuôi “Bội mừng rằng: cháu xa miền đến đây”,

và đưa chàng về nhà thì không khí trong nhà trở nên rộn ràng, vui vẻ “Phu

nhân hớn hở bội tình mừng sao”, “Giang Bà mừng rỡ biết bao mạch lòng!”

rồi thì “Nói cười han hỏi đáo đon”. Khi Nhụy Châu mới gặp Song Tinh, người

con gái cửa các buông khuê chưa gặp anh nuôi bao giờ không tránh khỏi sự

ngượng ngùng mà mặt đỏ tía tai thì ông bà Giang lại “cười rần”, bảo rằng là

anh em thì có gì mà ngại. Đặc biệt, tiếng cười còn bật ra sảng khoái, thoải mái

56

khi ở phần cuối gia đình hai bên đoàn viên cả nhà “hòa khen, hòa ngợi, hòa

thương, hòa cười”, “Song Bà sặc sặc cả cười”. Có thể thấy, tiếng cười là một

yếu tố làm nên độc đáo trong truyện Song Tinh Bất Dạ, ở đâu cũng thấy các

nhân vật vui vẻ, hóm hỉnh.

Không chỉ có thế, Nguyễn Hữu Hào còn tạo ra tiếng cười ở nhiều góc độ,

cung bậc khác nhau. Điều đặc biệt các nhân vật nữ trong truyện đều rất táo bạo

như Nhược Hà dám trêu chọc Song Tinh, Thể Vân trêu chọc cả Song Tinh lẫn

Nhụy Châu. Rồi Nhụy Châu lại trêu chọc Thể Vân và Song Tinh… Nhưng tùy

theo tính cách và động cơ của mỗi người mà tính chất của việc trêu chọc có

mang ý nghĩa khác nhau. Nhụy Châu chọc Song Tinh là để kiểm định lòng

chung thủy của chàng. Cô hầu Nhược Hà trêu Song Tinh theo kiểu chơi khăm,

xuất phát từ lòng đố kỵ, làm Song Tinh ngã bệnh nên cơn thất tình, khiến ta

không thể không cười trước sự thật thà, ngốc nghếch của chàng thư sinh trước

ngưỡng cửa của tình yêu. Hay khi Nhược Hà kể xấu Thể Vân mà cuối cùng cô

chốt lại là không phải người “thẻo lẻo, thày lay việc người” thì người đọc lại

bật cười khi nhân vật bị lật tẩy bản chất. Thể Vân trêu chọc Song Tinh theo

kiểu bà mối thử lòng để giúp việc mai mối tình yêu cho cô chủ đem lại tiếng

cười tinh nghịch. Nhưng khi bị đặt vào tình thế “đói ăn bánh vẽ” thì tiếng cười

lại trở nên chua chát, mâu thuẫn giữa khát vọng hạnh phúc lứa đôi với thực tiễn.

Có khi tiếng cười toát ra từ một tình huống nhầm lẫn ở gần cuối truyện.

Đó là lúc Giang An - người nhà của Giang Ông - tưởng nhìn thấy hồn ma Nhụy

Châu đứng cạnh Song Bà nên hoảng hốt kêu la, vén áo thục mạng chạy: “Rèm

treo cửa mở, tỏ nhìn/ Thấy Nàng tọa dựa một bên Song Bà/ Nó bèn cất tiếng cả

la: “Thương ôi! Mẹ mẹ! Cha cha!” chạy dài/ Hòa nhà sặc sặc cả cười/ Mới sai

môn hạ ba người đuổi theo”, “Nó rằng: “Sự rất nực cười/ Ấy ai tọa dựa gần

nơi Song Bà/ Bay rằng chẳng quỷ chẳng ma/ Ý tao gẫm đặng thật là yêu tinh”.

Tiếng cười, hay yếu tố hài hước trong Song Tinh Bất Dạ là một sự thể hiện độc

57

đáo về tính cách con người Nam Bộ của Nguyễn Hữu Hào. Các tác giả Đàng

Ngoài thường ít cười; nếu có thì cũng là tiếng cười thâm trầm, kín đáo hơn chứ

không sảng khoái, tự nhiên được như thế. Có thể các nhà nho Đàng Ngoài chịu

ảnh hưởng của truyền thống của Nho gia nhiều hơn, cho nên sáng tác của họ

chưa vượt qua cái khuôn khổ quy phạm. Còn các tác giả Đàng Trong ít bị gò

bó bởi phép tắc luật lệ, cả về phương diện xã hội hay trong văn chương, cho

nên ngôn ngữ đời sống sinh hoạt và cái cười hồn nhiên mang tính chất vui đùa

hóm hỉnh nhiều hơn.

Tiểu kết chương 3

Có thể nói, là một trong những tác giả tác phẩm của truyện Nôm thời kì

đầu, Nguyễn Hữu Hào cùng Song Tinh Bất Dạ đã đem đến cho văn học một

diện mạo mới. Trên các khía cạnh của phương diện nghệ thuật, truyện có kết

cấu chặt chẽ và hấp dẫn; nghệ thuật xây dựng nhân vật đã khắc họa nên những

nhân vật sinh động, mới mẻ, táo bạo; ngôn ngữ bác học kết hợp nhuần nhuyễn

với ngôn ngữ bình dân. Tác giả đã mạnh dạn thể hiện tính “dục” trong văn học

trung đại là sự thành công lớn trong việc thể hiện quan niệm sống mới của con

người hướng đến hạnh phúc cá nhận của bản thân, vượt lên trên lễ giáo phong

kiến. Bên cạnh đó, Nguyễn Hữu Hào còn sử dụng ngôn ngữ mang tính chất

phương ngữ cùng với từ ngữ thể hiện nét tính cách tâm lí hài hước, phóng

khoáng của con người Nam Bộ là một nét độc đáo làm nên điểm riêng biệt của

một tác phẩm xứ Đàng Trong.

58

KẾT LUẬN

Truyện Song Tinh Bất Dạ là một tác phẩm hiếm cho đến nay còn tồn tại

mà biết gốc tích, thời đại và tác giả. Ở thời kì đầu trong quá trình hình thành

thể loại, truyện đã đánh dấu sự ra đời của truyện Nôm bác học và là dấu mốc

trong sự chuyển đổi tư duy nghệ thuật trong văn học trung đại Việt Nam.

Song Tinh Bất Dạ là một câu chuyện tình duyên gắn bó kiên trì của một

đôi tài tử - giai nhân trong lòng xã hội phong kiến. Nhưng đây là một trong

những chuyện tình ái táo bạo hiếm có trong văn học trung đại Việt Nam, có

công mở đầu trên con đường chuyển từ chữ “tâm” của lý tưởng lớn lao, siêu

nghiệm sang chữ “thân” của con người khát khao tình yêu và hạnh phúc đời

thường. Tác phẩm viết về mâu thuẫn giữa tình yêu và lễ giáo phong kiến

xoay quanh hai nhân vật chính vượt ra ngoài khuôn khổ để yêu đương.

Truyện đồng thời phản ánh nội dung khá lớn của thời đại, đó là khát vọng

chiếm lĩnh hạnh phúc, tình yêu tự do, cá nhân, bảo vệ phẩm chất và giá trị

của con người. Truyện Song Tinh Bất Dạ đã đánh dấu bước vươn lên vượt

bức tường thành kiên cố của chế độ phong kiến giam hãm con người trong

khuôn khổ cứng nhắc, trong những thiết chế hẹp hòi và khắc nghiệt. Con

người chưa có sức mạnh để chống trả trước sự chi phối mạnh mẽ ấy nên còn

có phần cam chịu và chấp nhận nhưng bằng sức mạnh tình yêu họ đã có tinh

thần phản kháng để hướng đến tình yêu tự do và hạnh phúc cá nhân, không

theo sự sắp đặt của lễ giáo.

Tác phẩm không chỉ thành công về phương diện nội dung phản ánh khát

vọng tình yêu của đôi tình nhân mà còn đặc sắc ở phương diện nghệ thuật.

Truyện Song Tinh Bất Dạ có cốt truyện tuy vay mượn nhưng kết cấu khá chặt

chẽ, mạch lạc, ngắn gọn, tác phẩm có vai trò mở đầu trong việc hình thành kiểu

kết cấu nghệ thuật truyền thống của truyện Nôm: Gặp gỡ - Tai biến – Đoàn tụ.

59

Truyện thành công trong việc xây dựng nhân vật, xây dựng hình tượng chính

tài tử – giai nhân, đặc biệt là tác giả đã dụng công xây dựng hình tượng hai

nhân vật phụ - người hầu- điểm mới mẻ, hấp dẫn trong một tác phẩm mở đầu

của thể loại . Tác giả còn sử dụng thành công những điển cố, điển tích; sử dụng

nhiều hình ảnh ước lệ, tượng trưng; nhiều từ cổ, thành ngữ, tục ngữ chau chuốt,

nhẹ nhàng; nhiều câu thơ mang âm hưởng của ca dao, tục ngữ, thành ngữ được

đan cài, lồng ghép trong tác phẩm một cách khéo léo, nhuần nhị, uyển chuyển.

Và đặc biệt là tác phẩm táo bạo, mạnh dạn sử dụng ngôn ngữ sắc dục để nói về

chuyện phòng the ân ái vợ chồng thể hiện được khát vọng hạnh phúc trần tục

nhất của con người. Hơn nữa, ngôn ngữ địa phương thể hiện được tính cách

hóm hỉnh, hài hước của con người Nam Bộ.

Qua tất cả những khía cạnh trên đã chứng tỏ được tài năng và sự sáng tạo

tài tình của tác giả Nguyễn Hữu Hào và Song Tinh Bất Dạ xứng đáng là tác

phẩm mở đầu trong bước chuyển về tư duy nghệ thuật trong văn học trung đại

Việt Nam. Truyện Song Tinh Bất Dạ là một tác phẩm hấp dẫn và còn nhiều vấn

đề ẩn chìm cần được nghiên cứu để dần trở nên hoàn thiện và được công bố

rộng rãi để độc giả và những người ham mê văn học được thưởng thức.

60

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Du (1984), Truyện Kiều, Đào Duy Anh khảo chứng, hiệu đính và

chú giải, Nxb Văn học, Hà Nội.

2. Nguyễn Dữ (2001), Truyền kỳ mạn lục, Nxb Văn học, Hà Nội.

3. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ văn

học, Nxb Giáo dục.

4. Nguyễn Hữu Hào (1984), Truyện Song Tinh, Nguyễn Thị Thanh Xuân khảo

đính, phiên âm và chú thích, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Nguyễn Hữu Hào (1987), Truyện Song Tinh, Hoàng Xuân Hãn giới thiệu,

Nxb Văn học, Hà Nội.

6. Nguyễn Ngọc Hiền (1998), Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh 1650 - 1700

(Với công cuộc khai sáng miền Nam nước Việt cuối thế kỷ 17, trang 267).

[Phần phụ lục Hào Lương Hầu Nguyễn Hữu Hào], Nxb Văn học, Hà Nội.

7. Nguyễn Văn Hoa, Thi sĩ Đông Hồ (Hà Tiên) đã có công “phục sinh” tác

phẩm lục bát thế kỷ 18 (Truyện Song Tinh của Nguyễn Hữu Hào). URL:

http://newvietart.com/index4.87.html,

8. Kiều Thu Hoạch (2007), Truyện Nôm - Lịch sử và thi pháp thể loại, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

9. Trần Đình Hượu (1999), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

10. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (1998), Văn học Việt Nam

(thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XVIII), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

11. Đặng Thanh Lê (1979), “Truyện Kiều” và thể loại truyện Nôm, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

12. Nguyễn Lộc (2012), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ

XIX, Nxb Giáo dục Việt Nam.

61

13. Lê Thị Hồng Minh (2006), Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Song Tinh, Nxb

Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh.

14. Lê Thị Hồng Minh (2008), Đối thoại của nhân vật Truyện Song Tinh, URL:

http://www.lucbat.com/news.php?id=1100.

15. Nguyễn Đăng Na (chủ biên), Văn học trung đại Việt Nam tập 2, Nxb ĐHSP.

16. Nguyễn Thị Nhàn (2006), Nghiên cứu mô hình kết cấu cốt truyện truyện

thơ Nôm, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm, Hà Nội.

17. Nguyễn Thị Nhàn (2009), Thi pháp truyện thơ Nôm và Truyện Kiều, Nxb

Đại học Sư phạm.

18. Nguyễn Văn Sâm (2013), Người đặt vấn đề đi tìm tâm phục trong đường

lối đối ngoại: Nguyễn Hữu Hào, URL: http://newvietart.com/index.html

19. Nguyễn Hữu Sơn – Trần Đình Sử - Huyền Quang – Trần Ngọc Vương –

Trần Nho Thìn – Đoàn Thị Thu Vân, (1998), Về con người cá nhân trong

văn học cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục.

20. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

21. Trần Đình Sử, (2015) Chữ Tâm trong truyện Kiều, URL:

https://trandinhsu.wordpress.com/2015/10/27/chu-tam-trong-truyen-kieu/.

22. Trần Đình Sử, (2015) Chữ thân và vấn đề thân phận trong tư tưởng Truyện

Kiều, URL: https://trandinhsu.wordpress.com/2015/08/03/chu-than-va-

van-de-than-phan-trong-tu-tuong-truyen-kieu/.

23. Nguyễn Huy Tự - Nguyễn Thiện (1978), Truyện Hoa tiên, Đào Duy Anh

khảo đính, chú thích, giới thiệu, Nxb Văn học, Hà Nội.

24. Trần Thanh Thủy (2009), Song Tinh Bất Dạ và bước khởi đầu của truyện

Nôm bác học, Luận văn thạc sĩ văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân

văn, Hà Nội.

62