TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
-----------------------
LÕ THỊ KIỀU OANH
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA DÂN TỘC THÁI Ở HUYỆN
MAI CHÂU, TỈNH HÕA BÌNH TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH – 2016 – X
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN THỊ LAN
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan tất cả nội dung trong khóa luận với đề tài “Đời sống
văn hóa tinh thần của dân tộc Thái ở Mai Châu – Hòa Bình trong quá
trình công nghiệp hóa hiện nay” là công trình nghiên cứu cá nhân tôi và
dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Lan. Các kết quả nghiên cứu và các
kết luận trong khóa luận này là trung thực, không sao chép từ bất kỳ một
nguồn nào và dưới bất kỳ hình thức nào. Các nguồn tài liệu tham khảo đã
được thực hiện trích dẫn và ghi nguồn tài liệu tham khảo đúng quy định, nếu
phát hiện ra có sự gian lận tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước hội đồng
và kết quả của khóa luận.
Hà Nội, ngày 30 tháng 5 năm 2020.
Tác giả
Lò Thị Kiều Oanh
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ...................................................................... 1
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 2
1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................. 2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................ 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 6
5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu đề tài.......................... 6
6. Đóng góp của Khóa luận ............................................................................. 6
7. Kết cấu của Khóa luận ................................................................................ 7
NỘI DUNG ..................................................................................................... 8
Chương 1. Lý luận chung về đời sống văn hóa tinh thần và đặc điểm vị
trí địa lí, điều kiện kinh tế - xã hội ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình ... 8
1.1. Lý luận chung về đời sống văn hóa tinh thần ....................................... 8
1.1.1. Khái niệm văn hóa và đời sống văn hóa ............................................... 8
1.1.2. Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần .................................................. 11
1.2. Vị trí địa lý, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội ở Mai Châu - Hòa Bình
......................................................................................................................... 18
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 25
Chương 2. Đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Thái ở huyện Mai
Châu, tỉnh Hòa Bình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa –
Thực trạng và giải pháp ............................................................................... 27
2.1. Đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh
Hòa Bình ......................................................................................................... 27
2.2. Thực trạng đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Thái ở huyện Mai
Châu, tỉnh Hòa Bình trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ......... 36
2.2.1. Quá trình công nghiệp hóa ở Mai Châu – Hòa Bình ............................ 36
2.2.2. Thực trạng đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Thái ở Mai Châu-
Hòa Bình dưới tác động của CNH .................................................................. 40
2.3. Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của dân
tộc Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa hiện nay............................................................................. 45
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 50
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 54
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BSVH : Bản sắc văn hóa
CNH : Công nghiệp hóa
CVĐ : Cuộc vận động
ĐSVH : Đời sống văn hóa
ĐSVHTT : Đời sống văn hóa tinh thần
GTVH : Giá trị văn hóa
HĐH : Hiện đại hóa
MTTQ : Mặt trận Tổ quốc
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
TMC : Thái Mai Châu
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đời sống văn hóa tinh thần (ĐSVHTT) là một bộ phận tất yếu hợp
thành chỉnh thể đời sống xã hội. ĐSVHTT của con người, của xã hội đang trở
thành mối quan tâm chung của cộng đồng thế giới. Hạnh phúc của con người
không chỉ được đo bằng sự thỏa mãn nhu cầu vật chất mà còn cả sự thỏa mãn
nhu cầu văn hóa tinh thần.
Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Đảng ta đã khẳng định nền văn hóa mà
chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị
quyết “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc” [5] do Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (1998) đưa ra đến nay
vẫn là Nghị quyết có ý nghĩa chiến lược, chỉ đạo quá trình xây dựng và phát
triển sự nghiệp văn hóa ở nước ta, cần được kế thừa, bổ sung và phát huy
trong thời kỳ mới. Văn kiện Đại hội X (2006) đã nhấn mạnh: Tiếp tục phát
triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế – xã hội, làm
cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội [7].
Đảng ta đã xác định: “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hoá
nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc,
ý thức độc lập tự chủ, tự cường, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm sâu vào
toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập
thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh
thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” [7,tr.106].
2
Hiện nay, nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước, đặt nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, then chốt. Mục tiêu công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại, của văn minh tin học điện tử, của quá trình toàn cầu
hóa sẽ không đạt được nếu không chủ động xây dựng và phát triển văn hóa
một cách có hiệu quả và bền vững. Trải qua gần 30 năm đổi mới đất nước,
nước ta ở trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu
hợp tác quốc tế trên nhiều mặt. Bên cạnh những thành công có được từ nền
kinh tế thị trường cũng như quá trình toàn cầu hóa, chúng ta không tránh khỏi
những tác động tiêu cực do mặt trái của chúng gây ra, nếu không có sức mạnh
của đời sống văn hóa tinh thần, không có định hướng vững vàng thì sự tồn tại
của con người cũng như chế độ chính trị nước ta cũng khó giữ gìn.
Cùng chung với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc của đất nước, vấn đề xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở các
địa phương cần được nhận thức một cách sâu sắc và toàn diện hơn. Đặc biệt ở
khu vực miền núi bắc bộ trong quá trình chuyển mình phát triển cùng với sự
phát triển chung của đất nước, khu vực và quốc tế, vấn đề xây dựng đời sống
văn hóa tinh thần lại càng có ý nghĩa quan trọng.
Huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình là vùng đất nổi tiếng về văn hóa dân
gian, lễ hội đặc sắc, mang đậm nét văn hóa vùng miền của một số dân tộc ở
Tây Bắc, đặc biệt là dân tộc Thái ở Mai Châu. Đây là vùng đất có tiềm năng
phát triển du lịch, thu hút du khách đến tham quan và nghỉ dưỡng. Điểm đặc
sắc trong văn hóa của người Thái huyện Mai Châu là họ thuộc nhóm “Thái
Lai”. Do người Thái Mai Châu ở gần địa bàn người Mường sinh sống lại gần
với nhóm Thái ở Lào nên văn hóa của người Thái ở đây có những điểm khác
biệt so với người Thái ở khu vực Tây Bắc. Sinh hoạt văn hóa của người Thái
ở Mai Châu gồm các sinh hoạt văn hóa phục vụ đời sống tinh thần của người
dân ở đây và các sinh hoạt văn hóa phục vụ khách du lịch. Các sinh hoạt văn
3
hóa này cũng vì thế mà mang cả những biểu hiện của văn hóa Thái, văn hóa
Mường và văn hóa các tộc người khác.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách
nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc, tạo điều kiện để khu vực miền núi phát triển đồng đều và vững chắc,
đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu chung của đất nước trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trước tình hình đó, vấn đề xây dựng đời
sống văn hóa tinh thần ở cơ sở là vấn đề mang tính thời sự, cấp bách trong
giai đoạn hiện nay. Nhận thức được ý nghĩa của vấn đề xây dựng đời sống
văn hóa tinh thần là vô cùng quan trọng, tôi lựa chọn đề tài: “Đời sống văn
hóa tinh thần của dân tộc Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình trong quá
trình công nghiệp hóa hiện nay” làm đề tài Khóa luận tốt nghiệp của mình, để
đóng góp một phần vào việc nghiên cứu lĩnh vực đời sống văn hóa tinh thần
của người Thái Mai Châu – Hòa Bình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Người Thái ở Mai Châu Hòa Bình là một tộc người với những nét văn
hóa đặc sắc đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Có
thể kể đến những công trình tiêu biểu như: “Tìm hiểu văn hóa cổ truyền của
người Thái Mai Châu” (Đặng Nghiêm Vạn) [4] có thể được coi như cuốn
“cẩm nang cung cấp những hiểu biết cơ bản về đời sống văn hóa – xã hội của
người Thái”. Ngoài ra là một loạt các công trình của các nhà nghiên cứu khác
đã giới thiệu những nét đặc trưng trong những thành tố văn hóa của người
Thái Mai Châu đó là:
Trong cuốn Văn hóa ẩm thực dân gian dân tộc Thái huyện Mai Châu,
tỉnh Hòa Bình tác giả Lường Song Toàn, Nxb Hội Nhà văn Hà Nội, năm
2016, tác giả đã giới thiệu về văn hóa ẩm thực của người Thái cũng như các
tục lệ ăn uống của người Thái và nêu rõ bản sắc dân tộc của người Thái Mai
Châu. Cuốn sách đã giúp tác giả có thêm kiến thức và góp phần nhận diện các
hoạt động văn hóa tại bản Lác, Mai Châu [15].
4
Trong bài viết Người Thái và văn hóa Thái Mai Châu (Hòa Bình) của
tác giả Bùi Thanh Thủy, trên tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á năm 2002, tác
giả đã miêu tả và thể hiện rất rõ từ nguồn gốc, cách thức làm ăn cho đến nền
văn hóa truyền thống của dân tộc Thái, chỉ ra được giá trị của văn hóa Thái và
sự phát triển và giao thoa giữa các vùng như thế nào qua bài viết này [17].
Luận án Biến đổi văn hóa truyền thống của người Thái ở huyện Mai
Châu, tỉnh Hòa Bình trong phát triển du lịch, tác giả Nguyễn Thị Hồng Tâm
(luận án tiến sĩ chuyên ngành Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa, Hà
Nội). Luận án tập trung nghiên cứu về biến đổi văn hóa của người Thái Mai
Châu đã làm nổi bật được các nội dung về văn hóa và biến đổi văn hóa trong
phát triển du lịch tại bản Lác. Từ đó, tác giả có thể lĩnh hội được nhiều kiến
thức về văn hóa Thái [14].
Điểm mạnh của những công trình này là đã khai thác được nhiều nguồn
tư liệu tại địa phương, giới thiệu được những nét cơ bản về cơ cấu kinh tế xã
hội cổ truyền, yếu tố nền tảng tạo nên cộng đồng người Thái và cũng là yếu tố
thể hiện sự phát triển xã hội của tộc người này.
Tuy nhiên, các nghiên cứu về dân tộc Thái vẫn còn tồn tại một số hạn
chế nhất định, các nghiên cứu mới chủ yếu tập trung mô tả những nét văn hóa
cổ truyền của người Thái trong quá khứ chứ chưa có công trình khoa học độc
lập nào nghiên cứu chuyên biệt, trực tiếp và có hệ thống về ĐSVHTT của dân
tộc Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình trong quá trình CNH, để thấy
được sự biến đổi của truyền thống trong hiện tại, và những ứng xử của tộc
người đối với điều kiện kinh tế - xã hội mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Nghiên cứu thực trạng ĐSVHTT của dân tộc Thái ở Mai
Châu – Hòa Bình trong quá trình CNH hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao ĐSVHTT của dân tộc Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích nêu trên, khóa luận tập trung giải
quyết những nhiệm vụ sau đây:
5
Làm rõ khái niệm ĐSVHTT và những nội dung, yếu tố hợp thành
của nó.
Phân tích thực trạng ĐSVHTT của dân tộc Thái huyện Mai Châu,
tỉnh Hòa Bình trong quá trình công nghiệp hóa hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao ĐSVHTT của dân tộc
Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: ĐSVHTT của dân tộc Thái ở huyện Mai Châu,
tỉnh Hòa Bình trong quá trình công nghiệp hóa hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi không gian: Huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình
Phạm vi thời gian: từ năm 2010 đến nay. Khoảng thời gian đó là
khoảng thời gian cần thiết để tìm hiểu văn hóa, phong tục ảnh hưởng đến
ĐSVHTT của dân tộc Thái trong quá trình công nghiệp hóa hiện nay.
Phạm vi nội dung: Khóa luận tập trung nghiên cứu ĐSVHTT của dân
tộc Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình trong quá trình CNH hiện nay.
5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu đề tài
- Phương pháp luận:
Khóa luận sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử để nhìn nhận đối tượng nghiên cứu, xem xét văn hóa là một dòng chảy
không ngừng, luôn trong quá trình vận động và biến đổi chứ không phải tĩnh
tại, đứng yên. Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, tác giả quan
sát các thành tố của văn hóa người Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình
trong tiến trình phát triển của lịch sử, luôn vận động, biến đổi theo thời gian.
- Phương pháp nghiên cứu đề tài:
Phương pháp quan sát, tham gia.
Phương pháp lịch sử và logic.
Phương pháp phân tích, tổng hợp.
6. Đóng góp của Khóa luận
6
Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của khóa luận góp phần nghiên
cứu về đời sống văn hóa tinh thần và đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc
Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình trong quá trình CNH.
Ý nghĩa thực tiễn: Những kết quả nghiên cứu của khóa luận này có thể
làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy các môn học như: chủ
nghĩa xã hội khoa học, triết học, cơ sở văn hóa Việt Nam,…
Sự luận giải trên cơ sở khoa học và kinh nghiệm thực tiễn về các giải
pháp cho ĐSVHTT của dân tộc Thái có thể là những gợi ý để huyện Mai
Châu tham khảo, vận dụng vào việc nâng cao ĐSVHTT của dân tộc Thái ở
huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình trong quá trình CNH hiện nay.
7. Kết cấu của Khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Khóa
luận gồm 2 chương và 4 tiết:
Chương 1. Lý luận chung về đời sống văn hóa tinh thần và đặc
điểm vị trí địa lí, điều kiện kinh tế - xã hội ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa
Bình
Chương 2. Đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Thái ở huyện
Mai Châu, tỉnh Hòa Bình trong quá trình công nghiệp hóa hiện nay –
Thực trạng và giải pháp
7
NỘI DUNG
Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN VÀ TỎNG
QUAN VỀ HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÕA BÌNH.
1.1. Lý luận chung về đời sống văn hóa tinh thần
1.1.1. Khái niệm văn hóa và đời sống văn hóa
Văn hóa là một khái niệm mang nội hàm rộng với nhiều cách hiểu khác
nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Đa số các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng: Văn hóa là tất cả những
giá trị vật chất và tinh thần do con người với tư cách con người - con người có
văn hóa, đã sáng tạo nên trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội để phục vụ
nhu cầu tồn tại và phát triển. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, loài người sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương tiện sử
dụng toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó, tức là văn hóa. Văn hóa là sự
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu của dân chúng và đòi
hỏi của sự sinh tồn”[10, tr.431].
Nói khái quát, văn hóa là khái niệm chỉ thuộc tính của con người là
sáng tạo, cải tạo hiện thực vươn tới giá trị nhân văn, thúc đẩy sự tiến bộ xã
hội, là dấu hiệu để phân biệt loài người với loài vật, cá nhân này với cá nhân
khác, cộng đồng này với cộng đồng khác. Đồng thời, đây cũng là khái niệm
để chỉ trình độ và chất lượng cuộc sống của con người.
Văn hóa là toàn bộ những giá trị do con người sáng tạo ra trong quá
trình lịch sử bằng lao động của mình trên cả hai lĩnh vực sản xuất vật chất và
sản xuất tinh thần. Giá trị văn hóa (GTVH) được hiểu là những giá trị tốt đẹp
tiêu biểu cho một nền văn hóa, tạo nên bản sắc văn hóa của một dân tộc, được 8
chắt lọc, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, phản ánh và kết tinh đời
sống văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của con người. Do đó, theo truyền
thống, văn hóa có cấu trúc hai phần rất đơn giản: văn hóa vật chất (bao gồm
toàn bộ những sản phẩm do hoạt động sản xuất vật chất của con người tạo ra:
đồ ăn, đồ mặc, nhà cửa, đồ dùng sinh hoạt hằng ngày, công cụ sản xuất,
phương tiện đi lại...) và văn hóa tinh thần (bao gồm toàn bộ những sản phẩm
do hoạt động sản xuất tinh thần của con người tạo ra: tư tưởng, tín ngưỡng -
tôn giáo, nghệ thuật, lễ nghi, lễ hội, phong tục, tập quán, đạo đức, ngôn ngữ,
văn chương) [27].
Các giá trị văn hóa dân tộc biểu hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, từ tư tưởng, tình cảm, quan niệm, biểu tượng, đạo đức, thẩm mỹ, lối
sống đến những giá trị tinh thần do con người sáng tạo nên như nghệ thuật,
kiến trúc, hội họa, âm nhạc,... đem đến bức tranh văn hóa đa dạng, muôn màu.
Qua các giá trị văn hóa giúp con người lựa chọn những gì phù hợp với bản
sắc văn hóa cộng đồng tạo nên những tập quán, thói quen, những nếp sống
đẹp gắn chặt cố kết cộng đồng và khu biệt với các cộng đồng khác. Những
GTVH này hình thành và được khẳng định trong quá trình tồn tại phát triển
của con người và xã hội.
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, con người đã sáng
tạo ra văn hóa. Nhờ có văn hóa mà loài người có sự tiến bộ vượt bậc trong đời
sống xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và chính nó
lại tham gia tác động vào việc hình thành, tái tạo nên con người. Trải qua các
giai đoạn phát triển khác nhau, nền văn hóa của nước ta ngày càng phong phú
và đa dạng với những truyền thống quý báu của ông cha ta được hun đúc từ
ngàn năm để lại. Tất cả được bảo tồn, gìn giữ và phát triển cho đến ngày nay.
Nó được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống của xã hội,
cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà chúng ta đã tạo ra trong mấy
nghìn năm lịch sử.
9
Đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội, mà đời sống xã
hội là một phức thể các hoạt động sống của con người, nhằm đáp ứng các nhu
cầu tinh thần trên một cơ sở vật chất. Khái niệm “đời sống văn hoá” là cụm từ
mới được sử dụng rộng rãi ở nước ta vào những năm 80, 90 của thế kỷ XX.
Tiền thân của cụm từ này là cụm từ đời sống mới, tiêu đề của bài viết dưới
dạng hỏi - đáp, công bố năm 1947, tác giả Tân Sinh, một bút danh của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Trong bối cảnh trình độ học vấn của dân ta còn thấp, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng từ "mới" thay cho từ "văn hoá" để cho dân dễ
hiểu về xây dựng đời sống văn hoá. Có thể coi Đời sống mới là bài viết đầu
tiên đặt cơ sở lý luận cho việc xây dựng đời sống văn hóa ra đời sau Cách
mạng Tháng Tám 1945. Cho mãi tới những năm 80 của thế kỷ XX, trong chỉ
đạo xây dựng đời sống văn hoá, Đảng, Nhà nước vẫn sử dụng từ "mới" được
hiểu là kết tinh hàm lượng văn hoá, tri thức, cách tổ chức, giá trị mới trong
xây dựng nếp sống, nền văn hoá và con người.
Năm 1987, cuốn sách Đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã luận giải:
“Đời sống văn hoá chính là những hành vi sống biểu hiện một trình độ
văn hoá, bao gồm các hoạt động của xã hội, của tập thể, của từng cá nhân,
nhằm mục đích văn hóa hoá tức là hoàn thiện con người” [6].
Tác giả Nguyễn Hữu Thức trong cuốn sách Một số kinh nghiệm quản
lý và hoạt động tư tưởng - văn hóa quan niệm: Đời sống văn hóa được hiểu
một cách khái quát là hiện thực sinh động các hoạt động của con người trong
môi trường sống để duy trì, đồng thời tái tạo sản phẩm văn hóa vật chất, văn
hóa tinh thần theo những giá trị và chuẩn mực xã hội nhất định nhằm không
ngừng tác động, biến đổi tự nhiên, xã hội và đáp ứng nhu cầu đổi mới, nâng
cao chất lượng sống của chính con người [18, tr.35]. Tuy nhiên, quan niệm,
nhận thức về văn hóa này đã đề cập tới phạm vi quá rộng, sẽ khó xác định cho
việc triển khai về xây dựng đời sống văn hóa gắn với không gian, lĩnh vực cụ
thể. Theo Đại từ điển của tác giả Nguyễn Như Ý thì nghĩa hẹp, có thể nói:
10
Đời sống văn hóa chính là sự hoạt động của các quá trình sản xuất, phân phối,
lưu giữ và tiêu thụ những công trình khoa học văn hóa (sản phẩm văn hóa).
Quá trình này biến các giá trị văn hóa tiềm tàng, thành những giá trị văn hóa
hiện thực sao cho những giá trị văn hóa đó đi vào đời sống hàng ngày của mọi
người trở thành một bộ phận hợp thành không thể tách rời, một thành tố thiết
yêu của đời sống [22, tr.27].
Như vậy, đời sống văn hóa là lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội.
Trong một số công trình nghiên cứu Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng
văn hóa ở nước ta, tác giả Hoàng Vinh cho rằng, đời sống văn hóa là một bộ
phận của đời sống xã hội. Đời sống xã hội là một phức thể những hoạt động
sống của con người, nhằm đáp ứng nhu cầu của con người. Trong đó các hoạt
động văn hóa đáp ứng nhu cầu tinh thần, làm cho con người tồn tại với tư
cách là một sinh thể xã hội, tức là con người tồn tại như một nhân cách văn
hóa [21]. Xã hội càng tiến hóa, nhu cầu văn hóa và sự đáp ứng nhu cầu đó
càng cao, thể hiện trình độ phát triển Người. Các hoạt động nhằm đáp ứng
nhu cầu tinh thần của con người, đó chính là hoạt động văn hóa.
Như vậy, đời sống văn hóa chính là tổng thể sống động các hoạt động
văn hóa trong quá trình sáng tạo (sản xuất), bảo quản, phổ biến, tiêu dùng các
sản phẩm văn hóa và sự giao lưu văn hóa, nhằm thỏa mãn nhu cầu văn hóa
của một cộng đồng. Hay nói cách khác nó thuộc đời sống xã hội, trong đó
diễn ra các hoạt động văn hóa. Và con người là chủ thể thông qua các hoạt
động sáng tạo ra các sản phẩm văn hóa, cũng là chủ thể tiêu dùng các sản
phẩm đó và bảo quản, truyền bá văn hóa. Như vậy, con người là một dạng sản
phẩm văn hóa cao cấp, bởi chính hoạt động văn hóa đã làm hoàn thiện bản
chất người.
1.1.2. Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần
ĐSVHTT không phải là một cơ cấu tĩnh tại, một hệ thống đóng kín,
nằm im của những giá trị loại biệt mà là một tổng thể đang vận động của các
giá trị tinh thần được thực hiện và thể hiện thông qua hoạt động của con
11
người trên các lĩnh vực khác nhau của sự sản xuất, trao đổi và tiêu dùng tinh
thần. Nói đến đời sống là nói “sinh hoạt”, nói “hoạt động”. ĐSVHTT là nói
hoạt động của con người trên lĩnh vực tinh thần – hoạt động sản xuất, trao dổi
và tiêu dùng giá trị tinh thần diễn ra trên các lĩnh vực tư tưởng, nghệ thuật,
khoa học, giáo dục, tín ngưỡng tôn giáo.
Các hoạt động ở các khâu nhu cầu, sản xuất, trao đổi, tiêu dùng giá trị
tinh thần cũng như ở lĩnh vực tư tưởng, nghệ thuật, khoa học, giáo dục, tín
ngưỡng tôn giáo không tách biệt nhau mà hòa quyện vào nhau. Trong tổng
hòa sống động của các hoạt động đó, các giá trị tinh thần được tạo ra, lan tỏa
và thẩm thấu vào từng con người, tạo thành niềm tin bên trong, thành tình
cảm, tâm lý, tập quán, thành lối sống, thành hành động tự nhiên hằng ngày
của họ. Nhờ đó và do đó mà mỗi người và mọi người đạt được những phẩm
chất tinh thần cao quý và tồn tại như một giá trị - giá trị “gốc” và tiếp tục sáng
tạo ra những giá trị mới cao hơn, thúc đẩy không ngừng sự phát triển về các
mặt chân, thiện, mỹ của dời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu về giá trị tinh thần
ngày càng tăng lên của mọi thành viên trong xã hội. Chuẩn mực của sự hình
thành ĐSVHTT là chỉnh thể toàn vẹn của các quá trình và hiện tượng đó.
Như vậy khi xem xét và đánh giá ĐSVHTT thì không thể chỉ căn cứ
vào các giá trị tinh thần, các quá trình hình thành giá trị đó, mà còn phải xem
xét các giá trị đó có thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào
từng con người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư
vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người.
Các giá trị tinh thần được con người và loài người tạo ra trong quá khứ
cũng như trong hiện tại là văn hóa tinh thần chứ chưa phải là ĐSVHTT. Chỉ
trong hoạt động văn hóa tổng thể, các giá trị tinh thần được vận hành và thấm
sâu vào từng con người, từng cộng đồng làm nền và định hướng cho thế ứng
xử họ (thể hiện ở tâm hồn, đạo lý, lối sống, thị hiếu, hành vi…) của cá nhân
và cộng đồng hướng tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong quan hệ với mình, với
người, với môi trường xã hội và môi trường tự nhiên thì mới có ĐSVHTT.
12
Lênin từng nói: “Chỉ có cái gì đã ăn sâu vào đời sống văn hóa, vào phong tập,
tập quán, mới có thể coi là được thực hiện rằng: “Phải làm sao cho học thức
thật sự ăn sâu vào trí não, hoàn toàn và thực tế trở thành một bộ phận khăng
khít của cuộc sống của chúng ta” [20, tr.443 - 444]. Vậy tiêu chí căn bản để
xem xét và đánh giá ĐSVHTT của một con người hay của một cộng đồng đó
là trình độ được vun trồng của con người, là sự phát triển về các mặt chân,
thiện, mỹ của mọi mặt đời sống, hoạt động và quan hệ thực tiễn của con
người hay cộng đó.
Như vậy, điểm xuất phát cũng như điểm đến của ĐSVHTT là con
người. Trung tâm chuyển động của ĐSVHTT là ở sự chuyển động của con
người. Con người với lý tưởng, niềm tin, phẩm giá và nhân cách, “vốn là quả
tim đich thực của một nền văn hóa” [11, tr.28]. Hành trình con người là hành
trình văn hóa. Con người ra đời từ văn hóa, trưởng thành nhờ văn hóa, nắm
chắc tương lai bằng văn hóa. Con người tạo ra văn hóa và con người chính là
công trình quan trọng nhất của chính nền văn hóa của mình. Con người là giá
trị cao quý nhất của văn hóa bởi lẽ đó là giá trị gốc sản sinh ra mọi giá trị văn
hóa. Trình độ được vun trồng của con người, sự gia tăng giá trị của con người
thể hiện trong mọi mặt đời sống, trong mọi hoạt động và quan hệ thực tiễn đa
dạng của nó là tiêu chí và chuẩn mực của sự hình thành và phát triển của
ĐSVHTT.
Như vậy, ĐSVHTT là tổng hòa sống động các hoạt động sản xuất, trao
đổi, tiêu dùng các giá trị tinh thần, làm cho các giá trị đó thấm sâu vào từng
con người, từng cộng đồng, trở thành yếu tố khăng khít của toàn bộ cuộc
sống, hoạt động và quan hệ con người, đáp ứng nhu cầu giá trị tinh thần ngày
càng tăng của mọi thành viên trong xã hội.
Với tính cách là một hệ thống, ĐSVHTT diễn ra trong sự vận động
tương tác giữa các nhu cầu, sản xuất, trao đổi, tiêu dùng giá trị tinh thần.
Nhu cầu giá trị tinh thần bao gồm hưởng thụ và sáng tạo, đó là nhu cầu
cơ bản thiết yếu trong đời sống của con người, của xã hội. Nhờ có nhu cầu giá
13
trị tinh thần mà sự tồn tại của con người mang tính người thực sự, đối lập với
tính tự nhiên, tính động vật.
Nhu cầu tinh thần có đặc điểm là: thứ nhất, liên quan chặt chẽ đến trình
độ nhận thức, tình cảm và điều kiện sinh hoạt vật chất của chủ thể. Thứ hai,
so với sự tăng lên của nhu cầu vật chất thì sự tăng lên của nhu cầu giá trị tinh
thần là vô hạn. Nhu cầu vật chất của con người liên quan đến cấu trúc sinh
học của nó và do đó sự tăng lên của nhu cầu này là có giới hạn cho phép con
người ta có thể tính toán, xác định, còn nhu cầu văn hóa tinh thần lại liên quan
đến cấu trúc nhân cách và do đó sự tăng lên của nhu cầu này là vô hạn rất khó
tính toán, xác định. Không thể đặt ra bất cứ giới hạn nào cho sự đầy đủ của
nhu cầu văn hóa tinh thần. Người ta có thể no đủ về cơm ăn, nước uống
nhưng không ai có thể no đủ về tri thức và các giá trị nghệ thuật.
Nếu không có nhu cầu thì sẽ không có sản xuất. Nhu cầu giá trị tinh
thần kích thích con người sáng tạo những giá trị tinh thần mới, kích thích trao
đổi giao lưu và tiêu dùng các giá trị tinh thần. Tóm lại, nhu cầu giá trị tinh
thần kích thích con người tham gia tích cực vào ĐSVHTT.
Sản xuất giá trị tinh thần là hoạt động tìm tòi, phát hiện và làm ra các
gia các giá trị chân, thiện, mỹ nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của
con người, của xã hội. Sản xuất giá trị tinh thần là cơ sở của toàn bộ
ĐSVHTT.
Khi xem xét đánh giá hiệu quả của hoạt động sản xuất tinh thần thì
không thể chỉ căn cứ vào quy mô, số lượng các sản phẩm tinh thần được tạo
ra và quan trọng hơn là tính giá trị, tức lợi ích tiến bộ tinh thần của những sản
phẩm ấy. Bởi trên thực tế, có những sản phẩm tinh thần được sản xuất ra và
lưu hành trên thị trường chỉ vì chúng cho phép người ta thu được lợi nhuận.
Sản xuất giá trị tinh thần, sản phẩm của nó không chỉ là vật phẩm mà cả
những phẩm chất tinh thần của con người. Nói con người làm ra văn hóa đồng
thời văn hóa làm ra con người, hay con người là sản phẩm của hoạt động sản
xuất của chính bản thân nó. Bởi “con người là giá trị cao nhất của mọi giá trị
14
văn hóa” [2]. Trình độ được vun trồng của con người, đó là kết quả tất yếu và
vĩ đại nhất của sự sản xuất giá trị tinh thần. C.Mác viết: “Sản xuất không chỉ
sản xuất ra một vật phẩm cho chủ thể, mà còn sản xuất ra một chủ thể cho vật
phẩm” [19, tr.603].
Trao đổi giá trị tinh thần là một hoạt động tất yếu, tự nhiên của một cơ
thể văn hóa lành mạnh. Tính tất yếu của hoạt động này trước hết bắt nguồn từ
quan hệ phong phú của con người và những quan hệ vốn làm nên bản chất
con người.
ĐSVHTT là một cơ thể sống, và cũng như mọi cơ thể sống khác, nó chỉ
sống, phát triển nhờ thông qua sự trao đổi với môi trường. Một con người,
một cộng đồng hay một quốc gia, dân tộc có thể tự túc được cái ăn, cái mặc,
nhưng không thể tự túc được văn hóa. Để có nhiều món ăn tinh thần cho
mình, mỗi người, mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia đều phải có sự giao lưu trao
đổi các giá trị văn hòa của nhau. Giao lưu văn hóa phải là trao cái hay của
mình và nhận cái hay của người. Trong quá trình giao lưu đó, mỗi cơ thể văn
hóa thực hiện sự chọn lọc, đồng hóa và dị hóa, tiếp thu và gạt bỏ theo cơ chế
tiến hóa. Nhờ đó, ĐSVHTT của các bên tham gia giao lưu được mở rộng và
nâng cao hơn, đa dạng và phong phú hơn.
Tiêu dùng giá trị tinh thần là quá trình con người lựa chọn, tiếp nhận và
cảm thụ các giá trị tinh thàn nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo giá
trị tinh thần của mình.
Quá trình tiêu dùng giá trị tinh thần cũng đồng thời là quá trình bồi
dưỡng tâm hồn, tư tưởng, tình cảm và nhân cách con người, nâng cao sự hiểu
biết, khả năng cảm thụ và sáng tạo văn hóa của nó. Do đó, tiêu dùng tinh thần
cũng đồng thời là sản xuất tinh thần – sản xuất ra chủ thể tiêu dùng mới cao
hơn.
Tiêu dùng giá trị tinh thần có đặc điểm là: thứ nhất, giá trị tinh thần
không phải chỉ tiêu dùng một lần cho một người mà nhiều lần cho nhiều
người. Sản phẩm vật chất mỗi lần dùng nó sẽ hao mòn đi hoặc mất đi, còn sản
15
phẩm tinh thần – một bản nhạc chẳng hạn, nghe một lần và nhớ mãi. Tiêu
dùng sản phẩm tinh thần không chỉ ở một người mà lan tỏa qua sự truyền bá
giữa người này với người kia, có khi truyền bá từ đời này sang đời khác. Thứ
hai, tiêu dùng giá trị tinh thần đòi hỏi người tiêu dùng phải có những phẩm
chất và năng lực nhất định, đồng thời quá trình tiêu dùng văn hóa tinh thần
cũng sẽ tạo ra và phát triển hơn nữa những phẩm chất và năng lực đó ở họ. Do
vậy, quá trình tiêu dùng các giá trị tinh thần đồng thời cũng là quá trình sáng
tạo các giá trị tinh thần.
ĐSVHTT bao quát các lĩnh vực hoạt động chủ yếu: tư tưởng, nghệ
thuật, khoa học, giáo dục, tín ngưỡng tôn giáo.
Hoạt động tư tưởng với tư cách là một lĩnh vực của ĐSVHTT có nhiệm
vụ không chỉ sản xuất ra trí thức, những quan điểm mới đúng đắn mà còn đưa
được chúng vào ý thức con người, trở thành “xu hướng chủ đạo dẫn dắt cá
nhân tới những hoạt động chủ động, tích cực, sáng tạo, tới những hành vi giao
tiếp và ứng xử với những người xung quanh một cách có văn hóa.
Hoạt động tư tưởng là hoạt động chủ đạo quy định phương hướng, trình
độ và phẩm chất của toàn bộ ĐSVHTT cũng như từng bộ phận của nó, đảm
bảo cho ĐSVHTT phát triển đúng hướng, có căn cơ, có gốc rễ vững chắc, bền
lâu và có chất lượng thực sự.
Hoạt động nghệ thuật là quá trình sáng tạo các giá trị nghệ thuật đáp
ứng nhu cầu thẩm mỹ của con người, là lĩnh vực hoạt động đặc trưng nhất, có
tính thẩm mỹ cao nhất trong các hoạt động sáng tạo tinh thần, đồng thời cũng
có tính giáo dục, cảm hóa mạnh mẽ nhất đối với con người.
Nghệ thuật đồng thời làm nhiệm vụ xây dựng tư tưởng và về một số
mặt còn hiệu quả hơn mọi hình thái tư tưởng khác. Đại hội VI của Đảng
khẳng định: “Không hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được văn học nghệ
thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi
mới cách nghĩ, nếp sống của con người” [6, tr.129-130].
16
Hoạt động khoa học là hoạt động sáng tạo phổ biến tri thức cần thiết
cho con người và xã hội, đáp ứng yêu cầu chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội
và hoàn thiện con người theo hướng đạt tới chân, thiện, mỹ.
Hoạt động khoa học đem lại cho con người sự hiểu biết – nhân tố hàng
đầu của văn hóa. Tuy nhiên, mới chỉ hiểu biết thôi vẫn chưa là văn hóa. Mới
dừng ở nhận thức dù sâu sắc đến đâu cũng vẫn chưa là văn hóa. Chỉ khi nhận
thức, sự hiểu biết hoàn toàn và thực tế trở thành một bộ phận khăng khít của
cuộc sống của từng cá nhân và cả cộng đồng thì mới là văn hóa. Tri thức, sự
hiểu biết nếu không được áp dụng hoặc áp dụng vì mục đích phản nhân văn
thì chỉ tạo ra một nỗi khổ - “nỗi khổ của trí tuệ” [11, tr.36]. Do đó, để khoa
học có thể đóng góp to lớn cho ĐSVHTT phải “nhân văn hóa khoa học”, nói
cách khác phải “nâng khoa học lên trình độ nhân bản, vì sự phát triển của con
người, kể cả phần thể xác lẫn tâm hồn” [11. Tr.37].
Hoạt động giáo dục là hoạt động nhằm trang bị cho con người những tri
thức của tất cả các lĩnh vực khoa học tự nhiên, kỹ thuật, xã hội và nhân văn,
giúp họ có được những phẩm chất và năng lực cần thiết để sáng tạo những giá
trị mới cho cuộc sống, trong đó có giá trị tinh thần.
Giáo dục bao gồm giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội. Lợi ích do
giáo dục không phải ngay lập tức mà trong tương lai (gần,xa), không chỉ cho
người được giáo dục mà cho cả toàn xã hội. Lợi ích giáo dục có tính lan tỏa,
nhờ đó mà tất cả các lĩnh vực khác của ĐSVHTT được thừa hưởng những
phẩm chất và năng lực của người được giáo dục.
Hoạt động tín ngưỡng tôn giáo là hoạt động hướng về một thế giới siêu
nghiệm với niềm tin tuyệt đối, sự trông cậy và tình cảm yêu mến đối với thế
giới siêu nghiệm đó [3].
Hệ thống luân lý đạo đức mà tôn giáo tạo ra được trong quá trình sinh
thành và phát triển của nó mang dấu ấn lịch sử, tính giai cấp và tính thời đại
rất khác biệt nhưng đều có điểm tương đồng, xuyên suốt là răn dạy các tín đồ
về các giá trị và quy phạm đạo đức. Những điều mà tôn giáo nhấn mạnh như
17
tránh điều ác, làm điều thiện, quan tâm đến mọi người…cũng là nhân tố góp
phần duy trì trật tự xã hội. Thực tế cuộc sống xác nhận rằng “ở đâu cái thiêng
và cái thiện được đề cao thì ở đó cái tục và cái ác có phần thuyên giảm”
[11,tr.38]. Trong phạm vi ý nghĩa này, tôn giáo có thể góp phần giáo dục đạo
đức và động viên những người tin đạo góp phần cùng xã hội tạo ra các giá trị
văn hóa.
Trong phạm vi của khóa luận, tác giả nghiên cứu ĐSVHTT ở góc độ
“Các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của ĐSVHTT như tư tưởng, nghệ thuật,
khoa học, giáo dục, tín ngưỡng tôn giáo”.
1.2. Vị trí địa lý, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội ở huyện Mai
Châu, tỉnh Hòa Bình
Đặc điểm vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Mai Châu là huyện vùng cao của tỉnh Hòa Bình, có vị trí chiến lược rất
quan trọng, là cửa ngõ lên Tây Bắc và sang Lào. Phía đông giáp huyện Đà
Bắc và Tân Lạc, phía Tây và Tây Nam giáp huyện Quan Hóa (Thanh Hóa),
phía Bắc giáp huyện Mộc Châu (Sơn La). Tựa lựng vào dãy núi Trường Sơn
hùng vĩ, hình thế Mai Châu giống như hình thang mà đáy lớn từ đông bắc đến
đông nam, đáy nhỏ từ tây đến tây bắc [1, tr.14].
Mai Châu trước kia được gọi là Mường Mai, được hình thành vào
khoảng thế kỷ XIII. Thời nhà Trần, Mường Mai thuộc lộ Đà Giang, trấn Gia
Hưng, xứ Hưng Hoá. Dưới triều Nguyễn, Mai Châu gồm tổng Thanh Mai và
tổng Bạch Mai.
Kể từ thời Pháp thuộc, châu Mai Châu thuộc phủ Chợ Bờ, tỉnh Mường
Hoà Bình. Tháng 10/1890, châu Mai Châu và châu Đà Bắc được hợp làm
một, gọi là Mai Đà. Sau một thời gian tồn tại, châu Mai Đà lại tách thành hai
và được giữ nguyên đến năm 1941 thì Mai Châu và Đà Bắc lại tái hợp nhất
thành châu Mai Đà.
18
Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, xuất phát từ
yêu cầu thực tiễn của cách mạng, ngày 21/9/1956, Thủ tướng Chính phủ ký
nghị định chia huyện Mai Đà thành hai huyện: Mai Châu và Đà Bắc [1, tr.17].
Năm 1957, theo Quyết định của Liên khu III, huyện Mai Châu vốn gồm
5 xã: Mai Thượng, Tân Mai, Mai Hạ, Bao La và Pù Bin được chia thành 21
xã. Đến nay, địa giới hành chính huyện Mai Châu ổn định với 23 đơn vị hành
chính gồm 22 xã Cun Pheo, Piềng Vế, Bao La, Xăm Khoè, Mai Hịch, Vạn
Mai, Mai Hạ, Tân Mai, Chiềng Châu, Nà Phòn, Nà Mèo, Tòng Đậu, Đồng
Bảng, Phúc Sạn, Tân Sơn, Noong Luông, Ba Khan, Thung Khe, Pù Bin, Hang
Kia, Pà Cò, Tân Dân và thị trấn Mai Châu.
Mảnh đất Mai Châu là nơi cộng cư của nhiều dân tộc, cũng là nơi giao
lưu của nhiều nền văn hóa. Nhưng Mai Châu là địa bàn cư trú chính của
người Thái, họ đã cùng các dân tộc, anh em khác trong huyện qua nhiều thế
kỷ đoàn kết, đấu tranh chống lại mọi thế lực phong kiến, đế quốc, cùng nhau
xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc.
Điều kiện kinh tế
Năm 2017, tổng giá trị sản xuất đạt 2.011.800 triệu đồng (giá hiện
hành), vượt 3,29% so với kế hoạch và tăng 12,27% so với cùng kỳ, trong đó:
Giá trị sản xuất nông – lâm – thủy sản đạt 686.800 triệu đồng, chiếm tỷ trọng
34,14%; giá trị công nghiệp xây dựng đạt 686.800 triệu đồng, chiếm tỷ trọng
34,55%; giá trị thương mại - dịch vụ - du lịch đạt 630.000 triệu đồng, chiếm
tỷ trọng 31,31%; tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt 43.794 triệu đồng; Tỷ lệ
lao động qua đào tạo đạt 34,41%; Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt
93,32%; Tỷ lệ hộ nghèo giảm 0,66% so với năm 2016 [23].
Trong trồng trọt thì cây lúa chiếm chủ yếu về diện tích và sản lượng.
Cây công nghiệp và cây ăn quả là thế mạnh kinh tế của huyện, nhưng vẫn
chưa thực sự được chú trọng phát triển. Ngành chăn nuôi ở Mai Châu chủ yếu
phát triển theo quy mô hộ gia đình. Các loại gia súc thường được nuôi là trâu,
bò, lợn theo phương thức chăn thả tự nhiên ở các bãi cỏ hoặc dưới tán rừng là 19
chính. Năm 2017, tổng đàn gia súc của huyện đạt 47.161 con, đàn gia cầm đạt
208.253 con; sản xuất nuôi trồng thủy sản tương đối ổn định, tổng diện tích ao
hồ nuôi trồng thủy sản toàn huyện đạt 75,22 ha, nuôi cá lồng đạt 584 lồng, sản
lượng thủy sản khai thác đạt 108,5 tấn. Hình thành các mô hình chăn nuôi
như: nuôi gà thả vườn, nuôi cá ao, nuôi bò, nuôi lợn sinh sản…
Thời gian vừa qua, ở Mai Châu, việc khai thác rừng chưa thật hợp lý đã
dẫn đến nguồn tài nguyên này ngày một cạn kiệt. Mấy năm gần đây, nhờ các
dự án 661, dự án rừng phòng hộ, dự án trồng mới rừng... cung cấp vốn trồng
và bảo vệ rừng nên thảm rừng ở Mai Châu đã và đang được phục hồi dần.
Công tác chăm sóc và bảo vệ rừng luôn được phát triển, hiện tượng chặt phá
rừng làm nương rẫy cơ bản đã được ngăn chặn.
Cho đến nay, huyện Mai Châu luôn duy trì số cơ sở công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp trên địa bàn. Phát huy hiệu quả của nguồn vốn ưu tiên phát
triển sản xuất, các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp không ngừng mở
rộng về quy mô sản xuất, tăng sản lượng các mặt hàng. Toàn huyện có 637 cơ
sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, đã tiêu thụ khối lượng lớn
nguồn nguyên vật liệu của địa phương, giải quyết việc làm tại chỗ, góp phần
tăng thu nhập cho 2.376 lao động.
Du lịch được coi là thế mạnh của huyện Mai Châu với một số địa danh
du lịch văn hoá nổi tiếng không chỉ ở trong nước mà cả đối với du khách
nước ngoài như bản Lác (Chiềng Châu), bản Củm (Vạn Mai), bản Pom
Coọng (thị trấn Mai Châu)... Với 800 ha diện tích mặt nước, hồ sông Đà là
một danh lam thắng cảnh đẹp, có thể thu hút nhiều khách du lịch đến với Mai
Châu. Phát huy thế mạnh tiềm năng về du lịch làng nghề, Ủy ban nhân dân
huyện đã quan tâm chỉ đạo công tác bảo tồn, phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc, thường xuyên tăng cường công tác xúc tiến đầu tư, quảng bá hình ảnh về
văn hoá, bản sắc dân tộc, huy động nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng và
nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch trên địa bàn. Ủy ban nhân dân huyện đã
xây dựng đề án Phát triển du lịch huyện Mai Châu giai đoạn 2015 - 2020, tầm
20
nhìn 2030, triển khai thực hiện công trình hạ tầng du lịch huyện Mai Châu với
tổng mức đầu tư 40 tỷ đồng nhằm củng cố, tăng cường khai thác các tiềm
năng về du lịch. Huyện Mai Châu hiện có 119 nhà nghỉ từ khách sạn 3 sao
cho tới homestay, có các hộ homestay được lắp biển đồng giải thưởng
ASEAN giai đoạn 2016 - 2018. Trong năm 2016 toàn huyện đón 301.500 lượt
khách, trong đó khách quốc tế là 112.000 lượt khách, nội địa là 189.500
khách, tổng doanh thu du lịch đạt trên 75 tỷ đồng [23].
Lượng khách tới Mai Châu tương đối đông và rải đều vào các tháng
trong năm, tập trung nhiều vào cuối tuần. Là địa phương sớm phát triển du
lịch văn hóa dân tộc và du lịch sinh thái, khi thực hiện chương trình xây dựng
nông thôn mới, huyện vùng cao Mai Châu đã lồng ghép hiệu quả các nguồn
vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch, thực hiện đề án phát triển du lịch cộng
đồng gắn với xây dựng nông thôn mới.
Về kinh tế, người Thái là những người làm ruộng có kinh nghiệm sử
dụng sức nước vào việc canh tác cũng như phục vụ đời sống với hàng loạt
mương phai ngang dọc cánh đồng, nhất là hàng ngàn cối giã gạo, xe nước, lợi
dụng sức nước để phục vụ cho đời sống và sản xuất. Bàn tay cần cù và đầy
tinh tế của người phụ nữ Thái đã tạo nên những mảng màu sắc rực rỡ trên tấm
thổ cẩm làm say lòng bất cứ ai khi đến Mai Châu. Họ còn giỏi nghề chài lưới,
đi thuyền xuôi ngược trên dòng sông Đà, sông Mã nổi tiếng hung dữ, tài chăn
nuôi… Do đó đời sống vật chất của người Thái khá hơn các vùng xung
quanh, đảm bảo cho họ một đời sống tinh thần phong phú.
Từ lâu đời nay người phụ nữ Thái Mai Châu đã nổi tiếng với nghề dệt.
Họ là những nghệ nhân tài ba nơi núi rừng. Quan niệm về cái đẹp được người
con gái Thái thể hiện trên mỗi tấm thổ cẩm. Nhà nào cũng có một đến hai
khung dệt. Các cô gái Thái ngày đêm cần mẫn bên khung cửi, tỉ mỉ, khéo léo
dệt những tấm thổ cẩm với nhiều họa tiết hoa văn độc đáo. Khách ở xa vào
nhà người Thái sẽ cảm nhận được ngay những sản phẩm dệt trưng bày rực rỡ
trong lòng ngôi nhà sàn của họ qua những xấp chăn đệm, gối, áo… Trong các 21
sinh hoạt văn hóa, người Thái thường lấy thổ cẩm làm vật trang trí thể hiện
quan niệm thẩm mỹ. Hiện nay, huyện Mai Châu còn khoảng hơn 300 khung
cửi. Huyện đã thành lập được các nhóm sản xuất dệt thổ cẩm để phát triển tìm
kiếm thị trường ổn định cho nghề dệt của người Thái Mai Châu. Những tấm
thổ cẩm được người con gái Thái khéo léo may thành trang phục truyền
thống. Người Thái duy trì việc mặc trang phục truyền thống vào các ngày lễ,
Tết truyền thống của dân tộc mình.
Ngoài Thị trấn Mai Châu tập trung đông dân cư, là trung tâm kinh tế,
chính trị, văn hoá của huyện, hiện nay ở huyện cũng đã hình thành những tụ
điểm dân cư theo hướng đô thị hoá như: Co Lương (Vạn Mai), Đồng Bảng
(Đồng Bảng)..., những khu dân cư này phân bố chủ yếu dọc theo quốc lộ 15
và là những hạt nhân làm chuyển biến tích cực cho kinh tế, văn hoá, xã hội
của huyện Mai Châu.
Là điểm sáng của du lịch tỉnh Hòa Bình, Mai Châu luôn được đánh giá
là điểm đến thân thiện, để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp đối với du khách và thực
sự trở thành điểm đến lý tưởng của du khách, đặc biệt là khách quốc tế ưa
thích khám phá, trải nghiệm. Mai Châu đang có điều kiện cất cánh, đưa du
lịch trở thành ngành mũi nhọn kinh tế của huyện.
Để nâng cao chất lượng và hình ảnh du lịch, thời gian tới huyện Mai
Châu sẽ tiếp tục hoàn thành quy chế quản lý hoạt động du lịch trên địa bàn
huyện. Xây dựng kế hoạch tổ chức phục dựng lễ hội “Gầu Tào” dân tộc Mông
phục vụ cho hoạt động du lịch và bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc Mông. Tiếp
tục đẩy mạnh, tuyên truyền quảng bá du lịch, đồng thời có những chính sách
ưu đãi, thu hút đầu tư vào du lịch.
Đào tạo, bồi dưỡng những người làm công tác du lịch phục vụ phát
triển du lịch bền vững, thực hiện các quy định về vệ sinh môi trường, văn
minh trong du lịch, bảo đảm an ninh trật tự, xây dựng Mai Châu thành điểm
đến an toàn và thân thiện, hấp dẫn với khách du lịch trong nước và quốc tế.
22
Đặc điểm văn hóa - xã hội
Mai Châu là nơi tập chung sinh sống của nhiều dân tộc. Các dân tộc ở
Mai Châu cư trú xen kẽ, toàn huyện có 10 dân tộc anh em cùng sinh sống, bao
gồm các dân tộc: Thái, Dao, Mường, Mông, Kinh, Hoa, Tày… Mỗi dân tộc
đều có những nét độc đáo riêng.
Những năm gần đây, đời sống nhân dân huyện Mai Châu đã có nhiều
chuyển biến tích cực, diện mạo nông thôn thay đổi rõ nét. Kết quả đó là do
Mai Châu đã thực hiện tốt CVĐ “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư”.
Ông Vì Văn Mè, Chủ tịch MTTQ huyện Mai Châu cho biết: Trong 15
năm qua, có sự phối hợp chặt chẽ giữa MTTQ, các tổ chức thành viên từ
huyện đến cơ sở cùng với sự nhiệt tình, năng động của đội ngũ làm công tác
mặt trận, đặc biệt là sự đồng tình hưởng ứng của nhân dân, huyện Mai Châu
đã đạt được những kết quả tích cực trong CVĐ “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên địa bàn
huyện được tăng cường, những giá trị văn hóa truyền thống khơi dậy, tình
làng, nghĩa xóm và quyền làm chủ của nhân dân được phát huy [24].
Nhằm có thể đưa nhanh và nhiều các sinh hoạt văn hoá của cả nước và
tỉnh Hoà Bình về với nhân dân các dân tộc Mai Châu, trên địa bàn huyện đã
hình thành hệ thống các thiết chế văn hoá cơ sở gồm: thư viện, điểm bưu điện
văn hoá xã và các đội văn nghệ quần chúng ở hầu khắp các bản, làng.
Ngành văn hoá Mai Châu đã tuyên truyền lối sống lành mạnh, góp
phần từng bước xoá bỏ các hủ tục mê tín dị đoan đã tồn tại hàng ngàn đời
trong các cộng đồng dân cư. Các đám hiếu, hỷ được vận động tổ chức trang
trọng, gọn nhẹ mà vẫn mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Nhiều gia đình
được công nhận là gia đình văn hoá, nhiều xóm bản là xóm bản văn hoá. Một
số lễ hội truyền thống đã được khuyến khích khôi phục và duy trì nhằm nâng
23
cao đời sống tinh thần của nhân dân và góp phần bảo tồn di sản văn hoá dân
tộc.
Duy trì các hoạt động phát thanh - truyền hình, bám sát các nhiệm vụ
trọng tâm của huyện, phản ánh kịp thời các hoạt động kinh tế - xã hội, an ninh
- quốc phòng trên địa bàn huyện, góp phần quan trọng trong việc tuyên truyền
các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới
cán bộ và nhân dân trên địa bàn; các chương trình truyền thanh - truyền hình
luôn được duy trì và nâng cao chất lượng, thu hút đông đảo khán, thính giả
quan tâm, ủng hộ.
Phong trào văn nghệ, thể dục thể thao quần chúng tiếp tục được duy trì
và phát triển đều khắp các xã, thị trấn, góp phần làm phong phú đời sống tinh
thần của nhân dân, tác động tích cực đến công tác xây dựng xã hội lành
mạnh, giảm các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan; tăng cường bảo vệ các di tích
lịch sử, danh lam thắng cảnh trên địa bàn huyện; phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa” được quan tâm thực hiện, góp phần xây dựng
xã hội lành mạnh, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống của dân
tộc [24].
Nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Hòa Bình, được núi non bao bọc, Mai
Châu là mảnh đất hội tụ, giao lưu của nhiều dân tộc anh em sinh sống. Mai
Châu hiện có 12 di tích, danh thắng, trong đó có 5 di tích được Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch công nhận đó là: Hang Khoài (Xăm Khòe), Hang Chiều
(thị trấn Mai Châu), Hang Nhật, Hang Láng, Hang Mỏ Luông (Chiềng Châu).
Ngoài ra, Mai Châu còn là địa phương lưu giữ kho tàng văn nghệ dân gian
phong phú với những nét đặc trưng của dân tộc Thái, Mông qua các hoạt
động của người xưa trong các lễ hội như: lễ hội “Cầu mưa”, lễ hội “Chá
chiêng” của dân tộc Thái và lễ hội “Gầu tào” của dân tộc Mông. Lễ kỷ niệm
130 năm thành lập huyện, 60 năm tái lập huyện Mai Châu và đón nhận Huân
chương Lao động hạng Ba... các cuộc thi đấu giao lưu thể dục, thể thao phục
24
vụ các ngày lễ lớn của dân tộc, của địa phương; tổ chức các buổi biểu diễn
phục vụ nhiệm vụ chính trị và hoạt động du lịch trên địa bàn huyện, thu hút
nhiều lượt người xem. Đội chiếu phim duy trì hoạt động, tổ chức các buổi
chiếu, phục vụ khán giả, góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho bà
con các dân tộc vùng sâu, vùng xa của huyện; xây dựng kế hoạch bảo vệ di
tích lịch sử, danh lam thắng cảnh trên địa bàn huyện; phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được quan tâm thực hiện, góp phần xây
dựng xã hội lành mạnh, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống của
dân tộc; chỉ đạo các ngành liên quan tăng cường công tác kiểm tra, quản lý
các cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hóa, du lịch trên địa bàn huyện; triển khai
thực hiện có hiệu quả Đề án chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi gắn với
xây dựng nông thôn mới và phát triển du lịch huyện Mai Châu giai đoạn 2016
– 2020.
Với những đặc thù về địa lý và truyền thống văn hóa sẵn có, chính
quyền huyện Mai Châu đã giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đồng
thời khai thác tiềm năng du lịch khá hiệu quả. Đặc biệt là Mai Châu làm tốt
công tác an ninh trật tự, không để xảy ra hiện tượng chèo kéo khách du lịch,
để lại ấn tượng tốt trong lòng du khách trong và ngoài nước.
Tiểu kết Chương 1
ĐSVHTT là lĩnh vực tồn tại chân chính của con người với tư cách là
thành viên xã hội. ĐSVHTT là tổng hòa sống động các hoạt động sản xuất,
trao đổi, tiêu dùng các giá trị tinh thần, làm cho các giá trị đó thấm sâu vào
từng con người, từng cộng đồng, trở thành yếu tố khăng khít của toàn bộ cuộc
sống, hoạt động và quan hệ con người, đáp ứng nhu cầu giá trị tinh thần ngày
càng tăng của mọi thành viên trong xã hội.
ĐSVHTT vận động và phát triển thông qua các khâu nhu cầu, sản xuất,
trao đổi, tiêu dùng giá trị tinh thần và sự tương tác giữa chúng. Các hoạt động
ở các khâu kể trên cũng như ở các lĩnh vực tư tưởng, nghệ thuật, khoa học, tín
ngưỡng tôn giáo không tách biệt nhau mà thâm nhập, hòa quyện vào nhau và 25
mang lại cho chủ thể hoạt động, tức con người những giá trị tinh thần mới,
nâng cao giá trị con người đó là giá trị gốc của mọi giá trị. Tiêu chí căn bản
để xem xét đánh giá ĐSVHTT của một con người hay của một cộng đồng là
trình độ được vun trồng của con người, là sự phát triển về các mặt chân, thiện,
mỹ của mọi mặt đời sống, hoạt động và quan hệ thực tiễn của con người hay
cộng đồng đó.
Hòa Bình nói chung và Mai Châu riêng là địa phương là vùng đất có
truyền thống lịch sử cùng với những giá trị nhân văn đa dạng, phong phú độc
đáo trong nếp sống, tín ngưỡng, lễ hội, sinh hoạt và các hoạt động văn hóa,
nghệ thuật... của các dân tộc: Thái, Mường, Kinh…
Mai Châu được thiên nhiên ưu đãi, với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ
có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp. Với sự tham gia của cộng đồng người Thái
vào các hoạt động du lịch, những lợi ích kinh tế mà du lịch mang lại đã góp
phần làm cho Mai Châu chuyển mình và ngày càng phát triển.
Giá trị văn hóa được hiểu là những giá trị tốt đẹp tiêu biểu cho một nền
văn hóa, tạo nên bản sắc văn hóa của một dân tộc, được chắt lọc, lưu truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác, phản ánh và kết tinh đời sống văn hoá vật chất và
văn hoá tinh thần của con người. Đó là những giá trị vật chất, tinh thần được
tích tụ, gìn giữ trong toàn bộ quá trình lịch sử phát triển của dân tộc. Các giá
trị văn hóa dân tộc Thái được biểu hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, từ tư tưởng, tình cảm, quan niệm, biểu tượng, đạo đức, thẩm mỹ, lối sống
đến những giá trị tinh thần do con người sáng tạo nên như nghệ thuật, kiến
trúc, hội họa, âm nhạc,và cả phong tục tập quán. Đem đến bức tranh văn hóa
đa dạng, muôn màu. Qua các giá trị văn hóa giúp con người lựa chọn những
gì phù hợp với bản sắc văn hóa cộng đồng tạo nên những tập quán, thói quen,
những nếp sống đẹp gắn chặt cố kết cộng đồng và khu biệt với các cộng đồng
khác. Những giá trị văn hóa này hình thành và được khẳng định trong quá
trình tồn tại phát triển của con người và xã hội.
26
Chương 2. ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA DÂN TỘC THÁI Ở HUYỆN
MAI CHÂU, TỈNH HÕA BÌNH TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN
ĐẠI HÓA HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2.1. Đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Thái ở huyện Mai
Châu, tỉnh Hòa Bình
Người Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục địa, tổ tiên xa xưa
của người Thái có mặt ở Việt Nam từ rất sớm. Dân tộc Thái là người đầu tiên
khám phá ra mảnh đất Mai Châu và từ trước đến nay là cư dân chiếm đa số ở
Mai Châu [1, tr.11].
Theo các nhà khoa học, người Thái đã định cư ở vùng đất Mai Châu
(Hòa Bình) từ cuối thế kỉ 13, đầu thế kỉ 14. Đây là vùng đất nằm giữa suối
Xia và suối Mùn.
Dân tộc Thái ở Mai Châu chiếm gần 60% dân số của huyện. Ngày nay,
trước sự giao thoa của các nền văn hóa khác nhau, người Thái Mai Châu đang
bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc mình bằng việc giữ gìn nếp nhà
sàn, trang phục, chữ viết, tiếng nói…
Người Thái ở huyện Mai Châu (tỉnh Hòa Bình) thuộc nhóm Thái trắng.
Sống giữa xứ Mường, nhưng người Thái vẫn giữ được những phong tục
truyền thống, mang nhiều nét khác biệt so với các nhóm Thái khác ở Điện
Biên, Lai Châu, Sơn La.
Do đó, ĐSVHTT của dân tộc Thái được biểu hiện ở các khía cạnh như:
Tư tưởng, nghệ thuật, phong tục tập quán và tín ngưỡng dân gian.
Về tư tưởng
Ở xã hội Thái cổ truyền, cha mẹ không có sự phân biệt con đẻ và con
nuôi, con vợ lẽ và con vợ cả (nếu có), con chung – con riêng, chỉ có sự phân
biệt giữa con trai và con gái, giữa con trưởng và con thứ. Khi chia của cải, bố
mẹ dành phần hơn cho con trưởng, người con gái tuy không hưởng được
quyền thừa kế tài sản, bố mẹ có cách gây vốn cho con vào lúc chàng trai về 27
làm rể. Bố mẹ lo cho vợ chồng khi tách ra ở riêng có một cơ ngơi đầy đủ.
Mặc dù cha mẹ tôn trọng sự lựa chọn người yêu của con cái, nhưng quyền
quyết định dựng vợ, gả chồng vẫn thuộc về bố mẹ. Vẫn có sự phân biệt giữa
tầng lớp quý tộc và dân thường [4, tr.55].
Mỗi thành viên của bản đều chịu sự chăm lo giúp đỡ của các thành viên
khác trong bản, vì lẽ đó trong họ xuất hiện tâm lý chịu ơn. Đã chịu ơn phải có
trách nhiệm quý trọng, giúp đỡ trả lại người cùng bản. Xã hội Thái không
chấp nhận lối sống chỉ biết có mình, vun vén cho mình, càng không chấp
nhận lối sống tự phụ huênh hoang, vỗ ngực ta đây là người tài, người giỏi.
Người Thái sống gắn bó với nhau trên cơ sở của lòng trung thực. Họ
căm ghét vô cùng những kẻ dối trá. Chỉ cần một hai lần mất lòng tin, người
đó sẽ bị dân bản khinh bỉ. Còn đã tin nhau rồi, sẽ được coi là anh em, đã là
anh em sẽ không tiếc nhau một thứ gì, khi cần hiến cả máu xương cũng sẵn
sàng.
Trong xã hội cổ truyền Thái, mẫu người lý tưởng không phải là bậc
hiền nho quân tử của đạo Khổng, càng không phải là mẫu người lắm tiền
nhiều của, mà là người chăm việc lo lắng cho dân trong làng bản, xả thân giúp
đỡ mọi người khi cần thiết [4, tr.65].
Khiêm nhường là đặc trưng trong giao tiếp của dân bản Thái. Họ không
nhận về mình cái hay, cái giỏi, cho đó là còn kém, còn phải vươn lên nhiều
mới xứng lời khen của mọi người. Khi định khen người khác họ lại biết dùng
những từ ngữ bóng bẩy, khen cho nên tốt, nên đẹp, cho vừa lòng người được
khen mới toại ý lòng.
Người Thái Mai Châu là vậy. Quý trọng con người đó là truyền thống
tốt đẹp của cả dân tộc sống trong thung lũng Mai Châu này.
Về nghệ thuật
28
Người Thái Mai Châu sở hữu một kho tàng văn hóa văn nghệ đặc sắc
với những điệu xòe uyển chuyển, mềm mại hay trống đồng, khèn bè và cả hoa
văn trên mặt vải.
Nếp sống văn hóa "mình vì mọi người, mọi người vì mình” đã ăn sâu
vào mỗi người Thái. Người Thái phát huy được bản tính phóng khoáng, sôi
nổi trong sinh hoạt cộng đồng, nhất là chị em phụ nữ. Múa xòe là sinh hoạt
cộng đồng đã ngấm vào máu thịt của mỗi người Thái với đủ các loại xòe như:
xòe vòng, xòe trống chiêng, xòe kéng loóng… Truyền thống kể chuyện vui
của người Thái ở xã Bao La, tạo ra nét riêng của người Thái Mai Châu.
Xòe là điệu múa dân gian của người Thái từ xa xưa. Nó tồn tại, phát
triển ngày càng phong phú, đa dạng. Xòe mô tả cuộc sống của con người
trong lao động, sản xuất, tìm kế mưu sinh, vui chơi, giải trí, tín ngưỡng, đấu
tranh với thiên nhiên, giặc giã, thú dữ... Xòe rất quan trọng đối với đời sống
cộng đồng người Thái. Từ xa xưa đồng bào Thái đã có câu:
“Không xòe cây lúa không thành bông
Không xòe cây ngô không ra bắp
Không xòe trai gái không thành đôi...” [25]
Vì lý do đó mà việc tìm hiểu các động tác, ý nghĩa của các điệu xòe là
cần thiết.
Điệu múa xòe mang đậm bản sắc dân tộc nhưng cũng là tiếng nói của
những người dân trong lao động, sản xuất.
Bên cạnh điệu múa xòe, trong lễ hội của người Thái Mai Châu, múa
trống đồng cũng là một hoạt động văn hóa nghệ thuật lành mạnh có sức hấp
dẫn và lôi cuốn mọi người trong cộng đồng. Không chỉ vậy, khèn bè – một
loại nhạc cụ độc đáo của người Thái, được nam giới dùng là phổ biến. Người
29
thạo khèn bè có thể thổi được nhiều bài, mỗi bài có một làn điệu riêng.
Thường ở Mai Châu phổ biến 4 bài sau:
Một là, dạo chơi qua bản: Dùng khi chàng trai ôm khèn xuống nhà đi
chơi, vừa đi vừa thổi, làn điệu nhanh mạnh, âm trầm vang xa, cảm giác vui
tươi.
Hai là, thức gọi người thương: dùng vào lúc chàng trai đến bên cầu
thang nhà cô gái, hoặc vào chơi nhà bạn gái muốn mượn tiếng khèn để tỏ tình,
tiếng khèn nhẹ nhàng êm ái, nghe xao xuyến dễ làm say lòng người.
Ba là, an ủi người đàn bà góa: Cảm thông với cảnh cô đơn, nhớ tới
người chồng chẳng may mất sớm của người phụ nữ Thái. Lời khèn du dương,
tha thiết, vừa gợi nhớ tới quá khứ, vừa lôi cuốn người đàn bà góa trở về với
hiện tại nhớ tới công việc nhà, việc đồng ruộng.
Bốn là, tạm biệt người yêu: Dùng lúc chàng trai chia tay ngươi bạn gái
về nhà, hay đi xa. Lời khen trầm, ngân dài, biểu lộ tình cảm thắm thiết, nhớ
nhung, không muốn rời xa [4, tr.186].
Nói đến nghệ thuật của dân tộc Thái thì không thể không nói đến nghệ
thuật hoa văn trên mặt vải. Con gái Thái, ngoài lao động giỏi, chăm chỉ ruộng
nương, ít nhất cũng phải biết kéo sợi, dệt vải, biết khâu gối, khâu quần áo, hay
khâu chăn, màn, đệm. Biết lấy lá cây, vỏ cây, củ nâu, củ nghệ,…nấu thành
các màu để nhuộm sợi. Đến tuổi lấy chồng, người con gái phải tự tay dệt lấy
vỏ chăn, khâu lấy vỏ gối, đôi đệm, đôi chăn, chiếc màn để đem về nhà chồng.
Hoa văn trên mặt vải, những họa tiết được bố cục hai hòa, cân đối sử dụng
màu sắc tươi, mát rịu.Người dệt vải phải biết quan sát thiên nhiên và tính cách
của các loài động vật mà mình định dệt. Người dệt đã có nhiều cố gắng trong
tạo hình của mỗi loài. Các chi tiết nhỏ của từng họa tiết như đài, nhị của từng
30
hoa, chân, vòi của từng con voi, mỏ của con gà, cánh của con chim, chân, tay
của con người đêu được cách điệu hóa rất độc đáo và nghệ thuật [4, tr.188].
Phong tục tập quán
Nói đến phong tục, tập quán của người Thái Mai Châu luôn phải kể đến
những phong tục tiêu biểu về trang phục, về tục cưới hỏi, ma chay, làm
vía,…hay phong tục ở nhà sàn.
Về trang phục của người Thái: Từ lâu đời, người Thái Mai Châu đã biết
trồng bông dệt vải, trồng dau nuôi tằm để tự cấp lấy vải mặc. Người Thái ý
thức được rằng:
Gà đẹp nhờ bộ lông
Người đẹp nhờ quần áo.
Để làm đẹp bộ trang phục, họ biết tìm cây tô mộc (cây phang) làm màu
đỏ, cây chàm (hóm) làm màu xanh và đen, củ nghệ (chín) làm màu vàng, biết
cô đặc lá chàm qua nhiều động tác phức tạp và kỹ thuật làm “chua” bằng là
trầu, nước chanh cùng các loại lá cây có chất keo làm bền sợi, sau đó, mới
đem nhuộm màu. Có nhiều kiểu trang phục, phù hợp với từng giới , thích ứng
cho từng lứa tuổi.
Trang phục của nam giới
Bộ trang phục ngày thường của nam giới Thái không đòi hỏi cầu kỳ.
Áo dài nút khuy ở nách bên trái, thân áo dài chấm mông, tay áo nhỏ, túi đựng
đặt trong áo bên trái, cổ áo cao khoảng 2 cm không viền vải màu, toàn thân áo
màu chàm.
Quần dài, ống rộng cạp chân hơi loe, khi mặc gấp lại mội bên và thắt
bằng sợi gai có khuy nút để giữ chắc chắn quần. Quần nhuộm màu xanh chàm
hoặc nâu (do sợi của một loại bông tự nhiên).
Khi có việc đi xa khỏi bản, hay dự các ngày lễ, hội họ thắt thêm dải
lưng xanh hoặc đỏ nịt gọn lấy áo, bỏ tua dài đằng trước, trên đầu cuốn vòng 31
khan dài một sải, tóc để dài như phụ nữ, búi tóc sau gáy, cài châm bằng bạc
hoặc xương thú, chân đi guốc mộc và dép da trâu tự tạo, quai dép nện bằng
sợi gai xỏ vào kẽ chân cái.
Với em trai nhỏ, trang phục thường là vải dệt xa cô, hoặc sọc đứng nét
nhỏ, hai màu đen trắng hoặc nâu đen. Mùa đông, các em đội mũ trùm đầu,
chắp các thanh vải màu như múi bưởi bổ dọc, cổ đeo 1 – 2 vòng đính them
dây chuỗi bạc hào lấo lánh. Mùa hè, trẻ em trọc đầu với một chỏm tóc nhỏ ở
trước trán (gọi là ve ve). Chờ khi các em đã lớn 11 – 12 tuổi biết giữ vệ sinh
mới để tóc dài.
Người cao tuổi thường mặc thêm áo dài ngoài quá đầu gối, thắt dải
lưng chàm hoặc đeo tơ vàng, rang nhuộm đen, bắp tay xăm ngày tháng năm
sinh bằng chữ Thái hay hình hài động vật bằng mực chàm.
Trang phục của nữ giới
Ngay từ khi mới trưởng thành phụ nữ Thái đã biết lo sắm cho mình cái
nằm, cái mặc, ngoài trang phục mặc thường ngày, còn dành ra hai bộ đẹp nhất
để mặc trong những ngày hội hè, lễ, tết.
Bộ trang phục ngày thường. Áo (xứa, cóm) chỉ cần khoảng 60 cm vải.
Áo cóm cổ tròn, viền nhỏ, xẻ thêm hai bên vai để dễ chui đầu khi mặc. tay áo
may chặt bó lấy cánh tay tròn. Thân áo dài từ 25 cm đến 30 cm, hình bán
nguyệt ở đằng trước. Màu áo phổ biến xanh và trắng (không mặc kẻ ca rô).
Thân váy dài trùm gót, màu đen cham (may tôn khoảng 3 mét cả cạp).
Ẩn hiện bên trong gấu váy là thanh vải đỏ, nhỏ 2 cm. Cạp váy có hai phần –
nửa trên rộng khoảng 20 cm, dệt hai màu đen trắng, hoa văn đơn giản. Nửa
dưới gần với thân váy (rộng 16 – 17 cm) dệt bằng tơ tằm xen vải màu (ít là 4
màu, nhiều là 6 màu) thể hiện các loại hoa văn rồng, phượng, hoa sen, hoa
bèn…. Thường ngày, phụ nữ Thái Mai Châu thắt giải lưng trắng, bổ tua ngắn
bên trái. Nhiều chị em thích mặc thêm áo dài, cộc tay vừa có tác dụng mặc
ấm, lại giữ sạch váy áo đẹp bên trong khi cần bế gùi, chị em lấy ra lót đầu.
32
Phụ nữ Thái Mai Châu búi tóc cố định sau gáy, cài châm bạc hoặc
xương thú. Khi còn trẻ chưa chồng tóc thả buông sau lưng, buộc chỉ màu thay
cặp tóc. Khăn đội đầu màu trắng (dài 60 cm, rộng 20cm) gấp nếp, để nhọn
trước trán. Răng để trắng lúc còn trẻ, khi lấy chồng có con mới nhuộm răng
đen [4, tr.67 – 68].
Về tục cưới hỏi: Tục cưới hỏi có những nét riêng biệt, trước khi lấy
chồng, cô dâu phải tự mình dệt, làm đủ cho gia đình chồng và cho vợ chồng
bộ chăn gối, đệm thổ cẩm. Trong việc cưới hỏi, “lùng ta” (anh, em trai của mẹ
cô dâu) có vai trò quan trọng, có vị thế cao trong gia đình. Trong đám cưới
người Thái, cô dâu chú rể đều phải có mặt ở nhà trai hoặc nhà gái trong ngày
cưới, sau một vài ngày hay 10 ngày mới tổ chức đón dâu, trước đây chú rể
phải ở rể từ 1 đến 3 năm, nhà trai phải mang các sản vật đến cho nhà gái như
lợn, gà, gạo tẻ, gạo nếp, rượu, củi…và cử đoàn người sang làm cỗ để tiếp
khách nhà gái. Tập quán này khẳng định sự tôn trọng gia đình nhà gái và vị
thế của người con gái trong gia đình thời trước [24]. Quy định đó đã phần nào
hạn chế tính gia trưởng, phụ quyền, tạo điều kiện cho người vợ và người
chồng hướng đến sự bình đẳng, sống có trách nhiệm với nhau.
Về tục ma chay: Phong tục về ma chay cũng có những nét khác biệt so
với các dân tộc khác, tang lễ được tiến hành theo các bước: Lễ tắm xác, lễ
liệm, lễ nhập quan, lễ tạ ơn công cha mẹ, lễ chính, lễ đưa tang. Quan tài
thường làm bằng thân cây gỗ đục thành, khi nhà có người ốm nặng thường
làm lễ sửa quan tài, quan tài được phủ bằng giấy màu, khung mái thổ cẩm
được làm bằng khung tre, hình mái nhà chùm kín quan tài đặt lên đòn khiêng
bằng cây bương thẳng, dài 5m, cạo sạch vỏ ở đoạn giữa và cuốn thêm lượt vải
để quan tài được sạch sẽ, khỏi xóc. Sau đó dân bản dùng đòn khiêng đưa quan
tài ra mồ [4, tr.90].
Nhắc đến phong tục tập quán của người Thái Mai Châu,không thể
không kể đến lễ gọi vía ("hiệc khoăn"). Trong đời sống tinh thần của đồng
bào người Thái, thầy mo (thầy cúng) có vai trò hết sức quan trọng, là nhân vật 33
có quyền năng thông quan với thế giới thần linh, do vậy, một trong những
nhân vật không thể thiếu trong lễ gọi vía là thầy mo. Lễ gọi vía được gia đình,
dòng họ tổ chức khi trong nhà vừa có người ốm dậy, hoặc vừa tai qua nạn
khỏi vẫn chưa hoàn toàn khỏe mạnh. Lễ gọi vía diễn ra từ 1 đến 2 giờ đồng
hồ, sau khi hoàn thành, người nhà dọn mâm cỗ cho thầy mo, cũng là lúc tất cả
mọi người cùng ngồi lại theo từng mâm sắp xếp trên dưới già trẻ, trai gái, con
gái, con dâu; trẻ nhỏ thường được dọn mâm cơm dưới bếp hoặc nhà ngang,
mọi người cùng mong muốn sau khi được làm lễ sẽ được khỏe mạnh, gặp
nhiều may mắn. Đây là một nét văn hóa tín ngưỡng độc đáo mang đậm bản
sắc văn hóa dân tộc [24].
Về phong tục ở nhà sàn: Nhà sàn của người Thái ở Mai Châu không
còn giữ kiểu nhà sàn "chính thống" như ở Tây Bắc, trên hai đầu hồi không có
"khau cút" - một nét đặc trưng tiêu biểu, đậm chất Thái Tây Bắc. Ngôi nhà
sàn ở Mai Châu gần gũi với kiểu dáng của nhà sàn Mường Bi nhưng gầm sàn
nâng cao hơn, chân cột thanh hơn, cầu thang lên có lan can tay vịn, ván thưng
vách chứ không dùng phên đan hoa văn như nhà sàn Mường. Trước đây,
người Thái có ba gian lớn: gian tiếp khách (hoóng noóc); gian giữa có bàn thờ
ma nhà, bếp lửa để sưởi và uống rượu, chỗ ngủ của cả gia đình; gian bếp
(hoóng cuộng), dành riêng cho phụ nữ làm bếp núc và dệt vải có cầu thang đi
lên riêng.
Về tín ngưỡng dân gian
Về tín ngưỡng, tôn giáo, người Thái không theo một tôn giáo cụ thể
nào, mặc dù văn hóa của họ ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo. Tín ngưỡng dân
gian của người Thái gắn với quan niệm vạn vật hữu linh: mỗi ngôi nhà, bờ
suối, gốc cây, hòn đá, cánh rừng, các đồ vật xung quanh, đều có hồn ngụ ở đó
và chịu sự cai quản của then Luông. Tín ngưỡng dân gian của người Thái
được biểu hiện rõ nhất trong các lễ hội như: “Lễ hội Xên bản, xên mường”,
“Lễ hội chá chiêng” hay văn hóa “Kánh loóng”…
34
Lễ hội Xên bản, xên mường: Vào dịp hoa ban nở người Thái ở huyện
Mai Châu mở hội Xên bản, xên mường còn có tên gọi khác là hội hoa ban. Hễ
năm nào nghe tiếng sấm rền từ phía thượng nguồn sông Mã, thì năm đó ắt có
đại hạn, mọi ngươi phải lo tính nước để làm mùa cũng như cho sinh hoạt đời
sống thì năm đó lễ hội Xên bản, xen mường tổ chức hỏ, đơn xơ. Ngươi ta mổ
ít lợn, gà làm lễ tế thần để cầu mưa, rửa lá lúa (xua đuổi thần trùng), các cuộc
vui chơi đàn hát coi như bị hủy. Các ngả đường dẫn vào bản đều có buộc cành
cây xanh, dấu hiệu cấm người ngoài vào bản, kiêng người ngoài lên thang,
trong một số ngày kiêng kỵ, nhà nào nhà nấy đóng cửa im ỉm và có cài lá
xanh. Ngược lại, hễ nghe tiếng sấm đầu năm rền ở phía thượng nguồn sông
Đà thì mọi người đều phấn khởi, tươi vui. Họ tin rằng năm đó sẽ mưa thuận
gió hòa, triển vọng mùa màng sẽ bội thu, thóc ngô đầy kho, mọi người khỏe
mạnh, ít ốm đau, hội Xên bản, xên mường năm đó cũng được tổ chức lớn
hơn, nhộn nhịp hơn [9, tr102].
Lễ hội Chá Chiêng hay còn gọi là lễ hội tạ ơn thần linh của các thầy
mo. Trong cuộc sống sinh hoạt của cộng đồng dân tộc Thái, thầy mo có vai
trò hết sức quan trọng, vừa là người có hiểu biết rộng, vừa là người cai quản
bản mường theo cách riêng của dân tộc họ cùng với quan chức hành chính
nên được mọi người tôn xưng là “con trời” [9, tr.121]. Theo họ, thầy mo là
người có khả năng giao tiếp với thần linh và có sức mạnh trấn quỷ, trừ ma,
Thầy mo được ma nhập vào thì gọi là Mùn Luông. Cứ 3 năm, Mùn Luông lại
tổ chức lễ tạ ơn để mời quan quân ở Mường Trời xuống Mường Trần ăn cỗ,
gọi là lễ hội Chá Chiêng.
Văn hóa Kánh loóng: Coi loóng là dụng cụ quan trọng trong gia
đình: Trước đây, loóng là một dụng cụ rất quan trọng, cần thiết trong mỗi gia
đình người Thái Mai Châu, vì chức năng chính là giã lúa. Nếu không
có loóng thì việc giã lúa lấy gạo sẽ rất khó khăn. Động tác diễn tấu: Có 5
động tác cơ bản là: Giã (đâm thẳng đầu chày xuống giữa lòng loóng hoặc
35
thành loóng ở phía đối diện người chơi), Gõ (gõ cạnh đầu chày vào
thành loóng ở cùng phía người chơi), Chọi (dùng hai cạnh của đầu chày chọi
với nhau), Dập (đặt chày nằm ngang loóng dập xuống mặt loóng), Va (đặt
chày nằm ngang loóng rồi va hai chày vào nhau). Có một chuyện kể rất phổ
biến trong cộng đồng người Thái Mai Châu liên quan đến loóng, đó là
chuyện Ếch ăn trăng (Cộp kin bươn). Đây chính là hiện tượng nguyệt thực.
Trước đây, mỗi khi có nguyệt thực, tất cả các bản người Thái đều
mang loóng cùng với các vật dụng khác ra gõ. Người Thái quan niệm
rằng, nguyệt thực chính là lúc ông Mặt Trời giao cấu với bà Mặt Trăng. Nếu
cứ để như vậy sẽ sinh ra nhiều Mặt Trời, từ đó gây ra hạn hán. Vì thế, phải
gõ loóng thật mạnh để xua đuổi tách Mặt Trời và Mặt Trăng ra [4, tr.61 – 66].
2.2. Thực trạng đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Thái ở
huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình trong bối cảnh công nghiệp hóa
hiện, hiện đại hóa hiện nay
2.2.1. Quá trình công nghiệp hóa ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình
Công nghiệp hóa ở Mai Châu hòa Bình đã diễn ra khoảng hơn 10 năm
trước. Trong bối cảnh CNH hiện nay, từ Thị trấn Mai Châu đến các xã đều có
các doanh nghiệp đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Năm 2010, nhà máy chế biến bột giấy và đũa xuất hiện ở xã Vạn Mai,
do Công ty Cổ phần giấy HAPACO làm chủ đầu tư và là dự án đầu tiên đi
vào sản xuất kinh doanh trên địa bàn. Với công suất 12.000 tấn bột giấy, 1000
tấn đũa/năm, tiêu thụ 50 – 70 tấn bương/luồng/ngày, giải quyết việc làm và
tạo thu nhập ổn định cho 170 lao động địa phương, nộp gần 2,8 tỷ đồng/năm.
Tiếp đó, nhà máy chế biến nông sản Tân Sơn xuất hiện do Công ty
TNHH chế biến nông sản Việt Nam là chủ. Cơ sở sản xuất và chế biến chè Pà
Cò do Công ty TNHH sản xuất và kinh doanh giống cây trồng Phương Huyền
làm chủ đầu tư tại xã Pà Cò cũng xuất hiện, sau gần 2 năm đi vào hoạt động
không chỉ tiêu thụ nông sản, giải quyết việc làm mà còn là trung tâm chuyển
giao tiến bộ kỹ thuật cho người dân địa phương.
36
Bên cạnh đó, nhu cầu điện năng phục vụ cho sản xuất và đời sống của
huyện cũng được cải thiện đáng kể sau khi Nhà máy thủy điện Vạn Mai và
Nhà máy thủy điện So Lo I hoàn thành, đi vào hoạt động. Với tổng mức đầu
tư 16 tỷ đồng, Công ty Cổ phần Du lịch Thiên Minh đã xây dựng và nâng cấp
khách sạn Mai Châu Lodge để phục vụ cho việc kinh doanh du lịch tại địa
phương [9, tr.82 – 83].
Ngoài ra, từ năm 2018 đến nay, rất nhiều công ty TNHH một thành
viên hay những công ty lớn khác xuất hiện trên địa bàn huyện như: Công ty
TNHH một thành viên xây dựng Tây bắc HB ở xã Tòng Đậu, Công ty TNHH
một thành viên Thuận Hòa – xã Chiềng Châu, Công ty cổ phần dịch vụ và du
lịch Mai Châu tại xã Chiềng Châu, Công ty TNHH Phong Tình Mai Châu tại
Thị trấn Mai Châu, Công ty TNHH một thành viên thương mại Mai Châu tại
Thị trấn Mai Châu,…và còn nhiều các công ty lớn nhỏ khác [28].
Các doanh nghiệp trong những năm qua đã góp phần quan trọng trong
vấn đề giải quyết việc làm, tiêu thụ nông – lâm sản, nâng cao năng lực sản
xuất, phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh, tăng nguồn thu cho ngân sách và là
động lực thúc đẩy cơ cấu kinh tế của vùng cao huyện Mai Châu chuyển dịch
theo hướng CNH hiện nay.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa mà trọng tâm
là chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn đã nhận được sự đồng
tình, ủng hộ của các ban ngành và nhân dân trong huyện.
Trong nông nghiệp: phát huy tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sản
xuất, người dân Mai Châu đã ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, đẩy mạnh thâm canh cây lúa, đưa ngô lai, cây lạc, sắn và một số cây
trồng khác xuống chân ruộng không chủ động nước, nâng hệ số quay vòng sử
dụng đất từ 1,5 – 1,8 lần/năm, bố trí cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng
hiệu quả nhất để tăng thu nhập cho người sản xuất. Nhờ đó từ chỗ thiếu lương
thực, giờ đây đã đảm bảo được an ninh lương thực trên địa bàn [9, tr.73].
37
Những năm gần đây, nhờ ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cùng với phát triển làng nghề truyền
thống nên đời sống văn hóa tinh thần các dân tộc trên địa bàn huyện được
nâng cao rõ rệt. Theo đánh giá của Hạt Kiểm lâm huyện Mai Châu, ngoài việc
giữ rừng tận gốc, kinh tế phát triển là yếu tố vô cùng quan trọng trong việc
đảm bảo cho rừng phát triển bền vững và ổn định. Nhiều gia đình đã lên rừng
làm trang trại trồng cây ăn quả kết hợp với sản xuất nông – lâm nghiệp [9,
tr.75].
Cùng với việc phát triển kinh tế nông – lâm nghiệp, huyện đã chú trọng
xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là phát triển giao thông nông thôn. Với
phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Mai Châu đã tập chung tu
sửa những công trình hiện có, xây dựng nhiều công trình mới, kiên cố hóa
kênh mương đến từng cánh đồng. Nhờ đó trong những năm qua, nông nghiệp
được mùa cả về diện tích, năng suất và sản lượng.
Để phục vụ cho ĐSVHTT của người dân huyện Mai Châu trong quá
trình CNH, huyện đã xây 01 nhà văn hoá trung tâm, 01 sân vận động, 01 sân
khấu ngoài trời, và 02 nhà văn hoá cấp cơ sở (Nhà luyện tập thể thao Thị trấn
Mai Châu và Nhà văn hóa, thể thao xã Tòng Đậu). Việc mở rộng, nâng cấp
đường giao thông nông thôn, xây dựng nhà văn hoá làng, bản theo phương
châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” được các xã, các khu dân cư trong
toàn huyện chủ động triển khai, thực hiện hiệu quả. Tính đến nay toàn huyện
đã có 113/137 làng, bản xây dựng được nhà văn hóa, đạt 82,48%. Trong đó,
số nhà văn hóa có đủ diện tích phục vụ nhân dân trong dịp lễ tết, ngày hội
mới chỉ đạt 40%, có 46/113 nhà văn hóa làng, bản được trang bị tăng âm, ti
vi, loa, đài… từ chương trình mục tiêu quốc gia và từ nguồn xã hội hóa ở cơ
sở. 100% đường huyện, đường liên xã, gần 60% đường nội làng, bản được bê
tông hóa, thuận tiện cho việc đi lại, giao thương hàng hóa, thúc đẩy kinh tế
phát triển trong quá trình CNH [23].
38
Trong quá trình CNH hiện nay, công tác giáo dục thường xuyên được
quan tâm chú ý. Toàn huyện đã thanh toán xong nạn mù chữ và được công
nhận phổ cập giáo dục tiểu học, giáo dục mầm non lớp 5 tuổi. Cơ sở trường
lớp được hiện đại hóa hoá, phục vụ tốt cho yêu cầu dạy và học, nhiều trường
được công nhận là Trường chuẩn quốc gia. Trong những năm qua, ngành giáo
dục – đào tạo huyện Mai Châu đã có những chuyển biến tích cực về cơ sở vật
chất, chất lượng dạy và học. Trước hết ngành đã xây dựng đội ngũ giáo viên
đủ về số lượng và đạt yêu cầu về chất lượng, có tâm huyết với nghề, đáp ứng
yêu cầu đổi mới của chương trình giáo dục các cấp, các bậc. Bằng những ứng
dụng công nghệ thông tin phục vụ đổi mới phương pháp dạy và học nhanh
chóng được đưa vào sử dụng. Theo thống kê, 45/62 trường học có đường
truyền Internet/cáp quang, trang thiết bị máy tính cho 61/62 đơn vị trường
học trong huyện, sử dụng các phần mềm quản lý giảng dạy, áp dụng các phần
mềm phân hệ quản lý trường học (quản lý học sinh, quản lý giáo viên, hỗ trợ
xếp thời khóa biểu), triển khai hệ thống thông tin quản lý giáo dục, quản lý
quá trình học tập của học sinh. Khai thác các công cụ trình chiếu, giảng bài
điện tử trong các bộ môn (Toán, Lý, Sinh, Tin, Địa…). Chính việc tăng cường
đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập đã góp phần nâng cao năng lực
truyền thụ kiến thức cho học sinh và nghiệp vụ sư phạm của đội ngũ giáo viên
[9, tr.61].
Về Y tế: Từ nguồn vốn của Bộ Y tế, của tỉnh, huyện và sự hỗ trợ của
các tổ chức y tế quốc tế qua các chương trình hợp tác quốc tế cụ thể như: dự
án UNFA về nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản; dự án
JAICA về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và dự án nâng cấp dịch vụ y tế cộng
đồng tại 3 xã Pà Cò, Mai Hạ, Nà Mèo. Hiện nay, cơ sở vật chất ở bệnh viện
đa khoa huyện Mai Châu đã đưa ứng dụng kĩ thuật công nghệ, các trang thiết
bị máy móc y tế được tăng cường như: Máy chụp cắt lớp vi tính, máy nội soi
tiêu hoá, máy theo dõi nhịp tim, máy xét nghiệm sinh hoá tự động… sau khi
39
đưa vào sử dụng đã ngày càng phát huy được hiệu quả, góp phần vào việc
nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân.
Quá trình CNH ở huyện Mai Châu không chỉ góp phần phát triển kinh
tế mà còn nâng cao đời sống xã hội và ĐSVHTT của người dân nơi đây.
2.2.2. Thực trạng đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Thái ở
huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình dưới tác động của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Dưới tác động của CNH hiện nay, ĐSVHTT của dân tộc Thái ở Mai
Châu – Hòa bình có sự biến đổi về tư tưởng, ngôn ngữ, nghệ thuật, phong tục
tập quán, tín ngưỡng dân gian.
Về tư tưởng
Khác với trước kia, người Thái Mai Châu (TMC) không còn sự phân
biệt tầng lớp, khi chia của cải, bố mẹ không rành phần hơn cho con trưởng tức
không phân biệt con trưởng, con thứ mà họ đã theo chế độ bình đẳng. Người
dân bản Thái sống phóng khoáng hơn, nhưng vẫn giữ được tính khiêm
nhường trong giao tiếp cũng như ứng xử với người khác.
Về ngôn ngữ
Người TMC trước đây chỉ nói tiếng của tộc người mình. Sau này, cùng
với sự phát triển về kinh tế, sự phát triển của các phương tiện truyền thông và
đặc biệt là sự giao lưu giữa các vùng thông qua hoạt động buôn bán, di dân,
người TMC còn nói tiếng của người Kinh và một số tộc người lân cận trong
vùng nhưng không nhiều. Hiện nay, với sự phát triển của hoạt động du lịch,
để có thể giao lưu và phục vụ khách du lịch, người TMC không chỉ nói tiếng
của dân tộc mình mà còn sử dụng cả ngôn ngữ phổ thông (tiếng Việt) và tiếng
nước ngoài. Ngôn ngữ của đồng bào TMC đã có nhiều biến đổi theo hướng
tăng cường sử dụng song ngữ. Tiếng Kinh, tiếng Thái được sử dụng phổ biến.
40
Tiếng Anh và một số tiếng nước khác cũng được sử dụng, nhất là trong hướng
dẫn du khách và bán hàng lưu niệm. Hiện nay, người TMC thường xuyên sử
dụng tiếng Kinh trong giao tiếp, thậm chí họ sử dụng tiếng Kinh cả khi giao
tiếp giữa người Thái với người Thái. Tiếng Kinh ở đây được sử dụng song
hành với tiếng Thái, thậm chí còn thông dụng hơn cả tiếng Thái.
Do ảnh hưởng của quá trình giao lưu, tiếp xúc với người Kinh thông
qua các hoạt động di dân, kinh tế, ngôn ngữ của người TMC có sự biến đổi.
Đó là trong ngôn ngữ của người TMC có sự vay mượn nhiều yếu tố từ tiếng
Kinh. Đó là những thuật ngữ liên quan đến cơ chế xã hội mới, quan hệ xã hội
mới mà trước đây trong tiếng nói của dân tộc chưa có như các từ chỉ cơ quan
trong bộ máy Nhà nước: Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc...; các
đơn vị hành chính: xã, huyện, tỉnh, Trung ương... Và những thuật ngữ liên
quan đến khoa học công nghệ mới hoặc các sản phẩm mới do công nghệ sản
xuất như: ô tô, xe máy, ti vi, tủ lạnh, máy ảnh, máy tính, bếp ga...
Về nghệ thuật
Từ năm 2010 tới nay, đã mở được 06 lớp dạy và học chữ Thái cho 200
học viên, 01 lớp chế tác nhạc cụ khèn bè Thái cho 30 học viên, 01 lớp múa
xòe truyền thống dân tộc Thái cho 100 học viên, 01 lớp hát khắp (hát đối đáp)
cho 40 học viên, tổ chức thành công các lễ hội truyền thống như lễ hội “Xên
Mường” dân tộc Thái, lễ hội “Cầu Tào” dân tộc Mông vào dịp đầu năm mới.
Ngày nay, hầu hết các điệu xòe truyền thống đều được cải biến và nâng
cao, trở thành các điệu múa hấp dẫn trong các lỳ hội diễn quần chúng, tác
dụng thiết thực nhằm nâng cao đời sống văn hóa ở cơ sở. Múa xòe là món ăn
tinh thần không thể thiếu của người Thái Mai Châu. Để phục vụ cho việc kinh
doanh du lịch, điệu xòe còn được biểu diễn ở các khu du lịch như bản Lác,
bản Văn, khách sạn Mai Châu Lodge, Mai Châu Ecolodge, Mai Châu
Bungalow…
41
Thổ cẩm của người Thái Mai Châu không chỉ có giá trị sử dụng mà còn
có giá trị thẩm mỹ cao, thể hiện tình yêu quê hương xứ sở và tinh hoa của
người Thái. Trải qua bao năm tháng, đã có một thời gian thổ cẩm người Thái
bị lãng quên theo cơ chế thị trường nhưng với lòng say nghề của các nghệ
nhân, thổ cẩm người Thái vẫn được gìn giữ và phát huy tạo nên bản sắc văn
hóa đặc thù. Ngày nay, người Thái đã biết kết hợp giữa giá trị hiện đại và
truyền thống, biến thổ cẩm thành hàng hóa có giá trị kinh tế cao, tạo việc làm,
tăng thu nhập cho các chị em trong bản, quảng bá tiềm năng du lịch làng nghề
tới du khách trong nước và quốc tế.
Từ chỗ chỉ dệt những chiếc khăn, chiếc áo thổ cẩm để mặc, phụ nữ dân
tộc Thái đã tự làm nhiều đồ lưu niệm bán cho khách như: dệt khăn quàng cổ,
váy xòe Thái, vải treo tường có trang trí họa tiết, dây đeo tay, tạo hình con vật
hay những chiếc túi, ví xinh xắn. Bên cạnh đó người Thái còn chế tác cung,
nỏ, mõ trâu, chiêng, sừng trâu và phách gỗ nhịp tre… để làm quà lưu niệm
cho khách du lịch. Cứ như vậy, ngày qua ngày tư duy làm kinh tế qua dịch vụ
du lịch đã hình thành rõ rệt ở dân tộc Thái và loại hình du lịch Homestay –
sống trong chính ngôi nhà của người dân cũng đã được du khách ưa chuộng,
đặc biệt là khách quốc tế.
Về phong tục tập quán
Trang phục của người Thái cũng có sự biến đổi nhanh chóng. Tại các
bản làng, việc trồng bông dệt vải không còn nhiều. Trước đây vải may trang
phục của người dân tộc Thái thường được dệt thủ công từ các loại sợi bông,
sợi gai, sợi lanh, sợi tơ tằm thì ngày nay từ chiếc áo sơ mi của nam giới đến
chiếc khăn đội đầu, chiếc váy của phụ nữ đều được mua từ các đồ may dệt sẵn
ở các chợ tỉnh, chợ huyện, hay ở trên mạng xã hội, xu hướng ăn mặc giống
người Kinh ngày càng phổ biến. Số người sử dụng trang phục truyền thống
của dân tộc mình trong sinh hoạt ngày càng ít. Nhiều thanh niên hiện nay còn
ngại mặc trang phục truyền thống trước đám đông; họ cho rằng trang phục 42
dân tộc không tiện dụng, còn cầu kì, rườm rà, gây khó khăn, vướng víu trong
công việc và sinh hoạt hàng ngày. Do vậy, hầu như trang phục của người Thái
chỉ được mặc vào các dịp trọng đại như ngày tết, lễ hội hoặc các ngày kỉ niệm
lớn của đất nước, còn chủ yếu được bày bán ở các bản để du khách có thể
tham quan hay thuê, mua những trang phục đó, nhằm phục vụ kinh doanh và
du lịch.
Thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, quyết định của cấp trên và nghị quyết
của Huyện ủy về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ
hội, phần lớn những đám cưới được tổ chức trang trọng, vui tươi, lành mạnh,
chấp hành Luật Hôn nhân và gia đình. Thủ tục nghi lễ đám cưới được đơn
giản hóa, không ăn uống kéo dài, tục thách cưới và các hủ tục rườm rà cơ bản
được loại bỏ, tôn trọng tình cảm tự nguyện của các cặp kết hôn.
Do tác động của quá trình công nghiệp hóa, đất rừng bị thu hẹp nên
nguyên vật liệu để làm một ngôi nhà kiểu cổ truyền ngày càng hiếm. Thay thế
cho các nguồn nguyên vật liệu cũ như tre, gỗ, nứa, lá là các vật liệu xây dựng
mới như xi măng, sắt thép, tấm lợp tôn hoặc pro xi măng. Loại hình nhà cũng
có sự thay đổi đáng kể. Một số người dân đã chọn các loại nhà mái bằng, cấp
4, nhà tầng giống như người Kinh hay nhà sàn bên duới có xây thêm phòng
ngủ để có thêm không gian riêng cho thành viên trong gia đình.
Bên cạnh đó, trong thời đại CNH hiện nay. Kiến trúc nhà ở của một số
người Thái Mai Châu làm du lịch buộc phải thay đổi không gian ngôi nhà
mình để phù hợp với mục đích kinh doanh du lịch. Những hộ gia đình làm du
lịch, khi tiếp đón du khách thường có xu hướng cải tạo, sửa sang lại nhà cửa
sao cho phù hợp với nhu cầu của khách. Điều này thể hiện rất rõ ràng trong
kiến trúc nhà sàn người Thái ở Mai Châu. Nhà được làm cao hơn, nội thất nhà
sàn cũng hiện đại hơn. Việc bố trí các vật dụng trên nhà sàn cũng khác. Họ rất
muốn giữ lại vườn cây, ao cá xung quanh ngôi nhà nhưng để có đất để mở
rộng thêm diện tích ngôi nhà sàn, xây thêm những ngôi nhà sàn mới để có thể 43
đón được nhiều khách du lịch, họ buộc phải lấp ao, bỏ vườn hoặc thu hẹp lại
diện tích còn rất nhỏ. Hay là để tăng thêm tính hiện đại cho ngôi nhà, họ đã sử
dụng những vật liệu hiện đại để trang trí. Sự thay đổi này nhằm phục vụ du
khách tốt hơn, làm hài lòng du khách nhƣng không ngờ chính điều đó đã
khiến cho ngôi nhà mất đi vẻ đẹp đơn sơ, mộc mạc như kiến trúc truyền thống
vốn có của nó.
Về tín ngưỡng dân gian
Hiện nay, nhiều tục lệ lạc hậu đã giảm và cơ bản xoá bỏ. Lễ hội thực
hiện đúng quy định, an toàn, tiết kiệm nhưng vẫn giữ được bản sắc.
Nhiều lễ hội truyền thống bị mai một được phục hồi, phát triển Theo
thời gian, nhiều lễ hội truyền thống của người TMC đã mai một, không còn
nhiều như trước kia. Nhiều lễ hội lớn trước đây của đồng bào không còn được
tổ chức nữa. Hiện nay, cùng với sự phát triển của du lịch, tại địa phương,
nhiều lễ hội truyền thống của người TMC được phục hồi, phát triển. Tiêu biểu
là việc phục hồi hàng loạt các lễ hội như lễ hội Chá Chiêng, lễ hội Cầu mùa,
lễ hội Xên bản, Xên mường…
Hiện nay, các gia đình không còn dùng loóng để giã gạo, song loóng
vẫn luôn là người bạn gần gũi, thân thiết trong đời sống tinh thần của người
dân. Bởi khi nhà có chuyện buồn, gia đình cũng kánk lóng với giai điệu chậm
rãi, trầm buồn. Trong lễ mừng nhà mới, mừng cơm mới, ngày hội đại đoàn
kết toàn dân cũng kánk lóng và có khi chỉ từ cuộc hội họp của một nhóm
người thấy tinh thần phấn chấn, hứng khởi là lại cùng nhau kánk lóng. âm
thanh, nhịp điệu của kánk lóng trong những lúc vui luôn nhộn nhịp, tưng
bừng, vang vọng bản làng, thúc giục lòng người dù đang làm gì, ở đâu cũng
tìm đến chung vui.
Đặc biệt vài năm gần đây, trong lễ hội Xên Mường những ngày đầu
xuân, màn biểu diễn kánk loóng của các thiếu nữ Thái đến từ các xã, thị trấn
trong huyện luôn là điểm nhấn để lại dấu ấn khó quên trong lòng du khách. 44
Giàn nhạc kánk loóng rộn rã, âm vang như muốn gọi núi rừng bừng tỉnh sau
những ngày đông giá rét; gọi ông mặt trời thức giấc xua tan sương mù bao
phủ, soi rọi ánh nắng lung linh sưởi ấm bản làng. Kánk loóng cũng mời gọi
dân bản xích lại gần nhau; gọi các chàng trai, cô gái tìm đến với nhau trong
ngày hội xuân để cất lên những tiếng lòng thiết tha.
Trước đây: Các hộ gia đình thường đóng góp bằng sức người, hoặc các
lễ vật mà gia đình tự nuôi, trồng được. Hiện nay, do có nguồn thu nhập từ
việc làm du lịch hay làm công nhân ở các xí nghiệp, các gia đình có điều kiện
đóng góp nhiều hơn. Họ thường đóng góp bằng tiền của hoặc đóng góp cả
tiền của và công sức, không ai chỉ đóng góp bằng công sức hoặc không đóng
góp gì. Do điều kiện kinh tế khá hơn, nhiều hộ gia đình còn đóng góp thêm
ngoài những khoản đóng góp theo quy định của thôn bản.
Thay đổi trong nhận thức của người Thái về ý nghĩa của lễ hội Ngoài
sự thay đổi nói trên thì nhận thức của người Thái về ý nghĩa của lễ hội truyền
thống cũng có sự thay đổi. Cụ thể như sau:
Đa số đều cho rằng lễ hội giúp giữ gìn truyền thống văn hóa, và là dịp
để vui chơi gặp gỡ giao lưu, cầu lộc, cầu tài chiếm... Đặc biệt lễ hội còn là cơ
hội để phát triển kinh tế. Lễ hội là dịp cho các dòng họ thể hiện vai trò của
mình, giúp gắn bó các thành viên trong cộng đồng. Xuất hiện nhiều yếu tố
hiện đại trong nội dung và cách thức tổ chức lễ hội Lễ hội truyền thống của
người TMC được tổ chức gồm hai phần Lễ và Hội. Nội dung và cách thức
tiến hành phần Lễ diễn ra với nhiều nghi thức và thủ tục truyền thống. Phần
Hội gồm nhiều trò chơi cổ truyền như tung còn, bắn nỏ, kéo co, đánh cù…
với sự tham gia đông đảo của người dân địa phương. Hiện nay: Với sự phát
triển CNH, việc tổ chức lễ hội của người TMC có sự thay đổi, xuất hiện nhiều
yếu tố hiện đại. Đặc điểm này được thể hiện ngay trong nội dung, trong cách
thức tiến hành, trong sự tham gia của cộng đồng vào phần lễ và phần hội [14,
tr.92].
45
Có thể nói, sự biến đổi của văn hóa dân tộc Thái thể hiện mạnh nhất ở
tập quán tín ngưỡng, lễ hội. Nó thể hiện sự giao thoa mạnh mẽ với nền văn
hóa của dân tộc Kinh, một số lễ Tết vốn trước kia chỉ có ở người Kinh thì nay
cũng đã phổ biến ở dân tộc Thái (như Tết Độc lập 2/9, mừng Cách mạng
tháng 8, ngày hội Đại đoàn kết các dân tộc,…) [13].
2.3. Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đời sống văn hóa tinh thần
của dân tộc Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc thiểu số cũng đang là vấn
đề mang ý nghĩa chiến lược được đặt ra đối với huyện Mai Châu, nhằm thúc
đẩy sự phát triển đồng đều và vững chắc cho tỉnh Hòa Bình, đóng góp vào
việc thực hiện mục tiêu chung của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH.
Để khắc phục những vấn đề còn tồn tại và nhằm nâng cao đời sống văn
hóa tinh thần của dân tộc Thái ở huyện Mai Châu hiện nay, cần tập trung vào
một số giải pháp sau:
Một là, mỗi xã, mỗi bản làng phải phát huy vai trò của già làng, trưởng
bản trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc Thái.
Đây là lực lượng quan trọng để tuyên truyền, vận động, giáo dục các
thế hệ người Thái trong vùng nhận thức được nét đẹp của các giá trị văn hóa
cũng như những tác động tích cực đối với đời sống người dân như thế nào,
sao cho toàn thể cộng đồng người dân tộc trong làng, bản sẽ có ý thức trách
nhiệm cùng chung tay giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống nơi họ sinh
ra và lớn lên.
Trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức, phương pháp tuyên truyền, vận
động, cần quan tâm đến nhu cầu, sở thích của đối tượng tuyên truyền như
thích xem văn nghệ, thích chơi thể thao… để xây dựng nội dung, hình thức 46
tuyên truyền linh hoạt, phù hợp, có tính nghệ thuật nhằm vận động thuyết
phục, thu hút được mọi đối tượng là đồng bào dân tộc tham gia. Công tác
tuyên truyền, vận động phải được tiến hành thường xuyên, bền bỉ, tránh tình
trạng làm hình thức chiếu lệ, mang tính phong trào và phải tiến hành đồng
thời nhiều hình thức tuyên truyền, vận động như: tổ chức các đợt học tập,
nghiên cứu nghị quyết, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật,
tổ chức tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với người dân, giới thiệu các gương điển
hình tiên tiến theo chủ đề “người tốt, việc tốt” trên các phương tiện thông tin
đại chúng; tổ chức giao lưu, gặp gỡ lãnh đạo các cấp với đồng bào các dân
tộc, tăng cường hoạt động của đội thông tin lưu động, loa phát thanh của các
thôn bản.
Bên cạnh công tác quy hoạch, đào tạo việc sử dụng cán bộ làm công tác
tư tưởng, cần khắc phục tình trạng thất thoát cán bộ là con em các dân tộc ở
địa phương tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp.
Các cấp uỷ đảng, chính quyền, các ngành chức năng nên có chính sách cụ thể,
tạo mọi điều kiện thuận lợi để con em các dân tộc có năng lực, trình độ, có cơ
hội được rèn luyện thử thách trong môi trường thực tiễn, đóng góp những tri
thức của mình phục vụ quê hương.
Hai là, các cấp chính quyền ở địa phương cần khuyến khích việc duy trì
và khôi phục một số nét đẹp văn hóa cũng như loại bỏ các hủ tục lạc hậu
trong cộng đồng
Trên cơ sở quán triệt những quan điểm định hướng, chỉ đạo của Đảng
ta về giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, huyện Mai Châu cần phải tập
trung xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có nhận thức hơn nữa về vai trò của
ĐSVHTT với nhiệm vụ giữ gìn, phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc. Chú
trọng việc khai thác, khảo sát, sưu tầm, nghiên cứu, đánh giá toàn diện các giá
trị văn hóa truyền thống của người Thái, như: các giá trị vật thể và phi vật thể
được thể hiện trong các di tích lịch sử văn hóa, các phong tục, tập quán, tín
47
ngưỡng dân gian, dân ca, các loại trang phục dân tộc, văn hóa ẩm thực, văn
hóa ứng xử… Xây dựng kế hoạch cụ thể để duy trì và phát triển một số lễ hội
đặc trưng của người Thái.
Chẳng hạn như, trong lễ cưới khuyến khích cô dâu mặc trang phục
truyền thống, hát những điệu dân ca của dân tộc, duy trì tục lệ cô dâu tặng
chăn, gối truyền thống cho ông bà, cha mẹ bên chồng. Đây là cách biểu hiện
sự tôn kính với bậc sinh thành, hàm chứa giá trị tinh thần đậm nét. Trong các
lễ hội cần đầu tư, khôi phục và tăng cường tổ chức các lễ hội truyền thống,
đồng thời kết hợp với các hoạt động văn hóa mới, mang tính hiện đại để thu
hút đông đảo cộng đồng tham gia, tham dự. Hoặc trong các lễ tang cần sớm
loại bỏ hủ tục, thực hiện nếp sống mới trong lễ tang cũng như có những định
hướng đúng cho thầy Mo làm nghi lễ với các nội dung mang giá trị nhân văn
cao.
Ba là, thường xuyên duy trì các hoạt động nghệ thuật dân gian để giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc Thái trước tác động của CNH, HĐH
Thông qua việc tổ chức các lễ hội, làm cho truyền thống lễ hội trở nên
lung linh, giá trị của lễ hội ngày càng cao, huy động sức mạnh của cộng đồng.
Lễ hội đem lại sự vui vẻ, yên tâm, tự tin, tự hào, mở mang sự hiểu biết, đoàn
kết, thương yêu, thể hiện bình đẳng dân chủ trong cộng đồng các dân tộc.
Không những thế, lễ hội dân gian của đồng bào dân tộc Thái còn là nơi lưu
giữ và truyền lại những vốn văn hóa truyền thống cho các thế hệ sau qua
những điệu hát, lời ca,… Thông qua lễ hội, con người muốn gửi thông điệp
với đất trời, với thần linh, bày tỏ ước muốn làm chủ chính bản thân cuộc sống
của mình.
Bốn là, cần có chính sách bảo tồn văn hóa truyền thống của dân tộc
Thái trước tác động của CNH, HĐH
48
Phát huy giá trị thực dụng nơi ở của người dân tộc (không những là nơi
cư trú, nơi sinh hoạt của các cộng đồng, tộc người, nhà ở còn là công trình
kiến trúc mang đậm tính thẩm mĩ riêng, là nơi để tiếp đón khách du lịch…).
Một số ngôi nhà cổ tiêu biểu cần được đề xuất xếp hạng di tích và có kế
hoạch duy tu, bảo dưỡng. Khuyến khích làm nhà văn hóa thôn bản và xây
dựng theo kiến trúc nhà sàn cải tiến vừa phù hợp với nguyên vật liệu sẵn có
mà vẫn bảo lưu được những giá trị nhà ở truyền thống.
Tăng cường đầu tư, cơ sở vật chất, kỹ thuật, xây dựng thiết chế văn
hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tư tưởng tham gia tích cực vào việc
giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái ở Mai Châu. Ban Tuyên giáo
Huyện ủy cần tham mưu cho Ban Thường vụ Huyện ủy, Ủy ban nhân dân
huyện Mai Châu rà soát, bổ sung quy hoạch phát triển các thiết chế tư tưởng,
thiết chế văn hóa và các trang thiết bị. Tiếp tục kiểm tra, giám sát tiến độ,
triển khai thực hiện các dự án, công trình phục vụ hoạt động trong xây dựng
đời sống văn hóa trên địa bàn. Phối hợp với Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch
thành tỉnh duy trì các hoạt động của: “Câu lạc bộ bảo tồn và phát triển văn
hóa Thái Mai Châu”, lễ hội “Xên Mường” lễ hội “Cầu Tào”. Có kế hoạch tu
bổ, bảo vệ 13 di tích Lịch sử, phục vụ cho du khách tham quan, du lịch, thông
qua đó giới thiệu, quảng bá các hoạt động văn hóa, nghệ thuật truyền thống
trong cộng đồng dân tộc Thái tới du khách trong và ngoài nước.
Năm là, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa, từng bước
nâng cao đời sống cho dân tộc Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình
Để tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tích cực tham gia vào hoạt
động văn hóa, các cấp ủy Đảng, chính quyền, địa phương cần phải có những
định hướng chỉ đạo cụ thể, phù hợp, cùng với những giải pháp thiết thực đẩy
nhanh phát triển kinh tế - xã hội. Đưa sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn, xây dựng cụm trung tâm xã, thị trấn, thực hiện
chương trình xóa đói, giảm nghèo bền vững, xây dựng phát triển kết cấu hạ
49
tầng cơ sở, đảm bảo giao thông thông suốt. Giải quyết tốt các vấn đề trên sẽ
góp phần tích cực đến việc giáo dục tư tưởng cho đồng bào dân tộc và có ý
nghĩa to lớn trong việc khôi phục và giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Thái.
Sáu là, giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc Thái
Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc Thái có nghĩa là vừa loại bỏ
được các hủ tục lạc hậu, khắc phục tư tưởng xem nhẹ những phong tục tập
quán của đồng bào dân tộc Thái, vừa gìn giữ và phát triển được bản sắc dân
tộc lại vừa tiếp thu được những nét độc đáo của các nền văn hóa khác, bổ
sung để làm phong phú thêm cho nền văn hóa dân tộc mình. Do vậy, mỗi
thành viên trong cộng đồng dân tộc cần phải góp phần giữ gìn, bảo vệ và phát
triển các giá trị văn hóa Thái, làm cho các giá trị văn hóa luôn có tính bền
vững tạo nên bản sắc riêng cho dân tộc. Vì vậy, giữ gìn và phát huy các giá trị
văn hóa dân tộc Thái có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển nền văn
hóa nói chung và nâng cao ĐSVHTT của dân tộc Thái ở huyện Mai Châu,
tỉnh Hòa Bình nói riêng trong bối cảnh công nghiệp hóa hiện nay cũng như
trong tương lai.
Tiểu kết chương 2
Trong quá trình CNH ở Mai Châu, bên cạnh những tác động tích cực
thì sự phát triển ở địa phương này cũng đã bộc lộ mặt trái của nó. Đó là các
giá trị văn hóa truyền thống của người Thái bị biến đổi. Sự biến đổi đó diễn ra
mạnh mẽ ở một số thành tố trên cả hai lĩnh văn hóa vật chất và văn hóa tinh
thần như: Kiến trúc nhà ở, trang phục, ẩm thực, sinh kế, ngôn ngữ, lễ hội, các
hoạt động sinh hoạt văn nghệ. Trong đó, những thành tố thuộc lĩnh vực văn
hóa vật chất biển đổi mạnh hơn.
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc thiểu số cũng đang là vấn
đề mang ý nghĩa chiến lược được đặt ra đối với huyện Mai Châu, nhằm thúc
50
đẩy sự phát triển đồng đều và vững chắc cho tỉnh Hòa Bình, đóng góp vào
việc thực hiện mục tiêu chung của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH. Trong công tác xây dựng đất nước, nhờ phát huy những tiềm năng, lợi
thế sẵn có, Mai Châu được đánh giá là một trong những huyện có nhịp độ
tăng trưởng kinh tế khá nhanh của tỉnh Hòa Bình.
Hiện nay, cuộc sống đang từng ngày đổi thay, các luồng văn hoá hiện
đại xâm nhập ngày càng sâu trong đời sống xã hội cũng vì thế, nhu cầu hưởng
thụ của người dân có sự thay đổi. Thế nhưng điều đáng quý là trong đời sống
tinh thần của người Thái Mai Châu vẫn luôn giữ gìn và lưu truyền được bản
sắc văn hoá của dân tộc. Có lẽ đó chính là thế mạnh của người dân nơi đây
khiến nét văn hoá Thái luôn có sức hút mạnh mẽ đối với những ai đã từng đến
nơi này.
Một số giải pháp nhằm nâng cao ĐSVHTT của dân tộc Thái ở huyện
Mai Châu, tỉnh Hòa Bình được đề xuất trong chương 2 đều có kèm những
điều kiện đảm bảo thực hiện và có quan hệ tác động đến ĐSVHTT. Đây sẽ là
những giải pháp thiết thực nhằm nâng ĐSVHTT của dân tộc Thái ở huyện
Mai Châu, tỉnh Hòa Bình dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự quản lý,
điều hành của chính quyền để đạt tới hiệu quả cao nhất trong các hoạt động
văn hóa ở cơ sở, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn xây dựng
và phát triển văn hóa của huyện Mai Châu trong thời kì công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
51
KẾT LUẬN
ĐSVHTT là tổng hòa sống động các hoạt động sản xuất, trao đổi, tiêu
dùng các giá trị tinh thần, làm cho các giá trị đó thấm sâu vào từng con người,
từng cộng đồng, trở thành yếu tố khăng khít của toàn bộ cuộc sống, hoạt động
và quan hệ con người, đáp ứng nhu cầu giá trị tinh thần ngày càng tăng của
mọi thành viên trong xã hội. ĐSVHTT bao quát các lĩnh vực hoạt động chủ
yếu như tư tưởng, nghệ thuật, khoa học, giáo dục, tín ngưỡng tôn giáo. Các
hoạt động ở các khâu nhu cầu, sản xuất, trao đổi, tiêu dùng giá trị tinh thần
cũng như ở các lĩnh vực hoạt động nêu trên không tách biệt nhau mà hòa
quyện vào nhau. Các giá trị tinh thần được tạo ra, lan tỏa và thấm sâu vào
từng con người, từng cộng đồng, nhờ đó mỗi người và mọi người đạt được
những phẩm chất tinh thần cao quý và tồn tại như một giá trị gốc và tiếp tục
sáng tạo những giá trị mới cao hơn, đáp ứng nhu cầu giá trị tinh thần đa dạng
và không ngừng tăng lên của mọi thành viên trong xã hội.
Mai Châu là cửa ngõ lên vùng Tây Bắc, là mảnh đất hội tụ của nhiều
tộc người, trong đó tộc người Thái là một tộc người chiếm đa số với những
nét văn hóa đặc sắc, độc đáo. Trong quá trình tồn tại và phát triển, người Thái
Mai Châu đã xây dựng cho mình một nền văn hóa truyền thống phong phú,
mang đậm bản sắc dân tộc Thái và có những nét đặc trưng của địa phương
Mai Châu. Về văn hóa vật thể, người Thái Mai Châu đã sáng tạo ra một nền
văn hóa vật chất mang đậm bản sắc thung lũng, được biểu hiện rõ qua cách ăn
uống, trang phục và nhà cửa, hoạt động sinh kế của người Thái nơi đây. Lối
cư trú mật tập, cấu trúc không gian bản làng, nhà sàn, các món ăn, cách thức
tổ chức bữa ăn… đã thể hiện rõ đặc trưng của văn hóa tận dụng, thích ứng với
điều kiện tự nhiên, có tính cộng đồng cao của người Thái. Về văn hóa phi vật
thể với ĐSVHTT phong phú đa dạng, giàu bản sắc: Hệ thống chữ viết được
sáng tạo sớm, có khả năng thể hiện các hiện tượng trong đời sống tự nhiên, xã
hội. Văn hóa ứng xử trong gia đình, bản làng của người Thái Mai Châu nổi
52
bật lên tính cộng đồng, thương yêu, đoàn kết. Kho tàng lễ hội cùng với nền
nghệ thuật dân gian đặc trưng đó là các điệu dân ca, dân vũ nổi tiếng đã tạo
nên những nét riêng hết đặc sắc, độc đáo trong văn hóa của người Thái. Đó
còn là một nền văn hóa của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước vùng thung
lũng, hòa nhập với thiên nhiên, mang tính cộng đồng sâu đậm, có truyền
thống lâu đời. Nền văn hóa ấy không chỉ là chất dinh dưỡng nuôi sống và đảm
bảo cho dân tộc Thái tồn tại và phát triển mà hơn thế nữa nó còn là nguồn lực
quan trọng trong sự phát triển của Mai Châu, của dân tộc Thái hiện nay.
Có thể thấy, hoạt động văn hóa không chỉ là hoạt động thường niên mà
còn là hoạt động không chỉ mang lại văn hóa tinh thần mà còn đem lại lợi
nhuận kinh tế cho địa phương. Bởi vậy, nâng cao ĐSVHTT của dân tộc Thái
ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình trong thời kỳ đổi mới với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa càng thúc đẩy huyện Mai Châu phát triển nhanh hơn,
vượt qua khó khăn, thách thức để từng ngày làm “thay da đổi thịt” các bản
làng, làm cho huyện Mai Châu ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Khóa luận coi những luận điểm mới được đưa ra từ sự nghiên cứu,
phân tích lý luận về ĐSVHTT là xuất phát, là cơ sở khoa học để xem xét,
phân tích những vấn đề đang được đặt ra cần giải quyết nhằm nâng cao
ĐSVHTT của dân tộc Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình ngày càng vững
chắc, đúng hướng và có chất lượng.
53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Mai Châu tỉnh Hòa Bình (2003), Lịch sử
Đảng bộ huyện Mai Châu, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội.
2. Hoàng Chí Bảo (1993), “Ảnh hưởng của văn hóa đối với việc phát huy
nguồn lực con người”, Tạp chí Triết học, số 1, tr 13 – 17.
3. Nguyễn Chính (1998), “Đảng viên với tín ngưỡng tôn giáo”, Tạp chí
Cộng sản, số 11, tr 38 – 42.
4. GS. Hoàng Xuân Chinh, GS. Đặng Nghiêm Vạn chủ biên (1988), Tìm
hiểu văn hóa cổ truyền của người Thái Mai Châu, Nxb. Ủy ban nhân
dân huyện Mai Châu – sở văn hóa thông tin Hà Sơn Bình, Hòa Bình.
5. Đảng cộng sản Việt Nam (1998), Hội nghị lần thứ 5 – Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Thị Hương (2019), Quản lý các hoạt động văn hóa tại khu du
lịch bản Lác Mai Châu, Luận văn thạc sĩ quản lý văn hóa, Trường Đại
học sư phạm nghệ thuật Trung ương.
9. Mai Châu – Tiềm năng và cơ hội đầu tư (2010), Nxb. Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
10. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Trần Chí Mỹ (2002), Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở thành phố
Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học
viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
12. Thanh Nga (2017), “Nét khác biệt của người Thái trắng ở Hòa Bình”,
Ban Dân tộc VOV4, Hà Nội.
54
13. Nguyễn Thị Minh Nguyệt (2017), Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa
dân tộc thiểu số vùng trung du và miền núi phía bắc trong bối cảnh hiện
nay, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
14. Nguyễn Thị Hồng Tâm (2017), Biến đổi văn hóa truyền thống của
người Thái ở huyện Mai Châu tỉnh, Hòa Bình trong phát triển du lịch,
Luận án Tiến sĩ văn hóa học, Trường Đại học văn hóa Hà Nội.
15. Lường Song Toàn (2016), Văn hóa ẩm thực dân gian dân tộc Thái
huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.
16. Nguyễn Duy Thịnh (2016), “Sinh hoạt kành loóng của người Thái ở
Mai Châu”, Tạp chí Văn hóa học, số 5, tr.61 – 66.
17. Bùi Thanh Thủy (2002), “Người Thái và văn hóa Thái Mai Châu (Hòa
Bình)” Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 2, tr. 71-76.
18. Nguyễn Hữu Thức (2007), Một số kinh nghiệm quản lý và hoạt động tư
tưởng văn hóa, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Tuyển tập Mác – Ăngghen (1981), Tập I, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
20. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Tập 51, Nxb.Tiến bộ, Hà Nội.
21. Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận thực tiễn xây dựng văn hóa ở
nước ta, Nxb. Văn hóa, Hà Nội.
22. Nguyễn Như Ý (2009), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Thành Phố Hồ Chí
Minh.
23. http://maichau.hoabinh.gov.vn/vi/ubnd-cac-xa-th-tr-n/14-sample-data-
articles, Số liệu kinh tế - xã hội huyện Mai Châu tỉnh Hòa Bình
24. http://maichau.hoabinh.gov.vn/vi/van-hoa-xa-h-i/576-giai-thiau-vai-
nat-c-ban-va-phong-tac-tap-quan-caa-ng-ai-thai-mai-chau, Giới thiệu
vài nét cơ bản về phong tục tập quán của người Thái Mai Châu
25. http://vanhien.vn/news/mua-xoe--dieu-dan-vu-co-truyen-cua-nguoi-
thai-71794, Múa Xòe – Điệu dân vũ cổ truyền của người Thái
55
26. http://www.baohoabinh.com.vn/284/121230/Huyen-Mai-Chau-giu-gin-
va-phat-huy-ban-sac-van-hoa-dan-toc-Thai.htm, Huyện Mai Châu giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái
27. http://www.tapchicongsan.org.vn/van_hoa_xa_hoi//2018/811102/view_
content
28. https://www.thongtincongty.com/tinh-hoa-binh/huyen-mai-chau/
56