TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
HOẠT ĐỘNG LOGISTICS CỦA VIỆT NAM TRONG
HỢP TÁC TIỂU VÙNG MÊKÔNG MỞ RỘNG (GMS)
Họ và tên sinh viên : Nguyễn Viết Thùy Linh
Lớp : Anh 15
Khóa : 44
Giáo viên hƣớng dẫn : TS. Trịnh Thị Thu Hƣơng
Hà Nội, tháng 05 năm 2009
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI NÓI ĐẦU ..................................................................................................... 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ HỢP TÁC LOGISTICS TRONG TIỂU
VÙNG SÔNG MÊKÔNG MỞ RỘNG (GMS) ................................................... 4
I. TIỂU VÙNG SÔNG MÊKÔNG MỞ RỘNG ........................................ 4
1. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của GMS ................................ 4
2. Mối quan hệ GMS với ASEAN, các nước Đông Á và cộng đồng
quốc tế ................................................................................................................... 13
II. TÌNH HÌNH HỢP TÁC CHUNG TRONG GMS ................................. 14
1. Về giao thông vận tải .......................................................................... 14
2. Về năng lượng .................................................................................... 16
3. Về quản lý tài nguyên thiên nhiên và môi trường ................................ 18
4. Về phát triển nguồn nhân lực .............................................................. 19
5. Về thương mại và đầu tư .................................................................... 20
6. Về du lịch ........................................................................................... 21
7. Về nông nghiệp .................................................................................. 23
III. TÌNH HÌNH HỢP TÁC VỀ LOGISTICS TRONG GMS .................... 23
1. Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động hợp tác về logistics trong GMS. 23
2. Tình hình hợp tác về logistics trong GMS .......................................... 25
2.1. Về cơ sở hạ tầng ........................................................................... 25
2.2. Về thể chế chính sách ................................................................... 29
2.3. Về người cung cấp dịch vụ ........................................................... 32
2.4. Về người sử dụng dịch vụ ............................................................ 34
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG LOGISTICS CỦA VIỆT NAM
TRONG HỢP TÁC TIỂU VÙNG MÊKÔNG MỞ RỘNG ............................... 37
I. TỔNG QUAN THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG LOGISTICS CỦA
VIỆT NAM .......................................................................................................... 37
1. Kết cấu hạ tầng logistics của Việt Nam .............................................. 39
2. Qui mô và năng lực hoạt động của các doanh nghiệp trong lĩnh vực
logistics ở Việt Nam .............................................................................................. 43
3. Nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam về logistics ...................... 52
II. CƠ SỞ HẠ TẦNG LOGISTICS CỦA VIỆT NAM TRONG HỢP TÁC
TIỂU VÙNG ........................................................................................................ 54
1. Hành lang kinh tế Đông – Tây (EWEC) ............................................. 54
2. Hành lang kinh tế Bắc – Nam (NSEC)................................................ 56
2.1. Hành lang Hải Phòng - Côn Minh .............................................. 56
2.2. Hành lang Nam Ninh – Hà Nội .................................................. 58
3. Hành lang kinh tế phía Nam (SEC) ..................................................... 60
III. THỂ CHẾ LUẬT PHÁP VÀ QUY ĐỊNH VỀ LOGISTICS CỦA VIỆT
NAM TRONG HỢP TÁC TIỂU VÙNG MÊKÔNG ......................................... 61
1. Khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động logistics ở Việt Nam ........... 61
2. Các chính sách hợp tác về logistics của Việt Nam trong GMS ............ 65
3. Hiệp định tạo thuận lợi vận tải người và hàng hoá qua lại biên giới
giữa các nước Tiểu vùng Mêkông mở rộng............................................................ 69
IV. NGUỒN NHÂN LỰC TRONG HOẠT ĐỘNG LOGISTICS CỦA
VIỆT NAM TRONG HỢP TÁC TIỂU VÙNG MÊKÔNG ............................... 71
V. TÌNH HÌNH LIÊN KẾT GIỮA CÁC TỔ CHỨC, DOANH NGHIỆP
CUNG ỨNG VÀ SỬ DỤNG DỊCH VỤ LOGISTICS Ở VIỆT NAM VÀ CÁC
NƯỚC TRONG TIỂU VÙNG ............................................................................ 73
1. Về phía các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics .......................... 73
2. Về phía các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ logistics ........................... 75
VI. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG LOGISTICS
CỦA VIỆT NAM TRONG HỢP TÁC TIỂU VÙNG......................................... 77
1. Kết quả đạt được ................................................................................ 77
2. Hạn chế cần khắc phục ....................................................................... 79
2.1. Cơ sở hạ tầng, kỹ thuật yếu kém và thiếu đồng bộ ........................ 79
2.2. Hành lang pháp lý cho hoạt động logistics chưa đầy đủ ................ 82
2.3. Nguồn nhân lực còn thiếu kiến thức chuyên môn ......................... 84
2.4. Quy mô của các doanh nghiệp logistics tại Việt Nam còn nhỏ, tổ
chức quản lý kém, chưa đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài ........ 86
2.5. Thiếu vốn đầu tư .......................................................................... 87
2.6. Các doanh nghiệp kinh doanh logistics chưa liên kết với nhau ..... 88
2.7. Sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan chức năng về logistics
còn chưa được chặt chẽ ......................................................................................... 89
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY HỢP TÁC VỀ
LOGISTICS GIỮA VIỆT NAM VỚI TIỂU VÙNG MÊKÔNG MỞ RỘNG .. 91
I. GIẢI PHÁP VĨ MÔ ............................................................................... 91
1. Xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý phát triển dịch vụ logistics ..... 91
2. Đầu tư xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng - kỹ thuật cho logistics ............ 94
3. Thực hiện tự do hoá dịch vụ logistics theo lộ trình và tạo thuận lợi cho
dịch vụ logistics phát triển ..................................................................................... 97
4. Chú trọng đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho logistics .......................... 97
5. Tăng cường việc trao đổi thông tin, nghiệp vụ và hợp tác giữa Việt Nam với
các nước GMS ..................................................................................................... 100
II. GIẢI PHÁP VI MÔ ..............................................................................101
1. Nâng cao chất lượng dịch vụ và mở rộng, đa dạng hóa các loại hình
dịch vụ để tăng cường năng lực cạnh tranh ..........................................................101
2. Hợp tác, liên kết trong nước và thành lập các tập đoàn lớn về logistics
để nâng cao quy mô và năng lực của các công ty cung cấp dịch vụ logistics ........101
3. Liên doanh, hợp tác với các hãng logistics nước ngoài, mở rộng hoạt
động mang tính khu vực và quốc tế .....................................................................102
4. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý logistics ..............................102
5. Phát triển nguồn nhân lực .........................................................................103
6. Phát huy vai trò của các Hiệp hội ..............................................................104
KẾT LUẬN ........................................................................................................107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ngân hàng phát triển Châu Á (Asian Development Bank) ADB
ACFTA Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN (ASEAN – China Free
Trade Area)
Khu vực thương mại tự do ASEAN (ASEAN Free Trade Area) AFTA
AMBDC Chương trình hợp tác ASEAN phát triển lưu vực sông Mêkông (ASEAN
Mekong Basin Development Cooperation)
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of South East Asian
Nations)
Hiệp định vận tải qua biên giới GMS (Cross-Border Transport CBTA
Agreement)
EWEC Hành lang kinh tế Đông – Tây (East-West Economic Corridor)
Tiểu vùng sông Mêkông mở rộng (Greater Mekong Subregion) GMS
Các mục tiêu Thiên Niên Kỷ (Millennium Development Goals) MDGs
Uỷ hội sông Mêkông (Mekong River Committee) MRC
Hành lang kinh tế Bắc – Nam (North – South Economic Corridor) NSEC
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization of Economic Co- OECD
operation and Development)
Hành lang kinh tế phía Nam (Southern Economic Corridor) SEC
Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (United Nations UNDP
Development Program)
VIFFAS Hiệp hội Giao nhận – Kho vận Việt Nam (Vietnam Freight Forwarder
Association)
Ngân hàng Thế giới (World Bank) WB
Diễn đàn kinh tế thế giới (World Economic Forum) WEF
Xuất khẩu XK
Nhập khẩu NK
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bản đồ 1: Tiểu vùng sông Mêkông mở rộng (GMS) ........................................... 5
Bản đồ 2: 9 hành lang kinh tế trong GMS ...........................................................27
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng xuất - nhập khẩu (%/năm) của các nước thành viên
GMS ....................................................................................................................12
Bảng 2: Các chỉ tiêu về địa lý, dân cư và cơ sở hạ tầng trong GMS năm 2006 ....25
Bảng 3: Xếp hạng cơ sở hạ tầng Giao thông vận tải và Thông tin liên lạc trong
GMS ....................................................................................................................26
Bảng 4: Dự kiến những thay đổi trên Hành lang kinh tế Bắc – Nam ....................28
Bảng 5: Những số liệu thống kê chủ yếu về thương mại biên giới trong GMS ....31
Bảng 6: Thời gian làm thủ tục xuất - nhập khẩu trong GMS ................................31
Bảng 7: Tình hình các nhà cung cấp dịch vụ ở từng nước thành viên GMS .........32
Bảng 8: Tình hình sử dụng dịch vụ logistics ở từng nước thành viên GMS .........34
Bảng 9: Khối lượng hàng hoá vận chuyển phân theo ngành vận tải .....................38
Bảng 10: Thị phần các phương thức vận tải hàng hoá ở Việt Nam ......................38
Bảng 11: Cơ sở hạ tầng đường biển của Việt Nam ..............................................39
Bảng 12: Hạ tầng đường bộ của Việt Nam ..........................................................41
Bảng 13: Các doanh nghiệp logistics nước ngoài thuộc các loại hình khác nhau có
hoạt động phổ biến tại Việt Nam (năm 2007) ......................................................51
Bảng 14: Các loại hình dịch vụ được cung cấp bởi các công ty nước ngoài .........52
Bảng 15: Đặc điểm cơ sở hạ tầng trên NSEC ......................................................56
Bảng 16: Dự kiến những thay đổi trên hành lang Hải Phòng – Côn Minh ...........58
Bảng 17: Dự kiến những thay đổi trên hành lang Nam Ninh – Hà Nội ................59
Bảng 18: Các dự án lớn về cơ sở hạ tầng của Việt Nam trên NSEC ....................59
Bảng 19: Thời gian và chi phí trung bình cho việc xuất - nhập khẩu hàng hoá ở Việt
Nam ....................................................................................................................76
Biểu đồ 1: Hệ thống thông tin phục vụ cho hoạt động logistics tại cải VICT .......50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt:
1. Bộ Giao thông vận tải (2006), Hiệp định tạo thuận lợi vận tải người và hàng
hoá qua lại biên giới giữa các nước Tiểu vùng sông Mêkông mở rộng, NXB.
Giao thông vận tải.
2. Bộ Giao thông vận tải (2007), Báo cáo của Viện Chiến lược và phát triển
giao thông vận tải.
3. Đỗ Tiến Sâm. Trung Quốc với việc tham gia hợp tác tiểu vùng Mêkông mở
rộng (Bài viết cho Hội thảo Quốc Tế "Greater Mekong Sub-region: Research
issues and Cooperation Network" Hoi An, 9-10 September 2005), Phụ lục 1,
Tr. 12
4. Nguyễn Ngọc Kim. Vị trí, vai trò của Lào Cai trong tuyến hành lang kinh tế
Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng (Tài liệu Hội thảo Khoa học “Việt
Nam - Trung Quốc tăng cường hợp tác, cùng nhau phát triển, hướng tới
tương lai" tổ chức tại Hà Nội ngày 15 – 01 – 2005”)
5. Nguyễn Như Tiến (2006), Logistics và khả năng ứng dụng và phát triển
trong kinh doanh dịch vụ giao nhận Việt Nam, NXB Giao thông vận tải, Hà
Nội.
6. Nguyễn Thâm (10/2007), Thực trạng ngành Logistics Việt Nam và hướng
nâng cao năng lực cạnh tranh sau khi gia nhập Tổ chức thương mại Thế
giới, Diễn đàn Dịch vụ Cảng biển và Hậu Cần Thương mại Việt Nam tổ
chức tại Đà Nẵng, ngày 12/10/2007.
7. Nguyễn Trần Quế - Viện khoa học xã hội Việt Nam - Viện Kinh tế và Chính
trị thế giới (2007), Hợp tác phát triển Tiểu vùng Mêkông mở rộng - Hiện tại
và tương lai, NXB. Khoa học xã hội.
8. Nguyễn Tương, Phát triển dịch vụ logistics trong ngành hàng hải, Tạp chí
Shipping Times, số ra tháng 12/2008.
9. Nguyễn Tương, Giao thông vận tải của Việt Nam trong hợp tác Tiểu vùng
Mêkông, Tạp chí Shipping Times, số ra tháng 11/1999.
10. Phạm Thái Quốc (2006), Hợp tác GMS và tác động của nó đến phát triển
kinh tế miền Trung Việt Nam, Tạp chí “Những vấn đề kinh tế & chính trị thế
giới”, số 10/2006.
11. PGS.TS. Nguyễn Hồng Đàm (2003), Vận tải và giao nhận trong ngoại
thương, NXB Giao thông vận tải.
12. TSKH. Trần Khánh - Viện nghiên cứu Đông Nam Á (2007), Tình hình phát
triển hành lang kinh tế Côn Minh - Hải Phòng và tác động của nó đến quan
hệ kinh tế Việt – Trung.
13. Thông tấn xã Việt Nam, TLTKĐB (ngày 29 – 04 – 2005), Trung Quốc hợp
tác phát triển tiểu vùng Mê Công, Tr. 11-14
14. Tạp chí Kiến thức quốc phòng hiện đại (Số 09 – 2005), Đánh giá của Trung
Quốc về hợp tác Tiểu khu vực sông Lan Thương-Mê Công, Tr. 84-91
15. Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế (2006), Nghiên cứu tác động
của khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc đối với Việt Nam.
16. Luật Thương Mại Việt Nam 2005.
17. Bộ Luật Hàng hải Việt Nam 2005.
18. Luật Đầu tư 2005.
19. Nghị định của Chính Phủ số 125/2003/NĐ – CP (29/10/2003) quy định về
Vận tải đa phương thức quốc tế.
20. Bộ Giao thông vận tải, Dự thảo Nghị định về Vận tải đa phương thức sửa đổi
bổ sung (18/02/2009)
21. Nghị định của Chính phủ số 140/2007/NĐ-CP (5/9/2007) quy định chi tiết
Luật Thương mại 2005 về Điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn
trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics.
22. Nghị định của Chính phủ số 115/2007/NĐ-CP (26/6/2007) về Điều kiện kinh
doanh dịch vụ vận tải biển.
23. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới - số 116, tháng 12/2005, trang 6.
24. Bài phát biểu của Chủ tịch Hiệp hội VIFFAS tại Hội nghị thường niên của
Hiệp hội cảng biển Việt Nam, tổ chức tại Nha Trang, tháng 09/2008.
25. Kỷ yếu hội thảo “Hợp tác phát triển hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai -
Nội Bài - Hải Phòng, vai trò của tỉnh Lào Cai”, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội.
Tài liệu tiếng Anh:
26. Asian Development Bank (1995), Economic Cooperation in the Greater
Mekong Subregion: Toward Implementation.
27. Asian Development Bank (April 2008), Asian Development Outlook 2008.
28. Asian Development Bank (2009) - RETA 6450: Enhancing Transport &
Trade Facilitation in the GMS – Vietnam Mission Report.
29. Asian Development Bank Institute (January 2009), Transport Infrastructure
and Trade Facilitation in the Greater Mekong Subregion.
30. ASEAN Logistics development Study (2007), Draft Policy and Development
Framework Report.
31. ALMEC (2005), Promoting efficient and competitive Intra-ASEAN shipping
services – Volume 1: Final Main Report by REPSF (March 2005)
32. ALMEC (2005), Promoting efficient and competitive Intra-ASEAN shipping
services – Volume 2: Final Country Reports by REPSF (March 2005)
33. Asian Development Bank (2007) - Vientiane Plan of Action for GMS
Development 2008-2012
34. “Vietnam Shipper” Magazine (No. 44 – June 2008), China’s Logistics
Development.
35. Douglas M.Lambert, James R.Stock, Lisa M.Ellran (1998), Fundermentals
of Logistics Management, Edition, 1998.
36. NOL - Neptune Orient Lines (1/2007), Vietnam Transportation and Logistics
– Challenges and Opportunities.
37. Ruth Banomyong - Centre for Logistics Research - Faculty of Commerce &
Accountancy - Thammasat University (June 2007), Logistics development
study of the Greater Mekong Subregion – North - South Economic Corridor.
38. Ruth Banomyong (3/2007), East – West Economic Corridor Logistics
Benchmark Study.
39. Institute of Developing Economies (October 2007), Evaluating the
Effectiveness of GMS Economic Corridors: Why is There More Focus on the
Bangkok-Hanoi Road than the East-West Corridor?
Website:
40. www.adb.org/gms: Ngân hàng Phát triển Á Châu
41. http://www.adbi.org/workingpaper: Viện Ngân hàng Phát Triển Á Châu
42. www.gms-eoc.org: Trung tâm hoạt động môi trường GMS
43. www.mot.gov.vn: Bộ Giao thông vận tải Việt Nam
44. www.mofa.gov.vn: Bộ Ngoại giao Việt Nam
45. vi.wikipedia.org: Bách khoa toàn thư mở tiếng Việt
46. www.vietnamnet.vn: Báo điện tử Vietnamnet
47. www.danang.gov.vn: Trang thông tin chính thức của Thành phố Đà Nẵng
48. www.dragonlogistics.com.vn: Công ty Dragon Logistics Co.,Ltd
49. www.vict-vn.com/vie/index.htm: Cảng VICT
50. www.viffas.org.vn: Hiệp hội Giao nhận – Kho vận Việt Nam
51. www.vietnamnet.vn: Báo điện tử vietnamnet
52. www.dangcongsan.vn: Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
53. www.giaothongvantai.com.vn: Báo Giao thông vận tải điện tử
54. www.360vietnam.com/scm: Vietnam’s Supply Chain and Logistics Blog
55. http://www.saga.vn/Chuoigiatri/Xuatnhapkhau/8460.saga: Saga - Bài toán
logistics tại Việt Nam (Bùi Thanh Thuỷ)
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Ngành hàng hải thế giới đang phát triển trong sự tiến bộ vượt bậc của khoa
học công nghệ, nhất là công nghệ thông tin. Cùng với cuộc cách mạng container
hoá và sự phát triển của vận tải đa phương thức, dịch vụ Logistics đã phát triển
nhanh chóng, tạo nên một diện mạo mới cho ngành hàng hải. Với sự phát triển của
dịch vụ quản lý dây chuyền cung ứng (Supply Chain Management) - việc quản lý sự
lưu chuyển của hàng hoá từ điểm đầu đến nơi tiêu dùng, hoặc nơi phân phối cuối
cùng - đã làm thay đổi quan điểm về vận tải nói chung và vận tải biển nói riêng.
Cũng vì thế, hiện nay các nước khi xây dựng chiến lược phát triển hàng hải đã
chuyển từ việc xây dựng chính sách phát triển vận tải biển đơn thuần như vẫn làm
trước đây thành chính sách vận tải đa phương thức gắn kết và đồng bộ. Tại Việt
Nam, theo các chuyên gia dự báo thì trong tương lai gần, logistics sẽ trở thành một
ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam. Đặc biệt, trong khoảng 10 năm tới khi kim
ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt khoảng 200 tỷ USD thì nhu cầu sử dụng
dịch vụ logistics sẽ càng lớn. Do vậy, tham gia hợp tác với các nước trong khu vực
để thúc đẩy sự phát triển của ngành logistics còn non trẻ trong nước là một tất yếu
khách quan đối với Việt Nam hiện nay.
Năm 1992, với sự hỗ trợ của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), sáu nước
– Campuchia, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào,
Myanma, Thái Lan và Việt Nam – đã gia nhập một chương trình hợp tác kinh tế
tiểu vùng - Tiểu vùng Mêkông mở rộng (GMS). Mục tiêu của chương trình hợp tác
này là tăng cường mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực, đưa Tiểu
vùng Mêkông trở thành một tâm điểm mới của tăng trưởng kinh tế Châu Á. Trong
rất nhiều phương diện hợp tác của Tiểu vùng, phát triển giao thông vận tải nói
chung và phát triển dịch vụ logistics nói riêng được coi là một mục tiêu đặc biệt
quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước thành viên tăng cường chia sẻ nguồn
lực, thúc đẩy sự lưu thông của người và hàng hoá, qua đó, góp phần vào thúc đẩy
1
phát triển kinh tế và xoá đói giảm nghèo của Tiểu vùng.
Tuy nhiên, cho đến nay, hoạt động logistics của Việt Nam, với tư cách là một
quốc gia thành viên trong Tiểu vùng sông Mêkông mở rộng, vẫn còn ở giai đoạn
đầu của sự phát triển cũng như chưa có sự hợp tác chặt chẽ và có hiệu quả với các
nước khác trong GMS. Xuất phát từ thực tế đó, khoá luận của tôi hướng tới tìm hiểu
về “Hoạt động logistics của Việt Nam trong hợp tác Tiểu vùng Mêkông mở
rộng” để từ đó chỉ ra được những bất cập trong hợp tác về logistics của Việt Nam
với Tiểu vùng và đề xuất một số giải pháp khắc phục nhằm góp phần thúc đẩy hợp
tác về logistics nói riêng và đẩy mạnh phát triển kinh tế Tiểu vùng nói chung.
2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của khoá luận bao gồm:
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động logistics của Việt Nam trong quá trình
hợp tác với các nước khác trong Tiểu vùng Mêkông mở rộng;
- Tìm ra những hạn chế mà Việt Nam đang mắc phải;
- Đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy việc hợp tác về logistics trong
Tiểu vùng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là hoạt động logistics của Việt Nam
trong mối quan hệ hợp tác với các nước thành viên khác của Tiểu vùng Mêkông
mở rộng.
Phạm vi nghiên cứu là hoạt động hợp tác về logistics trong Tiểu vùng
Mêkông mở rộng từ khi được thành lập (năm 1992) đến nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, khoá luận vận dụng phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử vào nghiên cứu hiện tượng kinh tế xã hội. Đồng thời, sử
dụng một số phương pháp như: phương pháp phân tích thống kê, tổng hợp, so sánh,
2
phỏng vấn, điều tra chuyên gia…
5. Bố cục của khoá luận
Ngoài danh mục các chữ viết tắt, danh mục bảng biểu, mục lục, lời nói đầu,
kết luận, tài liệu tham khảo, kết cấu của khoá luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về hợp tác logistics trong Tiểu vùng Mêkông mở
rộng (GMS)
Chương 2: Thực trạng hoạt động logistics của Việt Nam trong hợp tác
Tiểu vùng Mêkông mở rộng
Chương 3: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hợp tác về logistics giữa Việt
Nam với Tiểu vùng Mêkông mở rộng
Tuy nhiên, do logistics là một lĩnh vực khá mới mẻ tại Việt Nam, mặt khác,
thời gian nghiên cứu và trình độ cũng như kinh nghiệm thực tiễn của bản thân còn
có hạn, nên khoá luận này chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong nhận
được sự đánh giá và góp ý của các thầy cô giáo và tất cả những độc giả quan tâm
đến vấn đề đặt ra ở đây để khoá luận có thể được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Trịnh Thị Thu
Hương, Phó Trưởng khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, trường Đại học Ngoại
thương Hà Nội, đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành khoá luận tốt
3
nghiệp này.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ HỢP TÁC LOGISTICS
TRONG TIỂU VÙNG SÔNG MÊKÔNG MỞ RỘNG (GMS)
I. TIỂU VÙNG SÔNG MÊKÔNG MỞ RỘNG (GMS)
1. Sơ lƣợc về sự hình thành và phát triển của GMS
1.1 Lịch sử hình thành:
Đông Nam Á có một con sông lớn đi qua nhiều nước. Đó là sông Mêkông,
được coi là sông “Đa-nuýp” của phương Đông. Với tổng diện tích lưu vực là 795.000 km2 và tổng lượng dòng chảy khoảng 475 tỉ m3/năm, sông Mêkông xếp thứ
21 trong số các lưu vực sông rộng nhất thế giới và xếp thứ 8 trong số các con sông
nhiều nước nhất trên thế giới. Nhờ điều kiện địa lý thuỷ văn thuận lợi như vậy, sông
Mêkông có trữ lượng thuỷ điện dồi dào với trữ lượng 30.000 MW công suất,
khoảng 13 triệu héc-ta cho gieo trồng, hơn 1.000 loài cá với lượng đánh bắt hàng
năm khoảng 1,5 triệu tấn [7]. Dòng sông Mêkông và các chi lưu của nó cũng tạo
thành một mạng lưới đường thuỷ thuận lợi, vừa phục vụ giao thông vận tải, vừa
phục vụ du lịch… Tất cả những tiềm năng đó đã và đang được khai thác, sử dụng
phục vụ đời sống của hơn 60 triệu người dân ven sông.
Hợp tác quốc tế phát triển Tiểu vùng sông Mêkông đã được bắt đầu từ năm
1957 khi Uỷ ban kinh tế của Liên Hợp Quốc về Châu Á và vùng Viễn Đông
(ACAFE) thành lập Uỷ ban Mêkông gồm Việt Nam, Lào, Campuchia và Thái Lan.
Tuy nhiên, nhiều hoạt động của Uỷ ban Mêkông bị hạn chế do chiến tranh triền
miên và nạn diệt chủng tại Campuchia. Đến khi hoà bình và ổn định được thiết lập
vững chắc ở Đông Dương, hợp tác giữa các nước Tiểu vùng sông Mêkông mới thực
sự phát triển.
Với nỗ lực nhằm hỗ trợ quốc gia thành viên đang phát triển có thể cải thiện
được tình hình kinh tế và xã hội, năm 1992, Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) đã
đề xuất sáng kiến thành lập nên Tiểu vùng Mêkông mở rộng (GMS) bao gồm 6
4
nước và vùng lãnh thổ là: Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma và tỉnh
Vân Nam Trung Quốc (Trung Quốc tuy chỉ có một tỉnh thuộc không gian của Tiểu
vùng song vẫn tham gia với tư cách là một quốc gia).
Bản đồ 1: Tiểu vùng Mêkông mở rộng (GMS)
Nguồn: Báo Vietnamnet
Năm 2002, theo đề nghị của Trung Quốc, tỉnh Quảng Tây được tham gia vào
các hoạt động của hợp tác GMS. Do đó, không gian hoạt động quốc tế của GMS
được mở rộng ra lớn hơn nhiều so với diện tích lưu vực sông Mêkông cùng với các
sông nhánh của nó. Điều này cắt nghĩa cho từ “mở rộng” trong tên gọi của Tiểu
vùng.
Về vị trí địa lý, GMS là bản lề, là ngã ba giao lưu giữa ba vùng Đông Bắc Á,
Đông Nam Á và Nam Á. Có thể nói, GMS nằm giữa những vùng mới nổi năng
5
động và phát trỉên nhất hiện nay.
Những cơ sở chủ yếu dẫn tới sự hình thành GMS bao gồm:
- Thứ nhất, sông Mêkông là “sợi dây tự nhiên” nối liền các quốc gia trong
GMS với nhau. Các quốc gia GMS ngày càng nhận thức sâu sắc rằng phải phối hợp
và tăng cường liên kết, hợp tác với nhau thì mới có thể khai thác, sử dụng có hiệu
quả nhất tiềm năng to lớn của sông Mêkông, bảo vệ môi trường sinh thái và phát
triển bền vững.
- Thứ hai, xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đã tác động mạnh mẽ đến
nhận thức và tạo nên nhu cầu tăng cường quan hệ và hợp tác giữa các nước trong
GMS cả về kinh tế, chính trị và văn hoá.
- Thứ ba, các nước trong GMS được sự quan tâm hỗ trợ của cộng đồng
quốc tế, mà đặc biệt là Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng thế giới
(WB) và Cơ quan Phát triển của Liên Hợp Quốc, thúc đẩy sự hình thành, duy trì và
mở rộng các hoạt động hợp tác Tiểu vùng.
1.2 Mục tiêu hoạt động:
GMS với diện tích là 2,6 triệu km2 và dân số trên 255 triệu người (năm 2006)
[44], là một khu vực được đánh giá là giàu tài nguyên thiên nhiên và có lợi thế về
nguồn nhân lực. Lực lượng lao động trẻ chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng dân số. Đó
cũng chính là lực lượng tiềm năng cho phát triển công nghiệp. Tuy đa dạng về ngôn
ngữ, dân tộc và văn hoá, song lại có thể chia sẻ được với nhau và có mối quan hệ
khăng khít.
Vào đầu những năm 90, sau khi nội chiến ở Campuchia kết thúc, hơn bao giờ
hết, các nước GMS nhận thức được tầm quan trọng của hoà bình đối với phát triển
kinh tế. Đứng trước hàng loạt những thách thức như nghèo đói, cơ sở hạ tầng quốc
gia hạn chế cả về giao thông, năng lượng, viễn thông, sức khoẻ và giáo dục, Chính
phủ các nước GMS đã nhận thức được rằng chỉ có thông qua tăng cường quan hệ
hợp tác giữa họ mới hy vọng vượt qua được thực trạng khó khăn này. Cũng vào thời
điểm này, những lợi thế cho phát triển về nguồn nhân lực và tài nguyên đã tạo điều
kiện cho GMS trở thành một trọng tâm phát triển mới của Châu Á và nhận được sự
6
quan tâm giúp đỡ của nhiều tổ chức quốc tế, trước hết là ADB. Năm 1992, dưới sự
giúp đỡ của ADB, Chương trình Hợp tác kinh tế Tiểu vùng Mêkông mở rộng, gọi
tắt là Chương trình GMS, đã được khởi xướng và có sự tham gia của cả 5 nước
thành viên và tỉnh Vân Nam – Trung Quốc. Mục đích của chương trình này là cải
thiện cơ sở hạ tầng và mở rộng quy mô trao đổi thương mại và đầu tư giữa các nước
trong Tiểu vùng. Ban đầu, cơ chế hoạt động chính của hợp tác GMS là Hội nghị các
Bộ trưởng hàng năm. Cho đến Hội nghị cấp cao lần thứ nhất họp ở Phnôm Pênh
cuối năm 2002, đã có 10 cuộc họp cấp Bộ trưởng được tiến hành với 8 lĩnh vực hợp
tác trọng điểm là giao thông vận tải, viễn thông, năng lượng, du lịch, môi trường,
phát triển nguồn nhân lực, thương mại và đầu tư, kiểm soát ma tuý. Với những
hướng hợp tác trên, các chính phủ thành viên tin tưởng rằng việc thực hiện Chương
trình GMS sẽ tạo nền tảng cho việc tăng cường sự kết nối và thúc đẩy các quan hệ
kinh tế qua lại giữa các nước trong Tiểu vùng.
Những kết quả ghi nhận được từ thực tiễn phát triển thương mại qua biên
giới cũng như thương mại giữa các nước trong khu vực, trong quan hệ đầu tư, hợp
tác phát triển năng lượng điện, khai thác và sử dụng nguồn nước của sông Mêkông,
phát triển du lịch đã và đang góp phần khẳng định thành công của Chương trình
GMS mà ADB đưa ra và đóng góp quan trọng và tăng trưởng kinh tế và quan hệ
hợp tác giữa các nước trong tiểu khu vực. Kết quả là, vào đầu tháng 12/2002, chính
phủ 6 nước thuộc GMS đã tiến hành Hội nghị cấp cao đầu tiên tại Phnôm Pênh,
Campuchia để kỷ niệm 10 năm thực hiện Chương trình GMS và khẳng định sự quan
tâm của mình đối với sự tăng cường hợp tác tiểu vùng. Điều đáng ghi nhận tại Hội
nghị này là chính phủ Trung Quốc đã tham gia với tư cách là một nước GMS chứ
không chỉ riêng tỉnh Vân Nam như khi bắt đầu Chương trình GMS. Trên cơ sở nhận
thức rõ rằng cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng… là cần thiết, nhưng chưa đủ cho
sự phát triển thương mại và đầu tư trong vùng, cách nhà lãnh đạo cấp cao tham gia
Hội nghị đã cùng nhau bàn bạc, tiến tới ký kết các hiệp định tạo thuận lợi hoá
thương mại, hiệp định về cung cấp tài chính và thực hiện hành lang kinh tế Bắc –
Nam, cùng nhau khẳng định những nguyên tắc chung trong hợp tác kinh tế của Tiểu
vùng là bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, cùng chia sẻ khát vọng về sự thịnh vượng
7
chung của khu vực và cùng nhau theo đuổi những mục đích chung.
Quan điểm ủng hộ liên kết kinh tế khu vực của chính phủ các nước đã tiếp
tục được khẳng định tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ hai về hợp tác kinh tế GMS,
được tổ chức tại Côn Minh – Trung Quốc vào tháng 7/2005. Bên cạnh việc xây
dựng và thực hiện tầm nhìn của một Tiểu vùng thịnh vượng, hài hoà và thống nhất,
tăng trưởng kinh tế nhanh, tiến bộ xã hội và phát triển môi trường bền vững, các
chính phủ đã tái cam kết tiếp tục thực hiện các mục tiêu Thiên Niên Kỷ (MDGs),
nhằm tiến tới một sự phát triển bền vững. Để thực hiện các cam kết đó, chính phủ
các nước GMS chủ trương trong thời gian tới, trung tâm của sự hợp tác được tập
trung vào nhiều lĩnh vực, ưu tiên là củng cố cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển,
cải thiện môi trường đầu tư và thương mại, tăng cường cơ sở hạ tầng xã hội, bảo vệ
môi trường sinh thái, huy động tài chính và đẩy mạnh quan hệ đối tác. Các nước
nhận thức rất rõ tầm quan trọng của quan hệ với các đối tác – các khu vực tư nhân,
các tổ chức quốc tế, xã hội cũng như các viện nghiên cứu, đặc biệt là ADB, trong
việc huy động các nguồn lực cần thiết cho việc phát triển hợp tác Tiểu vùng.
Hợp tác Tiểu vùng Mêkông nhằm chia sẻ hài hoà những lợi ích chung vì mục
đích phát triển của mỗi nước mà không gây tổn hại đến nhau. Trên cơ sở đó, hợp tác
GMS vừa thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế giữa các thành viên trong khu vực, vừa
tạo ra nền tảng để thu hút sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế đối với các nước trong
khu vực. Chính vì vậy, tại kỳ họp thư 56, Uỷ ban kinh tế - xã hội châu Á – Thái
Bình Dương của Liên hợp quốc (tháng 7/2000) tuyên bố thập kỷ đầu của Thế kỷ 21
là: “Thập kỷ phát triển Tiểu vùng Mêkông mở rộng” [52].
1.3 Nguyên tắc hợp tác và cơ chế hoạt động:
Cũng như các tổ chức hợp tác khác trên thế giới và khu vực, sự hình thành và
phát triển của GMS phải dựa trên các nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc hợp tác của
GMS bao gồm các nguyên tắc chung và nguyên tắc cụ thể. So với nhiều tổ chức
khác thì nguyên tắc chung của GMS không có gì đặc biệt mà vẫn dựa trên các tiêu
chí cơ bản là tự nguyện, cùng có lợi và tôn trọng chủ quyền quốc gia. Các nguyên
tắc cụ thể phải thể hiện được mục tiêu của sự hợp tác, nội dung, chương trình hành
8
động của quá trình hợp tác và các phương thức để thực hiện các mục tiêu đó. Đồng
thời là một tổ chức, do đó, GMS phải có một cơ chế hoạt động thiết thực để duy trì
việc thực hiện các mục tiêu đã đề ra.
Tại Hội nghị Bộ trưởng GMS lần thứ ba tại Hà Nội vào tháng 4/1994, dựa
vào các nguyên tắc chung là tự nguyện, cùng có lợi và tôn trọng chủ quyền quốc
gia, các Bộ trưởng đã thông qua 6 nguyên tắc hợp tác cụ thể trong khuôn khổ GMS
như sau:
(1) Hợp tác GMS phải tạo điều kiện duy trì tăng trưởng kinh tế và nâng cao
mức sống của nhân dân trong Tiểu vùng. Các chương trình và dự án GMS cần phản
ánh sự cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển nguồn nhân lực, xoá đói giảm
nghèo và bảo vệ môi trường.
(2) Các dự án có thể thu hút một số quốc gia trong Tiểu vùng và không nhất
thiết phải bao gồm cả 6 nước. Các thoả thuận song phương trong Tiểu vùng là bộ
phận cấu thành của hợp tác GMS;
(3) Việc cải tạo hoặc khôi phục những cơ sở hiện có được ưu tiên cao hơn
việc xây dựng những cơ sở mới;
(4) Khuyến khích tài trợ cho các dự án Tiểu vùng từ nguồn vốn Chính phủ
và tư nhân;
(5) Các nước thành viên Tiểu vùng cần thường xuyên gặp gỡ, trao đổi để
duy trì động lực thúc đẩy tiến trình hợp tác phát triển;
(6) Các dự án hợp tác sẽ không làm tổn hại lợi ích của bất kỳ quốc gia nào,
bất kể lợi ích hiện có hoặc sẽ có trong tương lai.
Căn cứ vào các nguyên tắc hợp tác đã đề ra, GMS thống nhất về cơ chế hoạt
động theo 5 hình thức tổ chức là Hội nghị cấp cao GMS, Hội nghị cấp Bộ trưởng,
Diễn đàn ngành và Nhóm công tác, Uỷ ban điều phối quốc gia GMS và Ban Thư
ký. Chức năng nhiệm vụ của các hình thức tổ chức cụ thể như sau:
- Hội nghị cấp cao GMS: là cấp hoạch định chính sách của GMS, thay mặt
Chính phủ các nước thành viên quyết định các chủ trương, chính sách, thông qua
sáng kiến hợp tác mới, cam kết các thoả thuận và kế hoạch hành động của Chương
9
trình; thực hiện đối thoại với các nhà đầu tư quốc tế. Kể từ khi thành lập tới nay,
GMS đã tổ chức 2 Hội nghị cấp cao tại Phnôm Pênh (Campuchia) năm 2002 và Côn
Minh (Trung Quốc) năm 2005;
- Hội nghị cấp Bộ trưởng: họp hàng năm;
- Diễn đàn ngành và Nhóm công tác: Hiện tại, trong khuôn khổ hợp tác
GMS có 3 diễn đàn chính thuộc ngành là về Giao thông vận tải, Năng lượng và Bưu
chính viễn thông. Cùng với diễn đàn ngành, GMS cũng đã hình thành 4 nhóm công
tác là: Nhóm công tác về hợp tác thương mại và hoạt động đầu tư; Nhóm công tác
về hợp tác phát triển nguồn nhân lực; Nhóm công tác về hợp tác phát triển du lịch
và Nhóm công tác về quản lý môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Các diễn đàn
ngành được tiến hành ở cấp người đứng đầu ngành (thường là bộ trưởng chuyên
ngành) của các nước thành viên. Diễn đàn ngành và nhóm công tác có nhiệm vụ
triển khai các quyết định của Hội nghị cấp cao; nghiên cứu, tư vấn và kiến nghị
Chương trình hợp tác trong lĩnh vực của mình lên Hội nghị cấp cao;
- Uỷ ban điều phối quốc gia GMS: Mỗi thành viên thành lập Uỷ ban điều
phối quốc gia về hợp tác GMS của riêng mình. Đây là tổ chức đầu mối của sự hợp
tác nhằm gắn liền các chính phủ thành viên với toàn bộ GMS. Ngoài ra, Uỷ ban
điều phối quốc gia GMS có chức năng trực tiếp tham mưu cho Chính phủ trong các
hoạt động hợp tác của GMS;
- Ban thư ký: Hiện tại, ADB đang đóng vai trò là Ban thư ký của GMS.
Chức năng chủ yếu của Ban Thư ký là điều phối chung các hoạt động của GMS.
Trong cơ cấu tổ chức ADB, phòng GMS thuộc Vụ miền Đông của Ngân hàng này.
1.4 Những kết quả hoạt động chủ yếu:
Những năm qua, 6 nước thuộc GMS đã triển khai hàng trăm dự án phát triển
nông, lâm, ngư nghiệp, kết cấu hạ tầng, giao thông năng lượng, thương mại, đầu tư,
du lịch, phát triển nguồn nhân lực và bảo vệ môi trường.
Nhiều chương trình, cơ quan, tổ chức hợp tác phát triển khu vực này đã được
thành lập và hoạt động có hiệu quả thời gian qua như Uỷ hội sông Mê Công (MRC),
Chương trình Hợp tác Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS), Chương trình Hợp tác
10
ASEAN phát triển lưu vực sông Mê Công, Chương trình Hợp tác phát triển liên
vùng nghèo dọc Hành lang Đông-Tây, Tam giác phát triển Campuchia-Lào-Việt
Nam.
- Uỷ hội sông Mê Công (MRC) là tổ chức lưu vực sông quốc tế mang tính
liên Chính phủ đầu tiên ở khu vực, được thành lập từ năm 1995 để hợp tác phát
triển bền vững, sử dụng, bảo vệ và quản lý tài nguyên nước và các tài nguyên khác
trong lưu vực.
- Chương trình Hợp tác Tiểu vùng Mê Công mở rộng hình thành năm
1992, theo sáng kiến của ADB, là chương trình hợp tác kinh tế hoàn chỉnh, hiện có
50 dự án trong quá trình xây dựng và triển khai, trong đó được chú trọng nhất là
phát triển hạ tầng giao thông.
- Chương trình Hợp tác ASEAN phát triển lưu vực sông Mê Công
(AMBDC) được thiết lập từ năm 1995 nhằm tăng cường liên kết kinh tế-thương mại
giữa các nước ASEAN, đặc biệt là các nước lưu vực sông Mê Công, thông qua hợp
tác phát triển cơ sở hạ tầng, thương mại, đầu tư, du lịch và nguồn nhân lực. Hiện
nay, chương trình này đang triển khai 72 dự án với tổng vốn khoảng 4,1 tỷ USD,
trong đó lớn nhất là dự án đường sắt xuyên Á Singapore-Côn Minh trị giá 2,5 tỷ
USD, có đoạn qua Việt Nam.
- Chương trình Hợp tác phát triển liên vùng nghèo dọc hành lang Đông –
Tây (EWEC) được thành lập theo sáng kiến của Việt Nam từ năm 1998 nhằm mục
tiêu xoá đói giảm nghèo thu hẹp chênh lệch trình độ phát triển trong Tiểu vùng Mê
Công. Trong 48 tỉnh thuộc phạm vi chương trình, Việt Nam có 18 tỉnh ở khu vực
miền Trung. Hiện nay, chương trình đã tập hợp 26 dự án về thương mại, du lịch,
phát triển nguồn nhân lực.
- Sáng kiến thành lập Tam giác phát triển Việt Nam, Lào và Campuchia
được nêu ra từ năm 1999 và hiện được Chính phủ ba nước tích cực phối hợp triển
khai.
Ngoài ra, ở những cấp độ và phạm vi khác nhau, còn có nhiều chương trình,
diễn đàn hợp tác giữa các nước trong khu vực. Gần đây, Nhật Bản đã đề xuất sáng
11
kiến hợp tác giữa Nhật Bản và các nước GMS, trong đó Nhật Bản cam kết hỗ trợ
1,5 tỷ USD cho các lĩnh vực xoá đói giảm nghèo và phát triển nguồn nhân lực để
thu hẹp khoảng cách phát triển trong Tiểu vùng.
Đối với các nước thuộc lưu vực sông Mêkông tham gia vào tổ chức ASEAN,
hợp tác kinh tế Tiểu vùng là động thái phối hợp nhằm thu hẹp chênh lệch phát triển
của toàn nhóm với các thành viên ASEAN khác, tạo dựng khả năng để đấy nhanh
tiến trình thực hiện cam kết xây dựng khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA)
và các cam kết tự do hoá thương mại khác, như ACFTA.
Hợp tác trong GMS đã tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, tạo thêm
công ăn việc làm cho khu vực, đồng thời, giảm bớt những trở ngại về cơ sở hạ tầng
đối với hàng hoá và người qua biên giới, tạo thuận lợi cho việc mở rộng buôn bán
và đầu tư, góp phần vào sự phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên
nhiên trong khu vực.
Bảng 1: Tốc độ tăng trƣởng xuất - nhập khẩu (%/năm) của các nƣớc
thành viên GMS
Nƣớc 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Xuất khẩu 6,8 22,4 34,6 35,4 28,4 20,0 25,0 26,9 Trung Quốc Nhập khẩu 8,1 21,3 39,8 35,8 17,6 20,0 20,0 29,8
Xuất khẩu 12,1 11,7 15,5 22,1 9,3 9,0 12,6 6,3 Campuchia Nhập khẩu 8,0 10,7 10,4 24,7 17,1 13,0 17,0 19,4
Xuất khẩu -3,3 -5,9 7,2 12,7 48,6 8,0 7,9 7,5 Lào Nhập khẩu -4,7 -12,4 1,9 56.4 23,8 12,0 10,8 10,1
Xuất khẩu 43,0 -3,0 12,6 8,2 - - - - Myanma Nhập khẩu 13,4 -16,1 1,3 -10,6 - - - -
Xuất khẩu -7,1 18,2 21,6 15,0 15,3 18,1 15,7 4,8 Thái Lan Nhập khẩu -3,0 17,4 25,7 26,0 15,0 11,5 5,0 4,6
Xuất khẩu 6,5 20,4 30,3 20,5 18,0 22,5 29,2 7,4 Việt Nam Nhập khẩu 6,0 19,5 37,4 26,0 16,0 15,0 41,4 28,8
12
Nguồn: ADB, Asian Development Outlook 2008
Năm 2007, ADB cho biết: khối lượng xuất khẩu nội GMS đã tăng gấp 10 lần
kể từ năm 1992 nhờ nỗ lực của 6 nước trong vùng trong việc phối hợp cơ sở hạ tầng
như đường xá và mạng lưới điện [27]. ADB cũng cho hay, tổng kim ngạch xuất
khẩu của cả khu vực đã tăng gấp 6 lần kể từ năm 1992, khi các nước này bắt đầu
hợp tác và tổng sản phẩm quốc nội của 6 nước trong vài năm qua đã tăng trung bình
6%/năm. Theo ADB, các ngành mới phát triển bùng nổ như du lịch, năng lượng và
viễn thông đã hỗ trợ cho đà phát triển của khu vực.
Riêng đối với Việt Nam, lưu vực sông Mêkông có ý nghĩa chiến lược về kinh
tế - xã hội, môi trường, sinh thái và an ninh, quốc phòng. Việt Nam nằm ở vị trí địa
lý thuận lợi, là cửa ngõ của các tuyến giao thông quan trọng trong lưu vực sông
Mêkông. Mục đích cơ bản của những chương trình hợp tác tiểu vùng Mêkông đều
phù hợp với chủ trương chính sách về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Bởi
vậy, Việt Nam ủng hộ và tham gia tích cực, là thành viên của hầu hết các chương
trình dự án này. Việt Nam đang xúc tiến việc lập kế hoạch tổng thể tham gia tiến
trình hợp tác phát triển lưu vực sông Mêkông nhằm khai thác cao nhất lợi thế của
mình trong khu vực, thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của các chương trình này.
2. Mối quan hệ GMS với ASEAN, các nƣớc Đông Á và cộng đồng quốc tế:
Do vị trí địa lý, GMS là cầu nối giữa Trung Quốc và ASEAN nhằm hiện
thực hoá quyết định thành lập Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN
(ACFTA). GMS đã tạo được cơ sở hợp tác, đồng thời đã đạt được những thành quả
nhất định. Tiểu vùng đã tiến hành những thử nghiệm hữu ích trên các phương diện:
thể chế hoá, hiệp thương và cung cấp kinh nghiệm hợp tác có lợi cho ACFTA còn
đang trong quá trình xây dựng mà nhiều lúc phải đi đường vòng. Xét theo một bình
diện nào đó, hợp tác GMS là bộ khung thu nhỏ của khu mậu dịch tự do Trung Quốc
– ASEAN. Từ đó, có thể thấy hợp tác GMS có một tầm vóc hết sức to lớn.
Đối với cộng đồng quốc tế, hợp tác GMS cũng có ý nghĩa rất quan trọng.
Ngày càng nhiều tổ chức quốc tế và các nước dành sự quan tâm và ủng hộ cho hợp
tác Tiểu vùng. Trong thời gian qua, hợp tác Tiểu vùng đã nhận được sự ủng hộ về
13
tiền vốn, kỹ thuật và những phương diện khác của cộng đồng quốc tế. Nhật Bản,
các nước Châu Âu cũng cung cấp vốn và kỹ thuật cho một số hạng mục hợp tác ở
Tiểu vùng. Các tổ chức quốc tế như: Chương trình phát triển Liên hợp quốc, Uỷ ban
thường trực kinh tế xã hội Châu Á – Thái Bình Dương và nhiều nước trên thế giới
đã khẳng định sẽ tích cực ủng hộ hợp tác Tiểu vùng.
Tháng 7/2000, tại kỳ họp thứ 56 của Uỷ ban kinh tế - xã hội Châu Á – Thái
Bình Dương của Liên hợp quốc đã ra tuyên bố coi thập kỷ đầu của thế kỷ 21 là
“Thập kỷ hợp tác phát triển Tiểu vùng Mêkông mở rộng”. Tại kỳ họp thượng đỉnh
ASEAN+3, tháng 11/2002, các nhà lãnh đạo Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc
đã cam kết hỗ trợ GMS phát triển và coi đó là nội dung quan trọng trong tiến trình
hợp tác ASEAN+3. Đáng kể nhất là chương trình đầu tư toàn diện (ALA) của Nhật
Bản đối với việc nâng cao khả năng phát triển và hội nhập kinh tế khu vực và quốc
tế cho các thành viên ASEAN mới. Nhưng điều đó đang mở rộng tương lai khả
quan cho quá trình hội nhập kinh tế của các nước GMS.
Hợp tác GMS sẽ kết thúc khi cộng đồng kinh tế Đông Á (mà trung tâm là
ASEAN+3) hoặc khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc được thiết lập.
Tuy nhiên, với điều kiện thuận lợi nhất thì cũng phải 15-20 năm nữa sự kiện này
mới có thể xảy ra. Ngay cả khi sự kiện này không xảy ra thì hợp tác GMS cũng sẽ
hết sứ mệnh lịch sử khi cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội của GMS đã được hiện đại hoá,
GMS không còn là vùng nghèo khó, các nước GMS đã trở thành những nước công
nghiệp mới.
II. TÌNH HÌNH HỢP TÁC CHUNG TRONG GMS
1. Về giao thông vận tải
Lĩnh vực giao thông vận tải là một trong những lĩnh vực được ưu tiên hàng
đầu. Cho đến nay, trong khuôn khổ hợp tác Tiểu vùng, các khía cạnh trong giao
thông đường thuỷ, đường bộ, đường sắt, đường hàng không và cả vấn đề thể chế
chung đều đã được xem xét. Sự phân tích sơ bộ về các dự án xây dựng đường, được
xếp hạng ưu tiên từ Hội nghị lần thứ hai, cho thấy các dự án đều có hiệu quả và sức
sống về mặt kinh tế. Sau đó, Hội nghị lần thứ ba tiếp tục xem xét lại các dự án và đề
14
ra kế hoạch sớm hoàn chỉnh quá trình nghiên cứu khả thi, để chuyển sang giai đoạn
đầu tư. Hội nghị thống nhất những dự án giao thông đường bộ có mức độ ưu tiên
cao là: Dự án tuyến đường Băng Cốc – Phnôm Pênh – TP. Hồ Chí Minh – Vũng
Tàu; Dự án tuyến đường hành lang Đông – Tây nối Thái Lan – Lào - Việt Nam; Dự
án nâng cấp tuyến đường nối Chiang Rai (Thái Lan) với Côn Minh (Trung Quốc),
qua lãnh thổ Myanma và Lào; và Dự án nâng cấp tuyến đường Côn Minh – Lashio
(Myanma). Ngoài các dự án đường bộ ưu tiên trên, những dự án đường bộ quan
trọng khác – trong đó có dự án nâng cấp tuyến đường Côn Minh – Hà Nội, dự án
nâng cấp hệ thống đường nối liên tỉnh Vân Nam với Lào và Việt Nam, cũng như
nối Thái Lan với Nam Lào, Campuchia và miền Trung Việt Nam (với cảng biển
Quy Nhơn) - được phê chuẩn cho tiếp tục tiến hành nghiên cứu.
Trong lĩnh vực vận tải đường sắt, Hội nghị lần thứ ba đã xem xét các dự án:
xây dựng tuyến đường sắt Thái Lan – Campuchia, dự án đường sắt Vân Nam - Việt
Nam, dự án đường sắt nối tỉnh Vân Nam – Thái Lan. Để thực hiện các dự án này,
các chuyên gia phải tiến hành thảo luận với tất cả các nước liên quan về ý định tham
gia đầu tư của những nước này, đồng thời phải đánh giá kỹ lưỡng hiệu quả và sức
sống kinh tế của các dự án.
Hội nghị lần thứ ba cũng đã ghi nhận nhu cầu phải nghiên cứu kỹ lưỡng các
dự án vận tải đường sông và đã đi đến thống nhất rằng cần phải tiến hành thực hiện
các dự án: Dự án nâng cấp luồng vận tải đường sông trên Thượng nguồn sông Lan
Thương - sông Mêkông; Dự án nâng cấp luồng vận tải đường sông trên sông Hồng,
bao gồm cả lãnh thổ tỉnh Vân Nam và Việt Nam; và Dự án vận tải đường sông giữa
Hạ Lào và vùng Đông Bắc Campuchia. Hội nghị cũng nhất trí rằng các chuyên gia
cần tiếp tục nghiên cứu các dự án về cảng biển, song cần tập trung vào các khía
cạnh có tầm ảnh hưởng khu vực chứ không chỉ thuần tuý ở tầm quốc gia.
Tầm quan trọng của dự án vận tải hàng không đã được đưa ra thảo luận và đi
đến nhất trí. Những dự án bổ sung được đưa vào chương trình nghiên cứu bao gồm
dự án về sân bay Utapao, trung tâm bảo dưỡng phương tiện hạng nặng trong vận tải
đường không Thái Lan, sân bay thành phố Xihanúcvin ở Campuchia, sân bay ở tỉnh
Vân Nam. Hội nghị cũng thống nhất xem xét việc hình thành các tuyến bay mới và
15
khuyến khích mở rộng vận tải hàng không trong khu vực, đặc biệt là ở Việt Nam.
Hiệp định Vận tải qua biên giới GMS (gọi tắt là CBTA) đã được ký kết và có
hiệu lực từ tháng 12/2003. Hiệp định này cũng đã được áp dụng trên toàn khu vực
vào tháng 3/2007 [1]. Hiệp định đề cập đến những vấn đề chính là chế độ kiểm soát
hải quan một cửa, di chuyển con người qua biên giới, chế độ vận tải quá cảnh, yêu
cầu đối với xe tải quá cảnh và phát triển cơ sở hạ tầng. Hiệp định này là một trong
những cơ sở pháp lý điều chỉnh các hoạt động logistics trong vận tải đường bộ và
vận tải đa phương thức trong GMS. Cùng với Hiệp định CBTA, Chiến lược Vận tải
GMS đã được thông qua tại Diễn đàn Vận tải Tiểu khu vực (thuộc Chương trình
GMS của ADB) lần thứ 10, tháng 2/2006. Mục đích của Chiến lược này là nhằm
đảm bảo đủ năng lực vận tải phục vụ tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả vận tải
để gia tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá GMS. Theo đó, những vấn đề được
quan tâm trong thời gian tới là mở cửa thị trường dịch vụ vận tải, nâng cao hiệu quả
kinh tế thông qua giảm chi phí, hoàn tất việc xây dựng mạng lưới giao thông GMS
và kết nối khu vực Nam Á, tăng cường vận tải đa phương thức và đảm bảo tính
thống nhất trong quy định hải quan trong GMS.
2. Về năng lƣợng
Nét đặc trưng cho lĩnh vực năng lượng của Tiểu vùng Mêkông là tính chất
hết sức đa dạng và khả năng lớn lao để tiến hành các hoạt động hợp tác. Xét cả
vùng, thì tiềm năng về năng lượng rất lớn, song chúng được phân bổ không đều về
mặt địa lý. Trong đó, tiềm năng về thuỷ điện là đặc biệt to lớn, lên tới 1000
TWh/mỗi năm, tức là hơn 10 lần công suất đang có hiện nay. Trong tiềm năng này,
tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) chiếm tỷ trọng lớn nhất, sau đó là Myanma, Lào và
Việt Nam. Nguồn hydrocacbon, cả dầu lửa và khí đốt tự nhiên, được đánh giá bằng
một trăm lần mức tiêu dùng hàng năm hiện nay. Phần lớn trữ lượng này được tìm
thấy ở Việt Nam, Thái Lan và Myanma. Một thực tế là để có thể phát triển đại bộ
phận các tiềm năng về thuỷ điện cũng như việc khai thác dầu lửa ngoài biển trong
Tiểu vùng một cách hiệu quả đòi hỏi phải có sự hợp tác chặt chẽ.
Tại các Hội nghị gần đây về hợp tác Tiểu vùng, các bên đã thống nhất dành
16
ưu tiên cao cho các dự án và hoạt động dưới đây:
- Về sản xuất và truyền tải điện, bao gồm 7 dự án:
(1) Nghiên cứu xây dựng thuỷ điện trong lưu vực các con sông XêKông và Sê
San ở Campuchia, Lào và Việt Nam, bao gồm cả việc xây dựng lưới điện nối chung
3 nước này với Thái Lan;
(2) Nghiên cứu tiền khả thi nhà máy thuỷ điện Nậm Thà ở Lào, gồm cả việc
nối vào lưới điện ở Thái Lan;
(3) Nghiên cứu khả thi đường dây tải điện nối công trình thuỷ điện Jinghong
của tỉnh Vân Nam – Trung Quốc với Thái Lan;
(4) Nghiên cứu xây dựng thuỷ điện trên sông Nậm Thun của Lào và đường dây
nối với lưới điện của Thái Lan và Việt Nam;
(5) Nghiên cứu xây dụng thủy điện trên sông Thanuyn ở Myanma và Thái Lan,
kể cả đường dây tải nối vào lưới điện của hai nước;
(6) Thực hiện công trình thuỷ điện Thun Hinbun (trước đây gọi là Nậm Thun
1-2) ở Lào và đường dây tải nối với Thái Lan.
(7) Trong khuôn khổ các dự án về sản xuất và truyền tải điện, Việt Nam có đặt
vấn đề nghiên cứu khả thi cho hai công trình thuỷ điện Sơn La và bản Mai, kể cả
đường dây tải điện. Song, do còn cần khẳng định tính chất liên quốc gia, hay tính
chất Tiểu vùng của những dự án này nên sẽ được tiếp tục xem xét sau.
- Về đường ống khí đốt: trước mắt sẽ tiến hành thực hiện công trình đường
ống dẫn khí đốt Yandana – Băng Cốc giữa Myanma và Thái Lan.
Để thực hiện các dự án trên, trước hết cần xây dựng các quy định thể chế về
năng lượng, gồm: lập kế hoạch cho hệ thống (bao gồm cả quản lý nhu cầu về điện),
các khía cạnh kinh tế và vấn đề cấp vốn (bao gồm cả việc huy động khu vực tư nhân
cùng tham gia và có tính giá cho việc trao đổi buôn bán điện năng), vấn đề bảo vệ
trữ lượng nước trong khu vực và củng cố các cơ sở làm công tác môi trường trong
ngành năng lượng. Ngoài ra, để quản lý các hồ chứa và dòng chảy, phải tăng cường
khuôn khổ pháp lý và thể chế nhằm quản lý hiệu quả nguồn nước trong hệ thống
17
sông ngòi của Tiểu vùng và phù hợp với luật pháp quốc tế.
3. Về quản lý tài nguyên thiên nhiên và môi trƣờng
Cho tới nay, việc quản lý môi trường và tài nguyên thiên nhiên theo nguyên
tắc phát triển bền vững chưa thể tiến hành được một cách thực sự. Nguyên nhân
chính là do còn quá ít nhân lực kĩ thuật chuyên nghiệp được đào tạo một cách thích
hợp, thiếu các số liệu cần thiết được tập hợp trong những cơ sở dữ liệu, cơ sở pháp
lý chưa phù hợp và thiếu năng lực cưỡng chế việc thực hiện các quy định đã được
ban hành. Hơn nữa, dân chúng trên địa bàn nói chung còn chưa có ý thức về những
vấn đề như sinh thái, môi trường và sức khoẻ cộng đồng. Thêm vào đó, mức thu
nhập còn quá thấp, phổ biến ở phần lớn lãnh thổ thuộc Tiểu vùng khiến cho một tỷ
lệ lớn dân cư vẫn chỉ coi cây xanh và các tài nguyên thiên nhiên khác như những
nguồn cung cấp chất đốt, gỗ, thức ăn và thu nhập. Trong hoàn cảnh như vậy, đối với
họ, những khía cạnh liên quan đến môi trường chỉ có ý nghĩa thứ yếu.
Trong Tiểu vùng, các vấn đề lớn liên quan đến môi trường bao gồm: nạn phá
rừng, xói mòn, ngập mặn, ô nhiễm nguồn nước, tích tụ các chất độc hại, phá hoại
môi sinh, thay đổi khí hậu, mất tính đa dạng sinh học, xuống cấp môi trường đô thị
và nguy cơ đối với sức khoẻ cộng đồng. Hầu như tất cả những vấn đề này đều có
liên quan với nhau. Vì thế, nếu như không thể loại bỏ được hết tất cả mọi vấn đề thì
một cách tiếp cận có phối hợp và có hệ thống để quản lý chúng chắc chắn sẽ góp
phần cải thiện tình hình trong từng lĩnh vực liên quan.
Đáng tiếc là cho tới gần đây, việc hợp tác giữa các quốc gia trong Tiểu vùng
sông Mêkông về vấn đề môi trường còn rất hạn chế và rõ ràng là cần phải có một
cách tiếp cận ở tầm toàn khu vực đối với việc quản lý môi trường và tài nguyên
thiên nhiên. Việc xây dựng các đập thuỷ điện lớn trên nhánh sông chính ở tỉnh Vân
Nam, hay việc phá dỡ các gềnh nước ở đoạn sông nằm giữa Lào và Myanma để mở
rộng vận tải đường sông, có thể ảnh hưởng đến toàn bộ chế độ dòng chảy theo mùa
ở cả 6 quốc gia, và đặc biệt, làm thay đổi chế độ cung cấp nước ở những vùng trồng
lúa tại Việt Nam. Tình trạng ô nhiễm Biển Hồ ở Campuchia có thể gây tác động
nguy hại đến việc sinh trưởng của đàn có, di chuyển tự nhiên trên cả chiều dài con
sông và do đó ảnh hưởng đến việc khai thác, đánh bắt ở tất cả 6 nước, từ Trung
18
Quốc đến Việt Nam.
Tóm lại, con sông Mêkông tạo thành một hệ thống liên hoàn. Vì thế, tác
động của quá trình phát triển ở một khu vực có thể nhận thấy trong toàn hệ thống và
công tác kế hoạch hoá phát triển nhất thiết phải tính đến yếu tố môi trường này.
4. Về phát triển nguồn nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực là một nhân tố mang tính cốt yếu và nền tảng đối
với quá trình phát triển, xét trong mọi khía cạnh và mọi tầm vóc của quá trình này.
Nó vừa là điều kiện, vừa là kết quả của một tập hợp rộng lớn các chính sách, các
chương trình hoạt động, bao quát tất cả mọi lĩnh vực. Con người là nguồn lực quan
trọng nhất của một đất nước và trong trường hợp mọi lợi thế so sánh khác đã được
tận dụng, phát huy, thì con người trở thành nguồn lực duy nhất của một quốc gia.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của nguồn nhân lực đối với sự phát triển của
Tiểu vùng, Chiến lược hợp tác Tiểu vùng về nguồn nhân lực đã xác định 11 dự án
hợp tác. Nói chung, về bản chất, các dự án cấp Tiểu vùng mang tính liên quốc gia.
Song chúng vẫn được xây dựng trên cơ sở cụ thể của từng quốc gia. Bước đi đầu
tiên trong quá trình thiết kế dự án là mỗi quốc gia chỉ định ra những cơ quan (và các
cá nhân) chủ chốt sẽ làm việc trong dự án. Nếu cần, có thể huy động cả các cơ quan
ngoài Tiểu vùng cùng tham gia, cả với tư cách hỗ trợ cũng như với vai trò nòng cốt.
Vấn đề cuối cùng cần nói đến ở đây là khả năng bổ sung lẫn nhau còn chưa
được khai thác hết trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực giữa khu vực công cộng
và khu vực tư nhân. Vai trò then chốt của khu vực công cộng là hiển nhiên. Đồng
thời, một động thái quan trọng đang nổi lên trong tổng thể lĩnh vực giáo dục, đặc
biệt trong hoạt động đào tạo, là vai trò khu vực tư nhân. Do đó, một trong những
thách thức đối với việc soạn thảo và thực hiện các dự án phát triển nguồn nhân lực
là làm thế nào thu hút được khu vực tư nhân và tìm ra phương pháp đổi mới sự phối
hợp giữa khu vực công cộng và tư nhân.
Trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực, một chương trình khá toàn diện đã
được thông qua – đó là Kế hoạch Phnôm Pênh về Phát triển quản lý GMS. Bên cạnh
đó, tại cuộc họp của Nhóm làm việc về Phát triển nguồn nhân lực thuộc Chương
19
trình GMS của ADB cũng đưa ra các chương trình phát triển nguồn nhân lực để
phục vụ cho thương mại xuyên biên giới, để phát triển nền kinh tế nhờ qui mô, chia
sẻ kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau trong phạm vi GMS.
5. Về thƣơng mại và đầu tƣ
Hợp tác GMS đã thống nhất một danh sách các dự án và hoạt động ưu tiên
như sau:
- Thành lập nhóm làm việc (ở cấp chuyên viên kỹ thuật) gọi là Uỷ ban,
nhằm tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy hoạt động thương mại trong Tiểu vùng.
Vai trò của Uỷ ban này sẽ không chỉ giới hạn trong việc cải tiến hoạt động thông tin
thương mại mà còn nhằm phối hợp các thủ tục hành chính về thương mại trong Tiểu
vùng. Những nội dung được đề xuất cho công việc của Uỷ ban bao gồm: tiến hành
đồng bộ hoá và hợp lý hoá các quy trình và bảng phân loại về thuế quan, phương
thức điều hoà hoạt động buôn bán bất hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi cho các
hình thức thương mại quá cảnh và các cơ chế bảo đảm tài chính và thanh toán.
- Hợp tác trong đào tạo, huấn luyện nhằm thúc đẩy xuất nhập khẩu và hoạt
động thương mại. Mục đích là tăng cường năng lực về hoạt động xuất khẩu cho các
quốc gia trong Tiểu vùng. Dự án sẽ bao gồm các nội dung: Chương trình huấn
luyện đặc biệt cho các nhà kinh doanh xuất khẩu (ví dụ: công tác Marketing trong
xuất khẩu, các thủ tục và chế độ thuế quan về xuất - nhập khẩu, các vấn đề pháp lý);
Chương trình cho các cơ quan xúc tiến thương mại (ví dụ, tổ chức hội chợ); đào tạo
và hỗ trợ trong việc cải tiến các tiêu chuẩn kỹ thuật.
- Phù hợp với tinh thần của dự án này, các bên nhất trí ủng hộ việc tham
gia tích cực có tính chất đại diện cả Tiểu vùng vào các hội chợ, tổ chức trong cũng
như ngoài khu vực mà trước mắt là hội chợ ở Côn Minh, Thái Lan và Việt Nam.
- Diễn đàn các cơ quan xúc tiến đầu tư nhằm mở rộng môi trường đầu tư
trong GMS. Trước mắt, các bên thoả thuận tiến hành một cuộc gặp gỡ giữa các tổ
chức quốc gia liên quan đến đầu tư để xác định rõ chủ đề và quy mô của diễn đàn.
- Tiến hành đánh giá về nguồn lực và chính sách khoa học – công nghệ
trong Tiểu vùng nhằm hỗ trợ tăng cường năng lực khoa học – công nghệ của khu
20
vực.
- Tiếp tục nghiên cứu các khuôn khổ thực tế và nhất quán để khu vực kinh
tế tư nhân có thể tham gia vào các dự án kết cấu hạ tầng quy mô lớn, vượt ra ngoài
biên giới quốc gia. Tổ chức rút kinh nghiệm và xem xét khả năng đưa khu vực tư
nhân tham gia cấp vốn và thực thi những dự án kết cấu hạ tầng quy mô lớn trong
khu vực (ví dụ: dưới hình thức xây dựng - vận hành - chuyển giao: BOT). Tăng
cường phát triển khu vực tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua việc hình
thành mạng lưới Phòng Thương mại và Công nghiệp trong khu vực.
Vào tháng 10/2005, Nhóm làm việc về đầu tư Tiểu vùng đã họp lần thứ 5 để
xác định các lĩnh vực chung cần khuyến khích FDI trong phạm vi toàn GMS, đồng
thời tăng cường mối quan hệ giữa khu vực công và khu vực tư nhân trong đầu tư.
Bên cạnh đó, diễn đàn về tăng cường FDI cho các nước GMS (GMS-BF) đã được tổ
chức vào tháng 11/2003, nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư, đặc biệt là đầu tư tư nhân
vào khu vực.
Thông qua hoạt động của Nhóm làm việc về thuận lợi hoá thương mại (bao
gồm các chuyên gia của các nước thành viên ADB), vào tháng 4/2005, các nước
GMS đã thông qua Chương trình Hoạt động đặc biệt về Thuận lợi hoá Thương mại
và Đầu tư. Theo đó, các nước đã thống nhất các biện pháp hoàn thiện hệ thống quản
lý tại các cửa khẩu trên các phương diện thủ tục hải quan, quy định về vận tải quá
cảnh và vận tải đa phương thức, phát triển các hoạt động hỗ trợ các nhà xuất khẩu
GMS, xây dựng mạng thông tin thị trường và phát triển hệ thống thương mại điện
tử. Tháng 9/2006, Hội nghị các nhà lãnh đạo cơ quan hải quan của các nước GMS
cũng đã họp lần đầu tiên để thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực này.
6. Về du lịch
Di sản văn hóa phong phú và hình thái địa lý tự nhiên đa dạng tạo ra cho
Tiểu vùng những tiềm năng to lớn về du lịch. Tuy nhiên, cho tới nay, trong các
quốc gia thuộc Tiểu vùng mới chỉ có Thái Lan là thực sự thu được lợi ích đáng kể
từ hoạt động này. Với sự ổn định chính trị và các biện pháp cải cách kinh tế, chắc
chắn các quốc gia khác cũng có những cơ hội lớn để phát huy tiềm năng của mình.
21
Phát triển thành công du lịch có thể tạo ra những nguồn thu ngoại tệ không nhỏ và
đặc biệt có thể tạo ra nhiều công ăn việc làm trong khu vực. Tất cả các nước trong
Tiểu vùng đều bày tỏ mong muốn hợp tác và đều coi du lịch là lĩnh vực tất yếu phải
phát triển theo cách phối hợp với nhau.
Song, cũng giống như trong các lĩnh vực khác, sự hợp tác kinh tế Tiểu vùng
nhằm thúc đẩy mở rộng ngành du lịch phải tôn trọng nguyên tắc đảm bảo sự phát
triển bền vững. Hợp tác Tiểu vùng phải đi theo hướng vừa hỗ trợ phát triển du lịch,
đồng thời bảo đảm cho sự phát triển đó vẫn duy trì sức sống lâu dài của các điểm du
lịch.
Việc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch, nhất là phát triển hệ thống giao
thông nếu riêng một mình ngành du lịch thường chưa đủ tiềm lực đối với các dự án
lớn về cơ sở hạ tầng. Chúng cần được kết hợp trong những phân tích có phạm vi
rộng lớn về nhu cầu giao thông - vận tải.
Các bên liên quan đã đi đến nhất trí về 5 dự án hợp tác lớn mang tính chiến
lược nhằm thúc đẩy phát triển ngành du lịch trong Tiểu vùng:
(1) Mở rộng hoạt động quảng cáo cho Tiểu vùng với tư cách một “hướng đi
của du khách”. Thông thường, hoạt động này thuộc trách nhiệm của chính phủ, còn
sau đó là đến lượt giới kinh doanh, người có trách nhiệm “bán” các dịch vụ của
mình cho du khách một cách hiệu quả nhất.
(2) Tổ chức các Diễn đàn Tiểu vùng về du lịch.
(3) Đào tạo giáo viên dạy về kỹ thuật nghề nghiệp cơ bản trong du lịch.
(4) Huấn luyện các nhà quản lý công tác bảo tồn và hoạt động du lịch. Tất cả
các nước trong Tiểu vùng đều bày tỏ sự quan tâm cao của mình đối với dự án này.
Những vườn quốc gia, những khu bảo tồn thiên nhiên và những di tích lịch sử, văn
hoá quý giá nói chung có thể thu được lợi từ hoạt động du lịch, song cũng có thể bị
hoạt động này làm nguy hại. Số phận những nơi này phụ thuộc rất nhiều vào chính
kỹ năng của những nhà quản lý.
(5) Nghiên cứu lập kế hoạch tổ chức các loại hình du lịch trên sông Mêkông.
Cái tên “Mêkông” từ lâu đã là một hình ảnh rất mạnh và có sức hấp dẫn đặc biệt để
22
có thể tiến hành hoạt động quảng cáo. Phát huy đầy đủ lợi thế của hình ảnh này
thông qua việc lập kế hoạch một cách chu đáo là điều hết sức quan trọng đối với cả
6 quốc gia thành viên.
Cho đến tháng 3/2006, Nhóm làm việc về Du lịch trong Chương trình GMS
đã họp được 17 lần, nhằm thảo luận và đưa ra các bước đi thích hợp cho phát triển
hợp tác khu vực trong lĩnh vực này, theo 8 chương trình trọng điểm là marketing du
lịch, tổ chức các sự kiện du lịch trong khu vực, công tác đào tạo, quản lý nguồn lực
tự nhiên và văn hoá, phát triển du lịch sông Mêkông – Lan Thương, thuận lợi hoá
du lịch, du lịch dựa trên đơn vị làng, xã, và các xu hướng du lịch GMS. Tại Hội
thảo du lịch GMS lần thứ ba dược tổ chức vào tháng 6/2005, bản thảo Chiến lược
Phát triển Du lịch GMS đã được đưa ra thảo luận. Ngoài ra, trong khu vực GMS đã
và đang triển khai các chương trình phát triển du lịch vì người nghèo. Việc thông
qua qui định về visa thống nhất trong GMS vào tháng 1/2005 đã tạo thuận lợi rất
nhiều cho việc phát triển du lịch ở đây.
7. Về nông nghiệp:
Trong lĩnh vực nông nghiệp, Nhóm làm việc về Nông nghiệp thuộc Chương
trình GMS của ADB bắt đầu hoạt động từ năm 2001. Hiện tại, nhóm đang dự thảo
Khuôn khổ Chiến lược Phát triển Nông nghiệp GMS với 5 nhánh trọng điểm là
thuận lợi hoá thương mại nông nghiệp xuyên biên giới, tăng cường sự tham gia cả
tư nhân và chia sẻ thông tin, hợp tác đào tạo nguồn nhân lực để ứng dụng các công
nghệ nông nghiệp hiện đại, chương trình ứng phó với khủng hoảng nông nghiệp và
cải cách thể chế nông nghiệp. Bản dự thảo đã được đưa ra thảo luận tại cuộc họp lần
thứ 4 của nhóm làm việc vào tháng 12/2006.
Các lĩnh vực hợp tác GMS trên đây là cơ sở hợp tác và cũng là động lực thúc
đẩy cho việc phát triển các dịch vụ logistics của Việt Nam trong GMS.
III. TÌNH HÌNH HỢP TÁC VỀ LOGISTICS TRONG GMS
1. Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động hợp tác về logistics trong GMS
Giao thông vận tải nói chung và logistics nói riêng là một trong những lĩnh
23
vực được quan tâm đầu tiên trong chương trình hợp tác của GMS từ năm 1992. Vào
thời điểm đó, các quốc gia GMS hầu như vẫn đóng cửa và cơ sở hạ tầng của Tiểu
vùng này còn rất thấp kém. Do vậy, chương trình bắt đầu với việc mở cửa biên giới
quốc gia và tăng cường liên kết nhằm tạo thuận lợi cho thương mại, củng cố và thúc
đẩy cạnh tranh trong xu hướng toàn cầu hoá.
Năm 1995, GMS thông qua Kế hoạch Điều khiển Giao thông vận tải, xác
định ưu tiên là các dự án đường bộ nhằm tăng cường liên kết Tiểu vùng. Đây được
coi là một bước tiến quan trọng trong phát triển kinh tế khu vực, với việc cải thiện
hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông vận tải để giảm thiểu thời gian và chi phí đi lại.
Các quốc gia thuộc GMS đã dỡ bỏ chế độ tự cung tự cấp để hướng tới hợp tác Tiểu
vùng, nỗ lực tăng cường liên kết cơ sở hạ tầng trong GMS.
Sau khi đã xác định được ưu tiên chính trong hợp tác về giao thông vận tải là
mạng lưới giao thông đường bộ, năm 2003, các nước GMS đã tiến tới đàm phán ký
kết Hiệp định tạo thuận lợi vận tải người và hàng hoá qua lại biên giới hay Hiệp
định vận tải qua biên giới GMS (gọi tắt là Hiệp định CBTA). Hiệp định này bao
quát các vấn đề về tạo thuận lợi đối với các thủ tục qua lại biên giới, trao đổi thương
quyền vận tải, thiết lập quy chế vận tải quá cảnh và các tiêu chuẩn cũng như yêu cầu
đối với phương tiện vận tải đường bộ trong giao thông qua biên giới. Hiệp định
CBTA cùng với việc phát triển các hành lang giao thông vận tải đã góp phần quan
trọng cải thiện chi phí và thời gian chuyên chở hàng hoá trên khắp khu vực.
Cùng với Hiệp định CBTA, Chiến lược Vận tải GMS đã được thông qua tại
Diễn đàn Vận tải Tiểu khu vực (thuộc Chương trình GMS của ADB) lần thứ 10,
tháng 2/2006. Mục đích của Chiến lược này là nhằm đảm bảo đủ năng lực vận tải
phục vụ tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả vận tải để gia tăng khả năng cạnh
tranh của hàng hoá GMS. Theo đó, những vấn đề được quan tâm trong thời gian tới
là mở cửa thị trường dịch vụ vận tải, nâng cao hiệu quả kinh tế thông qua giảm chi
phí, hoàn tất việc xây dựng mạng lưới giao thông GMS và kết nối khu vực Nam Á,
tăng cường vận tải đa phương thức và đảm bảo tính thống nhất trong quy định hải
quan trong GMS. Trong số đó, trọng tâm được dành cho việc cải cách thể chế,
24
chính sách để phát huy lợi ích từ cơ sở hạ tầng cứng đã có, tăng cường các hoạt
động dịch vụ hỗ trợ, kết nối với khu vực Nam Á và tăng cường sự tham gia của khu
vực tư nhân.
2. Tình hình hợp tác về logistics trong GMS
2.1. Về cơ sở hạ tầng:
Do thương mại là một bánh xe tăng trưởng quan trọng và cơ sở hạ tầng là
yếu tố cần thiết cho thương mại, sự phát triển cơ sở hạ tầng đóng vai trò thiết yếu
đối với phát triển kinh tế. Điều này từ lâu đã được các nước GMS nhận thức rõ và
Cơ sở hạ tầng của Tiểu vùng Mêkông mở rộng, về cơ bản, là những cơ sở hạ
tầng có tính quốc gia và còn chưa được hiện đại hoá, dù đã được khai thông ra các cảng
biển và sân bay quốc tế.
nêu lên trong mục tiêu hợp tác của Tiểu vùng.
Bảng 2: Các chỉ tiêu về địa lý, dân cƣ và cơ sở hạ tầng trong GMS năm 2006
Mật độ dân số (/1km2)
Tỉ lệ dân sống ở nông thôn(%)
Độ dài đƣờng bộ (triệu km)
Độ dài đƣờng nhựa (triệu km)
Độ dài đƣờng sắt (triệu km)
Diện tích đất (triệu km2) 176,52 230,80 657,55 510,89 310,07 9.327,49
80,4 25,0 73,6 124,2 271,3 140,6
79,7 79,0 68,7 67,4 73,1 58,7
38,3 31,2 28,0 57,4 222,2 1.930,5
6,3 14,4 11,4 98,5 25,1 81,6
0,7 4,0 2,7 62,2
5,0
630,80
150,4
288,8
Campuchia Lào Myanma Thái Lan Việt Nam Trung Quốc Tỉnh Vân Nam và Quảng Châu (TQ)
Điều đáng lưu ý ở bảng trên là những nước nghèo như Campuchia, Lào và
Myanma đều có mạng lưới đường bộ rất hạn chế với dưới 15% là đường đã được trải
nhựa. Một số nước cũng có mật độ dân cư thấp nhưng nguồn lực lại hạn chế nên không
thể cung cấp đủ nhu cầu về giao thông vận tải cho dân cư sống ở vùng nông thôn. Việc
sử dụng đường sắt trong giao thông khu vực cũng còn rất khiêm tốn. Do đó, cơ hội để
mở rộng thương mại và đầu tư nước ngoài phụ thuộc chủ yếu vào việc cải thiện các yếu
tố tạo thuận lợi cho thương mại và các dịch vụ vận tải đường bộ.
25
Nguồn: Ngân hàng Thế giới 2008(b)
Bảng 3: Xếp hạng cơ sở hạ tầng Giao thông vận tải và thông tin liên lạc trong GMS
Xếp hạng giao thông và thông tin liên lạc
Sự sẵn có và chất lƣợng các dịch vụ vận tải
Sự sẵn có và việc sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông
Xếp hạng 105 36 41 75
Điểm số 2,48 4,15 3,93 3,08
Sự sẵn có và chất lƣợng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải Xếp hạng 98 36 29 100
Điểm số 2,81 4,42 4,62 2,81
Xếp hạng 101 17 30 48
Điểm số 2,94 5,10 4,47 3,89
Xếp hạng 112 55 64 71
Điểm số 1,69 2,92 2,70 2,54
5,84
4
5,66
14
5,18
4
5,96
6
Campuchia Trung Quốc Thái Lan Việt Nam Hồng Kông, Trung Quốc
Nguồn: Diễn đàn kinh tế thế giới 2008
Theo bảng 3, lĩnh vực được xếp hạng cao nhất là sự sẵn có và chất lượng của
các dịch vụ vận tải, cho thấy chiến lược vận tải của GMS đang có những tác động
tích cực.
Như vậy, từ khi được khởi xướng đến nay, hợp tác Tiểu vùng Mêkông mở
rộng đã góp phần cải thiện đáng kể kết cấu hạ tầng ở các nước thành viên, đặc biệt
là kết cấu hạ tầng giao thông vận tải. Thông qua các chương trình hợp tác, nhiều dự
án xây dựng các tuyến đường giao thông đã được thông qua và triển khai, trong đó
có những tuyến đường nối Việt Nam với các nước như: Dự án cải tạo đường Phnôm
Pênh – Thành phố Hồ Chí Minh; Dự án cải tạo tuyến đường sắt tỉnh Vân Nam
(Trung Quốc) – Việt Nam; Dự án tuyến đường sắt Thái Lan – Campuchia - Việt
Nam là một trong những đoạn kết nối của tuyến đường sắt Xuyên Á; Dự án đường
giao thông đường bộ tuyến Băng Cốc (Thái Lan) – Phnôm Pênh (Campuchia) –
Thành phố Hồ Chí Minh (Việt Nam); tuyến hành lang Đông – Tây: Thái Lan – Lào
- Việt Nam (thuộc khu vực Lao Bảo – Đông Hà – Đà Nẵng)…
Trên cơ sở sáng kiến của ADB, để tạo ra cơ chế hợp tác theo phương thức
tập trung nguồn lực và phát huy hiệu quả tổng hợp, xuất phát từ phát triển hạ tầng
cơ sở để làm tiền đề phát triển các lĩnh vực khác, Hành lang kinh tế đã trở thành
khái niệm trong tiếp cận phát triển của GMS [25]. Điều này có nghĩa là sự hình
thành các tuyến giao thông sẽ đồng thời là việc hình thành các tuyến phát triển kinh
26
tế thương mại đầu tư. Nhiều chương trình về các hành lang kinh tế của Tiểu vùng
GMS đã được thực hiện với mục đích chính là thúc đẩy hiệu quả của đầu tư trực
tiếp và tạo thuận lợi cho sản xuất thông qua việc xác định các hành lang cho phát
triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải. Cách tiếp cận hành lang kinh tế này được coi
là chiến lược cơ bản để đẩy nhanh tốc độ hợp tác của Tiểu vùng và giúp nhận thức
được các tiềm năng của khu vực. Ba hành lang kinh tế được xác định là lá cờ đầu
cho chương trình này là: Hành lang kinh tế Bắc – Nam (NSEC); Hành lang kinh tế
Đông – Tây (EWEC); và Hành lang kinh tế phía Nam (SEC). Năm 2007, các bộ
trưởng GMS đã thống nhất mở rộng chương trình này lên tổng số chín hành lang
kinh tế.
Bản đồ 2: 9 hành lang kinh tế trong GMS
27
Nguồn: Ngân hàng thế giới
Trong đó, việc hoàn tất hành lang kinh tế Bắc – Nam sẽ giúp tiết kiệm đáng
kể thời gian cũng như chi phí vận tải. Chi phí vận tải sẽ có thể giảm từ 17 đến 60%.
Thời gian ước tính sẽ được tiết kiệm trung bình là 40% [29]. Tuy nhiên, mặc dù
hành lang kinh tế Bắc – Nam có những tác động tích cực như vậy, nhưng thể chế
pháp lý còn yếu kém vẫn có thể gây ra sự bất ổn cho các chủ hàng và người chuyên
chở. Một nghiên cứu đã cho rằng với việc tạo điều kiện thuận lợi cho vận tải biên
giới, hành lang kinh tế Bắc – Nam sẽ tiến tới trở thành một hành lang logistics thực
sự.
Bảng 4: Dự kiến những thay đổi trên Hành lang kinh tế Bắc – Nam
Đô-la
Thời gian
Mỹ/Tấn % thay đổi
chuyển tải (giờ) % thay đổi
Băng Cốc – Côn Minh R3W (qua Myanma) 2000 2006 2015
R3E (qua Lào)
2000 2006 2015 Qua sông Mêkông 2000 2006 2015
Hải Phòng – Côn Minh
639 470 269 563 392 210 406 271 107 105 87 43
77 46 30 78 51 30 128 88 70 85 58 26,5
40,3 34,8 34,6 41,2 31,7 24,5 32,0 54,3
26,5 42,8 30,4 46,4 33,3 60,5 17,0 50,5
2000 2006 2015
Nguồn: Ruth Banomyong – Logistics development study of the GMS –
North – South Economic Corridor 2007
Cũng như vậy, hành lang kinh tế Đông – Tây mang đến lợi ích tức thì là cải
thiện mối liên kết và mức độ hội nhập giữa các nước láng giềng – Thái Lan, Lào,
Việt Nam - với nhau, từ đó làm giảm thời gian và chi phí vận chuyển. Trong suốt 5
28
năm (2000 – 2005), mức độ tăng trưởng trong ngành giao thông vận tải vẫn được
duy trì với số lượng hành khách đi bằng phương tiện xe buýt dọc hành lang tăng
160% và số lượng nhà cung cấp dịch vụ vận tải tăng gấp đôi.
Sau khi cây cầu Mêkông thứ hai được khánh thành vào cuối năm 2006,
lượng khách du lịch trong hai tháng đầu năm 2007 đã tăng 8% so với cùng kỳ năm
2006. Với việc nâng cấp Đường 9 (cũng là một phần của hành lang Đông – Tây),
tỉnh Savannakhet của Lào đã có lượng khách du lịch lên tới 222.063 người, tăng
gần 145% so với năm 1999. Hơn một nửa lượng khách này là từ Thái Lan, Lào và
Việt Nam [29].
Hiệp định CBTA nếu được triển khai đầy đủ sẽ mang lại cho hệ thống giao
thông vận tải của GMS những tuyến đường thuộc loại tốt nhất khu vực Châu Á và
chi phí cũng sẽ được cắt giảm từ 40-50% cho cả hai hành lang. Thời gian cũng sẽ
được tiết kiệm tương ứng từ 43-63%.
Tuy nhiên, trong khi cơ sở hạ tầng trên các tuyến giao thông liên quốc gia
trong khu vực GMS không ngừng được cải thiện, việc mở rộng, cải tạo, nâng cấp
mạng lưới giao thông trong phạm vi mỗi nước lại chưa được tốt. Có nhiều nguyên
nhân khác nhau dẫn đến tình trang này nhưng chủ yếu là do hạn chế về vốn, kỹ
thuật thi công cũng như nguồn nhân lực, hoặc chưa nhận được sự quan tâm thích
đáng từ phía chính phủ.
2.2. Về thể chế chính sách:
Những thành tựu đáng kể mà Tiểu vùng đã đạt được một phần lớn là nhờ
môi trường thương mại và đầu tư trong tất cả các nước thuộc GMS đang dần được
cải thiện. Mỗi nước thành viên đều đã đề ra những chính sách và biện pháp khác
nhau phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội trong khu vực cũng như trên thế giới và
các mục tiêu kinh tế chiến lược trong nước, nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế khu vực,
tiêu biểu là Thái Lan và Trung Quốc.
Để khai thác những nguồn lợi tiềm tàng mà hành lang kinh tế Đông – Tây
(EWEC) mang lại, chính phủ Thái Lan đã đề ra chính sách hợp tác với các nước
láng giềng thông qua việc thành lập các tam giác tăng trưởng, tạo thành mạng lưới
hợp tác sản xuất và trao đổi trong khu vực GMS. Từ năm 2003, chính phủ Thái Lan
29
còn coi các tỉnh biên giới là các khu vực kinh tế biên giới và do đó, được quan tâm
trong việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, hệ thống kho bãi, các điểm du lịch và
chính sách đầu tư. Sự phát triển của tỉnh Mae Sot và Mukdahan là các khu vực biên
giới với Myanma và Lào là những ví dụ minh chứng từ thực tế. Thái Lan cũng là
nước đã chủ trương ký kết các Kế hoạch Hàng động về Hợp tác Kinh tế với các
nước láng giềng dựa trên các hướng hợp tác trong GMS và năng lực cũng như điều
kiện sản xuất của các nước. Đến nay, nước này đã ký Kế hoạch hành động với
Campuchia, đang soạn thảo kế hoạch với Việt Nam, Lào và Trung Quốc. Ngoài ra,
cùng với Việt Nam, Thái Lan là nước đã có văn bản pháp lý điều chỉnh vận tải đa
phương thức dựa trên Hiệp định CBTA và Hiệp định khung ASEAN về vận tải đa
phương thức – đó là Luật về Vận tải đa phương thức của Thái Lan tháng 7/2005.
Đối với Trung Quốc, sự quan tâm đến hợp tác GMS được bắt nguồn từ chiến
lược “Đại Tây Nam” và các hoạt động gia tăng liên kết kinh tế khu vực thông qua
Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA). Cầu nối của GMS giữa
miền Tây Trung Quốc và thị trường ASEAN rộng lớn đã thu hút được sự quan tâm
của các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Và sự quan tâm này ngày càng được thể hiện tích
cực hơn với mục tiêu tổng thể là nối liền tuyến đường bộ giữa Tây Nam Trung
Quốc với bán đảo Đông Nam, thực hiện việc qua lại trực tiếp giữa Tây Nam Trung
Quốc với thị trường ASEAN, phát triển hợp tác kỹ thuật dưới nhiều hình thức khác
nhau, chú trọng thực hiện phát triển bền vững nhằm tăng việc làm, tăng thu nhập và
giảm đói nghèo. Trung Quốc đã đề ra nhiều giải pháp khác nhau để thực hiện mục
tiêu tổng thể này, trong đó đặc biệt nhấn mạnh việc thực hiện các dự án chung nhằm
thành lập các khu vực mậu dịch tự do, phát triển các hành lang kinh tế và nâng cao
hiệu quả khai thác chúng và hợp tác phát triển nguồn nhân lực.
Mặc dù mỗi quốc gia đều đã có hệ thống thể chế pháp luật dành cho vận tải
và thương mại như vậy nhưng việc thực thi hiện chưa đồng bộ và còn thiếu những
cải cách thật sự thiết thực và hiệu quả để tạo thuận lợi cho thương mại. Trên cơ sở
dữ liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), có thể thấy, chi phí cho thương mại ở các
nước GMS thấp hơn tương đối so với mức bình quân của OECD nhưng thời gian để
30
xuất - nhập khẩu lại cao hơn gấp nhiều lần.
Bảng 5: Những số liệu thống kê chủ yếu về thƣơng mại biên giới trong GMS
Quốc gia/ khu vực
Thời gian để NK
Số thủ tục giấy tờ XK 11 9 7 6 7
Thời gian để XK (ngày) 37 50 17 24 21
Chi phí xuất khẩu (USD/ container) 722 1750 615 669 390
Số thủ tục giấy tờ để NK 11 10 9 8 6
Chi phí NK (USD/ container) 852 1930 786 881 430
46 50 14 23 24
10
5
10
905
5
986
Campuchia Lào Thái Lan Việt Nam Trung Quốc Mức bình quân của OECD
Nguồn: Ngân hàng thế giới 2008(a)
Trong số những nguyên nhân dẫn đến sự chậm trễ về thời gian này, thời gian
chuẩn bị thủ tục giấy tờ là nguyên nhân lớn nhất: phải mất tới 33 ngày để chuẩn bị
thủ tục xuất khẩu hàng hoá từ Lào, 9 ngày từ Thái Lan và 14 ngày từ Trung Quốc.
Vận tải trong nội địa và thông quan cũng là một lí do quan trọng. Nghiên cứu của
Shepherd và Wilson (2008) đã chỉ ra rằng các nước thuộc GMS nói chung còn cần
phải cải thiện các yếu tố xúc tiền thương mại rất nhiều, đặc biệt là cơ sở hạ tầng
giao thông vận tải và công nghệ thông tin, những vấn đề ảnh hưởng lớn đến việc
chuẩn bị giấy tờ và vận tải nội địa.
Bảng 6: Thời gian làm thủ tục Xuất - Nhập khẩu trong GMS
Campuchia
Lào
Thái Lan Việt Nam Trung Quốc
Đơn vị: ngày Các nƣớc
thu nhập cao OECD*
Xuất khẩu
12
14
29
33
9
Chuẩn bị giấy tờ
5
2
1,9
3
3
1
Thông quan
3
2
1,1
3
4
4
Chờ tại cảng
4
3
2,1
2
10
3
Vận tải nội địa
24
21
37
50
17
Tổng cộng
12
7
5,1
8
17
8
Tổng (chƣa tinh
thời gian chuẩn
bị thủ tục)
31
Nhập khẩu
34
33
8
12
15
Chuẩn bị giấy tờ
3
8
2
5
4
1,4
Thông quan
5
2
2
4
2
2,5
Chờ tại cảng
4
7
2
2
3
1,6
Vận tải nội địa
46
50
14
23
24
Tổng cộng
12
17
6
11
9
5,5
Tổng (chƣa tính
thời gian chuẩn
bị thủ tục)
*: Mức bình quân của các nước có thu nhập cao/OECD. Nguồn: Ngân hàng thế giới 2008(a)
2.3. Về người cung cấp dịch vụ:
GMS nằm ở trung tâm của Châu Á. Do đó, GMS có lợi thế về khả năng liên
kết với các khu vực khác như Đông Á, Nam Á, Australia cũng như Trung Quốc và
Ấn Độ - thị trường lớn nhất và nhì thế giới với tổng cộng hơn 2 tỷ dân. Lợi thế này
đã mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp và các nhà cung cấp dịch vụ liên quan đến
logistics giữa GMS và các khu vực khác.
Ngành logistics ở các nước GMS đã và đang nỗ lực đáp ứng nhu cầu ngày
càng gia tăng về cả khối lượng và chất lượng dịch vụ. Tuy nhiên, quy mô chính xác
của ngành dịch vụ này trong khu vực còn rất khó nắm bắt do hầu hết các nước vẫn
chưa có một định nghĩa nào thực sự rõ ràng về logistics hay chưa công nhận những
nhà cung cấp dịch vụ logistics về mặt pháp lý. Trong phần lớn các nghiên cứu về
khu vực, các công ty giao nhận - vận tải vẫn được coi là đại diện cho ngành dịch vụ
này.
Bảng 7: Tình hình chung các nhà cung cấp dịch vụ ở từng nƣớc
thành viên GMS
Quốc gia Nhà cung cấp dịch vụ
- Hiện có 70 công ty đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận Campuchia
nhưng chỉ khoảng 50 công ty còn hoạt động và 10 công ty cung
32
cấp dịch vụ với đối tác nước ngoài.
- Hiệp hội Giao nhận - Vận tải Campuchia có 14 thành viên
thường trực, nhưng chỉ rất ít trong số này là các nhà giao nhận -
vận tải, còn lại là những công ty hoạt động trong những lĩnh
vực liên quan.
- Công ty giao nhận lớn nhất Campuchia điều hành một
cảng thông quan nội địa của riêng mình và cung cấp dịch vụ từ
cửa đến cửa với tư cách là đại lý của các công ty đa quốc gia.
Ngoài ra cũng có 2 doanh nghiệp nhà nước cung cấp dịch vụ
tương tự và 2 đối thủ cạnh tranh tư nhân có qui mô nhỏ hơn.
- Năm 2006, cả nước có 147 công ty vận tải và 17 công ty Lào
tàu thủy. Chi phí vận tải nội địa còn khá cao tương quan với các
quốc gia khác trong khu vực.
- Hầu hết các nhà giao nhận vận tải ở Lào đều có qui mô
nhỏ. Hiệp hội Giao nhận - Vận tải của Lào cũng chỉ có 10 thành
viên, 3 trong số đó cung cấp dịch vụ quốc tế nhưng cũng chỉ
thông qua việc hợp tác với các công ty đa quốc gia khác. Có thể
nói, các công ty Lào chỉ cung cấp dịch vụ logistics nội địa.
Hiệp hội Giao nhận - Vận tải Myanma có 50 công ty thành viên Myanma
nhưng rất nhiều công ty trong số đó là các nhà giao nhận không
chính thức.
Hiệp hội các nhà cung cấp dịch vụ logistics Thái Lan hiện là Thái Lan
một tổ chức khá lớn mạnh. Chỉ tính số thành viên của Hiệp hội
Giao nhận và kho vận Quốc tế của Thái Lan đã có hơn 400
công ty. Tuy nhiên, 70% nhà cung cấp là các doanh nghiệp địa
phương, phần lớn trong số họ lại là nhà cung cấp dịch vụ chân
rết. Nhiều công ty còn thiếu thông tin và công nghệ truyền
thông…
- Tính đến tháng 06/2008, toàn Trung Quốc có khoảng Tỉnh Vân
33
18.000 công ty cung cấp dịch vụ logistics. Nam và
- Hiện tại, 11 hãng vận tải hành khách và hàng hoá quốc tế Quảng Tây
được thành lập dọc biên giới giữa Vân Nam và Việt Nam, Lào (Trung Quốc)
và Myanma. Chặng vận tải hành khách giữa Vân Nam và Viên
Chăn (Lào) đã được đưa vào khai thác sử dụng.
- Tỉnh Quảng Châu cũng đã cấp phép cho 22 hãng vận tải
khai thác tuyến đường Quảng Châu - Việt Nam, trong đó 10
công ty đã đi vào hoạt động.
- Ngành dịch vụ logistics vẫn nhận được sự bảo hộ của Việt Nam
Chính phủ nhằm ngăn cản các công ty nước ngoài thâm nhập
thị trường trong nước.
- Ở Việt Nam, ước tính có khoảng 800-900 nhà giao nhận -
vận tải. Tuy nhiên, chỉ có 97 công ty tương đối lớn và đều là
thành viên của Hiệp hội Giao nhận – Kho vận Việt Nam. Rất
nhiều công ty giao nhận ở đây có quy mô nhỏ, thậm chí chỉ có
từ 2-3 nhân viên trong một công ty.
Nguồn: ASEAN Logistics development study (2007)
Những nhà cung cấp dịch vụ trên các quốc gia thuộc GMS đang phát triển
một cách nhanh chóng và giữ vai trò hỗ trợ rất quan trọng cho khu vực sản xuất.
Tuy nhiên, phần lớn trong số họ là các công ty nhỏ và khó có thể cạnh tranh nổi với
các tập đoàn xuyên quốc gia trong lĩnh vực này. Ngày càng có thêm nhiều yêu cầu
về sự cần thiết phải phát triển nguồn nhân lực tại địa phương vì đó là yếu tố duy
nhất có thể đem lại thắng lợi cho các nhà cung cấp dịch vụ logistics trong sự cạnh
tranh khắc nghiệt tại khu vực này.
2.4. Về người sử dụng dịch vụ:
Bảng 8: Tình hình sử dụng dịch vụ logistics ở từng nƣớc thành viên GMS
Quốc gia Ngƣời sử dụng dịch vụ
Phần lớn các công ty ở Campuchia đều chưa quan tâm tới việc Campuchia
thuê ngoài dịch vụ Logistics, một phần cũng là do các công ty
34
cung cấp dịch vụ ở đây còn chưa lớn mạnh và việc cung cấp
dịch vụ còn rất hạn chế.
Rất nhiều thương gia còn bảo thủ trong thực tiễn kinh doanh và Lào
không hề muốn thay đổi cách thức tổ chức hoạt động chuyên
chở và giao nhận của mình. Việc thuê ngoài các công ty cung
cấp dịch vụ logistics hiện mới chỉ mang tính chất thử nghiệm.
Hoạt động logistics đang trong giai đoạn mới phát triển. Nhiều Myanma
doanh nghiệp chưa có khái niệm về logistics.
Việc sử dụng các nguồn lực bên ngoài trong hoạt động logistics Thái Lan
đang ngày càng phổ biến. Vai trò của các nhà cung cấp cũng
ngày càng được nâng cao.
Chi tiêu cho logisitics của Trung Quốc đã chiếm tới 19%GDP Trung Quốc
(năm 2007). Do đó, nhu cầu về dịch vụ logistics ở đây là rất lớn.
Giá trị thị trường logistics Trung Quốc năm 2007 vào khoảng
470 tỷ USD. Tuy nhiên, nhận thức của các công ty về việc thuê
ngoài dịch vụ logistics còn rất hạn chế. Thị trường cung cấp
dịch vụ logistics thông qua hợp đồng 3PL chỉ chiếm 5%.
- Rất nhiều công ty không hề có khái niệm và cũng không Việt Nam
quan tâm đến tầm quan trọng của hoạt động logistics. Không
nhiều trong số các công ty quan tâm đến việc thuê các nguồn
lực bên ngoài trong lĩnh vực này.
- Các ngành hàng có thuê ngoài vẫn chủ yếu là ngành hàng
tiêu dùng đóng gói, ngành hàng điện tử tiêu dùng, và ngành
thủy sản.
- Các hoạt động logistics truyền thống như vận tải, kho
bãi, khai hải quan và giao nhận vẫn được thuê ngoài nhiều nhất.
- Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn chưa có nhiều ý
thức trong việc đầu tư vào quản lý hiệu quả chuỗi cung ứng.
điều này thấy rõ ở chỗ các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết
35
không có phòng quản lý logisitics hoặc chuỗi cung ứng. Mà
phòng này thường được hiểu là phòng kinh doanh xuất nhập
khẩu. Điều này tạo ra rào cản đối với các doanh nghiệp
logisitics Việt Nam trong việc chào các dịch vụ logisitics giá trị
gia tăng.
Nguồn: Tổng hợp từ nhiều bài viết trên tạp chí “Shipping Times” [8], [34].
Việc sử dụng các nguồn lực bên ngoài cũng như tình hình ứng dụng công
nghệ thông tin vào hoạt động logistics được phát triển tốt ở Thái Lan, trong khi đó
các quốc gia còn lại thì tương đối hạn chế. Đặc biệt, các doanh nghiệp Lào hiện còn
đang “quay lưng” với hoạt động này và họ sẽ mất một thời gian dài nữa để theo kịp
với những doanh nghiệp tại các quốc gia lân cận. Thực tiễn ứng dụng logistics hiện
đại tại các doanh nghiệp/người sử dụng Việt Nam cũng chưa được hoàn thiện nhiều.
Điều này sẽ làm chậm sự phát triển của hoạt động logistics trong Tiểu vùng.
Nhận xét chung:
Sau hơn 16 năm thực hiện hợp tác, với sự nỗ lực của từng nước thành viên
và sự hỗ trợ tích cực của ASEAN, ADB và các đối tác bên ngoài, GMS đã đạt được
nhiều tiến bộ trong quá trình hợp tác. Nhờ lựa chọn các hạng mục đầu tư hợp tác có
trọng điểm, tập trung nguồn lực và phù hợp tác với các giai đoạn triển khai, cho đến
nay, hơn 100 hạng mục hợp tác đầu tư đã tiếp cận được hết các vấn đề thiết thực
nhất của Tiểu vùng: phát triển cơ sở hạ tầng, cải cách thể chế và nâng cao năng lực
quản lý sự phát triển… Nhờ vậy, nó đã góp phần đáng kể tạo thuận lợi cho hoạt
động logistics của GMS phát triển. Đồng thời, GMS cũng tiếp tục nhận được mối
quan tâm đặc biệt và là thực thể luôn được tính đến trong điều chỉnh chiến lược phát
triển của các nước phát triển và các nước lớn.
Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, quá trình thực hiện các dự án liên
kết cụ thể gặp rất nhiều khó khăn và tiến độ triển khai chậm chạp. Mặc dù Chương
trình hợp tác GMS đã đi vào hoạt động được nhiều năm, mục tiêu hợp tác rất rõ
ràng và các chương trình, dự án đưa ra là hết sức tham vọng, nhưng kết quả của sự
hợp tác kinh tế thông qua việc thực hiện các dự án thuộc chương trình này còn
36
khiêm tốn, chưa đáp ứng được kỳ vọng của các nước thành viên.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG LOGISTICS
CỦA VIỆT NAM TRONG HỢP TÁC TIỂU VÙNG
MÊKÔNG MỞ RỘNG (GMS)
I. TỔNG QUAN THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG LOGISTICS CỦA VIỆT
NAM
Sau khi Việt Nam hoàn toàn thống nhất, đặc biệt là từ năm 1986, chính sách
mở cửa đã thổi một luồng sinh khí mới cho hoạt động kinh tế thương mại của đất
nước với những thay đổi lớn của nền kinh tế nước nhà. Một loạt các sự kiện và hoạt
động kinh tế quan trọng liên tiếp diễn ra, trong đó phải kể đến việc Việt Nam tham
gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và trên thế giới. Năm 1995, Mỹ chính thức bãi
bỏ cấm vận đối với Việt Nam; chúng ta chính thức trở thành thành viên của
ASEAN, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN – AFTA. Năm 1998, tham
gia diễn đàn kinh tế Châu Á Thái Bình Dương – APEC; cùng thời gian này, Việt
Nam nộp đơn tham gia Tổ chức thương mại thế giới – WTO. Tới cuối năm 2006,
Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Môi trường kinh tế
mới, quan hệ thương mại hợp tác quốc tế mở rộng khiến cho hoạt động của các
ngành kinh tế đều trở nên sôi động, đặc biệt là sự nhộn nhịp chưa từng có của
thương mại và buôn bán quốc tế. Điều này là tiền đề quan trọng để cho logistics
xuất hiện và phát triển tại Việt Nam như một yêu cầu tất yếu của sự phát triển trong
15 năm trở lại đây. Như đa số các quốc gia đang phát triển khác, mô hình logistics ở
Việt Nam mới đang ở những bước phát triển đầu tiên.
Tương ứng với sự phát triển kinh tế thương mại, nhu cầu vận tải trong nước
và quốc tế cũng như các ngành vận tải đều có sự phát triển. Tất cả các ngành vận tải
đều có xu hướng tăng qua các năm, trong đó, ngành vận tải đường biển nhìn chung
có tốc độ tăng cao hơn các ngành vận tải khác do nhu cầu của vận tải quốc tế tăng
cao hơn vận tải trong nước. Tiếp đó là ngành vận tải đường sắt, tuy có tốc độ tăng
cũng rất nhanh nhưng hiện còn chiếm tỉ trọng rất nhỏ trong toàn bộ ngành vận tải
37
chuyên chở.
Bảng 9: Khối lƣợng hàng hoá vận chuyển phân theo ngành vận tải
Đường sắt
Đường bộ
Đường sông
Đường biển
Chỉ số
Chỉ số
Chỉ số
Chỉ số
Năm
Khối
Khối
Khối
Khối
phát
phát
phát
phát
lượng
lượng
lượng
lượng
triển
triển
triển
triển
2000
6.258
121,6
141.139
106,8
43.015
107,8
15.552
119,6
2001
6.456
103,2
151.483
107,3
48.488
112,7
16.815
108,1
2002
7.051
109,2
160.816
106,2
49.913
102,9
20.612
122,6
2003
8.203
116,3
174.239
108,3
51.238
102,7
21.704
105,3
2004
9.030
110
183.996
105,6
53.646
104,7
23.527
108,4
2005
10.447
115,7
198.164
107,7
56.811
105,9
27.220
115,7
2006
11.282
108
211.044
106,5
62.492
110
30.977
113,8
2007
12.693
112,5
227.717
107,9
67.804
108,5
37.203
120,1
(Đơn vị khối lượng: 1000 tấn; đơn vị chỉ số phát triển: %)
Nguồn: Niên giám thống kê 2007
Tuy nhiên, xét về tỷ trọng các phương thức vận tải hàng hoá, thì vận tải
đường bộ vẫn chiếm ưu thế hơn hẳn, tiếp đến là đường thuỷ nội bộ, đường biển,
đường sắt và cuối cùng mới đến đường hàng không.
Bảng 10: Thị phần các phƣơng thức vận tại hàng hoá ở Việt Nam
Đơn vị: %
Năm
2004
2005
2006
2007
2008
68,45
65,25
65,92
68,6
72
Đƣờng bộ
3,33
2,73
2,63
2,4
1,4
Đƣờng sắt
21,57
21,19
18,93
20,28
18,14
Đƣờng thuỷ nội địa
7,91
10,42
10,23
10,04
8,44
Đƣờng biển
0,03
0,03
0,03
0,03
0,02
Đƣờng hàng không
100
100
100
100
100
Tổng
Nguồn: Tổng cục thống kê 2008
Để đáp ứng với lượng hàng hoá xuất nhập khẩu đang ngày một tăng lên,
những năm gần đây, thị trường vận tải giao nhận sôi động hẳn lên. Hàng loạt các
38
doanh nghiệp đăng ký kinh doanh dịch vụ vận tải giao nhận ra đời và hoạt động, số
doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực này đã đạt khoảng 1000 vào cuối năm 2008.
Hầu hết các doanh nghiệp giao nhận vận tải ở Việt Nam hiện nay không chỉ làm
giao nhận và vận tải thông thường mà còn làm cả các công việc về lưu kho, dán
nhãn hiệu, đóng gói bao bì và thủ tục hải quan… Và để có thể hoạt động trong
những lĩnh vực rộng hơn cũng như tránh phiền hà về thủ tục hành chính, rất nhiều
doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh dưới hình thức cung cấp dịch vụ logistics. Có
những hãng kinh doanh tàu biển đã nối thêm các chặng vận tải đường bộ vào chặng
vận tải biển của mình. Có những công ty giao nhận đứng ra thực hiện dịch vụ
logistics bằng cách kết hợp giữa khả năng lưu kho, bãi, vận tải đường bộ của mình
với các dịch vụ vận tải đường biển, đường hàng không của các tổ chức vận tải khác.
Các công ty ở Việt Nam kinh doanh dịch vụ logistics lớn nhất hiện nay là các công
ty của nước ngoài như APL Logistics, Maersk Logistics, NYK Logistics, Schenker,
Birkart, BJ, Errmey, Sunil Mezario, Hapag Lloyd, Zim, TWT, Sun Epress… Ngoài
ra còn có các công ty của Việt Nam như Vietrans, Vinatrans, Vietranstimex, công ty
TNHH giao nhận và kho vận Thăng Long – Dragon Logistics…
1. Kết cấu hạ tầng logistics của Việt Nam
Trong 20 năm qua, đất nước ta đã thay da đổi thịt. Nhiều công trình mới đã
được xây dựng. Hệ thống giao thông đường bộ, cảng biển... đã được nâng cấp.
Về hệ thống cảng và tàu biển
Vận tải đường biển là phương thức vận tải quan trọng nhất trong buôn bán
xuất nhập khẩu. Với đường bờ biển dài 3260km, Việt Nam có nhiều tiềm năng để
phát triển ngành này.
Bảng 11: Cơ sở hạ tầng đƣờng biển của Việt Nam
3.260 km Đƣờng bờ biển
126 cảng biển, nhưng chỉ có 20 cảng quốc tế Cảng biển
1.413 tàu đi biển với tổng trọng tải là 5.934.400 DWT Đội tàu biển (của Nhà
nƣớc và tƣ nhân)
30 tàu chở container với tổng trọng tải 230.230 DWT Tàu chở container
39
Nguồn: Vinamarine, Vinalines, tháng 12/2008
Hầu hết các cảng biển ở Việt Nam được xây dựng từ trước năm 1939 và đã
bị tàn phá nhiều trong chiến tranh. Thiết kế lạc hậu, không đủ độ sâu cho các tàu
biển lớn và hiện đại. Hệ thống kho bãi chật hẹp, không đáp ứng được nhu cầu chứa
hàng hoá và container. Hiện tại, chỉ có rất ít cảng biển được trang bị hiện đại và đủ
điều kiện vật chất để tiếp nhận các tàu lớn và tàu container. Việt Nam cũng chưa có
cảng trung chuyển nước sâu. Tàu biển lớn nhất có thể vào Việt Nam là khoảng
30.000 DWT. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều cảng biển với các trang thiết bị hiện
đại, đặc biệt là phục vụ cho container, sẽ được đưa vào vận hành trong thời gian tới
(cảng Cái Mép - Thị Vải sẽ được hoạt động vào quý 2/2009) [28].
Một trong những nhược điểm lớn nhất của các cảng biển ở Việt Nam là khả
năng liên kết rất kém, cản trở quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, khối
lượng hàng hoá chuyên chở hàng năm qua các cảng biển ở Việt Nam đang tăng lên.
Năng suất xếp dỡ trung bình hàng năm của các cảng quốc gia là 2.500 MT/cầu
cảng, của cảng Sài Gòn là 3.500 MT và các cảng địa phương là 1.000 MT.
Số lượng tàu biển của Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng kể từ năm 1990
nhưng trong số 1.413 tàu chỉ có 30 tàu container nhỏ với tổng trọng tải là 8.826
TEU [28]. Yếu kém này đã tạo điều kiện cho 200 hãng tàu biển nước ngoài vào
kinh doanh tàu biển và các dịch vụ container trực tiếp hay gián tiếp tại Việt Nam.
Các công ty này thường sử dụng các tàu lai dắt nhỏ để chở container từ Việt Nam
đến các cảng trung chuyển lân cận như Singapore, Hồng Kông hoặc Kaohsiung
trước khi chuyên chở đến khắp mọi nơi trên thế giới bằng những tàu container lớn
hơn. Các công ty giao nhận Việt Nam cũng đã biết tận dụng dịch vụ container này
của các hãng tàu lớn nước ngoài.
Về vận tải đường thuỷ nội địa
Với chiều dài 40.998 km đường sông và các kênh rạch chủ yếu ở vùng Đồng
bằng sông Hồng ở miền Bắc và sông Mêkông ở miền Nam, vận tải đường thuỷ nội
địa đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc chuyên chở hàng hoá ở các vùng này.
Cả nước có tất cả 109 cảng sông với 3.111 bến tàu thuyền và rất nhiều trong số đó
có khả năng tiếp nhận cả container. Trong những năm gần đây, vận tải đường thuỷ
40
đã tăng trưởng với tốc độ trung bình là 8-9%/năm [28].
Do đi lại bằng đường bộ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là ở các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long, hàng hoá chuyên chở bằng container và các mặt hàng xuất
nhập khẩu khác thường sử dụng phương thức vận tải đường thuỷ nội địa. Thương
mại qua biên giới với Campuchia là một ví dụ.
Những tuyến đường chính nối liền các cảng biển với đất liền hiện đã được
lên kế hoạch, bao gồm: Hải Phòng – Hà Nội, Nam Định - Việt Trì, Sài Gòn - Rạch
Giá, Hà Tiên, Sài Gòn - Cần Thơ – Cà Mau. Tương tự, vận tải đường biển, năng lực
chuyên chở của vận tải đường sông cũng khá cao và chi phí cho phương thức này
cũng thấp một cách tương đối. Tận dụng lợi thế của địa hình với mạng lưới sông
suối dày đặc và trải dài từ đất liền ra biển, Việt Nam đã phát triển mạng lưới cảng
sông và khai thác các cửa sông có khả năng lưu thông cao. Tuy nhiên, hệ thống các
sông ở phía Nam, lưu vực sông Mêkông, vẫn chưa được khai thác hết công suất.
Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do các sông ở đây không được
nạo vét thường xuyên, chỉ khoảng 40% lượng phù sa được nạo vét hàng năm.
Về cơ sở hạ tầng đường bộ
Theo thống kê năm 2004, mạng lưới đường bộ ở Việt Nam dài 222.179 km
và có thể được phân loại như sau:
Đường quốc lộ
17.295 km
Đường thuộc cấp tỉnh
21.762 km
Đường ở ngoại ô
6.654 km
Đường thuộc cấp quận
45.013 km
Đường thuộc cấp làng, xã
131.455 km
Tổng cộng
222.179 km
Bảng 12: Hạ tầng đƣờng bộ của Việt Nam
Nguồn: Cục đường bộ Việt Nam (VRA)
Giao thông đường bộ chuyên chở tới 65% khối lượng hàng hoá vận chuyển
trong nước ở Việt Nam. Nói chung, chất lượng đường xá còn rất thấp, hạn chế chất
lượng dịch vụ giao nhận. Tình trạng tắc nghẽn ở các thành phố lớn, cầu yếu, đường
xấu, đường hẹp đang ảnh hưởng đến việc chuyên chở hàng hoá bằng đường bộ, dặc
41
biệt đối với chuyên chở bằng container.
Về cơ sở hạ tầng đường sắt
Tổng chiều dài đường sắt nước ta là 2.600km và bao gồm nhiều tuyến đường
khác nhau với 5% là các tuyến đường có khổ đường ray là 1,435 m, 85% có khổ
đường ray 1,00 m và 10% sử dụng khổ hỗn hợp.
Hầu hết các tuyến đường đều dưới mức tiêu chuẩn: 44% không đạt tiêu
chuẩn kĩ thuật, 25% cần được thay tà vẹt, và rất nhiều cầu yếu hạn chế tốc độ của
tàu. Tốc độ trung bình của tàu chở hàng là 33km/h. 430 đầu máy xe lửa (chiếm 60%
tổng số đầu máy ở Việt Nam) có độ tuổi trung bình là 18 năm. Trong đó, 236 đầu
máy dùng động cơ diesel, 101 dùng động cơ điện và 61 đầu máy dùng động cơ hơi
nước [28].
Hạ tầng cơ bản đường sắt nước ta vẫn còn chắp vá và yếu kém. Mạng lưới
đường sắt vẫn còn được sử dụng chủ yếu cho chuyên chở hành khách và hàng hoá
nội địa. Hiện vẫn chưa có một hệ thống đường sắt để chuyên chở riêng hàng hoá.
Chưa có tàu nào có thể kéo các toa nặng đến 80 tấn hoặc kéo được 50 toa hoặc được
vận hành bằng hệ thống điện.
Các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam vẫn không mấy mặn mà với hoạt động
vận chuyển container bằng đường sắt do hiệu quả kinh tế không cao và lại tốn thời
gian. Toàn ngành chỉ có gần 500 xe lửa chuyên dụng để chở container trong tổng số
5000 xe, và cũng chỉ có một vài ga xe lửa có cần cẩu xếp dỡ container. Chuyên chở
container bằng đường sắt chủ yếu diễn ra trên 2 tuyến đường: Hải Phòng – Yên
Viên - Việt Trì – Lào Cai và tuyến đường sắt Bắc – Nam. Hiện tại, nhu cầu chuyên
chở trên tuyến Hải Phòng – Yên Viên - Việt Trì – Lào Cai và ngược lại là rất lớn.
Đây cũng là đoạn đường nguy hiểm cho việc chuyên chở bằng đường bộ. Lượng
hàng hoá chuyên chở bằng đường sắt chiếm 7-8%; chuyên chở trong container bằng
đường sắt chiếm 3-5% trong tổng khối lượng hàng hoá vận chuyển của cả quốc gia.
Về cơ sở hạ tầng đường hàng không
Việt Nam có mạng lưới 20 sân bay dân sự nằm rải rác từ Bắc vào Nam
nhưng chỉ có 6 sân bay quốc tế là Nội Bài (Hà Nội), Tân Sơn Nhất (Hồ Chí Minh),
Đà Nẵng (thành phố Đà Nẵng), Phú Bài (Huế), Cát Bi (sân bay nội địa có hoạt động
42
bay quốc tế), và Cam Ranh (Nha Trang) [45]. Dịch vụ logistics đường hàng không
diễn ra chủ yếu tại sân bay Nội Bài và Tân Sơn Nhất, hàng hoá xuất nhập khẩu ở Đà
Nẵng và Huế cũng phải thông qua 2 sân bay chính này. Hầu hết các chuyến bay
quốc tế là chuyên chở hành khách và chỉ có một phần nhỏ là chuyên chở hàng hoá.
Các sân bay đều được kết nối với phương thức vận tải đường bộ.
2. Qui mô và năng lực hoạt động của các doanh nghiệp trong lĩnh vực
logistics ở Việt Nam
Theo một số nghiên cứu gần đây ở Việt Nam, dịch vụ Logistics chủ yếu
được thực hiện ở các công ty giao nhận vận tải và hiện nay có khoảng 1.000 doanh
nghiệp tham gia vào lĩnh vực logistics [2]. Chính sức hấp dẫn của Logistics - một
loại hình dịch vụ mới mẻ và tiềm năng, đã khiến cho số lượng các công ty kinh
doanh dịch vụ này tăng lên nhanh chóng chỉ sau vài năm phát triển. Theo như Sở kế
hoạch đầu tư TP. Hồ Chí Minh thì trung bình mỗi tuần có một công ty giao nhận,
logistics được cấp phép hoạt động hoặc bổ sung chức năng logistics. Cứ theo đà này
thì trong vài năm nữa, Việt Nam sẽ vượt cả Thái Lan (với 1.100 công ty), Singapore
(800), Indonesia, Philippine (700-800) về số lượng các công ty đăng ký hoạt động
trong nước [32]. Tuy nhiên, việc phát triển nóng của ngành logistics lại đáng lo ngại
do các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay hoạt động vẫn còn manh mún, phân tán và
nhỏ lẻ.
- 18% là công ty Nhà nước như VICONSHIP, VOSCO, VINALINES với 98
Hiện tại, trong khoảng 1000 công ty có:
- 70% là các công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp tư nhân;
- 2% là các công ty Logistics có vốn đầu tư nước ngoài như Maerk Logistics,
đơn vị thành viên hoạt động trên mọi lĩnh vực hàng hải;
- 10% là các công ty giao nhận chưa có giấy phép.
APL Logistics, TNT Logistics, Kuehne & Nagel…; và
Do tuổi đời của các công ty kinh doanh dịch vụ logistics đều còn khá trẻ
(trung bình là 5 năm) nên thị trường dịch vụ logistics của Việt Nam chủ yếu do các
công ty nước ngoài hoặc liên doanh chi phối. Cạnh tranh trên thị trường này là hết
43
sức gay gắt.
2.1. Các công ty Việt Nam
Quy mô các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Logistics của Việt Nam (về cả
con người, nguồn vốn, doanh số…) đều còn rất nhỏ bé. Vốn đăng kí trung bình của
các doanh nghiệp chỉ có 1,5 tỷ đồng. Các doanh nghiệp tư nhân, hiện đang chiếm
khoảng 70% tổng số doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics, có số vốn rất nhỏ
và phần lớn chỉ có khoảng 10 - 20 nhân viên. Có doanh nghiệp đăng kí vốn kinh
doanh từ 300 – 500 triệu đồng (tương đương khoảng 18.000 – 31.000 USD) và chỉ
có 3 - 5 nhân viên. Khoảng 10% trong tổng số các doanh nghiệp quốc doanh và cổ
phần có nguồn vốn lớn và có từ 200 – 300 nhân viên.
Có thể kể ra một số doanh nghiệp tiêu biểu như sau:
Công ty Loại hình DN Dịch vụ cung cấp Dịch vụ Logistics
Vinalines Tổng công ty Môi giới vận tải biển Cung cấp các dịch vụ
Nhà nước Sửa chữa tàu biển riêng lẻ trong Logistics,
Dịch vụ hàng hoá XNK hiện đang xây dựng
Giao nhận chiến lược phát triển
Khai thác cảng Logistics trọn vẹn
Kho bãi
Viconship Công ty cổ phần Khai thác cảng Logistics chưa thành
Kho bãi dịch vụ cung cấp của
Vận tải đa phương thức doanh nghiệp mà chỉ là
Đại lý tàu biển vận tải đa phương thức
Vinatrans Công ty cổ phần Vận tải giao nhận hàng Cung cấp dịch vụ
hoá đường biển/ đường Logistics cửa đến cửa
hàng không (door to door) nhưng tập
Dịch vụ kho bãi trung vào khâu vận tải
Vietfracht Công ty cổ phần Môi giới thuê tàu Cơ sở vật chất: kho bãi,
Giao nhận và Logistics đội tàu… mạnh, dịch vụ
Vận tải đường bộ logistics mới chỉ thực
44
Vận tải đường biển hiện riêng lẻ từng khâu,
Kho bãi chưa đa dạng
Safi Công ty cổ phần Đại lý môi giới tàu biển Cung cấp các dịch vụ
Vận tải đa phương thức logistics là chủ yếu
Logistics – Door to door nhưng vẫn còn rời rạc,
chưa thực sự kết nối
Tân Tiền Công ty tư nhân Vận tải biển/ hàng Công ty đã ứng dụng
Phong không quản lý chuỗi cung ứng
Gom hàng/Phân phối nhưng chỉ dừng lại ở
Kho bãi hoạt động vận tải, gom
Logistics hàng, chưa có các dịch
vụ giá trị gia tăng.
Nhìn chung, hiện tại, các công ty Việt Nam chủ yếu cung cấp các dịch vụ như sau:
Dịch vụ vận tải giao nhận hàng hoá XNK
Vận tải giao nhận hàng hoá XNK chủ yếu được thực hiện trên lĩnh vực
đường biển, một số thực hiện trên lĩnh vực vận tải hàng không. Nghiệp vụ chủ yếu
là sau vận tải chính bằng đường biển/hàng không, doanh nghiệp đến cảng nhận
hàng và làm thủ tục nhận hàng chuyên chở đến cho người nhận (hàng nhập), hay
nhận hàng từ kho của khách hàng chở đến cảng, làm thủ tục hàng xuất và vận tải
tuyến chính bằng đường biển/hàng không. Vận tải biển là một khâu quan trọng,
chính yếu của chuỗi logistics thông thường nhưng doanh nghiệp trong nước mới chỉ
đáp ứng chuyên chở được 18% tổng lượng hàng hoá xuất nhập khẩu. Hầu hết các
doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp dịch vụ vệ tinh cho các hãng
logistics nước ngoài hay làm đại lý tàu biển.
Dịch vụ vận tải giao nhận nội địa và phân phối hàng
Vận tải giao nhận hàng hoá nội địa Việt Nam chủ yếu bằng đường sắt và
đường ô tô. Hàng hoá vận tải nội địa chủ yếu là hàng thủ công mỹ nghệ, nông sản,
hàng rời… nên xe tải thùng được sử dụng phổ biến. Các doanh nghiệp có các đội xe
45
chuyên để vận tải nội địa, vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu từ các cảng, các sân
bay về kho rồi về đến tận nơi khách hàng yêu cầu và ngược lại từ kho của khách
hàng ra cảng, sân bay, để vận chuyển bằng đường biển, đường hàng không.
Về phân phối hàng hoá, các doanh nghiệp lớn có thế mạnh trong vận chuyển
hàng hoá khối lượng lớn, hàng công trình, siêu trường, siêu trọng; còn các doanh
nghiệp nhỏ có thế mạnh hàng thông thường, hàng bách hoá, hàng container, hàng số
lượng nhỏ, ví dụ như thực hiện toàn bộ khâu phân phối sản phẩm từ nơi sản xuất
đến nhiều nơi tiêu thụ trong nội địa cho các doanh nghiệp như Công ty Coca-cola
Việt Nam…
Dịch vụ phân loại và đóng gói bao bì hàng hoá
Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam còn cung cấp các dịch vụ phân loại và
đóng gói bao bì, nhãn hiệu, kiểm đếm… cho hàng hoá xuất nhập khẩu và đóng gói
đa dạng tuỳ theo yêu cầu từng khách hàng.
Dịch vụ gom hàng lẻ
Các doanh nghiệp Việt Nam có thể theo yêu cầu làm dịch vụ cho các doanh
nghiệp Logistics nước ngoài hay theo yêu cầu trực tiếp của nước ngoài để thực hiện
nghiệp vụ gom hàng lẻ. Doanh nghiệp phải gom nhiều lô hàng của nhiều chủ, đóng
chung vào các container để gửi đi cho nhiều người nhận ở các địa chỉ khác nhau.
Các container có thể được gom từ nhiều nơi đến cảng trung chuyển như Hongkong,
Singapore… rồi từ đó phân tuyến lên các tàu mẹ. Khi đến cảng chính, sẽ có doanh
nghiệp thực hiện công việc nhận hàng, chia hàng, và phân phối đến tận tay khách
hàng hay nhiều nơi phân phối. Dịch vụ gom hàng lẻ của Việt Nam mới phát triển
mạnh trong lĩnh vực vận tải biển, còn trên lĩnh vực hàng không thì còn chưa nhiều.
Dịch vụ kinh doanh kho bãi
Hệ thống kho bãi của Việt Nam chủ yếu thuộc về các doanh nghiệp Nhà
nước, các Tổng công ty lớn nên kinh doanh kho bãi hiện nay vẫn mang tính độc
- Cảng nội địa – ICD (Inland Clearance Port): Cảng nội địa được đặt ở một vị
quyền. Loại hình kho bãi ở Việt Nam có các loại sau:
trí xa cảng biển, ở sâu trong đất liền để thực hiện các chức năng làm thủ tục hải
quan, nơi chuyển tiếp các container sang các phương tiện khác, và nơi để gom hàng
46
lẻ vào container.
- Bãi Container – CY (Container Yard): là nơi tiến hành giao nhận và bảo
- Kho hàng lẻ - CFS (Container Freight Station): là nơi giao nhận và phục vụ
quản container có hàng và container rỗng.
hàng lẻ chuyên chở bằng container. Tại đây, người ta tiến hành nhận hàng lẻ để
- Kho ngoại quan: là nơi chứa và bảo quản hàng hoá khi thủ tục hàng hoá xuất
đóng vào container hay dỡ hàng lẻ ra khỏi container để giao cho người nhận.
- Các loại kho khác, gồm: kho chứa hàng thông thường, kho chuyên dụng…
nhập khẩu chưa hoàn tất hoặc hàng hoá quá cảng, hàng tạm nhập tái xuất…
Dịch vụ đại lý
Hiện nay rất nhiều các doanh nghiệp trong lĩnh vực vận tải giao nhận Việt
Nam là đại lý cho các hãng tàu, hàng vận tải giao nhận và Logistics quốc tế như
Vinatrans là đại lý cho GeoLogistics, Burlington Express; Safi là đại lý cho các
hãng MSAS, TWT transworld; Vosa làm đại lý cho Jet Dispatch; Vietfracht là đại
lý cho SCAC…
Vận tải đa phương thức
Trong khi các doanh nghiệp Logistics điển hình đầu tư phát triển vận tải đa
phương thức - cốt lõi trong chuỗi logistics thì hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam
vẫn còn triển khai rất hạn chế dịch vụ này. Một số doanh nghiệp Việt Nam đã triển
khai vận tải đa phương thức như Vietfracht, Vietrans, Transimex, Viconship…
nhưng mức độ áp dụng của các doanh nghiệp này vẫn còn thấp và mới chỉ thực hiện
một công đoạn nào đó của quy trình vận tải đa phương thức như công đoạn thuê
phương tiện vận tải, giao nhận hàng hoá nội địa… Các công ty chủ yếu làm đại lý
cho các hãng vận tải đa phương thức nước ngoài về một số nghiệp vụ như thủ tục
giao nhận hàng ở cảng, ở sân bay, giao hàng cho chủ hàng ở điểm nhận hay sử dụng
vận đơn, chứng từ vận tài đa phương thức của các hãng đó để thực hiện việc gom
hàng và chở hàng tới các cảng, ga trung gian… Các doanh nghiệp của Việt Nam chỉ
tham gia vào vận tải đa phương thức với tư cách là đại lý giao nhận hoặc thực hiện
công đoạn vận chuyển nội địa hoặc chở quá cảnh cho nước láng giềng còn người
trực tiếp ký kết các hợp đồng này với chủ hàng lại là hãng vận tải nước ngoài hay
47
nhà cung cấp vận tải đa phương thức thực sự.
Dịch vụ Logistics
Một số đơn vị kinh doanh vận tải của Việt Nam đã bắt đầu tham gia cung cấp
dịch vụ Logistics trọn gói như công ty cổ phần TRACO (Transport Agency
Company). Hiện nay, công ty đã làm dịch vụ logistics một số mặt hàng lớn như: sắt
thép, phân bón, sản phẩm hoá dầu… Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
Logistics, vận tải giao nhận của Việt Nam ở mức kém, thể hiện qua hai mặt chính là
- Về chất lượng dịch vụ: các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay mới chỉ làm
chất lượng dịch vụ logistics và giá cả dịch vụ logistics.
công đoạn riêng lẻ hay làm dịch vụ vệ tinh cho các doanh nghiệp nước ngoài. Các
dịch vụ ít đa dạng và chưa tạo được sự tin cậy nơi khách hàng về chính xác thời
gian, địa điểm, an toàn hàng hoá và sự thuận tiện. Ở Việt Nam, khách hàng của dịch
vụ logistics thường là những công ty đa quốc gia, có xu hướng trao trọn gói cho các
công ty logistics thiết ké và cung cấp toàn bộ dây chuyền cung ứng nguyên vật liệu
và phân phối hàng hoá cho công ty của họ. Các công ty này đôi khi không coi trọng
giá cả từng dịch vụ riêng lẻ, nếu cả dây chuyền logistics có thể làm giảm chi phí thì
họ sẵn sàng chấp thuận. Các công ty này thường có thể bỏ ra nhiều tiền cho việc
- Về giá cả dịch vụ logistics: Giá của cách dịch vụ mà các công ty Việt Nam
chuyên chở và phân phối, chấp nhận giá cước cao nhưng dịch vụ phải tốt.
đang cung cấp thì không cao so với khu vực nhưng bị phát sinh thêm chi phí do
tham nhũng, lãng phí thời gian, công sức… Giá một số dịch vụ rất cao do thuộc độc
quyền của một số doanh nghiệp lớn, hoặc của Nhà nước trong một số lĩnh vực như
kho bãi, phương tiện…
2.2. Các công ty liên doanh
Một số công ty liên doanh với nước ngoài với số vốn góp tối đa của phía
nước ngoài là 51% như Dragon Logistics là liên doanh của Vinafco Việt Nam với
đối tác Nhật, Logitem là liên doanh giữa đoàn xe 14 của Việt Nam với công ty
Logistics International của Nhật, cảng VICT là liên doanh giữa Watco Việt Nam
với Mitorient của Singapore… là những công ty liên doanh điển hình đang triển
48
khai cung cấp dịch vụ logistics.
Cảng VICT
Cảng VICT là cảng Logistics đầu tiên ở Việt Nam và được đánh giá là một
trong những cảng hiện đại bậc nhất khu vực Đông Nam Á, trực thuộc quản lý và
khai thác của Công ty liên doanh phát triển tiếp vận số 1. Công nghệ thông tin là
một thế mạnh của VICT với hệ thống MAPS và máy chủ IBM, nối các bộ phận:
Cơ sở dữ liệu tàu biển (Vessel Database)
Khai thác tàu biển (Vessel Operation)
Khai thác cổng bãi (Gate Operation)
Bãi container hàng nguyên (Yard Operation/Container Yard)
Bộ phận làm báo cáo (Report Management)
Hệ thống xuất vận đơn (Container Billing System)
Dịch vụ thông tin (Information Service)
Kho hàng lẻ (CFS)
Hệ thống MAPS cung cấp thông tin về tình trạng container, số container, số
niêm phong…; tình trạng hàng hoá; giúp đảm bảo tính ổn định và lịch trình của tàu
và kết nối máy chủ với bãi xếp dỡ. Theo thực tế thì hệ thống MAPS đã góp phần rút
ngắn 50% thời gian tàu chờ ra vào cảng, giúp cho quá trình giao nhận, phân phối
hàng hoá diễn ra nhanh chóng hơn, từ đó, góp phần giảm chi phí. MAPS còn có khả
năng lập sơ đồ xếp container lên tàu tối ưu, đảm bảo an toàn, và cân bằng trọng
tải… Tính chính xác, truyền tải thông tin nhanh và giao dịch điện tử đã giúp tiết
kiệm chi phí [49].
Sắp tới, VICT lên kế hoạch xây dựng mạng thông tin tích hợp của FLDC để
kết nối các chủ thể tham gia vào chuỗi Logistics trao đổi, cập nhật thông tin và quản
49
lý chuỗi hiệu quả, kịp thời:
Hãng tàu vận tải
Công ty vận tải đường bộ
Người gửi/nhận hàng
Công ty giao nhận
Biểu đồ 1: Hệ thống thông tin phục vụ cho hoạt động logistics tại cảng VICT
Trung tâm thông tin Cảng
Hải quan
Ngân hàng
Nguồn: Website của Cảng container quốc tế Việt Nam (VICT)
Công ty tiếp vận tải Thăng Long (Dragon Logistics)
Công ty tiếp vận tải Thăng Long là liên doanh giữa công ty VINAFCO và
Sumitomo, Suzuyo, Công ty điện tử Hanel; chủ yếu cung cấp dịch vụ logistics trong
vận tải cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Công ty đã trở thành địa chỉ cung
cấp chuỗi Logistics uy tín cho các công ty nước ngoài nổi tiếng thế giới như Toyota,
Ajinomoto, Nestle… Công ty đã liên tục phát triển hoàn thiện dịch vụ logistics và
trở thành số ít các công ty ở Việt Nam hoạt động dịch vụ logistics hiệu quả. Năm
1998, Dragon Logistics đã đầu tư vào 2 trung tâm logistics tại Hà Nội và khu công nghiệp Tiên Sơn, Bắc Ninh với tổng diện tích kho hàng lên tới 40.000 m2 và sử
dụng các trang thiết bị hiện đại và phần mềm quản lý kho tiên tiến [48]. Công ty
cũng triển khai cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức, mở rộng dịch vụ chuyển
tải và quá cảnh dọch hành lang Đông –Tây, hành lang Bắc – Nam, và làm các thủ
tục hải quan tại các cửa khẩu trên cả nước.
2.3. Các doanh nghiệp nước ngoài
Với thị trường tiềm năng, hứa hẹn lợi nhuận hàng tỷ đôla, dịch vụ logistics
đang hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài và thực tế họ đang kinh doanh khá sôi
50
động tại Việt Nam. Hầu hết các tập đoàn logistics lớn trên thế giới đã có mặt tại
nước ta và đang cung cấp dịch vụ logistics cho gần 90% khối lượng hàng xuất khẩu
(từ hàng rời như phân bón, xi măng, sắt thép, xăng dầu, quặng, than đá…) và 100%
khối lượng hàng công trình. Hiện nay, đã có Maersk Logistics là công ty 100% vốn
nước ngoài hoạt động tại Việt Nam theo lộ trình thực hiện của Hiệp định thương
mại song phương Việt Nam – EU. Còn lại phần lớn là các văn phòng đại diện của
các tập đoàn đa quốc gia trong lĩnh vực vận tải, logistics như APL Logistics, NYK
Logistics… Theo cam kết gia nhập WTO, kể từ năm 2009, Việt Nam đã chính thức
mở cửa thị trường dịch vụ logistic, cho phép các công ty dịch vụ hàng hải, logistics
100% vốn nước ngoài hoạt động bình đẳng. Do vậy, trong thời gian tới, rất nhiều
công ty logistics 100% vốn nước ngoài sẽ được cấp phép hoạt động tại Việt Nam.
Các doanh nghiệp logistics, vận tải giao nhận nước ngoài hiện nay chủ yếu
tập trung ở các thành phố lớn, các cảng lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Hải
Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ… Các doanh nghiệp này có mạng lưới hoạt động rộng,
thành lập các chi nhánh từ Bắc vào Nam. Nhưng mạng lưới của các công ty nước
ngoài mới chỉ dừng lại ở phạm vi trong nước, chưa đủ khả năng mở rộng hoạt động
của mình ra nước ngoài.
Bảng 13: Các doanh nghiệp logistics nƣớc ngoài thuộc các loại hình khác nhau
có hoạt động phổ biến tại Việt Nam (năm 2007)
Công ty giao nhận Nhà cung cấp dịch vụ logistics Nhà tích hợp dịch vụ logistics
Kuehne & Nagel
Excel(DHL)
APL Logistics
Schenker
DHL
Maersk Logistics
UPS TNT
NYK Logistics MOL Logistics
Panalpina Expeditors Intl EGL
Nguồn: supplychainbrain.com
Phần lớn các công ty Logistics nước ngoài tại Việt Nam hiện chỉ đầu tư văn
phòng, hệ thống thông tin và quản lý, nhân lực, các thiết bị chuyên dụng tại Việt
Nam, sau đó, họ đi thuê lại các công ty Việt Nam – các doanh nghiệp vệ tinh - thực
hiện các dịch vụ vận tải nội địa, kho bãi, cảng, hải quan, đóng gói, dán nhãn, kiểm
51
đếm… Ví dụ: APL Logistics thuê kho của Vietfract, Viconship, ICD Sông Than
(Bình Dương)…; NYK Logistics thuê lại kho của Northern Freight tại Hải Phòng;
APL Logistics kí các hợp đồng vận tải với các hãng tàu biển như Maersk Line,
MOL, Yangming, Evergreen… hay các hãng hàng không để thực hiện khâu chuyên
chở bằng đường biển hoặc đường hàng không. APL Logistics còn ký kết hợp đồng
với các công ty giao nhận như Viconship để thực hiện các dịch vụ giao nhận hàng
hoá, khai hải quan…; ký kết hợp đồng với cảng để thực hiện công đoạn đóng hàng,
xếp dỡ, chuyển tải, kiểm đếm… Các dịch vụ của các công ty Việt Nam đều phải đạt
yêu cầu chuẩn về chất lượng và được thực hiện dưới sự giám sát của các doanh
nghiệp logistics nước ngoài.
Bảng 14: Các loại hình dịch vụ đƣợc cung cấp bởi các công ty nƣớc ngoài
Công ty
Logistis nội địa
Kho vận
Quản lý tồn kho
Đóng gói - Lắp ráp
Trung tâm phân phối
Marketing - Dịch vụ khách hàng
Dịch vụ tại chỗ
Trực tiếp đến kho
Maersk Logistics APL Logistics MOL Logistics NYK Logistics Schenker DHL/Excel UPS Expeditors TNT Logistics
Nguồn: Tổng hợp từ các trang web của các công ty
3. Nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam về logistics
Đứng trước thực trạng yếu kém của hoạt động giao nhận vận tải ở Việt Nam
hiện nay, việc áp dụng các phương thức hoạt động mới, hiện đại là một nhu cầu cấp
bách. Nhận thấy được lợi ích do hoạt động logistics đem lại cho lĩnh vực vận tải
giao nhận là rất lớn nên trong những năm gần đây, ở Việt Nam đã dần xuất hiện loại
52
hình dịch vụ này. Theo số liệu điều tra năm 2006, có trên 95% số doanh nghiệp giao
nhận - vận tải Việt Nam đã biết đến hoạt động logistics [53]. Theo nhận thức của
các công ty này, hoạt động logistics là dịch vụ hậu cần nhằm phục vụ cho vận tải.
Đó là hoạt động nhằm đưa hàng hoá từ “cửa tới cửa", tức là từ lúc nhận hàng của
chủ hàng, làm các thủ tục hải quan, giao nhận, vận chuyển... nhằm đáp ứng yêu cầu
của khách hàng trong quá trình vận chuyển. Tuy nhiên cũng có doanh nghiệp còn
coi hoạt động logistics chỉ đơn giản là hoạt động kho vận, hay cũng có công ty đưa
ra định nghĩa về hoạt động logistics gần giống như vận tải đa phương thức. Đây là
những nhận thức tương đối sai lầm về logistics, tuy nhiên rất đáng mừng là số này
không nhiều, chỉ chiếm gần 5% tổng số doanh nghiệp được khảo sát.
Nhìn chung, các công ty đều đánh giá cao vai trò của logistics trong hoạt
động giao nhận vận tải, đặc biệt là trong vận tải biển: có 78% số doanh nghiệp cho
rằng hoạt động này là rất quan trọng, số doanh nghiệp có ý kiến rằng hoạt động này
ít quan trọng chỉ chiếm 11% và không có doanh nghiệp nào bác bỏ vị trí của hoạt
động logistics trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh giao nhận vận tải.
Tại sao việc ứng dụng logistics trong vận tải, đặc biệt là vận tải đường biển lại được
đánh giá quan trọng như vậy? Đó là vì những lợi ích do hoạt động này đem lại cho
các doanh nghiệp là rất thiết thực và to lớn. Logistics giúp xâu chuỗi các khâu trong
hoạt động vận tải giao nhận để tạo thành một quá trình liền mạch. Nó cũng giúp
nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh trong lĩnh vực vận tải, góp phần giảm đáng kể
chi phí đầu vào, có tác động lớn tới thế mạnh và danh tiếng của doanh nghiệp. Bên
cạnh đó, khi quá trình hội nhập của Việt Nam ngày càng diễn ra nhanh và mạnh thì
hoạt động logistics càng cần được chú trọng vì nó là phần không thể thiếu trong
thương mại quốc tế và đồng thời logistics giúp giảm các rủi ro thương mại như
chậm giao hàng, giao hàng nhầm...
Như vậy, tình hình tại các doanh nghiệp kinh doanh vận tải giao nhận là khá
lạc quan. Tuy nhiên, tại các doanh nghiệp không nằm trong lĩnh vực này thì tình
hình lại rất đáng lo ngại. Rất nhiều công ty không hề có khái niệm và cũng không
quan tâm đến tầm quan trọng của hoạt động logistics. Không nhiều trong số các
công ty quan tâm đến logistics thuê các nguồn lực bên ngoài trong lĩnh vực này. Chỉ
53
một số ít các doanh nghiệp liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài mới có nhận thức
đúng đắn về hoạt động này do họ đã có kinh nghiệm từ trước. Điều quan trọng cần
được tiến hành ngay là thay đổi tư duy và đổi mới tầm nhìn của các doanh nghiệp
còn lại, để nền kinh tế nước nhà có thể bắt kịp với tốc độ phát triển của các quốc gia
khác trong khu vực. Xét về tổng thể, ở Việt nam hiện nay có đầy đủ các yếu tố đảm
bảo khả năng ứng dụng và phát triển logistics. Tuy hiện trạng áp dụng logistics của
các doanh nghiệp kinh doanh vận tải giao nhận nói riêng và các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh nói chung còn hạn chế hay có thể nói mới ở giai đoạn đầu, nhưng
với xu thế hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, nhu cầu dịch vụ logistics trên thị
trường Việt nam chắc chắn sẽ tăng nhanh, mở ra cơ hội phát triển mới cho các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải giao nhận – những nhà cung cấp dịch vụ
logistics trong tương lai.
II. CƠ SỞ HẠ TẦNG LOGISTICS CỦA VIỆT NAM TRONG HỢP TÁC
TIỂU VÙNG
Từ khi hình thành đến nay, GMS luôn đặt ưu tiên hàng đầu cho phát triển hạ
tầng giao thông và đây cũng là lĩnh vực hợp tác có hiệu quả nhất. Trọng tâm phát
triển của GMS gồm 3 hành lang kinh tế chính là: Hành lang kinh tế Đông - Tây
(EWEC), Hành lang kinh tế Bắc - Nam (NSEC) sẽ hoàn thành vào năm 2010, Hành
lang kinh tế phía Nam (SEC) dự kiến hoàn thành vào năm 2012. Với vị trí “cửa
ngõ” đi ra biển Đông của toàn bộ tiểu vùng, lại gần các tuyến đường biển quốc tế từ
Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương, Việt Nam được nhìn nhận như một nhân tố
của sự tăng trưởng khu vực, có vai trò chủ chốt trong việc chuyển hoá các hành lang
giao thông GMS trở thành các hàng lang kinh tế.
Các hành lang kinh tế được liệt kê dưới đây chính là những hành lang phát
triển logistics của Tiểu vùng nói chung và của Việt Nam nói riêng:
1. Hành lang kinh tế Đông – Tây (EWEC)
Trải dài 1.450km, Hành lang Kinh tế Đông-Tây (EWEC) là tuyến đường bộ
đầu tiên nối Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, chạy qua 13 tỉnh của bốn nước
54
Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS), gồm Việt Nam, Lào Thái Lan và Mianma.
EWEC nằm trong liên vùng nghèo, cơ sở hạ tầng yếu kém, nhưng lại giàu tiềm
năng. Chạy dọc EWEC là khu vực đa sắc tộc, có văn hóa đa dạng, nhiều danh lam
thắng cảnh, di tích nổi tiếng được quốc tế công nhận, đông thời có sức hấp dẫn về
môi trường xã hội, văn hóa và du lịch.
Với vai trò cửa ngõ thông ra biển đối với tiểu vùng, Việt Nam là đầu ra cũng
như đầu vào quan trọng cho hàng hóa của Thái Lan, Lào, Mianma và các nước lân
cận như Trung Quốc, Campuchia. Trong năm 2007, với việc hoàn thành cây cầu
quốc tế thứ 2 bắc qua sông Mê Kông, giao thông đường bộ của EWEC đã thông
suốt và trở thành hành lang đi vào hoạt động đầu tiên của GMS.
Việc thực hiện dự án xây dựng EWEC là dẫn chứng điển hình về sự tham gia
tích cực và có hiệu quả của Việt Nam trong GMS. So với các hành lang kinh tế
khác thuộc Tiểu vùng Mêkông mở rộng (2 hành lang kinh tế Bắc – Nam, 2 hành
lang kinh tế phía Nam) thì EWEC được đánh giá là có nhiều điều kiện khả thi nhất.
Theo kết quả khảo sát, Việt Nam được đánh giá là nước triển khai tốt nhất
các dự án trong hành lang như: Dự án nâng cấp quốc lộ 9; Dự án xây dựng đường
hầm qua đèo Hải Vân; Dự án nâng cấp cảng Tiên Sa – Đà Nẵng; triển khai bước
đầu Hiệp định GMS với Lào về áp dụng mô hình kiểm tra Hải quan một cửa, một
lần dừng tại cửa khẩu Lao Bảo – Dansavanh… Việt Nam ưu tiên thực hiện chương
trình hành động và lộ trình thực hiện EWEC được đề ra tại cuộc họp các quan chức
cao cấp của EWEC lần thứ 2 (EWEC SOM II) với 4 lĩnh vực hợp tác lớn là phát
triển khu vực kinh tế cửa khẩu, phát triển du lịch, triển khai thí điểm cơ chế kiếm tra
hải quan một cửa và một điểm dừng.
Đến nay, Dự án nâng cấp đường quốc lộ số 9 (dài 83,5km và có tổng số vốn
đầu tư là 35 triệu USD, trong đó, 25 triệu USD do ADB cho vay) đã hoàn thành. Dự
án xây dựng đường xuyên đèo Hải Vân với nguồn vốn tài trợ của JBIC đã hoàn
thành và đưa vào hoạt động từ tháng 6/2005. Dự án xây dựng cảng Tiên Sa dã hoàn
thành từ tháng 2/2004, góp phần nâng công suất của cảng lên 2,5 triệu tấn/năm
trong giai đoạn đầu (1999-2004) và 4 triệu tấn/năm trong giai doạn 2004-2010.
55
Hiện tại, Việt Nam đang tiếp tục xây dựng đường trục bưu chính viễn thông từ
Savannakhet của Lào tới Đông Hà - Quảng Trị. Đây cũng là một dự án của GMS về
phát triển đường trục bưu chính viễn thông giai đoạn I.
2. Hành lang kinh tế Bắc – Nam (NSEC)
NSEC gồm 3 tuyến dọc theo trục Bắc - Nam nối Trung Quốc – Thái Lan,
trong đó, 2 tuyến nối Trung Quốc - Việt Nam. Đó là các tuyến hành lang: Côn Minh
– Băng Cốc; Côn Minh – Hà Nội - Hải Phòng và Nam Ninh – Hà Nội.
Cơ sở hạ tầng logistics trên NSEC được đánh giá là tương đối đầy đủ đối với
khối lượng chuyên chở dọc hành lang này. Tuy nhiên, trên thực tế, hạ tầng ở một số
chặng trên NSEC vẫn còn thiếu thốn rất nhiều và cần được nâng cấp để có thể giúp
cho toàn hành lang được đồng bộ, đạt một mức chuẩn chung. Bảng cung cấp đánh
giá tổng quan về hiện trạng cơ sở hạ tầng trên toàn hành lang Bắc – Nam.
Bảng 15: Đặc điểm cơ sở hạ tầng logistics trên NSEC
Đƣờng sắt
Nƣớc/Tỉnh Đƣờng bộ Đƣờng biển
Đƣờng thuỷ nội địa
Đƣờng hàng không
Khá/Tốt Khá Khá Tốt/Khá Tốt
Quảng Châu (TQ) Lào
Myanmar
Thái Lan
Khá/Kém Kém Tốt Khá/Kém Kém Kém Khá Khá Khá/ Kém Khá Khá Khá Kém Kém Tốt/Khá Khá - Khá Tốt Khá
Khá/Tốt Khá Khá Tốt/Khá Tốt
Việt Nam Vân Nam (TQ)
Nguồn: Nghiên cứu về sự phát triển logistics trên hành lang kinh tế Bắc –
Nam (GMS), ADB
Chính phủ hai nước Việt Nam và Trung Quốc từ tháng 5 - 2004 đã cam kết
cùng nhau xây dựng “Hai hành lang, một vành đai kinh tế” giữa hai nước, bao gồm
Hành lang thông thương Côn Minh - Hà Nội - Hải Phòng và Hành lang lưu thông
Nam Ninh - Hà Nội - Hải Phòng.
2.1. Hành lang Hải Phòng - Côn Minh
Về mặt địa lý, hành lang kinh tế Côn Minh - Hải Phòng, ngoài Hà Nội ra, đi
56
qua 9 tỉnh Bắc Bộ của Việt Nam (gồm Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc
Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Ninh và Hải Phòng) và tỉnh Vân Nam của
Trung Quốc. Về phía Việt Nam, hành lang kinh tế này đi qua vùng trọng điểm, tam
giác tăng trưởng Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và các vùng đô thị vệ tinh xung
quanh Hà Nội, một trong những nơi có dung lượng thị trường tương đối phát triển
của Việt Nam.
Xét ở tầm vĩ mô, Hành lang kinh tế Côn Minh - Hải Phòng có tầm chiến lược
rộng hơn nhiều. Hành lang không chỉ nối liền với Hành lang lưu thông Nam Ninh -
Hà Nội - Hải Phòng và Vòng kinh tế khép kín Vịnh Bắc Bộ, tạo thành một khu vực
kinh tế nối kết giữa Quảng Tây và Vân Nam của Trung Quốc với các tỉnh Bắc Bộ
của Việt Nam, mà quan trọng không kém, nó có khả năng thiết lập một không gian
kinh tế rộng lớn giữa vùng kinh tế Hoa Nam của Trung Quốc với các nước Đông
Nam Á trên bán đảo Trung Ấn, thúc đẩy Hợp tác GMS và ACFTA phát triển. Từ
đầu mối Côn Minh, có thể mở rộng các tuyến hành lang lưu thông sang Lào, Thái
Lan và Myanma. Từ Hải Phòng có thể đi đến các vùng đất ven biển của Hoa Nam,
xa hơn nữa là các nước Đông và Đông Nam Á khác. Khi trục giao thông đường bộ
thuộc EWEC đi qua miền Trung của Việt Nam, sang Lào, đến miền Bắc Thái Lan
và đến Myanma được lưu thông (năm 2007) thì cảng biển Hải Phòng sẽ có tác dụng
rất lớn đối với tuyến Hành lang Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng. Trong
tương lai không xa hành lang này có thể trở thành tuyến đường huyết mạch lưu
thông mang tính quốc tế, nối từ vịnh Bắc Bộ qua Trung Quốc, đến cảng biển
Rungoon của Myanma thuộc Ấn Độ Dương.
ADB cùng với các nước trong GMS đã đưa ra nhiều dự án về xây dựng cơ sở
hạ tầng kỹ thuật cũng như xã hội trên tuyến hành lang này. Về phía Việt Nam, thì
ưu tiên số một là nâng cấp, cải tạo tuyến đường sắt hiện có dài 260 km từ Hà Nội đi
Lào Cai (đang được xúc tiến); Tiếp đến là nâng cấp tuyến đường sắt từ Yên Viên
đến Hải Phòng. Về tuyến đường bộ, thì Chính phủ Việt Nam đang khẩn trương
nâng cấp quốc lộ 70. Tại tỉnh Lào Cai, từ năm 2002 thị xã Cam Đường (cách cửa
khẩu Lào Cai 8 km) được sát nhập vào thị xã Lào Cai, mở rộng quy mô và từ năm
2004 trở thành thành phố Lào Cai. Tại đây đang nâng cấp nhà ga đường sắt khách
57
quốc tế và đã lập dự án xây mới nhà ga hàng hoá. Từ đầu năm 2005, bắt đầu khởi
công xây dựng cầu mới qua sông Hồng nối liền Khu thương mại Kim Thành của
Việt Nam với Khu thương mại Hà Khẩu của Trung Quốc v.v…
Ngày 26/09/2008, ADB đã ký một hiệp định với chính phủ Việt Nam, cam
kết sẽ cho vay 1,1 tỷ đô-la Mỹ để đầu tư xây dựng đoạn đường Nội Bài – Lào Cai,
thuộc hành lang kinh tế Bắc – Nam. Dự kiến tuyến đường cao tốc dài 244km này sẽ
giúp giảm bớt thời gian đi lại khoảng 3 giờ so với mức 8-10 tiếng như hiện nay,
giúp cho việc đi lại từ Côn Minh – Hà Nội - Hải Phòng có thể diễn ra trong 1 ngày.
Bảng 16: Dự kiến những thay đổi trên hành lang Hải Phòng – Côn Minh
Chi phí cho mỗi Thời gian Đánh giá (trên Hải Phòng – Côn Minh tấn hàng (USD) chuyên chở (giờ) thang điểm 5)
105 85 2,4 Năm 2000
87 58 2,7 Năm 2006
43 26,5 3,8 Năm 2015
Nguồn: Ruth Banomyong - Logistics development study of the Greater Mekong Subregion – North - South Economic Corridor (2007)
Tuy đã có những bước khởi động ban đầu đáng ghi nhận của việc xây dựng
tuyến Hành lang kinh tế này, nhưng kết quả thu được còn quá khiêm tốn. Về đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng, phía Trung Quốc tiến hành có hiệu quả, đồng bộ và nhanh
hơn Việt Nam. Điều này có thể nói lên sự quan tâm và khả năng tài chính cũng như
sự phối hợp tốt hơn của Trung Quốc. Sự lạc hậu về hạ tầng cơ sở, nhất là các tuyến
giao thông bằng đường bộ là một trong những hạn chế chính của việc tăng nhanh
quy mô buôn bán giữa các địa phương trong trục hành lang này.
2.2. Hành lang Nam Ninh – Hà Nội
Hành lang kinh tế này bao trùm ba thành phố của tỉnh Quảng Tây (Trung
Quốc) là Nam Ninh, Sùng Tả, Bằng Tường và 8 tỉnh, thành của miền Bắc Việt Nam
là Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội – Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng,
Quảng Ninh. Đây là một hành lang kinh tế lấy tuyến giao thông đường bộ và đường
sắt làm trục. Tuyến đường sắt là tuyến đường sắt liên vận Nam Ninh - Hà Nội,
58
đường sắt Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Còn đường bộ là tuyến đường từ Nam
Ninh tới Lạng Sơn, quốc lộ 1A, quốc lộ 5, cao tốc Nội Bài - Hạ Long. Điểm cuối
của hàng lang là Quảng Ninh. Tuy nhiên, theo kế hoạch cũ, điểm cuối của hành lang
chỉ đến Hải Phòng. Vì thế, hành lang kinh tế này trước đây được gọi là Hành lang
kinh tế Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng.
Bảng 17: Dự kiến những thay đổi trên hành lang Nam Ninh – Hà Nội
Chi phí cho mỗi Thời gian Đánh giá (trên Nam Ninh – Hà Nội tấn hàng (USD) chuyên chở (giờ) thang điểm 5)
37 37 2,4 Năm 2000
27 19 3,0 Năm 2006
9 8 3,8 Năm 2015
Nguồn: Ruth Banomyong - Logistics development study of the Greater Mekong
Subregion – North - South Economic Corridor (2007)
Bảng 18: Các dự án lớn về cơ sở hạ tầng của Việt Nam trên NSEC
Tổng chi phí
Thời gian
Vốn đã cấp
Dự án ƣu tiên
Ghi chú
ƣớc tính
thực hiện
(triệu USD)
(triệu USD)
Một phần vốn do Việt Nam
Đường cao tốc
2005-2010
200,0
200,0
cấp, một phần được cấp
Nội Bài – Lào Cai
theo dự án BOT.
ADB cấp 896 triệu USD và
Đường sắt Nội
đồng cấp vốn 120 triệu USD
2008-2011
1.016,0
1.016,0
Bài – Lào Cai
với Tổng công ty Đường sắt
Việt Nam.
Đường sắt Hà Nội
- Hải Phòng (khôi
Nguồn vốn dự kiến: Nhật
2008-2012
400,0
400,0
phục và đặt
Bản
đường ray đôi)
Đường sắt Yên
Đang được thực hiện; ADB
Viên – Lào Cai
2006-2012
160,0
160,0
cho vay 60 triệu USD, Pháp
(Nâng cấp)
cho vay 77,5 triệu USD và
59
Chính phủ Việt Nam hỗ trợ
22,5 triệu USD.
ADB cho vay 500 triệu
USD; Chính phủ Việt Nam
Đường sắt cao tốc
Hà Nội - Lạng
2010-2013
900,0
900,0
cấp vốn 100 triệu USD;
đang tìm kiếm thêm nguồn
Sơn
tài trợ 300 triệu USD.
Nguồn: Vientiane plan of action for GMS Development 2008-2012
Có thể nói, sự hình thành và phát triển của trục hành lang NSEC đã và đang
tạo hiệu ứng lan toả, thúc đẩy hợp tác giữa các nước GMS và ACFTA. Trong một
vài năm tới, với việc cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng và nỗ lực hơn nữa của các bên
liên quan, sự hợp tác của hành lang kinh tế NSEC chắc chắn sẽ có bước dịch
chuyển lớn về cả quy mô lẫn chất lượng.
3. Hành lang kinh tế phía Nam (SEC)
SEC gồm 3 tuyến nối Thái Lan - Campuchia - Việt Nam. Hành lang này trải
dọc bờ biển phía Nam Việt Nam - Campuchia – Thái Lan tạo sự gắn kết GMS với
các nước ASEAN biển đảo và dự kiến còn kéo dài sang Myanma để tới Ấn Độ.
- Hành lang Trung tâm nối liền Băng Cốc, Phnôm Pênh và thành phố Hồ Chí
SEC bao gồm một hành lang chính và 2 hành lang phụ:
Minh. Hành lang này dài 1.005 km, gồm đường bộ và đường sắt kết nối hai khu vực
- Hành lang bờ biển phía Nam đi qua vùng biển phía Đông, Trat, Koh-kong,
tập trung dân cư và các hoạt động kinh tế nhất của Thái Lan và Việt Nam.
- Hành lang phụ phía Bắc nối liền Siem Reap (Xiêm Riệp – Myanma) với Quy
Sihanoukville và Năm Căn (Việt Nam).
Nhơn (Việt Nam) thông qua tuyến đường Stung Treng (Campuchia).
Hiện tại, để đi từ Băng Cốc tới Thành phố Hồ Chí Minh phải mất 2-3 ngày
nếu đi bằng tàu biển và 2 ngày bằng đường ô tô trong khi nếu đi từ Băng Cốc đến
60
Hà Nội mất tương ứng là 10-15 ngày và 3 ngày [39]. Việc xây dựng cây Cầu
Mêkông tại Neak Loeang, dự kiến hoàn tất và năm 2012 sẽ có thể làm giảm thời
gian đi lại bằng đường bộ trên hành lang này.
Trong thời gian tới, SEC sẽ còn được kết nối với 3 cảng lớn là Vũng Tàu
(Việt Nam), Kompon Some (Campuchia) và Leam Chabang (Thái Lan). Điều này
sẽ tạo ra nhiều lợi ích lớn đối với giao thông vận tải và thương mại đầu tư trong khu
vực GMS và SEC cũng được kỳ vọng sẽ trở thành một hành lang kinh tế quan trọng
trong Tiểu vùng.
III. THỂ CHẾ LUẬT PHÁP VÀ QUY ĐỊNH VỀ LOGISTICS CỦA VIỆT
NAM TRONG HỢP TÁC TIỂU VÙNG MÊKÔNG
1. Khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động logistics ở Việt Nam
Hoạt động logistics có mang lại hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào môi
trường pháp lý có đầy đủ và đảm bảo thông thoáng hay không. Vì là lĩnh vực còn
rất mới đối với Việt nam kể cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn cho nên đến nay,
trong hệ thống pháp luật của Việt nam chưa có nhiều nguồn đề cập cụ thể tới hoạt
động logistics nói chung cũng như trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ vận tải giao
nhận nói riêng.
Dịch vụ logistics đã du nhập vào thị trường giao nhận vận tải nước ta từ hơn
10 năm nay. Song, mãi đến năm 2005, khi Luật Thương mại mới ra đời thay thế cho
Luật thương mại 1997 thì khái niệm dịch vụ Logistics mới chính thức được thừa
nhận. Các quy định của Luật Thương mại 2005 điều chỉnh trực tiếp dịch vụ logistics
gồm 8 điều, từ Điều 233 đến Điều 240 về các nội dung: khái niệm dịch vụ logistics,
điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics, quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics, quyền và nghĩa vụ của khách hàng, các trường hợp miễn
trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics, giới hạn trách nhiệm,
quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics khi cầm giữ hàng
hoá.
Theo Luật Thương mại 2005 thì dịch vụ logistics được hiểu là: “hoạt động
thương mại theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hay nhiều công việc bao
61
gồm: nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục
giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc
các dịch vụ khác có liên quan tới hàng hoá theo thoả thuận của khách hàng để
hưởng thù lao” [16]. Theo định nghĩa này thì chỉ cần thực hiện một công việc trong
số các công việc được liệt kê như giao hàng hay đóng gói bao bì cũng được hiểu là
làm dịch vụ logistics. Đây là cách hiểu không chính xác về dịch vụ logistics và đã
đồng nhất quan điểm cho rằng logistics chính là tên gọi khác của hoạt động giao
nhận vận tải. Tuy nhiên, Luật Thương mại 2005 ra đời với nhiều thay đổi đáng kể
đã đáp ứng được yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế thế giới với hàng loạt các
quy định thể hiện sự tiến bộ trong nhận thức của các nhà làm luật trong việc thừa
nhận dịch vụ logistics là một dịch vụ thương mại. Đây là một tiền đề quan trọng và
là cơ sở pháp lý để phát triển ngành logistics tại Việt Nam. Bên cạnh đó, ngày
26/06/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 115/2007/NĐ-CP về điều kiện
kinh doanh dịch vụ vận tải biển.Đây cũng là nghị định có hướng dẫn chi tiết về việc
thực hiện Luật thương mại 2005 về dịch vụ logistics đối với vận tải biển. Nghị định
này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày đăng Công báo và bãi bỏ Nghị định
số 57/2001/NĐ-CP ngày 24/8/2001 của Chính phủ về điều kiện kinh doanh vận tải
biển và Nghị định số 10/2001/NĐ-CP ngày 19/3/2001 của Chính phủ về điều kiện
kinh doanh dịch vụ hàng hải. Hai Nghị định này không còn phù hợp với quá trình tự
do hóa dịch vụ hàng hải mà Chính phủ Việt Nam đã cam kết trong ASEAN và
WTO.
Ngoài các quy định điều chỉnh trực tiếp dịch vụ logistics theo Luật Thương
mại 2005, một số văn bản pháp luật liên quan cũng đã được sửa đổi bổ sung như Bộ
Luật hàng hải, Luật hàng không dân dụng, Luật đường sắt, Luật đường thủy nội địa,
Luật giao thông đường bộ… góp phần tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho ứng
dụng và phát triển dịch vụ logistics tại Việt Nam.
Logistics là loại hình dịch vụ tổng hợp, trong đó, giao nhận và vận tải chiếm
tỷ trọng lớn nên các văn bản pháp lý và hướng dẫn điều chỉnh hoạt động giao nhận
vận tải cũng sẽ ảnh hưởng và tác động tới việc kinh doanh dịch vụ logistics. Đặc
biệt, logistics là sự phát triển cao và hoàn thiện của vận tải đa phương thức. Do đó,
62
cần chú ý tới các văn bản luật điều chỉnh hoạt động này trong quá trình tiến hành
hoạt động logistics tại Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam có Nghị định 125/NĐ-CP
ngày 29/10/2003 về vận tải đa phương thức, trong đó, vận tải đa phương thức ở Việt
Nam mới chỉ dừng lại ở việc đảm nhận công đoạn đầu và cuối của quá trình vận tải,
tức là Việt Nam chỉ thực hiện giao hàng tới địa chỉ cuối cùng nằm sâu trong nội địa
đối với hàng nhập khẩu hoặc tiến hành gom hàng, tổ chức vận chuyển hàng ra cảng
và làm thủ tục xuất khẩu. Như vậy, thực chất hoạt động vận tải đa phương thức ở
Việt Nam vẫn phải tuân theo các quy tắc quốc tế về vận tải đa phương thức. Đồng
thời, trên các tuyến vận tải nội địa, các tổ chức kinh doanh vận tải đa phương thức
cũng phải chấp hành luật đường bộ, sử dụng toa xe phải chấp nhận luật đường sắt…
Tuy nhiên, yếu tố luật pháp cũng chính là một trong những nguyên nhân cơ
bản làm cho việc áp dụng và phát triển logistics ở Việt nam hiện chưa thật sự mạnh
mẽ. Mặc dù những năm qua, Nhà nước đã hết sức cố gắng tạo dựng một hệ thống
pháp luật thích hợp và đảm bảo sự chắc chắn, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho
quá trình hội nhập khu vực cũng như trên thế giới nhưng rất nhiều vấn đề còn phải
trông đợi ở tương lai. Chính phủ và các địa phương Việt Nam đã có rất nhiều cố
gắng nhằm hoàn chỉnh thể chế luật pháp và giảm nhẹ thủ tục hành chính. Song do
trình độ hiểu biết, kinh nghiệm soạn thảo và ban hành còn hạn chế cho nên cũng
không tránh khỏi những nhược điểm và bất cập. Hệ thống luật pháp nhìn chung còn
yếu và thiếu đã ảnh hưởng tới sự phát triển hoạt động kinh tế thương mại nói chung
và hoạt động logistics nói riêng.
Về các cam kết trong lĩnh vực, cho đến năm 2008, theo nhận định của Cục
Quản lý cạnh tranh (Bộ Thương mại), Việt Nam đã đạt được mức tự do hoá có ý
nghĩa với một lộ trình hợp lý đối với các phân ngành bổ trợ cho dịch vụ logistics.
Các cam kết cũng đã đạt được mức độ bảo hộ cần thiết đối với một số ngành, phân
ngành dịch vụ nhạy cảm như dịch vụ chuyển phát nhanh, dịch vụ phân phối, dịch vụ
vận tải đường sắt và vận tải đường bộ nội địa... Đối với một số phân ngành dịch vụ
mà Việt Nam có lợi thế cung cấp như dịch vụ xếp dỡ container với hàng hoá vận
chuyển đường biển, đại lý kho bãi và đại lý vận tải hàng hoá, dịch vụ thông quan...,
chúng ta cũng đặt hạn chế vốn góp nước ngoài không vượt quá 50% hoặc đặt ra lộ
63
trình cho phép tăng vốn góp của phía nước ngoài từ 5-7 năm.
Riêng trong nội bộ ASEAN, thời hạn từ năm 2013 đã được đặt ra để tự do
hoá hầu hết các phân ngành chủ yếu trong dịch vụ logistics. Bước tiến đáng kể
trong tự do hoá dịch vụ logistics trong ASEAN được thể hiện trong phân ngành
dịch vụ vận tải hàng hoá bằng đường hàng không, đã được tự do hoá hoàn toàn vào
năm 2008.
Trong hoạt động dịch vụ vận tải đường biển, nhiều nước trên thế giới rất dè
dặt khi tiến hành tự do hoá dịch vụ này. Một số nước cho rằng tự do hoá dịch vụ
vận tải biển là một “con dao hai lưỡi”, nếu cho phép tự do hoá quá nhanh thông qua
cho phép xây dựng một thị trường vận tải biển thực sự cạnh tranh với sự tham gia
của nhiều loại hình doanh nghiệp, kể cả các nhà vận tải nước ngoài thì có thể sẽ
giúp làm giảm chi phí vận tải nhưng lại gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới ngành vận
tải biển quốc gia. Chi phí vận tải biển có thể giảm trong ngắn hạn nhưng về lâu dài
nền kinh tế sẽ phụ thuộc vào các nhà vận tải biển nước ngoài. Ngược lại, nếu bảo hộ
ngành vận tải biển quá mức thì chi phí vận tải sẽ rất cao, làm giảm sức cạnh tranh
của hàng hoá quốc gia trên thị trường thế giới. Vì vậy, đối với dịch vụ vận tải biển,
Việt Nam có cam kết trong 2 phân ngành vận tải hành khách và vận tải hàng hoá
(trừ vận tải nội địa). Trong đó, đến năm 2009, các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài
được thành lập liên doanh vận hành đội tàu treo cờ Việt Nam với vốn góp không
quá 49% vốn pháp định của liên doanh. Đối với các loại hình công ty khác, mức
góp vốn cam kết là 51%, đến năm 2010 là 100%. Số lượng liên doanh được thành
lập vào thời điểm gia nhập không vượt quá 5, sau đó, cứ 2 năm một sẽ cho phép
thêm 3 liên doanh, và đến năm 2012 sẽ không hạn chế số lượng liên doanh [6].
Tuy nhiên, tính đến tháng 5/2007, Việt Nam đã cho phép thành lập 14 công
ty liên doanh vận tải biển và container với vốn góp của nước ngoài. Mặc dù vậy, các
cam kết quốc tế của Việt Nam trong ASEAN và WTO còn tương đối chặt chẽ.
Hiện nay, dịch vụ vận tải đường bộ là ngành dịch vụ có mức độ mở cửa khá
cao và đang là loại hình vận tải năng động nhất tại Việt Nam. Cho đến nay đã có
trên 20 liên doanh vận tải đường bộ được cấp phép hoạt động, tạo ra một thị trường
64
đầy cạnh tranh. Điều đáng chú ý vốn góp của phía nước ngoài trong một số liên
doanh đã được đẩy lên trên mức 51%, tức là mức trần quy định trong các cam kết
quốc tế của Việt Nam.
Đối với dịch vụ vận tải đường sắt, trong cam kết với WTO, Việt Nam đã cho
phép nước ngoài tham gia liên doanh với vốn góp tối đa đạt 49%, nhưng do đường
sắt đòi hỏi phải có mức đầu tư khá lớn về cơ sở hạ tầng cung cấp dịch vụ nên dự
kiến trong ngắn hạn chưa có sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài.
Còn về dịch vụ vận tải hàng không Việt Nam đang phát triển theo hướng
giảm dần độc quyền, tạo môi trường cạnh tranh để nâng cao chất lượng phục vụ.
Những dịch vụ chính được cam kết là dịch vụ tiếp thị và bán sản phẩm hàng không,
dịch vụ đặt giữ chỗ máy tính và dịch vụ sửa chữa và bảo dưỡng máy bay. Việt Nam
hiện cam kết rất thông thoáng khi cho phép các hãng hàng không nước ngoài có
hiệp định song phương được tự do cung cấp các dịch vụ hàng không này với điều
kiện sử dụng hệ thống mạng của Việt Nam.
2. Các chính sách hợp tác về logistics của Việt Nam trong GMS
Trong bản “Tuyên bố chung của Hội nghị cấp cao GMS lần thứ 3” (tháng
03/2009 tại Viên Chăn - Lào), Chính phủ các quốc gia thuộc GMS, trong đó có
Chính phủ Việt Nam đã cam kết sẽ hỗ trợ tiến trình thuận lợi hóa thương mại và
giao thông, nhằm gắn kết và tăng cường những nỗ lực hợp tác trong khuôn khổ
Hiệp định Vận tải qua biên giới (CBTA) và SFA-TFI: “Chúng tôi sẽ tăng cường
những nỗ lực tạo lập môi trường mang tính cạnh tranh và thuận lợi cho thương mại,
đầu tư và phát triển khu vực tư nhân, coi đây là yếu tố quyết định đối với việc phát
triển những hành lang giao thông thành hành lang kinh tế. Chúng tôi sẽ ban hành
các chính sách kinh tế hữu hiệu, triển khai các khuôn khổ pháp luật và thể chế, thúc
đẩy quá trình tự do hóa, hài hòa và đồng bộ hóa các cơ chế thương mại và đầu tư.”
Tuy nhiên, hiện tại, sự thiếu nhất quán về thể chế luật pháp giữa các quốc gia
trong GMS là một lý do không nhỏ làm hoạt động logistics trên hành lang này chưa
thể bùng nổ mạnh mẽ.
Ví dụ đầu tiên là các thủ tục rườm rà tại biên giới. Rất nhiều doanh nghiệp
65
kinh doanh du lịch của Thái Lan trong buổi quảng bá về du lịch miền Trung do
Tổng cục du lịch và Sở du lịch Đà Nẵng, Quảng Nam và Thừa Thiên – Huế tổ chức
tại Bangkok (Thái Lan) đã không ngớt lời than phiền về các thủ tục rườm rà của ta
khi họ đưa khách Thái theo tuyến đường bộ vào Việt Nam qua cửa khẩu Lao Bảo.
Tờ khai phương tiện xuất cảnh nhập cảnh tại cửa khẩu Lao Bảo có quá nhiều mục
phải kê khai và còn rườm rà, trong khi phía Lào và Thái Lan sử dụng những tờ khai
đơn giản hơn. Theo ông Thavorn Nguyen Van – giám đốc công ty du lịch Thái –
Việt Tour – cho biết: “Chúng tôi khi đưa khách vào Việt Nam đều đầy đủ giấy tờ
nhưng luôn bị hạch hỏi và tốn nhiều thời gian để làm thủ tục qua cửa khẩu”. Nhiều
người đồng tình với ông Thavorn và cho biết thủ tục đầy đủ nhưng nếu không “bôi
trơn” thì việc phải chờ hàng giờ để được qua cửa khẩu là chuyện thường ngày.
Chưa kể còn có không ít lời than phiền thái độ lạnh lùng, tắc trách của cán bộ hải
quan, biên phòng ở các cửa khẩu. Ông Phùng Cư, giám đốc công ty du lịch Tân
Hồng (Đà Nẵng), đơn vị chuyên đứng ra tổ chức đón các tour caravan đường bộ từ
Thái Lan sang miền Trung cho biết do chưa có sự thống nhất, liên kết giữa các cơ
quan hải quan, công an, biên phòng... nên việc tổ chức đón các đoàn khách caravan
vào Việt Nam vẫn còn hạn chế. Trong khi nhu cầu đi du lịch bằng ôtô từ Thái Lan
và các nước trong khu vực ASEAN đến miền Trung rất lớn.
Tiếp đến là trở ngại tay lái nghịch giữa Thái Lan và Việt Nam. Đại diện
Tổng cục du lịch Thái Lan, ông Pichai Raktashinha – giám đốc phát triển du lịch
Đông Dương – cho biết việc Chính phủ Việt Nam chưa cho phép ôtô tay lái nghịch
của Thái Lan vào Việt Nam là một hạn chế lớn cho việc thu hút nguồn khách du
lịch đường bộ. Hiện tại phía Thái Lan muốn đưa khách caravan đi ôtô tay lái nghịch
vào Việt Nam phải chờ xin phép Chính phủ rất lâu và mất nhiều thời gian mới tổ
chức tour được. Điển hình, để tổ chức cho đoàn caravan gần 100 chiếc ôtô tay lái
nghịch của Thái Lan vào miền Trung tham dự các hoạt động của tuần lễ EWEC
diễn ra tại Đà Nẵng từ 25/8 đến 2/9/2007, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch ở
Đà Nẵng đã phải mất hàng chục cuộc đi lại và “ăn dầm nằm dề” ở Hà Nội mới xin
được giấy phép và quyết định của Phó thủ tướng cho việc đón đoàn. Ôtô của Việt
Nam hiện chưa được vào Thái Lan, còn ôtô tay lái nghịch của Thái Lan chỉ được
66
vào đến khu thương mại tại cửa khẩu Lao Bảo. Rất nhiều doanh nghiệp và các quan
chức trong Chính phủ hai nước kiến nghị cần sớm giải quyết việc cho phép ôtô của
hai nước Việt Nam và Thái Lan được lưu thông qua lại để tăng nguồn khách du lịch
và hàng hóa. Đồng thời, thống nhất mức phí giữa các trạm thu phí giao thông của ba
nước. Cũng theo phản ảnh của doanh nghiệp, hiện nội dung tờ khai hải quan đối với
hàng hóa xuất nhập khẩu, quá cảnh và phương tiện vận tải tạm nhập tái xuất còn
chưa thống nhất tại cả ba nước.
Dù còn nhiều hạn chế như vậy, phải công nhận rằng Chính phủ các quốc gia
trong khu vực nói chung, Chính phủ Việt Nam nói riêng cũng đã nỗ lực hết sức
mình nhằm hoàn thiện dần thể chế luật pháp:
- Mặc dù các quy định của Hiệp định GMS chưa hoàn toàn có hiệu lực,
song trên thực tế để đáp ứng yêu cầu liên kết và hội nhập kinh tế, các nước GMS đã
bước đầu thực hiện thí điểm những quy định của Hiệp định GMS về kiểm tra hải
quan tại một số cặp cửa khẩu dọc hành lang EWEC là Mukdahan - Savanakhet và
Dansavanh - Lao Bảo.
- Về thủ tục xuất nhập cảnh cho khách du lịch ở các cửa khẩu, Thứ trưởng
Bộ Ngoại giao Việt Nam Vũ Dũng tại Diễn đàn đầu tư – thương mại – du lịch trên
hành lang kinh tế Đông – Tây cuối năm 2006 cũng cho hay Chính phủ hai nước
Việt Nam và Lào sẽ ngồi lại với nhau để cùng bàn bạc và thống nhất về việc cho xe
thông thương qua cửa khẩu Lao Bảo và Dansavanh, đồng thời thủ tục tại các cửa
khẩu sẽ được cải tiến để giảm thời gian đi lại cho du khách. Theo thỏa thuận mới
nhất đạt được giữa các Chính phủ và các địa phương nằm trên hành lang kinh tế
Đông – Tây, phương tiện chở khách du lịch được đi từ Thái Lan qua Lào và theo
các cửa khẩu Cầu Treo (quốc lộ 8), Lao Bảo (quốc lộ 9), Bờ Y (quốc lộ 40) vào
Việt Nam và đến các điểm du lịch dọc quốc lộ 1 từ Vinh tới Nha Trang.
- Ngoài khuôn khổ của Hợp tác GMS (như Hội nghị thượng đỉnh GMS I, II
và III) Hợp tác và liên kết ASEAN, với sáng kiến của Lào Cai, vào tháng 9 - 2004,
5 tỉnh, thành phố đầu mối quan trọng dọc tuyến Hành lang kinh tế Côn Minh - Hải
Phòng là Hà Nội, Hải Phòng, Lào Cai, Quảng Ninh của Việt Nam và Vân Nam của
Trung Quốc đã họp với nhau lần thứ nhất tại Hà Nội nhằm tìm kiếm các cơ chế
67
thích hợp thúc đẩy hợp tác song phương, đa phương giữa các đối tác này. Cũng theo
thoả thuận, vào cuối năm 2005 các địa phương này đã gặp nhau tại Côn Minh để
đánh giá lại kết quả đã đạt được, tìm kiếm các giải pháp mới cũng như định hướng
thúc đẩy quá trình này.
- Đặc biệt, trên hành lang kinh tế Bắc - Nam, hiện tại giữa Lào Cai và Vân
Nam đang hoàn thành các thủ tục cuối cùng cho phép ô tô của Việt Nam được chở
hàng hoá đi về trong phạm vi châu Hồng Hà. Đối với xe chở hàng tươi sống được
phép chở tới thành phố Côn Minh.
- Thay mặt Thủ tướng Chính phủ, mới đây Phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm
đã chỉ đạo các Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải, Bộ
Công Thương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp
với các Bộ, ngành và địa phương liên quan thực hiện các giải pháp, chính sách, thỏa
thuận tạo thuận lợi cho hợp tác phát triển Hành lang kinh tế Đông – Tây…
Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam cũng đang từng bước đưa các hiệp định song
phương vào áp dụng trong thực tiễn để tăng cường hợp tác và hội nhập sâu rộng
hơn trong khu vực. Tiêu biểu là:
- Ngày 29/5/2007, Văn phòng Chính phủ đã có Công văn (số 291/VPCP-
QHQT) truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ việc triển khai Bản Ghi
nhớ Việt Nam-Trung Quốc thực hiện Hiệp định tạo thuận lợi vận tải người và hàng
hóa qua lại biên giới giữa các nước tiểu vùng Mê Công mở rộng (Hiệp định GMS)
tại cặp cửa khẩu quốc tế Lào Cai-Hà Khẩu. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ:
Quốc phòng, Công an, Tài chính, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Y tế có kế
hoạch đào tạo cán bộ, chuẩn bị các văn bản hướng dẫn và lắp đặt các trang thiết bị
cần thiết tại cửa khẩu quốc tế Lào Cai để thực hiện Hiệp định GMS theo đúng cam
kết tại Bản Ghi nhớ giữa hai Chính phủ Việt Nam và Trung Hoa về triển khai ban
đầu tại cặp cửa khẩu Lào Cai (Việt Nam) - Hà Khẩu (Trung Quốc) ký ngày
20/3/2007 tại Bắc Kinh . Thủ tướng cũng yêu cầu UBND tỉnh Lào Cai bố trí mặt
bằng, lập dự án xây dựng bãi kiểm tra chung hàng hóa tại cửa khẩu quốc tế Lào Cai,
phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan chỉ đạo các ban, ngành có liên quan của
68
tỉnh triển khai thực hiện Hiệp định GMS theo thỏa thuận của Bản Ghi nhớ nêu trên..
- Việt Nam cũng chủ động ký kết với Campuchia các hiệp định song
phương tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư giữa hai nước. Hiệp định quá cảnh
hàng hoá giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Hoàng gia
Campuchia ký ngày 04/11/2008 và đã có hiệu lực thực hiện từ ngày 03 tháng 01
năm 2009.
- Ngày 25/03/2005, Chính phủ Lào và Việt Nam đã ký Bản ghi nhớ
(MOU) bước đầu triển khai Hiệp định GMS (về kiểm tra một cửa) tại cửa khẩu Lao
Bảo – Dansavanh. Cơ chế kiểm tra hải quan một cửa - một điểm dừng cũng được
thực hiện từ 30/06/2005. Để thực hiện quyết định của Hội nghị thượng đỉnh GMS
lần thứ hai (Côn Minh, Trung Quốc, 7/2005), Việt Nam cũng hợp tác với các nước
GMS triển khai các biện pháp khác nhau để giảm chi phí và thúc đẩy thương mại -
đầu tư và các hoạt động kinh doanh tại khu vực GMS cũng như đơn giản hoá và cải
thiện các thủ tục hải quan, kiểm tra hàng hoá, thủ tục thương mại và cấp visa cho
doanh nhân.
Do đó, ta có thể lạc quan rằng, mặc dù hiện nay hệ thống pháp luật Việt Nam
tuy chưa đầy đủ và còn khá nhiều bất hợp lý; song với sự đổi mới của nền kinh tế xã
hội, nhận thức đúng đắn của các nhà lãnh đạo và đặc biệt là nỗ lực của toàn thể bộ
máy chính quyền và các doanh nghiệp, thể chế pháp luật của Việt Nam nói chung
và các địa phương nằm trên hành lang kinh tế Đông – Tây nói riêng sẽ được điều
chỉnh, phát triển và hoàn thiện dần, nhằm tạo ra một môi trường pháp lý thông
thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế xã hội trong đó có hoạt
động logistics phát triển.
3. Hiệp định tạo thuận lợi vận tải ngƣời và hàng hoá qua lại biên giới giữa
các nƣớc Tiểu vùng Mêkông mở rộng (Hiệp định GMS/Hiệp định CBTA):
Đây được coi là Hiệp định khung điều chỉnh các hoạt động giao thông vận
tải qua biên giới giữa các nước trong GMS, trong đó có hoạt động logistics. Hiệp
định do 3 nước của GMS là Thái Lan, Lào và Việt Nam khởi xướng và ký kết tháng
11/1999, nay đã được cả 6 quốc gia thành viên tham gia. Nội dung của các Phụ lục
69
và Nghị định nhằm từng bước chuẩn hóa và nâng cấp các tiêu chuẩn về lĩnh vực
giao thông vận tải cũng như hòa nhập yêu cầu kỹ thuật, quản lý nhà nước tại các
điểm biên giới nhằm tạo thuận lợi cho các phương tiện giao thông giữa các nước
GMS thông quan lẫn nhau. Sáu nước GMS đã hoàn thành quá trình đàm phán về
các Phụ lục và Nghị định thư của Hiệp định trong năm 2005 để có thể bắt đầu thực
hiện từ năm 2006.
Hiệp định đề cập chi tiết đến tất cả các khía cạnh liên quan tới việc tạo thuận
lợi hoá vận tải qua biên giới, bao gồm: Giao thông vận tải, Công an, Hải quan, Y tế,
Kiểm dịch động thực vật, Xuất nhập cảnh…
Cho đến nay, 16 trong tổng số 20 Phụ lục và Nghị định thư của Hiệp định đã
được Chính phủ các nước GMS ký kết. Đó là các Phụ lục quy định về vận chuyển
các hàng hoá nguy hiểm, các hàng hoá dễ hỏng, quy định về đăng kí phương tiện
vận chuyển quốc tế, thuận lợi hoá hoạt động hải quan cửa khẩu, quy định về di
chuyển người qua biên giới, tiêu chuẩn cấp phép đối với doanh nghiệp vận tải qua
biên giới, vận tải đa phương thức, hệ thống phân loại hàng hoá, tiêu chuẩn cấp giấy
phép lái xe… và 3 Nghị định thư về xác định hành lang, tuyến đường và các điểm
nhập cảnh và xuất cảnh; các khoản thu liên quan đến vận tải quá cảnh; tần suất, khối
lượng, cấp giấy phép và hạn ngạch [1].
Theo Hiệp định, mỗi nước thuộc khu vực sẽ được cấp 500 giấy phép vận
chuyển qua lại GMS. Các nước cũng đã thống nhất các điều kiện về giấy phép lái
xe, bảo hiểm, tính an toàn của các phương tiện, các tiêu chuẩn kỹ thuật, đăng ký,
các biển báo và báo hiệu đường bộ. Về tần suất, khối lượng vận tải và cấp phép vận
tải, các nước liên quan sẽ xây dựng chung một mẫu giấy phép, vận chuyển khách
theo tuyến cố định sẽ tuỳ thuộc vào nhu cầu do các bên thương lượng… Những quy
định chung này sẽ góp phần cắt giảm chi phí và thời gian di chuyển, thúc đẩy
thương mại qua biên giới và những cơ hội hợp tác kinh tế tại các khu vực cửa khẩu,
đồng thời tăng cường sự giao lưu giữa các cộng đồng.
Trong việc thực hiện Hiệp định CBTA, Việt Nam có một vai trò hết sức tích
cực. Đến nay, Việt Nam đã phê duyệt cả 16/16 Phụ lục và các Nghị định thư đã ký
trong khuôn khổ hiệp định GMS và đang trong quá trình dự thảo các văn bản hướng
70
dẫn thực hiện hiệp định. Việt Nam và Lào là 2 nước đầu tiên thực hiện thí điểm
những quy định của Hiệp định GMS về kiểm tra hải quan tại một số cặp cửa khẩu
dọc hành lang EWEC là Mukdahan - Savanakhet (Thái Lan - Lào) và Dansavanh -
Lao Bảo (Lào - Việt Nam).
Như vậy, cho đến thời điểm hiện tại, phía Việt Nam đã cùng phía Lào triển
khai thực hiện Hiệp định GMS tại cặp cửa khẩu Lao Bảo-Dansavanh vào tháng
6/2005; ký với phía Campuchia Bản ghi nhớ về việc thực hiện Hiệp định GMS tại
cặp cửa khẩu Mộc Bài-Ba Vet vào tháng 4/2006. Việt Nam và Trung Quốc cũng đã
ký kết Bản ghi nhớ về việc thực hiện Hiệp định GMS tại cặp cửa khẩu Lào Cai-Hà
Khẩu. Hi vọng, trong tương lai, khi Hiệp định có hiệu lực trên toàn bộ các nước
trong Tiểu vùng, hiệu quả hoạt động giao thông vận tải nói riêng, hoạt động
logistics nói chung cũng như toàn bộ các hoạt động thương mại đầu tư trong khu
vực sẽ được nâng cao, tạo điều kiện thuận lợi để GMS sớm trở thành một Tiểu vùng
“hội nhập, hoà hợp và thịnh vượng” như mục tiêu ban đầu đã đề ra.
IV. NGUỒN NHÂN LỰC TRONG HOẠT ĐỘNG LOGISTICS CỦA VIỆT NAM TRONG HỢP TÁC TIỂU VÙNG MÊKÔNG
Ngân hàng thế giới đã xếp hạng chỉ số hiệu quả hoạt động logistics năm
2008, trong đó Việt Nam đứng thứ 53 trên toàn thế giới và thứ 5 trong khu vực
ASEAN. Cái yếu về logistics của Việt Nam có khá nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguồn nhân lực và việc áp dụng công nghệ thông tin. Cũng như phần lớn các nước
trong Tiểu vùng, Việt Nam hiện nay còn rất thiếu những người điều hành có năng
lực và kinh nghiệm trong lĩnh vực logistics. Trong bất cứ một lĩnh vực nào, con
người và tri thức vẫn là một yếu tố quyết định. Không có hoặc thiếu người điều
hành có năng lực và kinh nghiệm thì không thể thành công và đạt hiệu quả trong
hoạt động thực tiễn. Logistics là một lĩnh vực rất mới đối với các doanh nghiệp nói
chung và các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải giao nhận của Việt nam nói
riêng cho nên nguồn nhân lực còn rất yếu và thiếu. Lực lượng lao động trong lĩnh
vực vận tải và giao nhận của Việt Nam khá dồi dào nhưng trong lĩnh vực logistics
còn rất ít và năng lực còn chưa cao, đặc biệt là khả năng liên kết các hoạt động
71
trong chuỗi logistics. Đội ngũ cán bộ quản lý điều hành hiện đang được đào tạo để
đáp ứng nhu cầu quản lý, kinh nghiệm ngày càng được nâng cao, hầu hết đạt trình
độ đại học. Tuy nhiên họ vẫn làm việc với phong cách quản lý cũ, chưa thích ứng
kịp với điều kiện hoàn cảnh mới, chưa được trang bị toàn diện kiến thức về logistics
cũng như quản trị logistics. Về đội ngũ nhân viên nghiệp vụ phần lớn có bằng cấp
nhưng lại chưa được đào tạo chuyên sâu về logistics, tất cả đều phải tự nâng cao
trình độ. Về đội ngũ công nhân lao động trực tiếp trên thực tế trình độ học vấn thấp
cho nên còn rất mơ hồ với hoạt động logistics. Công việc của họ đơn điệu chỉ là bốc
xếp, kiểm đếm, coi giữ, lái xe… và sử dụng sức người nhiều hơn là máy móc.
Tại Việt Nam hiện nay hầu như chưa có một trường lớp nào chuyên đào tạo
bài bản về Logistics. Viện logistics đầu tiên của Việt Nam - Viện tiếp vận MGC
Institute of Logistics (MIL) mới chính thức đi vào hoạt động từ tháng 4/2008 và chủ
yếu cung cấp những khoá học ngắn hạn. Kiến thức mà cán bộ nhân viên tại các
doanh nghiệp hiện có được là do học từ nước ngoài, đọc từ sách vở hoặc một phần
kiến thức tại các trường ĐH Ngoại thương, ĐH Giao thông Vận tải, ĐH Hàng hải,
CĐ Hải quan, một số chương trình đào tạo ngắn hạn do Tổ chức Kinh tế Xã hội
Châu Á Thái Bình Dương của Liên hiệp quốc tài trợ (UN-ESCAP). Trong các dự án
này đối tượng đào tạo chủ yếu dành cho các công chức nhà nước (Public Sector), số
ít còn lại mới dành cho các doanh nghiệp (Private Sector). Hiện tại trong các nước
GMS chỉ còn lại 4 nước chưa có trường chuyên ngành về Logistics, đó là Việt Nam,
Lào, Camphuchia và Myanma. Nhiều sinh viên Việt Nam đang được đào tạo tại
Singapore hay một số nước khác theo chương trình đào tạo chuyên ngành của họ.
Nhiều doanh nhân kinh doanh dịch vụ Logistics ở Việt Nam đã phải gửi con em đi
đào tạo tại Australia, Hoa Kỳ, UK và những nước có ngành công nghệ Logistics
cao. Chưa nói đến chi phí, chỉ tính đến chuyện học chuyên ngành Logistics ở nhiều
nguồn tại nước ngoài, khi về Việt Nam số con em này phải trang bị thêm thực tiễn
kinh doanh, pháp luật Việt Nam liên quan và nhất là cách kinh doanh Logistics tại
Việt Nam.
Trong khuôn khổ hợp tác GMS về phát triển nguồn nhân lực, các nước đang
tiến tới triển khai Kế hoạch Phnôm Pênh về cung cấp các chương trình đào tạo về
72
quản lý phát triển cho các quan chức Chính phủ. Kế hoạch này được hi vọng sẽ sớm
giải quyết được phần nào vấn đề nguồn nhân lực ở Việt Nam nói riêng và các quốc
gia GMS nói chung.
V. TÌNH HÌNH LIÊN KẾT GIỮA CÁC TỔ CHỨC, DOANH NGHIỆP CUNG ỨNG VÀ SỬ DỤNG DỊCH VỤ LOGISTICS Ở VIỆT NAM VÀ CÁC NƢỚC TRONG TIỂU VÙNG
Xu hướng liên kết, hợp tác đang được các Doanh nghiệp hướng tới và được
coi là giải pháp hữu hiệu nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển và tăng sức
cạnh tranh. Trong bối cảnh này, các Hiệp hội doanh nghiệp đang trở thành một bộ
phận quan trọng của nền kinh tế thị trường gồm: Nhà nước, Doanh nghiệp và Hiệp
hội doanh nghiệp. Các Hiệp hội giữ vai trò là đại diện cho các doanh nghiệp, bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của các Doanh nghiệp hội viên, hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh
tranh, phát triển thị trường cho Doanh nghiệp, là đầu mối, cầu nối doanh nghiệp với
các cơ quan quản lý nhà nước và chính phủ, doanh nghiệp với doanh nghiệp. Sau
khi trở thành thành viên của WTO, vai trò của các Hiệp hội doanh nghiệp ở Việt
Nam càng được nâng cao.
Chính vì vậy, Nhà nước đã dự thảo và đang lấy ý kiến của các tổ chức liên
quan nhằm sớm ban hành Luật về Hội để thể chế hoá đường lối quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, củng cố nền dân chủ XHCN, phát huy
tính năng động sáng tạo của công dân, tổ chức Việt Nam vào công cuộc phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, tăng cường quản lý của Nhà nước đối với Hội; Luật
về Hội khi được ban hành cùng các Luật khác tạo môi trường pháp lý cho sự thành
lập và hoạt động của Hội đúng mục đích và có hiệu quả.
1. Về phía các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics:
Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics/giao
nhận - kho vận Việt Nam còn thấp do quy mô của các doanh nghiệp này là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, thiếu nguồn nhân lực có kỹ thuật, chất lượng dịch vụ còn
yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường và thấp kém hơn các nước
trong khu vực. Trong khi đó, thị trường logistics Việt Nam lại có một doanh số
73
khổng lồ và hứa hẹn tốc độ tăng trưởng rất mạnh mẽ. Theo một bài viết đăng trên
báo điện tử Vietnamnet vào tháng 04/2007, ông Nguyễn Tương - chuyên viên cao
cấp UN ESCAP cho biết, dịch vụ logistics ở Việt Nam chiếm khoảng từ 15-20%
GDP. Ước tính GDP nước ta năm 2006 khoảng 57,5 tỷ USD. Như vậy, chi phí
logistics chiếm khoảng 8,6-11,1 tỷ USD. Đây là một khoản tiền rất lớn.
Do đó, vai trò cầu nối giữa Doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước, tổng
hợp các yêu cầu, nguyện vọng của doanh nghiệp Hội viên để phản ảnh và kiến nghị
với các cơ quan quản lý nhà nước để tháo gỡ những ách tắc trong hoạt động sản
xuất kinh doanh, tạo môi trường thuận lợi và thông thoáng cho doanh nghiệp của
Hiệp hội ngày càng trở nên quan trọng hơn.
Hiện tại, ở nước ta, các doanh nghiệp mới liên kết thành lập Hiệp hội Giao
nhận – Kho vận (VIFFAS) chứ chưa có Hiệp hội Logistics. Ngoài các hoạt động hỗ
trợ liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước, VIFFAS cũng đang thực hiện khá tốt
vai trò đối ngoại của mình:
- Hiệp hội duy trì quan hệ thường xuyên với FIATA; làm đầy đủ trách
nhiệm thành viên quốc gia với FIATA.
- Làm đầy đủ nghĩa vụ thành viên đối với AFFA, tham gia các cuộc họp
định kỳ của AFFA.
- Tiếp và trao đổi thông tin, kinh nghiệm hoạt động với các đoàn :
+ Hiệp hội logistics – Singapore (2 lần)
+ Đoàn nghiên cứu về logistics của JETRO - Nhật Bản.
+ Đoàn của Hiệp hội Giao nhận Nhật Bản JIFFA (2 lần).
+ Đoàn Đại diện Cảng tự trị Le Havre.
+ Đoàn Port Sale của cảng Guangyang – Hàn quốc.
+ Đại diện của International Enterprise Singapore.
+ Đại diện Lãnh sự quán Australia tại TP. HCM trao đổi thông tin về
logistics tại Việt Nam.
- Đã ký kết bản ghi nhớ về hợp tác trao đổi kinh nghiệm hoạt động/thông
tin với: + TIFFA.
+ Các Hiệp hội Giao nhận – Vận tải của các nước GMS (trừ Trung
74
Quốc và Lào không tham gia).
- Đã chắp mối để Cục Hàng hải Thái Lan cùng Cục Hàng hải Việt Nam
đồng tổ chức khoá đào tạo giảng viên hướng dẫn về vận tải đa phương thức và quản
lý logistics tại Hà Nội (31/10-04/11/2005); và cử cán bộ Hiệp hội tham dự.
- Thông tin tới các Hội viên về các hội chợ, triển lãm quốc tế, hội nghị
quốc tế, hội thảo quốc tế liên quan đến giao nhận vận tải/logistics do các tổ chức
quốc tế, khu vực hoặc quốc gia tổ chức để các Hội viên tuỳ ý xử lý.
- Tiếp tục kiến nghị Bộ Thương mại, Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam xúc tiến nhanh việc thành lập Hiệp hội Chủ hàng (Shipper Council) để
làm đối trọng với các hàng vận tải nhằm giải quyết những vấn đề liên quan.
- Tăng cường hợp tác với các tổ chức đồng nghiệp trong khu vực và trên
thế giới để phát triển dịch vụ giao nhận – kho vận, logistics của Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế nói chung và phát triển thương mại nói riêng của đất nước
[24].
Ngoài ra, Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam đã chính thức đề nghị Chính
phủ cho phép đổi tên thành Hiệp hội Logistics Việt Nam nhằm đáp ứng sự phát
triển của dịch vụ logistics tại nước ta. Với tên gọi và nội dung hoạt động mới, Hiệp
hội được kỳ vọng sẽ tạo ra được sự hợp tác chặt chẽ và có hiệu quả giữa các doanh
nghiệp logistics trong nước nói riêng và giữa doanh nghiệp trong nước với các
doanh nghiệp logistics trong khu vực cũng như trên thế giới nói chung.
2. Về phía các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ logistics:
Trong thương mại quốc tế, hiệu quả hoạt động của thương nhân phụ thuộc
rất nhiều vào chi phí và thời gian xuất/nhập khẩu hàng hoá. Do vậy, các chủ hàng,
những nhà xuất - nhập khẩu Việt Nam đang phải đối mặt với những khó khăn rất
lớn vì chi phí và thời gian xuất nhập khẩu hàng hoá ở Việt Nam vẫn cao một cách
75
tương đối so với các nước trong khu vực.
Bảng 19: Thời gian và chi phí trung bình cho việc xuất - nhập khẩu
hàng hoá ở Việt Nam
Xuất khẩu Nhập khẩu
Số thủ tục giấy tờ 6 8
Thời gian hoàn tất (ngày) 24 23
Chi phí (USD/TEU) 669 901
Nguồn: Doing Business 2009 – WB
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp kinh doanh xuất - nhập khẩu Việt Nam hầu
hết là những doanh nghiệp nhỏ lẻ, tự kinh doanh là chính mà chưa quan tâm đến
việc thuê ngoài dịch vụ logistics để tiết kiệm thời gian và chi phí. Theo các thống kê
hiện nay, trung bình chi phí sản xuất một thành phẩm thì có tới 1/3 là chi cho các
hoạt động về vận tải, kho bãi, xếp dỡ, hải quan…[8]. Khi sử dụng logistics, việc
xuất/nhập khẩu hàng hoá nói chung sẽ giảm được chi phí do chi phí gửi một lô hàng
lớn sẽ rẻ hơn một lô hàng lẻ, thêm vào đó, sẽ không phải mất thêm một khoản chi
phí thuê kho. Hơn nữa, doanh nghiệp còn giảm được thời gian “chết” mà hàng phải
chờ đợi để được giải phóng tại cảng, đảm bảo đúng lịch trình của hàng, để hàng đến
nơi đúng lúc và đúng chỗ. Điều đó sẽ làm giảm giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận
và uy tín trong việc giao hàng của chủ hàng.
Với nhiều lợi ích hấp dẫn như vậy, nhận thức của các doanh nghiệp Việt
Nam đang dần được thay đổi. Họ đã bắt đầu quan tâm hơn đến việc thuê ngoài dịch
vụ logistics của các công ty logistics uy tín. Tuy nhiên, do đây vẫn là một dịch vụ
tương đối mới mẻ ở Việt Nam nên chắc chắn các doanh nghiệp sẽ gặp phải nhiều
khó khăn trong việc tiếp cận, sử dụng và đảm bảo lợi ích chính đáng của mình. Do
đó, vai trò của một Hiệp hội Chủ hàng Việt Nam là vô cùng to lớn và cấp thiết.
Ngoài ra, giá cước vận tải biển đối với hàng hoá XNK hiện tại chúng ta thả
nổi hoàn toàn. Nghĩa là giá lên xuống, tăng giảm bao nhiêu hoàn toàn do các hãng
tàu nước ngoài thao túng (vì họ nắm tới trên 80% thị phần vận tải xuất nhập khẩu
của Việt Nam). Ví dụ, năm 2007 vừa qua, các hãng tàu nước ngoài dự định tăng giá
76
cước chở Container bằng cách đặt ra phụ phí THC (terminal handling charge – phí
dịch vụ container tại cảng). Nếu họ thành công trong việc thu phụ phí này thì hàng
năm các doanh nghiệp XNK Việt Nam phải chi ra khoảng gần 100 triệu USD - một
con số đáng kể trong bối cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay. Các cơ quan có liên
quan của ta như Ban Vật giá Chính phủ, Bộ Thương mại, Cục Hàng hải, Phòng
Thương mại và Công Nghiệp Việt Nam đã phải chật vật lắm mới hoãn được việc áp
dụng thu phí THC nói trên. Ở các nước trên thế giới đều có Hiệp hội chủ hàng
(Shippers Council) để làm đối tác với các hãng tàu biển nhằm cùng nhau xây dựng
hình thành một biểu giá cước và phụ phí hợp lý cùng có lợi và có thể chấp nhận
được. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn chưa có Hiệp hội này.
Chính vì thế, năm 2008, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã chỉ đạo
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành,
Hiệp hội ngành nghề liên quan khẩn trương hoàn tất các công việc chuẩn bị để
thành lập ngay Hiệp hội Chủ hàng của Việt Nam. Dự kiến, đến tháng 06/2009, Việt
Nam sẽ có một Hiệp hội chủ hàng làm cơ sở để giải quyết các vấn đề liên quan tới
hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và bảo vệ quyền lợi của các chủ hàng Việt
Nam nói riêng trước những biện pháp được đưa ra áp dụng từ phía các Hiệp hội
Chủ tàu và Hiệp hội vận tải trong nước cũng như nước ngoài.
VI. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG LOGISTICS
CỦA VIỆT NAM TRONG HỢP TÁC TIỂU VÙNG MÊKÔNG
1. Kết quả đạt đƣợc
Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói chung và các doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ vận tải giao nhận nói riêng đều đã có những nhận thức nhất định
ở các cấp độ khác nhau về vai trò, ý nghĩa và tác dụng của logistics.
Các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam đánh giá cao vai trò của việc ứng
dụng logistics. Các doanh nghiệp này nhận thấy rằng việc sử dụng nguồn lực từ bên
ngoài cho quá trình sản xuất kinh doanh sẽ đem lại hiệu quả cao hơn so với việc sử
dụng nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp sản
77
xuất vật chất, việc sử dụng các dịch vụ logistics từ bên ngoài sẽ giúp cho doanh
nghiệp “rảnh tay” tập trung vào các khâu sản xuất, tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt
nhất với giá cả cạnh tranh nhờ việc giảm tối đa các chi phí không cần thiết.
Còn đối với các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ vận tải giao nhận, cũng đánh giá cao việc ứng dụng và phát triển
logistics trong các doanh nghiệp của mình. Các doanh nghiệp này đều nhận thấy
việc triển khai áp dụng logistics trong doanh nghiệp sẽ giảm được chi phí, nâng cao
chất lượng sản phẩm và dịch vụ cung cấp, mở rộng quy mô thị trường.
Việt Nam đã có một khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động logistics
Luật Thương mại Việt Nam 2005 được xem là bước đột phá mới trong hoạt
động logistics, là cánh cửa mở ra cho các nhà kinh doanh dịch vụ logistics bước vào
một cách đàng hoàng và cũng là cánh cửa để người kinh doanh dịch vụ logistics tiếp
cận gần hơn nữa hoạt động logistics trên toàn thế giới. Nghị định 140/2007/NĐ-CP
quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ Logistics và
giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics ra đời cũng
được coi là một hành lang pháp lý quan trọng để phát triển loại hình dịch vụ này ở
Việt Nam, tạo cơ sở cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ này hoạt động. Bên
cạnh đó, Việt nam cũng đã ban hành Nghị định 125 và dự thảo Nghị định 125 sửa
đổi, điều chỉnh hoạt động vận tải đa phương thức – đây là hình thức kinh doanh có
tác động quan trọng và chiếm đa phần trong toàn bộ chuỗi logistics. Phát triển được
hoạt động vận tải đa phương thức tại Việt Nam giúp thúc đẩy phát triển hoạt động
logistics bên thứ ba và hướng tới loại hình logistics bên thứ tư, thứ năm.
Việt Nam đã có được một cụm cảng container VITC đầu tiên và đang
xây dựng một số cảng container ở khu vực phía Nam
Cảng VITC là cụm cảng container đầu tiên tại Việt Nam có triển khai hoạt
động logistics. Cảng VITC được xây dựng và thiết kế theo tiêu chuẩn quốc tế,
chuyên dùng để xếp dỡ container. Năm 2002, cảng VITC được đánh giá là cảng
năng động nhất so với các cảng container trong khu vực Đông Nam Á. Tại cảng
này, các dịch vụ giá trị gia tăng logistics (VAL) và các dịch vụ giá trị gia tăng tiện
78
ích (VAF) đã được phép triển khai.
Các công ty giao nhận vận tải lớn đã bước đầu tiến hành cung cấp các
dịch vụ logistics bên cạnh các công ty logistics của nước ngoài ở Việt Nam. Một số
công ty đã cung cấp các dịch vụ vận tải đa phương thức trong Tiểu vùng qua lãnh
thổ Việt Nam, đặc biệt là đối với các lô hàng sắt thép, nhựa đường…
Tóm lại, sau hơn 10 năm ứng dụng và phát triển logistics, Việt Nam đã đạt
được một số bước đột phá trong nhận thức về vai trò, ý nghĩa và tác dụng của
logistics đối với nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như doanh nghiệp sản xuất,
kinh doanh nói riêng. Tuy nhiên, nếu chỉ với tốc độ ứng dụng và phát triển như hiện
nay thì Việt Nam khó lòng theo kịp với tốc độ phát triển của ngành này trên thế
giới. Nhà nước cần có nhiều động thái tích cực hơn nữa để phát triển ngành logistics
nhằm đẩy mạnh quá trình hội nhập khu vực và thế giới.
2. Hạn chế cần khắc phục
2.1. Cơ sở hạ tầng, kỹ thuật yếu kém và thiếu đồng bộ
Có tới hơn 70% các doanh nghiệp tại khu vực GMS đều công nhận rằng sự
yếu kém của cơ sở hạ tầng là một trong những nguyên nhân khiến cho việc triển
khai hoạt động logistics gặp khó khăn.
Về cơ sở hạ tầng kho bãi: phát triển logistics đòi hỏi phải có hệ thống kho
bãi toàn cầu, nhưng hiện nay các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam chưa có
đủ tiềm lực về vốn để xây dựng hệ thống kho bãi tiêu chuẩn toàn cầu và trang thiết
bị chuyên môn. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất kỹ thuật tại các cảng biển, ga đường sắt
– những điểm triển khai logistics quan trọng trong toàn hệ thống lại chưa được tốt.
Trong lĩnh vực vận tải biển, Việt Nam có 126 cảng biển lớn nhỏ nhưng chỉ
có rất ít cảng có khả năng tiếp nhận và xếp dỡ container. Các thiết bị vận tải tại cảng
biển vẫn còn lạc hậu, chưa có khả năng bắt kịp với các nước trong khu vực. Do
không có đủ phương tiện xếp dỡ cho nên hàng hoá thường xuyên bị tắc lại tại cảng.
Chi phí lưu kho tại các cảng Việt Nam còn khá cao. Điều này đã dẫn tới tổng chi
phí cho logistics tăng lên mà thời gian của chuỗi logistics bị kéo dài. Như vậy là đã
đi ngược lại với mục tieu của logistics là tối ưu hoá về chi phí và thời gian. Cảng
biển liên thông với hệ thống vận tải nội địa còn hạn chế. Các cảng cạn nội địa như
79
ICD Phú Thuỵ, ICD Phước Long… đã và đang được khai thác nhằm góp phần giảm
tải, tăng khả năng giải phóng hàng ở các cảng biển nhưng so với nhu cầu về vận tải
hàng hoá thì cầu luôn lớn hơn cung rất nhiều.Quy mô lực lượng vận tải cũng nhỏ bé
và còn lạc hậu. Đội tàu biển Việt Nam chủ yếu là tàu có trọng tải nhỏ, cơ cấu đội
tàu không đồng bộ, nhất là tàu container. Luồng lạch tại các cảng biển nhỏ hẹp và bị
sa bồi không cho phép các tàu lớn ra vào được. Tàu biển tối đa có thể ra vào một số
cảng chính có trọng tải là 30.000 DWT. Hiện tại, chỉ có khoảng 20 cảng biển có thể
tham gia việc vận tải hàng hoá quốc tế, các cảng đang trong quá trình container hóa
nhưng chỉ có thể tiếp nhận các đội tàu nhỏ và chưa dược trang bị các thiết bị xếp dỡ
container hiện đại, còn thiếu kinh nghiệm trong điều hành xếp dỡ container.
Việc xây dựng các cảng chưa tính đến điều kiện thời tiết khí hậu, chưa tính
đến sự tăng trưởng của khu vực được xây dựng cảng. Xảy ra tình trạng có cảng
không khai thác hết năng lực. Trong khi có khu vực cảng không đáp ứng được yêu
cầu lượng hàng thông qua. Hoặc có cảng do thời tiết mà trong một năm có thời gian
cảng không thể hoạt động được.
Đường hàng không hiện nay cũng không đủ phương tiện chở hàng (máy
bay) cho việc vận chuyển vào mùa cao điểm. Chỉ có sân bay Tân Sơn Nhất là đón
được các máy bay chở hàng quốc tế. Các sân bay quốc tế như Tân Sơn Nhất, Nội
Bài, Đà nẳng vẫn chưa có nhà ga hàng hóa, khu vực họat động cho đại lý logistics
thực hiện gom hàng và khai quan như các nước trong khu vực đang làm. Khả năng
bảo trì và phát triển đường bộ nối với sân bay còn thấp, đường không dược thiết kế
để vận chuyển container, các đội xe tải chuyên dùng hiện đang cũ kỹ.
Về cơ sở hạ tầng đường bộ: hệ thống giao thông đường bộ chưa thích ứng
với sự phát triển của các loại hình vận tải mới, đa số là các tuyến đường xây dựng
đã lâu, tốc độ trung bình của phương tiện vận chuyển vì thế không cao. Hầu hết các
tuyến đường cũng không đáp ứng được nhu cầu vận chuyển container vì chỉ cho
phép đạt trọng tải 30 tấn, trong khi đó trọng lượng container tiêu chuẩn quốc tế ISO
668 thì loại container 20 feet là 20 tấn, loại 40 feet là 30,5 tấn chưa kể trọng lượng
vỏ container từ 3-4 tấn và trọng tải của xe tải chuyên dụng là 12 tấn.
Về cơ sở hạ tầng đường sắt: hệ thống đường sắt nước ta được xây dựng
80
trong thời kỳ pháp thuộc nên giờ đây đã lỗi thời, không đáp ứng được nhu cầu vận
chuyển hàng hoá nhanh. Việc đầu tư cho vận tải đường sắt ở Việt Nam là rất khó
khăn bởi giá của các xe siêu trường siêu trọng vận chuyển các container 40 feet là
rất cao. Đây là nguyên nhân khiến cho mức độ container hoá trong phương thức vận
tải này rất thấp, dẫn tới việc phát triển vận tải đa phương thức liên quan tới vận
chuyển đường sắt bị hạn chế. Ngoài ra, tât cả các cảng biển, trừ cảng Hải Phòng,
đều chưa nối với các tuyến đường sắt cũng như nối với các khu công nghiệp lớn.
Cảng Cái Lan đã xây xong 4 bến đầu tiên nhưng cũng chưa có tuyến đường sắt nào
nối đoạn đường dài 4km từ Hạ Long đến Cái Lân. Theo số liệu của Tổng cục Thống
kê, lượng hàng hoá vận chuyển đường sắt chiếm khoảng 15% tổng lượng hàng hoá
lưu thông. Tuy nhiên, đường sắt VN vẫn đang đồng thời sử dụng 2 loại khổ ray
khác nhau (1.000 và 1.435 mm) với tải trọng thấp. Chuyến tàu nhanh nhất chạy
tuyến Hà Nội - TP Hồ Chí Minh (1.630 km) hiện vẫn cần đến 32 tiếng đồng hồ. Và
khá nhiều tuyến đường liên tỉnh, liên huyện đang ở tình trạng xuống cấp nghiêm
trọng.
Về cơ sở hạ tầng thông tin: Phát triển hoạt động logistics cũng yêu cầu phải
có hệ thống quản lý trên mạng chuẩn để có thể đưa ra được những thông tin chính
xác và kịp thời về tình hình hàng hóa cũng như giúp nhà quản lý logistics đưa ra các
quyết định có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, hiện nay việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong quản lý vẫn còn nhiều hạn chế. Thứ nhất là các giấy tờ cần thiết cho công tác
quản lý hiện nay vẫn chưa được quy chuẩn trên toàn quốc, chứ chưa nói đến quốc
tế. Công cuộc cải cách hành chính đã đưa ra một số loại giấy tờ quy chuẩn nhưng
việc cải cách này mới chỉ được tiến hành thí điểm tại một số cửa khẩu và cảng biển
lớn của quốc gia chứ chưa áp dụng trên diện rộng. Thứ hai, hệ thống máy tính nối
mạng cho đến nay vẫn chưa hoàn toàn được liên kết, dẫn đến việc xử lý thông tin
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trên toàn thế giới. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn
chủ yếu sử dụng hệ thống thông tin truyền thống (điện thoai, fax, email, giấy tờ…)
để trao đổi thông tin, gửi và nhận chứng từ. Hầu như chưa có công ty Việt Nam nào
có phần mềm hay hệ thống thông tin kết nối với các đối tác của riêng mình. Website
của các doanh nghiệp logistics, vận tải giao nhận mới chỉ được xây dựng mang tính
81
phong trào, chỉ giới thiệu sơ qua về hoạt động, dịch vụ chủ yếu của công ty, còn
thiếu chuyên nghiệp và không được cập nhật. Trong khi đó, nhiều nước quanh ta
như Singapore, Thái Lan, Malaysia… đã áp dụng thương mại điện tử (EDI), cho
phép các bên liên quan liên lạc với nhau bằng kỹ thuật mạng tin học tiên tiến, thông
quan bằng các thiết bị điện tử… Sự lạc hậu về quản lý, trao đổi công nghệ thông tin
so với các nước trong khu vực và trên thế giới đã làm giảm sự kết nối và cập nhật
thông tin của Việt Nam và thế giới, từ đó làm chậm quá trình liên lạc trong chuỗi
Logistics (chủ yếu trên phạm vi xuyên quốc gia) và tăng chi phí liên lạc cũng như
gây lãng phí thời gian đi lại, trao đổi.
Về sự liên kết giữa các phương thức vận tải và vận tải đa phương thức:
Các hình thức tổ chức vận tải như biển, sông, bộ, hàng không… vẫn chưa có sự kết
hợp một cách hiệu quả và chưa tổ chức tốt các điểm chuyển tải. Ví dụ, mỗi khi có
chuyển tải lại phải xếp container lên ô tô rồi mới đưa ra khu vực đường sắt để xếp
lên toa. Do đó, tăng thêm thời gian và chi phí xếp dỡ. Khi khối lượng hàng hoá lớn
thì phải dồn dịch hàng từ ga ra cảng và ngược lại một cách tương đối khó khăn và
phải đi qua nhiều đường ngang dân sinh… Chính hệ thống vận tải, kho bãi chưa
đồng bộ, chưa liên thông, chưa đạt chuẩn quốc tế và chất lượng dịch vụ chưa cao
như vậy đã cản trở quá trình áp dụng và phát triển logistics trong vận tải giao nhận
nói riêng và trong logistics nói chung.
Ngoài ra, tại các trung tâm cung ứng và thực hiện các Dịch vụ Logistics là
cảng, sân bay, thành phố... Việc cấm các xe tải hoạt động vào giờ cao điểm, hạn chế
tốc độ trên các tuyến giao thông đường bộ là làm giảm, làm chậm lại dòng lưu
chuyển hàng hoá trong Logistics.
2.2. Hành lang pháp lý cho hoạt động logistics chưa đầy đủ
Hiện tại, cơ chế, chính sách pháp luật của Việt Nam vẫn chưa thực sự tạo
thuận lợi cho logistics phát triển. Chính sách pháp luật của nước ta những năm qua
đang trong quá trình hoàn thiện nên tính đồng bộ để thoả mãn yêu cầu phát triển
logistics theo một chuẩn mực chung. Logistics là loại hình dịch vụ tổng hợp, quá
trình hoạt động có liên quan đến nhiều lĩnh vực như thương mại, vận tải, hải quan,
đo lường kiểm định… mà mỗi bộ ngành, bộ luật như Luật Thương mại, Bộ Luật
82
Hàng hải, Luật Đầu tư, Luật cạnh tranh đều có những quy định riêng, đôi khi còn
mâu thuẫn nhau và hiện giờ vẫn còn thiếu các nghị định hướng dẫn thi hành. Các
thủ tục về tài chính, thông quan, hải quan, vận hành tàu… ở các cảng biển, cảng
hàng không, các tuyến đường… cũng chưa đồng bộ và rườm rà, làm cho quá trình
lập và lưu chuyển chứng từ rất phức tạp, gây lãng phí thời gian. Cơ chế quản lý
chồng chéo ở cấp tỉnh và địa phương dẫn tới hiện tượng tham nhũng và quan liêu,
làm tăng thời gian và chi phí cho vận tải, logistics. Chính sự thiếu minh bạch trong
các thủ tục hải quan và quá trình vận tải cũng như sự rườm rà của các thủ tục chính
là yếu tố cản trở việc vận hành một chuỗi logistics thông suốt. Trong khi đó, việc
cấp phép hoạt động cho các công ty tư nhân của chính quyền địa phương lại được
thực hiện đại trà, không xem xét khả năng tài chính, cơ sở vật chất của đơn vị xin
phép, khiến rất nhiều công ty logistics ra đời nhưng hoạt động lại riêng rẽ, nhỏ lẻ.
Hoạt động logistics trong định nghĩa của Luật Thương mại chưa đủ bao quát
về hoạt động logistics theo đúng nghĩa. Chẳng hạn như, các quy định về dịch vụ
chuyển phát nhanh hiện nay còn coi là dịch vụ bưu điện chứ chưa được coi là một
loại hình dịch vụ logistics và còn chịu sự điều tiết của các nghị định, thông tư về
bưu chính viễn thông.
Logistics chỉ mới được công nhận là hành vi thương mại trong Luật Thương
Mại sửa đổi, có hiệu lực ngày 1 tháng 1 năm 2006. Nghị định 140 quy định chi tiết
thi hành Luật thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ Logistics và giới hạn
trách nhiệm đối với doanh nhân kinh doanh dịch vụ Logistics chỉ mới được ban
hành ngày 5 tháng 9 năm 2007. Do quá mới nên theo nhiều chuyên gia trong ngành
thì các văn bản vẫn còn sơ sài chưa thể hiện hết hành lang pháp lý để logistics thật
sự phát triển. Nghị định này chưa thực sự phù hợp với việc kinh doanh dịch vụ
logistics hiện nay, cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, qua đó tạo môi trường pháp lý
thuận lợi cho việc phát triển dich vụ logistics trong ngành hàng hải. Luật giao thông
đường bộ cần được sửa đổi đưa thêm việc quy định trách nhiệm dân sự của người
vận tải đường bộ nhằm tạo thuận lợi cho vận tải đa phương thức. Ngay cả việc thi
hành luật cạnh tranh trong lĩnh vực này cũng không được chú trọng bởi hiện có quá
83
nhiều biểu hiện của việc kinh doanh không lành mạnh chưa được xử lý triệt để.
Quy định trong Nghị định 140 và Nghị định 125 cũng còn mâu thuẫn về một
số khía cạnh của dịch vụ logistics, do đó, cần xem xét sớm việc sửa đổi Nghị định
125/2003/NĐ-CP ngày 29/10/2003 về Vận tải đa phương thức để phù hợp với tình
hình hiện nay sau khi Việt Nam đã gia nhập WTO.
Tuy nhiên, cùng với việc cải thiện hành lang pháp lý thì sự thiếu hiểu biết về
kiến thức pháp luật của các doanh nghiệp kinh doanh logistics cũng là vấn đề đáng
quan tâm hiện nay. Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ này còn không nắm rõ
các quy định của pháp luật, các công ước quốc tế và cũng chưa biết sử dụng công cụ
pháp luật để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Nhiều doanh nghiệp khi có rủi
ro hoặc phát sinh sự cố mới tìm đến luật sư để tư vấn. Nhiều trường hợp, đối tác
nước ngoài đề nghị chọn luật nước ngoài làm luật điều chỉnh mà các doanh nghiệp
cũng chấp thuận trong khi hiểu biết quá ít về luật nước đó.
2.3. Nguồn nhân lực còn thiếu kiến thức chuyên môn
Nguồn nhân lực luôn là yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.
Lực lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực logistics ở Việt Nam hiện nay chưa
thực sự được đào tạo một cách bài bản, chính quy về lĩnh vực này. Hiện tại, hầu như
các trường Đại học trong cả nước đều chưa có môn học nào mang tên logistics.
Kiến thức để làm việc của các nhân viên tại các doanh nghiệp trong ngành chủ yếu
là dựa trên kiến thức cơ bản về vận tải, kinh tế mà tự tìm hiểu hay từ kinh nghiệm
làm việc cho các công ty nước ngoài. Thực tế cũng cho thấy, nguồn nhân lực
logistics chủ yếu được tuyển theo những kĩ năng thông thường và kiến thức cơ bản
rồi sau đó làm việc tại công ty theo những hướng dẫn, quy trình đơn giản sẵn có của
các doanh nghiệp Việt Nam.
Trong công ty vận tải giao nhận hay logistics của Nhà nước, đội ngũ quản lý
chủ yếu là những cán bộ chủ chốt có thâm niên trong ngành, chưa kịp thời nâng cao
những kĩ năng quản lý hiện đại và cập nhật những mô hình quản lý mới. Trong các
công ty vận tải giao nhận tư nhân mới thành lập hiện đang hình thành đội ngũ cán
bộ quản lý trẻ, năng động, được trang bị nhiều kỹ năng như tin học, ngoại ngữ, tổ
chức quản lý… nhưng còn thiếu kinh nghiệm, thiếu tư duy chiến lược và chưa dược
84
đào tạo chuyên sâu về logistics. Ở các doanh nghiệp nước ngoài, đội ngũ quản lý có
khi toàn bộ là người nước ngoài hay những người được đào tạo bài bản ở nước
ngoài, các nhân viên được tuyển chọn kỹ càng, có trình độ cao… nhưng phần lớn
các doanh nghiệp này lại đi thuê doanh nghiệp Việt Nam thực hiện các công đoạn
riêng lẻ, được thực hiện bởi đội ngũ công nhân Việt Nam.
Để giải quyết tình trạng khó khăn về nguồn nhân lực này, VIFFAS hàng năm
vẫn kết hợp với các Hiệp hội giao nhận thuộc các nước ASEAN tổ chức các khoá
đào tạo nghiệp vụ giao nhận, gom hàng đường biển nhưng hoạt động này cũng
không thường xuyên, chỉ có 1 đến 2 khoá trong năm và số lượng cán bộ quản lý
cũng như nhân viên nghiệp vụ được tham gia rất hạn chế nên chưa đáp ứng được
như cầu. VIFFAS cũng đã kết hợp với Hiệp hội giao nhận Singapore tổ chức các
khoá học về logistics và gửi một số cán bộ giao nhận của Việt Nam sang học tập,
nhưng hoạt động này đòi hỏi kinh phí lớn và vẫn chưa giải quyết được tận gốc vấn
đề là rất nhiều cán bộ giao nhận Việt Nam chưa hiểu biết nhiều về dịch vụ logistics.
Hoạt động giao nhận, vận tải Việt Nam hiện nay đang trong thời kỳ hội nhập
với khu vực và quốc tế. Do đó, đội ngũ lao động làm việc trong lĩnh vực này đòi hỏi
phải có trình độ ngoại ngữ và tin học tốt để có khả năng xử lý kịp thời các thông tin
và tình huống xảy ra vì hoạt động logistics trong Tiểu vùng chủ yếu phục vụ cho
hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, thực tế cho thấy đội ngũ lao động này không
những chưa đáp ứng được các yêu cầu về mặt chuyên môn mà trình độ ngoại ngữ
và tin học của họ cũng cần phải được đào tạo thêm nữa. Có tới hơn 90% số DN cho
biết nguồn nhân lực chưa đủ kinh nghiệm là một trong những nguyên nhân cản trở
việc triển khai rộng rãi dịch vụ logistics tại Việt Nam hiện nay.
Theo ước tính của VIFFAS, nếu chỉ tính các nhân viên trong các công ty hội
viên (khoảng 140 doanh nghiệp) thì tổng số nhân viên là khoảng 4000 người. Ðây là
lực lượng chuyên nghiệp, ngoài ra ước tính khoảng 4000-5000 người thực hiện bán
chuyên nghiệp [50]. Nguồn nhân lực được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau. Cho
đến thời điểm hiện nay, logistics vẫn chưa được đào tạo chuyên sâu tại các trường
đại học. Sinh viên các trường Hàng hải, Ngoại thương, Giao thông vận tải chỉ học
chừng 20 tiết có liên quan. Với 20 tiết như vậy cho toàn bộ một chuỗi kinh doanh
85
tương đối phức tạp như logistics thì quả là khó khăn quá lớn cho thầy cô truyền đạt
đầy đủ lượng kiến thức cho sinh viên. Hơn thế nữa, sách giáo khoa, tài liệu tham
khảo về loại hình dịch vụ này vẫn còn chưa nhiều. Ngay cả số chuyên gia được đào
tạo chuyên sâu vẫn còn quá thiếu so với nhu cầu.
Theo thống kê khoảng 6000 nhân viên hiện đang làm việc trong lĩnh vực
logistics thì những người có kinh nghiệm và hiểu biết về luật pháp quốc tế còn thiếu
nhiều. Hiện nguồn nhân lực chính cho ngành này đều được lấy từ các đại lý hãng
tàu, các công ty giao nhận vận tải biển và sử dụng theo khả năng hiện có. Trong khi
đó, đây là lĩnh vực đòi hỏi chuyên gia không những am hiểu hệ thống pháp luật,
thông lệ của nước sở tại mà còn phải am hiểu pháp luật và có mối quan hệ rộng
khắp trên thế giới.
2.4. Quy mô của các doanh nghiệp logistics tại Việt Nam còn nhỏ, tổ chức
quản lý kém, chưa đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài
Quy mô các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics của Việt Nam (về
con người, doanh số, số vốn…) còn rất nhỏ, gây trở ngại lớn cho việc áp dụng và
phát triển logistics ở Việt Nam. Vốn đăng kí trung bình của các doanh nghiệp chỉ có
1,5 tỷ đồng. Các doanh nghiệp tư nhân, hiện đang chiếm khoảng 70% tổng số doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics, có số vốn rất nhỏ và phần lớn chỉ có khoảng
10 - 20 nhân viên. Có doanh nghiệp đăng kí vốn kinh doanh từ 300 – 500 triệu đồng
(tương đương khoảng 18.000 – 31.000 USD) và chỉ có 3 - 5 nhân viên [55]. Trong
khi đó, logistics đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn: chi phí kho bãi, chi phí thiết bị, chi phí
mua công nghệ thông tin quản lý như SAP, MAPS, Oracle… vượt quá năng lực tài
chính của các doanh nghiệp trong lĩnh vực logistics. Ví dụ, để ký vận đơn vận
chuyển hàng hoá vào Mỹ thì doanh nghiệp phải ký quỹ 150.000 USD nhưng nhiều
doanh nghiệp Nhà nước sau khi cổ phần hoá từng bộ phận mới chỉ hình thành
những công ty cổ phần có số vốn khoảng 5 tỷ đồng (tương đương trên 30.000
USD). Do đó, các doanh nghiệp không thể chen chân vào thị trường logistics thế
giới.
Ngoài ra, theo nhận xét của ông B.Grabowski - Tổng giám đốc Maersk
Logistics Trung Quốc, các công ty trong lĩnh vực vận tải, giao nhận, logistics của
86
Việt Nam và Trung Quốc chỉ tập trung vào các dịch vụ chi phí thấp, lợi nhuận cao,
và chỉ dựa trên các quan hệ ngắn hạn như giao nhận, môi giới, cho thuê hơn là thực
hiện trọn vẹn chuỗi logistics.
Trong khi đó, các hãng logistics nước ngoài đã có sẵn cơ sở hạ tầng, vật chất,
kỹ thuật phục vụ cho hệ thống logistics, nên các doanh nghiệp Việt Nam muốn cạnh
tranh với các công ty này trong bất cứ khía cạnh nào như giá hoặc chất lượng dịch
vụ đều gặp rất nhiều khó khăn nếu không muốn nói là trong thời điểm hiện nay, các
doanh nghiệp của Việt Nam hoàn toàn chưa có khả năng cạnh tranh với các doanh
nghiệp nước ngoài. Để phát triển ngành logistics một cách toàn diện đòi hỏi quá
trình nỗ lực và cộng tác không ngừng nghỉ của các doanh nghiệp Việt Nam với
chính các đối tác nước ngoài, học tập kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm chuyên
môn của họ cho tới khi có thể tự mình đứng ra hoạt động độc lập.
Theo cam kết, năm 2009, Việt Nam sẽ mở cửa một số lĩnh vực của logistics.
Việt Nam sẽ cho phép các công ty dịch vụ hàng hải, logistics 100% vốn nước ngoài
hoạt động bình đẳng tại Việt Nam. Điều này đặt doanh nghiệp Việt Nam trước
thách thức cạnh tranh gay gắt trên sân nhà. Áp lực cạnh tranh rất lớn từ việc hội
nhập quốc tế, sự lớn mạnh không ngừng của thị trường cũng như những đòi hỏi
ngày càng tăng từ phía khách hàng cũng đang đặt ra những thách thức không nhỏ
cho các doanh nghiệp logistic.
2.5. Thiếu vốn đầu tư
Vấn đề vốn đầu tư để tạo cơ sở cho hoạt động logistics cũng là vấn đề nan
giải đối với Việt nam hiện nay. Muốn đẩy mạnh việc ứng dụng và phát triển công
nghệ logistics phải phát triển cơ sở hạ tầng cũng như các yếu tố có liên quan trong
vận chuyển và giao nhận. Việc cải tạo, nâng cấp hay xây dựng mới hệ thống cảng
biển sân bay, nhà ga xe lửa, kho tàng bến bãi, sự hợp lý của mạng lưới giao thông,
các phương tiện vận chuyển, trang thiết bị xếp dỡ ở các điểm vận tải… đòi hỏi
nguồn vốn đầu tư không nhỏ. Thiếu vốn cho đầu tư và phát triển luôn là căn bệnh
kinh niên đối với các quốc gia kém phát triển như Việt Nam. Ví dụ dễ nhận thấy
như cảng VICT, một cảng mới xây dựng và được đầu tư tương đối tốt để phục vụ
vận tải container bằng đường biển thì cũng mới chỉ có 2 dàn cần cẩu Gantry. Tất cả
87
các cảng biển của Việt nam hiện nay cũng chỉ có 6 thiết bị chuyên dùng cẩu
container đạt mức độ khá với giá trị đầu tư cho mỗi thiết bị từ 4,5 đến 6,5 triệu
USD/chiếc. Trong khi đó thì một cảng Singapore đã có 100 cần cẩu trị giá 8,5 đến
11 triệu USD/chiếc. Đầu tư xây dựng cảng biển hiện nay cũng phải chi phí hàng
trăm triệu USD đấy là chưa kể việc mua trang thiết bị, các phương tiện vận chuyển
chuyên dụng như tàu biển, máy bay, ôtô… Quả thật, muốn phát triển phải có vốn
đầu tư, mà vốn đầu tư nếu chỉ dựa vào thắt lưng buộc bụng nền kinh tế quả là điều
rất khó đối với Việt nam hiện nay.
2.6. Các doanh nghiệp kinh doanh logistics hoạt động còn riêng rẽ, chưa
tạo được mối liên kết chặt chẽ
Theo xu hướng hiện nay, mỗi doanh nghiệp cần tập trung vào thế mạnh của
mình và sẽ thuê ngoài dịch vụ không phải là thế mạnh của mình. Như vậy, tính liên
kết là cần thiết hơn bao giờ hết. Ví dụ đơn giản nhất là trong hoạt động giao nhận
vận tải, để việc ứng dụng logistics được hiệu quả đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa
doanh nghiệp giao nhận vận tải, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, các tổ chức tín
dụng – ngân hàng, các cơ quan hữu quan liên quan tới ngành như cơ quan hải quan,
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ cảng biển, cảng nội địa, cảng hàng không…
Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong lĩnh vực logistics của Việt Nam hiện nay,
thay vì liên kết, tập trung sức mạnh và tận dụng thế mạnh của mình, lại cạnh tranh
không lành mạnh với nhau, tự làm yếu mình và làm lợi cho các doanh nghiệp nước
ngoài. Trong đó, cạnh tranh về giá thành là chủ yếu. Có trường hợp cùng với một
khách hàng nhưng mỗi công ty về logistics lại chào một giá khác nhau, chuyện hạ
giá dưới giá thành nhằm mục đích loại đối thủ là chuyện vẫn xảy ra thường xuyên.
Một hành vi cạnh tranh không lành mạnh khá tinh vi nữa hiện nay là sự thông đồng
giữa một số doanh nghiệp để thắng thầu trong việc cung cấp dịch vụ logistics, giành
công việc cho mình, ngăn các doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc loại bỏ
các đối thủ muốn tham gia khác. Ngoài ra, độc quyền trong nhiều dịch vụ logistics
của doanh nghiệp lớn, đặc biệt là dịch vụ kho bãi, khiến doanh nghiệp nhỏ không có
đất để tham gia, cản trở việc ứng dụng và phát triển toàn diện logistics ở Việt Nam.
Trong khi các doanh nghiệp của ta còn đang mải cạnh tranh với nhau thì các
88
tập đoàn vận tải logistics trên thế giới như APL, MOL, Maersk Logistics… - những
tập đoàn hùng mạnh với khả năng cạnh tranh lớn, bề dày kinh nghiệm và nguồn tài
chỉnh khổng lồ với hệ thống mạng lưới đại lý dày đặc, hệ thống kho hàng chuyên
dụng, dịch vụ khép kín trên toàn thế giới, mạng lưới thông tin rộng khắp, trình độ tổ
chức quản lý cao – đã và đang từng bước xâm nhập, củng cố, chiếm lĩnh thị trường
trong nước. Đáng buồn hơn, mặc dù việc cạnh tranh không lành mạnh diễn ra khá
phổ biến nhưng kể từ khi xuất hiện dịch vụ mới này cho đến nay vẫn chưa có một
vụ tranh chấp kinh tế nào trong lĩnh vực logistics được xử lý theo pháp luật. Việc
thực thi Luật Cạnh tranh đối với lĩnh vực này dường như vẫn bị bỏ trống.
Một vấn đề tồn tại lâu nay nữa là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các nhà
sản xuất của Việt Nam, do nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan, nhưng
nguyên nhân chính là không nắm vững các luật lệ của các quốc gia có quan hệ
thương mại lớn với chúng ta, nên thường có thói quen mua CIF, bán FOB. Vì vậy,
quyền thuê tàu, quyền vận tải, rồi quyền mua bảo hiểm đều thuộc về đối tác nước
ngoài. Chính vì thế, các doanh nghiệp Việt Nam lại càng khó có cơ hội phát triển
các dịch vụ logistics của mình.
2.7. Sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan chức năng về logistics còn
chưa được chặt chẽ
Thứ nhất, việc kết nối các công ty logistics với cơ quan Nhà nước chưa chặt,
hỗ trợ của nhà nước không tốt: Logistics xuất hiện ở nước ta được hơn 10 năm nay
nhưng phải tới một vài năm trở lại đây mới được Nhà nước quan tâm tới. Tuy
nhiên, vai trò của Nhà nước Việt Nam trong việc định hướng và hỗ trợ phát triển
cho lĩnh vực logistics chưa được nhiều. Thể hiện ở chỗ, chi phí đầu tư cho cơ sở hạ
tầng vật chất logistics còn thấp, không đáp ứng được đòi hỏi quá lớn của ngành
logistics. Các chính sách phát triển ngành logistics còn thiếu tính tổng thể và dài
hạn. Nhà nước chưa đóng vai trò là chiếc cầu nối giữa các doanh nghiệp trong nội
bộ ngành logistics, doanh nghiệp trong ngành với các doanh nghiệp liên quan hay
các doanh nghiệp trong và ngoài nước với nhau. Hiện nay, nước ta mới có Hiệp hội
giao nhận và kho vận Việt Nam chứ chưa có Hiệp hội Logistics. Đây là điểm thua
89
kém so với các nước trong khu vực…
Thứ hai, sự phối hợp Bộ ngành trong nước chưa tốt. Các cơ quan có liên
quan trong lĩnh vực bao gồm Bộ Giao thông vận tải, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Công
thương, Cục Đường sắt, Cục Đường bộ, Cục Hàng hải, Cục Hàng không… Mỗi cơ
quan lại có các chương trình, kế hoạch, định hướng hoạt động riêng, chưa thống
nhất với nhau, hạn chế khả năng kết nối các phương thức vận tải trong chuỗi
Logistics và hoạt động vận tải đa phương thức còn gặp nhiều khó khăn. Các địa
phương, tỉnh, thành phố cũng chưa tạo được mỗi liên kết chặt chẽ. Các quy hoạch
phát triển hạ tầng cơ sở, các chính sách khuyến khích thương mại đầu tư và khuyến
khích khu vực tư nhân của mỗi tỉnh cũng khác nhau, thiếu sự nhất quán, gây là
những chênh lệch, cách biệt về môi trường và điều kiện phát triển dịch vụ logistics.
Thứ ba, thủ tục hải quan, kiểm dịch, tại các cửa khẩu giữa các nước trong
khu vực chưa thống nhất. Hiện tại, cả GMS mới chỉ có cặp cửa khẩu Lao Bảo – Dan
Savanh giữa Việt Nam và Lào áp dụng mô hình kiểm tra một cửa/một điểm dừng,
nhằm tạo thuận lợi cho thương mại qua biên giới trong khu vực. Dự kiến sắp tới, sẽ
có thêm cặp cửa khẩu Lào Cai – Hà Khẩu thực hiện cơ chế kiểm tra này.
Thứ tư, mặc dù hiện nay chúng ta đã có nhiều hiệp hội như Hiệp hội cảng
biển, Hiệp hội đại lý và môi giới hàng hải, Hiệp hội các chủ tàu, Hiệp hội giao nhận
kho vận… nhưng nhìn chung các hiệp hội này vẫn mang tính hình thức mà chưa
phát huy được vai trò vốn có của mình là điều hành, lãnh đạo tạo cầu nối giữa các
doanh nghiệp thành viên thành một thể thống nhất của hiệp hội.
Tóm lại, theo dự báo của các chuyên gia, logistics có tiềm năng trở thành
một ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam. Đặc biệt trong khoảng 10 năm tới khi
kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt khoảng 200 tỷ USD thì nhu cầu sử
dụng dịch vụ logistics sẽ càng lớn. Mặc dù tiềm năng lớn như vậy nhưng năng lực
của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế, cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém, hệ
thống luật pháp còn chưa đồng bộ và chưa thực sự tạo được điều kiện tốt nhất cho
logistics phát triển… Do đó, Nhà nước cũng như các doanh nghiệp Việt Nam cần
nỗ lực hết sức để có những biện pháp thiết thực nhằm cải thiện tình hình này, đồng
90
thời, khai thác tốt nhất tiềm năng phát triển của ngành dịch vụ tương đối mới này.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY HỢP
TÁC VỀ LOGISTICS GIỮA VIỆT NAM VỚI
TIỂU VÙNG SÔNG MÊKÔNG
Qua những phân tích, đánh giá ở chương 2, có thể thấy, hoạt động logistics
của Việt Nam trong hợp tác GMS vẫn còn khá nhiều hạn chế. Tuy nhiên, với một
khuôn khổ hợp tác cơ bản tập trung vào việc xây dựng và phát triển các hành lang
kinh tế, chương trình GMS có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, phát triển thương mại và đầu tư, giảm thiểu khoảng cách phát triển giữa các
nước thành viên; từ đó, tạo tiền đề cho sự hình thành khu vực mậu dịch tự do Trung
Quốc – ASEAN, mở rộng tương lại cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các
nước GMS. Nhận thức được những lợi ích to lớn mà hợp tác sẽ mang lại như vậy,
Việt Nam đã và đang nỗ lực hết mình để hội nhập sâu rộng hơn vào hợp tác khu vực
về kinh tế nói chung và về logistics nói riêng. Trong chương này, tôi xin đề xuất
một số giải pháp vĩ mô và vi mô nhằm thúc đẩy quá trình hợp tác về logistics giữa
Việt Nam với Tiểu vùng Mêkông mở rộng.
GIẢI PHÁP VĨ MÔ I.
1. Xây dựng và hoàn thiện môi trƣờng pháp lý phát triển dịch vụ logistics
Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005 cần được triển khai thực hiện tốt với việc
hoàn thiện các văn bản chi tiết dưới luật. Nghị định 10 về dịch vụ vận tải biển đã
được sửa đổi và thay thế bằng Nghị định 115, cần xem xét sớm việc sửa đổi Nghị
định 125 về Vận tải đa phương thức để phù hợp với tình hình hiện nay sau khi Việt
nam gia nhập WTO.
Ngành Logistics tại Việt Nam hiện đang phát triển rất nhanh và thực tế đã đi
nhanh hơn các quy định của pháp luật nên Chính phủ cần nhanh chóng xây dựng và
hoàn thiện môi trường pháp lý phát triển dịch vụ logistics nói chung và dịch vụ
logistics trong vận tải giao nhận nói riêng.
91
Quy định pháp luật về Logistics
Chính phủ cần tiếp tục nghiên cứu, chỉnh sửa, bổ sung các quy định về
logistics của Luật Thương mại, Nghị định về kinh doanh dịch vụ logistics và ban
hành thêm các văn bản hướng dẫn về thực thi pháp luật về logistics. Trong đó, cần
đưa vào quy trình cấp phép chung cho các công ty logistics bên thứ 3 (3PL), công
nhận nhiều loại hình kinh doanh logistics như dịch vụ chuyển phát nhanh…
Quy định pháp luật về các lĩnh vực hỗ trợ cho logistics
Trước hết, cần xem xét sửa đổi Nghị định 125 về vận tải đa phương thức để
phù hợp với quy định của Luật Thương mại về lĩnh vực logistics và phù hợp với
tình hình hiện nay, sau khi Việt Nam đã gia nhập WTO. Ngoài ra, cần xem xét bổ
sung trách nhiệm dân sự của người vận tải đường bộ trong Luật giao thông đường
bộ và bổ sung thêm những quy định cụ thể về vận tải đa phương thức cho các luật
khác có liên quan như: Luật Hàng không, Luật giao thông đường bộ, Luật đường
thủy nội địa…
Thương mại điện tử cũng đóng vai trò hỗ trợ rất lớn trong ứng dụng logistics
nên Nhà nước cần xây dựng hành lang pháp lý kịp thời và có thể học hỏi, tham khảo
các luật thương mại điện tử của các nước như Trung Quốc, Thái Lan… để có sự
đồng bộ với các luật quốc tế có liên quan.
Về các thủ tục hành chính - hải quan, cần thực hiện cơ chế một cửa, xem xét
giảm bớt thủ tục hải quan, cấp giấy phép… và áp dụng khai báo hải quan điện tử để
giảm chi phí vận tải giao nhận. Từ đó, tiết kiệm chi phí logistics và rút ngắn thời
gian vận tải trong logistics. Chứng từ cần được ban hành và tiêu chuẩn hoá phù hợp
với thông lệ của Tiểu vùng và quốc tế để gạt bỏ những phức tạp, rườm rà khi thông
quan trong khu vực, thúc đẩy việc trao đổi mua bán hàng hoá và vận tải hành
khách…
Ngoài ra, cần theo dõi chặt chẽ, thanh tra giám sát các doanh nghiệp vận tải
giao nhận, các doanh nghiệp liên quan đến cung cấp dịch vụ logistics để hạn chế
độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh và có biện pháp xử lý kịp thời.
Trong quá trình xây dựng và ban hành luật, nhà nước cũng nên có khảo sát,
trưng cầu ý kiến của các doanh nghiệp để có được văn bản pháp luật sát thực tế và
92
đầy đủ.
Song song với việc hoàn thiện và xây dựng hệ thống luật pháp, các Bộ ban
ngành liên quan cũng cần triển khai việc tuyên truyền thực hiện tốt các văn bản
pháp luật đó như: phát hành rộng rãi các văn bản luật về logistics và các văn bản có
liên quan tới các địa phương, Hiệp hội, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics,
các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ logistics; mở các lớp huấn luyện miễn phí về các
văn bản pháp luật hiện hành và đặc biệt là các văn bản mới ban hành do Bộ ngành
chủ trì hay phối hợp với Hiệp hội và các doanh nghiệp có liên quan.
Cam kết, quy định quốc tế, các Hiệp định song phương và đa phương
Việc tạo thuận lợi cho dịch vụ Logistics phát triển sẽ góp phần nâng cao
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường trong nước và
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư ra thị trường khu vực và thế giới. Vừa
qua, Cục hàng hải Việt Nam đã thành công trong việc cải tiến thủ tục cảng biển,
giảm đáng kể thời gian, giấy tờ khai báo và thủ tục cho tàu vào ra cảng biển. Cần
cải tiến hơn nữa, nhất là khi Việt Nam đã gia nhập Công ước FAL 69, công ước về
tạo thuận lợi cho hoạt động hàng hải. Phối hợp với các cơ quan có liên quan, trước
hết là với Hải quan nhằm đơn giản hoá chứng từ và hài hoà thủ tục, qua đó tạo thêm
thuận lợi cho hoạt động dịch vụ hàng hải.
Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO, đã bắt đầu quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Logistics không thể phát triển chỉ ở thị trường nội địa mà phải vươn
ra toàn cầu. Chính vì vậy, Chính phủ cần xúc tiến thực hiện có hiệu quả các Công
ước quốc tế về hàng hải đã gia nhập, các Hiệp định của ASEAN và khu vực về vận
tải và dịch vụ vận tải như Hiệp định ASEAN về vận tải đa phương thức, Hiệp định
ASEAN về tạo điều kiện cho hàng hoá chuyển tải; tiếp tục xem xét gia nhập các
Công ước quốc tế về hàng hải có liên quan , đàm phán với các tổ chức thương mại
khu vực và quốc tế về mở cửa dịch vụ vận tải giao nhận và cho phép hàng hoá quá
cảnh.
Đặc biệt, Nhà nước cần chú trọng việc thực hiện Hiệp định CBTA. Ngoài ra,
các Hiệp đinh song phương và đa phương giữa Việt Nam với các nước trong Tiểu
vùng như Hiệp định vận tải đường bộ với Trung Quốc và Lào, Hiệp định vận tải
93
đường bộ và vận tải đường sông với Campuchia; Hiệp định hảng hải với Thái
Lan… cũng cần được xem xét thực hiện và sửa đổi để đáp ứng những điều kiện mới
của việc hợp tác về giao thông vận tải trong GMS.
2. Đầu tƣ xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng - kỹ thuật cho logistics
Cơ sở hạ tầng tốt là nền tảng vững chắc để phát triển logistics. Về vốn đầu tư
cho cơ sở hạ tầng, Nhà nước trước hết cần phải uỷ nhiệm cho Bộ Giao thông vận
tải, Bộ Công thương, Bộ Tài chính họp bàn với nhau để có một Chiến lược xây
dựng cơ sở hạ tầng tổng thể, đồng bộ cho vận tải nói chung , từ đó lên bản dự toán
tài chính. Dựa trên dự toán tài chính, các Bộ ngành địa phương có thể xin Nhà nước
cấp vốn, hợp tác với các nước đầu tư, kêu gọi các doanh nghiệp trong và ngoài nước
bỏ vốn đầu tư theo quy hoạch phát triển. Riêng đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ
tầng trên các hành lang kinh tế trong GMS mà Việt Nam là một bộ phận thì việc
quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của Ngân hàng Phát Triền Châu Á
(ADB) cũng như các tổ chức khác đóng vai trò vô cùng quan trọng. Các cơ quan
hữu quan của Việt Nam cần phối hợp với các nước trong GMS để đảm bảo được
tính minh bạch và hiệu quả cao nhất của việc sử dụng nguồn vốn này.
Cơ sở hạ tầng phục vụ cho logistics trong vận tải giao nhận gồm có hệ thống
đường bộ, đường sông, biển, hàng không, kho bãi và các trang thiết bị xếp dỡ, các
phương tiện chuyên chở như ô tô, đội tàu, máy bay… và các công cụ chuyên chở
như container, pallet… Do đó, Nhà nước ta cùng với các nước trong GMS cần có
một bản đồ quy hoạch tổng thể các tuyến đường bộ, thuỷ, hàng không, sắt thống
nhất, có khả năng tương tác, hỗ trợ qua lại lẫn nhau một cách hiệu quả, tạo điều kiện
cho các tuyến vận tải được thông suốt.
Kho bãi
Các đầu mối logistics ngoài chức năng là nơi chuyển tải, phân phối hàng hoá
lưu thông trong mạng lưới logistics còn giữ vị trí rất quan trọng trong việc đảm
nhận các chức năng bảo quản, chọn lọc, phân loại, đóng gói hàng hoá và tiến tới
mức cao hơn là điều hoà kịp thời lưu thông hàng hoá, làm đồng bộ hoá câc bộ phận
94
cần thiết cho lưu thông, kế hoạch mua sắm - sản xuất – phân phối hợp lý. Do vậy,
việc bố trí, đầu tư các đầu mối logistics như các cảng, nhà ga mà đặc biệt là các kho
bãi, trung tâm phân phối là vấn đề quan trọng để áp dụng logistics.
Về kho bãi, Chính phủ nên quy hoạch lại hệ thống kho bãi phù hợp với nhu
cầu lưu thông hàng hoá Việt Nam và theo chiến lược phát triển giao thông vận tải
chung của GMS. Ngoài ra, kho hàng cần được lắp đặt các trang thiết bị, hệ thống
thông tin chuẩn, đầy đủ, đảm bảo các yêu cầu về vệ sinh môi trường để đảm bảo
chất lượng và an toàn cho hàng hoá lưu kho.
Về trung tâm phân phối, Chính phủ nên xây dựng các trung tâm nằm ở vành
đai bên ngoài các đô thị lớn tại các vùng trọng điểm như Hà Nội, Hải Phòng, TP.
Hồ Chí Minh. Các trung tâm này sẽ là nơi trung chuyển, hợp tác quan trọng giữa
các doanh nghiệp vạn tải giao nhận và các doanh nghiệp liên quan. Các trung tâm
này cần được trang bị hệ thống thông tin theo dõi, tìm kiếm hàng, kiểm đếm, phân
loại, giám sát hiện đại và đạt các tiêu chuẩn về vệ sinh môi trường.
Vận tải đường biển
Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng vận tải biển trước hết là các cảng biển,
cảng cạn (ICD), kho bãi, các khu đầu mối vận tải. Đồng thời phát triển nhanh các
phương tiện vận tải biển và phương tiện xếp dỡ hàng hoá, đặc biệt là làm hàng
container. Việc đầu tư phát triển này cần được tiến hành đồng bộ với kết cấu hạ
tầng đường bộ, đường sắt, đường không và đường thuỷ nội địa.
Với 3260 km bờ biển trải dài từ bắc đến nam, Việt Nam có 126 cảng biển,
trong đó có 20 cảng biển quốc tế, nhưng chưa có các cảng biển nước sâu có thể
nhận tàu trên 30.000 DWT làm hàng. 70% hàng container tập trung ở các cảng TP.
Hồ Chí Minh. Các thiết bị cảng kém hiệu quả, không phù hợp làm hàng container,
hiện chiếm khoảng 28% lượng hàng thông qua cảng với mức tăng gần 20% năm.
Năng lực thông qua của các cảng biển chính hiện nay đang bị hạn chế, không đáp
ứng nhu cầu gia tăng nhanh của hàng hoá trong tương lai gần. Kết cấu hạ tầng nội
địa gắn với cảng biển không đáp ứng yêu cầu xếp dỡ và vận chuyển hàng hoá một
cách hiệu quả. Vì vậy, với việc quy hoạch phát triển 8 Nhóm cảng biển thì việc
khẩn trương phát triển các cảng ở các khu vực Cái Mép-Thị Vải, Bến Dình-Sao Mai
95
(Bà Rịa-Vũng Tàu), Lạch Huyện (Hải Phòng), cảng trung chuyển Vân Phong …
theo hinh thức vốn Nhà nước vay ODA, liên doanh và huy động vốn trong doanh
nghiệp đang tiến hành hiện nay là cách đi đúng hướng nhằm nhanh chóng tạo ra cơ
sở vật chất cho vận tải biển phát triển, nhất là trong khu vực. Khoảng 37% tổng
lượng hàng container của Việt Nam là của buôn bán trong khu vực Châu Á.
Ngành hàng hải cũng cần phối hợp quy hoạch và hợp tác phát triển với các
ngành đường bộ, đường sắt và đường sông trong việc xây dựng các khu đầu mối
giao thông, các cảng cạn, kho chứa hàng nhằm tạo điều kiện cho việc áp dụng khép
kín quy trình công nghệ vận tải đa phương thức và Logistics một cách có hiệu quả
trong toàn ngành GTVT.
Tính đến hết tháng 2/2007, đội tàu treo cờ Việt Nam (tính từ 100 GT trở lên)
mới đạt con số khiêm tốn là trên 3,8 triệu DWT. Việc phát triển đội tàu biển quốc
gia như kế hoạch của Vinalines đến năm 2010 đạt trọng tải 2,6 triệu DWT, tuổi bình
quân 16 năm là hết sức đúng đắn nhằm chiếm lĩnh thị trường vận tải biển của Việt
Nam. Vì hiện nay có tới 35 hãng tàu của thế giới và khu vực đang kinh doanh ở
Việt Nam, trong đó có các hãng tàu hàng đầu thế giới như Maersk Lines (chiếm
20% thị phần vận chuyển của thế giới), APL, MOL, NYK. Tính đến tháng 1/2007,
số lượng hãng tàu chuyên tuyến đi/đến TP Hồ Chí Minh là 30 hãng và đi/đến Hải
Phòng là 15 hãng chuyên chở hàng container.
Vận tải đường bộ
Nhà nước nên tiếp tục mở, nâng cấp các tuyến đường cao tốc, đường quốc lộ
từ Bắc tới Nam, mở các nhánh đến từng tỉnh, huyện, các vùng trọng điểm, các khu
công nghiệp. Việc xây dựng cầu đường phải theo quy hoạch tổng thể, phải đạt tiêu
chuẩn nhằm đảm bảo cho các phương tiện như xe chở container các loại có thể lưu
thông dễ dàng. Ngoài ra, cần khuyến khích tư nhân đầu tư kinh doanh các loại xe
chuyên dụng như xe chở container để phục vụ cho phát triển vận tải container, một
phần quan trọng trong chuỗi logistics.
Vận tải đường sắt
Vận tải đường sắt trong tương lai sẽ trở thành một thế mạnh của Việt Nam
với các dự án xây dựng và nâng cấp các tuyến đường sắt trong khuôn khổ các hành
96
lang kinh tế của GMS. Vì vậy, Nhà nước cần tập trung nâng cấp, xây dựng lại các
tuyến đường sắt trong nước theo một chuẩn chung thống nhất, không nên để tình
trạng tồn tại hai khổ đường ray như hiện nay; tăng cường đầu tư các loại tàu hoả tốc
độ cao hơn nữa, có thêm toa chứa hàng, toa chở container; nâng cấp, xây dựng kho
bãi, điểm chuyển tải cũng như các thiết bị vận chuyển hiện đại cho các nhà ga…
Những hoạt động này sẽ thúc đẩy sự phát triển của hoạt động logistics cũng như
thương mại – đầu tư giữa Việt Nam với các nước GMS.
Vận tải hàng không
Vận tải hàng không ở Việt Nam hiện chủ yếu chở khách nhưng đây cũng là
một phần không thể thiếu trọng vận tải chở suốt. Do đó, Nhà nước cần tăng dần đầu
tư cho vận tải hàng hoá bằng đường hàng không bằng cách: mua các máy bay có
khoang chứa hàng, khai thác các tuyến vận tải nhiều tiềm năng cho từng loại hàng
hoá cụ thể. Chính phủ cũng nên xem xét cho phép VIFFAS kết hợp với Vietnam
Airlines thu xếp, đứng ra tổ chức nghiên cứu, xây dựng khu vực dành cho các đại lý
gom hàng, khai quan tại các sân bay quốc tế như Tân Sơn Nhất, Nội Bài…
3. Thực hiện tự do hoá dịch vụ logistics theo lộ trình và tạo thuận lợi cho
dịch vụ logistics phát triển
Việt Nam đã cam kết có lộ trình việc tự do hoá dịch vụ vận tải biển. Trong
ASEAN có các phân ngành dịch vụ vận chuyển hàng hoá quốc tế (trừ vận tải nội
địa), vận chuyển hành khách quốc tế (trừ vận tải nội địa), dịch vụ đại lý tàu biển,
dịch vụ sửa chữa tàu biển và dịch vụ môi giới hàng hải. Trong WTO có các phân
ngành dịch vụ vận chuyển hàng hoá (trừ vận tải nội địa), dịch vụ xếp dỡ container,
dịch vụ thông quan, dịch vụ bãi container, dịch vụ lưu kho bãi, dịch vụ đại lý vận tải
và các dịch vụ khác, trong đó có dịch vụ môi giới vận tải hàng hoá. Chúng ta cần có
kế hoạch cụ thể triển khai các cam kết này để vừa thực hiện cam kết vừa tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ vận tải biển của Việt Nam phát triển và
cạnh tranh được với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài.
4. Chú trọng đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho logistics
Nhân lực là một trong những nguyên nhân cản trở việc áp dụng và sự phát
97
triển của Logistics tại Việt Nam cũng như khả năng hợp tác phát triển của Việt Nam
với Tiểu vùng. Do đó, để áp dụng logistics hiệu quả thì Chính phủ nên có các chính
sách, biện pháp, kế hoạch đồng bộ trong việc phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho
logistics.
Về quản lý Nhà nước: Chính phủ có thể uỷ nhiệm cho Bộ Tài Chính, Bộ
Thương mại, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Giáo dục và đào tạo phụ trách phát triển
các chương trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực và quản lý hiệu quả các
chương trình đó. Các bộ ngành cần tìm hiểu yêu cầu của doanh nghiệp, học tập
chương trình đào tạo của các nước bạn như Singapore, các tổ chức quốc tế như
ESCAP.
Về nguồn kinh phí phục vụ cho đào tạo: ngoài ngân sách Nhà nước cấp cho
các bộ ngành, các trường, Hiệp hội, các cơ quan đó và Hiệp hội cần tranh thủ sự trợ
giúp, xin tài trợ của các tổ chức trong và ngoài nước về logistics và các doanh
nghiệp…
Về mục tiêu đào tạo và phát triển: nguồn nhân lực phục vụ cho logistics phải
mang tính quốc tế, đảm bảo trình độ chuyên môn cao, kỹ năng chuyên nghiệp trong
lĩnh vực logistics. Cụ thể là: nắm vững và áp dụng nghiệp vụ logistics, hiểu biết về
vận tải giao nhận, vận dung hiệu quả pháp luật và tập quán quốc tế, kỹ năng quản lý
– đàm phán – marketing - ngoại ngữ - tin học. Đối với nhân lực cấp cao hơn, mục
tiêu đào tạo là chuyên môn cao và kinh nghiệm trong ngành vận tải giao nhận,
logistics, thương mại điện tử, có tư duy kinh doanh đầu tư, kỹ năng quản lý hiện đại
và hợp tác. Đối với nguồn nhân lực cấp thấp như công nhân trong kho bãi, tại cảng,
tại tàu…, yêu cầu là cần phải đào tạo nghề, thực tiễn là chính và phải quy định
chuẩn tay nghề rõ rệt.
Về hình thức đào tạo, có thể áp dụng 3 hình thức đào tạo như sau:
Đào tạo tại các cơ sở chính thức: Chỉnh phủ nên cho phép mở thêm nhiều
trường như Việc tiếp vận MGC để đào tạo chuyên về logistics; đối với các trường
cao đẳng, đại học có liên quan đến kinh tế, quản lý, vận tải như Trường Đại học
Ngoại thương, Đại học Giao thông Vận tải, Đại học Hàng hải, Đại học Thương mại,
Đại học kinh tế… Chính phủ nên phê duyệt cho các trường đó được mở thêm bộ
98
môn, khoa chuyên ngành về Logistics hay Quản lý chuỗi cung ứng (Supply Chain
Management). Các trường trên cũng được chính phủ trợ cấp trong việc đào tạo cán
bộ giảng dạy logistics và các trang thiết bị phục vụ cho bộ môn như hệ thống thông
tin, thương mại điện tử… Các trường dạy nghề như trường đào tạo lái xe, sửa chữa
thiết bị vận tải, phương tiện giao thông… nên tìm hiểu nhu cầu đào tạo qua các
doanh nghiệp, xin chỉ tiêu của Nhà nước để mở và đào tạo các công nhân kỹ thuật
đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp về số lượng cũng như trình độ tay nghề và
phải theo chuẩn chung. Các trường cũng nên quảng bá rộng rãi các khoá học của
mình đến các địa phương, các trường cấp 3 và nhiều nơi để thu hút lượng nhân công
phục vụ cho logistics.
Đào tạo trong nội bộ doanh nghiệp: Nhà nước cũng cho phép và khuyến
khích các doanh nghiệp kinh doanh và sử dụng logistics đào tạo nguồn nhân lực tại
chỗ, hoặc cử đi học các khoá đào tạo trong và ngoài nước về nghiệp vụ logistics.
Đào tạo tại Hiệp hội, thông qua các dự án, hợp tác, hội thảo: Hiệp hội giao
nhận kho vận Việt Nam VIFFAS nên được cấp phép mở các khoá đào tạo ngắn hạn,
cơ bản – chuyên sau về logistics hay quản lý chuỗi cung ứng, có cấp bằng, thuê các
chuyên gia trong và ngoài nước về giảng dạy. Các bộ ngành liên quan cử các cán bộ
đi học các khoá đào tạo, tham dự các Hội thảo chuyên ngành, các dự án nghiên cứu
logistics… tổ chức bởi bộ ngành, doanh nghiệp trong nước và của nước ngoài như
IATA (Hiệp hội vận tải Hàng không quốc tế), FIATA (Liên đoàn các Hiệp hội Giao
nhận quốc tế), AFFA (Hiệp hội giao nhận ASEAN), ESCAP (Ủy ban Kinh tế - Xã
hội khu vực Châu Á – Thái Bình Dương)… và các tập đoàn kinh doanh logistics
như Maersk Logistics, APL Logistics, NYK Logistics… Các khoá học, hội thảo đó
cũng nên được tuyên truyền rộng rãi thông qua Hiệp hội VIFFAS hay Bộ ngành đến
các doanh nghiệp, cán bộ trong ngành và các trường đào tạo.
Về nội dung đào tạo, cần chia thành nội dung đào tạo cơ bản, đào tạo chuyên
sâu và đào tạo thực tiễn:
Đào tạo cơ bản nhằm cung cấp cho người học kiến thức chung về vận tải
giao nhận, vận tải đa phương thức, chuỗi logistics và tổ chức quản lý chuỗi, kiến
thức pháp lý về vận tải giao nhận và logistics như Luật và các tập quán quốc tế, các
99
kỹ năng ngoại ngữ tin học cơ bản.
Đào tạo chuyên sâu sẽ tập trung vào các ván đề cụ thể như hệ thống thông tin
trong chuỗi logistics, kho hàng, vận chuyển, thủ tục hải quan, chứng từ hàng hoá…
ngoại ngữ chuyên ngành logistics hay các vấn đề mới nhất trong logistics.
Đào tạo thực tiễn sẽ giúp các học viên tiếp cận với thực tế công việc logistics
như tham gia thực tập, trực tiếp làm các công việc logistics, kết hợp vừa làm vừa
đào tạo theo các giáo trình của các doanh nghiệp được biên soạn phù hợp với doanh
nghiệp mình (có thể tham khảo các giáo trình tài liệu của các tập đoàn đa quốc gia
kinh doanh logistics).
Các chương trình phải được thiết kết, sắp xếp hiệu quả. Học viên cũng nên
phân loại thành: 1) người chưa có hiểu biết nhiều về logistics; 2) người đã có kiến
thức về logistics hoặc phân loại thành: 1) người quản lý chuỗi Logistics; 2) người
vận hành chuỗi logistics như công nhân trong các kho bãi, công nhân xếp dỡ hàng,
thuỷ thủ…
5. Tăng cƣờng việc trao đổi thông tin, nghiệp vụ và hợp tác giữa Việt Nam
với các nƣớc GMS
Chính phủ Việt Nam cần chủ động triển khai các Hiệp định đa phương và
song phương đã ký kết trong khu vực để tăng cường mối quan hệ hữu nghị và hội
nhập với các nước GMS khác. Qua đó, tạo điều kiện thúc đẩy hợp tác về thương
mại, đầu tư, du lịch, năng lượng và phát triển nguồn nhân lực giữa các quốc gia.
Bên cạnh đó, chúng ta cần tăng cường sự phối hợp hành động giữa các cơ
quan chức năng có liên quan của Việt Nam và GMS, đặc biệt là các cơ quan chức
trách tại các địa phương thuộc các dự án xây dựng các hành lang kinh tế trong
khuôn khổ Chương trình GMS. Ngoài ra, việc hợp tác giữa các đầu mối logistics,
hải quan các cửa khẩu của Việt Nam với các nước GMS về thời gian làm việc, quy
trình thủ tục kiếm tra, kiểm soát cũng không kém phần quan trọng. Hợp tác hiệu
quả trong vấn đề này sẽ góp phần cải thiện đáng kể thời gian cũng như chi phí
logistics đối với hàng hoá xuất nhập khẩu trong Tiểu vùng.
Trong số các nước thuộc khu vực GMS, Thái Lan là quốc gia có trình độ ứng
100
dụng công nghệ thông tin trong quản lý chuỗi logistics cao hơn cả. Do đó, việc tăng
cường trao đổi thông tin về nghiệp vụ bằng các chương trình trao đổi cán bộ, học
viên hay các hội thảo, hội nghị để học hỏi kinh nghiệm của các nước ở trình độ cao
hơn như Thái Lan là một việc làm thiết thực trong thời điểm hiện tại.
II. GIẢI PHÁP VI MÔ
1. Nâng cao chất lƣợng dịch vụ và mở rộng, đa dạng hóa các loại hình dịch
vụ để tăng cƣờng năng lực cạnh tranh
Chất lượng dịch vụ và giá dịch vụ quyết định khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ Logistics. Các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng của
mình trong việc đảm bảo đáp ứng yêu cầu của các chủ hàng về thời gian, chất lượng
và giá dịch vụ. Ngoài việc phát triển cơ sở vật chất, áp dụng công nghệ thông tin thì
việc nâng cao trình độ nghiệp vụ và tiếng Anh của cán bộ, nhân viên có vai trò
quyết định của nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Khuyến khích các
nhà cung cấp dịch vụ logistics của Việt Nam liên doanh với các nhà cung cấp dịch
vụ nước ngoài có mạng lưới dịch vụ Logistics toàn cầu để tạo đầu ra thị trường
ngoài nước và để học hỏi chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao chất lượng dịch vụ của
các công ty trong nước.
2. Hợp tác, liên kết trong nƣớc và thành lập các tập đoàn lớn về logistics để
nâng cao quy mô và năng lực của các công ty cung cấp dịch vụ logistics
Thời gian qua, hoạt động kinh doanh phân tán nhỏ lẻ của các doanh nghiệp
trong lĩnh vực logistics đã cản trở ứng dụng và phát triển logistics ở Việt Nam nên
đã đến lúc các doanh nghiệp Việt Nam cần hợp tác, liên kết chặt chẽ với nhau.
Trước mắt, các doanh nghiệp trong lĩnh vực logistics, vận tải giao nhận cần
phải thay đổi tư duy cạnh tranh, biến đối thủ thành đối tác, chuyên môn hoá, tận
dụng thế mạnh của doanh nghiệp mình, tạo điều kiện phát triển mạnh các khâu
trong chuỗi logistics. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng cần đa dạng hoá dịch vụ và
mở rộng phạm vi cung cấp. Các Tổng công ty lớn có vai trò “đầu đàn” như
Vinalines nên tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ tham gia vào chuỗi Logistics
101
trọn gói và phải giữ vai trò chủ yếu trong đầu tư cho logistics ở Việt Nam.
Về lâu dài, các doanh nghiệp cần hướng tới xây dựng các tập đoàn lớn cung
cấp dịch vụ logistics dựa trên sự kết hợp các thế mạnh của các công ty tham gia như
thế mạnh về kho bãi, cảng, phương tiện, hệ thống thông tin, tài chính, nhân lực,
quan hệ quốc tế… Hợp tác có thể dưới nhiều hình thức: thành lập công ty khác
chuyên kinh doanh dịch vụ logistics, sáp nhập các công ty thành Tập đoàn lớn
chuyên kinh doanh về logistics… Sự hợp tác này sẽ góp phần hạn chế sự cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực logistics và tập trung thế và lực cho ứng dụng
logistics ở Việt Nam và sức cạnh tranh của dịch vụ logistics Việt Nam.
3. Liên doanh, hợp tác với các hãng logistics nƣớc ngoài, mở rộng hoạt
động mang tính khu vực và quốc tế
Thực tế hoạt động yếu kém, nhỏ lẻ hiện nay của các doanh nghiệp trong lĩnh
vực logistics đòi hỏi các doanh nghiệp, đặc biệt là các Tổng công ty, doanh nghiệp
lớn phải đẩy mạnh liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài để tăng thêm sức mạnh
về khả năng tài chính, nhân lực và sự chuyên nghiệp trong hoạt động. Cần xác định
hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài là để học hỏi kinh nghiệm, trình độ quản
lý và chuyển giao hệ thống thông tin hiện đại nhằm cung cấp chuỗi logistics trong
vận tải giao nhận trọn vẹn. Quá trình hợp tác có thể tiến hành theo 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Tìm kiếm đối tác, nhận cung cấp một phần, một khâu trong
chuỗi dịch vụ logistics mà các tập đoàn nước ngoài cung cấp tại Việt Nam.
Giai đoạn 2: Liên doanh với các tập đoàn này về cung cấp dịch vụ logistics
trên cơ sở hợp tác sẵn có và thế mạnh của doanh nghiệp.
Giai đoạn 3: Các doanh nghiệp cần nhanh chóng vươn hoạt động của mình
ra ngoài phạm vi trong nước, dần dần mở rộng ra thị trường khu vực và quốc tế
từng bước một: từ tìm hiểu thị trường, tìm đối tác, mở văn phòng đại diện,
marketing cho đến thiết kế chuỗi logistics phù hợp, sau đó, đầu tư cơ sở hạ tầng ở
nước ngoài.
4. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý logistics
Quản trị hệ thống thông tin là một bộ phận rất phức tạp và được đầu tư lớn
102
trong quản trị logistics ở các doanh nghiệp kinh doanh logistics thành công trên thế
giới. Vì vậy các doanh nghiệp kinh doanh logistics Việt Nam cần nhận thức vai trò
của công nghệ thông tin và lên kế hoạch đầu tư, ứng dụng công nghệ thông tin để có
thể thực hiện logistics hiệu quả. Quá trình ứng dụng có thể chia làm hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: Hoàn thiện hệ thống thông tin nội bộ (Intranet), hệ thống thông
tin trong từng bộ phận chức năng (logistics, kỹ thuật, kế toán, marketing…), hệ
thống thông tin ở từng khâu trong dây chuyền cung ứng (kho, bến bãi, vận tải…) và
sự kết nối thông tin giữa các tổ chức, bộ phận, công đoạn nêu trên. Đặt các phần
mềm phục vụ cho hoạt động của công ty, chuẩn hoá các cơ sở dữ liệu… như phát
hành chứng từ vận tải, theo dõi quá trình vận tải hàng hoá, quản lý container, tiến
tới việc sử dụng vận tải đơn điện tử tạo cơ sở nền tảng cho hệ thống thông tin
logistics.
Giai đoạn 2: Kết nối hệ thống thông tin nội bộ với bên ngoài: trước mắt là
bằng Internet. Phương thức này rất phổ biến và phù hợp với cơ sở vật chất hiện tại
của đa số khách hàng vừa và nhỏ của công ty vận tải giao nhận, của các cơ quan
Nhà nước và các doanh nghiệp đối tác khác. Về lâu dài, cần tính tới việc áp dụng hệ
thống trao đổi dữ liệu điện tử EDI – Electronic Data Interchange - để phục vụ nhu
cầu cao của những khách hàng lớn và trao đổi dữ liệu giữa các doanh nghiệp đối
tác, các cơ quan như cảng ở Việt Nam, cảng quốc tế… trong hệ thống logistics toàn
cầu.
5. Phát triển nguồn nhân lực
Nhân lực là yếu tố sống còn của mọi doanh nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực
phực tạp và mới mẻ như Logistics. Một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển nguồn
nhân lực trong doanh nghiệp có thể bao gồm:
Thu hút nhân tài về lĩnh vực logistics: bằng việc tuyển các sinh viên khá giỏi
của các trường đào tạo nghiệp vụ liên quan như Đại học Ngoại thương, Đại học
Hàng hải, Đại học Kinh tế… Đồng thời có chính sách trợ cấp, học bổng, hướng
nghiệp cho các sinh viên đó ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Có chính sách đãi ngộ tốt đối với các nhân viên giỏi, tạo điều kiện cho họ có
103
cơ hội học hỏi, thăng tiến…
Các doanh nghiệp có thể bồi dưỡng đào tạo cho nhân viên dưới 3 hình thức:
1) cử cán bộ nhân viên tham gia các khoá học của các trường đào tạo logistics, các
chương trình đào tạo của Hiệp hội, các tổ chức quốc tế…; 2) cử nhân viên tham gia
vào các Hội thảo chuyên ngành, ngành liên quan, các chương trình hợp tác về
logistics của các tổ chức trong nước và khu vực (đặc biệt là Ngân hàng phát triển Á
Châu với rất nhiều chương trình hợp tác nhằm phát triển khu vực GMS); 3) đào tạo
tại chỗ, thực tế bằng chương trình tự soạn hay thuê các chuyên gia tư vấn đầu ngành
trong nước và quốc tế về giảng dạy cho riêng mô hình doanh nghiệp (có thể tham
khảo các chương trình đào tạo của các tập đoàn đa quốc gia như Maersk Logistics,
APL Logistics, NYK Logistics…) Chương trình đào tạo của doanh nghiệp nên chia
theo từng kỳ, từng trình độ tuỳ theo đợt tuyển dụng hay kế hoạch phát triển của
công ty.
Trao đổi thông tin với các Hiệp hội, các trường đào tạo về nhu cầu tuyển
dụng, yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ của doanh nghiệp mình để có thể cũng hợp
tác phát triển đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng cung cầu về nhân lực cho doanh
nghiệp.
Thực hiện tốt các giải pháp có tính định hướng nói trên sẽ góp phần tăng
cường xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cho ngành dịch vụ logistics ở nước ta.
Một nguồn nhân lực tốt, chất lượng sẽ là tiền đề cho sự phát triển và tăng trưởng
mạnh mẽ của các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế.
6. Phát huy vai trò của các Hiệp hội
Tăng cường vai trò và sự cộng tác chặt chẽ của các hiệp hội ngành nghề liên
quan, như Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam, Hiệp hội chủ tàu Việt Nam, Hiệp
hội đại lý-môi giới hàng hải Việt Nam, Hiệp hội cảng biển Việt Nam, Hiệp hội vận
tải ô tô… trong việc phát triển dịch vụ vận tải biển. Đồng thời đẩy mạnh hợp tác
khu vực về vận tải biển, nhất là với ASEAN và APEC.
Tăng cường hợp tác trong việc trao đổi thông tin có liên quan tới các hoạt
động xếp dỡ hàng hóa của cảng, các thủ tục giao nhận hàng hóa của cảng, các loại
104
giá dịch vụ của cảng biển, thời gian tàu đến, rời cảng, việc điều động phương tiện
vận tải giao nhận hàng nhằm tránh ùn tắc tại cảng, các thông tin về hàng hóa và giao
nhận kho vận, thông tin về các cảng biển và các công ty giao nhận kho vận... Các
hiệp hội nên đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin, đặc biệt là internet để thuận tiện
cho việc kết nối và trao đổi thông tin nói trên.
Hiện nay, trong lĩnh vực vận tải giao nhận mới chỉ có Hiệp hội giao nhận –
kho vận Việt Nam (VIFFAS) là Hiệp hội của các doanh nghiệp về vận tải giao nhận
ở Việt Nam. Tuy nhiên, Hiệp hội này chưa thực sư phát huy cao vai trò của mình và
chưa tham gia tích cực vào việc nghiên cứu và áp dụng logistics. Nguyên nhân
chính là do VIFFAS hiện còn thiếu nhân lực cho các hoạt động này. Ban chấp hành
chủ yếu là kiêm nhiệm nhiều vị trí khác nhau. Đồng thời, hiện nay, thị trường
logistics của Việt Nam chủ yếu đã bị các công ty nước ngoài chiếm giữ, trong khi
đó, trình độ phát triển của các công ty hội viên của VIFFAS lại chưa thể so sánh
được với các công ty đa quốc gia này. Việc áp dụng và phát triển logistics đòi hỏi
sự kết hợp của rất nhiều nhân tố: phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, hoàn
thiện thể chế pháp lý, nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty kinh doanh dịch
vụ, tăng cường đào tạo nhân lực và huy động vốn… Do vậy, sẽ rất khó để VIFFAS
có thể góp phần thúc đẩy sự phát triển của hoạt động logistics ở Việt Nam trong
một sớm một chiều.
Trong thời gian tới, khi chưa có Hiệp hội chuyên về logistics, VIFFAS cần
được nâng cao hoạt động cả về chất và lượng, góp phần tạo những bước vững chắc
cho sự phát triển logistics trong vận tải giao nhận ở Việt Nam. VIFFAS cần có
những biện pháp thu hút thêm các thành viên là các doanh nghiệp trong ngành từ
nhỏ, vừa đến các doanh nghiệp lớn. VIFFAS nên có tạp chí riêng về logistics, có
forum hay thường xuyên tổ chức các diễn đàn, hội thảo để gắn kết các thành viên
theo hướng hợp tác, hỗ trợ nhau và đưa ra các kiến nghị, giải pháp cho ứng dụng và
phát triển logistics ở Việt Nam. Ngoài ra, Hiệp hội cũng cần năng động hơn trong
việc bảo vệ quyền lợi của hội viên như chống cạnh tranh không lành mạnh, chống
độc quyền… Quan trọng hơn, VIFFAS nên là cầu nối giữa Việt Nam với các nước
trong khu vực như Hiệp hội giao nhận vận tải Thái Lan, Lào, Myanma… và thế giới
105
như AFFA, FIATA… Bằng việc tổ chức các buổi hội thảo, khoá đào tạo, trao đổi
kinh nghiệm… VIFFAS sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội học hỏi,
giao lưu, hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài.
Bên cạnh đó, VIFFAS có thể cùng các Hiệp hội khá trong nước như Hiệp hội
chủ tàu, Hiệp hội cảng biển… tạo điều kiện cho các hội viên trong các hiệp hội giao
lưu, hợp tác với nhau vì áp dụng logistics cần sư phối hợp của nhiều ngành, nhiều
yếu tố như kho bãi, cảng, phương tiện, sản xuất, phân phối… VIFFAS cũng nên là
trung tâm nghiên cứu ứng dụng logistics ở Việt Nam nói chung, trong vận tải giao
nhận nói riêng và là trung tâm đào tạo chuyên sau về nghiệp vụ logistics. Như vậy,
nguồn chất xám, thế mạnh của các doanh nghiệp có thể được tận dụng để góp phần
vào sự phát triển chung của logistics và của từng doanh nghiệp.
Về lâu dài, các doanh nghiệp trong lĩnh vực logistics cần xem xét thành lập
một Hiệp hội các nhà cung cấp dịch vụ logistics như Singapore. Các Hiệp hội khác
như Hiệp hội đại lý và môi giới hàng hải, Hiệp hội chủ tàu, Hiệp hội cảng biển, phối
hợp với các Hiệp hội chủ hàng, Hiệp hội về xuất nhập khẩu hàng hoá như: thuỷ sản,
dệt may, lương thực… cần bàn bạc, trao đổi với nhau về vấn đề hợp tác giữa các
hiệp hội, không chỉ ở trong nước mà còn có thể với cả các hiệp hội của nước ngoài.
Theo một bài viết trên SAGA - Cổng thông tin quản trị kinh doanh, đầu tư, tài
chính, giáo dục - tháng 12/2007, trung bình mỗi thành phẩm thì chi phí cho logistics
đã chiếm tới 1/3, chi phí cho giao nhận kho vận chiếm 20%, trong khi tỷ lệ này ở
các nước phát triển chỉ vào khoảng 8-12%. Do vậy, hoạt động logistics chuyên
nghiệp có thể giúp giảm chi phí, tiết kiệm thời gian, từ đó, nâng cao năng lực cạnh
tranh cho thương mại Việt Nam. Những nhà sản xuất, trung gian thương mại, những
người làm dịch vụ (vận tải, hải quan, người cung cấp dịch vụ logistics) phải tìm
được tiếng nói chung, có những cam kết hoạt động chung mới có thể tạo điều kiện
106
tốt, bình đẳng để phát triển ngành logistics ở Việt Nam.
KẾT LUẬN
Sau khi tìm hiểu, nghiên cứu về hoạt động logistics của Việt Nam trong hợp
tác với Tiểu vùng sông Mêkông mở rộng, khoá luận rút ra một số kết luận như sau:
- Được hình thành vào năm 1992 theo sáng kiến của Ngân hàng Phát triển
Châu Á (ADB), Tiểu vùng Mêkông mở rộng (GMS), bao gồm sáu nước:
Campuchia, Lào, Myanma, Thái Lan, Việt Nam và Trung Quốc, hướng tới mục tiêu
là xúc tiến các hoạt động chung trong các lĩnh vực có khả năng nhất (hạ tầng cơ sở
thương mại đầu tư, du lịch, bảo vệ môi trường và phát triển nguồn nhân lực…)
nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho hợp tác phát triển kinh tế lâu dài. Trong đó,
giao thông vận tải nói chung và logistics nói riêng là một trong những lĩnh vực được
ưu tiên hàng đầu của sáng kiến hợp tác này.
- Kể từ năm 1992 đến nay, hợp tác về logistics giữa Việt Nam với 5 quốc
gia còn lại trong GMS đã đạt được nhiều kết quả đáng mừng. Đó là xác định được
các trọng tâm phát triển là xây dựng các hành lang kinh tế khu vực, cải thiện chất
lượng và quy mô cơ sở hạ tầng, không ngừng hoàn thiện thể chế luật pháp, tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động logistics phát triển, nâng cao nhận thức của các doanh
nghiệp về vai trò và ý nghĩa của logistics…
- Tuy nhiên, hạn chế vẫn còn không ít. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật chưa đạt
chuẩn, còn yếu kém và thiếu đồng bộ. Hành lang pháp lý cho hoạt động logistics
chưa đầy đủ và đồng bộ với nhau. Đây cũng là hai nguyên nhân lớn nhất hạn chế sự
phát triển của hoạt động logistics của Việt Nam cũng như hợp tác về logistics của
Việt Nam trong GMS. Ngoài ra, nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực logistics
còn thiếu kiến thức chuyên môn; quy mô của các doanh nghiệp logistics tại Việt
Nam còn nhỏ, tổ chức quản lý kém, hoạt động còn riêng rẽ, chưa tạo được mối liên
kết chặt chẽ, chưa đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài… Đặc biệt,
một vấn đề cần được ưu tiên giải quyết hàng đầu hiện nay là sự phối hợp hoạt động
107
giữa các cơ quan chức năng về logistics tại các địa phương ở Việt Nam cũng như
giữa Việt Nam với các nước trong GMS còn chưa được chặt chẽ, gây ra sự phát
triển không đồng bộ trong Tiểu vùng.
- Từ những hạn chế nêu trên, khoá luận đề xuất một số giải pháp vĩ mô và
vi mô nhằm thúc đẩy quá trình hợp tác về logistics giữa Việt Nam với
Tiểu vùng Mêkông mở rộng như là: xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý
phát triển dịch vụ logistic; đầu tư xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho
logistics; tăng cường trao đổi thông tin, nghiệp vụ và hợp tác giữa Việt Nam và các
nước GMS; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý logistics; phát triển nguồn
nhân lực; phát huy vai trò của các Hiệp hội...
Hi vọng, với việc tăng cường hợp tác, phối hợp và hành động thống nhất,
hoạt động logistics tại các nước GMS, trong đó có Việt Nam, sẽ ngày càng phát
triển hơn nữa, đem lại những nguồn lợi lớn cho khu vực, góp phần hiện thực hoá
108
tầm nhìn về một tiểu vùng “hội nhập, hài hoà và thịnh vượng”.