TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
NGÔ THỊ HỒNG
NÔNG THÔN TRONG
TRUYỆN NGẮN CỦA KIM LÂN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
Ths. NGUYỄN PHƢƠNG HÀ
HÀ NỘI, 2017
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình triển khai khóa luận tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận
tình của các thầy, cô giáo tổ Văn học Việt Nam, khoa Ngữ Văn – Trường
ĐHSP Hà Nội 2. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới các thầy cô
trong khoa và đặc biệt là cô giáo Ths. Nguyễn Phương Hà đã trực tiếp hướng
dẫn tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Khóa luận được hoàn thành song không tránh khỏi những hạn chế,
thiếu xót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ các thầy cô
giáo và các bạn để khóa luận được hoàn thiện.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Sinh viên thực hiện:
Ngô Thị Hồng
LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của Ths.
Nguyễn Phương Hà. Tôi xin cam đoan, đây là kết quả nghiên cứu của riêng
tôi. Kết quả này không trùng với kết quả của bất kỳ tác giả nào đã được công
bố. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Sinh viên thực hiện:
Ngô Thị Hồng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 8
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 8
6. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 8
Chƣơng 1: TRUYỆN NGẮN KIM LÂN TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HỌC
VIỆT NAM TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM .................................. 8
1.1. Cuộc đời và sự nghiệp nhà văn Kim Lân ................................................... 9
1.1.1. Cuộc đời .................................................................................................. 9
1.1.2. Sự nghiệp văn học ................................................................................. 10
1.2. Đóng góp của Kim Lân về đề tài nông thôn trong văn học Việt Nam
hiện đại ............................................................................................................ 11
Chƣơng 2: SỰ THỂ HIỆN ĐỀ TÀI NÔNG THÔN TRONG TRUYỆN
NGẮN CỦA KIM LÂN ................................................................................ 14
2.1. Hiện thực cuộc sống nông thôn ................................................................ 14
2.1.1. Hiện thực văn hóa, phong tục ............................................................... 15
2.1.2. Hiện thực đời thường ............................................................................ 24
2.2. Hình tượng người nông dân ..................................................................... 30
2.2.1. Người nông dân giàu tình yêu quê hương, đất nước............................. 31
2.2.2. Người nông dân với những phong tục, sinh hoạt văn hóa cổ truyền .... 38
KẾT LUẬN .................................................................................................... 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nông thôn là một trong những mảng đề tài quen thuộc, đã có rất
nhiều nhà văn viết thành công về đề tài này, có thể kể đến như: Ngô Tất Tố,
Nguyên Hồng, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Kim Lân, Đào Vũ… Nói riêng
về truyện ngắn, văn học Việt Nam đã có số lượng lớn tác phẩm viết về đề tài
nông thôn, khám phá nhiều phương diện về hiện thực cuộc sống cũng như con
người nông thôn. Tìm hiểu truyện ngắn Kim Lân, giúp chúng ta hiểu rõ hơn
mảng sáng tác quan trọng này trong văn học Việt Nam hiện đại.
1.2. Kim Lân (1920- 2007) là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam. Sự
nghiệp của nhà văn Kim Lân không đồ sộ nhưng lại rất đặc sắc và khó trộn
lẫn. Có ý kiến cho rằng: “Chỉ với ba truyện Vợ nhặt, Làng, Con chó xấu
xí…Kim Lân đã có thể đoàng hoàng ngồi vào chiếu trên trong làng văn Việt
Nam” [17]. Với những đóng góp to lớn của mình, Kim Lân được trao tặng
Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001.
Trong cả cuộc đời hoạt động sáng tạo nghệ thuật, Kim Lân sáng tác
không nhiều. Là một cây bút sở trường truyện ngắn, ông viết về cuộc sống và
con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một con người vốn xuất
thân từ đồng ruộng. Ông là mẫu nhà văn “Quý hồ tinh bất quý hồ đa”, viết kỹ
lưỡng, viết từ gan ruột, không chấp nhận sự nhạt nhẽo, sự giả tạo trong văn
học.
1.3. Hiện nay, truyện ngắn của Kim Lân được giảng dạy trong nhiều cấp
học của bậc THCS và THPT. Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi lựa chọn đề
tài: Nông thôn trong truyện ngắn của Kim Lân nhằm góp phần quan trọng
trong việc nghiên cứu tác phẩm văn học cũng như việc giảng dạy thể loại
1
truyện ngắn nói chung và truyện ngắn về đề tài nông thôn nói riêng trong
chương trình Ngữ văn ở trường phổ thông. Đồng thời khẳng định vị trí của
Kim Lân trên hành trình văn xuôi Việt Nam đương đại.
2. Lịch sử vấn đề
Kim Lân là nhà văn gần gũi, quen thuộc với độc giả trong mấy chục
năm qua. Ngay từ những tác phẩm đầu tay, Kim Lân đã nhận được nhiều ý
kiến khen ngợi, đánh giá cao của các nhà phê bình, giới nghiên cứu và đông
đảo bạn đọc. Nhà văn Nguyên Hồng trong tác phẩm Những nhân vật ấy đã
sống với tôi đã nhận định: “Từ giữa năm 1943- 1944 ấy, tôi được đọc mấy
truyện của Kim Lân. Thoạt nhiên tôi chẳng những không để ý mà còn thấy cái
tên Kim Lân chương chướng thế nào ấy, hình như định chọi, định đả chữ
nhau với một số tên như Mộng Ngọc, Mộng Dương, hay Hoài Trạch, Hoài
Tâm… lúc bấy giờ vậy. Nhưng rồi, chỉ bập vào mấy truyện của anh mà tôi
thấy không phải loại ướt át một cách bợm bãi, trái lại nó có một cái gì chân
chất của đời sống và con người nghèo hèn, khổ đau, giọng văn nhiều rung
cảm thắm thiết, đặc biệt lại gần gũi với mình” [6, 10]. Xuất phát từ mối quan
hệ biện chứng giữa hiện thực khách quan – nhà văn – tác phẩm, Nguyên
Hồng đã có những nhận xét xuất sắc, chính xác cả về phương diện nội dung,
tư tưởng lẫn giọng điệu văn chương của Kim Lân.
Cùng quan điểm với nhà văn Nguyên Hồng, tác giả Lại Nguyên Ân
đưa ra nhận xét về nhân vật trong truyện Kim Lân: “Đọc văn xuôi Kim Lân,
ta bắt gặp cái thế giới của những người dân nghèo vốn là hạng “hạ lưu” ở xã
hội cũ: Những người dân miền xuôi mất nhà, mất đất, xiêu dạt lên miền
ngược, táp vào một xóm chợ, bến sông, một góc phố hay ven một đồn điền,
một xóm trại, tiếp tục vật lộn với miếng sống sơ đẳng hàng ngày. Đã có lúc
nhà văn gọi những nhân vật thân thuộc ấy của ngòi bút mình là “những đầu
thừa đôi thẹo ở khắp xó xỉnh cuộc sống”. Cách gọi giống như là sự tự mệnh
2
danh đầy đau xót của chính các nhân vật ấy (…). Mạch kể chuyện của Kim
Lân dường như bắt rất nhạy vào những cảnh thương tâm: Cảnh bỏ nhà xiêu
dạt vì công nợ, thuế khóa, cảnh ăn xin, cảnh chết đường chết chợ, cảnh bị áp
bức, đọa đầy…” [2, 56].
Để khẳng định lại điều này, trong bài viết Nghĩ về nghề văn (1994),
tác giả Kim Lân tâm sự: “Tôi đến với văn học ban đầu từ sự say mê ham
thích. Những truyện ngắn đầu tay của tôi như: Đứa con người vợ lẽ, Người
kép già, Cô Vịa là những truyện ngắn viết về đề tài xã hội. Đó là những câu
truyện về bản thân tôi, tâm tư và số phận của tôi cũng như những người gần
gũi trong làng xóm của tôi (…). Tôi viết như một việc được thôi thúc từ bên
trong. Những cảm xúc, suy tư của tôi đòi hỏi tôi phải viết. Thực chất, viết văn
trước tiên tôi viết về mình [3, 262] (…). Nói đến tình yêu đất nước, nghe cảm
thấy xa xôi, nhưng tình cảm đối với làng thì thật gần gũi, gắn bó. Đối với con
người Việt Nam, làng xóm nuôi những con người lớn lên bằng cả vật chất
cũng như tinh thần” [3, 268].
Có thể thấy, những sáng tác của Kim Lân rất gần gũi, bình dị với cuộc
sống. Đó là văn của một người viết về chính cuộc sống của mình, bạn bè,
hàng xóm mình. Bởi ông quan niệm: “Viết văn như cách đòi cho mình một
nhân phẩm, một chỗ đứng trong cuộc sống nhỏ bé, quẩn quanh của quê
hương” [15, 369].
Nghiên cứu về truyện ngắn Kim Lân, tác giả Vũ Dương Quỹ trong
cuốn Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường phổ thông đã nhận xét khá sắc
sảo về nội dung, tư tưởng của truyện ngắn Kim Lân: “Những truyện ngắn
Kim Lân viết trước Cách mạng tháng Tám, bên những thân phận con người
lam lũ vất vả, vẫn phập phồng trái tim yêu đời, những mong muốn tuy mơ hồ
nhưng da diết, con người đối xử với nhau bao dung, nhân hậu hơn” [12].
Trước Cách mạng tháng Tám, Kim Lân còn được đánh giá cao khi viết
3
về mảng đề tài sinh hoạt văn hóa và phong tục làng quê. Nhà văn Vũ Bằng
khi đọc các truyện của Kim Lân đã khen và khuyên ông nên viết về thú chơi
thôn quê. Ngoài ra, Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh cũng nhận định: “Văn Kim
Lân tỏ ra độc đáo, hấp dẫn hơn khi ông viết về những cái gọi là “thú đồng
quê” hay “phong lưu đồng ruộng”. Rồi ông lại tiếp tục lý giải “sở dĩ có sự hấp
dẫn, không phải vì ở đấy những tập quán ngộ nghĩnh, kì lạ, những thú chơi
phiền phức, cầu kì được trình bày cặn kẽ, mà chính là nhờ nhà văn đã thể hiện
lên được những con người ở làng quê Việt Nam độc đáo kia, tuy nghèo khổ
thiếu thốn mà vẫn yêu đời” [9, 64].
Rõ ràng, nhà văn Kim Lân may mắn khi được sinh ra và lớn lên từ vùng
quê Bắc Ninh, một vùng văn vật nổi tiếng của đất Kinh Bắc. Chính chất tài
hoa, sự lịch lãm, nề nếp cổ xưa in đậm dấu ấn trong văn chương của ông. Đọc
truyện ngắn Kim Lân, chúng ta dễ bị cuốn hút bởi chất đồng bằng Bắc Bộ kín
đáo, dung dị. Vì thế, truyện ngắn Kim Lân đã góp phần cho những nhà xã hội
học muốn nghiên cứu, tìm hiểu về mảnh đất Kinh Bắc giàu truyền thống văn
hóa.
Nhà văn Đỗ Chu, một trong những người bạn văn vong niên thân thiết
của nhà văn Kim Lân cho rằng: “Hồi mới cầm bút, ông Kim Lân thích viết về
những thú vui thả chim, chọi gà, hội vật, hội hát, những phong tục lâu đời ở
quê nhà. Rồi theo năm tháng, mối quan tâm của nhà văn cứ mở rộng dần, xu
hướng hiện thực ngày một sâu đậm, yêu thương tận gan ruột mà xót xa cũng
tận gan ruột. Bằng một bút pháp kể truyện bậc thầy, những trang văn xuôi thô
nháp không cần tô điểm ấy đã đưa ông đứng vào hàng những nhà văn xuất sắc
nhất của nền văn học hiện đại nước nhà” [7, 285].
Tác giả Trần Ninh Hồ cũng đã nhận xét thật xúc động: “Tuy tầm vóc, vị
trí của mỗi nhà văn một khác, nhưng Kim Lân cũng là một nhà văn thường
đến với ta trong những khoảng chợt nhớ của đời người khó mà diễn đạt thành
4
lời… mỗi lần mở những trang viết ít ỏi ấy. Ta lại cảm thấy không một bước
ngoặt, một chặng đường nào của con người Việt Nam trong gần nửa thế kỉ
qua mà Kim Lân không đả động tới dẫu chỉ bằng sự chạm trổ hết sức khiêm
tốn: truyện ngắn” [13, 106-107]. Đây có lẽ là lời nhận xét của một người hiểu
và cảm nhận sâu sắc truyện ngắn Kim Lân để rồi thấy rõ vai trò, tác dụng của
những tác phẩm ấy với hiện thực khách quan như thế nào?
Trong cuốn Tác giả văn học Việt Nam (tập 2), với cái nhìn biện chứng
sắc sảo GS. Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét về đặc điểm, vị trí của truyện
ngắn Kim Lân: “Sau Cách mạng tháng Tám, ngòi bút Kim Lân tập trung vào
phương diện xã hội, chính trị, của đời sống nông thôn gắn liền với vận mệnh
của đất nước. Về đề tài này Làng và Vợ Nhặt xứng đáng được xem là những
truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại” [8, 49]. Như vậy,
Cách mạng tháng Tám đã đem đến cho Kim Lân cảm hứng mới, ý thức hơn
về trách nhiệm nhà văn cũng như tầm nhìn, tầm nghĩ của chính bản thân trước
cuộc sống.
Truyện ngắn Làng của Kim Lân được viết và in năm 1948 trên Tạp chí
văn nghệ số đầu tiên ở chiến khu Việt Bắc. Tác phẩm nhanh chóng được
khẳng định và là một trong số không nhiều truyện ngắn thành công sớm nhất
của Kim Lân cũng như văn học thời kì kháng chiến chống Pháp (1946- 1954).
Cùng với Đôi mắt của Nam Cao, Thư nhà của Hồ Phương, Làng của Kim
Lân đã khai thác và mở ra những triển vọng tốt đẹp cho văn học kháng chiến
chống Pháp. Đây là một truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân miêu tả và ca ngợi
sự đổi mới về nhận thức và tình cảm của người nông dân sau Cách mạng
tháng Tám.
Sau truyện ngắn Làng, Kim Lân tiếp tục nổi tiếng với Vợ nhặt. Tác
phẩm được nhà văn viết với sự xúc động mãnh liệt từ nạn đói khủng khiếp
của dân tộc năm 1945 – nạn đói đã cướp mất một phần mười dân số ít ỏi của
5
Việt Nam lúc bấy giờ. Trong Tiếng nói tri âm viết năm 1994, tác giả Trần
Đồng Minh đã đánh giá, khẳng định vị trí của truyện ngắn Vợ nhặt bằng sự so
sánh văn học: “Kim Lân chọn bối cảnh ấy (nạn đói năm 1945) cho truyện Vợ
nhặt không nhiều dòng miêu tả trực tiếp nhưng là những dòng rất hiếm trong
văn chương từ đó đến nay. Cái nghèo ở Ngô Tất Tố, cái đói ở Nam Cao khiến
ta thương cảm muốn rơi nước mắt. Cái đói và cái chết ở Kim Lân khiến ta
khiếp sợ, rụng rời” [10, 126].
Đặt trong mối liên hệ biện chứng và sự phát triển chung của văn học
thời kì này, nhà văn Vũ Dương Quỹ đánh giá xác đáng: “Vợ nhặt dường như
đã mang nét mới của thời đại, vượt lên trên chủ nghĩa nhân văn trong dòng
văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám 1945” [12, 125].
Khẳng định về tài năng viết truyện ngắn của Kim Lân, tác giả Hà
Minh Đức viết trong Nhà văn nói về tác phẩm cho rằng: “Kim Lân là một
trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.
Ông đã tạo được cách viết độc đáo. Phải nói rằng Kim Lân viết không nhiều
nhưng sáng tác của ông đã gây ấn tượng với bạn đọc” [3, 31]. Cả đời văn Kim
Lân chỉ chuyên tâm viết truyện ngắn. Truyện của ông thường tập trung miêu
tả sinh hoạt làng quê và hình tượng người nông dân. Nhưng thế giới nghệ
thuật của ông không vì vậy mà bị giảm sức sống, sức hấp dẫn. Dù bao lớp bụi
phủ mờ thời gian, truyện ngắn Kim Lân đã và đang có vị trí xứng đáng trong
văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Năm 2005, tác giả Đặng Thị Huy Lam trong luận văn Đặc điểm truyện
ngắn Kim Lân đã dành hai chương để khảo sát về nghệ thuật dựng truyện và
xây dựng nhân vật; về ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn của Kim
Lân. Năm 2006, Tác giả Nguyễn Quốc Thanh trong luận văn Cảm hứng chủ
đạo và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân đã đề cập đến cảm
hứng chủ đạo, phương thức trần thuật và cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn
6
Kim Lân. Cả hai tác giả đã cố gắng chỉ ra một số nét đặc trưng trong truyện
ngắn của nhà văn qua hệ thống hình tượng người nông dân, người dân nghèo
và người phụ nữ.
Nhìn lại những công trình, bài nghiên cứu đánh giá về sáng tác, con
người và sự nghiệp Kim Lân, hầu hết các bài viết còn lẻ tẻ, mới chỉ dừng lại ở
một số phương diện hoặc một khía cạnh nào đó mà chưa có công trình nào
thật sự chuyên sâu vào các sáng tác của ông. Chính vì vậy, trên cơ sở học tập
và tiếp thu kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, chúng tôi chọn đề tài
Nông thôn trong truyện ngắn của Kim Lân với mong muốn góp một tiếng
nói vào sự khẳng định vị trí xứng đáng của Kim Lân nói riêng và truyện ngắn
của ông đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu đề tài Nông thôn trong truyện ngắn của Kim Lân chúng tôi
nhằm hướng tới những mục đích:
+ Thứ nhất: Tiếp cận, chứng minh, làm sáng tỏ những truyện ngắn viết
về nông thôn của Kim Lân từ góc nhìn hiện thực, cuộc sống nông thôn và
người nông dân Việt Nam.
+ Thứ hai: Khẳng định vị trí của Kim Lân và những đóng góp của ông
đối với sự phát triển của văn xuôi hiện đại Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khóa luận hướng tới nhiệm vụ sau:
+ Từ tiểu sử, sự nghiệp văn học của Kim Lân để thấy được con đường
đến với văn chương của nhà văn có gì độc đáo so với các nhà văn khác, và
những đóng góp của Kim Lân về đề tài nông thôn trong văn học Việt Nam.
+ Đi sâu tìm hiểu sự thể hiện đề tài nông thôn trong truyện ngắn Kim
Lân ở hai phương diện: Hiện thực cuộc sống nông thôn và hình tượng người
7
nông dân.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nông thôn trong truyện ngắn của Kim Lân
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu đề tài: Tuyển tập Kim Lân, Nxb Văn học (2011)
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lịch sử
Phương pháp thống kê
Phương pháp so sánh
Phương pháp phân tích
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung của khóa
luận bao gồm hai chương:
Chương 1: Truyện ngắn Kim Lân trong đời sống văn học Việt Nam
trước Cách mạng tháng Tám
8
Chương 2: Sự thể hiện đề tài nông thôn trong truyện ngắn Kim Lân
Chƣơng 1: TRUYỆN NGẮN KIM LÂN TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HỌC
VIỆT NAM TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
1.1. Cuộc đời và sự nghiệp nhà văn Kim Lân
1.1.1. Cuộc đời
Kim Lân (1920 - 2007) tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù
Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, nay là làng Phù Lưu, phường Đông Ngàn,
thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông sinh ra trên mảnh đất Kinh Bắc, nghìn năm
văn hiến. Đây là quê hương có bề dày lịch sử, văn hóa cổ truyền với những lễ
hội nổi tiếng như: hội Đền Đô, hội Lim, hội Đồng Kị...và những thú chơi
phong tục hấp dẫn như đánh đu, đấu vật, hát quan họ... Nơi đây còn nổi tiếng
với những câu hát quan họ ngọt ngào, mượt mà, đằm thắm.
Thửa thơ ấu, do hoàn cảnh gia đình khó khăn, Kim Lân chỉ được học
hết bậc tiểu học rồi đi làm, lăn xả vào cuộc sống mưu sinh để kiếm tiền phụ
giúp gia đình. Nhờ chịu khó quan sát và cũng hay ngẫm nghĩ, lại có nhiều cơ
hội tiếp xúc, đi nhiều nơi nên Kim Lân đã có vốn hiểu biết khá phong phú về
phong tục tập quán của vùng Kinh Bắc quê hương ông.
Đầu những năm 40, Kim Lân được bạn đọc đón nhận với một số
truyện được in trên các báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ nhật. Ở loạt
truyện này, nhà văn miêu tả những cảnh đời cơ khổ và một số sinh hoạt phong
phú ở thôn quê.
Cùng với các nhà văn Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng,
Nam Cao... Kim Lân theo Cách mạng từ năm 1944 trong Hội văn hóa cứu
quốc. Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông trở thành phóng viên các báo
của lực lượng vũ trang Cách mạng như: Xông Pha, Chi Lăng. Hòa bình lặp
lại, ông làm công tác biên tập ở Nhà xuất bản Văn học, Báo Văn nghệ và
9
giảng dạy tại trường viết văn Nguyễn Du.
Năm 2001, Kim Lân được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học
nghệ thuật. Năm 2007, Kim Lân mất tại Hà Nội, thọ 87 tuổi.
1.1.2. Sự nghiệp văn học
a. Trƣớc Cách mạng tháng Tám
Trước Cách mạng tháng Tám, Kim Lân là cây bút mới với một số
truyện ngắn được đăng báo, tiêu biểu như: Đứa con người vợ lẽ, Đứa con
người cô đầu, Cô Vịa… hầu hết các sáng tác mang tính chất tự truyện nhưng
đã thể hiện được không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và
cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân thời kì đó. Đặc biệt Kim Lân
được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi vào những đề tài độc đáo như tái hiện
sinh hoạt văn hóa phong phú ở thôn quê (Đánh vật, Chọi gà, Thả chim…). Có
thể kể đến các tác phẩm như: Đôi chim thành, Con mã mái, Chó săn… kể lại
một cách sinh động những thú vui kể trên, qua đó biểu hiện một phần vẻ đẹp
tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám – những người
sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời. Giữa cuộc đời nhọc nhằn,
những trang văn của Kim Lân đã giúp người đọc hiểu rằng: Sau những lũy tre
xanh xanh kia, từ bao đời nay người nông dân sống lam lũ thật, nhưng tháng
ba ngày tám, những buổi sang xuân, họ vẫn tổ chức được những trò vui, mà
qua đó đã thể hiện được sự thông minh, tài hoa, một tâm hồn tươi sáng lành
mạnh.
Kim Lân từng tâm sự rằng: “Những truyện tôi thích và cũng được
nhiều người thích, đều là những cái tôi viết về chính mình, về làng xóm mình,
người thân mình” [13, 81]. Do đó truyện ngắn Kim Lân mang tính hiện thực,
giản dị. Mỗi truyện như một mảng đời nhà văn “xắn ra” (Chữ của Tô Hoài) từ
mảnh đất sống của kiếp người thấm đẫm mồ hôi, nước mắt lời than thở và cả
10
những nụ cười nhiều lúc hồn nhiên xúc động. Kim Lân là nhà văn của những
số phận thiệt thòi, những kiếp người cùng khổ của làng quê Việt Nam giữa
thế kỉ XX.
b. Sau Cách mạng tháng Tám
Sau Cách mạng tháng Tám, Kim Lân tiếp tục làm báo, viết văn. Ông
là câu bút chuyên viết về truyện ngắn và làng quê Việt Nam - mảng hiện thực
mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc. Có thể kể đến tác phẩm: Nên vợ nên
chồng (1955), Con chó xấu xí (1962).
Từ sau năm 1960 Kim Lân dừng sáng tác văn học. Ở độ tuổi bốn
mươi, với nghệ thuật viết truyện ngắn bậc thầy, cái sự gác bút của ông quả là
lạ. Có người nói, văn tài của ông đã hết. Có người lại bảo, ông muốn né tránh,
không muốn can dự vào chuyện văn, chuyện người, vốn dĩ nhiều lúc vàng
thau lẫn lộn. Người từng trải và hiểu rõ khí phách Kim Lân thì đoán rằng ông
đã sớm nhận ra điểm dừng của văn nghiệp mình. Đúng như M.Gorki đã từng
nói: “Dấu hiệu của một tài năng còn ở chỗ anh ta đã biết dừng lại đúng chỗ”.
Thay vào công việc viết văn, Kim Lân tham gia viết báo và bồi dưỡng lực
lượng viết văn trẻ. Bên cạnh đó, ông còn tham gia đóng phim và kịch. Một số
vai tiêu biểu ông tham gia diễn xuất có thể kể đến: Lão Hạc trong phim Làng
Vũ Đại ngày ấy; Lý Cựu trong phim Chị Dậu; Lão Pẩu trong phim Con Vá;
Cải Khiết trong vở Cái tủ chè của Vũ Trọng Can; cụ lang Tâm trong phim Hà
Nội 12 ngày đêm.
Tuy số lượng tác phẩm không nhiều nhưng Kim Lân là nhà văn có vị
trí vững chắc trên văn đàn, trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.
1.2. Đóng góp của Kim Lân về đề tài nông thôn trong văn học Việt Nam
hiện đại
Trong văn xuôi Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, vấn đề phản
ánh hiện thực đã trở thành nguồn mạch quen thuộc của trào lưu văn học hiện
11
thực phê phán. Trên mảnh đất ấy, đề tài người nông dân cơ cực, làng quê tù
đọng được khai thác triệt để với các nhà văn tên tuổi: Ngô Tất Tố, Nguyễn
Công Hoan… Song trên mảnh đất xưa cũ ấy, Kim Lân đã dựng dậy những
ngôi lầu nghệ thuật đặc sắc tồn tại thách thức với thời gian, đứng vững trong
lòng bạn đọc. Những truyện như: Đứa con người vợ lẽ, Đứa con người cô
đầu, Nỗi này ai có biết… được nhà văn lấy chất liệu sống từ chính bản thân,
gia đình và quê hương. Việc khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ
với những tính cách, số phận điển hình trong những hoàn cảnh điển hình
chính là yếu tố quan trọng giúp Kim Lân dựng lên những truyện ngắn đặc sắc.
Đối với nhà văn Kim Lân, Cách mạng không chỉ mang lại sự thay đổi
cuộc sống của bản thân và gia đình, mà còn giúp đổi thay sự nghiệp cầm bút
của ông. Từ đó, cách viết của nhà văn bắt đầu đổi khác, như lời ông nói:
“Trình độ một anh nhà quê viết theo bản năng, cảm tính mới dần dần thấy
được công việc thực sự của người viết văn chuyên nghiệp” [18]. Những
truyện Vợ nhặt, Ông lão hàng xóm, Con chó xấu xí… đều được Kim Lân
sáng tạo dựa trên cái nền của sự thật. Phải chăng chính sự độc đáo trong sáng
tạo của nhà văn đã kết tinh lên những thành tựu văn học đó.
Có thể nói suốt cả một đời văn Kim Lân chuyên viết truyện ngắn về
làng quê Việt Nam – mảng đề tài ông yêu thích và trăn trở. Sau này vẫn viết
về nông thôn, ông đề cập đến sự đổi mới mặt tình cảm của người nông dân
trong Cách mạng và kháng chiến, sự đổi đời của họ trong cải cách ruộng đất,
những hoạt động phục vụ Cách mạng. Công việc đó của Kim Lân tuy thầm
lặng, bình thường, nhưng thật đáng quý trọng.
Nếu nhìn một cách hệ thống từ những nhân vật xuất hiện trong các tác
phẩm Kim Lân viết trước Cách mạng tháng Tám đến các tác phẩm giai đoạn
sau, người đọc dễ dàng nhận ra nét riêng của ông là một ngòi bút sâu lắng,
cẩn trọng, tỉ mẩn, luôn cố gắng để đi tới tận cùng những nỗi niềm tâm trạng
12
của từng con người, từng số phận riêng để từ đó góp thêm tiếng nói mới mẻ
về đề tài người nông dân trong nền văn học hiện đại. Chính tấm lòng nhân
đạo, cảm thông sâu sắc đã giúp Kim Lân thành công ở đề tài này: “Tấm lòng
của nhà văn đã giúp ông không bước lạc sang bên kia cái sợi tóc mỏng manh
nó phân chia chân thực và giả tạo, bóp méo; yêu thương và khinh bạc, mỉa
mai” [14, 21]. Đúng như nhà thơ Trần Ninh Hồ khẳng định: “Tất cả, tất cả
dường như đã được ghi lại bằng những thân phận, những tâm trạng sắc sảo
đến cốt, đến lõi. Nếu như cho rằng văn chương là lịch sử tâm trạng con người
thì Kim Lân quả là nhà văn đích thực trên cái ý nghĩa ấy” [5].
Đối với truyện ngắn, ngòi bút của Kim Lân đã đạt tới đỉnh điểm chỉ
riêng ông mới có. Về góc độ này nhà văn Nguyễn Khải viết: “Về văn xuôi là
cái nghề của tôi, trước sau tôi thần phục có ba người là các ông Nguyễn Tuân,
Nam Cao, và Kim Lân. Sau này viết lách được cái gì thường cũng lấy vào văn
của ba ông ấy làm chuẩn” [11]. Theo cách nói của Nguyễn Khải, nhà văn Kim
Lân được xếp vào hàng những nhà văn xuất sắc của thế kỉ XX.
Như vậy, viết về đề tài nông thôn, Kim Lân không phải là người đầu
tiên, nhưng chính ông là người đã tạo ra cho nền văn học hiện đại Việt Nam
một cái nhìn mới mẻ, độc đáo về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng
Tám. Mọi vấn đề của cuộc sống nông thôn đều được ông phản ánh và khái
quát trong hầu hết các tác phẩm của mình. Qua đó, Kim Lân đã đưa độc giả
đến gần hơn với đời sống nông thôn của người nông dân Việt Nam trong thế
13
kỉ XX.
Chƣơng 2: SỰ THỂ HIỆN ĐỀ TÀI NÔNG THÔN TRONG TRUYỆN
NGẮN CỦA KIM LÂN
2.1. Hiện thực cuộc sống nông thôn
Xã hội Việt Nam những năm 1940 - 1945 với bao biến động sâu sắc.
Giai đoạn này, Nhật nhảy vào Đông Dương cấu kết với Pháp, đàn áp phong
trào cách mạng, bóc lột nông dân, khiến mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp
trong xã hội trở nên gay gắt, quyết liệt. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội với nhiều
biến động ấy đã tác động lớn vào các khuynh hướng văn học, trong đó có văn
học hiện thực. Thời kì này, các nhà văn hiện thực không thể phản ánh xã hội
một cách trực diện mà phải lựa chọn cách đi riêng. Bên cạnh những cây bút
gạo cội như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, trên văn đàn
đã xuất hiện một đội ngũ nhà văn trẻ như Nam Cao, Nguyên Hồng, Bùi
Hiển,Tô Hoài và Kim Lân...
Tuy nhiên, mỗi nhà văn, ở mỗi hoàn cảnh chịu sự ảnh hưởng của chủ
nghĩa Mác - Lê Nin ở mức độ khác nhau nên có cách nhìn, cách cảm khác
nhau. Do đó, khi viết về hiện thực họ đều có những cách tiếp cận riêng, đem
lại sự phong phú đa dạng, nhiều màu sắc mới cho văn học giai đoạn này.
Với nhà văn Kim Lân, lựa chọn và viết về nông thôn Việt Nam là một
sự thử thách. Thành công lớn nhất của ông ở chỗ Kim Lân không dẫm đạp lên
lối mòn mà các nhà văn khác đã khai thác. Ở đây, Kim Lân chủ yếu tiếp cận
làng quê từ bình diện phong tục, sinh hoạt văn hóa và những câu chuyện bình
dị hàng ngày. Nhà văn đã có những trang viết mô tả rất chân thực, tinh tế và
sống động những thuần phong mĩ tục của người làng quê sau lũy tre làng.
Ông đã tạo nên sức hấp dẫn riêng cho những truyện ngắn của mình từ chính
những khám phá các giá trị văn hóa cổ truyền của vùng đất Kinh Bắc, nơi
14
chôn rau cắt rốn của chính nhà văn.
2.1.1. Hiện thực văn hóa, phong tục
Bất kì một nhà văn nào khi viết về làng quê ít nhiều đều đề cập, miêu
tả đến những yếu tố phong tục, sinh hoạt văn hóa làng xã. Bởi vì phong tục
tập quán là những thứ quen thuộc, bình dị, là đời sống tinh thần tồn tại và chi
phối cuộc sống của người dân quê trong suốt quá trình lịch sử. Trong văn học
hiện thực Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, người đọc thú vị khi tìm
thấy những nét văn hóa riêng biệt, những phong tục tập quán mang đậm sắc
màu địa phương trong các tác phẩm. Đó là thành phố Hải Phòng náo nhiệt
trong tác phẩm của Nguyên Hồng; một vùng ven đô Hà Nội xưa cũ của nhà
văn Tô Hoài, và một Bùi Hiển với tập tục cổ hủ của người dân chài xứ Nghệ.
Kim Lân cũng góp vào đó mảng màu bức tranh phong tục dân tộc bằng những
nét văn hóa đặc trưng đậm màu sắc dân gian từ chính cuộc sống, sinh hoạt
thường ngày của xứ sở Kim Bắc quê hương ông.
Truyện ngắn Kim Lân đã đem đến cho người đọc những thú vị bất ngờ
và độc đáo. Tiếp cận làng quê từ hướng phong tục, ông đã miêu tả những câu
truyện hàng ngày, những sinh hoạt văn hóa bình dị và cả những thói tục vốn
có của làng quê nghìn đời. Tất cả đều trở thành đối tượng phản ánh và khám
phá trong truyện ngắn của ông. Có thể nói, trước Cách mạng tháng Tám, Kim
Lân đã khẳng định mình trên văn đàn bằng những truyện ngắn viết về phong
tục, sinh hoạt văn hóa làng quê. Chính sự tiếp cận này đã thể hiện ý thức nghệ
thuật sâu sắc của nhà văn. Ý thức về giá trị văn hóa cổ truyền, ý thức ngợi ca
và tôn vinh sức sống, sức mạnh của văn hóa dân tộc Việt Nam.
Người Việt không ai không biết sự tích cây nêu ngày tết. Song tập tục
đuổi tà trừ ma gắn với cây nêu mang màu sắc dân gian chỉ có thể được thưởng
lãm qua trang viết của Kim Lân. Trong truyện ngắn Đuổi tà, ngay tựa đề cũng
đã gợi lên sự tò mò về một tập tục kì lạ, ngộ nghĩnh nhưng lại quen thuộc của
15
người dân đồng bào Bắc Bộ. Bằng sự quan sát sắc sảo, cái nhìn hóm hỉnh và
cảm thông, Kim Lân dường như hóa thân vào trang viết. Ông miêu tả khá tỉ
mỉ, tường tận từ việc sắp đặt đồ lễ cúng tế cho đến việc tiến hành lễ nghi.
Việc đuổi tà hàng năm “có ảnh hưởng đến sự thành đạt, suy vi của dân làng
sang năm mới tới đây”. Rõ ràng đây là một nét văn hóa thể hiện ước muốn về
một cuộc sống bình an, thịnh vượng trong cuộc sống. Phong tục ấy đã ăn sâu
bám rễ vào đời sống tâm linh, đời sống tinh thần của người dân quê. Chẳng
thế mà khi buổi lễ tiến hành, mọi người đều hào hứng tham gia “Xong cái lễ
“trịch tướng”, ông tự Năm nhổ bật cành phan lên. Đồng thời mấy bác tuần
đứng chờ sẵn bên ngoài cũng sấn lại trút mâm gạo muối vào chiếc rổ con
mang theo, cầm lăm lăm ở tay. Hét to lên mấy tiếng nữa, ông tự cầm cành
phan chạy ra ngoài đường cái. Bốn cậu nhà oản với bốn chiếc “bùa cái”
cũng lẽo đẽo theo sau. Mấy bác tuần vừa quát vừa ném gạo muối đuổi. Trẻ
con người nhớn à à theo sau reo hò ầm ĩ. Có người lượm đất, gạch ném theo
nữa. Họ tin như thế là đã trục xuất ma đói ma khát ra khỏi làng, năm mới đây
dân làng làm ăn mới thịnh đạt” [7, 125].
Đuổi tà không phải là một truyện ngắn có đề tài phục cổ như Bút
nghiên của Chu Thiên, Thanh đạm của Nguyễn Công Hoan, cũng không
phải là tác phẩm có ý nghĩa đả phá hủ tục như Việc làng, Tập án cái đình của
Ngô Tất Tố. Cái hay của truyện ngắn Đuổi tà chính là tập tục độc đáo được
Kim Lân miêu tả gắn liền với niềm vui, nỗi hám hức trong không khí thiêng
liêng đón tết cổ truyền của dân tộc “Mọi người như yên lặng kính cẩn đón
chờ cái năm mới rõ ràng”. Yêu quê hương, gắn bó tự hào về quê hương, nhà
văn Kim Lân đã hiểu hết ý nghĩa sâu sắc về tết Nguyên đán đối với mỗi người
dân đất Việt. Tết là khoảng thời gian thể hiện đời sống tâm linh trong quan
niệm tín ngưỡng đa thần của người Việt. Việc đuổi tà đầu năm là một thuần
phong mĩ tục có ý nghĩa nhân văn cao cả, là sợi dây vô hình gắn kết tình cảm
16
của các thành viên trong cộng đồng với một niềm tin thiêng liêng không thể
thiếu trong đời sống tinh thần của người dân quê. Nhà văn Kim Lân từng nói:
“Đất có lề quê có thói, văn hóa được tích tụ từ hàng nghìn năm, hàng trăm
năm. Nó tồn tại và phát triển trong mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi làng
xã… và từng làng được ghép thành cộng đồng, thành dân tộc, quốc gia… văn
hóa phải thuộc về một xã hội đang sống, chứ không phải cái gì cố định. Văn
hóa, hoặc như ta nói đất lề quê thói, không phải mỗi lúc mà có, cũng không
phải mỗi lúc mà mất được” [1, 88].
Đi vào hiện thực làng quê từ bình diện phong tục, Kim Lân đã tiếp cận
với con người làng quê mang bản sắc văn hóa truyền thống. Hình ảnh người
nông dân trên trang viết của Kim Lân khác xa với hình ảnh người nông dân
dưới ngòi bút miêu tả của Tự lực văn đoàn. Họ không phải là những con
người nghèo đói đến mức ngu dốt, bẩn thỉu như trong truyện Hai vẻ đẹp của
Nhất Linh: “Mỗi lần nhìn những người nhà quê nhem nhuốc ngồi bệt xuống
đất, bên những đống rác hôi hám, hàng bán lèo tèo mấy thứ quà vặt bẩn thỉu,
đầy cát bụi và mỗi lần ngửi thấy mùi quần áo, mùi mồ hôi người lẫn với trăm
nghìn thứ mùi khác ở các hàng xông lên, Doãn có cái cảm tưởng khó chịu về
sự bất di bất dịch của những xã hội quê, bao giờ cũng khốn nạn,cũng xơ
xác”. Đó là cái nhìn miệt thị có pha chút thương hại của tác giả Tự lực văn
đoàn. Những người vốn là Tây học, sống và lớn lên ở đô thị, trách sao được
khi họ có cái nhìn phiến diện như thế đối với người nông dân. Do vậy tiểu
thuyết luận đề mà họ đưa ra cũng chỉ mang tính chất cải lương nửa vời.
Kim Lân hoàn toàn khác, ông viết về người nông dân bằng những tình
cảm chân thật, tha thiết của “người con vốn sinh ra từ đồng ruộng”. Người
nông dân trên trang viết của Kim Lân không chỉ là người lao động suốt ngày
“đầu tắt mặt tối”, “cày sâu cuốc bẫm” mà họ còn là những con người thông
minh, tài hoa, say mê, vui nhộn trong những sinh hoạt văn hóa, những thú vui
17
chơi lành mạnh chốn hương thôn.
So với nhiều nhà văn khác cũng viết về phong tục, dưới con mắt của
Kim Lân, ông đã miêu tả những sinh hoạt văn hóa ngộ nghĩnh, đáng yêu của
những người nông dân chân lấm tay bùn. Họ hòa vui vào không khí tưng
bừng của lễ hội, đình đám để quên hết mọi lo âu, vất vả của cuộc sống thường
ngày. Ở đó, người đọc không bắt gặp cái lo âu, sợ hãi vì gánh nặng của lệ
làng, hủ tục, hay nỗi lo sưu thuế như trong truyện ngắn của Nam Cao, Ngô
Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… “Mấy hôm nay, ở mé đình, suốt từ sáng đến
tối, thỉnh thoảng lại thùng thùng nổi lên ba hồi chín tiếng… Làng Việt Nam
vốn quanh năm bình tĩnh hồi trống ấy lại luôn luôn làm huyên náo ầm ỹ cho
người ta sợ thêm, trong khi người ta đang sợ thuế. Người ta sợ thuế, vì người
ta lo không biết lấy đâu ra được tiền” [4, 147], mà dường như người đọc cảm
thấy một không khí làng quê nhộn nhịp, tươi vui. Với tài viết truyện ngắn của
mình, Kim Lân đã giới thiệu đến bạn đọc những chiêu võ đẹp, thế võ hay của
môn đấu vật cổ truyền dân tộc, hòa mình vào không khí lễ hội náo nức, sôi
động để thưởng lãm, để bình xét. Trong truyện Thượng tướng Trần Quang
Khải – Trạng vật, Kim Lân miêu tả hội vật tổ chức ở Kinh đô “cờ xí, tàn quạt
rợp trời. Nam phụ lão ấu đứng vây quanh xem đông như kiến cỏ” [7, 89]. Hội
vật ở làng tỉnh cũng đông vui rộn ràng “Tiếng trống vật nổi lên dồn dập.
Người tứ xứ đổ về xem đông như nước chảy. Ai ai cũng náo nức muốn được
xem mặt, xem tài ông Cản Ngũ. Người ta chen lấn nhau, quây kín xới vật;
nhiều người phải trèo lên những cây trôi, cây nhội gần đấy xem cho rõ” [7,
225]. Nếu bức tranh dân gian đấu vật của làng Đông Hồ là bức tranh tĩnh thì
những trang viết của Kim Lân về môn vật lại là bức tranh động, rực rỡ sắc
màu dân gian, rộn rã âm thanh, đa dạng về góc cạnh như trong truyện ngắn
Ông Cản Ngũ: “Dưới mái tam quan đền, những vuông nhiễu điều bay đỏ
rực. Các đô trong tỉnh cởi trần, đóng khố ngồi hai bên xới. Trên thềm cao,
18
ông Cản Ngũ ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu đậu trắng, cạp điều. Ông ngồi
một mình một chiếu; người ông đỏ như đồng tụ, to lớn, lẫm liệt, nhác trông
không khác gì tượng hai ông tướng Đá Rãi ở trong đền. Đầu ông buộc một
vuông khăn màu xanh lục giữa tóc, mình trần, đóng khố bao khăn vát” [7,
225]. Không chỉ miêu tả chân thực, sống động, mà Kim Lân còn am hiểu cả
cử chỉ hành động đầy khí khái của đô vật “bước ra xới, xốc lại mảnh khố
nhiễu xanh, tiến lên thềm tham quan đền, giơ bàn tay thô, vụng vuốt dài lên
mấy vuông nhiễu giải nhất, miệng cười rất tươi” [7, 225].
Nếu như ngòi bút Nam Cao chủ yếu thiên về kể hơn miêu tả, Thạch
Lam ngược lại tả nhiều hơn kể thì Kim Lân lại khéo léo hài hòa vừa kể vừa tả.
Những keo vật đẹp mắt, những thế vật bất ngờ hồi hộp được nhà văn miêu tả
như khắc như chạm. Ngòi bút của Kim Lân như một ống kính quay cận cảnh
rõ nét đến từng chi tiết, được thể hiện rõ nét trong truyện Thượng tướng Trần
Quang Khải - Trạng vật: “Quắm Đen đã như con cắt luồn qua hai cánh tay
ông Cản Ngủ ôm lấy một bên chân ông, bốc lên… Ông Cản Ngũ vẫn đứng
nghiêng mình nhìn Quắm Đen mồ hôi mồ kê nhễ nhại dưới chân. Lúc lâu, ông
mới thò tay xuống nắm lấy khố Quắm Đen nhấc bổng ông ta lên, coi nhẹ như
ta giơ con ếch có buộc sợi rơm ngang bụng vậy”. Vẫn trong truyện ngắn này,
mượn ngôn ngữ điện ảnh, Kim Lân đã làm sống dậy trong lòng người đọc
những cảm giác hồi hộp lo âu, mừng vui như đang trực tiếp tham gia cổ vũ
cho những keo vật đẹp mắt. Tác giả như hóa thân vào những đô vật để đem
tới những cảm nhận rất thực “Trạng Sặt lúng túng xoay xỏa. Chỉ một chốc đã
thấy ù tai hoa mắt. Mồ hôi đổ ra như tắm. Chân tay cuống quýt líu ríu, đánh,
gỡ lạo chạo, Trạng Kế nhân cơ hội nhanh như cắt đưa tay phải lên bấu lấy
quai xanh, còn tay trái vít gáy kẻ địch ghìm xuống. Trạng Sặt vùng vẫy cố gỡ,
nhưng không sao thoát được năm ngón tay như thép nguội kẹp chặt lấy xương
19
quai xanh. Da dẻ Trạng Sặt tái dần, tái dần và toàn thân run lên bần bật” [7,
91]. Nếu không am hiểu và yêu môn vật truyền thống, tác giả khó có thể miêu
tả sinh động, đặc sắc và hay được như thế!
Không chỉ trân trọng, nâng niu những giá trị văn hóa cổ truyền, Kim
Lân còn muốn gìn giữ những thú chơi lành mạnh, đậm đà bản sắc dân tộc
tưởng chừng bị lãng quên. Những truyện ngắn Kim Lân viết về môn võ vật
như món quà quê giúp bạn đọc thưởng lãm một thú chơi dân dã của người
Việt, vừa để cổ vũ khích lệ cho môn vật cổ truyền của dân tộc. Truyện
Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật, Ông Cản Ngũ là những
truyện ngắn Kim Lân lấy cảm hứng từ đề tài lịch sử, với tinh thần suy tôn
những giá trị văn hóa dân gian đậm đà bản sắc dân tộc. Cách khai thác truyện
thông minh, tài hoa, kết hợp hài hòa giữa quá khứ và hiện tại, ngôn từ vừa
trau chuốt vừa giản dị bình dân đã đem đến cho những truyện ngắn trên của
Kim Lân vẻ đẹp riêng độc đáo.
Rõ ràng, Kim Lân là người con của xứ sở Kinh Bắc, được thụ hưởng
và nuôi dưỡng bởi dòng sữa ngọt của văn hóa làng quê, ý thức về giá trị văn
hóa cổ truyền luôn luôn chảy trong sáng tác của ông. Kim Lân hiểu việc cần
phải làm để giữ gìn và phát huy văn hóa cổ truyền của dân tộc. Ngoài những
truyện ngắn viết về đánh vật, nhà văn còn đi sâu thể hiện những thuần phong
mĩ tục qua những thú chơi đồng quê khác như: trồng cây cảnh, nuôi gà chọi,
thả chim bồ câu… Có thể nói các truyện ngắn Đôi chim thành, Con mã mái,
là những câu truyện ngắn thành công nhất viết về đề tài này.
Truyện ngắn viết về phong tục và các thú tiêu khiển nếu không khéo sẽ
dễ sa vào những trang khảo cứu, nhưng Kim Lân không khảo sát phong tục
mà mô tả phong tục bằng con mắt của một nhà văn. Đằng sau những sinh hoạt
văn hóa, những thú chơi đồng quê là cuộc sống sinh động như vốn có, chằng
chịt nhiều mối quan hệ trong cộng đồng làng xã. Truyện ngắn Kim Lân viết
20
về đề tài trên mang phong vị riêng độc đáo, hấp dẫn bởi vì trong đó còn có sự
thấp thoáng, ẩn hiện “cái tôi” nhà văn tài hoa, thông minh hóm hỉnh. Trả lời
báo An ninh cuối tháng ( số 34)- năm 2004, Kim Lân tâm sự “Trước tôi cứ
nghĩ những truyện mà tôi viết có tính chất xã hội thì tôi cho là hay. Còn
những truyện mà viết những cái chơi chim, chơi gà, chơi chó săn, chơi này nọ
là không hay. Thế nhưng bây giờ tôi đọc lại những cái mình viết về chim về
chó lại tử tế vì mình hiểu nó và yêu nó”. Thật vậy, truyện viết về thuần phong
mĩ tục qua các thú chơi đồng quê, ông viết bằng tất cả vốn sống dày dặn, sự
tài hoa và đam mê nhiệt tình của mình. Nhà văn hóa thân, nhập vai vào nhân
vật khá tài tình khiến người đọc băn khăn tự hỏi đâu là nhân vật, đâu là nhà
văn?
Trong tác phẩm Con mã mái, hình ảnh ông cả Chuẩn – một nhà nho
nghèo “danh lợi bất như nhàn”, yêu thích thú chơi cây cảnh nhàn nhã thanh
tao. Tuy gia cảnh nghèo túng, chỉ có một mảnh sân nhỏ, ba gian nhà tranh lụp
xụp nhưng ông sống thanh nhàn. Với bàn tay khéo léo, óc thẩm mĩ và tài sáng
tạo, ông đã tạo nên một khu vườn đẹp với “hòn non bộ sần sụi, gân guốc. Cỏ
tóc tiên mọc um tùm giữ một vẻ hoang vu, bí mật đối với một bọn người sành
nhỏ bé đặt theo điển tích. Nào chùa, nào tháp, cầu, quán chênh vênh, hiểm
trở; nào ngư, tiều, canh, mộc, cầm, kì, thi, tửu; nào Bá Nha ngộ Tử Kì, tất cả
ngụ một vẻ an nhàn thư thái, gác đường danh lợi ra ngoài” [7, 49]. Một thế
giới ảo nhưng sinh động kì thú. Sơn, thủy, canh, tiều, ngư, mộc, cận kề sum
vầy bên nhau. Cảnh vật dẫu vô tri vô giác nhưng sống động bởi gửi gắm vào
đó tâm hồn, tình cảm của chủ nhân. Nếu không có tâm hồn nghệ sĩ yêu cái
đẹp, am hiểu nghệ thuật thì làm sao ông Cả Chuẩn có thể tạo nên được một
hòn non bộ đẹp, một dáng cây “Kiểu long cuốn thủy” mà ai cũng trầm trồ
thán phục.
Đọc truyện ngắn của Kim Lân, ta bắt gặp hình ảnh người nông dân
21
không chỉ sống vì cơm no áo ấm mà ở họ còn mang khát vọng về cuộc sống
tinh thần phong phú, lành mạnh và tươi đẹp. Cuộc sống trở nên đáng yêu, có
ý nghĩa hơn khi nhân vật Cả Chuẩn, Trưởng Thuận, đặt hết niềm tin vào thú
chơi cầu kì, công phu của mình. Ông Cả Chuẩn “mê thích gà chọi suốt ngày
chỉ lăn lóc với gà”, Trưởng Thuận khéo léo và tài hoa trong cách nuôi chim
bồ câu. Dường như những người nông dân này đã gửi gắm tất cả niềm vui,
nỗi buồn vào các thú chơi tao nhã, lành mạnh như những nghệ sĩ trong sáng
tạo nghệ thuật. Trong truyện ngắn Đôi chim thành, ta thấy cụ Tú ông Trưởng
Thuận tinh tường, tài nghệ ngay từ việc lựa chọn giống chim hay “Phàm giả
cái giống chim Văn giàng này, cứ con nào “cào” nhọn là bay cao, con nào bị
“to” là đông đen. Nhưng mấy con được hoàn toàn cả cào lẫn bị. Cào thì “sơ,
tràng” mà đông đen thì không “vần thượng”. Đôi chim này được cả cào lẫn
bị” [7, 30]. Sự khen thưởng, thán phục của cụ Tú chính là sự đồng điệu của
nhân vật cụ Tú, ông Trưởng Thuận và cả nhà văn Kim Lân. Họ gặp nhau ở
điểm chung đều say mê, tài hoa, am hiểu tường tận thú chơi tao nhã. Chỉ
ngắm nhìn mã bên ngoài của đôi chim mà biết được lối bay, cái hay cái dở
của giống chim Văn giàng. Chơi chim bồ câu đòi hỏi người chơi phải là người
kiên nhẫn, lanh lẹ, khéo léo. Hãy quan sát cách thả chim của Trưởng Thuận:
“Đặt lồng chim xuống vệ đường, ông Trưởng cởi dây, rút ống nước đâu đấy,
rồi mới quầy tay ra sau lưng rút chiếc quạt giắt cạp quần, se sẽ đạp vào nan
lồng. Đàn chim xô về một phía. Đập mạnh thêm mấy chiếc nữa, ông mở bật
nắp lên. Đàn chim bay ra một loạt, cánh vỗ phanh phách. Bỏ lồng đấy cho cu
Tạm, ông tất tả ra về” [7, 31]. Bằng sự quan sát và vốn sống thực tế, Kim Lân
đã cho người đọc thấy được sự điệu nghệ, khéo léo trong cách thả chim của
Cả Thuận. Thả chim bồ câu là một thú chơi có từ xa xưa. Các cụ ta ngày xưa
yêu chuộng thú thả chim bồ câu vì chúng là loại “nghĩa điểu” trung thành, có
tình có nghĩa. Hội thi thả chim bồ câu là một thú chơi đồng quê có ý nghĩa
22
giáo dục sâu sắc về tinh thần tập thể, về đức tính chung thủy của con người.
Vì lẽ đó, Kim Lân say mê và muốn san sẻ niềm đam mê ấy để mọi người
cùng thưởng thức về thú chơi thanh tao này.
Xưa nay trong các tác phẩm viết về nông thôn Việt Nam, người đọc
thường chỉ thấy hình ảnh người nông dân lam lũ, nghèo khổ và dốt nát. Bên
cạnh cuộc sống đói nghèo của họ, Kim Lân phát hiện ra đời sống tinh thần
phong phú, lành mạnh của họ. Nhà văn không hề tô hồng, trau chuốt hình ảnh
người nông dân trên trang viết của mình. Ông viết rất thật về họ như viết về
chính bản thân mình, viết từ vốn sống, sự am hiểu gắn bó gần gũi của một
người con làng quê với những người làng quê. Có thể nói, Kim Lân là cây bút
truyện ngắn gắn bó sâu sắc và am hiểu tường tận cuộc sống nông thôn, vì thế
truyện của ông thường giàu chất liệu hiện thực. Cảnh nông thôn với sinh hoạt
văn hóa đầm ấm, đậm đà tình làng nghĩa xóm hiện lên bình dị trong từng
trang viết của ông.
Tóm lại, qua bức tranh phong tục dân gian với những tập quán ngộ
nghĩnh, những thú chơi tao nhã như đánh vật, chọi gà, thả chim, nhà văn Kim
Lân đã thể hiện niềm tự tôn, tự hào về văn hóa cổ truyền của dân tộc một cách
kín đáo và tinh tế. Truyện ngắn của Kim Lân đã giúp chúng ta cảm nhận sâu
sắc về sợi dây ràng buộc giữa những thành viên trong cộng đồng làng xã qua
sinh hoạt văn hóa, qua những phong tục tập quán. Đây chính là nét riêng độc
đáo của Kim Lân so với các nhà văn cũng tiếp cận làng quê từ hướng phong
tục. Kim Lân theo thời gian, không gian của những làng quê thân quen để tìm
hiểu con người, đời sống tinh thần của người dân quê qua lối cũ nếp xưa
nhuần nhụy. Chẳng thế, trong lời giới thiệu Tuyển tập Kim Lân, nhà nghiên
cứu Lữ Huy Nguyên đã khẳng định: “Kim Lân là người đã thành công trong
một loạt truyện về thú chơi. Đặc biệt ông nổi tiếng với các truyện viết về
23
phong tục làng quê”.
2.1.2 . Hiện thực đời thường
Con người bao giờ cũng là đối tượng chính trong tác phẩm văn học.
Cuộc sống muôn hình vạn trạng, niềm vui luôn đi đôi với nỗi buồn, ánh sáng
luôn tồn tại bên cạnh bóng tối và cái xấu len lỏi giữa cái tốt, hạnh phúc xen
lẫn nỗi đau. Kim Lân đã bước vào con đường văn học với một sự thôi thúc
như thế. Khi ông đến với văn chương chính là lúc xã hội Việt Nam ngột ngạt,
bế tắc và đầy biến động. Đời sống người nông dân khốn đốn trăm bề. Nạn
đói, nạn sưu thuế, lũ lụt, hạn hán, dồn dập ập xuống thân phận nhỏ bé của
người lao động nghèo.
Xuất thân trong gia đình có hoàn cảnh éo le, là con người vợ lẽ thứ ba
nghèo túng, không ruộng đất, làm thuê làm mướn khắp nơi, Kim Lân ý thức
rất rõ về cuộc sống mòn mỏi, lắt lay, cơ cực của những người lao động nghèo
trước Cách mạng tháng Tám. Nhà văn chú tâm vào những cảnh đời cụ thể,
chọn một khoảnh khắc tiêu biểu trong cuộc sống của nhân vật để miêu tả
nhưng chất liệu hiện thực cứ ngồn ngộn trong từng trang viết của ông. Kim
Lân đã đem đến cho người đọc sự cảm thông, tình yêu thương xen lẫn nỗi
chua xót, đắng cay về thân phận về kiếp sống của những con người nhỏ bé,
lam lũ. Ông thấy người nông dân như là: “Những con người bị cái đói nghèo
đọa đày cho đến thành tàn tật, thành ngớ ngẩn”. Vì thế, nhà văn sáng tác
truyện ngắn của mình bằng cảm hứng dạt dào yêu thương của một trái tim
nhân hậu và tấm lòng rộng mở vì những người lao động nghèo. Truyện của
Kim Lân là truyện hiện thực. Nhà văn kể mọi chuyện từ chọi gà, thả chim,
đánh vật trong những dịp lễ hội; Chuyện các đại ca tập hợp nhau tiến hành
một buổi “chợ đồng” ở làng bên để thực hiện lời nguyền từ kiếp nào (Trả lại
đòn); chuyện con cái đối với bố mẹ già (Cơm con); chuyện anh chàng ngụ cư
nhặt được vợ giữa nạn đói khủng khiếp (Vợ nhặt); chuyện một gia đình tản
24
cư trong kháng chiến mà lòng lúc nào cũng không rời làng, rời xóm và tuyệt
đối trung thành với cách mạng (Làng); chuyện cải cách ruộng đất có sai lầm
gây oan sai nhưng cơ bản đã đáp ứng được quyền lợi cơ bản của người nông
dân (Ông lão hàng xóm); chuyện người nông dân đắn đo khi phải đưa ruộng
đưa trâu vào hợp tác xã (Ông Cả Luốn gốc me); Chuyện sinh hoạt của gia
đình cán bộ trong kháng chiến (Con chó xấu xí)…Người đời có tốt có xấu, sự
việc xảy ra hàng ngày có đúng có sai. Trong các trang viết của Kim Lân, hình
ảnh con người và cuộc sống cứ tự nhiên như vậy mà hiện ra.
Tác phẩm Đứa con người vợ lẽ là truyện ngắn đầu tay, khẳng định chỗ
đứng của nhà văn trên văn đàn. Tác phẩm mang tính chất tự truyện. Cuộc đời
đói nghèo, thân phận hẩm hiu của mẹ con Tư chính là cuộc đời, thân phận của
mẹ con Kim Lân trong đó. Mẹ Tư là người phụ nữ cần mẫn, chịu thương chịu
khó nhưng lại là nạn nhân của chế độ đa thê. Bà là người vợ lẽ thứ ba, vì thế
cuộc hôn nhân của bà không có tình yêu. Thân phận lẽ mọn của chế độ đa thê
đã cay cực, tủi nhục mà ngay đến con cái họ cũng bị ruồng bỏ, hắt hủi. Tư
sống giữa gia đình mà như không có gia đình anh em, họ mạc đều thờ ơ với
Tư. Cái đói quay đói quắt không chỉ hành hạ Tư về thể xác mà còn xoáy sâu
vào tâm can Tư một ý nghĩa chua chát về thân phận bèo bọt của mình: “Làm
một thằng con người vợ lẽ, không phải vì hương khói, chỉ là một thằng thừa
trong gia đình” [7, 13]. Cuộc đời thật oái oăm! Hiện thực cuộc sống luôn hiền
hòa, ưu ái với một số ít người giàu sang nhưng lại khắc nghiệt, tàn nhẫn với
số đông người nghèo. Chính cuộc đời khổ đau, chịu thiệt thòi, Kim Lân thấu
hiểu và cảm thông với số phận của những người phụ nữ bất hạnh trong xã hội
cũ. Họ là “nô lệ của nô lệ”, họ thường là nạn nhân của chế độ đa thê bị tước
đoạt quyền quyết định hạnh phúc của mình.
Truyện ngắn Đứa con người cô đầu cũng là một truyện ngắn nói về
thân phận nhỏ bé của con người trong xã hội. Trước đây, Thạ cũng có một
25
cuộc sống khấm khá không đến nỗi quá đói nghèo, cậu vẫn được đến trường
học. Cuộc sống của cậu thay đổi kể từ khi mẹ cậu đi bước nữa, bỏ lại Thạ bơ
vơ một mình. Thạ không được chu cấp đầy đủ, cậu phải lăn xả vào kiếm sống
để nuôi thân qua ngày, thậm chí phải bán quần áo của mình đi để có tiền ăn.
Đến khi không còn gì để bán nữa, cậu đã phải tự bươn chải cuộc sống bằng
nghề bán kem dạo: “Bỗng tiếng rao kem nhật vang lên, rướn lên. Nghe quen
quen, tôi quay lại. Thì ra là Thạ. Thoáng thấy tôi, hắn đội lệch cái mũ trắng
rúm ró che mặt rồi quay ngoắt vào phố khác. Độ này hắn gầy quá. Quần áo
rộng lùng bùng. Sợi đã bợt nên mặc dầu vá chằng vá đụp, áo nó vẫn rách tả
tơi để hở những miếng da xanh đen sạm vì nắng cháy. Bóng cậu học trò xinh
xẻo, trắng trẻo không còn ở hắn nữa” [7, 11].
Rõ ràng, hiện thực cuộc sống trong truyện Kim Lân đa dạng, phong
phú, nên có khá nhiều “lát cắt”, nhiều mảnh đời khổ đau. Đọc truyện của Kim
Lân, chúng ta bắt gặp hình ảnh những con người trong cảnh đói khổ, phải tha
phương cầu thực: “Mạch kể chuyện của Kim Lân dường như bắt rất nhạy vào
những cảnh thương tâm: Cảnh bỏ nhà xiêu dạt vì công nợ, thuế khóa, cảnh ăn
xin, cảnh chết đường chết chợ, cảnh bị áp bức, đọa đày…” [2, 56]. Dường
như các nhân vật nghèo khổ đó đều được nhà văn phản ánh trong các sáng tác
của mình. Tiêu biểu như ở truyện Anh chàng hiệp sĩ gỗ những mảnh đời
khốn khó được hiện lên qua giọng văn đầy trăn trở, yêu thương của nhà văn.
Đó còn là cảnh đời cô đơn, nghèo khó của ông lão làm nghề múa rối rong,
một mình côi cút thân già “đẩy cái xe gỗ lọc cọc đi tha phương cầu thực”. Đó
là nỗi niềm ai oán, cùng cực của lão ăn mày mù lòa. Ông có một con chó vàng
rất khôn ngoan. Ngày ngày con chó vẫn “dắt ông lão đi khắp chợ ăn xin, đêm
về hai “thầy trò”lại ôm nhau ngủ ở dưới gốc đa ngoài quán trọ” [7, 245].
Con chó là người bạn chung thủy của ông, cùng ông kiếm sống và giúp ông
vượt qua những tháng năm cuối cùng của tuổi già. Nhưng rồi“không biết đứa
26
ác tâm nào lại đánh bả con chó của ông lão chết, cướp đi cái nguồn sống, và
tình thương yêu cuối cùng của con người tàn tật ấy”. Đó còn là những nỗi
niềm chua xót của hai mẹ con người phụ nữ phải đi trốn nợ đêm giao thừa:
“Đêm nay là đêm ba mươi tết rồi, những ánh đèn đó là những ánh đèn đi đòi
nợ. Từ những ánh đèn quỷ quái ấy, tiếng chửi bới cứ rú lên những tiếng nanh
ác, sắc nhọn như mũi dao đâm vào da thịt” [7, 247].
Truyện ngắn của Kim Lân không viết về những cái to tát mà truyện
của ông bắt nguồn từ những cái vụn vặt, bình thường trong cuộc sống của
người lao động nghèo. Vì thế, nó đem đến sự gần gũi và đồng cảm sâu sắc,
tạo nên sự độc đáo, hấp dẫn riêng của tác phẩm Kim Lân.
Trước Cách mạng tháng Tám, thân phận bé nhỏ của người lao động
nghèo trở nên rẻ rúng, khốn khổ hơn trong cảnh đói. Cái đói đeo bám, hành
hạ họ khổ sở về mặt thể xác, đắng cay về mặt tinh thần. Nhà văn Ngô Tất Tố,
Nam Cao có nhiều tác phẩm viết về cái đói. Những truyện ngắn như Một ổ
chó và một đứa con, Cái bánh chưng, Mớ rau trong hòm, Ngô Tất Tố viết
cảnh đói khát tuyệt vọng ở quê hương ông. Nhà văn cất lên tiếng kêu đầy đau
xót phẫn nộ: Hãy cứu đói cho người nông dân. Với những truyện ngắn Một
bữa no, Tư cách mõ, Trẻ em không được ăn thịt chó, Nam Cao đã viết về
miếng ăn là miếng nhục, miếng ăn hủy hoại nhân tính, nhân hình con người.
Tác giả đã gióng lên hồi chuông hãy cứu lấy nhân phẩm, nhân cách con người
đang bị cái đói và miếng ăn hủy hoại, tha hóa đi. Truyện ngắn Kim Lân cũng
xoay quanh nỗi khổ vì đói của những người lao động nghèo, những người
nông dân thấp cổ bé họng. Cái họa chết đói năm 1945 quả là khủng khiếp.
Không chỉ đói xóm đói làng, từ Bắc Trung Bộ trở ra, từ thu đông 1944 đến
xuân hè 1945 hơn hai triệu người chết đói. Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân
được “thai nghén” ngay sau nạn đói năm 1945 nhưng ra đời sau đó mười năm.
Nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu đó đã ám ảnh nhà văn, thôi thúc nhà văn
27
viết về hiện thực. Nếu cái nghèo, cái đói trong những trang viết của Nam Cao
Ngô Tất Tố khiến ta thương cảm rơi nước mắt thì cái đói và cái chết ở trong
truyện Kim Lân khiến ta khiếp sợ, xót xa. Bức tranh toàn cảnh về nạn đói
khủng khiếp năm 1945 với cảnh “người đói bồng bế, dắt díu nhau xanh xám
như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, “bóng những người
đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”,“người chết như ngả rạ”,
“thây nằm còng queo bên đường”, và “tiếng hờ khóc tỉ tê trong đêm khuya".
Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư, ùa vào gia đình anh Tràng, bủa vây và đe dọa
số phận từng con người, không trừ một ai. Đó là số phận của những con người
đang trên bờ vực thẳm của nạn đói, nạn đói kéo đến tàn phá con người, đâu
đâu cũng bắt gặp những gương mặt hốc hác. Không gian thì quẩn quanh bế
tắc, ảm đạm: “Ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ, heo hút. Từng trận gió
từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà
nào có ánh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói
dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo, ngoài
bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết” [7, 148]. Cuộc sống khắp nơi, cuộc
sống ở xóm ngụ cư đều bị bao vây trong những màu, những mùi, những tiếng
thê lương ấy. Nhưng một chuyện ngược đời xảy ra: Chuyện lấy vợ lấy chồng,
chẳng theo một lễ nghi nào cả. Cô gái đói lâu ngày, Tràng mời cô ăn mấy bát
bánh đúc, và rủ cô về cùng. Thị chấp nhận theo. Hành động của cô xét đến
cùng, là một hành động liều lĩnh. Cái đói đã đẩy lùi ý thức nhân cách, sĩ diện
của con người. Quên cả thẹn thùng, người đàn bà không tên ấy cắm đầu ăn
“không chuyện trò gì”. Khi Tràng ngỏ lời, thị chấp nhận đi theo không suy
nghĩ, không đắn đo. Thế mới hay, cái đói ghê gớm biết chừng nào. Có thể nói
Vợ nhặt là bức tượng đài bất tử ghi lại cái khủng khiếp của nạn đói năm 1945
và tinh thần vươn lên quật cường, lòng tin mãnh liệt vào cuộc sống của con
28
người Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
Tiếp nối những trang viết về cuộc sống mòn mỏi, lay lắt, bất hạnh của
những người lao động nghèo trước Cách mạng, Kim Lân dành tấm lòng nhân
hậu với những con người tài hoa, bạc phận, thất cơ lỡ vận. Đó là thân phận
đáng thương của ông Trạch trong truyện ngắn Người kép già. Một thời, ông
sống hào hoa, phù phiếm, hào nhoáng bởi ánh đèn sân khấu. Thời gian trôi đi,
nghề hát tuồng trở thành thứ nghệ thuật cổ, lạc hậu tàn theo năm tháng. Sau
những ngày tháng rày đây mai đó, hóa thân vào những vai tuồng với đủ cả ái,
ố, hỉ, dục, nộ, ai, lạc, người kép già tài giỏi, sắc sảo một thời trở về với vai
diễn cuối cùng: Đó là một con người tài năng bị số phận dập vùi, ôm tài nuốt
tiếng sống cô đơn, trơ trọi trong sự hoài niệm về một quá khứ rực rỡ. Cuộc
đời ông như thứ ánh sáng hào nhoáng của đèn sân khấu vụt sáng, vụt tắt. Cuối
đời, người kép già đành thu mình đón nhận lòng thương hại của người cháu
họ: “Như biết thân biết phận, ông chỉ thậm thụt trong căn buồng lụp xụp, ẩm
thấp”. Cứ tối đến lại “leo lét ánh dầu lạc” như thân phận bé nhỏ sắp tàn của
ông. Ngay cả trong tiếng cười của ông cũng héo hắt “bao hàm một nỗi gì như
tức giận, lép vế” [7, 18].
Cùng chung thân phận bé nhỏ của người nghệ sĩ nghèo dưới xã hội cũ
là nhân vật ông lão trong truyện ngắn Ông lão hàng xóm. Ông không có nổi
một cái tên dẫu là quê mùa hay xấu xí. Nhân vật hiện ra bất ngờ như trong
một cảnh quay của bộ phim dài. Chỉ đôi nét phác thảo, Kim Lân đã tái hiện
lên cả cuộc đời cơ cực khốn khổ của ông: “Một cụ già đầu trọc nhẵn đang
ngồi la đà uống rượu một mình trên ổ rơm. Ông lão mặc chiếc áo bông cũ vá
chằng vá đụp, đắp lên không biết bao nhiêu là mụn xanh, trắng, nâu, đỏ…
Ông lão vốn là một tay kép tuồng đã về già, không có vợ, không có con sống
một thân một mình trong cái nhà thờ họ đổ nát, bỏ hoang [7, 197]. Cuộc đời
ông lão cứ thế tàn đi, lụi đi trong ngôi nhà thờ đổ nát, xiêu vẹo. Cuộc đời ông
29
lão cũng giống cuộc đời bèo bọt của người nghệ sĩ nghèo dưới chế độ cũ, phải
chịu nhiều bất công, khinh bỉ, không có chỗ đứng trong xã hội, không được
tôn vinh lại luôn bị khinh khi.
Tóm lại, bằng tấm lòng yêu thương, luôn quan tâm xúc động trước
những cảnh đói khổ của người lao động nghèo, Kim Lân đã có được một
chùm sáng tác liền mạch trong cả hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng
Tám. Trước Cách mạng tháng Tám, Kim Lân chủ yếu viết về người lao động
nghèo trong mối quan hệ làng xóm, gia đình (Cơm con, Đứa con người vợ lẽ,
Đứa con người cô đầu…). Sau Cách mạng tháng Tám, Kim Lân vẫn chung
thủy với làng quê và người lao động nghèo nhưng ngòi bút nhà văn đã có ý
thức xã hội rõ rệt hơn. Nhà văn đã thấy rõ mâu thuẫn gay gắt giữa người nông
dân và tầng lớp áp bức bóc lột, hiểu rõ nguyện vọng thiết tha có ruộng, có đất
của người nông dân thể hiện trong các tác phẩm: Nên vợ nên chồng, Ông lão
hàng xóm, Ông Cả Luốn gốc me… Qua đó, ta thấy người nông dân trong
hiện thực đời thường được thể hiện trong các sáng tác của Kim Lân, rất đa
dạng, phong phú. Họ bước vào truyện ngắn Kim Lân từ chính cuộc sống đầy
đắng cay, tủi nhục của họ. Đọc truyện ngắn Kim Lân, ta dường như thấy thấp
thoáng thế giới nhân vật bất hạnh trong truyện cổ tích hiển hiện lên trong từng
tác phẩm. Họ là những người lao động già nua, bệnh tật, mồ côi không nơi
nương tựa hoặc phải sống nhờ vào sự cưu mang của người khác, hoặc đói khổ
cùng quẫn, đi tha phương cầu thực. Liên kết và sâu chuỗi những truyện ngắn
của Kim Lân qua những mảnh đời, những thân phận bé nhỏ, khốn khổ, đói
nghèo, chúng ta thấy cả một bức tranh xã hội thu nhỏ trước Cách mạng tháng
Tám.
2.2. Hình tƣợng ngƣời nông dân
Hiện thực xã hội Việt Nam những năm 1930- 1945 là nguồn đề tài
phong phú cho các sáng tác văn chương. Ở thời kỳ văn học này, các tác giả
30
của các trào lưu văn học khác nhau đều có hướng tiếp cận hiện thực của riêng
mình. Văn học lãng mạn có hai khuynh hướng chủ yếu và nổi bật. Khuynh
hướng thứ nhất chủ thuyết cải cách gia đình và xã hội theo con đường cách
tân tư sản. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là các tác giả: Nhất Linh, Khái
Hưng, Hoàng Đạo…Khuynh hướng thứ hai muốn thoát ly chính trị, tìm vào
quá khứ, tình yêu và giải phóng cá nhân. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là
các tác giả Thơ mới. Khác với trào lưu lãng mạn, trào lưu văn học hiện thực
phê phán tập trung khám phá sâu sắc đời sống xã hội và đặt ra những vấn đề
có ý nghĩa lớn lao. Các tác giả đã bám sát đời sống của những con người bình
thường, phản ánh tình cảnh bị áp bức, bóc lột của người nông dân. Trong các
sáng tác của các nhà văn Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Vũ
Trọng Phụng… đã làm nổi bật mâu thuẫn giữa tầng lớp nông dân với giai cấp
địa chủ phong kiến, bên cạnh đó còn là mẫu thuẫn sâu sắc của người nông dân
với bọn thực dân, phát xít và thế lực tay sai. Trong đó, hình tượng người nông
dân trong sáng tác của Kim Lân hiện lên sinh động, hấp dẫn. Họ không chỉ là
những người nông dân cần cù, chịu khó với mảnh ruộng, tấc đất ngày ngày
cuốc bẫm cày sâu mà họ còn được khắc họa rõ nét với một tình yêu quê
hương đất nước sâu sắc. Đồng thời người nông dân còn hiện lên rõ nét qua
những phong tục, sinh hoạt văn hóa cổ truyền. Viết về người nông dân, Kim
Lân đã chọn cho mình một lối đi riêng, người nông dân khi rơi vào cảnh
nghèo khổ, túng quẫn họ không bị dồn đến đường cùng, bị tha hóa về tính
cách, nhân phẩm. Họ cũng không tìm đến cái chết như một sự giải thoát khỏi
kiếp sống tù túng, nhọc nhằn, mà những người nông dân của Kim Lân lạc
quan hơn, sẵn sàng đứng lên bảo vệ quê hương, làng xóm. Đây được coi là
một điểm sáng trong sáng tác của Kim Lân về đề tài người nông dân.
2.2.1. Người nông dân giàu tình yêu quê hương, đất nước
Kim Lân là nhà văn của nông thôn làng quê Bắc Bộ Việt Nam. Vốn
31
sinh ra và lớn lên ở quê hương Kinh Bắc giàu truyền thống văn hóa, văn vật
với các tập tục lễ tết, lễ hội, âm nhạc, sân khấu dân gian… Kim Lân được ấp
ủ, nuôi dưỡng trong cái nôi văn hóa truyền thống ấy. Điều đó được xem như
một quá trình thẩm thấu để hình thành một hồn văn Kim Lân độc đáo. Khi
viết về người nông dân gắn với các thú chơi tao nhã của làng quê, Kim Lân đã
gián tiếp thể hiện tình yêu quê hương đất nước của họ trong đó. Thực ra trong
văn chương Việt Nam, không riêng gì Kim Lân sở trường về các thú chơi tao
nhã của người xưa còn có nhiều cây bút cự phách khác cũng rất sở trường
trong lĩnh vực này. Mỗi người một vẻ họ đã làm đẹp thêm bản sắc văn hóa
của dân tộc mình. Nếu Nguyễn Tuân đã làm sống dậy những nét son xưa của
lịch sử văn hóa Việt Nam qua những thú chơi tao nhã, cao đẹp nay chỉ còn
vang bóng; Vũ Bằng nâng chuyện ẩm thực lên thành một nghệ thuật tạo nên
những trang viết xuất thần về “miếng ngon Hà Nội” thì Kim Lân qua những
thú chơi tao nhã “phong lưu đồng ruộng” đã giúp người đọc hình dung được
những tố chất và vẻ đẹp của con người quê hương ông được thể hiện rất rõ nét
qua một số truyện ngắn như Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng Vật;
Ông Cản Ngũ. Thông qua thú chơi đánh vật của ông cha là một tinh thần yêu
nước ẩn kín bên trong mỗi nhân vật.
Đọc truyện Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng Vật; Ông Cản
Ngũ người đọc hình dung đến truyền thống thượng võ của cha ông. Đánh vật
vừa rèn luyện thể lực, vừa rèn luyện trí tuệ. Một dân tộc luôn đồng cam hiệp
lực để chống trả sự tàn bạo của giặc ngoại xâm thì sức khỏe, trí tuệ vô cùng
cần thiết. Trong Thượng tướng Trần Quang Khải – Trạng Vật, Kim Lân đã
nói rõ ý này: “Trong nước tuy đã yên ổn thái bình nhưng thái sư Trần Thủ Độ
vẫn không một lúc nào không lo toan chỉnh chu binh bị. Mỗi năm một lần
tuyển những binh tráng sang làm lính. Những người lính này phần nhiều là
đô vật. Vì môn vật thời ấy thịnh hành không kém gì các môn võ khác trong
32
nước. Từ Kẻ Chợ đến thôn quê, đâu đâu cũng náo nức tập vật” [7, 86].
Ngay trong truyện Ông Cản Ngũ, tinh thần dân tộc cũng được thể hiện
rõ nét qua môn đánh vật. Nhân vật ông Cản Ngũ, đi khắp nơi, khắp các tỉnh
trong cả nước, ở đâu có các giải vật lớn nhỏ là ông đều tham gia để tìm kiếm
người tài xung vào đội nghĩa binh đánh giặc: “Năm ấy ông Cản Ngũ đã đứng
tuổi rồi. Người ta xì xào bảo nhau rằng ông là một ông tướng thân cận của
quan Tán Bãi Sậy lâu nay vẫn giả dạng đi vật, chu du khắp chốn thiên hạ để
tuyển mộ những người tài, mạnh nghĩa khí, kết làm anh em đồng sinh, đồng
tử, xung vào đội nghĩa binh đánh giặc, cứu nước” [7, 223].
Hình ảnh người nông dân với tình yêu quê hương đất nước đặc biệt
được thể hiện rõ nét qua những tác phẩm viết ở giai đoạn sau Cách mạng
tháng Tám, ta có thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu như: Làng, Vợ nhặt,
Con chó xấu xí, Ông lão hàng xóm…
Truyện ngắn Làng là minh chứng cụ thể và tiêu biểu nhất cho tình yêu
quê hương của người nông dân. Nhân vật ông Hai điển hình cho mẫu người
nông dân Việt Nam với truyền thống vốn có là yêu nước, yêu làng. Ông Hai
là người nông dân, sinh ra tại làng, làm lụng, lấy vợ sinh con đẻ cái tại làng,
và ít khi ông có điều kiện đi xa khỏi làng. Ông đã tự nguyện gắn bó với làng,
bao buồn vui và dường như chính cái cộng đồng làng này đã hút chặt lấy ông.
Do đó ông luôn tự hào về làng, đi đâu ông cũng khoe khoang về làng của
mình. Ngày trước mỗi lần đi đâu, ông đều khoe cái sinh phần của viên tổng
đốc và hãnh diện vì nó “Tôi chưa thấy cái dinh cơ nào lại được như cái dinh
cơ cụ thượng làng tôi. Có lắm lắm là của. Vườn hoa, cây cảnh nom như động
ấy. Thấy bảo còn hơn cái lăng cụ thiếu Hà Đông nhiều cơ mà” [7, 129]. Đến
giai đoạn kháng chiến, ông Hai khoe cái làng kháng chiến của mình với
những lão du kích, với những công trình đánh giặc bằng sự tự hào: “Ông khoe
làng ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng,
33
chòi phát thanh thì cao gần ngọn tre, chiều chiều loa gọi thì cả làng đều nghe
thấy. Ông khoe làng ông nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh. Đường trong
làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm,
bùn không dính đến gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm, phơi thóc thì
tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất… Ông khoe những ngày khởi
nghĩa dồn dập ở làng, mà ông gia nhập phong trào từ thời kì còn bóng tối.
Những buổi tập quân sự. Cả giới phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy
đi tập một hai…” [7, 128-129]. Khi nghe tin đồn làng ông theo Tây thì ông
Hai cảm thấy đau đớn nhục nhã, xấu hổ với đồng bào xung quanh. Cũng
chính vì yêu làng, yêu nước nên ông Hai mới có niềm sung sướng, hả hê tột
độ khi nghe tin cải chính nỗi oan của làng mà cũng là nỗi oan của ông: “Tây
nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ! Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên cải
chính… cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng em là Việt gian ấy mà. Ra láo!
Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả! Cũng chỉ ngần ấy câu,
ông lão lại lật đật bỏ đi nơi khác. Cần phải kể cho người khác biết chứ! Ông
lão cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người” [7, 145]. Trước cái tin
cải chính hệ trọng như vậy, ông Hai nói riêng, người dân làng Chợ Dầu nói
chung đều vui mừng ra mặt. Mọi người vui mừng vì không những bản thân họ
không mang tiếng là Việt gian mà vui hơn khi họ nhận ra toàn dân đồng lòng
yêu nước, đánh giặc. Quyền lợi của làng, quyền lợi của nước và quyền lợi của
mỗi mái nhà, mỗi con người, mỗi thân phận trong những cơn thử thách trước
quân thù đã hòa làm một. Viết về tác phẩm Làng, Kim Lân bộc lộ: “Khi đưa
vào nhân vật lão Hai, tôi muốn nói lão Hai yêu làng, tự hào về làng mình.
Nhưng càng yêu làng, tự hào về làng, thì khi làng theo Tây mới tô đậm cái
đau, cái nhục của lão Hai lên. Cái đau, cái nhục ấy chính là lòng yêu làng, yêu
nước của lão” [3, 269]. Rõ ràng tình yêu của ông Hai đối với làng, suy cho
cùng cũng chính là tình yêu đối với dân, với nước nói chung và rộng ra đó
34
chính là tình yêu quê hương đất nước, yêu Tổ quốc. Tình yêu đó cũng có thể
được thể hiện bằng niềm tin tưởng, hi vọng vào Cách mạng, vào cuộc kháng
chiến, được thể hiện rõ nét trong truyện Vợ nhặt. Qua chi tiết cuối tác phẩm,
hình ảnh của đoàn người khi phá kho thóc Nhật và lá cờ của Việt Minh
thoáng hiện ra trong Tràng được coi là điểm sáng le lói trong hiện thực tối
tăm, đói khổ của những người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Tràng
từ một anh phu xe cục mịch sống vô tư, chỉ biết việc trước mắt, đã là người
quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng
trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, anh đã thần mặt ra nghĩ
ngợi. Mặc dù hiện thực này còn chưa rõ nét nhưng nó đã hiện ra ở cuối truyện
trong ý nghĩ của Tràng: “Trong ý nghĩa của hắn vụt hiện ra cảnh những
người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to
lắm” [7, 160]. Dường như Kim Lân đã mở ra con đường sống cho những con
người đang đứng bên bờ vực của cái đói, cái chết đó là chỉ có đi theo Cách
mạng mới giải phóng được cho họ. Hình ảnh lá cờ có ý nghĩa mở ra một
tương lai tươi sáng, không còn mờ mịt như trước nữa. Cuộc đời của những
người như Tràng nếu không có một sự thay đổi sẽ sống mãi trong sự tăm tối,
đói khát. Ở Tràng tuy sự thay đổi đó chưa rõ nét, nhưng cuộc sống đã bắt đầu
hé mở cho anh một hướng đi. Đó là con đường đến với Cách mạng một cách
tự nhiên và tất yếu mà những người như Tràng sẽ đi và trong thực tế lịch sử,
người nông dân Việt Nam đã đi. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng còn là tín hiệu
mới mẻ về một sự đổi thay trong xã hội rất lớn lao, có ý nghĩa quyết định với
sự thay đổi của mỗi số phận con người. Qua sự biến đổi tâm trạng nhân vật
Tràng, ta còn thấy được vẻ đẹp tâm hồn tính cách nhân vật đó là tình thương
niềm khao khát hạnh phúc, niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai. Đây cũng
là một biểu hiện tinh thần yêu nước của người nông dân Việt Nam.
Trong truyện Ông lão hàng xóm đề cập đến vấn đề cải cách ruộng
35
đất, tuy nhiên nó vẫn còn nhiều vấn đề bất cập, có nhiều trường hợp oan sai,
chịu thiệt thòi trong cải cách ruộng đất mà người nông dân mắc phải. Tiêu
biểu là bi kịch của gia đình Đoàn. Đoàn bị nghi là một tên phản động len lỏi
vào trong hàng ngũ của Đảng. Anh đã bị mọi người xa lánh, khinh bỉ và
không cho tham gia vào buổi họp của dân làng. Từ đó Đoàn tránh mặt tất cả
mọi người, không bước chân đi đâu ra khỏi ngôi nhà của mình. Nguyên nhân
Đoàn bị đuổi khỏi buổi họp của làng là do phản đối anh cán bộ đưa người anh
rể mình giới thiệu vào Đảng cộng sản Việt Nam. Anh suy nghĩ rất nhiều về
việc có nên phản đối hay không trước những việc ngang trái như vậy, nhưng
“Đoàn không thể hèn nhát như vậy được. Đoàn không thể cúi đầu để người ta
ngang nhiên đưa một tên lưu manh, đầu trộm đuôi cướp, một tên đã từng cầm
súng giặc giết hại đồng bào, vây bắt cán bộ ấy lọt vào Đảng của mình được!”
[7, 188]. Hành động đó thể hiện một con người với tinh thần yêu nước, trách
nhiệm đã thôi thúc anh đứng dậy chống lại, phản đối những ngang trái, bất
công đang xảy ra trên chính mảnh đất quê hương mình. Tiếng nói của Đoàn là
tiếng nói đầu tiên của người làng này dám dõng dạc cất lên giữa đình công
khai chống lại ý kiến của anh cán bộ Đội. Khi bị nghi oan, anh đau đớn, xót
xa. Một người như anh đã vào sinh ra tử với Cách mạng, với kháng chiến vậy
mà khi hòa bình lặp lại anh lại bị chính những người trên quê hương mình
nghi ngờ: “Đoàn nhìn thẳng vào mặt anh du kích. Hai con mắt trũng sâu của
anh sáng rực như lửa cháy, vừa xót xa đau đớn, vừa giận giữ khinh bỉ. Đoàn
nhìn cái mũ ngụy binh bẻ ngược một bên lên trên đầu hắn, lại nhìn xuống cái
áo lót cổ vuông bộ đội đang mặc của mình. Đoàn nghiến chặt hai hàm răng
lại “Nó mà bây giờ ngồi đây hỏi tội được mình ư”. Một giọt nước mắt tròn to
và nóng hổi thình lình bật ra, chảy xuống thành một vệt dài trên sống mũi.
Đoàn giơ cả hai tay lên nói liền một hơi:
- Anh hỏi tôi có gác không à? Không những tôi gác mà tôi còn giết
36
người nữa kia! Tôi giết rất nhiều người. Suốt chín mười năm giời chiến đấu
trong quân đội, tôi giết rất nhiều Tây và bọn Việt gian cầm súng theo Tây…”
[7, 192].
Yêu quê hương đất nước là đồng nghĩa với việc dám đứng lên chống
lại cái xấu, cái bất công đang diễn ra trên mảnh đất quê hương mình. Anh
quyết định sẽ không trốn tránh mọi người mãi trong ngôi nhà mình nữa mà sẽ
viết thư để mong được minh oan “Đoàn lấy giấy bút làm đơn khiếu oan.
Đoàn sẽ viết thành ba bản. Một bản gửi Trung ương, một bản gửi Đoàn ủy và
một bản gửi ban chi ủy Đội. Đoàn sẽ kể hết những điều Đoàn thấy, những
điều Đoàn nghĩ, những điều oan ức của Đoàn và các đồng chí như Đoàn
trong đợt cải cách ruộng đất này” [7, 206].
Trong tác phẩm Con chó xấu xí, Kim Lân đã gửi gắm tâm sự và giãi
bày tấm lòng trung trinh của một nhà văn theo Cách mạng. Hóa thân vào nhân
vật tôi, nhà văn thật sự day dứt, ân hận trước cuộc “chia tay phũ phàng” với
con chó tội nghiệp. Gia đình của anh cán bộ Cách mạng ra đi trong tâm trạng
nặng nề, văng vẳng sau lưng “tiếng con chó lồng lộn, cuống quýt như kêu
cứu, như than khóc”. Truyện kết thúc khá bất ngờ đối với người đọc. Sau
những ngày chạy giặc vất vả, con chó đã không bỏ chủ, lê lết tìm về ngôi nhà
cũ, đói khát kiệt quệ “nó chỉ còn cái đuôi là ngó ngoáy được mừng chủ và cái
lưỡi liếm vào tay chủ. Được gặp chủ nó mừng quá. Từ hai con mắt đờ đẫn
của nó mấy giọt nước mắt chảy ra” [7, 222]. Nhân vật tôi đã thực sự xúc
động: “Chao ôi! Con chó xấu xí ấy của tôi! Nó đã chết một cách thẩm thương
và trung hậu quá”. Tác giả thương cảm và mến trọng sự trung thành của con
chó cũng là thương yêu, trân trọng tấm lòng thủy chung nghĩa tình của con
người. Trái ngược với con chó xấu xí mà trung thành lại là nhân vật Nhược
Dự - một con người tham sống sợ chết, bội bạc và đớn hèn. Giống như Hoàng
trong truyện Đôi mắt của Nam Cao, Nhược Dự cũng là một văn nghệ sĩ lầm
37
đường lạc lối. Hắn đã dinh tê viết báo, viết truyện chửi kháng chiến. Nhưng
truyện của Kim Lân sâu sắc, thâm thúy hơn và tác phẩm để lại trong người
đọc nỗi chua xót, đau đớn, khinh bỉ với cái xấu, cái đớn hèn được ẩn chứa
đằng sau câu chữ và hai hình ảnh tương phản trong truyện.
Hiện thực xã hội và những mảnh đời, những số phận trong truyện
ngắn Kim Lân thường không là hiện thực trực tiếp xù xì, góc cạnh mà nó
được mài gọt, bồi đắp bởi tấm lòng yêu thương, xót xa của nhà văn. Truyện
của Kim Lân điềm đạm, trong sáng như chính con người nhân hậu của tác giả.
Mỗi tác phẩm là mỗi kiếp người chan chứa bao mồ hôi, nước mắt đau khổ, tủi
nhục nhưng ấm áp tình người và giàu khát vọng sống. Ở họ tình yêu quê
hương, đất nước đã trở thành một đức tính ăn sâu gốc rễ trong tâm hồn của
những người nông dân thuần hậu, chất phác.
2.2.2. Người nông dân với những phong tục, sinh hoạt văn hóa cổ truyền
Người nông dân trong các sáng tác của Kim Lân không chỉ hiện lên
với tinh thần yêu quê hương đất nước sâu sắc mà họ còn gắn liền với những
thú chơi tao nhã của những con người bình dị ở làng quê Bắc Bộ. Nét văn hóa
ấy đã ngấm sâu vào số phận, cốt cách tâm trạng trong những nhân vật của
Kim Lân.
Có thể nói văn học thể hiện đời sống theo cách riêng của nó. Từng kiểu
người đi vào văn chương sẽ tạo ra kiểu sáng tạo riêng của các nhà văn. Từ đó
hình thành nên các kiểu nhân vật khác nhau. Các nhân vật này vừa thể hiện
trạng thái văn hóa dân tộc, vừa bộc lộ mối quan tâm và sự ảnh hưởng phức
tạp của văn hóa dân tộc đối với người nghệ sĩ. Họ có thể là mẫu nhân vật
thượng võ hay mẫu nhân vật nghệ sĩ làng quê được thể hiện rất rõ trong các
sáng tác của Kim Lân.
2.2.2.1. Mẫu nhân vật thƣợng võ
Nói đến mẫu nhân vật này là phải nói đến phong trào đấu vật ở xứ Bắc
38
nước ta. Đây vốn là một trò chơi dân gian thể hiện ước vọng cầu sức khỏe, về
sau môn vật này được thể thức hóa với một số quy tắc trò chơi… Từ đó sinh
ra việc thi đấu vào các ngày hội làng, hội xứ. Và cũng từ đây xuất hiện nhiều
đô vật lừng danh nổi tiếng trong thiên hạ như : đô Voi, đô Nghê, Trạch Khô,
Vâm Lớn, Trạng Sặt, Trạng Kế (Thượng tướng Trần Quang Khải – Trạng
vật), Quắm Đen, Cản Ngũ, Cả Lẫm (Ông Cản Ngũ)… Tất cả đều là những
tay đô có đẳng cấp vượt trội. Bằng việc miêu tả các trận vật căng thẳng, hồi
hộp, tràn đầy hứng khởi, với những chiêu vật cao cường, đầy tính nhà nghề,
nhà văn đã thể hiện phẩm chất tài ba, dũng khí của các đô vật này. Nhà văn
cũng tỏ ra rất am hiểu nghệ thuật của môn võ. Bởi vậy mà ông đã đưa ra khá
nhiều những cách gọi các thế miếng vật theo ngôn ngữ nhà nghề như: miếng
“quai quất”, miếng “tiện xương”, “bát tay tư”, miếng “bò cắm”, “tay khố
đỉnh”… Rõ ràng môn vật đã trở thành một phong trào, một thú chơi, một môn
thi đấu tràn đầy tinh thần thượng võ, làm nên nét riêng thuộc sinh hoạt văn
hóa cổ truyền làng Việt.
Kiểu nhân vật này có một điểm chung nhất chính là tinh thần trọng
danh dự - danh dự cá nhân và danh dự làng. Đó là điều đặc biệt quan trọng
đối với cá nhân. Một đô vật có thể cảm thấy rất đau khổ nếu như ra sới vật lại
bị thua các đô vật khác. Nhưng danh dự cá nhân không bằng danh dự cộng
đồng, danh dự của mỗi sân vật tức là ở mỗi xứ, mỗi làng. Điều này có thể
thấy rất rõ trong truyện Ông Cản Ngũ. Khi Quắm Đen bị Cản Ngũ hạ, những
người xem và các tay đô khác đều chung một tâm trạng thất bại ê chề. Họ
nghĩ: “Keo vật bị người ta đánh bại một cách nhục nhã, cay đắng quá chừng.
Người ta đánh mình, coi không bằng đánh một đứa trẻ con! Quắm Đen, một
tay đô tài mạnh vào bậc nhất trong hàng tỉnh mà còn bị đánh thua như vậy thì
còn ai là người theo keo đánh nổi được ông Cản Ngũ? Họ cùng cắn chặt môi
lại thở dài” [7, 227]. Nỗi thất bại trở nên nghiêm trọng đến mức tự nhiên tất
39
cả các đô vật già trẻ đều đến nhà Cả Lẫm để họp bàn xem ai có thể ra đấu với
Cản Ngũ để cứu vãn và bảo toàn danh dự cho làng. Qua các trang truyện viết
về nhân vật thượng võ của người nông dân, nhà văn Kim Lân đã khai thác rất
sâu về cái tinh thần trọng danh dự, tinh thần đua tranh của mỗi sân vật thuộc
mỗi một làng trong vùng.
Dĩ nhiên nhà văn ý thức rất sâu sắc vấn đề danh dự trong mối quan hệ
với quyền lợi của đất nước và đạo lí làm người. Ở những đô vật lừng danh
như Cả Lẫm, như Cản Ngũ bao giờ họ cũng có những ngón hiểm chết người,
có thể là miếng độc cuối cùng nhằm hạ gục đối phương. Với những đòn hiểm
này, đô vật có thể gây cho đối phương nguy cơ tàn phế, thậm chí dẫn đến cái
chết. Nhưng với những người cùng con dân một nước, họ không bao giờ giở
những chiêu độc có tính sát hại đối phương như vậy. Ông Cả Lẫm đã có lần
hạ gục một đô già, mà cảm thấy trong lòng cứ “áy náy mãi không yên, vừa
thương thương vừa tội tội” [7, 228]. Đặc biệt một khi cụ Cả Lẫm đã biết được
cái mục đích đi ngao du thiên hạ dưới danh nghĩa đi tranh giải vật để chiêu
mộ nghĩa sĩ đánh giặc, lại cộng với con mắt tinh đời của cụ khi phân tích các
miếng vật có chủ ý nương tay của Cản Ngũ, nên cụ không trút tổng lực vào
cái miếng bí truyền. Đó là một tinh thần thượng võ cao cả của người nông
dân, vừa mang tính nhân văn sâu sắc, vừa biểu lộ đồng lòng tinh thần nghĩa
khí đánh giặc của các đô vật, của tất cả dân làng. Lòng tự trọng cá nhân, tự
trọng làng sẽ là cần thiết, nhưng sẽ không trở nên quan trọng nữa trước lòng
trọng danh dự của một người dân nước Việt trước họa kẻ thù: “Tôi cứ nghĩ
rằng đã là người đô vật mình, dù ở đâu, xứ Đông hay xứ Đoài, xứ Nam hay
xứ Bắc, ở đâu cũng là người dân Việt ta cả, cũng là máu đỏ da vàng với nhau,
trong cái buổi còn đang nước mất nhà tan này, có nên vì hơn thua một keo vật
mà đánh một người nghĩa khí, một người vì dân, vì nước như ông bác đây
thành một người tàn phế, bỏ đi được không?” [7, 236]. Nghĩ như thế nên cụ
40
Cả Lẫm vì tình cảm với cộng đồng dân tộc mà chịu thua không nỡ hại ông
Cản Ngũ. Nhà văn Kim Lân miêu tả các đô vật trong một tinh thần thượng võ
cao quý, sang trọng, một tư thế văn hóa đáng nể phục.
Ngoài những câu chuyện về đấu vật nhằm ca ngợi đạo lý, tư thế văn
hóa của con người, của người nông dân trong Thượng tướng Trần Quang
Khải – Trạng Vật; Ông Cản Ngũ mà chúng ta đã thấy, Kim Lân còn một câu
chuyện cũng khá độc đáo ít nhiều cũng ca ngợi vẻ đẹp văn hóa trong tinh thần
thượng võ của người nông dân trong truyện Trả lại đòn. Nội dung câu chuyện
để đề cập đến cách trả thù để giải quyết mâu thuẫn giữa hai làng thù nhau
nhưng đồng thời qua đó nhà văn đã phát hiện và ca ngợi nét đẹp văn hóa của
con người. Nếu Chánh Bảy không ngộ ra cái điều cần phải hóa giải mối thù
truyền kiếp giữa dòng họ của ông với làng Trang Liệt, thì có lẽ bạo lực để giải
quyết mối thù sẽ còn kéo dài mãi, hậu quả sẽ khôn lường. Sau những cảm
giác cay cú, tức tối, nhục nhã, cuối cùng ông đã bừng ngộ: Hãy vì sự sống lâu
dài bình yên và thân thiện giữa con người, giữa người nông dân của hai làng,
giữa cánh võ Ba Lai Hà Đông với cánh võ phủ Từ Sơn Kinh Bắc. Câu chuyện
được nâng bổng nhờ ý nghĩa nhân văn cao quý của tác phẩm. Các nhân vật từ
tư cách lục lâm thảo khấu chuyển hẳn sang tư cách của những võ sĩ cao
thượng, đáng nể, đáng trọng.
Như vậy, viết về môn vật nhưng Kim Lân không dừng lại ở một sinh
hoạt phong tục thôn dã thuần túy mà ông đã xử lí câu chuyện theo hướng tôn
vinh vẻ đẹp văn hóa của con người ở làng quê ông nói riêng và làng quê Bắc
Bộ nói chung.
2.2.2.2. Mẫu nhân vật nghệ sĩ làng quê
Khi miêu tả các nhân vật mang phẩm chất tài hoa, có những sở thích
cá nhân, tìm đến những thú chơi dân gian truyền thống, nhà văn thường tập
trung miêu tả các nhân vật ưu tú, vượt trội. Điều này cũng dễ hiểu bởi phẩm
41
chất tài hoa hơn người trong cái thú “phong lưu đồng ruộng” không phải ai
cũng có. Phải là người biết trọng cõi tinh thần, biết thưởng thức và hưởng thụ
đời sống và cũng phải học cách chơi mới có được. Ở đây, Kim Lân chỉ hướng
tới thú chơi của những người bình dân, những người dân quê bình dị hàng
ngày. Đây được xem là một sự lựa chọn thấm đẫm tinh thần dân chủ trong cái
nhìn nghệ thuật của nhà văn.
Các nhân vật nghệ sĩ làng quê trong sáng tác của Kim Lân đều là những
người tài hoa có hạng. Đó là ông Trưởng Thuận (Đôi chim thành), ông Cả
Chuẩn (Con mã mái). Dưới ngòi bút của Kim Lân, họ đều đam mê với những
thú chơi mang đậm văn hóa truyền thống. Nhưng giữa các nhân vật này lại có
những điểm chung giống nhau, đó là rất vững vàng về “nghiệp vụ” chơi. Một
khi nâng cuộc chơi lên thành danh dự không chỉ còn là của cá nhân mà còn là
của cả làng, cả tổng thì không có chuyện coi nhẹ hoặc xem thường về nghề
nghiệp. Tất cả phải được học hỏi, được đào luyện, tích trữ kinh nghiệm từ
hàng chục năm trời, có những kinh nghiệm được rút ra từ thất bại cay đắng.
Các nhân vật này giỏi từ việc chọn giống cho đến việc chăm nuôi, rồi đến
việc luyện ngôn ngữ nhà nghề gọi là “vần” (đối với gà), “vực” (đối với chó
săn)… Điều này thể hiện trong cách chọn giống, cách thưởng thức, cách đánh
giá nhận xét chi li, kỹ lưỡng của các chi tiết hay - dở, đẹp - xấu, độc hay
thường. Chỉ cần nhìn vào một truyện thôi đã nhìn thấy mật độ các từ nhà nghề
dầy lên như thế nào: Liên tam trúng, vần thượng, trung chính, thượng tiểu tùy,
đài tùy, trung khứ, đại biên, cào, bị, sơ, tràng, rơi lạc phao…(Đôi chim
thành). Còn ở truyện Con mã mái, mật độ các từ nhà nghề còn dày đặc hơn
thế nữa: Bầu dọc, khâu dao, thái, buông… Có một điều lạ lùng là dù dùng
nhiều biệt ngữ như vậy mà khi đọc vào truyện người ta không thấy cản trở,
mà trái lại càng thấy thú vị. Có thể nói ở đây, tác giả đã làm được cái việc:
42
trang bị những tri thức tối thiểu cho người đọc về những thú chơi đặc sắc ở
làng quê Việt Nam – những tri thức mà người bình thường phổ thông đa số
không dễ gì có được.
Điểm giống nhau thứ hai của các nhân vật này là một khi họ đã mê
mẩn vào thú chơi thì không coi chuyện gì là quan trọng hơn nữa. Từ bữa ăn
bữa uống cũng chẳng coi ra gì, đến cái khó nhọc lặn lội ngoài đồng cũng
không quản ngại. Thậm chí cái ấm thuốc đang sôi cũng coi là không có ý
nghĩa gì bằng việc cần phải ngay lập tức lấy thóc cho chim ăn. Đôi chim quý
đã về là Trưởng Thuận vui, ông hết ốm, hết lừ khử, hết cáu bẳn ngay (Đôi
chim thành). Còn Cả Chuẩn (Con mã mái) thì mê đến nỗi đánh liều cậy nhờ
kẻ chuyên đào tường khoét ngạch đi ăn cắp con Mái Củi Tạ về. Họ cùng vui
với con vật nuôi, buồn cái buồn của vật nuôi khi thấy chúng ốm đau hoặc
không như ý. Thậm chí sẵn sàng sẵng giọng, cáu bẳn với vợ con khi thấy các
con vật nuôi bị sa bẩy hoặc đau ốm. Ngược lại, nếu trong lòng cảm thấy vui
vẻ, hài lòng về những con vật nuôi, bỗng ra ngay cái giọng ngọt ngào, thậm
chí tán tỉnh lẳng lơ “Đấy bà này nghe xem. Có phải con gà mái kêu “vừa đau
vừa rát!” thì con gà trống ở đâu te tái chạy lại dỗ dành “Ai cũng thế! Ai cũng
thế! Ai cũng thế! Không?” [7, 56]. Cái tâm tính của những người thôn quê
bộc trực, giản dị, chất phác như thế. Nhờ vậy mà các nhân vật nông dân của
Kim Lân thường đưa lại cho người đọc cảm giác gần gũi chân thực “thông
minh, hóm hỉnh và tài hoa, đã đặt tất cả niềm say mê của mình vào những thú
chơi giản dị mà tao nhã, tinh tế ấy, chẳng khác gì những tâm hồn nghệ sĩ say
mê sáng tạo nghệ thuật” [16, 759]. Nhà văn có cái biệt tài hiểu thật chính xác
và tinh tế của những người nông dân Việt Nam dưới góc độ con người văn
hóa.
Cũng như các nhân vật thượng võ, các nhân vật tài hoa nghệ sĩ làng
quê này đặc biệt tôn thờ danh dự của làng nơi mình sinh ra, lớn lên gắn bó.
43
Niềm vui chiến thắng được cả làng cả phủ vui mừng. Nỗi thất bại thì cả làng,
cả phủ xôn xao, bàn tán, tỏ ra không hài lòng, thậm chí bất bình. Các tay chơi
“Ai cũng tỏ ra bất mãn về quần chim của ông Trưởng bị đánh hỏng ở hội Đại
Đình hôm vừa qua” [7, 28]. Con mã mái trước khi đi dự hội, bao nhiêu dân
làng đến nhà xem “khách mỗi lúc một đông thêm. Gian nhà vừa lụp xụp vừa
chật chội bộn lên những tiếng người. Tiếng cười, tiếng nói xôn xao ầm ĩ” [7,
64]. Rồi các tay chơi lập thành cả một đoàn cùng bố con Cả Chuẩn kéo nhau
đi dự hội. Tinh thần cộng đồng là một đặc điểm của con người văn hóa, nó
tiêu biểu cho văn hóa làng, xã Việt Nam nói riêng và dân tộc nói chung.
Ngoài ra, khi đề cập đến các nhân vật được coi là nghệ sĩ làng quê, nhà
văn Kim Lân còn cho người đọc thấy được mối ưu tư và tình yêu của họ đối
với nền văn hóa dân tộc. Trong truyện Người kép già, ta thấy một ông kép hát
tuồng nay đã về già, đời sống vật chất thì túng thiếu, lại nghiện thuốc phiện.
Cái môn nghệ thuật tuồng thì “cũng đến ngày không được ai chuộng nữa”
[7, 19]. Ông nằm bẹp góc nhà ôm niềm hoài cổ và nghĩ cách xoay tiền để thỏa
mãn cơn nghiện. Khi được làng mời ra dựng lại môn nghệ thuật này, thì ông
đã đem hết chút tài mọn cuối cùng bằng một niềm hăm hở, sung sướng được
sống lại nghề cho lớp trẻ. Nghề tổ được dựng lại – sức sống nghệ thuật bắt
đầu được nhen nhóm trở lại, chẳng những ông sung sướng, mà cả dân làng,
các hàng chức sắc của làng cũng mừng theo. Tất cả vì cái uy tín của làng,
danh dự của làng. Nhưng than ôi, niềm sung sướng mới đến của ông mau
chóng bị đón gãy. Không có một đứa trẻ nào theo học cả. Thế là cái ý định
phục dựng lại bộ môn tuồng cổ hoàn toàn thất bại. Là một con người sống
chết với nghề, thân bại danh liệt cũng vì nghề, trong ông không khỏi uất
nghẹn, một nỗi đau đã bị thời thế vượt qua, loại ra ngoài lề thế sự. Đó cũng là
nỗi đau của những con người với “kiếp tài tử đa cùng” mà nhà văn đã bày tỏ
44
sự cảm thông sâu sắc.
Có thể nói, trên hành trình khám phá và thể hiện những người nông
dân Việt Nam ở làng quê đồng bằng Bắc Bộ, Kim Lân không chỉ tập trung
vào chủ đề sức sống mãnh liệt của con người ngay trong những lúc cùng
quẫn, tuyệt vọng nhất. Ông không chỉ thể hiện và khẳng định bản chất hiền
hậu, chất phác, khỏe khoắn trong nhân cách người lao động, mà còn tô đậm
phẩm chất của những con người thượng võ, tài hoa, bặt thiệp. Hay nói khác
đi, ông không chỉ làm sống lại những phong tục, những thú chơi, những sinh
hoạt văn hóa truyền thống gắn với người nông dân lao động, mà sâu xa hơn
Kim Lân muốn tạo dựng trong truyện ngắn của mình cái cốt cách tâm hồn con
45
người Việt Nam.
KẾT LUẬN
1.Trong đội ngũ nhà văn hiện đại Việt Nam, Kim Lân thuộc nhóm các
nhà văn sáng tác không nhiều tác phẩm. Là nhà văn có biệt tài viết truyện
ngắn, Kim Lân đã đóng góp cho văn xuôi Việt Nam hiện đại những tác phẩm
xuất sắc, đọng mãi trong lòng người đọc.
Cả đời văn, Kim Lân một mực thủy chung viết về nông thôn, viết về
cuộc sống của người lao động nghèo. Đây chính là một phẩm chất đáng quý
của những văn nghệ sĩ chân chính. Kim Lân sáng tạo văn chương bằng tất cả
lòng đam mê và sự tài hoa của con người xứ Kinh Bắc. Theo quan niệm của
ông, nhà văn ngoài cái tài cần có một trái tim, phải dũng cảm lên trước những
cái xấu xa, bất công. Sáng tác văn chương với Kim Lân như một cuộc chơi.
Ông quan niệm muốn viết hay, viết tốt thì phải có cảm hứng và đam mê.
2. Xuất hiện trên văn đàn từ năm 1941, truyện ngắn của ông không miêu
tả những vấn đề xã hội nóng bỏng, mà chủ yếu xoáy sâu vào những quan hệ
nhỏ hẹp trong gia đình, họ tộc, làng xóm và những phong tục thú chơi làng
quê. Tiêu biểu như những truyện: Con mã mái, Đôi chim thành, Đuổi tà…
Sau Cách mạng tháng Tám, Kim Lân vẫn tiếp nối mạch cảm xúc viết về làng
quê và người lao động nghèo nhưng ngòi bút nhà văn đã có ý thức xã hội rõ
rệt hơn. Với ý thức và trách nghiệm của một nhà văn yêu nước, tác phẩm Kim
Lân thời kỳ này đã có những cái nhìn mới mẻ về số phận con người, về tương
lai con người và vận mệnh đất nước: Làng, Vợ nhặt, Con chó xấu xí… là
những truyện ngắn xuất sắc về nội dung.
3.Viết về đề tài nông thôn, các sáng tác của Kim Lân đều dạt dào cảm
hứng yêu thương bằng một trái tim nhân hậu và tấm lòng rộng mở vì những
người lao động nghèo. Nhà văn đã đem đến cho người đọc một sự cảm thông,
tình yêu thương xen lẫn nỗi chua xót, đắng cay về thân phận của những con
46
người nhỏ bé mong manh trước Cách mạng tháng Tám. Truyện của Kim Lân
ẩn giấu đằng sau những sự thật phũ phàng, những hoàn cảnh bi đát, cảnh ngộ
đáng thương là những tia sáng lấp lánh, ánh lên tình yêu thương, niềm tin và
sự lạc quan, hi vọng.
Trong tác phẩm của nhà văn xứ Kinh Bắc, vẻ đẹp tâm hồn của người lao
động nghèo được bộc lộ rực rỡ hơn trong những hoàn cảnh bất thường của
cuộc sống. Ở đó giữa cái chết và cái sống, giữa cái xấu và cái tốt, giữa sự ích
kỉ và bao dung chập chờn kế cận, họ đã vượt qua ranh giới cái chết, cái xấu,
cái ích kỉ để khẳng định vẻ đẹp nhân bản vốn có trong mỗi con người. Chất
tài hoa, sự lịch lãm, nề nếp cổ xưa dường như in đậm dấu ấn trong văn
chương Kim Lân. Đọc truyện ngắn Kim Lân, chúng ta dễ bị cuốn hút bởi một
47
thứ chất đồng bằng Bắc Bộ kín đáo, dung dị và chín chắn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoài Anh (2003) Kim Lân nhà tiểu thuyết phong tục, sở trường về
miêu tả trạng thái nhân thế, Tạp chí Văn nghệ (số 13) Hội văn nghệ TP. Hồ
Chí Minh.
2. Lại Nguyên Ân (1986) Văn xuôi Kim Lân, Tạp chí văn học (số 6),
Viện văn học Việt Nam.
3. Hà Minh Đức (chủ biên) (1994), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Văn
học Hà Nội.
4. Nguyễn Công Hoan (1995), Bước đường cùng, Nxb Văn nghệ thành
phố Hồ Chí Minh.
5. Trần Ninh Hồ (1991), Một ngày Kim Lân, Báo Văn nghệ số 34.
6. Nguyên Hồng (1978), Những nhân vật ấy đã sống với tôi, Nxb Tác
phẩm mới.
7. Kim Lân (2011), Tuyển tập Kim Lân, Nxb Văn học, Hà Nội.
8. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Tác gia văn học Việt Nam, (tập 2), Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
9. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1995), Tổng tập văn học Việt Nam,
tập 3B, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
10. Trần Đồng Minh (1994), Tiếng nói tri âm, Nxb Trẻ.
11. Lữ Huy Nguyên (1997), Kim Lân với những thú chơi ngày xuân Kinh
Bắc, Báo văn nghệ (số 5+6).
12. Vũ Dương Quỹ (Tuyển chọn), (1997), Nhà văn và tác phẩm trong
nhà trường phổ thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
13. Vũ Dương Quỹ (Tuyển chọn và biên soạn) (1999), Nhà văn và tác
phẩm trong nhà trường phổ thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
14. Hoàng Việt (1999), Nhà văn trong nhà trường Kim Lân, Nxb Giáo
dục Hà Nội.
15. Nhiều tác giả (1983), Từ điển Văn học tập 1, Nxb Khoa học Xã hội
Hà Nội.
16. Nhiều tác giả (2003), Từ điển Văn học bộ mới, Nxb Văn học Thế
giới Hà Nội.
17. http://thpt-so1botrach-quangbinh.edu.vn
18. http://vanvn.net