TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN THỊ KIM THƢƠNG

TÍNH TỰ SỰ TRONG THƠ CHỮ HÁN

NGUYỄN KHUYẾN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI - 2018

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN THỊ KIM THƢƠNG

TÍNH TỰ SỰ TRONG THƠ CHỮ HÁN

NGUYỄN KHUYẾN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

ThS. AN THỊ THÚY

HÀ NỘI - 2018

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ An Thị Thúy, cô đã tận tình hướng

dẫn, chỉ bảo tôi trong quá trình học tập và viết khóa luận này.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong khoa Ngữ văn,

các thầy cô trong Tổ Văn học Việt Nam - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

đã nhiệt tình giảng dạy tôi trong thời gian tôi học tập và nghiên cứu.

Xin được gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè thân thiết đã động viên,

giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận.

Hà Nội, ngày 17 tháng 05 năm 2018

Sinh viên

Nguyễn Thị Kim Thƣơng

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu và kiến thức trong khóa luận là hoàn toàn trung thực. Khóa luận này chưa

từng được công bố trong bất cứ công trình nào. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu

trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 17 tháng 05 năm 2018

Sinh viên

Nguyễn Thị Kim Thƣơng

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 5

1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3

3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 6

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 7

6. Đóng góp của khóa luận ................................................................................ 7

7. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 7

NỘI DUNG ....................................................................................................... 8

Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG ................................................................... 8

1.1. Tác giả và tác phẩm .................................................................................... 8

1.1.1. Tác giả ..................................................................................................... 8

1.1.1.1. Bối cảnh thời đại .................................................................................. 8

1.1.1.2. Cuộc đời và con người ....................................................................... 10

1.1.2. Tác phẩm ............................................................................................... 13

1.2. Tính tự sự trong sáng tác thơ ca ............................................................... 14

1.2.1. Khái niệm tự sự ..................................................................................... 14

1.2.2. Khái quát về tính tự sự trong thơ ca trung đại thế kỷ XVIII - XIX ...... 15

Chương 2. TÍNH TỰ SỰ TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN KHUYẾN . 20

2.1. Tự sự về bản thân ..................................................................................... 20

2.1.1. Tự thuật về ngoại hình, phẩm chất, tính cách ....................................... 20

2.1.1.1. Tự thuật về ngoại hình, dáng vẻ ......................................................... 20

2.1.1.2. Tự thuật về phẩm chất, tính cách ....................................................... 26

2.1.2. Tự thuật về hoàn cảnh và đời sống sinh hoạt ........................................ 32

2.2. Tự sự về hiện thực xã hội ......................................................................... 46

2.2.1. Tự sự về bộ mặt xấu xa của xã hội thực dân nửa phong kiến ............... 46

2.2.2. Tự sự về cuộc sống cơ cực của người nông dân ................................... 51

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 59

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 61

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Về mặt khoa học

Trong cuốn Thi hào Nguyễn Khuyến đời và thơ Nguyễn Huệ Chi đã cho

rằng “Trong bước chuyển mình quan trọng của văn học Việt Nam từ nửa cuối

thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX Nguyễn Khuyến là một trong số những tài

năng hiếm hoi đã chứng tỏ được thiên bẩm nghệ sĩ và bản lĩnh sáng tạo của

mình, bất chấp quy luật đào thải phũ phàng của lịch sử. Ông là nhà thơ mà

tác phẩm có sự phong phú về cung bậc và giọng điệu và cũng là người mở

đầu cho một trường thơ không còn bị chi phối quá chặt chẽ trong các quan

niệm công thức, ước lệ của văn học cổ truyền” [2, tr.3]

Nguyễn Khuyến là nhà thơ lớn của dân tộc. Sự nghiệp văn chương của

ông gắn liền với nhiều thăng trầm nhưng bản lĩnh kiên cường, tâm hồn thanh

cao không khuất phục trước cương quyền. Tâm hồn luôn hướng đến sự tự do,

cảm xúc dạt dào yêu thương là những giá trị vô cùng cao đẹp ông để lại trong

những vần thơ.

Nguyễn Khuyến để lại cho đời một sự nghiệp thơ ca phong phú. Ông

sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm, ở cả hai loại chữ đều được Nguyễn

Khuyến sử dụng rất điêu luyện, song chữ Hán vẫn là thể loại được nhà thơ sử

dụng trong sáng tác thơ ca nhiều hơn cả. Thể loại trong sáng tác của ông cũng

được lựa chọn khá đa dạng như: thơ, phú, văn tế, câu đối. Trong tất cả những

thể loại mà Nguyễn Khuyến lựa chọn sáng tác thì thơ ca là thể loại ông đặt

nhiều tâm huyết và mang giá trị lớn nhất trong sự nghiệp của ông. Phần lớn

thơ văn Nguyễn Khuyến thể hiện thái độ của mình đối với thời thế. Sáng tác

của Nguyễn Khuyến đã góp phần tạo nên chỗ đứng vững vàng của nhà thơ

trong nền văn học trung đại Việt Nam nói riêng và sự phát triển của nền văn

học dân tộc nói chung.

1

Bắt đầu với sự nghiệp thơ ca, Nguyễn Khuyến được biết đến với một

hồn thơ trữ tình đằm thắm bởi những vần thơ viết về nông thôn, quê hương,

làng cảnh, tình cảm gia đình. Về sau, bằng cái nhìn chân thực về thời thế và

sự trải nghiệm thực tế của bản thân, Nguyễn Khuyến còn được biết đến là một

nhà thơ trào phúng với giọng điệu mỉa mai. Qua mỗi bài thơ, độc giả sẽ thấy

được sự đa dạng và linh hoạt trong cách sử dụng ngôn từ và các biện pháp

nghệ thuật của tác giả. Đồng thời, thấy được chân dung, cuộc đời con người

nhà thơ cùng với hiện thực bối cảnh xã hội được hiện lên qua những dòng thơ

mà Nguyễn Khuyến tự thuật.

Xét trên khảo sát thực tế, Nguyễn Khuyến là tác giả đã có nhiều nhà

nghiên cứu, nhà phê bình đặt giấy bút để tìm hiểu về cả tác giả lẫn sự nghiệp

thơ ca của ông, họ đã thành công và đạt được những thành tựu to lớn. Nhưng

trên thực tế chưa có một công trình nào nghiên cứu về “Tính tự sự trong thơ

chữ Hán Nguyễn Khuyến”. Từ những lí do trên, tôi quyết định đi vào nghiên

cứu đề tài “Tính tự sự trong thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến”. Trên đây là một

gợi mở để người viết đi vào tìm hiểu và nghiên cứu khóa luận của mình.

1.2. Về mặt thực tiễn

Nguyễn Khuyến là tác gia có khối lượng tác phẩm sáng tác bằng chữ

Hán lớn. Những vấn đề trong thơ ông khá phong phú. Ngoài ra, Nguyễn

Khuyến là tác gia được đưa vào chương trình giảng dạy ở nhiều cấp học, bậc

học như: Trung học cơ sở, Trung học phổ thông, Cao đẳng, Đại học. Có nhiều

tác phẩm của Nguyễn Khuyến được lựa chọn đưa vào giảng dạy như: “Khóc

Dương Khuê”, “Thu điếu”, “Bạn đến chơi nhà”. Vì thế tôi quyết định đi vào

tìm hiểu đề tài này với hy vọng sẽ giúp tác giả nghiên cứu cũng như người

đọc có thêm sự hiểu biết về con người, sự nghiệp thơ ca của tác gia Nguyễn

Khuyến. Kết quả thu được từ việc nghiên cứu đề tài sẽ phục vụ tốt cho việc

nghiên cứu và giảng dạy sau này của mình.

2

2. Lịch sử vấn đề

Trong sáng tác văn học, tính tự sự thường được biết đến như là một yếu

tố cấu thành nên tác phẩm văn xuôi. Tuy nhiên, trong lĩnh vực thi ca cũng có

nhiều bài nghiên cứu về tính tự sự hoặc dưới dạng thức yếu tố kể hay một vài

dạng thức khác.

Là một trong những tác giả tiêu biểu của nền văn học dân tộc. Cuộc đời

cũng như sự nghiệp của Nguyễn Khuyến từ trước đến nay đã có nhiều công

trình nghiên cứu có giá trị. Đối với đề tài “Tính tự sự trong thơ chữ Hán

Nguyễn Khuyến” chưa có một công trình nghiên cứu và bài viết của tác giả

nào đề cập đến một cách tổng quát và toàn diện về đề tài này.

Trước năm 1945, Nguyễn Khuyến còn là tác giả ít được biết đến và có

được biết đến cũng chủ yếu qua thơ Nôm của ông. Phan Kế Bính là người có

ý kiến về Nguyễn Khuyến sớm nhất với công trình Việt - Hán văn khảo

(1930) khi “luận riêng về phép làm thơ”.

Nhà thơ Xuân Diệu với công trình nghiên cứu “Các nhà thơ cổ điển

Việt Nam” không chỉ ca ngợi Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt

Nam, Xuân Diệu còn cho rằng: “Hai trục xúc cảm rất rõ trong thơ Nguyễn

Khuyến, là quê hương làng nước, và đồng bào nhân dân; không phải tâm hồn

nhà thơ nào cũng có cả hai trụ cột như thế” [4, tr.411]. Từ quan niệm của

Xuân Diệu về nhà thơ Nguyễn Khuyến chúng ta có thể thấy Nguyễn Khuyến

là một nhà thơ không chỉ gắn bó mật thiết với quê hương làng cảnh Việt Nam

mà còn là nhà thơ thấu hiểu được những nỗi thống khổ của nhân dân.

“Thi hào Nguyễn Khuyến – đời và thơ” do Nguyễn Huệ Chi chủ biên là

công trình nghiên cứu nhằm “Cố gắng ghi nhận những bước đổi thay đáng kể

trong quá trình nhận diện lại Nguyễn Khuyến, đánh dấu bằng hội nghị khoa

học lớn về Nguyễn Khuyến năm 1985, nhân kỷ niệm 150 năm ngày sinh nhà

thơ” [2, tr.24]. Bên cạnh việc đi sâu vào tìm hiểu, tập hợp những tài liệu,

3

những bài viết nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn

Khuyến, Nguyễn Huệ Chi còn nhận định về nhà thơ như sau: “So với các văn

khoa khác cùng thời, Nguyễn Khuyến là một con người vận động rõ rệt trong

tư tưởng. Văn chương của một số sĩ phu khác có thể có một sự thay đổi về

màu sắc, chủ yếu là do sự thay đổi của đối tượng phản ánh (từ đề tài quan

trường, ngâm vịnh chuyển sang đề tài đánh giặc chẳng hạn), nhưng nội dung

truyền tải của nó vẫn là nội dung “trung quân ái quốc” không có gì khác

trước. Văn chương Nguyễn Khuyến thì không phải như vậy...Trong thơ ca của

mình, Nguyễn Khuyến ít nói đến những chuyện đánh giặc, trung vua, ca ngợi

“sự bền vững ngàn đời” của non sông xã tắc. Đề tài chính thống và truyền

thống khá mờ nhạt trong thơ ông” [2, tr.13].

“Nguyễn Khuyến về tác gia và tác phẩm” do Vũ Thanh tuyển chọn và

giới thiệu (Nxb Giáo dục – 2007) là “Sự tập hợp một cách rộng rãi những bài

viết và công trình khoa học tiêu biểu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn

Khuyến từ xưa đến nay nhằm đem đến cho bạn đọc một bức tranh toàn cảnh

những thành tựu trong việc nghiên cứu một trong những tác gia văn học lớn

nhất cuối thế kỷ XIX. Cuốn sách ra đời với mong muốn trở thành cơ sở cho

bước tiếp theo trong việc nghiên cứu sự nghiệp của nhà thơ được cả dân tộc

yêu mến” [20, tr.44]. Quyển sách gồm có bốn phần chính: Phần một: Nguyễn

Khuyến giữa bước ngoặt lịch sử và sự chuyển mình của văn học dân tộc; Phần

hai: Từ những biến đổi trong quan niệm thẩm mĩ đến nhà thơ của con người

và làng cảnh Việt Nam; Phần ba: Sự kết hợp phức điệu và tài hoa trong một

phong cách thơ; Phần bốn là phụ lục. Như vậy tác giả đã tập hợp các bài viết,

công trình nghiên cứu và phân chia theo nội dung của mỗi bài để chúng ta có

cái nhìn tổng quát hơn về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn

Khuyến cũng như phong cách nghệ thuật của thơ văn ông. Đồng thời đây

cũng là tài liệu tham khảo vô cùng quý báu cho chúng ta tham khảo về nhà

4

thơ Nguyễn Khuyến nói chung và đề tài “Tính tự sự trong thơ chữ Hán

Nguyễn Khuyến” nói riêng.

Ngoài ra chúng tôi lần lượt đi khảo sát ở một số công trình nghiên cứu,

bài viết có liên quan trực tiếp đến con người cũng như thơ văn Nguyễn

Khuyến:

1. Nguyễn Đình Chú (2003), Nguyễn Khuyến với thời gian, Nxb Giáo dục,

Hà Nội

2. Nguyễn Văn Huyền, (1984), Nguyễn Khuyến tác phẩm, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

3. Mai Hương (2006), Nguyễn Khuyến và những lời bình, Nxb Văn hóa

thông tin.

4. Văn Tân (1959), Nguyễn Khuyến, nhà thơ Việt Nam kiệt xuất, Nxb Văn-

Sử - Địa.

5. Nguyễn Bá Thành (2006), Bản sắc Việt Nam qua giao lưu văn học, Đại

học khoa học Xã Hội và Nhân Văn, Nxb Quốc gia Hà Nội

Nhìn chung, ở mỗi công trình nghiên cứu đều có những phát hiện,

khám phá rất mới mẻ và vô cùng sâu sắc. Đây chính là nguồn tư liệu vô cùng

phong phú để chúng ta có thể tìm hiểu về tác gia Nguyễn Khuyến một cách

trọn vẹn và đầy đủ nhất. Các tác giả không chỉ giới thiệu về vị trí của Nguyễn

Khuyến trong nền văn học trung đại Việt Nam mà còn đi vào tìm hiểu đề tài

tính tự sự trong thơ ca ông. Các công trình đã được đề cập đến ở những góc

độ khác nhau, hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp. Tuy nhiên những công trình

nghiên cứu đó chưa đặt thành vấn đề riêng biệt, chưa khảo sát toàn diện.

Chính vì thế trên cơ sở tiếp thu kết quả của những người đi trước chúng tôi

mong muốn sẽ lí giải một cách cụ thể, hệ thống đề tài “Tính tự sự trong thơ

chữ hán Nguyễn Khuyến”. Qua đó người viết góp phần khẳng định giá trị nội

dung của tác phẩm và hiểu sâu hơn phẩm chất, tấm lòng, tâm sự của nhà thơ.

5

3. Mục đích nghiên cứu

Đề tài khóa luận nghiên cứu nhằm hướng tới những mục đích sau:

Góp phần tìm hiểu và nghiên cứu một cách có hệ thống, sâu sắc và cụ

thể hơn đề tài “Tính tự sự trong thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến” người viết sẽ

vẽ ra những đường nét để người đọc có thể hình dung về chân dung con người

cũng như phẩm chất, tâm hồn thanh cao của Nguyễn Khuyến. Qua đó hiểu

thêm những độc đáo nghệ thuật của nhà thơ, thấy được mối quan hệ giữa

nghệ thuật và đời sống đã ảnh hưởng đến tư duy thơ ca của Tam Nguyên Yên

Đổ. Đồng thời, để độc giả nhìn nhận được hiện thực xã hội thời bấy giờ được

hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Khuyến, giúp ta nhận ra thái độ, tư tưởng

và tình cảm của tác giả đối với con người và cuộc đời, khẳng định vị trí của

Nguyễn Khuyến trong nền văn học dân tộc.

Tìm hiểu đề tài này, chúng tôi muốn tập dượt với nghiên cứu khoa học,

đóng góp một phần cho việc giảng dạy về tác giả, tác phẩm Nguyến Khuyến

trong nhà trường phổ thông sau này.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Với đề tài này, chúng tôi khảo sát trên toàn tập thơ chữ Hán của

Nguyễn Khuyến, đặc biệt đi sâu vào khảo sát bản dịch thơ chữ Hán của

Nguyễn Khuyến trong Tuyển tập thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến do Trần

Văn Nhĩ tuyển chọn và dịch thơ, Nxb Văn hóa - Văn nghệ Thành phố Hồ Chí

Minh, 2016.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Khóa luận nghiên cứu tính tự sự trong thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến

trên hai phương diện:

- Tự sự về bản thân

- Tự sự về hiện thực xã hội

6

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để triển khai đề tài người viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu

chính sau đây:

- Phương pháp so sánh, đối chiếu

- Phương pháp phân tích bình giảng

- Phương pháp liệt kê, phân loại

- Phương pháp nghiên cứu văn học sử

Ngoài ra người viết còn sử dụng các thao tác chứng minh, phân tích,

đánh giá để làm rõ vấn đề.

Trong quá trình triển khai luận văn, người viết không tuyệt đối hóa

phương pháp nào, khi cần thiết có thể sử dụng tổng hợp tất cả các phương

pháp trên.

6. Đóng góp của khóa luận

Về mặt lí luận: Khẳng định những giá trị nghệ thuật đặc sắc và nội

dung nhân đạo sâu sắc của thơ ca chữ Hán Nguyễn Khuyến

Về mặt thực tiễn: Góp phần vào việc giảng dạy và học tập các tác phẩm

của Nguyễn Khuyến trong nhà trường phổ thông.

7. Bố cục của khóa luận

Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của khóa

luận gồm 2 chương:

Chƣơng 1: Những vấn đề chung

Chƣơng 2: Tính tự sự trong thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến

7

NỘI DUNG

Chƣơng 1

KHÁI QUÁT CHUNG

1.1. Tác giả và tác phẩm

1.1.1. Tác giả

1.1.1.1. Bối cảnh thời đại

Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là giai đoạn lịch sử Việt

Nam có những biến đổi hết sức to lớn. Năm 1858 thực dân Pháp lấy cớ triều

đình Nguyễn ngăn cản việc công thương và giết giáo sĩ, ngày 1 tháng 8 chúng

đã nổ súng vào cửa biển Đà Nẵng, chính thức mở đầu cuộc xâm lược nước ta

biến nước ta từ một nước độc lập thành một nước thuộc địa nửa phong kiến

với yêu cầu bức thiết và cháy bỏng là: “Độc lập dân tộc và người cày có

ruộng”. Sau năm tháng nhận thấy cuộc chiến tranh vẫn không có chút tiến

triển nên thực dân Pháp đã thay đổi kế hoạch, chúng chỉ để lại một lực lượng

nhỏ ở lại bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) để giữ chân quân đội triều đình còn lại

tất cả kéo vào Nam mở cuộc tiến công Gia Định. Ngày 10 tháng 2 năm 1859

từ Vũng Tàu chúng pháo kích các công sự bảo vệ con đường thủy vào Gia

Định và sau vài ngày chúng chiếm được Gia Định. Trong vòng bốn mươi năm

thực dân Pháp đã hoàn toàn đặt được ách thống trị trên đất nước ta. Trong

thời gian ấy chúng đã chiếm được ba tỉnh miền Đông Nam Kì và ba tỉnh miền

Tây Nam Kỳ. Từ đó cho đến cuối thế kỉ theo quan điểm của bọn thực là

“chinh phục và bình định Trung kì, Bắc kì” rồi toàn quốc. Trong nội bộ giai

cấp địa chủ phong kiến có sự phân hóa sâu sắc cùng với hệ tư tưởng Nho giáo

ngày càng tỏ ra bất lực trước cuộc xâm lược. Triều đình nhà Nguyễn mục nát,

nhu nhược, cam chịu làm tay sai cho thực dân Pháp. Thắng lợi của chúng

được đánh dấu bằng những hàng ước mà triều đình nhà Nguyễn lần lượt kí

với chúng. Năm 1864 triều đình nhà Nguyễn đã kí hàng ước nhường ba tỉnh

8

Biên Hòa, Gia Định, Đình Tường và đảo Côn Lôn cho thực dân Pháp, năm

1875 kí điều ước và thương ước nhường toàn bộ Nam Kì cho chúng, năm

1883 và 1884 kí hai hàng ước công nhận nền đô hộ của thực dân Pháp trên

toàn cõi Việt Nam. Đất nước chính thức chịu ách nô lệ của thực dân.

Ở nước ta, sau khi vua tôi triều Nguyễn kí những hàng ước đầu hàng,

vào những năm cuối thế kỉ XX thực dân Pháp bắt đầu bước vào thời kì tổ

chức và khai thác thuộc địa lần thứ nhất trên quy mô toàn quốc. Sự tác động

của tư tưởng tiến bộ ở phương Tây cũng như cuộc cách mạng Tân Hợi và

cuộc vận động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu ở Trung Quốc

cũng có ảnh hưởng lớn đến Việt Nam, nhất là về tư tưởng chính trị. Xã hội

Việt Nam có sự biến chuyển và phân hóa sâu sắc. Xã hội Việt Nam xuất hiện

hai giai cấp mới: giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Nước ta trở thành nước

thực dân nửa phong kiến.

Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, với khí thế sục sôi cả dân tộc ta

với tinh thần yêu nước đã tiến hành cuộc chiến đấu quyết liệt chống lại kẻ thù,

ở đâu có tiếng súng xâm lược ở đó có phong trào kháng chiến bảo vệ chủ

quyền dân tộc. Từ Nam kì, Bắc Kì, Trung Kì, ngoài ra còn các phong trào yêu

nước của nhân dân ta diễn ra đa dạng, sôi nổi nhất là phong trào có khuynh

hướng dân chủ tư sản như phong trào Đông Du (Phan Bội Châu), Đông Kinh

Nghĩa Thục (Lương Văn Can, Nguyễn Quyền), Duy Tân (Phan Chu Trinh)...

Đặc biệt là sau năm 1885, phong trào Cần Vương nổ ra sôi nổi trên phạm vi

cả nước, ít nhiều vẫn chịu sự chi phối của ý thức hệ phong kiến do các văn

thân và sĩ phu yêu nước chống Pháp lãnh đạo. Phong trào rầm rộ trên nhiều

tỉnh thành và kéo dài gần hết thế kỉ XIX. Tuy nhiên các cuộc khởi nghĩa nổ ra

lẻ tẻ, thiếu sự thống nhất trong lãnh đạo do đó tạo cơ hội cho kẻ thù dễ bề chia

cắt, cả nước lại rơi vào cảnh nô lệ tối tăm, các cuộc chiến không còn phương

hướng, khí thế các phong trào cũng lắng xuống, tiếng súng Cần Vương tắt dần

9

nhưng sự kiên cường và lòng yêu nước thì không bao giờ tắt. Nếu chưa thể

cháy bùng thành ngọn lửa thì nó âm ỉ cháy trong lòng những người yêu nước

để chờ một nguồn gió mới thổi vào rồi lại bùng lên mãnh liệt.

Đây là những diễn biến lịch sử cơ bản đã diễn ra trong giai đoạn nửa

cuối thế kỉ XIX. Đây là giai đoạn lịch sử dân tộc ta trải qua bao biến cố thăng

trầm, bắt đầu rơi vào ách thống trị của thực dân Pháp, nhân dân chịu nhiều

tầng áp bức từ triều đình phong kiến nhà Nguyễn và đế quốc thực dân. Bối

cảnh lịch sử này đã chi phối tới đời sống vật chất và tinh thần của mọi tầng

lớp nhân dân trong xã hội. Xã hội thực dân nửa phong kiến rõ nét dần vào

những năm cuối thế kỉ XIX với bộ mặt của xã hội đảo điên, lố lăng. Chính bởi

hoàn cảnh lịch sử đó đã tác động và để lại dấu ấn rõ nét trong sáng tác của

Nguyễn Khuyến. Và đặc biệt nó ảnh hưởng rõ rệt đến văn học giai đoạn này.

Giai đoạn văn học có sự đóng góp của dòng văn học yêu nước cho đến văn

học tố cáo hiện thực xã hội. Đây là giai đoạn nổi lên tên tuổi của những nhà

thơ với những tác phẩm thể hiện tinh thần yêu nước của mình và Nguyễn

Khuyến là một nhà thơ điển hình. Đồng thời, thông qua tác phẩm của Nguyễn

Khuyến, độc giả phần nào hiểu được đặc điểm văn học và bối cảnh lịch sử

giai đoạn này.

1.1.1.2. Cuộc đời và con người

Nguyễn Khuyến tên hồi nhỏ là Nguyễn Thắng, hiệu Quế Sơn, sau đổi

ra Nguyễn Khuyến, tự Miễn Chi. Ông sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835 (tức

ngày 18 tháng Giêng năm Ất Mùi).

Ông xuất thân từ một gia đình nhà Nho nghèo, hai bên gia đình nội

ngoại đều có truyền thống khoa bảng. Quê nội gốc ở Treo Vọt, huyện Can

Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, di cư ra Yên Đổ (nay là xã Trung Lương), huyện Bình

Lục, tỉnh Hà Nam, cho đến đời nhà thơ được 500 năm. Cụ bốn đời Nguyễn

Khuyến là Nguyễn Tông Mại, từng đỗ tiến sĩ, làm quan đến chức Hiến sát sứ

10

Thanh Hóa. Cha Nguyễn Khuyến là Nguyễn Liễn, vẫn theo đời Nho học, đỗ

ba khoa tú tài, chuyên nghề dạy học. Cụ Liễn là người thanh bạch, giản dị,

trọng đạo lí, tính tình hào phóng. Cuộc sống và tính cách ấy của cụ có ảnh

hưởng sâu sắc đến nhà thơ sau này.

Mẹ Nguyễn Khuyến là Trần Thị Thoan quê làng Văn Khê tục gọi làng

Ngòi, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Tổ bảy đời cụ Thoan là

Trần Hữu Thành cụ đỗ Tiến sĩ triều Lê, làm quan đếm Giám sát ngự sử. Ông

ngoại nhà thơ là Trần Công Trạc đỗ Tú tài thời Lê Mạt. Cụ gả con gái thứ tư

cho ông Nguyễn Liễn và tạo điều kiện để con rể mở trường dạy học ở Hoàng

Xá. Bà rất mực thương người, mọi việc nữ công gia chánh đều thông thạo. cả

một đời bà chịu thương chịu khó phụng dưỡng bố mẹ chồng, chăm chỉ làm

việc, có lúc phải bán cả tư trang, may thuê, vá mướn kiếm tiền để khuyến

khích và nuôi chồng con ăn học, thi cử. Lòng nhân ái bao la, gương đảm đang

chịu thương chịu khó của bà mẹ, đặc biệt là chí quyết tâm thúc đẩy con trai

học tập thành tài đã tác động rất lớn đến anh khóa Thắng.

Năm 1843, khi cậu bé Thắng đã 8 - 9 tuổi, mới theo gia đình trở về quê

cũ.

Năm 1852, Nguyễn Khuyến lấy vợ, con một nhà nghèo, người họ

Nguyễn cùng làng. Đây chính là người vợ “tao khang” suốt đời của nhà thơ,

tính nết hiền hậu, suốt đời làm ăn. Và khi mới ở tuổi 17 Nguyễn Khuyến đã

thi Hương cùng khoa với cha song không đỗ. Năm sau đó có dịch thương hàn,

anh khóa Thắng mắc bệnh suýt chết. Cha và em ruột, cùng nhiều họ hàng thân

thuộc đều qua đời vì cơn dịch bệnh. Gia đình lâm vào cảnh đói rét.

Năm 1854, anh nối nghề cha để lấy lương ăn, ở Lạng Phong, Kỷ

Cầu...Tuy nghèo khó nhưng Nguyễn Khuyến vẫn theo đuổi công việc sách

đèn. Song ba khóa thi Hương tiếp theo (1855, 1858, 1861), Nguyễn Khuyến

đều trượt. Có lúc ông nản đường khoa cử định chuyển nghề dạy học kiếm

11

sống và nuôi gia đình thì được người bạn là Vũ Văn Báo nhận chu cấp lương

ăn và khuyên đến học cùng với cha mình là Tiến sĩ Vũ Văn Lý ở xã Vĩnh Trụ,

huyện Nam Xang (nay là huyện Lí Nhân, tỉnh Hà Nam). Do vậy khoa thi

1864 ông đỗ cử nhân đầu trường Hà Nội. Sau đó ông thi vào các khoa 1865,

1868 nhưng không đỗ. Cho đến 1871 mới liên tiếp đỗ đầu thi hội, thi đình khi

đó ông ba bảy tuổi. Cả ba kì thi ông đều đỗ đầu nên được gọi với cái tên

“Tam Nguyên Yên Đổ”. Có thể thấy qua thành tích của Nguyễn Khuyến đó là

sự cố gắng không ngừng.

Sau khi đỗ, Nguyễn Khuyến được bổ ra làm quan ở nội các Huế, sau đó

làm Đốc học Thanh Hóa, rồi thăng lên Án sát tỉnh ấy. Đó cũng là lúc Pháp

đánh chiếm bốn tỉnh Bắc kỳ lần thứ nhất. Năm 1874 ông phải mang quân

chặn quân khởi nghĩa phạm vào Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Cũng đúng lúc ấy mẹ

ông mất tại tỉnh đường Thanh Hóa, ông phải nghỉ ba năm về quê chịu tang

mẹ. Mãn tang ông vào kinh nhận chức Biện lí bộ Hộ. Năm 1877, ông giữ

chức Bố chính tỉnh Quảng Ngãi. Rồi làm Toản tu ở Sử quán từ năm 1879 đến

1883, sống trong cảnh thanh bần, lại thêm đau yếu nên ông đã có tâm trạng

chán ngán cảnh quan trường.

Năm 1883 quân Pháp đánh chiếm Bắc kỳ lần thứ hai. Vua Tự Đức chết,

quân pháp đánh chiếm của biển Thuận An, triều đình nhà Nguyễn kí hiệp ước

Harmand ngày 25 - 8 - 1883 chấp nhận ách thống trị của thực dân Pháp trên

toàn cõi nước ta. Nguyễn Khuyến được cử làm Phó sứ sang Mãn Thanh, ông

lấy cớ đau yếu, xin tạm về quê dưỡng bệnh.

Tháng 12 - 1883, quan Pháp đánh chiếm Sơn Tây, các quan tỉnh đó đều

bỏ chạy. Nguyễn Hữu Độ đề cử ông giữ chức quyền tổng đốc Sơn Tây - Hưng

yên - Tuyên Quang, song ông không chịu đến nhậm chức.

Chính hành động cáo quan lui về ở ẩn của ông đã đánh dấu bước ngoặt

quan trọng trong cuộc đời ông. Một phần tư thế kỷ trở về sống ở Yên Đổ ông

12

tiếp tục sáng tác và viết lên những tác phẩm bất hủ bộc lộ cả tài năng và phẩm

chất sáng ngời không màng danh lợi cùng với tinh thần yêu nước. Đó cũng là

cơ hội để Nguyễn Khuyến sống hòa nhập với thiên nhiên, đồng cảm với cuộc

sống cơ cực của nhân dân.

Ông trút hơi thở cuối cùng vào ngày 05 tháng 02 năm 1909, tức ngày

15 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, thọ 74 tuổi.

1.1.2. Tác phẩm

Nguyễn Khuyến đã để lại cho văn học nước nhà một khối lượng thơ ca

đồ sộ và vô cùng quý giá. Ông sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm, nhưng

phần lớn là các tác phẩm viết bằng chữ Hán, cả hai đều rất điêu luyện. Ông để

lại khoảng 800 tác phẩm bao gồm nhiều thể loại: thơ, hát nói, văn tế, câu

đối...

Quế Sơn thi tập có trên 300 bài thơ.

Yên Đổ thi tập

Bách Liêu thi văn tập.

Cẩm ngữ và những bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền

miệng.

Riêng đối với thơ chữ Hán, chúng tôi khảo sát trong cuốn Tuyển tập

thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến do Trần Văn Nhĩ tuyển chọn, gồm các tập:

Yên Đổ tiến sĩ thi tập.

Quế Sơn thi tập.

Quế Sơn Tam nguyên thi tập

Các tập thơ khác:

Hải Vân Am thi tập

Quế Sơn thi tập tục biên

Yên Đổ Tam nguyên thi tập

Quế Sơn cựu lục

13

Các sáng tác của ông phần lớn đều được làm trong thời kì ông trở về

sống ở Yên Đổ. Sáng tác của ông chủ yếu xoay quanh ba nội dung:

- Tấm lòng yêu nước thiết tha sâu nặng

- Thái độ phản kháng đối với xã hội thực dân nửa phong kiến

- Tình cảm của nhà thơ dành cho quê hương, gia đình, bạn bè, hàng

xóm.

Toàn bộ thơ văn của ông Hán cũng như Nôm biểu hiện rất rõ cá tính,

cách điệu tâm hồn con người Nguyễn Khuyến, đặc biệt bộ phận chữ Hán phản

ánh một cách cụ thể hơn từng khía cạnh tâm sự, diễn biến tử tưởng và cả một

số chi tiết về tiểu sử của nhà thơ. Nhưng thơ viết bằng chữ Nôm là bộ phận

làm nên tên tuổi của nhà thơ.

1.2. Tính tự sự trong sáng tác thơ ca

1.2.1. Khái niệm tự sự

Khái niệm tự sự thuộc một phương thức phản ánh cuộc sống của văn

học nghệ thuật. Tự sự bao gồm nhiều thể loại khác nhau: truyện cổ tích,

truyện cười, truyện thơ Nôm, truyện ngắn,...

Theo GS. Trần Đình Sử: “Tự sự là loại tác phẩm văn học tái hiện trực

tiếp hiện thực khách quan như có một cái gì tách biệt ở bên ngoài đối với tác

giả thành một câu chuyện có diễn biến của sự việc, của hoàn cảnh có sự phát

triển của tâm trạng, tính cách, hành động của con người. Đó là thể loại văn

học phản ảnh hiện thực đời sống một cách khách quan bằng cách kể lại sự

việc, sự kiện, miêu tả tính cách nhân vật...có đầu có cuối thông qua cốt truyện

tương đối hoàn chỉnh và được kể lạ bằng một người kể nào đó” [6, tr.250]

Theo G. Genette: “Tự sự là trình bày một sự kiện hay một chuỗi sự kiện

có thực hay hư cấu, bằng phương tiện ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ tự sự”

[5, tr.41]

14

Từ điển thuật ngữ văn học đưa ra định nghĩa: “Tự sự là phương thức

tái hiện đời sống bên cạnh hai phương thức khác là trữ tình và kịch, được

dùng làm cơ sở để phân loại tác phẩm văn học” [8, tr.385]

Còn theo Từ điển Tiếng Việt phân biệt: “Tự sự là thể loại văn học trong

đó nhà văn phản ánh thế giới bên ngoài bằng cách kể lại sự việc, miêu tả tính

cách thông qua một cốt truyện tương đối hoàn chỉnh” [16, tr.1332]

Như vậy, tự sự là một khái niệm rộng. Đối lập với miêu tả, nó như một

câu chuyện kể được người nghệ sĩ kể lại sau khi chứng kiến ngoài cuộc đời.

Tự sự dựa trên một hay những sự kiện, sự kiện là nền tảng của tự sự, nó tạo

nên câu chuyện, cốt truyện. Văn bản tự sự có ba đặc điểm một là có người kể,

hai là có hành động tự sự và ba là có sự kiện được kể ra. Đặc điểm chung nhất

của tự sự là “kể chuyện đời”, nhà văn tái hiện đời sống bằng cách nhà văn kể

lại các sự việc, con người, hiện tượng xã hội... Thông qua ngôn từ người nghệ

sĩ bày tỏ thái độ, tư tưởng, tình cảm trước hiện thực cuộc sống.

1.2.2. Khái quát về tính tự sự trong thơ ca trung đại thế kỷ XVIII - XIX

Văn học trung đại lấy văn học dân gian làm nền tảng, khi văn học Việt

Nam mới ra đời các tác giả đều hướng về cội nguồn, khai thác văn học dân

gian, lấy văn học dân gian làm cơ sở xây dựng truyền thống cho văn học viết.

Tiếp sau đó văn học nước nhà tiếp thu có chọn lọc và sáng tạo tinh hoa từ nền

văn học của nhiều nước. Đến thời kì văn học trung đại, trước thế kỷ XVIII

chữ Hán dùng để sáng tác tất cả các thể loại văn học, còn chữ Nôm dần được

hoàn thiện, từ đó làm cơ sở cho văn học Nôm phát triển. Từ thế kỷ XVIII đến

nửa đầu thế kỷ XIX văn học ra đời và phát triển gắn liền với thời kì đất nước

đang gặp nhiều biến cố. Vào cuối thế kỷ XVIII chiến tranh nổ ra liên miên,

triều đình suy thoái, nhân dân lầm than dẫn đến xã hội khủng hoảng trầm

trọng. Cũng vì lẽ đó mà chất lãng mạn trong văn học trùng xuống, thay vào đó

các nghệ sĩ đưa hiện thực xã hội vào trong các tác phẩm của mình, các sáng

15

tác thơ ca mang đậm chất hiện thực cuộc sống, thông qua ngôn từ tác giả phản

ánh những sự kiện liên quan đến vận mệnh đất nước và số phận của con

người. Từ đó tác giả cũng bày tỏ tư tưởng, thái độ, tình cảm của mình. Văn

học chữ Hán vẫn trên đà phát triển, các sáng tác mang đậm dấu ấn cá nhân,

thơ ca mang nặng những trăn trở, suy tư về con người và cuộc đời.

Trong thơ ca trung đại tính tự sự được thể hiện rất độc đáo. Bằng

những chứng kiến lịch sử, nhiều tác giả đã phản ánh khá rõ nét hiện thực xã

hội và tình hình đời sống nhân dân lúc bấy giờ. Tiêu biểu là các sáng tác thơ

ca của một số tác giả như: Phạm Nguyễn Du (1740- 1786); Bùi Huy Bích

(1744- 1818); Nguyễn Du (1765- 1820); Cao Bá Quát (1809 – 1855)...

Trong thơ Nguyễn Du thường xuất hiện những cảnh tượng khốn cùng,

những con người bi đát. Với tính tự sự, trong bài thơ Sở kiến hành (Những

điều trông thấy) tác giả đã kể lại những điều trông thấy ở xứ người mà giống

như ở làng quê Việt Nam thời bấy giờ:

“Có người đàn bà dắt ba đứa con

Cùng nhau ngồi bên đường

Đứa nhỏ trong bụng mẹ

Đứa lớn cầm giỏ tre

Trong giỏ đựng gì lắm thế

Rau lê hoặc lẫn cám

Qua trưa rồi chưa được ăn

Áo quần sao mà rách rưới quá

Thấy người không ngẩng nhìn

Nước mắt chảy ròng ròng trên áo

Lũ con vẫn vui cười

Không biết lòng mẹ đau

Lòng mẹ đau ra sao?...”

16

Đó là câu chuyện về một người mẹ với ba đứa con, đứa con “trong

bụng mẹ”, đứa “cầm giỏ tre”, trong giỏ của đứa bé chỉ có “mớ rau lẫn tấm

cám”. Nhà thơ đã phát hiện và miêu tả nghịch cảnh đáng thương: mẹ thì khóc

lóc vì khổ sở, vì đói, vì nhìn thấy những đứa con sắp chết đói mà vẫn cười

đùa. Nghịch cảnh ấy khiến tác giả đau lòng. Nhà thơ còn cho biết đây không

phải là một người đàn bà có nghề ăn mày mà là một người lao động lang

thang đi kiếm việc làm thuê. Thấu hiểu được tình cảnh bi đát và nỗi lòng của

người mẹ. Nhà thơ đã thổi vào bài thơ một hồn thơ mang đậm chất xót xa,

đồng cảm.

Một tác phẩm sẽ được nảy mầm từ tài và tâm của người nghệ sĩ. Bằng

ngòi bút tài hoa cùng với tâm tình xót thương của tác giả đối với con người,

thi hào Nguyễn Du đã có nhiều tác phẩm đậm chất tự sự phản ánh đúng chất

của cuộc sống và xã hội. Những bài thơ giàu tính tự sự như: Thái Bình mại ca

giả (Người hát rong ở thành Thái Bình); Trở binh hành (Bài hành về việc

binh đao làm nghẽn đường),...

Đối với Cao Bá Quát, ông là tác giả có nhiều bài thơ về bản thân, con

người và thế giới cảnh vật. Là tác giả có nhiều bài thơ viết về cuộc đời số

phận con người đặc biệt là những con người nghèo khổ, con người nhỏ bé.

Tiêu biểu như các bài thơ: Cái tử (Người ăn xin); Mộ Kiều quy nữ (Cô gái từ

trên cầu trở về lúc trời tối); Phụ tương tử (Người vác hòm)...

Cao Bá Quát chứng kiến và cảm nhận được sự khổ cực của nhân dân

lao động và từ đó xây dựng hiện thực cuộc sống một cách chân thực trong

thơ. Trong bài thơ Phụ tương tử Cao Bá Quát kể về nỗi khốn khổ của một anh

chàng người ở quê ra thành phố đi làm thuê vì sưu cao, thuế nặng:

“Thất thểu anh vác hòm

Mỗi bước đi lại ngập ngừng than thở

Bỗng gặp người áo khăn đứng đắn

17

Nắm lấy tay nước mắt giàn giụa...

Muốn khỏe mạnh để làm ăn

Nhưng hàng ngày cứ bị đánh mắng luôn.

Trên nhà thì của ngon vật lạ đầy đủ,

Dưới bếp thì người nào cũng gầy giơ xương...”

Nhà thơ kể lại câu chuyện về một hôm tình cờ gặp một “anh vác hòm”

với dáng vẻ “thất thểu”, bước đi “ngập ngừng than thở”. “Nắm lấy tay” hỏi

chuyện, hỏi ra ông mới biết đó là một người phải bỏ quê đi làm thuê vì không

nộp được thuế, hàng ngày còn bị “đánh mắng”. Bất công thay là nhà chủ thì

ăn đủ “của ngon vật lạ” còn mình thì phải chịu cảnh “gầy giơ xương”. Xã hội

bất công khiến người dân phải chịu nhiều đau khổ. Bài thơ là tiếng thở dài bất

lực đối với bất công đang đè nén. Là sự đồng cảm, xót thương của tác giả đối

với cảnh khốn cùng của người dân lao động.

Những biến cố lịch sử đã khiến cuộc sống nhân dân đói khổ lầm than.

Hiện thực xã hội và số phận con người được đề cập đến trong phần nhiều tác

phẩm. Đặc biệt là các tác giả tập trung vào số phận đau khổ và khát vọng của

con người. Hình ảnh nhân dân trở thành trung tâm trong hầu hết các sáng tác.

Tính tự sự được vận dụng cao nhằm phản ánh rõ nét hiện thực lịch sử.

Tuy nhiên, thơ văn trung đại không chỉ nói đến cuộc sống lầm than,

khổ cực của nhân dân mà cũng có những trang thơ viết cảnh sắc thiên nhiên.

Với đề tài này, Nguyễn Công Trứ cũng vận dụng tính tự sự vào trong thơ để

miêu tả cảnh sắc thiên nhiên. Một số bài thơ tiêu biểu như: “Vịnh cảnh Hà

Nội”; “Vịnh Hồ Tây”; “Vịnh mùa đông”...Trong đó có bài thơ “Vịnh mùa

xuân”, Nguyễn Công Trứ đã tả về phong cảnh tươi mới của mùa xuân:

“Xuân sang hoa cỏ đua tươi,

Khoe màu quốc sắc trẻ mùi thiên hương.

Đầm ấm thủa tin xuân phút bắn,

18

Khí phát sinh rải rác trên cành.

Thử tập bay, bướm mới uốn mình,

Muốn học nói, oanh còn lựa tiếng.

Liễu hoàn cựu lục oanh do tĩnh,

Đào thí tân hồng điệp vị tri.

Mái đông phong mày liễu xanh rì,

Đám tàn tuyết đầu non trắng xoá.

Buổi hoà hú khí trời êm ả,

Hội đạp thanh xa mã dập dìu.

Ngàn vàng một khắc xuân tiêu.”

Xuân sang mang theo sắc “hoa cỏ” đua nhau “khoe màu sắc trẻ” cùng

với “mùi thiên hương” nồng nàn. Các loài cũng dập dìu đưa cánh lượn, bướm

mới muốn uốn mình thử tập bay, chim oanh muốn học nói. Cành liễu thõng

xuống như mái tóc ai mềm, đào hồng, tuyết đầu non cũng hòa vào với khí trời

xuân êm ả. Bằng cái nhìn tinh tế Nguyễn Công Trứ đã đặc tả sắc nét từng

đường nét, hơi thở của mùa xuân sang. Những chi tiết về cảnh vật được nhà

thơ tái hiện với những từ ngữ giàu tính tạo hình đã dựng lên phong cảnh tuyệt

đẹp của mùa xuân.

Như vậy, ta thấy “tính tự sự” trong thơ ca trung đại thế kỷ XVIII - XIX

được thể hiện rất phong phú và đa dạng. Nó không chỉ biểu hiện hiện thực xã

hội trái ngang mà thông qua tính tự sự, bằng chứng kiến của mình tác giả vẽ

lên những bức tranh thiên nhiên tuyệt sắc. Qua đó cũng thấy được tâm tư, tình

cảm, tư tưởng của người nghệ sĩ. Điển hình trong số đó, không thể không nói

đến sự đa màu sắc trong tính tự sự của tác giả Nguyễn Khuyến.

19

Chƣơng 2

TÍNH TỰ SỰ TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN KHUYẾN

2.1. Tự sự về bản thân

2.1.1. Tự thuật về ngoại hình, phẩm chất, tính cách

2.1.1.1. Tự thuật về ngoại hình, dáng vẻ

Ngoại hình của con người được hiểu là toàn bộ dáng vẻ bên ngoài bao

gồm: đầu tóc, quần áo, nét mặt, màu da, đi đứng, nói chuyện. Trong thơ ca

trung đại, Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ hay vẽ lại chân dung

của chính mình bằng thơ ca. Trong quá trình khảo sát thơ chữ Hán Nguyễn

Khuyến, chúng tôi nhận thấy, Nguyễn Khuyến có rất nhiều những bài thơ tự

thuật về ngoại hình, dáng vẻ, gương mặt, mái tóc. Thậm chí có cả hình ảnh

của chiếc răng cũng đi vào thơ ông một cách tự nhiên, sinh động. Sự khắc họa

về bản thân một cách sinh động, rõ nét giống như cách để Nguyễn Khuyến tự

ngắm mình và rồi tự suy ngẫm về bản thân mình.

Nói về bản thân, Nguyễn Khuyến “tự than” cho ông già đáng thương

với diện mạo: Mặt sạm, râu bạc, mắt mờ, ốm yếu,...ở tuổi “năm mươi tư”:

“Khả liên ngũ thập tứ niên ông

Diện cấu tu ban nhãn hựu hồng

Suy bệnh diệc vô hưu tức nhật

Cần lao chỉ tại túy miên trung

Thế đồ bất phục phân danh lợi

Pháp giới tòng hà kiến sắc không...”

(Tự thán)

(Đáng thương ông già năm mươi tư tuổi

Mặt sạm, râu đốm bạc, mắt lại mờ

Ốm yếu, bệnh tật chẳng ngày nào buông tha

Chỉ siêng ngủ vùi trong giấc say mềm

20

Đường đời chẳng còn phân biệt được danh với lợi

Pháp giới, làm sao thấy hết sắc không...)

(Tự than)

Hết một năm, năm mới đến là lại thêm một tuổi, “thế là ông thành ông

lão năm mươi lăm tuổi”, tuổi già đến thấy trên đầu có vài sợi tóc bạc. Nguyễn

Khuyến buồn rầu tự sự về tuổi “năm mươi lăm” với “hai mắt đỏ ngầu” đầy lo

nghĩ:

“Trừ khước kim tiêu thị tân tuế

Toại thành ngũ thập ngũ niên ông

Bất tri đầu thượng kỷ hành bạch

Chỉ hữu thiên lai song nhãn hồng...”

(Trừ tịch)

(Hết đêm nay sẽ sang năm mới

Thế là thành ông lão năm mươi lăm tuổi

Chẳng hay trên đầu đã có mấy sợi tóc bạc

Chỉ biết độ năm nay hai mắt đỏ ngầu...)

(Đêm ba mươi tết)

Ở cái tuổi “năm mười lăm tuổi lẻ” tức là đã già, bao nhiêu “cái xấu” bắt

đầu bộc lộ ra hết, thân thể không còn được khỏe mạnh và chắc chắn như ngày

trẻ, răng đã liêu xiêu “như cãi cọ nhau”, “mắt hoa” nên đọc sách không rõ

nhiều khi phải “cắt nghĩa mò”. Bức chân dung về “một ông lão dở hơi” của

Nguyễn Khuyến được chính ông tự sự cụ thể như sau:

“Ngô niên ngũ thập ngũ niên linh

Xú thái bàn bàn lão tận hình

Xỉ bặc hàm toan như tụ tụng

Nhãn hoa yểm quyển mạn truyền kinh

Tự liên kính phát tam phần bạch...”

(Lão thái)

21

(Tuổi ta đã năm mươi lăm tuổi lẻ

Tất cả mọi cái xấu đều lộ ra lúc già

Răng xiêu tê buốt như cãi cọ nhau

Mắt hoa, gấp sách cắt nghĩa mò

Tự thương mình, mái tóc trong gương đã ba phần bạc trắng...)

(Vẻ già)

Khi miêu tả về diện mạo của chính mình ông trở đi, trở lại những hình

ảnh về hình ảnh của một ông già gần sáu mươi với bộ tóc bạc, mắt mờ, răng

rụng,... cử chỉ, điệu bộ thì lom khom, cơ thể đau yếu bệnh tật. Trong bài Tự

thuật Nguyễn Khuyến tự miêu tả diện mạo xấu xí, bệnh tật mình:

“Nhất bần mạo xấu thân kiêm xấu

Đa bệnh hình si ảnh diện si.”

(Tự thuật - Kỳ nhất)

(Nghèo túng, mặt gầy lại thêm mình võ

Nhiều bệnh hình ngây mà bóng cũng ngây.)

(Tự thuật - Bài một)

Tự sự về bản thân, Nguyễn Khuyến bộc lộ rõ nét bản chất con người

đời thường, giản dị bằng việc miêu tả cả những điều nhỏ nhất trên cơ thể

mình, từ cái răng, sợi tóc hay cả chiếc móng tay. Ông miêu tả hai móng tay

của mình thật sắc và so sánh nó có thế giống “ như con rồng uốn lượn”:

“Ngô niên lục thập dư

Hốt sinh lưỡng chỉ trảo

Long thế tương bàn hoàn

Đại sắc diệc tiên hảo...”

(Chỉ trảo - Kỳ nhất )

(Tuổi ta đã sau mươi có lẻ

Bỗng nảy sinh ra hai móng tay

22

Thế như con rồng uốn lượn

Sắc như đồi mồi đẹp tươi...)

(Móng tay - Bài một)

Không chỉ miêu tả móng tay sắc và có “thế như con rồng uốn lượn”,

trong bài Chỉ trảo - bài II khi nói về tuổi già ông lại tiếp tục miêu tả về độ dài

hai chiếc móng tay “dài hơn năm tấc”, “cong queo, cuộn hẳn lại”:

“Dư kim lão thả cơ

Hốt sinh lưỡng chỉ trảo

Trảo trường ngũ thốn linh

Uyển diên nhược khuất nạo...”

(Chỉ trảo - Kỳ nhị)

(Nay ta đã già lại đói

Bỗng sinh ra hai móng tay

Móng dài hơn năm tấc

Cong queo, cuộn hẳn lại)

(Móng tay - Bài hai)

Nguyễn Khuyến tự khen mình có bộ râu “thật là đẹp”, thích thú với bộ

râu dài “hai ba thước”, “lê thê đến sát đất” của mình ông cất tiếng cười mãn

nguyện, đắc ý:

“...Ông tu diệc thậm giảo

Hạ thùy nhị tam xích

Tham kham khứ địa sảo...”

(Chỉ trảo - Kỳ nhị)

(...Râu ông cũng thật là đẹp

Rủ xuống hai ba thước dài

Lê thê đến sát đất...)

(Móng tay - Bài hai)

23

Có những bài thơ ông còn tự sự về chiếc răng, ông kể về chiếc răng đã

cùng ông gắn bó, “ngon ngọt chung hưởng” răng “được ăn nhưng không có

quyền nhai” thuận phục ông “sáu mươi năm nay”, nhưng theo quy luật tự

nhiên “ta già” thì răng long, không có gì trường tồn mãi mãi:

“Cộng ngã phì cam lục thập niên

Ngã suy nhĩ lạc phận đương nhiên

Tùy lưu thượng hữu y a thái

Bạn thực nguyên vô trớ tước quyền

Phụ tể ký đa hà bổ ngấn...”

(Dao xỉ)

(Cùng ta ngon ngọt chung hưởng sáu mươi năm nay

Ta già thì ngươi rụng, phận đành vậy

Theo miếng uống, ngươi còn có vẻ thuận phục

Được cùng ăn nhưng không có quyền nhai

Cặn sâu quá nhiều, làm sao vá được chân răng?...)

(Răng long)

Vẽ lại chân dung, diện mạo của mình. Ngoài vẽ lại bộ râu và cái răng,

Nguyễn Khuyến hay vẽ lại mái tóc và đôi mắt. Trong bài Hạ nhật ngẫu hành,

ông miêu tả đôi mắt đỏ hồng, đôi mắt của đau yếu bệnh tật - một chân dung

tiều tụy của ông già Tam Nguyên Yên Đổ:

“Bệnh nhỡn phùng nhân đa thác ngộ

Kính đồ cử túc bội gian nan”

(Hạ nhật ngẫu thành)

(Mắt đau nhìn người thường lẫn lộn

Ngõ nhỏ cất bước lại càng khó khăn)

(Ngày hè, ngẫu hứng thành thơ)

24

Đến năm Canh Tý - năm 1900. Khi ở tuổi sáu mươi sáu, trong bài Canh

Tý xuân Nguyễn Khuyến lại một lần đau xót tự sự về cảnh già đáng thương

của mình, ông vẽ lại sự mỏi mệt của tuổi sáu mươi sáu, răng lợi lung lay

không còn chắc chắn, đầu tóc rối mù cũng khác xưa:

“Ngô niên lục thập lục chi niên

Tuế nguyệt xâm tầm diệc khả liên

Sơ khoát xỉ nha như nhị giáp

Bồng tùng mao phát diệc canh phiên...”

(Canh tý xuân)

(Tuổi ta là tuổi sáu mươi sáu

Năm tháng mỏi mòn thật là đáng thương!

Răng lợi khủng khỉnh như hai phe giáp

Đầu tóc bù xù cũng đã đổi thay...)

(Xuân Canh Tý (1900))

Trở về với làng quê Yên Đổ cũng là lúc Nguyễn Khuyến ngẫm về cuộc

đời mình, tuổi già đến khiến ông trở nên cô độc. Và một trong những điều

khiến ông phải trăn trở đó là sự trôi đi nhanh chóng của thời gian, là sự suy

yếu của sức khỏe, là cái già nua, ốm yếu ập đến lúc nào không hay. Mái tóc

rối bù đã xuất hiện những sợi trắng, “răng gần rụng”, má hõm lại, hai mắt

nhìn không còn rõ:

“Tuế văn thiên kinh nhật nguyệt tồ

Lão lai bất giác tính tình cô

Song bồng ban bạch nha tương thoát

Lưỡng nhãn hôn hoa giáp diệc dù

Suy bệnh phùng nhân giai khả yếm...”

(Lão bệnh)

25

(Cuối năm kinh sợ thấy ngày tháng vùn vụt

Tuổi già đến, không hiểu tính tình trở nên cô độc

Hai mái tóc rối như cỏ bồng lốm đốm trắng, răng gần rụng

Hai mắt tối mờ, má cũng lõm

Ốm yếu gặp nhau đều thấy chán ngán...)

(Lão bệnh)

Qua những lời thơ tự thuật, chân dung con người Tam Nguyên Yên Đổ

hiện lên cụ thể, rõ nét. Hình ảnh mái tóc, chiếc răng, cái móng tay được

Nguyễn Khuyến vẽ lên bằng những lời thơ sinh động. Từ đó hiện lên một

chân dung con người già yếu, ốm đau, bệnh tật,...Tuổi già hiện hữu ngay trên

đầu nhưng Nguyễn Khuyến chỉ cảm thấy xót xa, chứ không hề hoảng sợ. Ông

xót xa vì khi tóc đã bạc, răng đã lung lay, ốm đau lại thêm mắt nhập nhèm mà

bản thân vẫn chưa làm được gì. Ông cảm thấy bất lực trước sự hữu hạn của

cuộc đời. Tự thuật về bản thân là cách Nguyễn Khuyến tự ý thức về cuộc đời

mình trước thời cuộc.

2.1.1.2. Tự thuật về phẩm chất, tính cách

Qua những lời thơ chữ Hán phẩm chất, tính cách Nguyễn Khuyến hiện

lên đa màu sắc, nhưng tựu chung lại vẫn là con người thâm trầm đầy sâu sắc

trước thời cuộc.

Trong bài Nhân tặng nhục. Trong bối cảnh nghèo đói, có người đi đám

ma về lấy về cho ông phần thịt. Muốn nhận nhưng trong thâm tâm ông còn

băn khoăn: một bên là cái nghèo không ăn thì bị đói, một bên là cái tôi “ăn

vào thì thành con người tục”, cho dù cuộc sống ở tận cùng của cái nghèo

Nguyễn Khuyến vẫn đề cao tự trọng:

“Bất thực nhân linh cơ

Thực chi linh nhân nhục.

Bất thực linh nhân bì,

Thực chi linh nhân tục.”

(Nhân tặng nhục)

26

(Không ăn thì người bị đói,

Ăn vào thì người bị nhục.

Không ăn thì người bị gầy,

Ăn vào thì thành con người tục.)

(Có người cho thịt)

Tự tách mình ra khỏi vòng danh lợi của cương quyền. Nguyễn Khuyến

tự hào nói về tấm lòng mình - một “tấm lòng son”. Tuổi già đến, tóc của thi

nhân bạc đi nhiều phần khiến lòng ông buồn tủi, nhưng dù có già, có yếu thì

tấm lòng son sắt, phẩm chất thanh cao vẫn luôn thường trực trong ông, tự hào

nhà thơ kể:

“Tự liên kính phát tam phần bạch,

Thăng hữu đan tâm nhất điểm linh.”

(Lão thái)

(Ba phần tóc bạc càng thêm tủi,

Một tấm lòng son vẫn có thừa.)

(Vẻ già)

Phẩm chất cao quý luôn tồn tại thường trực trong ông. Dù có làm quan

thanh liêm thì Nguyễn Khuyến cho rằng ăn lương của Tây vẫn là dơ bẩn.

Trước những biến cố của lịch sử, ông chọn cho mình một con đường, một sự

lựa chọn dứt khoát - giống với Khuất Nguyên và Đào Tiềm: từ quan, về làng

quê ẩn dật. Khuất Nguyên yêu quất, còn Đào Tiềm thì yêu cúc. Nguyễn

Khuyến muốn có phẩm cách như cả hai người. Phẩm chất của Nguyễn

Khuyến được thể hiện ở chiếc “lược đồi mồi” mà ông dùng hai mươi năm

nay. Chiếc lược bền bỉ và miệt mài phục vụ người đời cho đến cùn những

chiếc răng cuối cùng. Nó giống như phẩm cách cao quý của Nguyễn Khuyến:

“Hoàng trần tảo đãng quy tàn xỉ,

Bạch phát bồng tùng độc ẩn ưu.

27

Kỳ thử trinh tâm kham cộng thưởng,

Hà duy văn thái tự minh châu.”

(Đại mạo sơ)

(Bụi vàng quang quẻ răng hồ nhụt,

Tóc bạc lồng bồng dạ những âu.

Được tấm lòng bền ai chẳng thích?

Lựa là văn vẻ tựa minh châu!)

(Lược đồi mồi)

Vốn mang trong mình cốt cách thanh cao Nguyễn Khuyến không màng

đến những phù phiếm, xa hoa mà người đời theo đuổi, nhà thơ chỉ mong được

làm kẻ nhàn hạ, sống một đời bình dị, yên ổn, an nhàn, nhàn tâm và nhàn thân

“theo người xưa truyền lại”, Nguyễn Khuyến tự sự:

“Thế lợi ư nhân vô sở mộ

Khách nhàn độc ngã đắc nhi truyền.”

(Nhàn vịnh)

(Không ưa gì những điều lợi mà người đời theo đuổi

Riêng ta được làm kẻ nhàn hạ theo người xưa truyền lại.)

(Vịnh nhàn)

Bản thân là người không màng danh lợi nên Nguyễn Khuyến cũng

muốn con của mình là người như thế. Ông khuyên con không ra làm quan vì

nghèo mà phải vì cuộc sống của người dân, dù nghèo nhưng làm quan cũng

đừng tham lợi, phải nới tay với dân, đừng mong ước làm chức quan to. Phẩm

chất của một ông quan thanh liêm được Nguyễn Khuyến bộc lộ rõ qua những

lời thơ tự sự khi khuyên con:

“...Danh cư quá mãn ưu lăng tiết,

Sĩ hữu nhân bần thả bão quan.

Đương nhật sự tùy đương nhật ứng,

28

Nhất phần tứ thị nhất phần khoan.

Hành tai liêu tá xuân phong tặng,

Đương nhĩ hư hòa thích táo đan.”

(Xuân nhật thị tử Hoan)

(Danh quá lẫy lừng e lấn át mất khí tiết

Vì nghèo nàn mà phải ra làm quan thì hãy làm chức giữ cửa

Việc ngày nào thì tùy ngày ấy mà ứng phó

Khoan dung một phần tức là dân được ơn một phần

Con đi thôi! Cha hãy mượn gió xuân để làm quà

Coi như một bài thuốc “thôi hơi xòa, xua hơi nóng” tặng con.)

(Ngày xuân khuyên con là Hoan)

Nguyễn Khuyến là một vị quan có cốt cách vững bền trong những cám

dỗ của xã hội, dù cất mình ra khỏi dòng nước đục nhưng trong ông vẫn nung

nấu một tấm lòng yêu nước không nguôi, càng yêu nước hơn khi chứng kiến

cảnh nước mất:

“Bất đáo Kiếm hồ tam thập niên

Đương thời cảnh sắc dĩ mang nhiên

...

Khả liên ngũ bách văn chương địa

Thượng hữu cô sơn thạch nhất quyền.”

(Hoàn Kiếm hồ)

(Đã ba mươi năm nay không đến hồ Hoàn Kiếm

Cảnh sắc lúc bấy giờ đến nay đã mơ hồ

...

Đáng thương đất văn vật từ năm trăm năm trước

Nay chỉ còn một hòn núi đá nhỏ trơ trọi!)

(Hồ Hoàn Kiếm)

29

Như Vũ Thanh đã nói “Nguyễn Khuyến không đủ khả năng làm một

con thiêu thân lao mình vào lửa, thì ông làm tiếng chuông cảnh tỉnh con

người” [15, tr.277]. Nguyễn Khuyến là một người luôn đề cao danh tiết.

Trước ngọn đèn dầu, ông ngẫm về con thiêu thân, ngẫm về phẩm chất của nó

như một biểu trưng hãnh diện là: “mày còn biết tìm đến nơi sáng nhất để

chết”. Nhà thơ cũng chính như vậy, bản thân là người có bản lĩnh và cốt cách

vững bền, Nguyễn Khuyến không hề bị cám dỗ bởi danh vọng, tiền tài trước

mắt:

“Tố phú tri năng do vị mẫn

Đương tiền danh lợi bất tương quan”

(Xuân dạ liên nga)

(Trời phú cho mày lương tri, lương năng chưa đến nỗi mất,

Cho nên danh lợi ngay trước mắt cũng không vướng víu gì.)

(Đêm xuân thương con thiêu thân)

Thân làm một ông quan, Nguyễn Khuyến được người ta cáng bằng

võng. Nhưng với tình thương bao la đối với kiếp người gian khổ, nằm trên

võng mà ông thấy thương cho tình cảnh vất vả, nhọc nhằn của anh phu, lao

động cả ngày từ sáng đến tối “chẳng nghỉ vai”:

“Mộ khứ triêu hoàn vị tức kiên,

Võng phu tình huống tuyệt kham liên.”

(Trạm phu)

(Sớm đến chiều đi chẳng nghỉ vai,

Tình anh phu cáng thật bi ai.)

(Anh phu trạm)

Một người sống trọn đời để bảo vệ trọn vẹn phẩm chất của mình,

Nguyễn Khuyến đã thốt lên trong thơ:

“Đời loạn lạc đi về như hạc độc,

Tuổi già hình bóng tựa mây côi.”

30

Sự cô đơn của tuổi già nói đến chỉ như ý phụ, cái chính mà cụ Tam

Nguyên muốn đề cập đến là chí khí tự rèn giũa của cụ đó là: giữ trọn được

phẩm tiết qua bao thăng trầm.

Trong những bài thơ chữ Hán viết về đề tài “phỗng đá” đều thấy hình

ảnh tự trào của Nguyễn Khuyến ở đó. Nhà thơ viết về hai người khác nhau

nhưng về ý chỉ là một. Trong ngoại cảnh đầy cám dỗ, con người này vẫn dặn

lòng giữ trọn phẩm cách của mình:

“Kiên trinh tố lý tâm nan chuyển,

Hôi thán dư sinh, khí thượng hùng”

(Vịnh Thạch lão)

(Bản chất kiên trinh nên tấm lòng khó bị lay chuyển

Sống thừa ngày tàn nhưng khí phách vẫn hào hùng)

(Vịnh lão đá)

Bản lĩnh của Nguyễn Khuyến của ông cũng không hề nhỏ, ông tự nhận

mình là bông hoa thủy tiên màu sắc và hương thơm, nghìn năm năm người

đời vẫn sẽ thấy một con người có bản lĩnh trước sau đồng nhất:

“Phương xú phân minh thiên tải hậu

Cách tường đào lý mạc tương sai!”

(Thủy tiên)

(Thơm hay thối dù nghìn năm sau cũng vẫn rõ ràng

Đào mận ở bên tường đừng có ghen tức nhau chi.)

(Thủy tiên)

Nguyễn Khuyến là người mạnh mẽ trước thử thách, cho nên sau bao

khó khăn thì cái “ta” của ông vẫn sáng tỏ. Và việc gìn giữ được cái “ta” là

việc ông luôn đau đáu:

“Quy lai ngô hạnh đắc vi ngô”

(Mộ xuân cảm thán)

31

(Nay trở về may mắn ta vẫn còn là ta)

(Lời than lúc cuối mùa xuân)

Tóm lại, qua những vần thơ tự thuật về phẩm chất tính cách, Nguyễn

Khuyến đã khắc họa phẩm chất, tính cách mình trong theo những hoàn cảnh,

giai đoạn khác nhau. Qua đó ta thấy được tài năng và cốt cách đầy kiêu hãnh

của một nhà thơ thời kì trung đại. Một con người cốt cách thanh cao, không

màng lợi trước mắt, trước vì dân sau cũng vì dân.

2.1.2. Tự thuật về hoàn cảnh và đời sống sinh hoạt

Trong thời kì văn học trung đại thì Nguyễn Khuyến là một trong những

nhà Nho phải sống trong thời kì xã hội có nhiều biến cố, thăng trầm. Khi thực

dân Pháp dùng tàu chiến đánh vào cử biển Đà Nẵng thì cũng là lúc Nguyễn

Khuyến đến tuổi “tấp tểnh” lều chõng đi thi. Ông đỗ đầu kì thi Hương thì

cũng là lúc chúng đánh chiếm xong ba tỉnh miền Đông Nam Bộ. Thời điểm

ông đỗ đầu ba kì nữa thì chúng đang chuẩn bị đánh ra Hà Nội. Sau khi đỗ đạt

Nguyễn Khuyễn ra làm quan dưới triều Nguyễn, nhưng nhận thấy cuộc sống

quan trường rối ren không thích hợp với mình nên ông cáo quan về làng quê

cha ở ẩn. Tại thời điểm đó, thực dân Pháp đã tiếp tục đánh lan ra các tỉnh Bắc

Kỳ. Bước đầu đã thấy con đường làm quan của Nguyễn Khuyến nhiều trắc

trở.

Nguyễn Khuyến xuất thân từ một gia đình nhà nho nghèo, hai bên nội

ngoại đều có truyền thống khoa bảng. Thời Lê trung hưng, cụ tổ bảy đời

Nguyễn Khuyến làm quan nhà Mạc, được phong đến Quang lượng hầu. Cụ

bốn đời Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Mại, đỗ tiến sĩ, làm quan đến đời

Hiến sát sứ Thanh Hóa. Ông thân sinh nhà thơ là Nguyễn Liễn, vẫn theo đòi

Nho học, đỗ ba khoa tú tài, chuyên nghề dạy học. Thuở nhỏ, chắc có lẽ anh

khóa Thắng học cha. Năm 1852, anh lấy vợ và đi thi hương lần thứ nhất cùng

32

với cha, song không đỗ. Nguyễn Khuyến thi Hương rớt liên tiếp bốn khoa

(1852, 1855, 1858, 1861), đến nỗi phải "nghĩ":

"Nghĩ tôi lại gớm cái mình tôi,

Tuổi đã ba mươi kém một thôi

...

Bốn khoa hương thí không đâu cả,

Một mảnh vườn hoang bán sạch rồi."

(Thu tứ)

Ai cũng biết Nguyễn Khuyến sống trong một thời đại đầy rối ren, lại

thêm nhà nghèo. Nên có lúc anh khóa Thắng chán nản con đường thi cử.

Những lần “tấp tểnh” đi thi nhà thơ đã không ngại ngần vẽ lại trong thơ

những hình ảnh nghèo khó:

“Quản chi công nợ có là bao

Nay đã nên to đến thế nào

Lãi mẹ lãi con sinh đẻ mãi

Chục năm, chục bảy tính nhiều sao?”

(Than nợ)

Dưới triều Nguyễn có hai mươi người đỗ Tam nguyên (đỗ đầu cả ba kỳ

thi) thì trong đó có Nguyễn Khuyến. Nhưng con đường thi cử của ông lận đận

hơn những người khác. Miệt mài gần ba mươi năm đèn sách, cùng với chín

khóa lều chõng, trong khi mỗi khóa cách nhau ba năm. Với thành quả mà

Nguyễn Khuyến đạt được, đó là sự cố gắng phi thường của một Tam Nguyên.

Nguyễn Khuyến là con cháu mấy đời nhà nho, được hun đúc nuôi dạy

trong tư tưởng tôn quân, tuy nhiên Nguyễn Khuyến hiểu và phân biệt phải là

trung quân ái quốc chân chính. Nên ông tiếp tục kháng Pháp, trong Trị mệnh

Nguyễn Khuyến có nói với con như sau:

“Bình nhật vô thốn công

33

Phủ ngưỡng dĩ tàm phụ”

(Trị mệnh)

(Thuở sinh thời, ta chẳng có chút công gì

Cúi nhìn đất ngẩng nhìn trời, đã lấy làm thẹn)

(Lời dặn con lúc còn tỉnh)

Vua được nói đến ở đây là thống nhất với đất nước, với Tổ quốc, vua

trong lí tưởng ; chứ không phải ông vua Đồng Khánh làm tay sai cho giặc lúc

đó. Ông tự hào với cái học vị Tam nguyên do vua Tự Đức ban cho, tự hào kể

lại:

“Ta tai ngã học thiển

Khôi nhiên chiếm long thủ.”

(Trị mệnh)

(Than ôi! Sức học ta nông cạn

Lại nghiễm nhiên đứng đầu bảng rồng)

(Lời dặn con lúc còn tỉnh)

Và dặn dò con một cách tự hào:

“Kỳ biển đạo tiền cữu”

(Trị mệnh)

(Cờ biển rước đi trước quan tài)

(Lời dặn con lúc còn tỉnh)

Giữa những tình thế rối ren trong nội bộ triều đình nhà Nguyễn - Tự

Đức chết, triều đình lộn xộn cùng với loạn lạc của xã hội và đã làm một chức

quan đã trải qua bao gió sương khiến bạc nửa đầu, nay để giữ phẩm chất

thanh cao không vấy bẩn, Nguyễn Khuyến lấy cơ ốm đau, xin cáo quan về

quê. Từ bỏ một chức quan hay từ bỏ cuộc sống xa hoa chốn quan trường đối

với Nguyễn Khuyến là việc nhẹ nhàng. Nhưng trong tâm can ông cũng không

hoàn toàn thấy thanh thản. Trong ông vẫn còn chút “tủi” vì bản thân ốm đau,

34

mắt mờ, kinh hãi khi đất nước thì loạn ly và cả tâm lí phải chia xa bạn bè.

Cũng “chưa chắc” khi cáo quan về ẩn dật, có được thú nhàn không? Nguyễn

Khuyến đưa ra một quyết định dứt khoát là chọn con đường rút lui, bởi ông đã

có những cân nhắc. Trước tiên là vì tình thế, sau là do sức lực và là vì bản

thân đối với gia đình, ông bày tỏ:

“Mặc thụ đồng chương nhị niên,

Thử thân nhật vọng thánh triều liên.

...

Mông lung bả trản tòng kim sự,

Chỉ khủng di ô đáo giản biên!”

(Cảm tác)

(Dây thao đen, ấn đồng đã mười hai năm nay

Hằng ngày, thân này mong được thành triều thương tới

...

Từ nay công việc của ta là đánh chén say tít

Chỉ e lại bôi nhọ cho sử sách)

(Cảm tác)

Từng giữ một chức quan trong triều, trải qua nhiều sương gió, cuộc

sống có lúc gập ghềnh, nay tóc đã “bạc nửa đầu” Nguyễn Khuyến cáo quan-

về “hưu non” giữa tuổi 49 tại làng quê cha, ông kể:

“Lịch duyệt phong sương bán bạch đầu

Nhất quan hạnh đắc lão nhi hưu

Thế đồ kim hựu đa kha khảm

Lợi cục nan năng quả oán vưu”

(Tiểu thán)

(Từng trải gió sương đã bạc nửa đầu

Làm một chức quan, may được cáo lão về nghỉ

35

Trên đường đời nay gặp nhiều bước gập ghềnh

Trong cuộc lợi, khó giữ được ít lời oán trách.)

(Vài lời than)

Việc Nguyễn Khuyến trở về với vườn cũ vừa có niềm vui khi được trở

về với chốn vườn cũ quê hương, nhưng chất chứa trong niềm hân hoan đó

cũng phảng phất nỗi niềm về sự buồn nản đối với thời cuộc đất nước. Trong

bài “Bùi viên cựu trạch ca” Nguyễn Khuyến có tâm sự mở đầu bằng bốn câu

thơ đầy tâm tình:

“Bùi viên ngô cựu trạch,

Tứ thập niên kim nhật phú quý lai.

Tùng tùng, cúc cúc, mai mai,

Phiêu nhiên hữu khâu hác lâm tuyền chi dật thú.”

(Bùi viên cựu trạch ca)

(Vườn Bùi, nơi nhà cũ của ta,

Đã bốn mươi năm ngày nay mới lại trở về

Này tùng, này cúc, này mai

Phơi phới có cái thú say mê núi rừng khe suối.)

(Bài ca nhà cũ ở xứ vườn Bùi)

Khi Nguyễn Khuyến vẫn làm quan - trước khi về ở ẩn tại quê nhà thì

dù nhà nghèo nhưng với ý chí quyết tâm vững bền, vượt lên hoàn cảnh

Nguyễn Khuyến vẫn rạo rực những ước mơ, nuôi chí hăm hở làm việc lớn:

“Siêu nhiên tự hữu ngang tiêu chí

Đường nội nguyên phi yến tước tri”

(Vân ngoại bằng đoàn)

(Vượt lên tất cả, tự mình có chí ngang trời

Đâu phải bọn én sẻ trong nhà biết được)

(Chim bằng vượt ngoài mây)

36

Và tuy rằng, dòng họ nhà Nguyễn Khuyến đều là những người tài hoa,

là gia đình có dòng dõi Nho học, ít nhất là năm đời. Nhưng xuất thân trong

gia đình nghèo khó nên từ nhỏ ông đã gắn bó với thôn quê bình dị, dân dã,

gần gũi với con người và cuộc sống thôn quê. Vì vậy khi cáo quan về quê,

Nguyễn Khuyến cũng nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống nơi thôn quê bình

dị:

“Hậu môn đồng hỉ ông quy hĩ!

Trượng tiết nhân truyền tử thị da?”

(Hoàn gia tác)

(Trẻ nhỏ đợi cửa mừng: ông đã về đó à?

Người chống gậy truyền nhau: cụ đấy ư?)

(Về nhà, làm thơ)

Cho đến năm, sau năm sau khi cáo lão về nghỉ Nguyễn Khuyến dường

như rất yên tâm, thích thú với thú ẩn dật. Cuộc sống cuộc sống thôn quê tuy

thiếu thốn nhưng nhà thơ cảm thấy nhàn thân và nhàn tâm, điều mà chốn quan

trường không có. Trong bài thơ Hạ nhật ngẫu thành - bài II Nguyễn Khuyến

có đắc ý nói về thú ẩn dật như sau:

“Dư quy ngũ lục tải

Sở cư thất gian đường

...

Mệnh nhi thủ thư độc

Du du tứ Toại Hoàng)

(Hạ nhật ngẫu thành)

(Ta về nghỉ đã năm sáu năm

Nơi ở có ngôi nhà bảy gian

...

Sai con lấy sách ra đọc

Lòng luôn nghĩ đến Toại Nhân, Hoàng Đế.)

(Ngày hè, ngẫu hứng thành thơ)

37

Không cần không gian rộng rãi, mênh mông, bởi chỉ cần khu vườn nhỏ

cũng làm nhà nho biết bao thú vui! Nhà thơ tả lại những phong cảnh nơi chốn

điền viên, thôn quê dân dã. Nơi nhà thơ sống có ngôi nhà bảy gian, phía tây

có ao nước trong, phía đông có bờ tre rậm, hàng ngày với thú vui tao nhã:

nhìn cá bơi lội, mở cửa đón khí tiết buổi sáng mát mẻ, chống gậy đi lại, tựa

ghế ngồi theo ý mình. Nhà có gạo mới, rau đầy vườn thỉnh thoảng lại nhấp

thêm vài chén rượu, đọc sách nghĩ về Hoàng Đế. Cuộc sống gì thanh nhàn

hơn như vậy?

Đối với thôn quê, tình cảm xóm làng hết sức chân tình! Ngày ông lên

lão cũng là ngày bà con trong xóm làng, những người nghèo khó cùng tụ họp:

“Anh em hàng xóm xin mời cả,

Xôi bánh, trâu heo cũng gọi là,

Chú Đáo bên làng lên với tớ,

Ông từ ngõ chợ lại cùng ta...”

(Lên lão)

Nhưng có khi nhà thơ lại ngậm ngùi khi nói đến nỗi đau của nhà nho

trong xã hội đương thời - đó là cái nghèo. Trong đời sống sinh hoạt cá nhân, ít

nhiều đã có những nhà nho nói về cái nghèo. Cao Bá Quát từng nói về cuộc

sống chật vật của mình qua nhừng dòng tâm sự về chỗ ở của mình như sau:

ông ở một nơi hẻo lánh, ngõ vào nhà chật hẹp, nhà thì lụp xụp, không có rào

ngăn. Ông còn kể về bữa ăn không có cơm ăn, khiến ruột cồn cào như kiến

đốt:

“Chiều nay không có cơm,

Ruột quắt cồn cào như kiến bò.”

(Mộ phạn bất cấp hý bút kí sự-

Bữa chiều không cơm viết đùa ghi việc)

38

Hay như Tú Xương - ông cũng thấm thía cái nghèo đầy tủi hờn, chua

chát. Rất nhiều lần trong thơ ông đã trở đi trở lại những lần “than nghèo”.

Cuộc sống của Tú Xương cũng nợ nần chồng chất, cơm ăn cả nhà phải chạy

từng bữa:

“Van nợ lắm khi trào nước mắt

Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi.”

(Than nghèo)

Đau xót thay! Cái nghèo khiến vợ Tú Xương phải “lăm le đi ở vú”,

“con tấp tểnh đi bồi”, đến ngôi nhà xiêu cũng phải bán đi. Tú Xương ngậm

ngùi xót xa than cảnh nghèo khó, khốn cùng:

“Vợ lăm le ở vú

Con tấp tểnh đi bồi

...

Khách hỏi nhà ông đến

Nhà ông đã bán rồi.”

(Than cùng)

Còn đối với Nguyễn Khuyến, trong những năm tháng về với vườn cũ,

ông cũng không ít lần ông nói về cái nghèo của bản thân. Cuộc đời loạn lạc,

con người cùng quẫn, năm thì mất mùa khiến nghèo càng thêm nghèo. Nhà

thơ kể lại Đào Tấn, Đào Tiềm từ quan về, nhà nghèo túng có lần phải làm thơ

đưa bạn để xin ăn. Thời đó, nhà nho dược xếp vào hạng thứ chín, còn hạng

chót là ăn mày:

“Ngã sinh chi hậu thán phùng ly

Thế loạn nhân cùng tuế hựu ky

Tức tức dạ trùng như tự tố

Ngao ngao sương nhạn dục hà chi

Hạnh nhân nho đẳng vi tiên cái.”

(Hung niên)

39

(Than ôi! Ta sinh ra gặp thời buổi nhiều lo lắng

Đời loạn, người cùng, năm lại mất mùa

Ban đêm dế kêu rền rĩ như tự nói lên những sự ấm ức

Tiếng nhạn kêu sương như muốn bay đi ngả nào?

Cũng may nhà nho còn được xếp hạng ăn mày)

(Năm mất mùa)

Ở tuổi năm mươi Nguyễn Khuyến sống trong cảnh nghèo, cơ thể già

yếu, ốm đau lại thêm tóc đã bạc đi nhiều phần. Cái nghèo đã làm cuộc sống

khó khăn lại thêm diện mạo xác xơ, ông kể lại:

“Ngũ thấp suy niên bạch phát tân

Bất kham ưu bệnh thả ưu bần.”

(Bài muộn - Kỳ nhị)

(Tuổi năm mươi, đã già yếu, tóc bắt đầu điểm bạc

Chỉ những lo ốm lại lo nghèo, khó lòng chịu nổi)

(Giải buồn - Bài hai)

Ta thấy được cảnh sống khó khăn của nhà thơ qua những vần thơ tự sự.

Sau nhiều năm làm quan trong triều, nay cáo quan về “hưu non” ở tuổi bốn

mươi chín, trở về chốn đồng xanh ở ẩn trong bài Tự thuật I Nguyễn Khuyến

xót xa, ngậm ngùi kể về cảnh nghèo của mình, lại thêm “mặt gầy” với “thân

mình gầy”, “con người nhiều bệnh” ưu tư, sầu muộn vì không thể làm gì được

nữa:

“Lục dã quy lai tứ ngũ kỳ

Bà bà bạch phát phục hà vi

Nhất bần mạo sấu kiêm thân sấu

Đa bệnh hình si ảnh diệc si)

(Tự thuật - Kỳ nhất)

(Trở về đồng xanh đã bốn năm năm rồi

Tóc trắng phơ phơ còn làm được gì nữa?

40

Trong cảnh nghèo, mặt gầy võ lại thêm thân mình gầy võ

Con người nhiều bệnh, hình ngây ngô bóng cũng ngây ngô)

(Tự thuật - Bài một)

Bi kịch của Nguyễn Khuyến không chỉ ở tinh thần nữa. Mà còn là cái

nghèo, cái nghèo túng trong cuộc sống sinh hoạt không chỉ đi liền với bệnh,

với thân mà còn đi liền với tâm. Đó là nỗi đau khổ vẫn hiện hữu sừng sững,

nỗi đau như dành riêng cho ông chứ không phải đối tượng miêu tả nào khác.

Cuộc sống hàng ngày nghèo khó, đến miếng cơm manh áo cũng khó khăn:

“Phần giao thặng chú tằng xan vị?”

(Hung niên - Kỳ nhất )

(Cháo thừa ở bãi tha ma đã từng ăn chưa?)

(Năm mất mùa - Bài một)

Vì nghèo túng nên ông phải mang sáng tác của mình đi bán. Mỗi cuốn

nhiều chữ hay ít chữ giá cả đều hợp lí “từ một đồng đến mười đồng” nhưng

khách đến mua rẻ “chỉ đưa có một trăm miếng cau khô”. Khi khách về

Nguyễn Khuyến than thở câu chuyện trớ trêu khi đi bán văn ngày tết:

“Sinh thục văn tự cách

Tân xuân hựu phát khách

Nhất nguyên chí thập nguyên

Đa thiểu giá bình địch

Hữu khách lai mãi chi

Chỉ dĩ can lang bách...”

(Đối trướng phát khách)

(Một lối văn tự dở sống dở chín

Mỗi lần đến năm mới lại đem ra bán

Từ một đồng đến mươi đồng

Nhiều ít giá phải chăng

41

Có một người đến mua

Chỉ đưa có một trăm miếng cau khô...)

(Bán hàng đối trướng)

Nguyễn Khuyến đã dùng ngòi bút miêu tả sắc nét cho độc giả thấy cảnh

nghèo của nhà nho trong buổi nửa tây nửa ta một cách thấm thía. Ông kể lại

câu chuyện sau một đám ma, khi mọi người đều đã no nê, có người vì thương

ông đói bụng nên đem cho ông thịt, bồi hồi không nói nên lời, ông cầm lấy

thịt rồi ôm mặt khóc:

“Phần gian nhân yếm túc,

Quy lai tặng dư nhục.

Tặng dư phi úy dư,

Liên dư độc khoáng phúc.

Bồi hồi vi sổ từ,

Trì chi yểm diện khốc....”

(Nhân tặng nhục)

(Trong đám tế mộ, ai nấy đều no nê

Có người khi về mang thịt tặng ta

Tặng ta không phải vì sợ ta

Mà là thương ta bụng rỗng

Ngậm ngùi, ta khó nói nên lời

Cầm lấy miếng thịt che mặt mà khóc)

(Có người cho thịt)

Đau đớn thay! Đó là sự giằng xé trong nội tâm của Nguyễn Khuyến

một bên là khí chất nhà nho và một bên là hiện thực nghèo khó với nhu cầu

không thể chối bỏ.

Việc Nguyễn Khuyến từ bỏ vị trí nơi chốn quan trường để trở về quê

sống với tư cách một người dân bình thường đã đem đến thơ ông màu sắc mới

42

mẻ. Trong buổi ông đến thăm căn nhà lá mới dựng, khung cảnh thật đầm ấm,

vui tươi với hình ảnh đứa cháu nội “sán ông”, rồi cả ông hàng xóm biết rằng

có khách đến “vượt cửa sổ sang”, ông miêu tả:

“Đồng tôn luyến tổ đương môn lập

Lân tẩu văn tân việt dũ lai”

(Hạ nhật thư hương sinh Nguyễn trang)

(Đứa cháu nội sán ông, đứng ngay giữa cửa

Ông hàng xóm nghe có khách vượt cửa sổ sang)

(Ngày hè đề nhà hương sinh họ Nguyễn)

Bức tranh thôn quê hiện lên sống động từ không khí, sắc màu, âm thanh

của cuộc sống văn hóa độc đáo ở nông thôn. Những hình ảnh về cuộc sống

nơi thôn dã được ông miêu tả chi tiết, chính xác đến lạ lùng:

“Tứ nguyệt sơ hồi thử khí nùng

Nhất thanh đề điểu lục âm trung

Gia nhân sái cốc tranh đào vũ

Phụ nữ đăng tàm nghĩ hộ phong

Nguyên thấp tham thiên quy diệc vãn

Vân âm phủ nhật ảnh do hồng”

(Hạ nhật vãn điếu)

(Mới đầu tháng tư khí trời đã nóng nực

Một tiếng chim hót trong lùm cây xanh

Người nhà phơi lúa tranh nhau chạy mưa

Đàn bà nuôi tằm tìm cách chắn gió

Ruộng lầy người đi làm tham buổi về muộn

Mây đen che mặt trời, vẫn còn rạng ánh hồng)

(Ngắm chiều hè)

43

Với tư thế bình dân, sống lâu với thôn thôn và hết mình với cuộc sống

nông thôn nên ông phát hiện ra nhiều điều đặc sắc của cảnh thú. Từ phong

cảnh đồng ruộng đến những con người chân phương, rồi cuộc sống tình nghĩa

nơi xóm làng đều được ông kể lại sinh động, chân thật. Ông nói đến cảnh

sáng sớm nghe bọn trẻ con đọc chữ, chiều đến lũ trẻ lại vắt vẻo ngồi trên lưng

trâu thổi sáo lùa trâu về. Những con chó sủa khách lạ cũng được ông nói đến,

rồi con trâu say nắng phì phò thở dưới gốc cây. Ông nói đến mùa thu và cả

những diễn biến thiên nhiên tuyệt vời của mùa thu và cả những mùa khác

nữa!...Nguyễn Khuyến hòa mình vào cuộc sống đó, như hóa thân vào mọi thứ

ở nông thôn. Trong thơ xưa chưa mấy ai nói được những điều bình dị mà đẹp

đẽ, đầm ấm của nông thôn sâu sắc như Nguyễn Khuyến.

Trong thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến, từ khi còn làm quan thì âm điệu

chủ yếu trong thơ ông là buồn, thấm đẫm tâm trạng cô đơn. Khi còn đang

rong ruổi trên con đường sự nghiệp, trong những đêm thu ông mang tâm trạng

cô đơn, “một mình” nơi đất khách:

“Sơn hà liêu lạc tứ vô thanh

Độc tọa thư đường khán nguyệt minh.

Hà xứ thu phong xuy nhất diệp,

Dẫn lai vô hạn cố viên tình.”

(Thu dạ hữu cảm)

(Bốn mặt non sông lặng ngắt

Một mình ngồi nơi nhà học ngắm trăng sáng

Gió thu thổi một chiếc là từ đâu đến?

Khêu gợi lên biết bao mối tình nhớ vườn xưa.)

(Mối cảm đêm thu)

Tâm trạng này đặc biệt trở nên rõ nét khi ông từ quan về. Tựu chung lại

thì càng những tác phẩm được sáng tác vào những năm cuối đời thì âm điệu

44

buồn ấy càng trở nên da diết, khắc khoải không nguôi. Nguyễn Khuyến một

đi dạo, một mình ngắm trăng, ngắm hoa rồi một mình than thở, một mình

uống rượu và cũng một mình tự tỉnh, tự say... Ở nơi đất khách ông cô đơn

“một mình”. Nhưng khi ở chính ngay ngôi chùa quen thuộc của quê hương,

nỗi cô đơn cũng bao trùm. Trong bài Thanh Giang tự tỷ thử, Nguyễn Khuyến

có bộc bạch:

“Vị biệt sắc không giới,

Đãn cầu nhân thế liên.

Hà xứ tiểu phong dẫn,

Ngạch thủ chuyên sàng miên.

Nhất chung khấu tàn mộng,

Quy lai minh nguyệt thiên.”

(Thanh Giang tự tỷ thử)

(Không- sắc chửa phân biệt

Hãy cầu thương đến thân

Từ đâu, cơn gió nhẹ

Bục gạch, khách ngơi nằm

Chuông bỗng kinh tàn mộng

Trở về, trời trăng ngần)

(Tránh nắng ở chùa thanh giang)

Tóm lại, bằng những lời thơ thấm đấm chất miêu tả, tự sự, Nguyễn

Khuyến đã tái hiện lại cảnh đời thực của thi nhân qua bức tranh ngôn từ sống

động mà chân thực. Đó là cuộc đời của một nhà nho tài hoa nhưng sống trong

thời kì loạn lạc nên trải qua nhiều sóng gió, thăng trầm: lận đận thi cử, cuộc

sống nghèo khó, tuổi già đau yếu bi thương. Qua những vẫn thơ giàu tính tự

sự, ta thấy Nguyễn Khuyến là người thành thực trong thơ ca và thành thực với

chính mình. Thơ ca mang màu sắc tự sự sẽ góp phần thể hiện rõ nét mối quan

45

hệ giữa thi nhân với thời đại xã hội mà ông đang sống. Nhưng cũng chính

cuộc sống nhiều thăng trầm sẽ giúp cho độc giả hiểu thêm về nhân cách cao

đẹp của thi nhân. Hoàn cảnh, đời sống sinh hoạt đó cũng chính là nền tảng

cho việc hình thành tài năng và thúc đẩy bản lĩnh sác tác văn chương của

Nguyễn Khuyến.

2.2. Tự sự về hiện thực xã hội

2.2.1. Tự sự về bộ mặt xấu xa của xã hội thực dân nửa phong kiến

Tiến hành khảo sát tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến, chúng tôi

khảo sát được trong tổng số sáng tác chữ Hán của ông có 14 bài thơ phê phán

hiện thực xã hội chưa kể câu đối và các sáng tác bằng chữ Nôm. Với số liệu

này là cơ sở để chúng tôi nhận thấy được phần nào ý thức, tư tưởng nghệ

thuật thông qua cái nhìn trào lộng của ông.

Nhà nước thiết lập chính quyền mới, kéo theo kinh tế hàng hóa phát

triển. Trong mắt mọi người họ cho Nguyễn Khuyến là ông quan hay chữ.

Nhiều người không ngại ngần nhờ ông viết lời ca tụng những người cộng tác

với giặc. Hiển nhiên chữ của ông cũng trở thành thứ hàng hóa đem ra mua

bán đắt rẻ. Ông ví chúng như đàn muỗi đang quấy rối mình:

“Ngã túy phương cầu thụy

Tụ văn hô ngã khởi

Cử phiến khu phục lai

Thích nhập nhân nhĩ

...

Nhĩ ngã bất tương can

Tương ách hồ nãi nhĩ.”

(Văn)

(Ta say đương buồn ngủ

Lũ muỗi gọi ta dậy

46

Ta giơ quạt xua đi, chúng lại đến

Cứ nhoi nhói vào tai người ta

...

Mày với ta chẳng liên can gì với nhau

Sao mày bắt chẹt ta như vậy?)

(Muỗi)

Chính quyền được lập lại thì chính sách của nhà nước cũng siết chặt

hơn. Ếch kêu thì không cấm được nhưng nhân dân vẫn chịu nhiều trói buộc.

Không cấm người uống rượu nhưng thuế thân, thuế ruộng,... thì đè nén nặng

nề. Chứng kiến điều đó, Nguyễn Khuyến mỉa mai:

“Pháp mật bất văn oa cổ cấm,

Phú phiền do hạnh túy hương khoan.”

(Ức gia nhi)

(Pháp luật tuy nghiêm mật, vẫn chưa nghe nói cấm trống ếch,

Thuế nhiều thứ, may còn khoan cho khách làng say.)

(Nhớ con)

Đấy là chính quyền nhà nước. Còn những ông quan to nhất thời đó

cũng là những tên trùm tay sai cho giặc pháp, không biểu lộ rõ ra ngoài nhưng

đối với nhân dân chúng cũng tàn bạo tột cùng, nhà thơ sâu sắc kể:

“Bất lộ trảo nha dữ giác độc,

Giảo tước nhân nhục cam như di!”

(Phản chiêu hồn)

(Không lộ vuốt nanh cùng nọc độc,

Mà xé thịt người nhai ngọt xớt!)

Bọn quan nhỏ hơn trong triều đình cũng vậy, trong xã hội đồi bại, bọn

chúng còn phải giả nhân, giả nghĩa để tranh giành nhau vươn lên chức quan to

hơn. Tự sự kết hợp với trào lộng, Nguyễn Khuyến kể:

47

“Quốc vận nhược vi gia vận ách,

Đại nhân ứng tác thí nhân hô.”

(Hung niên - Kỳ ngũ)

(Ví phỏng vận nước cũng tai ách như vận nhà,

Thì những hạng “ông lớn” đều đáng gọi “ông lợn” cả!)

(Năm mất mùa - Bài năm)

Một số tên quan theo bước của Nguyễn Hữu Độ, Lê Hoan,...kèn cựa

tranh nhau, ai nịnh giỏi hơn thì đươc nhiều bổng lộc hơn, được làm chức quan

to hơn nên chúng can tâm bán đứng nước nhà, làm chó săn cho thực dân

Pháp. Nói về những lời nịnh nọt dơ bẩn, trong bài Tiểu thán (Vài lời than) có

hai câu thơ dẫn đến điển tích rất hay mà Nguyễn đã viết như sau:

“Vị ngã phất tu chung hữu khích,

Thức nhân thóa diện tích tằng ưu”

(Tiểu thán)

(Kẻ phẩy râu cho mình, rốt cuộc cũng gây nên hiềm khích

Người ta nhổ vào mặt mình mà mình chùi đi, đời xưa còn cho là

đáng lo.)

(Vài lời than)

Triều đình, vua quan là nơi cho dân dựa vào, là chính quyền giúp nhân

dân thoát khỏi lầm than đói khổ. Nhưng chính ông vua, ông quan to nhất lại

làm tay sai cho giặc, giết hại, bắt ép đồng bào ta ghê gớm hơn cả, Nguyễn

Khuyến nhìn ra cuộc đời:

“Đồng loại tương tranh trúc phọc trúc

Lợi tâm vô yếm ngư thôn ngư”

(Độc thán)

(Cùng giống mà tranh giành nhau, thật là tre trói tre

Lòng tham lợi quá đỗi thành ra cá lại nuốt cá)

(Than một mình)

48

Giữa con người với con người nhưng không có tình thương mà nuốt

nhau như vật với vật. Trong trong một khuôn viên vườn nhỏ của mình mà

cũng xảy ra sự tranh giành, đấu đá nhau:

“Nhiều thế thiềm tranh kình lạp nghĩ

Cách chi tước tứ bộ thiền lang”

(Tiểu viên)

(Bên thềm, cóc đớp kiến đang tha hạt gạo

Nơi cành cây bên cạnh, chim sẻ rình bọ ngựa đang bắt ve.)

(Vườn nhỏ)

Nguyễn Khuyến là nhà thơ trữ tình, ông cũng thiên về sáng tác các vần

thơ tâm tình, dịu ngọt. Nhưng những rối ren của xã hội khiến thơ ông không

thể sống mãi với những dòng thơ trữ tình. Thơ Nguyễn Khuyến ngày càng

trầm lắng mà thâm sâu, đọc mà vừa thấy thâm vừa thấy thấm. Trong hai câu

thơ cuối của bài Hung niên I là là một ví dụ điển hình:

“Niên cơ, khước quái thi thi giả,

Hà xứ phần gian yếm túc lai?”

(Hung niên - Kỳ nhất)

(Năm đói, nhưng lạ thay có kẻ nét mặt vẫn hớn hở,

Chẳng biết no nê từ nơi cồn mả nào mà đến?)

(Năm mất mùa - Bài một)

Nhân dân lao động sợ mỗi khi vào mùa thời tiết sẽ không ủng hộ lại

mất mùa, nhưng cái đáng sợ hơn là đám “chuột lớn” cắn lúa với chính sách

tham tàn, thuế khóa nặng nề, là người chứng kiến nhà thơ kể lại:

“Tuyết hoa hữu ý tô dân mạc

Thạc thử hà cừu thực ngã miêu”

(Miễn nông phu)

49

(Hoa tuyết đã có ý cứu dân khỏi nạn đói

Chuột lớn có thù gì mà lại cắn lúa của ta.)

(Khuyên người làm ruộng)

Trong bài Cơ thử Nguyễn Khuyến có kể lại bộ mặt của bọn quan lại

bằng hình ảnh của lũ chuột và nỗi khổ của người nông dân lao động. Những

năm lúa thóc được mùa, “lũ chuột” vẫn êm ả nương náu vách tường nhà nông.

Nhưng nay mất mùa, lũ chuột đánh nhau lục đục thấy láng giềng bên tây gặt

lúa chúng lại muốn sang bên ấy hưởng nhờ:

“Nhĩ ỷ ngã tường bích

Hà lai nhất tịch tịch

...

Phủ dữu cập ngô gia

Ngô bối thủy thiếp tịch”

(Cơ thử)

(Chúng mày nương náu ở vách tường nhà ta

Xưa nay vẫn rất êm ả

...

Khi nào nhà ta có một vài thúng

Thì lưng ta mới được nằm yên trên chiếu)

(Chuột đói)

Triều đình càng ngày càng suy thoái, vua quan vì danh lợi trước mắt

mà theo giặc, bóc lột, chèn ép nhân dân lao động, xã hội biến chất. Nguyễn

Khuyến cất tiếng mỉa mai hình ảnh “vài chục con đĩ Tây trần truồng” kéo

nhau ra ngăn cản phái bộ triều đình nhà Nguyễn ở Pháp trở về. Ông vẽ lên

bức tranh đầy màu sắc châm biếm về hình ảnh “vài chục con đĩ Tây”, “vơ lấy

cái lược ngà, lọ nước hoa, chải lông rửa ghét” không chút ngượng ngùng. Kết

hợp yếu tố tròa lộng và miêu tả, Nguyễn Khuyến dí dỏm châm biếm, đả kích

độc địa. Nhà thơ viết:

50

“Thiên biên sứ bộ thướng xa hồi

Sổ thập Tây tường giải bội lai

...

Cánh thủ nha sơ hương hạp khứ

Tư mao địch cấu vị tằng sai!.”

(Tây kỹ)

(Bên trời sứ bộ sắp lên xe về

Vài chục con đĩ Tây trần truồng kéo đến

...

Còn vơ lấy cái lược ngà và lọ nước hoa

Chải lông rửa ghét, chẳng sượng sùng gì!)

(Đĩ tây)

Qua những lời thơ tự sự của Nguyễn Khuyến, chủ quan chúng tôi nhận

thấy Nguyễn Khuyến là nhà thơ của nhân dân, ông luôn đứng về chính nghĩa,

thương cho dân tình khốn khổ nên vạch trần tội ác xấu xa của thế lực phong

kiến. Bằng những vần thơ đậm chất tự sự, Nguyễn Khuyến cũng vẽ lên được

bức tranh về một xã hội mục ruỗng, tàn bạo, bóc lột nặng nề. Đồng thời thông

qua những lời đả kích, phê phán, tố cáo tư tưởng, tình cảm, thái độ của tác giả

cũng được bộc lộ trực tiếp.

2.2.2. Tự sự về cuộc sống cơ cực của người nông dân

Sáng tác của Nguyễn Khuyến không chỉ đơn điệu một mặt, ông không

chỉ bộc lộ tâm tư, tình cảm mà còn phản ánh hiện thực, tư duy về đời sống của

con người và cuộc đời. Có những ngòi bút đanh thép tố cáo cũng có những

ngòi bút dịu ngọt thiết tha. Do bản chất vốn có và do cũng xuất thân trong gia

đình nhà nghèo, bản thân nếm trải nhiều đắng cay nên ngòi bút của ông đặc

biệt quan tâm và bênh vực những con người nơi vùng quê lam lũ. Chứng kiến

51

và gần gũi với con người và cuộc sống thôn quê, ông vẽ lại bức tranh về sự

thống khổ của người nông dân qua những lời thơ tự sự đầy xúc động.

Cuộc sống thường ngày của nhà nông chỉ trông cậy vào mảnh ruộng,

con gà. Để có được mùa lúa tốt người nông dân phải cày sâu, bừa kĩ, đêm

ngày chăm bón không nghỉ ngơi, sợ mưa dầm nước lụt làm mất mùa. Năm

nay thời thời tiết thuận lợi thì trái ngang thay lại gặp lũ chuột lớn ngang tàn

phá hoại:

“Hạnh nhi tứ thời điều

Phương vọng tân cốc hảo

An tri tân cốc hảo

Hựu vị thạc thử giảo”

(Điền gia tự thuật)

(May mà được bốn mùa điều hòa

Mới mong lúa được tốt

Nào hay lúa mới tốt

Lại bị chuột cắn)

(Nhà nông tự thuật)

Chuột lớn là chuột và cũng là bọn quan lại cậy cương quyền, dân nào

đâu có gây thù hằn gì mà lại cắn lúa của ta? Ở quê, chuột đã lắm nay cả muỗi

cũng nhiều, cố gắng đuổi đi nhưng chúng vẫn đến quấy rối dân ta, chúng thay

nhau bắt chẹt người nông dân:

“Cử phiến khu phục lai

Thích thích nhập nhân nhĩ

...

Nhĩ ngã bất tương can

Tương ách hồ nãi nhĩ.”

(Văn )

52

(Ta giơ quạt xua đi, chúng lại đến

Cứ nhoi nhói vào tai người ta

...

Mày với ta chẳng liên can gì với nhau

Sao mày bắt chẹt ta như vậy?)

(Muỗi)

Những năm Nguyễn Khuyến về làng quê ẩn dật đói khổ vô cùng! Đời

loạn, người cùng, năm thì lại mất mùa..Ban đêm dế kêu ầm ĩ không ngừng

như khóc lên bao điều ấm ức. Thế nhưng chỉ có dân ta là đói, là khổ, bọn

quan lại chức quyền vẫn hớn hở:

“Cố quốc sơn hà chân thảm đạm,

Tha hương hồng nhạn tối bi ai

Niên cơ khước quái thi thi giả,

Hà xứ phiền gian yếm túc lai?”

(Hung niên - Kỳ nhất)

(Trông vời non sông nước cũ thật là thảm đạm

Lũ chim hồng nhạn lạc loài nơi tha hương, rất là đau thương

Năm đói nhưng lạ thay có kẻ nét mặt vẫn hớn hở,

Chẳng biết no nê từ nơi cồn mả nào mà đến!)

(Năm mất mùa - Bài một)

Hay như trong bài Hung niên II, chứng kiến cảnh mất mùa, ruộng đồng

lúa chẳng trổ bông, đói kém triền miên người ăn xin nháo nhác, người khóc

đói xin ăn, Nguyễn Khuyến xót xa kể lại:

“Hung niên an đắc ngã điền tang

Sách thực đề cơ xứ xứ mang”

(Hung niên - Kỳ nhị)

53

(Năm mất mùa, ruộng ta tốt sao được

Người xin ăn, kẻ khóc đói, nơi nơi nháo nhác)

(Năm mất mùa - Bài hai)

Càng xa với triều đình quan lại, danh vọng vật chất xa hoa bao nhiêu

thì Nguyễn Khuyến lại gần với dân tình bấy nhiêu. Nhân dân ta cực khổ quá!

Trong thơ tự sự Nguyễn Khuyến, ông luôn nói đến “chất muối” của cuộc đời.

Ngày hè dài nóng nực, việc đồng áng bận rộn, người dân vừa lo thóc sinh hơi

nóng vừa lo không có cơm ăn:

(Hơi nắng nóng rực, ngày mùa hè dài,

Việc đồng áng của nhà nho rất là bận rộn

...

Muôn việc đời nếu cứ mong là có được,

Thì ta muốn gió đầy cửa, thóc đầy nhà)

Khó khăn nối tiếp khó khăn, lũ chuột lớn cắn phá nay lại thêm

hạn hán mất mùa. Người nông dân trông cậy vào “thần mưa” mong “thần

mưa” cầu cho mưa xuống khiến dân đỡ vất vả, đói nghèo, nhưng đắng cay

thay thần cũng chỉ “thích ăn uống thôi” còn mưa thì “ta không làm được”:

“Bất vũ hà bất cáo

Sử dân lao thả ky

Thần viết lai nhữ dân

Thử phi ngã sở tri

Ngô duy thị ẩm thực

Vũ phi ngô năng vi”

(Đảo vũ)

(Không có mưa sao thân không kêu cầu cho

Khiến dân vừa vất vả vừa đói

Thần rằng: “Dân ơi, lại đây ta bảo

Việc ấy ta không được biết

54

Ta chỉ thích ăn uống thôi

Còn mưa thì ta không làm được”)

(Cầu mưa)

Nhà nông khổ đủ đường, hạn hán cũng lo, nạn lụt đến cũng cùng cực,

thời tiết không ủng hộ là nhà nông lại đói khổ cả năm. Mùa lụt nước dâng lên

ngập hết bờ ao, nơi nông thì cũng ba thước. Ngoài vườn, rau nát hết lá, con

ngỗng con chó nháo nhác nhảy cả lên giường. Một khung cảnh khổ cùng, tan

thương:

“Vô đoan thu lạo trướng pha đường

Thu vũ thu phong thu khí lương

...

Thụy khởi đông phong sầu độc tọa

Kiêm hà diểu diểu vọng thiên phương”

(Thu lạo)

(Bỗng dưng nước lụt mùa thu dâng lên ngập hết bờ ao

Mưa thu gió thu làm cho khí thu mát mẻ

...

Ngủ dậy ngồi buồn một mình với gió đông

Xã xa khắp mọi phía chỉ thấy một màu lau lách)

(Lụt mùa thu)

Thuế khóa, bóc lột nặng nề kèm theo mất mùa hạn lụt, nhân dân lầm

than đói khổ. Ăn mày nhiều vô kể. Ngày xưa mỗi khi làng có đám, mõ đi rao

cả xóm, lớn bé phải ngồi theo thứ tự. Nhưng về sau đói kém, thiếu thốn sinh

ra nhiều ăn mày, nếp cũ ấy chẳng còn, thay vào đó là những tên ăn mày sấn sổ

đuổi, bóp cổ nhau tranh giành cướp miếng gà lợn. Có những lão ăn mày già

thì không đủ sức mà chạy đuổi nên đành men tường nhặt nhạnh cơm thừa,

mắng mỏ những tên ăn mày trẻ vô lễ. Nguyễn Khuyến xúc động kể lại:

55

“Tích nhật ấp trung xã

Đạc nhân tuyên hương thôn

...

Tịch bãi các tán khứ

Nhật sắc tương hoàng hôn”

(Xã nhật cái)

(Ngày xưa khi làng vào đám

Mõ rao khắp cả xóm

...

Cỗ bàn xong ai nấy ra về

Thì lúc đó bóng chiều đã ngả)

(Ăn mày ngày đám)

Cũng vì nỗi khổ áp bức, cảnh nghèo đói triền miên, chỉ vì chuyện áo

cơm không đủ mà khiến nhiều gia đình trở nên lục đục, người trong nhà

không thương yêu nhau, vợ chồng con cái đánh lộn lẫn nhau, trong bài Đích

gia tức sự ngâm Nguyễn Khuyến xót xa kể lại câu chuyện:

“Ai tai nhất gia trung

Hà dĩ chí như thử

Phụ tử, phu phụ gian

Khởi bất thức luân lý.

Chỉ vị y thực mưu,

Sở dĩ sinh đố kỵ.”

(Điền gia tức sự ngâm )

(Thương thay trong một nhà!

Làm sao lại đến nỗi thế?

Giữa cha con, vợ chồng,

Họ há không biết gì là đạo lý

56

Chỉ vì chuyện áo cơm

Mà sinh ra ghét bỏ lẫn nhau)

(Chuyện nhà người nông phu)

Thương cảm cho người nông dân nói chung, Nguyễn Khuyến cũng xót

xa cho số phận của ông lão đã có tuổi vẫn phải lam lũ nói riêng. Nguyễn

Khuyến kể câu chuyện về ông lão trong làng. Nhà ông có “ba chục cái đó”,

ngày nào cũng như ngày nào cứ chập tối ông lão đi thả đó, sáng sớm ông lão

lại đi cất đó, vất vả làm lụng để nuôi miệng mình qua ngày, qua bữa. Được cá

ông lại mang đi đổi lấy gạo, cuộc sống hàng ngày cứ thế, ăn xong lão “lại tất

tưởi đi làm”:

“Ngô thôn nhất điền tẩu

Gia hữu tam thập cẩu

...

Mại ngữ mãi mễ quy

Thực bãi hựu bôn tẩu”

(Điền tẩu)

(Ông già làm ruộng ở xóm tôi

Nhà có ba chục cái đó

...

Bán cá đong gạo về

Ăn xong lại tất tưởi đi làm)

(Ông già làm ruộng)

Bằng sự chứng kiến lịch sử và trải nghiệm của bản thân cùng với tài

năng của mình, qua những vần thơ giàu tính tự sự nhà thơ đã tái hiện lại hiện

thực khổ đau của nông thôn vùng quê ta ngày đó bằng bút pháp miêu tả sắc

nét. Nhưng rõ ràng, đằng sau những bi kịch, thống khổ ấy vẫn là một nụ cười

nhân hậu, yêu đời biết mấy! Nguyễn Khuyến có cái nhìn nhân bản khiến cho

57

con người dù trong khổ đau những vẫn có quyết tâm sống và tồn tại cho

những ngày tới. Và có lẽ cũng chính điều này đã khiến Nguyễn Khuyến trở

thành nhà thơ mang nhiều màu sắc khi viết về bức tranh nông thôn.

58

KẾT LUẬN

1. Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn, tài năng về nhiều mặt, một tâm

hồn cao cả. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của ông mãi là niềm tự hào của

nền văn học Việt Nam và cả dân tộc.

Các sáng tác nói chung và sáng tác chữ Hán Nguyễn Khuyến nói riêng

là minh chứng rõ ràng nhất về cuộc đời, phẩm chất, tình cảm, tâm hồn nhà

thơ. Đồng thời cũng là bức tranh rõ nét nhất về cuộc sống thường ngày, sự trải

nghiệm và chiêm nghiệm sâu sắc của cá nhân nhà thơ về cuộc sống, đồng

loại. Nguyễn Khuyến là nghệ sĩ có trái tim nhân hậu bẩm sinh, có ước mơ

hoài bão, mong muốn dựng xây đất nước giúp nhân dân thoát khỏi ách đô hộ,

cuộc sống thoát khỏi cảnh lầm than. Nhưng cuộc đời ông lận đận và gặp

nhiều biến cố thăng trầm.

Đề tài “Tính tự sự trong thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến” góp phần cho

việc khắc họa chân dung cuộc đời, con người nhà thơ. Từ vấn đề nghiên cứu

về tính tự sự trong thơ chữ Hán ta thấy chân dung Nguyễn Khuyến hiện lên

khá sinh động, đầy đủ và chân thực. Đó là một nghệ sĩ tài năng, một con

người ý chí, cốt cách vững bền, phẩm chất thanh cao, một tâm hồn trong sáng.

Đồng thời là cho thấy tâm tư, tình cảm, thái độ của nhà thơ trước con người

và cuộc đời.

2. Là một trong những nhà nho sống trong xã hội thực dân nửa phong

kiến với những cái lố lăng, kệch cỡm, rởm đời. Nguyễn Khuyến với ngòi bút

giàu tính tự sự đã mạnh dạn vẽ lên bức tranh chân thực về toàn bộ bối cảnh xã

hội bấy giờ.

Triều đình nhà Nguyễn thiết lập lại chính quyền. Những chính sách trái

lí do nhà nước đưa ra ngày càng siết chặt để chèn ép nhân dân, đẩy đồng bào

ta vào cuộc sống cơ cực, đói nghèo. Cùng với đó là những ông quan ham lợi

trước mắt mà bán lương tâm trở thành tay sai cho thực dân Pháp, cấu kết với

59

giặc để bắt chẹt đồng bào ta. Vua quan trong triều thì kèn cựa, tranh giành

nhau. Xã hội ngày đó dần trở nên rối ren, bế tắc và mục ruỗng. Từ đó kéo

theo cuộc sống của nhân dân ta cơ cực vô cùng, nạn lụt, nạn hán khiến nhà

nông mất mùa kèm theo thuế khóa nặng nề khiến người nông dân nghèo đói,

người ăn xin ngày càng nhiều. Từng giữ một chức quan trong triều và sau về

ở ẩn chốn thôn quê, Nguyễn Khuyến sống và và có cái nhìn sâu sắc với thực

tế, ông ý thức rõ được hiện thực xã hội bấy giờ và đưa hiện thực ấy vào trong

thơ một cách độc đáo và tinh tế.

Thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến mang đặc điểm chung là sâu sắc mà

chân thực, mang đậm bút pháp hiện thực. Để sáng tác nên những lời thơ tự sự

mang đậm bút pháp hiện thực, một mặt là do ở Nguyễn Khuyến vốn có trái

tim nghệ sĩ bẩm sinh cùng với tài năng sáng tác thiên bẩm, mặt khác là do

Nguyễn Khuyến có khiếu quan sát tinh tế, nhìn thấu được sự thật qua những

chứng kiến lịch sử và trải nghiệm thực tế.

Từ nghiên cứu những bài thơ về hiện thực xã hội, chúng tôi nhận thấy

rằng: thơ của Nguyễn Khuyến không chỉ thể hiện “ngôn chí” mà sâu xa hơn là

hướng về cuộc đời, con người trong xã hội. Trong khuynh hướng văn học

phản ánh hiện thực xã hội thế kỉ XVIII- XIX, tính tự sự trong sáng tác chữ

Hán Nguyễn Khuyến thể hiện rõ nét quan niệm nghệ thuật trong sáng tác văn

chương của ông. Tất cả tạo nên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc

trong thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến.

Nghiên cứu đề tài “Tính tự sự trong thơ thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến”

một mặt mang lại cho bạn đọc những hiểu biết về nhà thơ Tam Nguyễn Yên

Đổ, có thêm nguồn kiến thức chân thực và tích cực về cuộc đời, sự nghiệp

sáng tác của thi nhân. Một mặt, nghiên cứu đề tài này cũng giúp cá nhân tôi

có thêm kiến thức về nhà thơ trong thời kì văn học trung đại, góp phần nhiều

cho sự nghiệp sau này của mình.

60

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bùi Văn Cường (1984), Giai thoại về Nguyễn Khuyến, Hội Văn học nghệ

thuật Hà Nam xuất bản.

2. Nguyễn Huệ Chi (1994), Thi hào Nguyễn Khuyến đời và thơ, Nxb Giáo

dục.

3. Xuân Diệu (1982), Đọc thơ Nguyễn Khuyến, in trong Các nhà thơ cổ điển

Việt Nam, Nxb Văn học.

4. Xuân Diệu (1998), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

5. G. Genette (2010) Những vấn đề lí luận văn học phương Tây hiện đại- Tự

sự học kinh điển, Nxb Văn học, Hà Nội.

6. Nguyễn Văn Huyền (1984), Nguyễn Khuyến tác phẩm, NXB Khoa học xã

hội.

7. Mai Hương (2006), Nguyễn Khuyến - những lời bình, Nxb Văn hóa thông

tin.

8. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2006), Từ điển thuật ngữ văn

học, Nxb giáo dục, Hà Nội.

9. Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế

kỷ XIX, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

10. Nguyễn Lộc (1984), Từ điển văn học, tập III, Nxb Khoa học xã hội.

11. Phương Lựu (chủ biên) (2004), Lý luận văn học, Nxb giáo dục, Hà Nội.

12. Nhiều tác giả (1997), Tổng hợp văn học Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.

13. Nguyễn Đăng Na (2007), Giáo trình Văn học trung đại Việt Nam, tập 1,

tập 2, Nxb Đại học Sư phạm.

14. Trần Văn Nhĩ (2016), Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến, Nxb văn

hóa - văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.

15. Hoàng Ngọc Phách, Lê Trí Viễn, Lê Thước (1957), Thơ văn Nguyễn

Khuyến, Nxb Giáo dục.

61

16. Hoàng Phê (chủ biên) (2008), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà

Nẵng.

17. Nguyễn Hữu Sơn, Đặng Thị Hảo (2006) Văn học trung đại những công

trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

18. Trần Đình Sử (2006), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam,

Nxb giáo dục, Hà Nội.

19. Văn Tân (1959), Nguyễn Khuyến nhà thơ Việt Nam kiệt xuất, Nxb Văn-

Sử- Địa.

20. Vũ Thanh (1998), Nguyễn Khuyến về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.

62