33333333333333333333333333333333333333333333333333333333333333

33333333333333333333333333333333333333333333333333333333333333

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== ĐOÀN TH HỒNG HẠNH 33333333333333333333333333333333333333333333333333333333333333

33333333333333333333333333333333333333333333333333333333333333

33333333333333333333333333333333333333333333333333333333333333

33333333333333333333333333333333333333333333333333333333333333 TRUYỆN NGẮN NGUY N MINH CH U 33333333333333333333333333333333333333333333333333333333333333 SAU 1975 TỪ GÓC NHÌN 33333333333333333333333333333333333333333333333333333333333333 33333333333333333333333333333333333333333333333333333333333333 PHÊ BÌNH SINH THÁI 33333333333333333333333333333333333333333333333333333333333333

333333333333333333333333333333333333333333333

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Người hướng dẫn khoa học TS. LA NGUYỆT ANH

HÀ NỘI - 2017

LỜI C M N

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới cô giáo, TS. La Nguyệt Anh

cùng các thầy cô trong Tổ Văn học Việt Nam – Khoa Ngữ Văn – Trường

ĐHSP Hà Nội 2 đã hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện khóa

luận này.

Sinh viên

Đoàn Th Hồng H nh

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan:

Khóa luận là công trình nghiên c u c a cá nhân, dưới sự hướng dẫn c a

T.S La Nguyệt Anh.

Kết qu nghiên c u trong khóa luận này là trung thực, không trùng l p

với b t c đề tài nào; các thông tin tr ch dẫn trong khóa luận đã đư c ch r

ngu n gốc.

Nếu sai, tôi xin ch u hoàn toàn trách nhiệm về nghiên c u c a mình.

Người cam đoan

Đoàn Th Hồng H nh

MỤC LỤC

Đ U ........................................................................................................... 1

1. do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. ch s v n đề ............................................................................................... 2

3. c đ ch nghiên c u ..................................................................................... 4

4. Nhiệm v nghiên c u .................................................................................... 4

5. Đối tư ng và phạm vi nghiên c u ................................................................. 4

6. Phương pháp nghiên c u .............................................................................. 5

7. Đóng góp c a khóa luận ................................................................................ 5

8. ố c c ngoài khóa luận ................................................................................. 5

N UN ....................................................................................................... 7

Chương 1. NH N V N ĐỀ CHUN ........................................................... 7

1.1 iới thuyết chung về phê bình sinh thái ..................................................... 7

1.1.1. Khái niệm sinh thái và phê bình sinh thái ............................................... 7

1.2. Tác gi Nguyễn inh Châu .................................................................... 12

1.2.1. Vài n t về cuộc đời tác gi Nguyễn inh Châu ................................... 12

1.2.2. Sự nghiệp văn học c a Nguyễn inh Châu ........................................ 13

Chương 2. C U N PH NH S NH TH T N T UYỆN N N

N UYỄN NH CHÂU S U 1975 .............................................................. 15

2.1. C m quan sinh thái tự nhiên..................................................................... 15

2.1.1 Không gian thôn dã đang b lãng quên .................................................. 16

2.1.2 ôi trường phố th trước những nguy cơ .............................................. 19

2.1.3 ôi trường biển đang b ô nhiễm .......................................................... 26

2.2 C m quan sinh thái tinh thần ..................................................................... 29

2.2.1 Th c t nh th c giữ gìn vẻ đẹp bình d , thân thuộc nơi thôn quê ......... 30

2.2.2Th c t nh th c b o vệ thiên nhiên trong quá trình đô th hóa.............. 32

2.2.3 Th c t nh th c b o vệ sự toàn m c a sinh thái biển ......................... 34

Chương 3. N HỆ THU T THỂ H ỆN T NH TH NPH NH S NH TH

T N T UYỆN N N N UYỄN NH CHÂU S U 1975 ................. 39

3.1 Nhan đề mang ngh a sinh thái ................................................................ 39

3.2 Tình huống truyện mang tinh thần sinh thái ............................................. 40

3.3. Cốt truyện hay th c tổ ch c luận đề sinh thái....................................... 44

KẾT U N ..................................................................................................... 48

TƯ ỆU TH KH

MỞ Đ U

1. L do chọn tài

Thế k XX đư c xem là thời đại hoàng kim c a khoa học. Đây cũng là

thế k mà con người ph i đối m t với nhiều nguy cơ nh t, trong đó có nguy cơ

sinh thái. Đ ng ở đ nh cao c a văn minh nhân loại, con người không thể thờ ơ

với ch nh bầu sinh quyển mình đang h t thở. ởi l , càng ngày con người

càng nhận ra cần ph i duy trì sự hài hòa, ổn đ nh, cân b ng hệ sinh thái là điều

kiện để phát triển bền vững.

Văn học vốn là một hình thái th c xã hội, hiển nhiên nó không thể

đ ng ngoài những v n đề xã hội. uan tâm đến mối quan hệ giữa văn học và

tự nhiên, phê bình sinh thái đã ra đời. Từ nhiều kiến, có thể th y, tinh thần

chung c a phê bình sinh thái là thông qua văn học, thẩm đ nh lại văn hóa

nhân loại, kh o nghiệm tư tưởng, văn hóa con người. Cùng với nhiều ngành

khoa học, phê bình sinh thái kì vọng ch ra căn nguyên những nguy cơ sinh

thái, th c t nh th c, tinh thần sinh thái ở mỗi người.

Trong văn học Việt Nam đương đại, ở những m c độ khác nhau, v n đề

thời sự này đã đư c các tác gi như Nguyễn inh Châu, Nguyễn Huy Thiệp,

Nguyễn uang Thiều, Nguyễn Ngọc Tư, Sương Nguyệt inh… đề cập đến.

Với Nguyễn inh Châu, th c sinh thái đư c đ t ra theo một cách riêng và

vô cùng b c thiết. Tinh thần sinh thái khiến “người mở đường tinh anh và tài

năng nh t” y nhanh chóng thâu nhận và k p thời ph n ánh những v n đề

nóng hổi c a đời sống. Điều này như ch nh ông quan niệm: “Văn học bao giờ

cũng ph i tr lời những câu hỏi c a ngày hôm nay, bao giờ cũng ph i đối m t

với những người đương thời về những câu hỏi c p bách c a đời sống” [11 ,

4 1 . C m nhận đư c một trong những v n đề c a “ mà

1

Nguyễn inh Châu g i qua những trang viết, đ c biệt là ở truyện ng n c a

ông sau 1975, khóa luận c a chúng tôi dành sự quan tâm nghiên c u: Truyệ

ắ uy u u ừ óc ì p ê bì .

2. L ch s v n

Khi đánh giá cuộc đời và sự nghiệp c a một nhà văn, người ta căn c

vào những đóng góp tiêu biểu c a nhà văn y đối với sự phát triển c a một

thời k văn học. Thậm ch còn có thể nghiên c u vai trò và những nh hưởng

t ch cực c a họ đối với nền văn học. Phát triển cùng với một số nhà văn khác

cùng thời, nhà văn quân đội Nguyễn inh Châu đã chiếm đư c v tr đáng

trân trọng trong văn học Việt Nam hiện đại. Hoạt động văn học c a ông khá

phong phú và có nhiều thành công đáng kể. Ch riêng l nh vực sáng tác, nhiều

tác phẩm c a ông đã trở thành đề tài tìm hiểu cho hàng trăm bài báo, bài

nghiên c u và những chuyên luận, tiểu luận khoa học và ngoài nước.

Khi tìm hiểu các tác phẩm c a ông, có thể hình dung khá r , quá trình

vận động về tư tưởng, tình c m cũng như cách tiếp cận đời sống và bút pháp

sáng tác nghệ thuật c a ông. Về cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn inh Châu

còn tiềm ẩn nhiều g i , kh năng h a hẹn cho việc tìm hiểu, nghiên c u ở

những bình diện và phương pháp tiếp cận mới. Từ trước tới nay đã có nhiều

bài khác nhau về Nguyễn inh Châu và các tác phẩm c thể c a ông. Tiêu

biểu:

Trần Đình S nhận x t r ng: “ t đầu từ truyện ng n Bức tr , r i tập

N ười đ b trê tu ế t u tốc và nay là Bế quê, truyện ng n c a

Nguyễn inh Châu xu t hiện như một hiện tư ng văn học mới, một phong

cách trần thuật mới... Đ c s c c a tập Bế quê là sự thể nghiệm một hướng

trần thuật có chiều sâu..., phát hiện các hiện tư ng đời sống như chiều sâu

triết học và l ch s , thể hiện nhu cầu chiêm nghiệm, tự đối thoại với ch nh

2

mình và với th c c a mình... Có thể nói thiên hướng muốn n m b t hiện

thực ở bề sâu ẩn k n là một đ c điểm mới mẻ c a phong cách Nguyễn inh

Châu”[12].

ại Nguyên Ân, “khi nhận x t về xu hướng triết l nhận th c trong

những truyện ng n gần đây c a Nguyễn inh Châu”, đã tạm xếp th các

truyện y vào một số dạng ch nh, “Từ loại truyện “tự thú” mà trung tâm

thường là một nhân vật đang sám hối... nhà văn chuyển sang thể nghiệm, loại

truyện tuy có dạng th c tự nhiên khách quan nhưng phê phán gay g t những

lối sống vô th c... Thêm một m c nữa, nhà văn đi tới loại truyện cũng có

dạng khách quan tự nhiên, nhưng không ph i để lên án phê phán đổi tư ng c

thể nào đó mà ch yếu để nhận th c những t nh thế, những kh a cạnh trái

ngư c vốn có trong đời sống c a con người...” [12;269].

ột số kiến khác c a Ngọc Trai, khi nhận x t đ c điểm truyện ng n

Nguyễn inh Châu, đã cho r ng: “Phần lớn các truyện ng n c a Nguyễn

inh Châu là loại truyện luận đề - những luận đề về đạo đ c, nhân văn, về

tâm l xã hội...” [12;325 . Ngoài ra, còn có nhiều bài viết khác đi vào bình giá,

phân t ch giá tr c a từng truyện ng n c thể, trong đó có sự ghi nhận những

tìm tòi đổi mới c a nhà văn ở c hai phương diện tư tưởng và bút pháp thể

hiện.

góc độ thi pháp thể loại, ùi Việt Th ng đi vào tìm hiểu c u trúc và

tình huống trong truyện ng n Nguyễn minh Châu, phân chia ra các dạng cơ

b n là tình huống – tương ph n, tình huống – th t nút, tình huống – luận đề

[12; 313 . Cũng nhìn dưới góc độ thể loại, Phạm V nh Cư phát hiện ra “những

yếu tố tiểu thuyết trong truyện ng n c a Nguyễn inh Châu” [12;346].

Nhìn chung, truyện ng n c a Nguyễn inh Châu cũng đư c r t nhiều

nhà nghiên c u tìm hiểu tiếp cận ở nhiều góc độ và đưa ra những nhận x t,

đánh giá, ch yếu là khái quát ho c đi sâu vào phương diện nội dung hay hình

3

th c nghệ thuật. Tìm hiểu truyện ng n c a Nguyễn inh Châu từ góc độ phê

bình sinh thái đã đư c đề cập. Tác gi Thanh Hà trong bài i t i đ t

viết “truyện ng n c a Nguyễn inh Châu là những “dự c m” đầu tiên về mối

quan hệ càng lúc càng trở nên “xa lạ hóa” c a con người đô th với thế giới tự

nhiên” [8].

Tác gi TS. Phạm Ngọc an khi nghiên c u về sinh thái trong truyện

ng n c a Nguyễn Ngọc Tư trong bài “ v v i t iê iê đ

b t t c N u N c ư t c qu u si t i tác gi có

so sánh với v n đề sinh thái đư c đề cập trong truyện ng n Nguyễn inh

Châu “... ám nh đô th c a Nguyễn inh Châu là một biểu tư ng k p – vừa

như một mối đe dọa tha hóa, m t gốc, vừa như một nỗi khát khao vươn tới”

TS. Phạm Ngọc an 2 16 Tìm về với mẹ thiên nhiên “Cánh đ ng b t tận”

c a Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn nữ quyền luận sinh thái”, ĐH Sư phạm Ttp.

H Ch inh .

ua các kiến trên, có thể th y, v n đề sinh thái trong truyện ng n c a

Nguyễn inh Châu đ c biệt là những truyện ng n sau 1975 đề cập đến khá

nhiều về v n đề sinh thái mang th c giáo d c cao. Đây cũng ch nh là

kho ng trống để chúng tôi đi sâu vào nghiên c u đề tài này.

3. Mục ch nghiên c u

Tìm ra hướng tiếp cận mới khi tìm hiểu truyện ng n Nguyễn inh Châu.

Đ ng thời cũng nói lên thực trạng về v n đề môi trường hiện nay- một trong

những v n đề c p thiết và nh c nhối c a xã hội. ua đó rung lên h i chuông

c nh t nh về th c, thái độ c a con người với bà mẹ Tự nhiên.

4. Nhiệm vụ nghiên c u

Tìm hiểu truyện ng n c a Nguyễn inh Châu sau 1975 từ góc nhìn phê

bình sinh thái trên c phương diện nội dung và hình th c thể hiện.

5. Đối tượng và ph m vi nghiên c u

4

5.1 Đối tượng nghiên c u

Truyện ng n c a Nguyễn inh Châu sau 1975 từ góc nhìn phê bình

sinh thái.

5.2 Ph m vi tư liệu

Phạm vi tư liệu c a khóa luận giới hạn ở truyện ng n Nguyễn inh

Châu sau 1975. Đ c biệt là những truyện ng n mang tinh thần sinh thái. Với

khuôn khổ c a một khóa luận tốt nghiệp Đại học với kh năng làm ch tư liệu

có hạn khóa luận s d ng ngu n tài liệu ch nh là: Nguyễn inh Châu tuyển

tập truyện ng n Nxb Văn học, 2 6].

6. Phư ng ph p nghiên c u

Cùng với việc s d ng các phương pháp thường dùng trong văn học ở

bài khóa luận này chúng tôi ch yếu s d ng các phương pháp sau :

Phương pháp nghiên c u tác gi , tác phẩm

Phương pháp phân t ch - tổng h p

Phương pháp so sánh đối chiếu

Phương pháp nghiên c u liên ngành

7. Đ ng g p c a kh a luận

Khóa luận là công trình khoa học tìm hiểu về truyện ng n c a Nguyễn

inh Châu sau 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái.

Từ đó góp phần kh ng đ nh những đóng góp và v tr c a Nguyễn inh

Châu trong văn học Việt Nam hiện đại.

Ngoài phần ở đầu, Kết luận và Tài liệu tham kh o, Nội dung ch nh c a khóa

luận đư c triển khai làm ba chương:

Chương 1 : Những v n đề chung về phê bình sinh thái

Chương 2 : C m quan phê bình sinh thái trong truyện ng n Nguyễn inh

Châu sau 1975

Chương 3 : Nghệ thuật thể hiện tinh thần phê bình sinh thái trong truyện ng n

Nguyễn inh Châu sau 1975

5

. Bố cục ngoài kh a luận

6

NỘI DUNG

Chư ng 1. NHỮNG V N Đ CHUNG

1.1 Giới thuy t chung v phê nh sinh th i

1.1.1. Kh i niệm sinh th i và phê nh sinh th i

Khái niệm si t i

i t i trong tiếng Hi Lạp là “oikos” có ngh a là nhà ở, nơi cư trú, nơi

sinh sống c a mọi sinh vật, trong đó có con người. Sinh thái học, vì thế, là

học thuyết nghiên c u về nơi sinh sống c a sinh vật, và đối tư ng nghiên c u

c a bộ môn khoa học này là t t c các mối tương tác giữa cơ thể sống và môi

trường. Từ chỗ là một bộ môn g n liến với sinh học, sinh thái học dần mở

rộng, nh hưởng đến nhiều bộ môn khoa học khác, trong đó có khoa học xã

hội và nhân văn.

Khái niệm p ê b si t i

ê b si t i ecocritsim còn đư c gọi bởi những cái tên khác như

“phê bình văn hóa xanh” green cultural studies , “thi pháp sinh thái”

ecopetics hay “phê bình văn học môi trường” environmental literary

criticism)...

Tên gọi p ê b si t i do Wiliam ueckert s d ng vào năm 1978

trong kh o luận Văn học và sinh thái học: một th nghiệm mới trong phê bình

sinh thái (Literature and Ecology: An Exneriment in Ecocritism). c đ ch

c a ông là ng d ng sinh thái học và các thuật ngữ sinh thái học vào nghiên

c u văn học.

iữa thập k 8 c a thế k XX, các học gi cộng tác với nhau xây dựng

phê bình sinh thái trở thành một phong trào mạnh m . Năm 1992, Hiệp hội

Nghiên c u Văn học và ôi trường đư c thành lập ở đại học Nevada .

Năm 1994, Kroeber xu t b n cuốn chuyên luận “Phê bình văn hóa sinh thái:

7

tưởng tư ng lãng mạn và sinh thái tinh thần, đề cướng “Phê bình văn học c a

sinh thái học” ecologcal literary criticsm) ho c “Phê bình có khuynh hướng

sinh thái học” ecological oriented criticism . Sau đó, các tác phẩm phê bình

sinh thái xu t hiện như n m.

Năm 1996, tập bài viết về phê bình sinh thái lần đầu tiên đư c xu t b n

tại mang tên “Văn b n phê bình sinh thái” do Cheryll Glotfelty và Harold

From ch biên. Cheryll lotfelty cũng đã đưa ra một đ nh ngh a gi n d và r

ràng về phê bình sinh thái “ Nói một cách đơn gi n, phê bình sinh thái là việc

nghiên c u mối quan hệ giữa văn học và môi trường tự nhiên” “mang đến một

cách tiếp cận l y trái đ t làm trung tâm trong nghiên c u văn học”[10]. Phê

bình sinh thái là một l thuyết liên ngành, kết h p giữa văn học và các ngành

khoa học khác, giữa phân t ch văn chương và rút ra những c nh báo về môi

trường. “Nó có thể không đưa ra đư c những gi i pháp trực tiếp cho những

v n đề môi trường nghiêm trọng hiện nay nhưng b ng cách phân t ch các diễn

ngôn về thiên nhiên và môi trường, nó có thể tác động đến tâm th c con

người, điều ch nh nhận th c, kh c ph c những ngộ nhận về môi trường, để từ

đó, có những hành động đúng đ n hơn, hướng đến sự phát triển bền vững.

Đ ng thời, xa hơn và quan trọng hơn c , phê bình sinh thái hình thành một

ch ngh a nhân văn mới, ở đó, con người biết nghe tiếng nói c a thiên nhiên

để đối thoại với nó”. Thông qua nghiên c u văn học để nhìn nhận lại toàn bộ

văn hóa con người. Ch nh thái độ ngạo mạn c a con người làm đối với tự

nhiên đã làm nh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái. Phê bình sinh

thái đã thay đổi cơ b n cách nhìn nhận, tiếp cận đối tư ng, t t c các phong

trào nghiên c u từ trước đến nay đều l y con người làm trung tâm, còn phê

bình sinh thái l y sinh thái làm trung tâm.

Trong cái nhìn c a lotfelty, có vẻ như giới học thuật ch nh thống thời

điểm y vẫn đang quá say sưa trong việc kiến gi i các tác phẩm văn chương

8

thông qua những xung đột xã hội trước m t mà vô tình phớt lờ một v n đề

đương đại có t nh nền t ng và c p bách nh t hơn t t th y; đó là cuộc kh ng

ho ng môi trường toàn cầu: “Nếu như nhận th c c a bạn về thế giới bên

ngoài ch hạn chế trong chừng mực những gì đư c rút từ những n phẩm

nghiên c u văn học chuyên ngành, bạn s nhanh chóng nhận ra r ng: ch ng

tộc, giai c p và giới t nh đang là đề tài nóng bỏng trong những năm cuối thế

k XX. Nhưng nếu ch dừng ở đó, bạn s không bao giờ đ t ra đư c một nghi

v n nào về việc sự sống c a trái đ t - điều có ngh a sinh t n và nâng đỡ cho

t t c những hệ thống đó - đang b đ t dưới một áp lực kh ng khiếp. Thật vậy,

có thể bạn s không bao giờ biết đư c r ng, trước khi có t t c , đã luôn có

một Trái đ t.

Đ ng trước nguy cơ Trái đ t đang ngày càng nóng lên, sự sống c a

chúng ta b đe dọa văn học không thể ru ng con người, không thể “ngây thơ”

trước những phá h y y mà không có b t kì ph n ng nào, hay ch biết im

tiếng trong việc đề xu t một gi i pháp cho toàn nhân loại. Văn học không vô

can trong ngh a là một diễn ngôn th c hệ. Văn học gia nhập thiết chế văn

hóa ch u sự chi phối c a tự nhiên, nhưng cũng góp phần kiến tạo một lăng

k nh để thông qua chúng ta nhìn thế giới tự nhiên.

ỗi nhà nghiên c u chọn cho mình những hướng đi khác nhau nhưng

cùng chia sẻ một nỗi hoang mang lớn c a l ch s nhân loại. Nói cách khác

phê bình sinh thái ra đời trong cơn giật mình c a loài người trước một ngày

tận thế không xa mà chúng ta đã và đang cố tình đẩy ch nh mình vào.

Không ai có thể ph nhận một thực tế đang lo ngại là “chúng ta đang bước

vào k nguyên c a những giới hạn về môi trường, một thời đại mà hậu qu từ

những hành động c a con người đã làm tổn hại nghiêm trọng sự sống căn b n

c a ch nh mình”, ho c là nó buộc ph i “ đối m t với th m họa toàn cầu r i s

phá h y t t c những gì đẹp đ và tiêu diệt vô số giống loài” mà nguy cơ diệt

9

vong c a loài người như là một t t yếu.

a đời trong nỗi lo âu, sự tự v n và m c c m tội lỗi c a con người trước

hành động c a ch nh mình, Phê bình sinh thái nh n mạnh vào kh a cạnh đạo

đ c. Ứng x ngỗ ngư c c a con người với bà mẹ Trái đ t đã gây ra nhiều tai

họa. Hành động và ng x c a con người đang khiến tự nhiên nổi giận. Vậy

làm thế nào để th c t nh con người và ngăn ch n những nguy cơ s x y ra?

Trong nhiều nỗ lực mang t nh toàn cầu, văn học - một hình thái th c xã hội

đã tham gia t ch cực vào b o vệ sinh thái.

1.1.2. Tinh th n phê nh sinh th i trong văn học

“Sự nóng lên c a trái đ t”, “thay đổi kh hậu” , thiên nhiên b tàn phá

n ng nề ngoài thu hút đư c sự chú c a các nhà khoa học, nhà môi trường

học còn thu hút sự chú c a các nhà văn, nhà thơ, nhà giáo d c trên kh p thế

giới. Có kiến cho r ng hiện nay, nguy cơ lớn nh t mà loài người ph i đối

m t đó ch nh là nguy cơ sinh thái. Thế k 21 s là thế k c a trào lưu sinh thái,

là thời đại c a việc sáng lập văn minh sinh thái. Và các nhà phê bình sinh thái

th c đư c r ng, văn học nhân loại cần ph i có trách nhiệm với nguy cơ này,

bởi b n thân văn học cũng là một trong những nguyên nhân văn hóa sâu xa

tạo nên nguy cơ đó. reg arrad cho r ng: “V n đề môi trường không ch cần

phân t ch từ góc độ khoa học, mà còn cần ph i phân t ch từ góc độ văn hóa”.

Nhà văn, nhà phê bình ph i thông qua c i tạo văn học, c i tạo quan niệm văn

học để hạn chế m c lỗi với tự nhiên và thậm ch chuộc lỗi với tự nhiên. Văn

chương trên thế giới với tinh thần phê bình sinh thái đã ph n ánh một cách

trực diện những v n đề thiên nhiên, môi trường. Trong số những tác phẩm có

ngh a đóng góp to lớn với ngh a b o vệ môi trường sinh thái thế giới có

thể kể đến các tác phẩm c a tác gi người ore nó mang đến cho

người đọc r t nhiều những xúc c m sâu s c về thực trạng môi trường thế giới.

Các tác phẩm sinh thái đều nuôi dưỡng những tình c m tốt đẹp c a con người

10

dành cho à ẹ Trái đ t, đ ng thời khơi g i th c trách nhiệm c a mỗi con

người trong sự nghiệp b o vệ môi trường sinh thái c a hành tinh Xanh, nơi

duy nh t sự sống t n tại và phát triển.

So với các nước Âu - và các nước trong khu vực như Nhật n,

Trung uốc thì các nhà văn Việt Nam vẫn “ph n ng chậm” hơn.

Việt Nam là quốc gia ch u nh hưởng trực tiếp c a biến đổi kh hậu,

nguy cơ sinh thái, ô nhiễm môi trường, tàn phá môi trường. Những v n nạn y

đang đư c các phương tiện truyền thông đề cập mỗi ngày. t trái c a văn

minh đô th là sự phát triển với bao bộn bề, ngổn ngang, m t mát và tổn hại

như hiệu ng nhà k nh, ch t th i công nghiệp, lạm d ng khai thác th y điện,

đánh b t h y diệt, lâm t c, thiếc t c, vàng t c… cùng với đó là hệ qu c a

sinh thái hậu thuộc đ a, môi trường hậu chiến tranh… đang đẩy xã hội vào

qu đạo c a sự phát triển không bền vững. Con người đang ph i tr giá r t đ t

cho việc chúng ta trở nên tự ph đến m c quên c c m thông với thiên nhiên.

V n đề thời sự này đã đư c nhiều tác gi đề cập Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn

uang Thiều, Sương Nguyệt inh, Nguyễn Ngọc Tư... Nhưng với Nguyễn

Minh Châu, với sự c m nhận tinh tế đã th c đư c những v n đề sinh thái và

đ t ra một cách riêng vô cùng b c thiết.

Cũng như nhiều nhà văn khác, trong quá trình sáng tác, Nguyễn inh

Châu luôn quan tâm đến những v n đề thực tại c a đời sống, c a thời đại.

Ngay từ thời k đầu cầm bút, nhà văn đã quan niệm: “Văn học bao giờ cũng

ph i tr lời những câu hỏi c a ngày hôm nay, bao giờ cũng ph i đối m t với

những người đương thời về câu hỏi c p bách c a đời sống” 12, 401].

C m nhận đư c một trong những v n đề c a “ngày hôm nay” mà

Nguyễn inh Châu g i qua những trang viết, đ c biệt là ở truyện ng n c a

ông sau 1975, trong bài khóa luận này chúng tôi tiếp cận truyện ng n c a

11

Nguyễn inh Châu sau 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái.

1.2. T c gi Nguy n Minh Châu

1.2.1. Vài n t v cu c ời t c gi Nguy n Minh Châu

Nguyễn inh Châu (1930-1989) quê huyện u nh ưu, t nh Nghệ n.

Ông là nhà văn có nhiều đóng góp quan trọng và có v tr đ c biệt trong nền

văn xuôi hiện đại Việt Nam. à một cây bút xu t s c c a nền văn học s thi

thời kì kháng chiến chống , sau năm 1975 Nguyễn inh Châu lại thuộc

trong số những nhà văn tiên phong mở đường cho công cuộc đổi mới văn học

nước ta.

Năm 1945, ông tốt nghiệp trường K nghệ Huế với b ng Thành chung.

Tháng 1 năm 195 , ông học chuyên khoa trường Hu nh Thúc Kháng tại Nghệ

T nh và sau đó gia nhập quân đội, học ở trường s quan l c quân Trần uốc

Tu n. Từ năm 1952 đến 1956, ông công tác tại an tham mưu các tiểu đoàn

722, 7 6 thuộc sư đoàn 32 . Từ năm 1956 đến 1958, Nguyễn inh Châu là

tr l văn hóa trung đoàn 64 thuộc sư đoàn 32 . Năm 1981, ông theo học tại

trường Văn hóa ạng Sơn. Năm 1962, Nguyễn inh Châu về công tác tại

phòng Văn nghệ quân đội, sau đó chuyển sang tạp ch V qu đ i.

Ông đư c kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam năm 1972.

Vốn là một s quan tham mưu trong quân đội, Nguyễn inh Châu sống

và làm việc trước hết với tư cách là người l nh, nhưng lại viết văn. Cũng như

nhiều nhà văn m c áo l nh cùng thời, công việc sáng tác đòi hỏi người cầm

bút ph i có nhiều lăn lộn thực tế ở những nơi đầu sóng ngọn gió, ông đã tham

gia nhiều chiến d ch, đã từng tr i qua nhiều khó khăn gian khổ ở rừng Trường

Sơn. Hòa bình lập lại, ông lại có d p đi nhiều nơi, vào thành phố H Ch inh

r i trở ra Hà Nội, nhưng có l d i đ t miền Trung mới là miền đ t để lại cho

ông nhiều yêu thương, trăn trở nh t. Những năm cuối đời, ông còn p dự

đ nh viết một cuốn tiểu thuyết về cuộc chiến ở thành cổ u ng Tr . Thật tiếc

12

thay, ông không thể hoàn thành vì ông đột ngột ra đi khi đang ở giai đoạn tài

năng ch n mu i nh t. Sau hơn một năm trời vật lộn với căn bệnh ung thư máu

hiểm ngh o ông đã v nh viễn ra đi vào ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại viện

uân y 1 8 Hà Nội.

Với những đóng góp c a mình vào nền văn học Việt Nam, Nguyễn inh

Châu đã nhận đư c nhiều gi i thưởng, trong đó có i i thưởng H Ch inh

về Văn học và nghệ thuật năm 2 .

1.2.2. Sự nghiệp văn học c a Nguy n Minh Châu

Nguyễn inh Châu là một trong số t nhà văn mà sự nghiệp sáng tác

ph n ánh tương đối trung thành quá trình vận động, phát triển c a văn xuôi

Việt Nam đương đại. Các sáng tác c a Nguyễn inh Châu mang giá tr nội

dung và giá tr nghệ thuật sâu s c:

1.2.2.1. Gi tr n i dung

Các sáng tác c a Nguyễn inh Châu trước 1975 mang đậm t nh ch t s

thi với th c cộng đ ng và c m h ng anh hùng, c m h ng ng i ca có thể kể

đến các tác phẩm như: s u c ười tr cuối

r Trong các tác phẩm này, nhà văn đã ph n ánh k p thời những hình nh

sinh động c a cuộc chiến đ u và hình tư ng cao đẹp c a những con người

Việt Nam thuộc nhiều thế hệ, đ ng thời, ông cũng phát hiện và suy ngẫm về

nhiều v n đề c a đời sống xã hội và số phận con người trong chiến tranh.

Sau 1975, dân tộc ta bước sang một thời k mới, từ cu c c iế đ u c

qu số c c d t c chuyển sang cu c c iế đ u c qu số

c t c ười”[7, tr284]. Nền văn học dân tộc đ ng trước nhu cầu ph i

mở rộng hơn nữa biên độ ph n ánh để có thể bao quát và truyền t i những v n

đề b c xúc thời hậu chiến. à một nhà văn có tâm huyết và có trách nhiệm

với nghệ thuật, Nguyễn inh Châu đã âm thầm tự đổi mình trên các trang

viết. Và các sáng tác c a ông l y bối c nh là đời thường l u nay văn học chưa

13

có điều kiện để ph n ánh, l gi i những v n đề mới mẻ, độc đáo c a cuộc

sống... ng “sự dũng c m điềm đạm” 10;tr34], Nguyễn inh Châu đã đối

ch ng lại những quan niệm sơ lư c ho c phiến diện một thời về nhân sinh,

thế sự, đ u tranh cho sự hoàn thiện ch nh mình c a con người và ngày càng

hướng sự quan tâm tới một dòng mạch trăn trở, ám nh trong suốt cuộc đời

văn c a ông: v đ v số p c ười Các tác phẩm c a ông trong giai

đoạn này mang đậm t nh triết l , thông điệp, những trăn trở về cuộc đời và con

người sâu s c.

1.2.2.2. Gi tr nghệ thuật

à một trong “ v đườ ti v t i t [7,

tr250], Nguyễn inh Châu nhận th y r ng “ cu c đời vố đ s c ười t

đ đ ng sự tinh tế trong c m nhận những đổi thay c a xã hội, Nguyễn

inh Châu đã tự làm mới các trang viết c a mình b ng cách đổi mới nghệ thuật

và sự đổi mới táo bạo y mang lại thành công trong sự nghiệp sáng tác c a ông.

Các sáng tác c a ông mang giá tr nghệ thuật độc đáo, có khi hướng vào thế giới

nội tâm, là sự tự nhận th c, tự phê phán con người dưới ánh sáng c a lương

tâm,đạo đ c... lại cũng có khi hướng cái nhìn nghệ thuật ra bên ngoài, ra cuộc

sống đời thường, là sự nhận th c và phê phán cái x u xa, cái ác trong đời sống

thường ngày. T t c các tác phẩm sau 1975 đều đư c viết dưới quan điểm nghệ

thuật:ch ra m t x u, m t tối để góp phần hoàn thiện nhân cách con người, làm

cuộc sống tốt đẹp hơn đúng như nhà văn Nguyễn inh Châu từng kh ng

đ nh: N v c qu s t t t c c đ i v c

p đ u đ đ i b c t c ười v c c t g s u c s

14

Chư ng 2. C M QUAN PHÊ BÌNH SINH THÁI TRONG TRUYỆN

NGẮN NGUY N MINH CH U SAU 1975

“Phê bình sinh thái nghiên c u mối quan hệ con người và môi trường

2.1. C m quan sinh th i tự nhiên

vật ch t xung quanh. Cũng giống như phê bình nữ quyền từ góc độ giới t nh

mà phê bình ngôn ngữ và văn học. Phê bình mác x t đem phương th c s n

xu t và tự giác giai c p làm nguyên t c đọc hiểu văn b n, thì phê bình sinh

thái l y tư tưởng qu đ t làm trung tâm để phê bình văn học” 16 . C m quan

sinh thái tự nhiên là cái nhìn, sự c m nhận trực tiếp, thể hiện mối quan hệ c a

con người với môi trường tự nhiên. Phê bình sinh thái ra đời như một ph n

ng t ch cực trước tình trạng môi trường toàn cầu đang ngày một x u đi.

Trước tình trạng môi trường toàn cầu ngày b tàn phá n ng nề y, văn học

không thể đ ng ngoài vòng tròn y mà nó ph i thực hiện s mệnh thiêng liêng

c a nó lên tiếng, ph n ánh th c t nh con người. ường như con người đang vì

l i ch cá nhân, thỏa mãn nhu cầu c a con người mà b t ch p tự nhiên, quên

đi sự t n tại c a thiên nhiên, đối x tàn nhẫn với thiên nhiên, khai thác vô độ

tài nguyên thiên nhiên dẫn đến h y hoại môi trường. Nếu c tiếp t c theo đuổi

quan niệm này, nhân loại s đi đến th m c nh là tự đào huyệt chôn mình vì

con người quên đi một điều r ng: “con người trừng tr thiên nhiên b ng cách

hạ nh c, h y hoại nó, còn thiên tr thù b ng cách: Nó biến m t”. à một nhà

văn có nhãn quan tinh tế Nguyễn inh Châu nhận th c đư c những v n đề

c p bách s p diễn ra nên các tác phẩm c a Nguyễn inh Châu sau 1975 tiêu

biểu b ng các tác phẩm như iếc t u i ố i v i c

Bế quê c quê r ,... đều là biểu hiện c a không gian tự nhiên. Đó là

những tác phẩm thể hiện sự yêu thương, tôn trọng c a con người với tự nhiên,

chống lại sự l i d ng, chinh ph c, khống chế, c i tạo, tước đoạt và tàn phá tự

15

nhiên c a con người.

2.1.1 Kh ng gian th n d ang l ng quên

à nhà văn c a những điều bình d nên không gian thôn dã xu t hiện

không t trong tác phẩm Nguyễn inh Châu. Tác phẩm Bế quê là không

gian thôn dã. Không gian thôn dã là hình dung về môi trường sống hiện hữu

trong những diễn ngôn văn hóa về làng c nh đ ng quê với hàm ban đầu

nh n mạnh đến niềm vui gi n d c a cuộc sống chan hòa giữa thiên nhiên

thanh bình. Từ bao đời nay, cái bến đã đi vào tâm th c người Việt như một

điểm hẹn, một bến đỗ bình yên. Không gian bình d c a bến vẫn g n với

những lối sinh hoạt tập thể thường nhật c a vùng nông thôn Việt Nam, g n

với lối suy ngh mộc mạc, chân ch t c a người bình dân. Nó g n với k c

tuổi thơ c a biết bao người. Có ai đã nói r ng: “Những k niệm thân thương

nơi quê nhà thời thơ u đáng để ta nhớ và kh c ghi trong lòng. Trong sâu

th m hững hoài niệm y, hình nh “bến quê” lại hiện lên cùng nỗi nhớ, nỗi

day d t khôn nguôi. Nhớ nỗi đau thương h n sâu từ muôn thuở, nhớ bến nước

nơi làng nhỏ thâm tình”. Ch nh vì vậy mà bến quê cũng là nơi bao người xa

quê nhớ và mong ngày trở về. Cũng như nhiều truyện ng n khác c a mình,

trong Bế quê Nguyễn inh Châu cũng xây dựng đư c những tình tiết đ c

biệt để từ đó nhân vật bộc lộ tâm sự c a mình. Nhân vật ch nh trong truyện -

Nh một người đã từng đi kh p xó x nh nhưng cuối đời lại cột ch t mình bên

giường bệnh vì căn bệnh hiểm ngh o, muốn di chuyển cũng ph i nhờ đến v

con. Và một buổi sáng trong những ngày cuối đời mình, anh đã nhận ra đư c

vẻ đẹp c a bãi b i bên kia sông H ng, nơi bến quê quen thuộc một vẻ đẹp

bình d mà hết s c quyến rũ:

“ ên kia những hàng cây b ng lăng, tiết trời đầu thu đem đến cho con

sông H ng một màu đỏ nhạt, m t sông như rộng thêm ra. Vòm trời như cao

hơn. Những tia n ng sớm đang từ từ di chuyển từ m t nước lên những kho ng

16

bãi bờ bên kia sông và c một vùng phù sa lâu đời c a bãi b i bên kia sông

H ng lúc này đang phô ra trước khuôn c a sổ c a gian gác nhà Nh một th

màu vàng thau xen với màu xanh non - những màu s c thân thuộc quá như da

th t, hơi thở c a đ t màu mỡ ”[4;321].

Những hình nh bãi b i bên sông và toàn bộ khung c nh thiên nhiên

đư c dựng lại trong truyện thực ra mang ngh a khái quát, biểu tư ng sâu

s c. Đó là vẻ đẹp c a đời sống trong những cái gần gũi, quen thuộc nhưng

ph i đến những ngày cuối đời Nh mới th u hiểu đư c. Bế quê ch nh là bến

bình yên, bến đậu và điểm tựa cho cuộc đời anh ch nh là gia đình, nơi có

người v suốt đời tần t o, thầm l ng và hi sinh, rộng hơn là quê hương x

sở. ến quê là hình nh thể hiện thiên nhiên, sự bao dung c a thiên nhiên với

con người, thiên nhiên luôn dang rộng vòng tay chào đón con người. ù cho

con người có đi đâu thì thiên nhiên luôn chở che, bao bọc con người. Cái bãi

b i bên kia sông là hình nh thiên nhiên gần gũi mà xa lạ c a Nh . Cũng

giống như Nh con người ta thường quên đi những cái gì đó gần gũi, m áp để

tìm đến với những cái xa lạ mới mẻ, r i đi hết c cuộc đời mới nhận ra r ng

ch ng thể đi đâu đó hết cuộc đời mà vẫn ph i quay về với cái ến quê. Những

ngày cuối cuộc đời, trong cái dòng ch y c a suy ngẫm và tình c m mới xu t

hiện nơi Nh , thiên nhiên như đẹp hơn, chiếu vào cuộc đời Nh cái nhìn gần

gũi, trìu mến hơn t t c những gì anh đã từng đư c biết. Sáng đầu thu hiện lên

trong không gian gần xa như một b c tranh lên cái thần s c c a c nh s c. Đó

là những bông hoa b ng lăng nở muộn s c đang phai giữa không gian vời v i

trong v t c a bầu trời. N ng soi lên dòng sông uốn lư n mềm mại, đỏ nhàn

nhạt màu nước phù sa, soi lên cái chiều rộng, chiều sâu c a bãi b i ngay trước

khung c a sổ. Nó là tâm điểm cũng là cái thần s c c a b c tranh... Nh say

sưa chiêm ngưỡng vẻ đẹp đến kì lạ y, chiêm ngưỡng trong sự b t ngờ, ngạc

nhiên đến th ch thú. Cũng ph i thôi, sau bao ngày in gót kh p năm châu, đây

17

là những phút cuối cùng anh đư c sống thanh th n giữa quê hương , giữa

những c nh vật, con người đã ngàn lần phô ra trước m t. nh th y nó đẹp đến

kì lạ, bởi vì đó là lần đầu tiên anh say sưa chiêm nghiễm nó, say sưa khám

phá cái ẩn mình bên trong lớp vỏ gần gũi, hiền lành đã quen thuộc b y lâu. Có

l anh đã yêu, yêu tha thiết sự giàu có, đơn sơ, gần gũi mà vô cùng mới mẻ

c a thiên nhiên. Nhưng khi tình yêu y chớm nở, cũng là lúc Nh nhận ra nó

đã nhen lên trong vô vọng, lúc này cái bến quê y thật xa vời với Nh , dù ch

cách đôi bờ ngầu đỏ c a con sông quen thuộc nhưng mãi mãi là miền đ t xa

l c, Nh không thể đến với nó đư c mà ch đư c nhìn từ xa qua ô c a sổ gần

chiếc giường nơi anh n m. nh khao khát một lần đư c đ t chân lên m nh đ t

gần gũi mà xa lạ y.

Cái bờ bên kia không dừng lại ở ngh a hiện thực nữa, nó hàm ch a

những giá tr biểu tư ng vô cùng thiêng liêng. ến bờ y cũng có thể là cuộc

đời chưa đi tới, phần cuộc đời mà mỗi người đều muốn khám phá dù biết r ng

nó là không giới hạn. Bến bờ y cũng có thể là bến đậu quê hương, bến đậu

cuộc đời, bến đậu c a những giá tr tinh thần gần gũi mà ngh a. ãi b i, bến

sông, con đò như một phần v c a cuộc sống, đơn sơ, gi n d g n bó như

ch nh gia đình, như ch nh quê hương. Khao khát tìm đến những giá tr gần gũi

nhưng đ ch thực trong cuộc sống, nơi quê hương mà con người b ng bột với

nhiều ham muốn thời trai trẻ đã bỏ qua. Nó là một sự thực t nh có xen niềm

ân hận và nỗi xót xa. Niềm ân hận và xót xa khi con người đã nhận th c đư c

quy luật kh c nghiệt c a cuộc đời. Trong Nh đã có phần nào sự th c t nh và

hối hận bởi có sự lãng quên những giá tr bình d c a thiên nhiên mà theo đuổi

cái gì đó xa xôi để đến khi nhận ra đư c giá tr thật c a thiên nhiên thì đã trở

nên quá muộn. Thiên nhiên luôn đ ng đó nhưng chúng ta liệu còn cơ hội mà

gần gũi với nó nữa không. Đó là một câu hỏi lớn đư c đ t ra cho ch nh cái xã

18

hội ngày nay?

2.1.2 M i trường phố th trước nh ng nguy c

Nếu trong t r p ư N , Đoàn iỏi chọn một cậu b thành phố

lưu lạc về miền sông nước làm nhân vật ch nh, l y con m t chiêm ngưỡng, lạ

lùng, tò mò c a người thành phố để nhìn vẻ đẹp sông nước mênh mông, giàu

có thì nhân vật c a Nguyễn inh Châu sống, lớn và vật lộn trên m nh đ t quê

hương c a mình nên đó là cái nhìn c a người trong cuộc nhận th y sự thay

đổi, phai nhạt c a quê hương mà xót xa, đ ng đót. ởi l đó mà bác Thông

trong truyện ố i v i c nh không thể hình dung nổi đến một ngày,

những m nh sinh thái nhỏ b b triệt hạ để ph c tùng cho tham vọng về một

th đô hiện đại hơn. Ngay ch nh Huân trong tác phẩm, chàng trai trẻ Sài òn

giàu nhiệt huyết đại diện cho l tưởng thay đổi, cũng không thể lường trước

đư c r ng: Sự dung hòa giữa không gian đô th với môi trường sinh thái, thực

ch t, là v n đề nan gi i đến m c nào. Trong thực tế, không thể ph nhận s c

h p dẫn quá lớn c a đời sống đô th mà b t c cái nhìn “lãng mạn hóa” nào về

các hình thái không gian khác cũng không thể xóa bỏ đư c. So sánh với

những h p lực đô th , vẻ cách biệt hoang vu hẻo lánh, hay sự gi n đơn c a đời

sống nông thôn trở nên thật quá nhàm tẻ, chán chường, thiếu cuốn hút. Đó là

l do khiến cho những người sinh ra và lớn lên ở các không gian đô th khó

lòng từ bỏ nơi chốn ban đầu c a họ. Việc quay lưng hoàn toàn với đô th để

tìm đến một hình thái không gian khác “k m phát triển” hơn, đến bây giờ, vẫn

là một điều t x y ra và thường đi k m với những huyền thoại về sự hi sinh vì

l tưởng. Phổ biến hơn c vẫn là c m th c về nỗi nhớ đô th , hoài niệm đô th

c a những kẻ buộc ph i rời xa, hay trốn tránh nó vì chán chường b t mãn.

Tác phẩm trước hết k o tr tưởng tư ng c a người đọc vào l ch s , nh c

lại với chúng ta r ng, sự xu t hiện c a không gian đô th , không gì khác, là hệ

qu lâu dài c a một quá trình chinh ph c tự nhiên: “Đúng, đời sống loài người

19

là một chuỗi dài quá trình chinh ph c thiên nhiên . Thế nhưng, “thật là thiếu

thỏa đáng, và thậm ch nguy hiểm nếu không ngh đến công việc hòa h p với

thiên nhiên: Từ giữa phố phường chật hẹp đông đúc có bao giờ các bạn đi ra

sông H ng nghe tiếng hát c a phù sa và bờ bãi Đã bao giờ các bạn dừng

bước trên h phố nâng một cành cây b gẫy Có ph i tình yêu c a các bạn

đư c e p nói lên trong màu xanh c a hàng cây Và nh t là tuổi thơ, hãy tr

lại cho tuổi thơ những nội cỏ và bóng râm mát c a cổ th , qu s u gi m và

c m giác đi trong rừng”[4,tr 411]. Tự nhiên trong nguyên b n c a nó là nơi

chốn, là nơi ta đư c sinh ra và lớn lên, nơi tiếp nhận tiếng khóc chào đời c a

ta, cái nôi nâng đỡ và xoa d u con người, là nơi ươm mầm những tình c m

đẹp đ nh t, thánh thiện nh t. Vậy mà, một ngày kia, ta bỗng quên đi điều

gi n d b n nguyên y.

Những trang viết c a Nguyễn inh Châu cho th y sự nhạy c m c a ông

trước sự “ph n bội” quá nhanh c a y c a con người. Họ đang chuẩn b cưa

ng n những cành cây quá dài lâu nay vẫn đổ bóng mát xuống tận lòng đường.

Họ đang om sòm th o luận về việc nên hạ m y cành lớn xuống theo cách nào

để không x y ra tai nạn, không làm sập cái nhà; “nhà nào nhà n y đã ch t lù

lù một đống c i cành s u. Thật ra là một yến tiệc cho thiên hạ”. Những chi

tiết y cho th y sự ch k c a con người. Và còn đau lòng: “ch còn một cái

thân cây gỗ tươi tr i thui l i. Kẻ đư c hưởng bóng mát nhiều nh t là lũ trẻ

phố ch và gia đình m y hàng phở quanh ngã tư vừa nghe tin hạ cây s u, lập

t c xông vào lột da nó, như lột da một con bò ở lò sát sinh. Cây s u vẫn đ ng

th ng với một cái thân đã b lột vỏ đang a nhựa, ở những kho ng vỏ mới b

lột nom đỏ hỏn như da đ a trẻ sơ sinh...”[4,413]. ư n cái nhìn c a bác

Thông, Nguyễn inh Châu đã miêu t hết s c sinh động c nh tàn sát thương

tâm cây s u già. Cái cây s u vô tội bỗng chốc đã hiện lên như một thi thể b

hành quyết. Những so sánh liên tiếp vừa kh c họa cây s u như một sinh thể

20

sống, vừa cho th y sự vô tình tàn nhẫn c a con người. Trước những món l i

vật ch t trước m t, chúng ta dễ dàng đánh m t đi kh năng giao tiếp với tự

nhiên , cũng có ngh a, dễ dàng đánh m t đi c m giác về ch nh mình như một

phần da th t c a thế giới. iao c m y không cần đến l tr , không cần đến th

ngôn ngữ khác biệt mà con người tự tạo cho mình, cũng không cần đến những

huyền thoại văn hóa. Nó đơn gi n ch là những c m giác với thiên nhiên như

ch nh một phần thân thể c a mình: “cây s u vẫn bình th n mà ông lão th y

đau, y như s p ph i đ ng để người ta cưa tay cưa chân mình. i bỗng tiếng

cưa máy c xo n xoẹt c a vào th t da ông lão”; ông “không đ can đ m nhìn

cái phần xương th t đ o ra từ cơ thể sống c a một người thân yêu”; “kiệt s c

vì đau đớn và cô độc, ông lão như một cái cây cổ th trăm tuổi đang s p ngã

xuống m t đ t”[4,451].

C nh ch t hạ cây s u cổ th từng tạo ra c một môi trường mát mẻ cho

một góc phố, đ ng thời từng là một ch ng t ch l ch s , đã đư c truyền đạt đầy

biểu c m như một cuộc hành hình th m hốc. Nhà văn miêu t một cách phẫn

nộ vẻ thỏa mãn nông nổi c a những kẻ triệt phá môi trường nhân danh thực

hiện việc đư c giao dọn dẹp m t b ng để c i tạo khu phố , mà còn nhân danh

những l i ch nhỏ mọn, những m nh vỏ và cành lá làm c i... Tác gi đã miêu

t một cách r t chân thực về hình nh những con người vì m c đ ch tư l i

riêng mà tàn sát thiên nhiên. ác Thông trong tác phẩm trước m t mọi người

b coi là một con người “dở t nh”, lẩn thẩn nhưng với thiên nhiên cây cối bác

là một v khách duy nh t tại “đại hội các loài cây”, là người thông hiểu ngôn

ngữ c a cây cối trước hành động coi là tàn nhẫn y c a những kẻ phá môi

trường bác tuyệt vọng đã su t tự t nếu không có bà bạn láng giềng ngăn c n.

ác yêu thiên nhiên đến thế nhưng cũng b t lực trước việc đám đông nh t tr

triệt hạ thiên nhiên một cách vừa có tổ ch c vừa vô tổ ch c. Con người cao

thư ng như bác đã trở nên lẻ loi. Từ cái hành động đối lập giữa một bên là

21

đám đông và một bên là bác Thông cho th y xã hội phát triển, con người chạy

theo cái đô th hóa mà trở nên vô c m, lãnh đạm trước thiên nhiên, coi những

con người yêu thiên nhiên là “dở hơi”. Đ t nước phát triển k o theo đó là sự

suy đ i về đạo đ c, con người vô tình đã trở thành những nỗi ám nh,s hãi

c a thiên nhiên. à một nhà văn tinh tế c m Nguyễn inh Châu đã c m nhận

đư c tiếng kêu c a tự nhiên ông đã viết thiên truyện này với nhiều niệm g i

g m sâu xa.

đoạn kết, Nguyễn inh Châu viết chuyện c a hai ch c năm sau. Khi

bác Thông đã m t, vào một chiều thu nào đó, bà bạn già xưa bán xôi lúa và cô

láng giềng buôn tem phiếu sau này là nhà văn, c hai người đàn bà đều nhớ

đến bác Thông. Họ nhớ đến người bạn trung thành c a cây cối nọ trong hoàn

c nh khu phố hiện đại đã mọc lên, không còn bóng dáng nhà c a, cây cối c a

phố xã cũ. Tốc độ đô th hóa quá nhanh tưởng như không buông tha b t c

một c nh quan nào còn dung hòa với vẻ đẹp thiên nhiên. Những h i tưởng về

thời thơ b để tìm sự thư thái cho tâm h n, tìm lại nh p chậm để cân b ng với

những th tốc độ luôn quá t i c a công nghiệp hóa. Họ mong đư c nghe tiếng

xe bò lọc cọc c a bác Thông chở cây con đi tr ng,niềm mong mỏi y dường

như vô vọng. Trong thời buổi xã hội công nghiệp hóa con người ta vì l i ch

c a b n thân mà quên đi mọi th xung quanh, họ không còn để tâm đến thiên

nhiên. Cuộc sống hiện đại đã l y khi kh năng l ng nghe và th u hiểu c a con

người với thiên nhiên, thiên nhiên không còn là bạn với con người mà nó đã

trở thành công c con người. Con người thay đổi thiên nhiên một cách chóng

m t. Những không gian làng quê đã b phá h y và không ai khác ch nh con

người đã gây nên những thay đổi y, đã ch n đ ng con đường trở về.Từ nỗi

s hãi, chạy trốn đến bi k ch không thể trở về là một hệ l y t t yếu. ởi động

lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển đô th , thực ch t, ch nh là sự suy thoái

22

và h y diệt không gian khác. Văn học, trong một bối c nh mà đô th hóa đã

trở thành v n đề trọng yếu thể hiện những dự c m và nỗi hoang đó theo cách

c a riêng mình trước thực trạng xã hội và sự h y diệt môi trường.

Thông qua tác phẩm thể hiện đư c niềm mong mỏi sự g i g m c a tác

gi ở xã hội hậu công nghiệp s xu t hiện trở lại kiểu người luôn luôn là bầu

bạn c a thiên nhiên, luôn luôn tạo dựng một cuộc sống g n bó với môi trường

văn hóa l ch s . Sự mong ngóng bóng dáng trở về c a những con người như

bác Thông trong thời đại công nghiệp dường như là một điều vô cùng khó

khăn nhưng cũng thể là không có.

Cũng giống như ố i v i c tác phẩm c quê r cũng

nói đến những tình thế c a quá trình đô th hóa, công nghiệp hóa.Trong truyện

Huệ - một người con gái thành th - l y một anh ch ng dân quê và buộc ph i

cùng người ch ng “th ch nghi” trở lại với đ t đai nguyên th y đã cho th y r

n t điều này. Xu t thân là “một cô gái thành phố ch nh cống”, m Huệ ch p

nhận l y lão Khúng không ph i vì tình yêu, cũng không ph i vì mong muốn

một cuộc sống thôn quê. Sự ra đi c a Huệ là để từ biệt một cuộc tình ph bạc,

để che gi u b n thân và đ a con vô thừa nhận cô đang mang trong b ng.

Ngh a là, lựa chọn y ch như một “bước đường cùng” trong hoàn c nh không

thể tránh khỏi. Nỗi nhớ về anh người yêu “thành phố” hay về không gian, đời

sống thành phố lúc nào cũng hiện diện trong tâm tưởng Huệ, ngay c khi đã b

“lão Khúng biến thành một cái máy đẻ” hay sau gần hai mươi năm bỏ đi, m

không còn “đ t chân đến một thành phố nào c , kể c cái th tr n lâm nghiệp

cỏn con”[4,376]. S c quyến rũ y không ch đến với m Huệ mà còn hiển th

hết s c r n t ở những đ a con c a m : đời sống đô th - cái niềm mơ ước

thật xa lạ c mỗi ngày một hiện ra trong lòng những đ a con c a m Huệ một

cách c thể, như một tiếng gọi c a thời đại, nh t là vào những tháng cuối

năm, mùa cà chua, chúng ph i đ o những sọt cà chua ch n đỏ xuống bán tận

23

dưới ch Vinh. Quá trình đô th hóa, công nghiệp hóa s tác động ra sao đến

th c người nông dân. c dù đã đư c nhà văn chuẩn b b ng r t nhiều liên hệ

cốt truyện, c trong văn b n lẫn dưới “mạch ngầm”, c những điều h p l lẫn

những điều khiên cưỡng, nhưng xem ra vẫn chưa trở thành một cách đ t v n

đề sâu s c, có s c n ng. ốt cuộc s c h p dẫn c a truyện là ở b c v đ c s c

về chân dung một người nông dân, đầy những đường n t “g ghề, góc cạnh”

như nhiều người vẫn ao ước. ão Khúng, qua sự sáng tạo c a Nguyễn inh

Châu, có thể nói là một sự bổ sung x ng đáng vào bộ sưu tập các hình tư ng

nông dân trong văn học Việt Nam hiện đại. Và ở đây, n t kh c riêng biệt c a

Nguyễn inh Châu không ph i ch là ghi đư c trên khuôn m t nhân vật

những d u n c a vùng đ t Nghệ T nh kh c nghiệt. Cái ch nh ở đây là ông đã

nh n mạnh khá đúng lúc, đúng chỗ t nh ch t lập nghiệp, tham vọng lập nghiệp

ở người nông dân, và điều này s cho ph p nhân vật có thể mang t nh ch t đại

diện cho cái bộ phận người đông đ o ở ngoài c vùng đ t c a nó, hơn nữa cho

ph p nó mang “hơi thở” c a thời đại. ột n t khá đ c s c là cái không gian

sinh t n mà tác gi tạo cho Khúng: một th không gian hoang vu hẻo lánh

kiểu obinson, nó heo hút đến nỗi hình như b t c cô gái nào − như Huệ, dù

là gái thành th ch nh tông − đã lạc đến là không có đường về. Có l vì muốn

nh n mạnh t nh ch t cổ lỗ ở Khúng nên tác gi đã miễn cho nhân vật khỏi b

kiểm tra bởi thực tế h p tác hóa, cái thực tế đã in d u đậm lên diện mạo nông

thôn kh p miền c suốt ba ch c năm ròng! Có thể nói, với t t c vẻ đ c s c

khá “tầm cỡ” c a nó, hình tư ng lão Khúng khiến cho người ta th y mẫu

người nông dân thật v đại, nhưng không thể nào ch p nhận đư c trong xã hội

công nghiệp đô th hóa tương lai. ột cô gái thành th ph i buộc sống suốt

đời với lão Khúng, có với lão đến c một đàn con mà vẫn không thể yêu đư c

y, bởi đó là một ch t người khác, đô th không thể ch p nhận. Tác phẩm là sự

24

đối lập giữa không gian thành th hiện đại, n ào và ngột ngạt với khung c nh

làng quê h n nhiên, hoang dã và thanh bình – nơi lão Khúng nguyện g n bó

suốt cuộc đời.

Cái tưởng về một tương lai công nghiệp hóa, đô th hóa, dù tác gi đã

đem san sẻ cho các nhân vật: cho Huệ - v Khúng, cho con cái Khúng − vẫn

c còn là mơ ước hơn là một thực tế s p s a đến và có s c thay đổi t t c .

Tương lai đó như một th gi đ nh để hiểu b n ch t nông dân cố hữu c a

Khúng hơn là như một cái gì có thể “đe dọa” cách sống và sự nghiệp một đời

c a người nông dân y. Với một t nh cách như vậy, với một đ tư tưởng

như tác gi đ nh thực hiện thì có l t ra cũng ph i dùng tới hình th c truyện

vừa mới đ chỗ thể hiện.

Nếu ta đ t vẻ ngang tàng r t “tầm cỡ” c a lão Khúng bên cạnh vẻ cam

ch u đầy kiên gan c a người đàn bà chài lưới trong iếc t u i ,

ho c vẻ lù dù c a bác Thông − ông già tr ng cây “biết nói chuyện với cây

cối” trong ố i v i c − thì ta có thể th y một h ng thú sáng tác

r rệt c a Nguyễn inh Châu: h ng thú phát hiện t nh ch t “tầm cỡ” trong

đời sống thường ngày c a những con người lao động bình thường. Đây cũng

là một n t nữa, cho th y t nh dân ch r t cao trong th c nghệ thuật c a nhà

văn. m nh đô th trong c quê r c a Nguyễn inh Châu, trong đô

th là một biểu tư ng k p – vừa như một mối đe dọa tha hóa, m t gốc, vừa

như một nỗi khao khát khó vươn tới. Tác phẩm dù chưa đư c nói một cách

trực tiếp nhưng phần nào đã nêu lên một tư thế, một thái độ sống hay có thể

nói, một ph n ng khá quyết liệt trước cuộc sống nhiễu nhương xô b tù ng c

nơi phố th ph n hoa. ời bỏ thành phố nhưng ẩn ch a sau đó là sự rời bỏ t t

c những gì đang nhân danh văn minh, công nghệ, k thuật, tiến bộ, hiện đại...

để bóp nghẹt và giết chết con người, biến chúng ta thành cỗ máy vô c m,

những ổ đ a c ng nh c ch biết tự bao bọc l y mình, trong l ng k nh. Nguyễn

25

inh Châu với kh năng nhạy b n c a mình ông đã đoán trước đư c cái m t

tiêu cực c a quá trình đô th hóa, ông có đầy đ l do để ph nhận lại cái

không gian đầy s c hút mà bao nhiêu con người thời nay vẫn cố lao đến nh m

hi vọng về sự đổi đời hay thỏa mãn những tham vọng về sự đ đầy vật ch t.

Nhưng con người ta đâu biết r ng mọi quá trình phát triển s trở nên không

bền vững nếu như chúng ta không quan tâm đến b o vệ môi trường, cần ph i

kết h p giữa m c tiêu kinh tế và m c tiêu sinh thái trong quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nên s n xu t xã hội cần ph i thực hiện thêm ch c

năng tái s n xu t các ngu n tài nguyên thiên nhiên.

2.1.3 M i trường i n ang nhi m

Trong tác phẩm iếc t u i thì tác gi muốn nói tới một

không gian khác đó ch nh là không gian ở biển. ng việc đi thực tế ch p nh

c a nhiếp nh Phùng Nguyễn inh Châu đã dẫn d t bạn đọc đế một vùng

biển v ng vào tháng b y, nơi có phong c nh “ thật là thơ mộng”. Thiên nhiên

đư c tác gi nói tới như đẹp như một b c tranh hoàn m . B c tranh thiên

nhiên hoàn m y ch nh là b c nh mà Phùng đã chớp đư c một cách kì diệu

về chiếc thuyền ngoài xa đang thu lưới trong biển sớm sương mờ “mũi thuyền

in một n t mơ h , lòe nhòe và bầu sương mù tr ng như sữa... đang hướng m t

vào bờ”[4,344]. Và với Phùng đây đư c coi là kho nh kh c có một không hai

trong đời cầm máy c a mình. ởi từ cái khung c nh sông nước đến con người

ngư ph , từ đường n t, màu s c ánh sáng t t c đều hài hòa đẹp, một vẻ đẹp

thực đơn gi n và toàn b ch. Trong con m t Phùng c nh tư ng đó giống như

một b c tranh mực tàu c a một danh họa cổ. Đó là vẻ đẹp mà có khi c đời

Phùng ch đư c ng m một lần. Đ ng trước khung c nh có một không hai c a

hóa công người nghệ s nhiếp nh trở nên “bối rối” “trong trái tim như có cái

gì đó bóp th t vào”. Điều đó cho th y vẻ đẹp c a thiên nhiên đã tác động

mãnh liệt đến tâm h n c a người nghệ s khơi dậy c m xúc thăng hoa kì diệu.

26

Trong tác phẩm dù chưa đư c nói một cách c thể nhưng t nhiều cũng đã nói

tới phê bình sinh thái. ối quan hệ c a môi trường tự nhiên với con người.

thiên nhiên và con người luôn có mối quan hệ g n bó khăng kh t với nhau.

Thiên nhiên cũng là nơi để con người thanh lọc tâm h n, gột r a tâm h n con

người làm cho tinh thần con người trở nên ph n tr n hơn, yêu cuộc sống hơn

và có niềm tin hơn vào cuộc sống.Đ ng trước c nh đẹp c a thiên nhiên con

người ta th y rung động và thiêng liêng. Ch vậy mà thiên nhiên luôn đề tài,

ngu n c m h ng cho biết bao thi nhân - những con người có tâm h n nhạy

c m và cái nhìn tinh tế. Đối với con người thiên nhiên thật sự quan trọng, nó

vừa là môi trường sống vừa là ngu n c m h ng vô cùng vô tận. Nghệ s

Phùng cũng là một con người có tâm h n nhạy c m, yêu cái đẹp nên khi đ ng

trước c nh đẹp c a thiên nhiên miền Trung, Phùng dường như b hút h n, anh

tưởng ch nh mình vừa khám phá th y kho nh kh c trong ngần c a tâm h n.

nh đã không suy ngh gì khi b m “ liên thanh” một h i hết một phần tư cuốn

phim, thu vào chiếc máy nh cái kho nh kh c tràn ngập tâm h n mình, do cái

đẹp tuyệt đ nh c a ngoại c nh vừa mang lại, cái đẹp c a sự toàn thiện.

Nhưng từ sau đó, iếc t u i c a Nguyễn inh Châu còn

ngầm nói đến sự phê bình sinh thái. c tranh thiên nhiên hoàn m có một

không hai y, sự hòa quyện giữa thiên nhiên với con người y thật sự hiếm

hoi. Con người ta hình như vì l i ch c a b n thân mà quên đi m t sự t n tại

c a thiên nhiên, thiên nhiên đang ngày càng b tàn phá n ng nề. ôi trường

biển ngày càng b ô nhiễm, h y hoại. Khai thác thiên nhiên một cách bừa bãi

ch nh là nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái về môi trường. Không có gì là mãi

mãi, không có gì là vô tận, hãy trân trọng những gì thiên nhiên có và hãy c t

giữ thế giới này. Thiên nhiên đẹp toàn b ch, nó mang lại nhiều ngu n l i cho

con người nhưng con người ph i biết khai thác một cách h p l . Đừng ch

nhìn bề ngoài đẹp đ c a thiên nhiên mà quên đi những gì con người đã đối

27

x với nó, những gì thiên nhiên ph i ch u đựng.Vì trên thực tế, chúng ta b o

vệ môi trường là để có nó ph c v cho ch nh chúng ta đư c lâu hơn, tốt hơn,

ph c v cho nhu cầu l i ch c a nhân loại, là để nhân loại có một không gian

sinh t n và phát triển tốt hơn. Ph i nâng niu trân trọng và b o vệ thiên nhiên.

Tóm lại, phê bình văn hóa tự nhiên là nói lên mối quan hệ c a tự nhiên

với con người. Văn học nghệ thuật ph i xây dựng lại mối quan hệ hài hòa

giữa con người với tự nhiên thì mới có cái đẹp. Từ góc nhìn này soi rọi vào

tác phẩm Nguyễn inh Châu để đánh giá thành công c a tác gi chúng ta

th y qu th y những trang viết c a Nguyễn inh Châu thật gây ám nh độc

gi b ng những hình hết s c bình d , cái bến quê và bãi b i bên sông, biển với

cuộc sống mưu sinh c a dân làng chài... Thiên nhiên là ngu n an i, động

viên lớn nh t c a con người. Thiên nhiên là người bạn lớn v nh h ng c a con

người mà ở đó, những bu n đau, lo âu c a con người đư c xua tan. Th u hiểu

đư c cuộc sống xô b , n ào, chán chường mệt mỏi, thiên nhiên ch im l ng,

v nh c u luôn bên cạnh con người, con người có thể quay lưng với tự nhiên

nhưng tự nhiên không bao giờ ph nhận con người. Ngày nay,ch ngh a nhân

văn mới do phê bình sinh thái đề xu t không tách rời tự nhiên và văn hóa mà

nối lại mạch sống ngàn đời c a con người với tự nhiên, coi con người là một

phần cộng sinh c a tạo hóa.

Thông qua những hình nh về tự nhiên trong các tác phẩm c a Nguyễn

inh Châu cho người đọc nhận ra những việc làm c a b n thân với tự nhiên

r i từ đó rung lên h i chuông c nh t nh đối với con người. thiên nhiên là

người bạn tân giao với con người, đừng vì những tư l i nhỏ cá nhân mà h y

hoại đi môi trường sinh thái. Tác phẩm c a Nguyễn inh Châu dù chưa đề

cập một cách th ng th n v n đề sinh thái nhưng phần nào cũng tác động đến

v n đề sinh thái. Như một dự c m trước tương lai về những hành động c a

con người hiện tại với thiên nhiên tương lai, ông đã tác động rung lên tiếng

28

chuông c nh t nh với toàn xã hội. C nh ch t phá rừng, săn b t trái ph p, ô

nhiễm môi trường biển đang là một v n đề nóng bỏng c a toàn xã hội. ỗi

người hãy chung tay góp s c cho c xã hội hôm nay và c tương lai. Hãy giơ

cao khẩu hiệu b o vệ thiên nhiên, b o mẹ bà mẹ Trái Đ t. Nếu chúng ta

không biết giữ gìn thiên nhiên thì không những s tác động đến đời sống c a

thế hệ con cháu sau này, mà ngay bây giờ chúng ta s ph i tr giá. Nguyễn

Huy Thiệp c nh t nh r ng, nếu vô c m với muôn loài s có thể làm con người

vô c m trước đ ng loại còn Nguyễn ình Phương lại phát hiện ra mối liên hệ

giữa việc con người th ch tàn sát động vật với hành vi giết người. Ch nh vì

vậy, đừng vì b t c điều gì mà h y hoại đi tương lai c a toàn cầu.

2.2 C m quan sinh th i tinh th n

Phê bình sinh thái tinh thần là một bộ phận c a phê bình sinh thái nói

chung, bên cạnh phê bình sinh thái tự nhiên, phê bình sinh thái xã hội. Phê

bình sinh thái tinh thần đ t ở một bình diện khác: nghiên c u mối quan hệ

giữa môi trường tinh thần xã hội đối với đời sống tinh thần, với sáng tác văn

học, tác động c a văn học đối với môi trường tinh thần c a con người. Tóm

lại, phê bình văn hóa tinh thần theo cách c a nhà phê bình sinh thái và phê

bình sinh thái Trung uốc như ỗ Khu Nguyên, Vương Nhạc Xuyên là kiểu

phê bình văn học văn học l y tư tưởng sinh thái là trung tâm, qua đó gi i

quyết các vẫn đề sinh thái xã hội, xác lập tư tưởng sống ao đẹp, kh c ph c các

ô nhiễm tinh thần, làm cho tinh thần trong sạch góp phần làm ổn đ nh xã hội.

Trong cách tiếp cận này khái niệm trung tâm là sinh thái văn hóa tinh

thần. Văn hóa đã có hàng trăm nghìn đ nh ngh a, ở đây chọn cách hiểu văn

hóa là toàn bộ phương th c t n tại người, nhân hóa c a con người. văn học

nghệ thuật đư c coi như một hiện tư ng sống c a xã hội, vì nhu cầu xã hội

mà nó đư c phát sinh ra và phát triển. uan hệ giữa văn học với môi trường

sinh thái tinh thần là quan hệ cộng sinh, th ch nghi, lựa chọn, biến đổi, phát

29

triển, biến dạng theo điều kiện môi trường.

Sinh thái tinh thần, xã hội có t nh l ch s , biến động c a thời gian. Xã

hội Việt Nam sau chiến tranh với biết bao vết thương. ột xã hội tiến lên

hiện đại hóa trong bối c nh toàn cầu hóa, kinh tế th trường, xã hội tiêu th ,

tốc độ đô th hóa chóng m t, nông thôn đổi thay, b t bình xã hội gia tăng, giàu

ngh o phân cực.

Chúng tôi hiểu phê bình sinh thái tinh thần trên một bình diện khác:

xem đời sống tinh thần xã hội là bối c nh c a sáng tạo văn học, coi đó là

m nh đ t, vườn ươm các sáng tạo nghệ thuật. nh sáng, nhiệt độ, độ ẩm,

không kh , nước, phân c a môi trường tinh thần s nh hưởng đến ch t lư ng

sáng tác văn nghệ.

2.2.1 Th c tỉnh th c gi g n vẻ ẹp nh d , thân thu c n i th n quê

Trở lại với truyện ng n Bế quê c a Nguyễn inh Châu, người đọc như

đư c t m mình trong vẻ đẹp bình d , thân thuộc nơi thôn quê. Với Nh , vẻ đẹp

quê hương và những c nh s c vốn quen thuộc, gần gũi nhưng lại như r t mới

mẻ với anh, tưởng như lần đầu tiên anh c m nhận đư c t t c vẻ đẹp và sự

giàu có c a nó. Nh cũng hiểu r ng mình s p giã biệt c i đời, trong anh bừng

dậy một niềm khao khát vô vọng, nhỏ b mà lại trở nên quá lớn lao, xa vời mà

giờ đây Nh ch tưởng tư ng ch không thể thực hiện đư c.

Điều ước muốn y ch nh là sự th c t nh về những giá tr bền vững,

h ng thường mà sâu xa c a cuộc sống. Những giá tr y có lúc ta đã vô tình

bỏ qua, lãng quên, nh t là lúc còn trẻ, khi những ham muốn xa vời đang lôi

cuốn con người tìm đến. Con người ta thường chú chạy theo những cái gì

đó xa xôi mà quên đi những gì bình d để đến khi nhận ra đư c giá tr thật c a

những th bình d y thì cũng đã muộn. Con người ta ch biết trân trọng và

tiếc nuối khi nó đã m t đi. Sự nhận th c này ch đến đư c với người ta khi

con người đã từng tr i, Nh đang ở những phút cuối đời, đang n m liệt trên

30

giường bệnh, mới th c t nh về điều đó có xen với niềm ân hận xót xa mà

không thể nào gi i th ch đư c. Một con người đã từng đi kh p mọi chân trời

xa lạ giờ đây mới nhìn th y hết sự giàu có lẫn vẻ đẹp c a cái bãi b i bên sông

ngay trước c a sổ nhà anh. Nh không thể đ t chân lên con đò đưa đến khát

khao. nh đành g i g m t t c tình c m, t t c niềm tin vào Tu n, nhờ Tu n

giúp anh đ t chân lên cái bên kia sông ước mơ. Nhưng Tu n đâu có thể hiểu

đư c ngh a thiêng liêng ch a trong ước muốn c a cha. Cậu sà vào ván cờ

phá thế trên đường tự nhiên như cách con người vướng ph i những cám dỗ

trong cuộc sống. Nh không trách Tu n. nh đã từng một thời như Tu n, anh

hiểu ở cái tuổi như Tu n, người ta chưa đ ch n ch n để nhận ra vẻ đẹp thực

sự, vẻ đẹp vẹn nguyên c trong những n t tiêu sơ c a cuộc đời. Ch có anh, đã

từng tr i, đã đi qua r t nhiều phương trời, đã nếm tr i r t nhiều tình c m, c m

xúc mới th y yêu th y qu , những giá tr bình d gi n đơn kia. Ch có anh mới

hiểu nó ngh a đến nhường nào với mỗi con người trong cuộc sống.

Truyện kh p lại b ng hình nh "chuyến đò ngang mỗi ngày một

chuyến... vừa chạm vào cái bờ đ t lở dốc đ ng ph a bên này". ên này là th

thành, bên kia là bến quê. ên này chông chênh xói lở, bên kia vững vàng b i

đ p. Sự tương ph n này như một lời c nh t nh về nhận th c, th c giữ gìn

những giá tr bình d , vẻ đẹp c a cái thân tình, gần gũi, để người ta không ph i

th ng thốt bởi "những t ng đ t đổ oà vào gi c ng

Có thể nói truyện ng n Bế quê c a Nguyễn inh Châu ch a đựng

những suy ngẫm, những tr i nghiệm sâu s c c a tác gi về con người và cuộc

đời. Chạm ngòi bút tới vùng đề tài nông thôn, với mỗi nhà văn, trong tâm

th c sâu xa c a mình, là mong muốn đư c trở về với cội ngu n, trở về một

miền đ t bình yên trong trẻo c a thiên nhiên c a tâm h n. Tình yêu n ng nàn

đối với quê hương x sở khiến ai đi đâu, ở đâu vẫn luôn hướng về quê hương

b n quán với t m lòng tr u n ng yêu thương và lòng biết ơn, tự hào vô bờ bến.

31

iết ơn quê hương, cha mẹ đã sinh thành, che chở mình và tự hài về những

truyền thống văn hóa tốt đẹp c a làng quê đã nuôi dưỡng tâm h n mình, cho

mình những bài học làm để người để lớn khôn. ua đó đem đến cho người

đọc những c m nhận th m th a về bế quê. Đó là những gì thân thiết với mỗi

người, là những bông hoa b ng lăng, là chuyến đó ngang, là bãi b i, là những

người hàng xóm tốt b ng, là gia đình thân yêu... Đó là những giá tr bình

thường mà bền vững. Từ đó tác gi đem đến một thông điệp: hãy giữ gìn và

trân trọng bến quê bình d c a mỗi người.

2.2.2Th c tỉnh th c o vệ thiên nhiên trong qu tr nh th h a

Phê bình sinh thái nh hưởng từ tư tưởng sinh thái học bề sâu eep

ecology , một triết l sinh thái và môi trường hiện đại tôn trọng sự t n tại bình

đ ng c a tạo vật, mọi sinh vật trong hệ thống không có loài nào ở thế ưu trội.

Tư tưởng này bác bỏ quan niệm “con người là trung tâm” đã ăn sâu bám rễ

vào trong văn hóa c a phương Tây. Từ tư tưởng mang t nh cách tân này,

chúng ta th y Nguyễn inh Châu đã đ t ra nhiều v n đề mà con người hiện

đại cần suy ngẫm. Trong một xã hội càng ngày càng phát triển, trong một

không gian càng lúc càng dung ch a lòng tham vô độ c a con người, những ai

còn giữ đư c b n l nh h n nhiên “lẩn thẩn” như bác Thông thật quá hiếm hoi.

Cây s u im l ng, chết cái chết c a một v Chúa đã từng chở che con người, và

giờ đây, b ch nh họ ph n tr c. ễ cây bật lên như một câu hỏi không lời ch t

v n lại những hành động bạo tàn nhân danh văn hóa, văn minh: “Nhìn kho ng

đ t rỗng trùng sâu xuống quanh cây s u và đống đ t đào lên, người ta b t giác

giật mình đư c b t giác tận m t ch ng kiên cái tầng văn hóa c a con người -

nó cũng ch ng l y gì làm dày l m”[4,420]. Văn hóa, n y sinh từ tự nhiên,

đư c tự nhiên nuôi dưỡng nhưng so với sự v đại c a thiên nhiên, c a trái đ t,

nó nhỏ b và mỏng manh đến th m hại. t khác, văn hóa lại cũng ch nh là

t m áo choàng hư ng y mà chúng ta không ngừng che đậy tự nhiên nh m thỏa

32

mãn sự khoe khoang về quyền năng thông tr c a loài người cùng với vô số

l i ch thực d ng mà đ a v y mang lại. Con người chúng ta thường thể hiện

r ng mình làm ch tự nhiên mà không ngh r ng thiên nhiên là bạn c a chúng

ta, là lớp áo choàng b o vệ con người, là nơi che chở, tạo không kh trong

lành và hơn thế nữa thiên nhiên là cái gì đó kì diệu mà không thể nói lên. à

cái gì đó mà con người khi mệt mỏi thì trốn về chui vào lòng c a bà mẹ thiên

nhiên để tìm c m giác bình tâm, t nh l ng.

Con người ch ng biết từ bao giờ tự cho mình quyền lực, cho mình làm

ch và muốn thiên nhiên ph i ph c tùng mình. Đây là một niệm sai lầm dẫn

đến hậu qu nghiêm trọng. Trong tác phẩm Số i v i c Nguyễn

inh Châu rung lên h i chuông c nh t nh nh m th c t nh th c c a con

người. Nguyễn inh Châu đã đ ng từ góc độ sinh thái để viết lên tác phẩm

mang d ng nghệ thuật riêng, độc đáo. Với Nguyễn inh Châu, văn học

không thể ru ng con người b ng những từ sáo rỗng, xa rời thực tế mà văn

học ph i ph n ánh đúng sự thật cuộc đời. Thật vậy, những trang viết c a ông

đều l y ch t liệu từ đời sống và ph n ánh lại đời sống một cách chân thực

nh t. Từ đó th c t nh con người và c nh báo về những nguy cơ do ch nh con

người gây nên. Thiên nhiên trong thiên truyện cũng lên tiếng trong vai cây

s u già, cây cột điện, bà mẹ Đ t đã c t lên tiếng nói. Đó là sự “hóa thân” tiếng

nói nhà văn, nhân danh cái môi trường thiên nhiên, cái môi trường văn hóa

l ch s mà việc b o vệ b o t n nó đang và s ngày càng trở thành v n đề c p

bách trong đời sống c a chúng ta.

Nguyễn inh Châu đã lên tiếng nh c nhở chúng ta ph i g n bó với thiên

nhiên cây cối. Đ t tác phẩm trong thế đối lập giữa việc làm c a phần lớn

những con người trong xã hội mới với cây s u già l ng l cam ch u khiến cho

tác phẩm Nguyễn inh Châu chạm vào nỗi đau sâu th m c a nhân loại hiện

33

đại.

Nếu nhìn bề ngoài có l cách viết c a Nguyễn inh Châu không mới,

làm bạn với tự nhiên, l ng nghe tiếng nói từ tự nhiên, nói chuyện với cây

cối... là c m quan từ xưa c a người phương Đông, chúng ta cũng g p phương

th c kể chuyện này trong truyện cổ dân gian, truyện truyền kì... xa hơn nữa là

quan điểm l y thiên nhiên làm người bạn tâm giao để chia sẻ, tâm sự c a các

nhà văn thơ trung đại. Nhưng Nguyễn inh Châu ch nh là đề xu t ra một

cách nhìn mới. Con người ph i từ bỏ cái trung tâm luận là ch nh mình để soi

vào vạn vật và nhận ra vẻ đẹp vô tư, không v l i c a tự nhiên. Nhận ra b ng

con m t bình đ ng với vạn vật mà b y lâu nay vì thói tự ph , con người quên

m t tự nhiên có trước và là chuẩn mực cho vẻ đẹp c a con người.

2.2.3 Th c tỉnh th c o vệ sự toàn m c a sinh th i i n

Trong truyện ng n Nguyễn inh Châu đã thể hiện r một quan niệm đã

trở thành chân l : Nghệ thuật ph i b t ngu n từ mạch ngầm cuộc sống, văn

chương nghệ thuật ph i ph n ánh chân thực hiện thực, đây không ph i hiện

thực bên ngoài mà là hiện thực cuộc sống.

Truyện ng n Chiếc thuy i bên cạnh việc miêu t b c tranh

thiên nhiên tươi đẹp là cuộc sống đầy kh c nghiệt c a những số phận con

người vật vã trong cuộc mưu sinh. Với một khách du l ch, bãi biển đẹp như là

nơi l tưởng cần đến. Nhưng những người dân chài luôn bên biển, họ có quan

tâm gì tới cái đẹp c a biển không Cũng như khách tham quan trầm tr trước

những bông tuyết hiếm hoi trên vùng núi Sa Pa. n đ ng sau những bông

tuyết tr ng ngần đẹp đ y là nỗi lo m t mùa c a người nông dân, là sự r t

mướt, lạnh cóng khó chống chọi với thiên nhiên kh c nghiệt. Cuộc sống

người dân chài vùng biển là một cuộc mưu sinh đầy vật lộn, lam lũ. Có những

khi biển động suốt hàng tháng c gia đình v ch ng con cái toàn ăn cây

34

xương r ng luộc ch m muối. ia đình họ đông con, lại không có nơi ổn đ nh

vì không thể bỏ nghề. Đàn ông thuyền khác thường uống rư u, còn lão ch ng

c a người đàn bà này lúc nào th y khổ quá lại xách v ra đánh như một sự tr

thù cho số kiếp. Thực tế đó qu là bài toán khó, mầm độc y không ph i th

kẻ thù như trong chiến tranh mà một người cầm súng chiến đ u như nhân vật

Đẩu có thể gi i quyết hay thỏa hiệp, ch p nhận một cách dễ dàng. Cuộc sống

người dân chài vùng biển đầy giông bão. Con thuyền ngư ph ph i chống

chọi với nhiều sóng gió c a biển khơi trong những ngày giông bão y. Cuộc

sống sinh hoạt c a những người dân chài đư c tác gi kh c họa: “Vài bóng

người lớn lẫn trể con ng i im phăng ph c như tư ng trên chiếc mui khum

khum, đang hướng m t vào bờ. T t c khung c nh y nhìn qua những cái m t

lưới và t m lưới n m giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt

cách con dơi”. Có l cuộc sống c a những người làng chài lênh đênh trên biển

đã phần nào hình thành nên t nh cách c a những con người nơi đây. Đó là

những con người với cuộc sống chậm dãi không vội vã, không n ào, náo

nhiệt mà thay vào đó là sự m đạm, thiếu đi niềm khao khát. Họ không còn

tha thiết hay cầu xin về một tương lai tươi sáng mà họ ch cầu mong sự yên

ổn và bình l ng. Ngoài giông bão c a tự nhiên, c a biển c mang lại còn có

một th giông bão do ch nh con người tạo ra, nghiệt ngã và cay đ ng. S c tàn

phá, hậu qu mà nó để lại thật thê th m kh ng khiếp, đau xót không k m gì

giông bão tự nhiên. Đó là th giông bão nổi lên từ lòng thuyền, từ trong con

thuyền. Đó là cuộc sống ngh o đói, lam lũ mà ch nh con người gây ra cho con

người. Nạn bạo hành trong gia đình y s làm tổn thương những đ a trẻ,

những tâm h n l ra ph i đư c nuôi dưỡng bởi một cuộc sống bình yên, hạnh

phúc. Từ cái nhìn hiện thực mang t nh ch t khám phá, phát hiện, có chiều sâu,

Nguyễn inh Chây muốn phê phán cái nhìn lãng mạn, một chiều với cuộc

35

sống.

B ng việc nêu lên những ngh ch l c a cuộc đời Nguyễn inh Châu đã

mang đến một bài học đúng đ n về cái nhìn nhận cuộc sống và con người:

một cách nhìn đa diện nhiều chiều, phát hiện ra b n ch t thực sự sau vẻ ngoài

đẹp đ c a hiện tư ng. Tình huống y buộc Phùng ph i có cách nhìn đời khác

h n: không ch b ng con m t một nghệ s ch biết rung động say mê trước vẻ

đẹp c a ngoại c nh thuần túy, c a c nh biển thuyền lúc sớm mai. Đó là cái

nhìn mang t nh sự thật. Đ ng sau b c nh ch p con thuyền r t đẹp, cái đẹp

tuyệt đ nh c a ngoại c nh, một vẻ đẹp đơn gi n và toàn b ch mà người phóng

viên đã thu đư c ẩn ch a một cuộc sống đầy vật lộn giống như trang văn c a

Nam Cao ngày trước, màn sương khói lãng mạn,thơ mộng c a c nh biển

thuyền sớm mai – th “ánh trăng xanh huyền o” ban mai y đã che đậy

những c nh nhạy c m với cái đẹp, con m t tinh tế nhà nghề c a một người

nhiếp nh, con thuyền ngư ph đẹp như một bút mực tàu c a một danh họa

thời cổ ch là th nghệ thuật xa xôi, là cái đẹp mong manh, siêu thực. Ph i

chăng cái “chân l c a sự toàn thiện”, cái làm nên “kho nh kh c trong ngần”

c a tâm h n vẫn ch là điều mà ta đang tìm kiến, theo đuổi. Sự thực không

hiện lên ở đó mà kho nh kh c nán lại, thật b t ngờ, ch trong giây phút người

nghệ s vừa th y đư c cái xa mờ c a nghệ thuật lại chạ trán ngay với một hiện

thực trần tr i. Sự cay đ ng phũ phàng đã thay thế cho niềm hạnh phúc tràn

ngập tâm h n. Từ chiếc thuyền ngư ph đẹp như mơ trong sương sớm y

bước ra một người đàn bà x u x , mệt mỏi và cam ch u; một lão đàn ông thô

kệch, dữ d n, tàn nhẫn coi việc đánh v như một phương pháp để gi i tỏa u t

c. Sự ngang trái, x u xa, những bi k ch trong gia đình thuyền chài kia đã là

một th thuốc r a quái đ n, là những thước phim huyền diệu mà người nhiếp

nh dày công ch p đư c bỗng hiện hình thật kh ng khiếp. Hiện thực đư c

miêu t như một câu chuyện cổ t ch mà kết thúc không có hậu. Thật đúng như

36

Nguyễn inh Châu từng kh ng đ nh: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật

một cách đơn gi n, và nhà văn cần ph n đ u để đào xới b n ch t con người

vào các tầng sâu l ch s ”.

Phê bình sinh thái yêu cầu nghệ thuật không đư c xa rời cội ngu n tự

nhiên, văn học nghệ thuật ph i xây dựng lại mối quan hệ hài hòa giữa con

người và tự nhiên thì mới có cái đẹp. Từ góc nhìn này soi rọi vào tác phẩm để

đánh giá sự thành công c a thì tác phẩm Chiếc thuy i có thể coi là

một tác phẩm thành công c a Nguyễn inh Châu. Thiên nhiên g i cho ta nhớ

đến những gì bình yên, thanh mát nh t, thiên nhiên cũng là nơi thanh lọc tâm

h n con người. Khi soi vào thiên nhiên con người nhận lại, tự v n lại mình.

Trong mỗi một tác phẩm khác nhau thì tác gi thể hiện những thái độ khác

nhau về thiên nhiên và ở trong Chiếc thuy i thì Nguyễn inh Châu

thể hiện thái độ c a tác gi với thiên nhiên là sự ca ng i vẻ đẹp, sự hữu ch

c a thiên nhiên đối với con người.thiên nhiên ở đây là kho dự trữ th c ăn hào

phóng và vô tận nó ch a th c ăn cho con người. Cuộc sống c a con người có

trở nên m no hay không đều dựa vào thiên nhiên. ua thái độ đó c a tác gi

muốn th c t nh th c con người đối với việc b o vệ sự tuyệt m c a thiên

nhiên vì thiên nhiên không t n tại mãi mãi nếu như con người không biết c i

tạo b o vệ nó.“Trước kia, vào các v B c, ông trời làm biển động suốt hàng

tháng, c nhà v ch ng con cái toàn ăn cây sương r ng luộc ch m muối...”.

Việc con người tìm càng hiểu biết sâu s c hơn về giới tự nhiên, có kh năng

chinh ph c hữu hiệu hơn với tự nhiên không có ngh a là con người ngày càng

trở thành kẻ thù h y diệt c a thiên nhiên. Con người và thiên nhiên có mối

quan hệ khăng kh t với nhau nhưng trên thực tế sự trao đổi y ngày càng diễn

ra một chiều, kho tàng tự nhiên ngày càng ph i gánh ch u hậu qu n ng nề

hơn. Ch nh vì vậy, con người ph i th c hơn trong việc b o vệ và khai thác

các tài nguyên thiên nhiên. Cần ph i nâng cao th c giữ gìn, b o vệ sự tuyệt

37

m c a thiên nhiên. o vệ thiên nhiên ch nh là b o vệ cuộc sống c a ch nh

chúng ta. Con người cần ph i linh hoạt trong ng x với thiên nhiên. Cần n m

đư c quy luật tương giao giữa trời và đ t, giữa vật và người nếu muốn chinh

ph c thiên nhiên.

Tóm lại, văn học Việt Nam sau 1975 m i mê với hiện thực c i nhân sinh

b ng cách thể hiện những đề tài thời sự: phơi bày những m t trái c a hiện

thực, phê phán xã hội,.. khiến cho tinh thần sinh thái có nguy cơ xuống dốc.

ường như, con người đã bỏ rơi thiên nhiên. Sự thiếu v ng tự nhiên khiến

cho môi trường văn học trở nên khô khan, ngột ngạt bởi những toan t nh, lọc

lừa, x o trá c a đời sống cuống qu t, vội vã. Nghệ thuật ph i thông qua miêu

t mối quan hệ giữa con người với tự nhiên mới tạo nên s c hút, s c sống.

Vậy nên, những truyện ng n c a Nguyễn inh Châu đã làm “xanh” một

kho ng trời văn học. Từ đó đề xu t cho chúng ta nhiều v n đề trước bà ẹ

Trái Đ t và giúp chúng ta nhận ra khi loài người càng trưởng thành càng ph i

38

nhận ra mình đã phũ phàng với nơi mà ch nh b n thân ta lớn lên, g n bó.

Chư ng 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TINH TH NPHÊ BÌNH SINH

THÁI TRONG TRUYỆN NGẮN NGUY N MINH CH U SAU 1975

3.1 Nhan mang ngh a sinh th i

Nếu như ở các truyện ng n viết trước năm 1975 ch yếu xoay quanh đề

tài chiến tranh: D u c ười M tr cuối r Bê đườ c iế

tranh... nói về cuộc chiến đ u thiêng liêng c a dân tộc ta mang đậm ch t s

thi, thì sau 1975, l ng vào trong các câu chuyện là v n đề thời sự: V n đề

môi trường... tư tưởng này có l thể hiện ngay ở cách đ t tên các truyện b ng

những hình nh g n liền tự nhiên: Bế quê - thiên nhiên gần gũi với con

người, là quê hương nơi mà dù người ta dù có đi đâu đi nữa thì đến cuối đời

vẫn ph i quay về với quê hương, nó gột r a linh h n con người khiến người ta

c m th y m áp, thân thuộc và yêu thương. ố i v i c - cuộc đời

c a con người mãi mãi g n bó với thiên nhiên, không thể tách rời khỏi thiên

nhiên, thiên nhiên là mãi mãi, ph i b o vệ và ph c h i cây xanh trong quá

trình quy hoạch hóa đô th . c quê r – chuyến thăm th đô c a một v

khách ở quê và những c m nhận về th đô ngột ngạt, từ đó nêu lên luận đề

công nghiệp hóa s tác động ra sao đến đời sống và tâm l c a người dân. Ch

cần đọc tên nhan đề đã phần nào có thể nhận ra đư c nội dung mà tác gi

muốn g i g m. Các tác phẩm giai đoạn trước các yếu tố sinh thái chưa nổi bật

những đến với thiên truyện ố i v i c h thì phê bình sinh thái thể

hiện một cách r n t,c thể và nó thể hiện ngay ở nhan đề c a tác phẩm. ua

cách đ t nhan đề y th y đư c góc nhìn ph n ánh c a tác gi đáp ng đư c

những v n đề nóng bỏng c a toàn xã hội. t k p nh p sống c a hiện thực và

dùng văn chương để răn dạy,th c t nh con người ch không còn ru ng con

39

người.

3.2 T nh huống truyện mang tinh th n sinh th i

Nhà văn Nguyễn inh Châu cho r ng: “Với truyện ng n và với một tác

gi có kinh nghiệm viết, tôi ngh r ng đôi khi người ta ngh ra đư c một cái

tình thế x y ra những chuyện vừa r t cá biệt vừa mang t nh phổ biến ho c

tư ng trưng” và “...những người cầm bút có biệt tài có thể chọn ra trong cái

dòng đời xuôi ch y một kho nh kh c thời gian mà ở đó cuộc sống đậm đ c

nh t, ch a đựng nhiều ngh a nh t, một kho nh kh c cuộc sống...nhưng b t

buộc con người ở vào một tình thế ph i bộc lộ con người cái phần tâm can

nh t, cái phần ẩn náu sâu k n nh t, thậm ch có khi là kho nh kh c ch a đựng

c một đời người, một đời nhân loại” [2,tr.25].

Có một quan niệm về tình huống truyện r t riêng nên các sáng tác c a

Nguyễn inh Châu cũng r t đa dạng và phong phú tạo cho người đọc sự

h ng thú say mê. Nổi bật trong các tác phẩm c a Nguyễn inh Châu sau

1975 là xây dựng tình huống mang t nh ngh ch l . tác phẩm Bế quê ngh ch

l th nh t là Nh – nhân vật ch nh – từng đi kh p mọi nơi trên trái đ t nhưng

cuối đời m c ph i bệnh trọng ph i cột ch t mình trên chiếc giường nhỏ cạnh

c a sổ. T t c mọi hoạt động đều ph i nhờ vào sự giúp đỡ nhười khác ch yếu

là v iên . Anh giờ đây đâu có khác đ a trẻ là m y, chiếc giường bệnh

dường như là chiếc nôi, còn đôi bàn tay c a người v tần t o dường như là

đôi bàn tay mẹ thuở nào, Nh nhận th y hoàn c nh mình thật bu n cười “y

như một chú b mới đẻ đang toe to t cười với t t c , tận hưởng sự th ch thú

đư c chăm sóc và chới với”. Đây là ngh ch l hay là số mệnh? Từ cái ngh ch

l th nh t dẫn đến cái ngh ch l th 2 đó là bây giờ khi đã cuối đời Nh mới

nhận ra đư c vẻ đẹp lạ lùng c a bãi b i bên kia sông, ngay ph a trước c a sổ

nhà anh, nhưng tiếc r ng anh không thể và không bao giờ có thể dù anh r t

khao khát đư c đ t chân lên cái bãi bối y dù ch một lần. Anh muốn nhờ đ a

40

con mình – Tu n con trai anh học đại học từ thành phố vừa mới ngh h trở về

thay anh thám hiểm bến sông, cái bãi b i bên sông mà anh chưa đ t chân bao

giờ nhưng tiếc r ng ước mơ c a anh không đư c thực hiện. Đó có l cũng là

một nhận th c về cuộc đời mà nhà văn l ng l g i vào ngh ch l phũ phàng

vưới tâm h n kh c kho i trong những ngày cuối đời. Cuộc đời và số phận đầy

ngẫu nhiên, những ngh ch l vư t ra khỏi dự đ nh, khỏi những toan t nh c a

con người. ng cái ngh ch l y Nguyễn inh Châu không ch thể hiện quan

niệm về văn chương, cuộc đời mà ông còn muốn th c t nh mọi người hãy trân

trọng những vẻ đẹp bình d , gần gũi c a quê hương mình. Con người ta dù có

đi đâu đi nữa nhưng r i có lúc mệt mỏi, muốn dừng chân thì cái bến quê là

quê hương, bến đậu cuộc đời, bến đậu những giá tr tinh thần gần gũi. ãi b i

bên kia sông, con đò như một phần cuộc sống đơn sơ gi n d g n bó như

ch nh quê hương gia đình, là nơi chôn nhau c t rốn mà con người ta ai r i

cũng s trở về. Trở về để tìm lại c m giác bình yên, c m giác yên l ng, đư c

yêu thương, che chở nhưng đừng để đến lúc quá muộn. Hãy yêu cái vẻ đẹp

thân thuộc bình d y ngay từ hôm nay. Và hành động cuối cùng c a Nh “giơ

một cánh tay gầy guộc ra ph a ngoài c a sổ khoát khoát y như đang khẩn

khiết ra hiệu cho một người nào đó”. Hành động này như g i tới mọi người

lời nh n nh , th c t nh khoát khỏi sự vòng v o, chùng chình để hướng tới giá

tr đ ch thực mà gần gũi trong cuộc sống.

Có l qua Bế quê Nguyễn Minh Châu đã g i g m những tr i nghiệm về

cuộc đời – cuộc đời đã tr i qua mưa bom bão đạn, tr i qua nhiều v t v nhọc

nh n c a dòng đời bon chen. Đây là ngh a luận đề c a truyện ng n - điều

làm nhà văn trăn trở suốt đời cầm bút và nó đã làm nổi bật phong cách viết

truyện ng n c a ông. Ngòi bút Nguyễn inh Châu vẫn ch a đựng những

khám phá mới mẻ, sâu s c, vẫn mang cái nhìn từng tr i ch c ch n c a con

người đã tôi luyện qua lò l a chiến tranh. Ch nh b ng ngòi bút y, nhà văn đã

41

dựng lên một Bế quê mang ngh a triết l , mang đầy tr i nghiệm về một đời

người. Có l s ch ng ai g p lại trang sách ến quê mà không c m th y một

nỗi bu n b i h i, xúc động trào dâng. Có chút gì đó se s bu n, có chút gì đó

se s xót xa, ân hận nhưng những c m nhận sâu s c về vẻ đẹp bình d , gần gũi

c a quê hương thì vẫn còn l ng đọng mai mãi trong sâu th m tâm h n mỗi

người đọc chúng ta.

Cũng là tình huống truyện ngh ch l nhưng ở tác phẩm iếc t u

i xa lại đư c thể hiện b ng những phát hiện c a nghệ s Phùng. Phát hiện

th nh t để thực hiện yêu cầu c a anh trưởng phòng khó tình muốn có t m

nh thật ưng cho tờ l ch cuối năm người nghệ s đã dốc toàn bộ vốn liếng,

kinh nghiệm để trở về chiến trường xưa. Khi đến với vùng thành thì biển ở

ngoại thành thì ở đây Phùng đã có những phát hiện mang t nh ngh ch l . Sau

nhiều ngày ph c k ch Phùng đã ch p đư c cái kho ng kh c “đ t” có một

không hai trong cuộc đời cầm máy đó là c nh chiếc thuyền ngoài xa đang thu

lưới vào bờ lúc bình minh “mũi thuyền in một n t mơ h , lòe nhòe và bầu

sương mù tr ng như sữa... đang hướng m t vào bờ”[4,344] trong màn sương

sớm phớt h ng c a ban mai, con thuyền ngoài xa đẹp như mơ. Toàn bộ khung

c nh từ đường n t đến ánh sáng đều hài hòa đến độ toàn b ch. Trái tim người

nghệ s như th t lại vì hạnh phúc. Phùng tưởng như mình khám phá ra chân l

c a cáu đẹp nghệ thuật: cái đẹp ch nh là đạo đ c. Cái đẹp và nghệ thuật đã

thanh lọc tâm h n người, làm cho tâm h n người trở nên thánh thiện – đó

ch nh là vẻ đẹp c a cái chân, cái thiện, cái m .

Phát hiện th hai c a người nghệ s b t ngờ và chớ trêu như trò đùa quái

ác c a cuộc sống. Hóa ra bên trong c a sự toàn thiện, toàn b ch mà người

nghệ s b t g p trên biển ch ng ph i là đạo đ c, là chân l . Khi chiếc thuyền

vào bờ Phùng th y từ con thuyền ngư ph đẹp như mơ y đôi v chống hàng

chài bước xuống. Họ xu t hiện ở cự ly r t gần để Phùng nhận ra từng nốt rỗ

42

trên khuôn m t nhàu nát, mệt mỏi sau một đêm th c tr ng c a một người đàn

bà. Cái c m giác ngây ng t do cái đẹp tột đ nh mang lại chưa k p tan đi ngay

lập t c Phùng ph i ch ng kiến “c nh tư ng xưa này chưa từng có”. Đó là

c nh một người đàn ông độc ác, vũ phu đánh v tới t p. Người v n n l ng

căng mình ra ch u trận đòn man r c a người ch ng. Phùng bàng hoàng nhận

ra sự thật đ ng sau b c tranh mà anh dày công tìm kiếm. Dùng vẻ đẹp hoàn

m c a thiên nhiên để nói lên cuộc sống mưu sinh v t v c a người dân vùng

biển. ua đó th y đư c những quan niệm về nhận th c cuộc đời và mối quan

hệ c a con người với thiên nhiên.

Khác với những tác phẩm c a các nhà văn khác thiên truyện “ Sống mãi

với cây xanh” ca ng i những con người ngh o như bác Thông – ông già trông

cây, bà Ngan bán xôi, hay cô oan tem phiếu... nhưng lại không đ t những

con người lao động bình thường này vào sự đối lập với những kẻ giàu có lớp

trên – một sự đối lập đã quá quen thộc c a văn xuôi nước ta. tác phẩm tác

gi đ t họ ở loại đối lập khác: đối lập giữa một bên là những con người yêu và

g n bó với thiên nhiên cây cối, với môi trường văn hóa cũ k ngh o nàn

nhưng đầy k niệm lâu đời, từ k niệm l ch s đến k niệm sinh hoạt đời

thường với một bên là tập h p đông đ o, khi thì ẩn danh, khi thì đ ch danh, từ

những người nào đó đã quyết đ nh đổi tổ tr ng cây thành ch t hạ cây cối đến

những hình hào c thể đang hăm hở “làm th t cây”, và đôi khi, thuộc về đám

người đáng trách này còn có c những người nhiệt tình đổi mới bộ m t phố

xá, nhưng quên t nh đến môi trường thiên nhiên, môi trường văn hóa l ch s

c a con người.

Còn một ngh ch l trong thiên truyện đó ch nh là ngh ch l đó ch nh là

trước m t người đời con người như bác Thông đư c coi là “dở t nh”, lẩn thẩn

thì trước thiên nhiên cây cối, họ lại v khách qu .

Và ph i chăng tác gi dùng những ngh ch l này để nh n mạnh cái điều

43

cốt yếu với tư tưởng c a truyện, tư tưởng về sự cần thiết c a việc b o t n môi

trường thiên nhiên, môi trường văn hóa l ch s cho con người tương lai công

nghiệp hóa, đô th hóa.

3.3. Cốt truyện hay th c tổ ch c luận sinh th i

Nguyễn inh Châu đư c coi là một người tinh tế, ông nhận th y cần

thay đổi một nền văn học trong không kh dân ch , cởi mở c a những ngày

đổi mới nên ông đã tự b n thân minh thay đổi tuy âm thầm l ng l , chậm

chạp nhưng hết s c mạnh m càng về sau càng trở nên kiên quyết và triệt để.

Những thành công c a Nguyễn inh Châu trong những năm gần đây kh ng

đ nh sự cần thiết ph i đổi mới hệ thống thi pháp truyền thống và thi pháp

nghệ thuật thế k X X. ởi vì thi pháp tự sự truyền thống đang là lực lư ng

kìm hãm văn xuôi hiện đại Việt Nam tiếp cận hiện thực đời sống ở một giai

đoạn xã hội đầy biến động ph c tạp. Các sáng tác c a Nguyễn inh Châu

không theo cái lối mòn c a văn học lúc b y giờ mà mô hình tự sự tổ ch c

theo nguyên tác c a truyện kể đã đư c thay thế b ng mô hình tự sự tổ ch c

theo những nguyên t c tiểu thuyết. Nhờ thế, mạch suy tưởng, triết l tràn vào

mạch trần thuật. ạch kể nhiều khi ph i theo đuổi theo mạch t , dòng sự kiện

l n át dòng tiến trình làm cho khung cốt truyện ngày càng có khuynh hướng

nới lỏng.

Cốt truyện trong các sáng tác c a Nguyễn inh Châu đư c chia làm

nhiều loại tiêu biểu: cốt truyện tâm l thể hiện r n t trong tác phẩm Bế quê

qua ngh ch l trong sự tự th c cao độ c a nhân vật. Ngh a là s c mạnh c a

toàn bộ thiên truyện d n c vào sự thể hiện thế giới nội tâm c a Nh . Có thể

th y mạch tâm trạng c a Nh diễn theo hai ch ng: trước và sau khi Nh nhờ

anh con trai sang sông. Hành động cuối cùng c a nhân vật Nh có thể hiểu là

anh đang nôn nóng thúc gi c cậu con trai hãy mau kẻo lỡ chuyến đò duy nh t

trong ngày. Nhưng hình nh này còn g i khái quát hơn: Đó là muốn th c

44

t nh mọi người về những cái vòng v o, chùng chình mà chúng ta đang sa vào

trên đường đời để d t ra khỏi nó, để hướng tới những giá tr đ ch thực, vốn r t

đơn gi n, gần gũi và bền vững. Tác phẩm Bế quê là một tác phẩm mang đầy

t nh triết l nhân sinh về con người và cuộc đời, ngoài ra nó cũng là sự th c

t nh nhẹ nhàng cho con người. Hãy sống và làm những gì để đến cuối đời

không ph i ân hận, day d t.

Kiểu cốt truyện th hai là cốt truyện ngh ch l , t c là b ng những ngh ch

l mà người nghệ s nhiếp nh Phùng tìm th y chúng ta có thể nhận ra nội

dung, tư tưởng và ch đề c a tác phẩm. ua những ngh ch l y tác gi thể

hiện cái quan niệm nghệ thuật và quan niệm về người cầm bút. Từ khi ch ng

kiến hiện thực về gia đình người đàn bà hàng chài nghệ s Phùng có cái nhìn

đời khác h n. Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một kho ng cách đ để

tạo nên vẻ đẹp huyền o, nhưng sự thật cuộc đời lại ở r t gần. Đừng vì nghệ

thuật mà quên đi cuộc đời, bởi l nghệ thuật chân ch nh luôn là cuộc đời và vì

cuộc đời. Không đư c thoát ly cuộc sống, nghệ thuật và cuộc sống ph i có

mối quan hệ với nhau. Nghệ thuật không thể lãng mạn hóa khi cuộc đời đầy

rẫy những trái ngang. Cốt truyện đã làm cho iếc t u i vừa chân

thực vừa mang giá tr nhân b n sâu s c. Ph i chăng cuộc đời lam lũ ngh o

khổ, sự tăm tối ngu dốt là một trong những nguyên nhân gây ra nạn bạo hành

đối với ph nữ và trẻ em? Đây cũng ch nh là thông điệp mà Nguyễn Minh

Châu muốn g i tới người đọc qua việc xây dựng những ngh ch l như trên.

c thông điệp trong tác phẩm về mỗi quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống

là nhận th c th m th a: “cuộc đời vốn d là nơi sinh ra cái đẹp c a nghệ thuật

nhưng không bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và r ng con người ta cần

có một kho ng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp c a nghệ thuật nhưng nếu muốn

khám phá những b ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì ph i tiếp

cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời”[1]. Trước

45

khi là một nghệ s biết rung động trước cái đẹp, hãy là con người biết yêu, biết

gh t, vui bu n trước mọi l đời thường tình, biết hành động để có một cuộc

sống x ng đáng với con người. Kết thúc tác phẩm, người nghệ s đã hoàn

thành kiệt tác c a mình đem đến cho công chúng những c m nhận về vẻ đẹp

tuyệt m c a tạo hóa, thế nhưng m y ai biết đư c sự thật n m sau vẻ đẹp

tuyệt vời kia Phần kết c a tác phẩm để lại nhiều suy ngẫm: “ uái lạ, tuy là

nh đen tr ng nhưng mỗi lần ng m k , tôi vẫn th y hiện lên cái màu h ng c a

nahs sương mai lúc b y giờ tôi nhìn th y từ bãi xe tưng hỏng, và nếu nhìn lâu

hơn, bao giờ tôi cũng th y người đàn bà đang bước ra khỏi t m nh, đó là một

người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường n t thô kệch t m lưng áo

bạc phếch có miếng vá, n a thân dưới ướt sũng khuôn mựt rỗ đã nh t tr ng vì

k o lưới suốt đêm. bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên m t

đ t ch c ch n, hòa lẫn trong đám đông...” [4, 347]. Cuộc sống vốn vậy, vẫn

đẹp tươi, vẫn êm , nhưng nếu không có t m lòng để nhận ra những uẩn khu t

sau màn sương huyền o kia, ph i tiếp cận sự thật để nhận ra ngh a đ ch

thực c a cuộc sống và con người.

tác phẩm ố i v i c mang những n t viễn tưởng, cốt

truyện mang t nh tự nhận th c cao. Viễn tưởng không ch ở chỗ viết “thiên

h i k đầy c m động c a cây s u và cây cột điện” mà còn ở cuối tác phẩm tác

gi kể lại về hậu vận c a “hai mươi năm sau”. Và viễn tưởng nh t là ở chỗ

nhà văn mô t con người trong sự giao hòa với thiên nhiên, mô t những cuộc

trò chuyện giữa cây cối, giữa các đ vật vô tri với con người. Ch nh những n t

viễn tưởng với sự gi đ nh kia làm cho thiên truyện có giọng điệu trong trẻo,

đầy thi v . Và bác Thông đư c xây dựng trong c m h ng ng i ca, trân trọng

“một ông lão biết nói chuyện với cây cối” và “còn có thể nói chuyện với đ t

nữa”. Với năng lực lạ đời “ biết trò chuyện với cây cối và đ t cát”, bác Thông

r t có thể b xem là “dở t nh”, là lẩn thẩn. Song với thiên nhiên cây cối bác lại

46

là v khách qu duy nh t tại “đại hội các loài cây”. C m h ng ng i ca trân

trọng có lúc lại bật lên đầy trăn trở: “Đời còn vui đư cCâu truyện như một

nghe như một bài thơ dài có đư c nhiều n t mới mẻ. Truyện xây dựng những

th xung đột nhẹ nhàng, êm đềm không dễ nhận ra. ngh a c a tác phẩm

mang lại cho người đọc giá tr nhận th c cao. Th c t nh con người đừng vì

ham muốn, ch k b n thân mà đối x nhẫn tâm với tự nhiên. Tự nhiên cũng là

một thực thể sống cần đư c tôn trọng và b o vệ.

Nhìn chung, qua các truyện ng n c a Nguyễn inh Châu, đ c biệt là

những tác phẩm sau 1975 có thể th y r những v n đề về sinh thái đư c đ t ra

c p thiết. Phê bình sinh thái đư c tiếp cận theo cách riêng c a Nguyễn inh

Châu, đư c ph n ánh đa chiều, trong đó đau đáu khát vọng trở về một bến đỗ

bình yên, nơi bến quê; là th c về một cái đẹp hoàn m , th c b o vệ vẻ

đẹp, những nguy cơ c a sinh thái trong quá trình phát triển đô th và th c t nh

th c con người trong thời đại mới... Chúng ta cần có cái nhìn đúng đ n, trực

diện và có những biện pháp th ch h p để b o vệ môi trường, b o vệ những giá

47

tr văn hóa, tinh thần c a cuộc sống.

KẾT LUẬN

Văn học là một bộ phận quan trọng và có quan hệ mật thiết với đời sống,

Nó ph n ánh những v n đề c a đời sống một cách chân thực nh t, r n t

nh t.Văn học là chìa khóa để chạm tới mọi c m xúc và th c t nh con người.

Vai trò c a văn học là vô cùng quan trọng đối với mọi thời đại. Với xã hội

hiện nay, khi môi trường đang kêu lên những tiếng kêu tho ng thốt, hãi hùng

thì văn học không thể đi ru ng con người b ng những lời văn sáo rỗng mà nó

cần làm s mệnh thiêng liêng c a nó là th c t nh con người, giúp con người ta

có những cái nhìn đúng đ n và thay đổi cách cư x với thiên nhiên, b o vệ

môi trường sống.

Truyện ng n c a Nguyễn inh Châu sau 1975, Nguyễn inh Châu đã

thực sự kh ng đ nh đư c độ ch n c a một cây bút tài năng, thể hiện đư c

phong cách riêng độc đáo không thể trộn lẫn với b t c một chân dung văn

học đương đại nào. Các tác phẩm c a Nguyễn inh Châu sau 1975 đã thể

hiện nhãn quan tinh tường, dự c m ch nh xác về tương lai với những v n đề

sinh thái nóng bỏng – một trong những v n đề c p thiết c a xã hội. iai đoạn

sau 1975 khi đ t nước đư c gi i phóng, hân hoan trong niềm vui độc lập con

người b t đầu đi vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới.Và cũng ch nh từ

đây con người b t đầu cũng vì l i ch cá nhân mà quên đi môi trường xung

quanh, quên đi những gì bình d , thân thuộc mà chạy theo những th xa vời và

vô tình đã gây hại cho tự nhiên, khiến bà mẹ tự nhiên nổi giận. Ngày nay đ t

nước đang trên đà phát triển, bên cạnh những m t t ch cực nó còn có những

m t tiêu cực. Cùng với quá trình đô th hóa con người đang cố g ng chạy theo

gu ng quay c a xã hội để b t k p với cuộc sống thường nhật mà quên đi mọi

th x y ra xung quanh chúng ta, những giá tr tốt đẹp, tình người và đ c biệt

coi mọi th xung quanh, môi trường sinh thái và những l i ch do thiên nhiên

48

mang lại là điều d nhiên, hiển nhiên và có nhiều nhận đ nh sai lầm như: thiên

nhiên có ngh a v ph c v con người; thiên nhiên s mãi mãi không m t

đi.v.v. a thật đó là những nhận đ nh vô cùng sai lầm. Thiên nhiên cũng là

một thực thể sống và nó cần đư c b o vệ. Nó không t n tại mãi mãi, sự phát

triển c a thiên nhiên cũng g n liền với sự phát triển c a xã hội, c a con

người. Đừng vì l i ch cá nhân mà quên đi sự t n tại, hiện hữu c a thiên

nhiên. Vì b n thân mỗi con người trong sâu th m tâm h n đều có tình yêu

thiên nhiên, có sự rung động trước c nh đẹp c a thiên nhiên, đều c m th y khi

hòa mình vào thiên nhiên tâm h n s đư c thanh lọc, gột r a, con người ta trở

nên thánh thiện, đơn sơ quên đi những bon chen c a cuộc sống thường nhật.

Vậy tại sao con người chúng ta lại vì một chút l i ch y mà ra tay không

thương tiếc với môi trường sinh thái Những ngọn đ i b ch t phá tàn nhẫn,

những vùng biển b ô nhiễm trầm trọng, những làng quê đư c đô th hóa thay

đổi một cách chóng m t khiến ta bàng hoàng mỗi khi nhìn lại, không gian

thôn dã đã dần b lãng quên.Văn học đ c biệt là những truyện ng n c a

Nguyễn inh Châu sau 1975 đã ph n ánh chân thực điều đó.

phương diện nội dung, truyện ng n c a Nguyễn inh Châu sau 1975

đã thể hiện r c m quan sinh thái tự nhiên và c m quan sinh thái tinh thần. Và

t t c những điều đó thể hiện qua một số truyện ng n c a Nguyễn inh Châu

sau 1975 đã như một chiếc đ ng h báo th c con người. Đừng ng quên trên

chút t l i ch mà hãy th c dậy nhìn lại toàn c nh môi trường sinh thái để th y

sự nhẫn tâm c a mình với thiên nhiên như thế nào Chúng ta cần ph i th c

t nh th c con người b o vệ sinh thái, b o vệ những gì gần gũi, gi n d thân

thuộc nh t, b o vệ sinh thái ch nh là b o vệ cuộc sống c a chúng ta.

phương diện nghệ thuật truyện ng n c a Nguyễn inh Châu sau 1975

có nhiều những đổi mới cách tân đư c thể hiện ở nhiều phương diện và quan

trọng trong việc nhìn nhận, đánh giá những v n đề c p thiết c a xã hội. ua

49

nhan đề, tình huống truyện, cốt truyện đã làm cho độc gi hôm nay có cái

nhìn đúng đ n và những suy ngh khác về môi trường sinh thái xung quanh

chúng ta, nó không ph i những gì quá xa vời mà nó gần ngay bên cạnh chúng

ta. y thiên nhiên làm ch t liệu sáng tác, qua thiên nhiên g i g m những suy

ngh , chiêm nghiệm, nhà văn đã cho độc gi th y v n đề sinh thái không ch là

v n đề c a thời đại mà nhà văn sống, không ph i ch có c a ngày hôm nay mà

còn mãi đến đời sau.

ỗi một tác phẩm văn học có l s có nhiều cách khai mở khác nhau.

Những gì chúng tôi triển khai trong khóa luận có l vẫn còn ở m c độ khiêm

nhường, nhiều v n đề chúng tôi vẫn chưa đi triển khai ho c chưa có điều kiện

cũng như thời gian để tìm hiểu nghiên c u. Nhiều v n đề xung quanh các tác

phẩm, nhiều v n đề còn bỏ ngỏ trong khóa luận còn bỏ ngỏ trong khóa luận

50

chúng tôi s trở lại nghiên c u khi có điều kiện.

TƯ LIỆU THAM KH O

1. Đỗ Hữu Châu (2001), i cư c tập 1, Nxb iáo d c, Hà

Nội.

2. Nguyễn inh Châu 2 7 , ru v ời b . Nxb Văn học

3. Nguyễn inh Châu 2 7 . cu c đ i i v c i t N s u

1975, Nxb Đại học Sư phạm.

4. Nguyễn inh Châu 2 6), u t p tru , Nxb Văn học.

5. Nguyễn inh Châu 1999 , u t p tru , Nxb Văn học.

6. Nguyễn inh Châu 1991 , r i trư c đ , Nxb Khoa học xã hội.

7. Nhiều tác gi 1991 , N u i u c ười v t c p , Nxb Hội

Nhà văn.

8. Thanh Hà (2015), Vấ đề -đô ị ro v xuô V ệt Nam thời

Đổi mới. http://vannghequandoi.com.vn/binh-luan-van-nghe/ van-de-sinh-

thai-do-thi-trong-van-xuoi-viet-nam-thoi-doi-moi-7607.html.

9. Phan Th Thu Hà 2 14 , ối qu t v si t i v v đ p t tri

si t i b v tr c c t c p c c c t c i re

http://123doc.org/document/4129410-moi-quan-tam-ve-sinh-thai-va-van-de-

phat-trien-sinh-thai-ben-vung-trong-cac-tac-pham-chon-loc-cua-tac-gia-al-

gore.htm

1 . Đỗ Văn Hiểu(2015), n h c si t i v u p ê b si t i

11. Đỗ Văn Hiểu 2 12 , ê b si t i – u ư iê cứu v

c t c c t .

http://tapchisonghuong.com.vn/tin-tuc/p0/c7/n11088/Phe-binh-sinh-thai-

khuynh-huong-nghien-cuu-van-hoc-mang-tinh-cach-tan.html, 26/ 11 / 2012.

12. Nguyễn Trọng Hoàn giới thiệu và tuyển chọn 2 7 , N u i u

v t c i v t c p , Nxb iáo d c.

13.Trần Th nh Nguyệt 2 16 , iê iê tr tru N u N c

ư c p ê b si t i

https://kxhnv.duytan.edu.vn/Home/ArticleDetail,/vn/103/1420/thien-nhien-

trong-truyen-ngan-nguyen-ngoc-tu-tu-goc-nhin-sinh-thai-tran-thi-anh-nguyet

14.Trần Đình S 2 15 , ê b si t i ti t tr iê cứu v

c i . https://dovanhieu.wordpress.com/2015/08/31/van-hoc-sinh-thai-

va-li-luan-phe-binh-sinh-thai, 31/ 8/ 2015.

15.Nguyễn Th T nh Thy 2 14 , t c v p ê b si t i – i

c i t c c v c i t N , http://vannghequandoi.com.vn/Phe-

binh-van-nghe/Sang-tac-va-phe-binh-sinh-thai-tiem-nang-can-khai-thac-cua-

van-hoc-Viet-Nam-837.html, 25/10/2014.

16. Karen Thornber (2013), Nh tư i c p ê b si t i v v

h c, https://hieutn1979.wordpress.com/2013/04/27/karen-thornber-nhung-

tuong-lai-cua-phe-binh-sinh-thai-va-van-hoc, 27/4/2014.

17. Vương Nhạc Xuyên. ư tr si t i v i tr si t i p ư

Xem Bloc Sina.

18. Jacques Vemier (2002), i trườ si t i, Trương Th Ch Đạo d ch,

Nxb Thế giới, Hà Nội.