Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Từ xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
lượt xem 14
download
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Từ xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng được thực hiện với mục tiêu nhằm vận dụng những kiến thức ngôn ngữ vào khai thác những nét nổi bật về phương diện sử dụng từ xưng hô trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. Qua việc nghiên cứu đề tài này, giúp cho chúng ta có cái nhìn mới mẻ hơn về con người và văn hóa vùng đất Bắc Bộ. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Từ xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
- TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC VOÕ TRÖÔØNG TOAÛN KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC TỪ XƯNG HÔ TRONG TIỂU THUYẾT SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG NGUYỄN THỊ THÚY LOAN Hậu Giang, tháng 05 năm 2013
- TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC VOÕ TRÖÔØNG TOAÛN KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC TỪ XƯNG HÔ TRONG TIỂU THUYẾT SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện: BÙI THỊ TÂM NGUYỄN THỊ THÚY LOAN Hậu Giang, tháng 05 năm 2013
- LỜI CẢM ƠN Trong luận văn này, trang lời cảm ơn chính là nơi để chúng ta bộc lộ tình cảm và tri ân đối với mọi người xung quanh. Riêng đối với tôi, để hoàn thành được luận văn tốt nghiệp này, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, ủng hộ động viên về tinh thần từ thầy cô, cha mẹ, anh chị và bạn bè… Trước hết, tôi dành lời cảm ơn đến quý thầy cô ở trường Đại học - những người đã giúp đỡ hỗ trợ, hướng dẫn tôi trên con đường hoàn thiện tri thức trong suốt bốn năm học Đại học. Tôi dành lời cảm ơn chân thành, sâu sắc nhất đến cô Bùi Thị Tâm, người đã tận tình giúp tôi trong bốn tháng làm luận văn. Cảm ơn bạn bè, những người luôn đồng hành bên tôi, quan tâm và giúp đỡ tôi khi gặp khó khăn trong bốn năm học ở giảng đường Đại học. Đặc biệt hơn, tôi xin dành lời cảm ơn đến cha mẹ đã không ngại khó khăn, vất vả lo cho tôi ăn học đến ngày nay. Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Thúy Loan
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu thập và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất cứ đề tài nghiên cứu khoa học nào. Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Thúy Loan
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2 3. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 9 4. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................................... 10 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................ 10 NỘI DUNG.................................................................................................. 12 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỪ VÀ TỪ XƢNG HÔ TRONG TIẾNG VIỆT .............................................................................. 12 1.1 Khái niệm về từ tiếng Việt ............................................................................ 12 1.1.1 Các quan điểm khác nhau về từ tiếng Việt ................................................ 12 1.1.2 Đặc điểm của từ tiếng Việt .......................................................................... 13 1.2 Từ xƣng hô ..................................................................................................... 14 1.2.1 Khái niệm về từ xưng hô ............................................................................. 14 1.2.2 Các loại từ xưng hô trong tiếng Việt .......................................................... 17 1.2.2.1 Các đại từ xưng hô .................................................................................... 17 1.2.2.2 Từ xưng hô dùng trong quan hệ gia đình .................................................. 19 1.2.2.3 Từ xưng hô dùng trong quan hệ xã hội ..................................................... 25 1.2.2.4 Từ xưng hô dùng trong tình yêu lứa đôi ................................................... 27 1.2.3 Một số đặc điểm của từ xưng hô trong tiếng Việt ..................................... 27 CHƢƠNG 2: KHẢO SÁT TỪ XƢNG HÔ TRONG TIỂU THUYẾT SỐ ĐỎ .......................................................................................................... 30 2.1 Vài nét về tác giả và sự nghiệp sáng tác ...................................................... 30 2.1.1 Tác giả ......................................................................................................... 30 2.1.2 Sự nghiệp sáng tác ...................................................................................... 31 2.2 Từ xƣng hô đƣợc sử dụng trong tiểu thuyết Số đỏ..................................... 33 2.2.1 Từ xƣng hô dùng trong mối quan hệ gia đình ......................................... 33 2.2.1.1 Từ xưng hô dùng trong mối quan hệ giữa ông - bà - dì và cháu .............. 33 2.2.1.2 Từ xưng hô giữa cha - mẹ và con cái trong gia đình ................................ 35
- 2.2.1.3 Từ xưng hô giữa anh - chị - em trong gia đình ......................................... 40 2.2.1.4 Từ xưng hô vợ - chồng trong gia đình ...................................................... 41 2.2.2 Từ xƣng hô dùng trong mối quan hệ xã hội ............................................ 44 2.2.2.1 Từ xưng hô dùng theo phép lịch sự ........................................................... 45 2.2.2.2 Từ xưng hô dùng theo chức danh, nghề nghiệp ........................................ 50 2.2.3 Từ xƣng hô trong tình yêu lứa đôi ............................................................ 55 CHƢƠNG 3: HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TỪ XƢNG HÔ TRONG TIỂU THUYẾT SỐ ĐỎ ........................................................................................ 59 3.1 Từ xƣng hô thể hiện bản chất của nhân vật ............................................... 59 3.1.1 Kẻ vô học, lưu manh, cơ hội, đểu cáng ........................................................ 59 3.1.2 Lai căng, lố lăng, dâm đảng, rởm hợp và thói học đòi vô thức ................... 64 3.2 Từ xƣng hô thể hiện thái độ của tác giả ...................................................... 67 3.2.1 Châm biếm, giễu nhại, trào phúng ............................................................... 67 3.2.2 Phê phán cái thực trạng xã hội “khốn nạn”, “chó đểu”, “ bịp bợm” ........ 69 3.3 Từ xƣng hô thể hiện nét đẹp văn hóa của con ngƣời Bắc Bộ .................... 71 3.3.1 Thể hiện tính tôn ti, thứ bậc, nề nếp ............................................................. 71 3.3.2 Thái độ nhã nhặn, lịch sự và tôn trọng ........................................................ 72 KẾT LUẬN ................................................................................................. 74
- Từ xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Số đỏ là một tác phẩm lớn của dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930-1945 và được xem như một kiệt tác. Là một cuốn tiểu thuyết trào phúng được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ quan, đã gây được một tiếng cười, đúng hơn là một chuỗi cười giòn giã từ đầu đến cuối tác phẩm thông qua một loạt tình tiết, tình huống hài hước và một loạt chân dung ký họa, biếm họa hết sức độc đáo và sinh động. Trong tiểu thuyết Số đỏ, chúng ta thấy dường như mỗi chi tiết lại chứa đựng một mâu thuẫn trào phúng nào đó và đằng sau mỗi chi tiết ấy ẩn hiện thấp thoáng một nụ cười vừa thông minh sắc sảo vừa đầy khinh bỉ và căm phẫn của nhà văn đối với một tầng lớp xã hội nhố nhăng, lố bịch, vừa đú đởn rửng mỡ, vừa láu cá bịp bợm đã không biết xấu hổ lại còn vênh váo hí hửng, phô phong thái độ của những kẻ hãnh tiến, tiểu nhân đắc chí, và khi đọc Số đỏ người nghiêm đến mấy, người buồn đến đâu, ai ai cũng cười. Cười từ trang đầu sách khi thấy “cuộc tình duyên …theo lối gọi của các ông làm báo – một cuộc tình duyên của Bình dân (chữ B hoa). Là vì Xuân Tóc Đỏ cứ sấn sổ đưa tay ra toan “cướp giật ái tình” mà mồm thì “xin một tị! Một tị tỉ tì ti thôi”. Cho đến câu cuối sách, khi nghe cụ Hồng , tức vì không ai đấm vào mặt, bèn “nhắm mắt lại, ho lụ sụ lên một cách cổ điển, ôm ngực mà khặc khừ: “Biết rồi! Biết rồi, khổ lắm!...nói mãi!!!”. Một cuốn tiểu thuyết như thế, cho đến khi nó ra đời năm 1936, là một trường hợp độc nhất trong văn học ta. Hệ thống từ xưng hô trong tiếng Việt rất phong phú, đa dạng và phức tạp. Chính vì thế trong giao tiếp hằng ngày chúng ta phải lựa chọn từ xưng hô như thế nào cho đúng và gây được thiện cảm với đối tượng giao tiếp là điều quan trọng và cần thiết để làm nên sự thành công trong công việc và trong cuộc sống. Vì vậy, người viết chọn đề tài “Từ xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ” để làm luận văn tốt nghiệp và người viết chọn tác phẩm của Vũ Trọng Phụng để nghiên cứu. Ngoài việc yêu mến và muốn hiểu biết rộng hơn về việc sử dụng từ xưng hô trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng, người viết cũng muốn khẳng định vai trò quan trọng của từ xưng hô trong cuộc sống thông qua đề tài này. Qua việc tác giả thể hiện các lớp từ xưng hô vào tác phẩm văn chương, phần nào đã khẳng định được vị trí của Vũ Trọng Phụng trong việc làm phong phú thêm cho lớp từ xưng hô của tiếng Việt nói chung và ngôn ngữ Bắc Bộ nói riêng. GVHD: Bùi Thị Tâm 1 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Loan
- Từ xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ 2. Lịch sử vấn đề Nghiên cứu đề tài “Từ xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ” là một công việc còn khá mới mẻ, hầu như chưa có ai thực hiện một cách toàn diện. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về từ xưng hô trong tiếng Việt và nghiên cứu về tác phẩm của Vũ Trọng Phụng thì đã có rất nhiều tác giả nói đến. Họ nghiên cứu ở nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau. Sau quá trình đọc, tìm kiếm tài liệu người viết nhận thấy rằng có nhiều ý kiến, bài bình luận về từ xưng hô trong tiếng Việt và về tác giả Vũ Trọng Phụng cũng như tiểu thuyết Số đỏ. Dưới đây, người viết xin nêu một số công trình nghiên cứu, những nhận định, đánh giá, các bài viết của các nhà nghiên cứu về vấn đề trên. Trước hết, các quan điểm khác nhau về từ xưng hô trong tiếng Việt: Trong hệ thống ngôn ngữ, từ xưng hô được xem là một bộ phận khá phong phú và phức tạp. Ngoài việc là đối tượng chính của Ngữ pháp tiếng Việt, từ xưng hô còn được nghiên cứu từ góc độ của hai phân môn: Ngữ dụng học và Phong cách học tiếng Việt. Từ góc độ Ngữ pháp tiếng Việt: hầu như không có một công trình nghiên cứu riêng về từ xưng hô. Các nhà ngữ pháp học chỉ nhìn nhận và xem xét từ xưng hô về mặt từ loại, chủ yếu là từ loại đại từ. Trong Ngữ pháp tiếng Việt tập (1), Diệp Quang Ban đã nhận xét: “Đại từ xưng hô dùng thay thế và biểu thị các đối tượng tham gia quá trình giao tiếp”[1;tr.111]. Ông đã chia đại từ xưng hô ra thành đại từ xưng hô dùng ở ngôi xác định và đại từ xưng hô dùng ở nhiều ngôi linh hoạt. Đỗ Thị Kim Liên, Ngữ pháp tiếng Việt, cũng đã nhận định đại từ xưng hô dùng thay thế và “chỉ trỏ người khi giao tiếp”[13;tr.58]. Tác giả có điểm khác biệt với Diệp Quang Ban là đã chỉ ra bên cạnh đại từ xưng hô thì các danh từ thân tộc như: ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em, cô, bác được dùng để xưng hô điển hình là những cặp từ: “anh/em, cha/mẹ, ông/bà, cô/bác, chú/thím, ông/cháu, bà/cháu…”[13;tr.58]. Ngoài việc sử dụng từ xưng hô trong phạm vi thân tộc thì từ xưng hô còn được sử dụng ngoài xã hội. Nguyễn Hữu Quỳnh, Ngữ pháp tiếng Việt, cũng có cùng quan điểm với hai tác giả: Diệp Quang Ban và Đỗ Thị Kim Liên. Nhưng Hữu Quỳnh lại đặt các danh từ thân tộc vào nhóm các đại từ xưng hô lâm thời, và theo ông thì: “Đại từ xưng hô trong tiếng Việt gồm các đại từ chuyên dùng để xưng hô và các đại từ xưng hô lâm thời”[19;tr.151]. Theo cách nói trên chúng ta có thể hiểu các đại từ xưng hô lâm thời ở đây là các danh từ thân tộc. GVHD: Bùi Thị Tâm 2 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Loan
- Từ xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ “Xưng hô trong giao tiếp là một vấn đề lớn, liên quan đến nhiều nhân tố”[ 2;tr.123] là nhận định của tác giả Lê Biên, trong quyển này, tác giả đã có những nghiên cứu khá sâu sắc về đại từ xưng hô. Theo tác giả đại từ xưng hô có thể chia thành hai lớp: đại từ xưng hô gốc đích thực và các yếu tố được đại từ hóa dùng để xưng hô như: những danh từ lâm thời đảm nhận chức năng đại từ, các từ chỉ chức danh, nghề nghiệp, các tên riêng người…Ngoài ra, ông còn chia từ xưng hô trong tiếng Việt thành hai lớp có phạm vi sử dụng khác nhau, gồm: những từ xưng hô dùng trong gia tộc và những từ xưng dùng ngoài xã hội. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu Ngữ pháp tiếng Việt đều xem xét từ xưng hô dưới góc độ là đại từ xưng hô, với chức năng thể hiện vai giao tiếp. Từ góc độ Ngữ dụng học: nổi bật là các tài liệu nghiên cứu của tác giả Đỗ Hữu Châu. Trong quyển Đại cương ngôn ngữ học, Đỗ Hữu Châu đã có những nghiên cứu khá sâu sắc về từ xưng hô. “Bằng cách lựa chọn từ để tự xưng và để “hô” người giao tiếp, người nói định một khung quan hệ liên cá nhân cho mình và cho người đối thoại với mình”[4;tr.75]. Tác giả đã đề cập đến nhiều vấn đề chiếu vật và chỉ xuất. Ông đã nghiên cứu từ xưng hô trên hai bình diện: hệ thống các từ xưng hô, những nhân tố chi phối việc dùng các từ xưng hô trong giao tiếp. Ông đã đưa ra nhận định của mình bằng một lời đánh giá trong Cơ sở ngữ dụng học: “Xưng hô là hành vi chiếu vật, đây là quy chiếu các đối ngôn trong ngữ cảnh, nó sẽ gắn diễn ngôn với người nói, người tiếp thoại. Xưng hô thể hiện vai giao tiếp”[5;tr.268]. Đỗ Hữu Châu đã đi vào phân tích khá tỉ mỉ và sâu sắc hệ thống từ xưng hô, nêu lên được những đặc điểm cũng như phạm vi, cách thức sử dụng của các từ xưng hô trong tiếng Việt. Từ góc độ Phong cách học: các nhà nghiên cứu đã đưa ra những nhận xét riêng của mình trong việc nghiên cứu từ xưng hô. Đinh Trọng Lạc, Phong cách học tiếng Việt, đã nhận xét: “Phong cách học quan tâm chủ yếu đến cái giá trị biểu đạt, biểu cảm - cảm xúc, các giá trị phong cách của các phương tiện ngôn ngữ trong những hoàn cảnh giao tiếp tiêu biểu, với những điều kiện giao tiếp nhất định trong quá trình giao tiếp”[8;tr.10]. Theo quan điểm đó thì từ xưng hô cũng như những phương tiện ngôn ngữ khác đều được phong cách học nhìn nhận và xem xét dưới những phương diện: đặc điểm tu từ (bao gồm màu sắc phong cách, sắc thái biểu cảm) và phong cách chức năng ngôn ngữ. Cù Đình Tú, Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, cho rằng: ngoài các đại từ nhân xưng và các từ chỉ quan hệ họ hàng thân thuộc thì còn “lấy cả tiếng đệm giữa GVHD: Bùi Thị Tâm 3 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Loan
- Từ xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ họ và tên của nữ giới (thị) để dùng làm từ xưng hô, thậm chí còn dùng cả cách nói trống không (từ xưng hô zero) để xưng hô”[28;tr.166]. Cuối cùng ông đưa ra nhận xét: “Trong tiếng Việt, từ xưng hô, cách xưng hô, mô hình xưng hô là phương tiện biểu cảm, là phương tiện phong cách”[28;tr.168]. Bên cạnh đó, còn có các nhà nghiên cứu khác như: Trần Thị Ngọc Lang, Phương ngữ Nam Bộ, đã đưa ra nhận xét về từ xưng hô trong tiếng Việt “Các từ xưng hô trong tiếng Việt rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, trong cái đa dạng của cách xưng hô hằng ngày, chúng ta vẫn thấy mức độ thống nhất giữa các phương ngữ tiếng Việt khá cao. Những khác biệt nhỏ trong cách xưng hô làm nên sắc thái riêng của các phương ngữ”[9;tr.87]. Trong bài viết của mình Trần Thị Ngọc Lang đã đưa ra vấn đề từ xưng hô trong giao tiếp hằng ngày được thể hiện ở các cấp độ và địa vị của mỗi người trong khi giao tiếp với nhau. Từ đó, tác giả đưa ra nhận xét chung về cách xưng hô trong phương ngữ Nam Bộ và phương ngữ Bắc Bộ. Trong Cảm nhận bản sắc Nam bộ, Huỳnh Công Tín cũng đã khẳng định tầm quan trọng của ngôn ngữ Nam Bộ vào kho tàng ngôn ngữ tiếng Việt với nhiều từ ngữ phong phú và đa dạng với cách xưng hô “Trong gia đình người Nam Bộ có thói quen dùng thứ để xưng gọi: “Hai, ba, bốn, năm, sáu, út,…”, từ xưng hô “họ hàng” như: “cậu mợ; dì dượng; chú thím;…” được dùng trong gia đình và cả trong hàng xóm; cách gọi ngôi thứ có tính chất lược âm: “ổng, bả, ảnh, chỉ,…” [26;tr.263]. Đặc biệt, nhiều năm trở lại đây trên diễn đàn của Ngữ học trẻ và Tạp chí ngôn ngữ cũng đã xuất hiện khá nhiều bài viết nghiên cứu xung quanh về từ xưng hô. Nhìn chung, từ xưng hô là vấn đề không chỉ có ý nghĩa ngôn ngữ đơn thuần mà nó còn là vấn đề văn hóa ứng xử của con người trong quá trình giao tiếp. Với nhiều chiều hướng tiếp cận khác nhau, các nhà ngôn ngữ học đã tạo nên sự phong phú và đa dạng của từ xưng hô trong tiếng Việt. Và dù là các công trình nghiên cứu trên nghiên cứu chưa sâu hay còn sơ lược thì nó cũng trở thành nguồn tư liệu quý báo giúp cho người viết có cái nhìn rộng và toàn diện hơn về từ xưng hô. Từ góc độ Văn học: Cuộc đời và thời gian cầm bút của Vũ Trọng Phụng tuy hết sức ngắn ngủi nhưng ông đã để lại một di sản văn hóa đồ sộ, đặc biệt là để lại dấu ấn sâu đậm của một tài năng lớn trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Đương thời, ông là cây bút có tính chiến đấu mạnh mẽ, xông xáo, tung hoành trên nhiều lĩnh vực của đời sống. Ông đã dựng lên một thế giới nghệ thuật đa dạng, phong phú, hết sức phức tạp, thể hiện rất rỏ những mâu thuẫn trong thế giới thế giới quan và trong tư duy nghệ thuật của ông. Ngòi bút sắc sảo của Vũ Trọng Phụng viết về nhiều thể loại khác nhau nhưng GVHD: Bùi Thị Tâm 4 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Loan
- Từ xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ tư tưởng, tài năng và đóng góp to lớn của ông được thể hiện chủ yếu ở phóng sự và tiểu thuyết, nhất là tiểu thuyết là hiện thực. Hiện tượng văn chương Vũ Trọng Phụng từng tồn tại như một nghịch lý trong dư luận bạn đọc. Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn người ta đến một trong hai thái độ: thứ nhất, coi hiện tượng Vũ Trọng Phụng như một báu vật của lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Thứ hai, nhìn con người và tác phẩm của ông như một thứ độc hại cho tư tưởng cần phải tránh né. Nhưng nhìn tổng thể, cả sự khâm phục lẫn bất phục đều có lúc được đẩy tới thiên lệch, vi phạm những chuẩn mực khoa học cần thiết. Mặc dù, trước những ý kiến trái ngược nhau của dư luận nhưng văn chương Vũ Trọng Phụng vẫn trụ vững, thậm chí như vì sao ngày càng tỏa sáng, và ở mức độ nào đó, trở thành một hiện tượng văn học lớn vượt biên giới quốc gia, cho đến nay đã có nhiều bài tiểu luận văn học cùng nhiều cuốn sách, tạp chí chuyên đề về Vũ Trọng Phụng, chưa kể những bài viết lẻ tẻ có vài dòng đề cập tới nhà văn và hàng chục luận văn, luận án tiến sĩ, phó tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân ở khắp ba miền Trung, Nam, Bắc…Mấy con số thống kê đơn giản này phần nào khẳng định được vị trí quan trọng của Vũ Trọng Phụng trong lịch sử văn học nước nhà, khẳng định mối quan tâm đặc biệt của giới nghiên cứu giành cho ông, và ông quả thực là một hiện tượng văn học đầy hấp dẫn mà không phải nhà văn đương đại nào cũng có được. Để thấy được vai trò của Vũ Trọng Phụng trong sáng tác văn học và cũng như những thành công về mặt nội dung, tư tưởng và nghệ thuật trong tác phẩm của ông. Một số nhà nghiên cứu đã có những nhận định sau: Trong bài điếu văn đọc bên mộ của nhà văn vào ngày 15 tháng 10 năm 1939 tại Hà Nội, nhà thơ Lưu Trọng Lư so sánh tầm quan trọng của người bạn vừa khuất trong đời sống văn học đương thời với vai trò của Bandắc ở nước Pháp trong thế kỉ XIX: tất cả sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng là phơi bày, là chế nhạo tất cả những cái rởm, cái xấu, cái bần tiện, cái đồi bại của một hàng người, một thời đại - Lưu Trọng Lư tuyên bố Vũ Trọng Phụng đối với thời đại của Vũ Trọng Phụng, cũng như Bandắc đối với thời đại của Bandắc. Nhà nghiên cứu Phong Lê đã nhận xét về sáng tác của Vũ Trọng Phụng: “…với thế giới nhân vật cực kỳ sống động và sự huyền diệu, sắc nhọn của ngôn ngữ tiếng việt trong văn ông”.[12;tr.2] Hoàng Ngọc Hiến đã rất có lý khi viết: tác giả (chỉ Vũ Trọng Phụng) đã tạo ra cả một xã hội hài hước trong đó nhất cử nhất động của bất kỳ nhân vật nào đều khôi hài, lố bịch (…) mọi người đều buồn cười, không phân biệt trẻ già, trai gái, thành phần xã hội, tôn giáo (…) mục tiêu trào phúng của tác giả phủ định cả một xã hội ngớ ngẩn, nhí GVHD: Bùi Thị Tâm 5 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Loan
- Từ xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ nhố, lố bịch, nhố nhăng. Nội dung tư tưởng của Số đỏ đạt tới trình độ phổ quát, tác giả phê phán một loạt thói rởm, tật xấu có thể trở thành phổ biến ở mọi chế độ xã hội: cấp tiến rởm, bình dân rởm, trí thức rởm, nghệ thuật rởm, khoa học rởm, bằng sắc rởm. Nhà nghiên cứu Tôn Thảo Miên đã nhấn mạnh đến nghệ thuật truyện của Vũ Trọng Phụng “ấn tượng ông để lại trong lòng độc giả hôm qua và hôm nay không chỉ vì ý nghĩa xã hội, vì giá trị nội dung mà điều quan trọng là tài năng độc đáo trong nghệ thuật trào phúng của ông”.[15;tr.7] Nhà phê bình Văn Tâm đã mạnh mẽ khẳng định: “nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng không chỉ nằm trên mức độ trào phúng thấp kém, pha trò một cách vô tư, phủ nhận những nhân tố thứ yếu, cục bộ; mà chính đã tiến tới trình độ phúng thính: phá hoại toàn bộ hệ thống, phủ định những đặc tính cơ bản của đối tượng, gây được sự hờn ghét, lòng khinh bỉ đến căm thù trong độc giả".[27;tr.20] Về nội dung và nghệ thuật trong tiểu thuyết Số đỏ, một số nhà nghiên cứu đã nhận xét như sau: Trương Tửu nhận xét: Số đỏ là cuốn tiểu thuyết tả chân đến tàn ác, trào phúng đến chua xót (Tao Đàn số đặc biệt, 12- 1939). Nguyễn Hoành Khung khẳng định: Số đỏ cho thấy ngòi bút độc đáo của một tài năng lớn, một bản lĩnh nghệ thuật già dặn. Nguyễn Quang Sáng cho rằng: Số đỏ là lời nguyền rủa chua cay độc địa của cái xã hội thối nát. Còn Nguyễn Khải cũng đánh giá rất cao tiểu thuyết Số đỏ, coi đó là một trong những cuốn sách ghê gớm có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học. Trong bài “dâm hay không dâm”, đăng trên báo tương lai ra ngày 25 tháng 3 năm 1937 Vũ Trọng Phụng xác định rất rõ đối tượng châm biếm, đả kích: “ Tả thực cái xã hội khốn nạn, công kích cãi xa hoa dâm đãng của bọn người có nhiều tiền”, đồng thời cũng ý thức rõ việc sử dụng ngòi bút trào phúng của mình: “Cái nhìn nhân loại ô uế, bẩn thỉu, nó bắt tôi phải viết như thế”. Nhận xét về thành phần nhân vật trong Số đỏ, một số nhà nghiên cứu đã đưa ra nhận định như sau: Phan Cự Đệ nhận xét: Thông qua một kẻ hãnh tiến là Xuân Tóc Đỏ, Vũ Trọng Phụng đã lên án cái xã hội tư sản lố lăng, giả dối, vô nghĩa lý. còn Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: đọc Số đỏ, ta như lôi cuốn vào một cuộc tả xung hữu đột của Vũ Trọng Phụng vào đủ loại quái thai của xã hội thực dân tư sản: từ mụ me Tây tới những cô “gái mới”, từ bọn lang băm tới những lão sư hổ mang; từ những văn sĩ, họa sĩ kiếm ăn trên phong trào Âu hóa trụy lạc tới loại thi sĩ lãng mạn: “Chẳng được như hoa vướng gót ai; lòng ta man mác tả tơi thay!”; từ những chuyện gia đình thối nát của bọn tư sản tới những mánh khóe kinh doanh xảo trá và những hoạt động văn hóa xã hội trơ trẽn của chúng; từ bọn cảnh sát ngán ngẩm vì không ai chịu…đái bậy tới những quan toàn quyền, thống sứ, vua Nam, vua Xiêm nhố nhăng như những vai tuồng. Tiếp tục GVHD: Bùi Thị Tâm 6 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Loan
- Từ xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ dùng lăng kính “điển hình hóa” để đánh giá lại Số đỏ, Phan Cự Đệ cho rằng: Vũ Trọng Phụng đã thành công rất xuất sắc trong tiểu thuyết hoạt kê Số đỏ hơn cả Giông tố, Vỡ đê (…). Với Số đỏ, Vũ Trọng Phụng đã cắm một cái mốc quan trọng trong nghệ thuật điển hình hóa hiện thực chủ nghĩa, trong nghệ thuật trào phúng của văn xuôi Việt Nam. Phan Cự Đệ nhìn tiếng cười Vũ Trọng Phụng như một công cụ phản kháng xã hội: Số đỏ không chỉ đã kích phong trào “Âu hóa”, “vui vẻ trẻ trung” của nhóm Ngày nay. Trong cuốn tiểu thuyết hoạt kê này, tiếng cười ào ạt trùm lấp, phủ lên mọi trò cải lương, bịp bợm, mọi kiểu cách “văn minh”, “Âu hóa”, có lúc phủ lên mọi nhân vật chóp bu của chính quyền đương thời, khiến cho cái xã hội thực dân phong kiến hóa ra “ối a, ba phèng”, hóa ra lỗ mãng, kệch cỡm. Trong bài Trào phúng của Vũ Trọng Phụng trong Số đỏ. Hoàng Ngọc Hiến lại muốn đẩy ý nghĩa tiếng cười lên một cấp độ phổ quát hơn: lớn hơn sự phê phán một giai cấp, tiếng cười của tác giả phủ định cả một xã hội ngớ ngẩn, nhí nhố, lố bịch, nhố nhăng. Nội dung tư tưởng của Số đỏ đạt tới trình độ phổ quát, tác giả phê phán một loạt thói rởm, tật xấu có thể trở thành phổ biến ở mọi chế độ xã hội: cấp tiến rởm, hàm tước rởm, bình dân rởm, bằng sắc rởm. Đi theo hướng phê bình thi pháp học, ký hiệu học, Đỗ Đức Hiểu và cây bút nghiên cứu trẻ Phạm Xuân Nguyên mang nhiệt tình soi sáng tiếng cười Số đỏ từ những góc nhìn mới. Tiếp cận Số đỏ như một hiện tượng ngôn từ độc đáo, giáo sư Đỗ Đức Hiểu có hai khám phá quan trọng: khám phá về cái cười nhại và cái cười nhân văn chủ nghĩa. Giáo sư viết: Số đỏ nhại một xã hội, một phong trào chính trị, một thời đô thị hóa. Nó nhại một ngôn ngữ đang hình thành, hổ lốn, táp nham, lổn nhổn, không ăn khớp – ngôn từ khấp khểnh, xiêu vẹo, tạp pí lù. Số đỏ là một tập hợp hỗn loạn những phong cách kỳ dị, quái gở, lấn át nhau, xen kẽ nhau, phá hủy nhau – để biểu đạt chính cái xã hội quái dị ấy. Và chưa mấy ai thấy cái cười của Vũ Trọng Phụng, ở đây, ẩn giấu tư tưởng nhân đạo đầy bao dung, cái cười nhân văn chủ nghĩa. Sử dụng thi pháp học của Bakhtin, Phạm Xuân Nguyên tập trung đánh giá sự cách tân thể loại trong Số đỏ trên hai mặt: xây dựng nhân vật và thủ pháp tiếng cười. Tác giả nêu ra ba ý nghĩa của tiếng cười Vũ Trọng Phụng: 1) Tiếng cười kéo nhân vật (Xuân Tóc Đỏ) ra khỏi thế giới sử thi; 2) Tiếng cười “thượng lưu hóa” bình dân và “bình dân hóa” thượng lưu, 3) Tiếng cười xếp Xuân Tóc Đỏ ngang tầm xã hội, xếp mọi người ngang hàng với nhau. Rồi nhận xét: Số đỏ tập trung cao để thể hiện sự dị dạng của con người trong một xã hội đang tư sản hóa cuối mùa” - đó là “tính riêng biệt” của Số đỏ so với những tác phẩm cùng thời cùng khai thác những mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam 1930 – 1945. GVHD: Bùi Thị Tâm 7 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Loan
- Từ xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ Nguyễn Hoành Khung cũng khẳng định: tiếng cười trào phúng trong Số đỏ đã nhắm khá trúng vào tầng lớp thống trị, cụ thể là bọn tư sản thành thị học đòi văn minh rởm khi đó. Ngòi bút cay độc của Vũ Trọng Phụng đã tung hoành thoải mái, đã kích tới tấp vào toàn bộ cái xã hội tư sản nhố nhăng, thối nát, từ sinh hoạt đàng điếm trụy lạc đến thói huênh hoang bịp bợm, từ thủ đoạn làm tiền bẩn thỉu đến những phong trào “Âu hóa”, “thể thao”, “giải phóng”, “nữ quyền”, cả “thơ mới” lãng mạn đến nghệ thuật “hủ nát”, từ những hoạt động “cải cách xã hội” mà chung quy chỉ là những danh từ ba hoa rổng tếch đến giới cảnh sát, phủ Toàn quyền trong bộ máy chính quyền thực dân… Nhiều người đã nói đến sự phong phú, đa dạng của sắc thái tiếng cười Số đỏ. Quả là tác phẩm này có đủ loại sắc thái: bông đùa và nghiêm khắc, thiện cảm và ghét khinh, mỉa mai trào lộng và chua chát đắng cay…sự phong phú, đa dạng của sắc thái tiếng cười, xét đến cùng là do cách nhìn của tác giả về những đối tượng trào phúng khác nhau. Ngoài ra tiếng cười trong Số đỏ là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, phương Đông và phương Tây. Bàn về vấn đề này, Giáo sư Hoàng Thiếu Sơn cho rằng: Vũ Trọng Phụng viết Số đỏ đã chẳng được kế thừa bao nhiêu của văn học chính thống Việt Nam và phương Tây vậy có chăng là kế thừa được những cách gây cười, trêu cợt, mỉa mai của văn học dân gian chúng ta. Nhưng cũng phải thấy rằng về các mặt ấy Vũ Trọng Phụng cũng rất “Tây” và chắc chắn là “Tây” nhất trong các nhà văn trào lộng của chúng ta. Cái cười phương Tây, Vũ Trọng Phụng đã đem vào văn học chúng ta nhiều nhất và thành công nhất (Tôi nhấn mạnh – TVH) vì đã việt hóa đi thật là nhuần nhuyễn. Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến cho rằng: không thể nói rằng đối tượng trào phúng của tác giả Số đỏ chỉ giới hạn ở những “ông chủ”, “bà chủ” của xã hội cũ. Thực ra, tác giả đã tạo ra cả một xã hội hài hước, trong đó ai cũng buồn cười, ngớ ngẩn, ngô ngê, lố bịch giống như những con rối ; Tác giả đã tạo ra cả một xã hội hài hước, trong đó nhất cử nhất động của bất kì nhân vật nào đều khôi hài, lố bịch, từ “em chã” đến cụ Tổ, từ trí thức đến bình dân, từ nhà sư đến cảnh sát…, cả hai người thợ lúng túng với “cái thẹo chổng lên” và “cái thẹo chúc xuống” cũng trở thành nhân vật hài.Tóm lại mọi người đều buồn cười, không phân biệt trẻ già, trai gái, thành phần xã hội, tôn giáo. Trong Vũ Trọng Phụng nhà văn hiện thực Văn Tâm cho rằng: cái cười xã hội tư sản trong Số đỏ không phải là tiếng cười rúc rích, rải rác, mà chính nó là tiếng cười lớn bùng lên như một lời gầm thét, phẫn nộ. Hoàng Như Mai nhận xét: Vũ Trọng Phụng tỏ ra rất độc với cái xã hội được mệnh danh là “thượng lưu” thời thuộc Pháp. Ông điểm đúng huyệt bọn này: bộ mặt đạo đức giả. Ông thật hiểm đạo đức giả có trăm nghìn GVHD: Bùi Thị Tâm 8 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Loan
- Từ xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ kiểu, ông chọn cái địa hạt họ muốn giấu kĩ nhất, nói như tục ngữ “giấu như mèo giấu c… Ấy là cái dâm. Số đỏ chỉ độ ba chục nhân vật có tên và không tên mà đã tập hợp đủ các hạng người trong xã hội thành thị Việt Nam vào những năm 30 của thế kỷ, từ u em, u già, làm bếp, đứa bé nhặt banh quần, chị hàng mía, ông thầy số, mấy cụ lang băm, những thành viên của một gia đình trưởng giả, công chức tam đại đồng đường, từ cụ cố tổ đến đủ cả con dâu, con rể, những me Tây, những ông vua thuốc lậu kiêm chủ khách sạn, những nhà hoạt động xã hội, nhà cải cách Âu hóa: chính khách, nhà báo, nghệ sĩ, thể thao, thầy thuốc, không quên những nhà thi sĩ lãng mạn, ông hội viên khai trí tiến đức, làm từ điển, ông sư kiêm chủ bút nhà báo, không quên “những người Nhà nước”: cò, cẩm, mật thám, đầy đủ “cảnh sát giới”, đến cả giám đốc chính trị Đông Dương, đến cả vua nước láng giềng với những cố vấn quân sự người Đức, người Nhật. Trong Số đỏ tác giả đã tạo ra cả một xã hội nhố nhăng, lố lăng, rởm hợp thật đáng buồn cười. 3. Mục đích nghiên cứu Số lượng từ xưng hô của tiếng Việt so với tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc,… quả là phong phú và tinh tế, phức tạp hơn rất nhiều. Nhưng vận dụng nó như thế nào để thể hiện là người có văn hóa giao tiếp lịch sự, xưng hô đúng vai, đúng mực, lễ phép, khéo léo, khiêm nhường, đúng hoàn cảnh nói năng, đúng mối quan hệ thân-sơ giữa người nói và người đối thoại lại không hề đơn giản một chút nào. Trong giao tiếp, một người có thể sắm cho mình nhiều vai trong những hoàn cảnh khác nhau. Do đó, người viết chọn đề tài này để nghiên cứu và hy vọng rằng sẽ giới thiệu với mọi người về sự phong phú của hệ thống từ xưng hô trong tiếng Việt và thấy được màu sắc của từ xưng hô thay đổi trong những hoàn cảnh giao tiếp khác nhau. Đồng thời, giúp mọi người có thể lựa chọn từ xưng hô thể hiện được sự lễ phép, tôn kính những người có tuổi tác cao, những người có vị thế lớn, những người có uy tín trong mối quan hệ tương giao với người nói như: các bậc cao niên, cha mẹ, thủ trưởng… và khi xưng hô đúng vai có chừng mực lịch sự, thái độ tôn trọng trong giao tiếp sẽ tạo ra được tình thân hữu, bầu không khí thân mật, rút ngắn khoảng cách giữa người nói và người nghe. Khảo sát đề tài “Từ xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ”, người viết bước đầu thử vận dụng những kiến thức ngôn ngữ vào khai thác những nét nổi bật về phương diện sử dụng từ xưng hô trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. Qua việc nghiên cứu đề tài này, giúp cho chúng ta có cái nhìn mới mẻ hơn về con người và văn hóa vùng đất Bắc Bộ. Qua đề tài này, một mặt người viết có thêm sự hiểu biết, nâng cao thêm kiến thức về từ xưng hô trong tiếng Việt. Mặt khác, cũng hiểu rõ hơn về cách dùng từ ngữ mang GVHD: Bùi Thị Tâm 9 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Loan
- Từ xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ đậm phong vị Bắc Bộ của Vũ Trọng Phụng. Đồng thời cũng có thể hiểu được một phần nào những tâm tư, tình cảm mà nhà văn muốn gởi gắm qua các nhân vật của mình. Ngoài mục đích giúp cho người viết hoàn thành luận văn tốt nghiệp trong suốt bốn năm trên giảng đường Đại học. Thì việc nghiên cứu đề tài “Từ xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ” còn giúp cho người viết thống kê, phân loại và chỉ ra được giá trị sử dụng của từ xưng hô trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng; làm quen và thích ứng được với phương pháp làm việc khoa học, độc lập và sáng tạo. 4. Phạm vi nghiên cứu Từ xưng hô trong tiếng Việt, ngoài việc sử dụng trong mối quan hệ giao tiếp hằng ngày như: giữa cha mẹ với con cái, giữa vợ chồng, anh chị em trong gia đình hay giữa thầy trò, sếp với nhân viên….Từ xưng hô còn được sử dụng phổ biến trong các tác phẩm thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, ca dao, thành ngữ, tục ngữ,…chắc hẳn trong phạm vi hiểu biết và nghiên cứu hạn hẹp, người viết không thể nghiên cứu hết được mà chỉ chọn đề tài “Từ xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ”để làm luận văn trong suốt bốn năm học. Để thực hiện đề tài “Từ xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ”, trước tiên người viết đã đi vào tìm hiểu phần lý thuyết về từ xưng hô từ các công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học về Ngữ pháp, Ngữ dụng và Phong cách học tiếng Việt. Trên cơ sở đó đưa ra một số mô hình xưng hô tiêu biểu và phân tích giá trị sử dụng từ xưng hô thông qua ngôn ngữ đối thoại giữa các nhân vật trong Số đỏ. Vũ Trọng Phụng là nhà văn lớn. Ông để lại nhiều tác phẩm nhưng người viết chọn tiểu thuyết Số đỏ, bởi lẽ đây là tác phẩm nổi tiếng về phong cách, về nghệ thuật. Đây cũng là tác phẩm đánh giá khả năng, vị trí tác giả rõ nhất. Tuy nhiên, người viết chọn tác phẩm Số đỏ của nhà xuất bản Văn học để làm tư liệu khảo sát trong toàn bộ luận văn của mình. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để hoàn thành tốt luận văn này, người viết luôn tìm hiểu và lựa chọn những phương pháp nghiên cứu cơ bản, thuận tiện nhằm làm nổi bật lên nét đặc sắc trong việc sử dụng từ xưng hô của Vũ Trọng Phụng. Nghiên cứu trước hết phải có định hướng, tìm sự hấp dẫn của đề tài, tìm hiểu những vấn đề liên quan trong quá trình nghiên cứu. Ngoài việc người viết phải sưu tầm các loại tài liệu có liên quan đến đề tài đã chọn giúp cho việc nghiên cứu thuận tiện và thuyết phục mọi người khi công trình nghiên cứu hoàn thành. Chẳng hạn như: các bài báo, bài bình luận về tác phẩm, sách tham khảo về nhà văn Vũ Trọng Phụng, từ xưng hô trong tiếng Việt,…Đặc biệt hơn, để bài viết có tính khoa học người viết đã chọn phương pháp nghiên cứu sau: GVHD: Bùi Thị Tâm 10 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Loan
- Từ xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ Phương pháp thống kê và phân loại từ xưng hô theo cách gọi cụ thể của từng đối tượng. Từ đó biết được số lượng chính xác để có sự nhận định, đánh giá một cách khoa học và thấy được cái hay cái đẹp, cái độc đáo của việc sử dụng lớp từ xưng hô mà tác giả gởi gắm qua tác phẩm của mình. Đối chiếu và so sánh từ xưng hô Bắc Bộ với từ xưng hô Nam Bộ, để thấy được những nét tương đồng và dị biệt. Từ đó rút ra nét đặc trưng trong cách xưng hô của người Bắc Bộ và hiệu quả của việc thay đổi từ xưng hô trong những hoàn cảnh xã hội khác nhau. Cuối cùng tổng hợp đánh giá lại quá trình làm từ các phương pháp trên, sau đó đưa ra ý kiến riêng của người viết về vấn đề đã phân tích. GVHD: Bùi Thị Tâm 11 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Loan
- Từ xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỪ VÀ TỪ XƢNG HÔ TRONG TIẾNG VIỆT 1.1 Khái niệm về từ tiếng Việt Từ là đơn vị tồn tại hiển nhiên, sẵn có của ngôn ngữ. Trong quá trình vận dụng ngôn ngữ, các từ luôn được tái hiện với tư cách là những đơn vị có sẵn và mỗi một từ luôn được gặp trong những trường hợp sử dụng riêng biệt khác nhau, trong mỗi trường hợp tái hiện khác nhau. Chính vì thế, hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về từ tiếng Việt. Nhưng chúng ta có thể hiểu “Từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, độc lập về ý nghĩa và hình thức”. Sau đây, là các quan điểm khác nhau về từ tiếng Việt mà các nhà nghiên cứu đã đưa ra 1.1.1 Các quan điểm khác nhau về từ tiếng Việt Nhìn chung có hai khuynh hướng: Từ tiếng Việt trùng với âm tiết (hay tiếng) Tiêu biểu cho khuynh hướng này là M.B.Emenneu, Cao Xuân Hạo, Nguyễn Thiện Giáp. Emenneu định nghĩa: “Từ bao giờ cũng tự do về mặt âm vị học, nghĩa là có thể miêu tả bằng những danh từ của sự phân phối các âm vị và bằng những thanh điệu”.[7;tr.17] Cao Xuân Hạo: “Chúng ta hiểu tính đa dạng về tên gọi mà các tác giả khác nhau đã đề nghị cho đơn vị khác thường đó của ngôn ngữ đơn lập là: tiết vị (syllabophoneme), hình tiết (morphosyllabeme), từ tiết (wordsyllabe), đơn tiết (monosyllabe) hoặc đơn giản là từ (word). Thực ra, nó chính là âm, hình vị hoặc từ và tất cả là đồng thời. Nếu chúng ta so sánh với các ngôn ngữ châu Âu về cơ cấu xoay quanh ba trục được tạo thành bởi các đơn vị cơ bản là âm vị, hình vị và từ thì cơ cấu của tiếng Việt hầu như là sự kết hợp ba trục đó thành trục duy nhất âm tiết”.[7;tr.18] Nguyễn Thiện Giáp: “Từ tiếng Việt là một chỉnh thể nhỏ nhất có ý nghĩa dùng để tạo câu nói; nó có hình thức của một âm tiết, một khối viết liền”.[7 ;tr.168] Từ tiếng Việt không hoàn toàn trùng âm tiết Nguyễn Văn Tu: “Từ là đơn vị nhỏ nhất và độc lập, có hình thức vật chất (vỏ âm là hình thức) và có ý nghĩa, có tính chất biện chứng và lịch sử”.[7;tr.20] GVHD: Bùi Thị Tâm 12 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Loan
- Từ xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ Nguyễn Kim Thản: “Từ là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ có thể tách khỏi đơn vị khác của lời nói để vận dụng một cách độc lập và một khối hoàn chỉnh về ngữ âm, ý nghĩa (từ vựng, ngữ pháp) và chức năng ngữ pháp”.[7;tr.20 và 21] Hồ Lê: “Từ là đơn vị ngữ ngôn có chức năng định danh phi liên kiết hiện thực, hoặc chức năng mô phỏng tiếng động, có khả năng kết hợp tự do, có tính vững chắc về cấu tạo và tính nhất thể về ý nghĩa”.[11;tr.104] Đái Xuân Ninh: “Từ là đơn vị cơ bản của cấu trúc ngôn ngữ ở giữa hình vị và cụm từ. Nó được cấu tạo bằng một hay nhiều đơn vị ở hàng ngay sau nó tức là hình vị và lập thành một khối hoàn chỉnh”.[14;tr.24] Lưu Văn Lăng: “Những đơn vị dùng tách biệt nhỏ nhất mới là từ. Có thể nói từ là đơn vị tách biệt nhỏ nhất. Nói cách khác, từ là ngữ đoạn (tĩnh) nhỏ nhất.[10;tr.213]. Từ có thể gồm nhiều tiếng không tự do hay nhiều tiếng tự do kết hợp lại không theo quan hệ thuần cú pháp tiếng Việt”.[10;tr.214] Đỗ Hữu Châu: “Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến, có một ý nghĩa nhất định, nằm trong một phương thức (hoặc kiểu cấu tạo) nhất định, tuân theo những kiểu đặc điểm ngữ pháp nhất định, lớn nhất trong từ vựng và nhỏ nhất để tạo câu”.[3;tr.14] Dựa vào các quan điểm khác nhau về từ đã phần nào khái quát lên sự phức tạp của tình hình nghiên cứu về từ trong tiếng Việt. Do đứng từ các góc độ nghiên cứu đồng đại hay lịch đại khác nhau, do cách hiểu về khái niệm hình vị trong ngôn ngữ học đại cương khác nhau, đã dẫn đến cách chọn đơn vị cấu tạo từ tiếng Việt của các nhà ngôn ngữ khác nhau. 1.1.2 Đặc điểm của từ tiếng Việt Có nhiều quan niệm của các nhà ngôn ngữ khác nhau về từ nhưng nhìn chung từ tiếng Việt có những đặc điểm sau đây: Từ tiếng Việt có thể đơn tiết hoặc đa tiết Ví dụ: - Bàn, ghế, sách, vở, tủ,… - Quốc gia, sơn hà, dễ dàng,… Quốc, gia, sơn, hà,…là những tiếng được vay mượn từ tiếng Hán. Trong nguyên ngữ chúng được sử dụng như từ, nhưng khi được tiếp nhận vào tiếng Việt, chúng chỉ được sử dụng như đơn vị cấu tạo từ. Có nghĩa là chúng phải kết hợp với một yếu tố khác mới hoạt động được tự do trong câu ( ví dụ: quốc gia, sơn hà,…). Trong tiếng Việt, dễ dàng, dễ dãi, xà phòng,…phải đi liền một khối mới có nghĩa trọn vẹn. Như vậy, bên cạnh những từ đơn âm tiết (như nhà, cửa, xe, hát, nói,…), trong tiếng Việt còn có những từ đa âm tiết (như dễ dãi, dễ dàng, cà phê,…). GVHD: Bùi Thị Tâm 13 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Loan
- Từ xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ Từ tiếng Việt có thể có biến thể ngữ âm hoặc ngữ nghĩa nhưng không có biến thể hình thái học. Trong các ngôn ngữ Ấn-Âu, từ có biến thể về mặt hình thái. Thí dụ: to go có các biến thể goes, going, gone, went theo các quan hệ ngữ pháp khác nhau trong câu. Nhưng trong tiếng Việt không có biến thể hình thái học. Đi, học, nói,… bất biến trong mọi quan hệ ngữ pháp và chức năng ngữ pháp trong câu. Người miền Nam có thể nói trăng, trời uốn lưỡi, trong khi miền Bắc nói giăng, giời nhưng đấy không phải là biến thể hình thái học mà chỉ là sự biến âm do thói quen phát âm của địa phương. Nghĩa ngữ pháp của từ không được biểu hiện trong nội bộ từ, mà được biểu hiện trong quan hệ giữa các từ trong câu. Trong các ngôn ngữ biến hình, nhìn vào hình thái của từ, người ta có thể xác định được nghĩa ngữ pháp của chúng (thí dụ: danh từ dựa vào các hậu tố như -ion, -er, - ment, -or,…; tính từ dựa vào -ive, -ful, -al,…) Trong tiếng Việt, từ không có những dấu hiệu hình thức giúp xác định ngữ pháp mà phải dựa vào các loại từ hay phó từ như: con, cái, chiếc (đối với danh từ), đã, đang, sẽ, rất (đối với động từ và tính từ). Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa dùng để tạo câu, mang tính cố định, sẵn có, bắt buộc. Ví dụ: xanh, vàng, trắng,… 1.2 Từ xƣng hô 1.2.1 Khái niệm về từ xưng hô Từ xưng hô là lớp từ dùng để tự xưng và tự gọi đối tượng khi giao tiếp. Do đó so với các lớp từ vựng khác, từ xưng hô không nhiều nhưng lại thường xuyên xuất hiện trong ngôn ngữ giao tế và được vận dụng rất đa dạng phức tạp, gây không ít khó khăn, lúng túng cho người các đối tượng khi tham gia cuộc thoại. Ngoài đại từ, tiếng Việt còn dùng cả những từ chỉ quan hệ thân tộc, chức danh để xưng hô. Thậm chí, có đôi lúc người ta còn xưng hô bằng cách nói trống không. Vì vậy, cũng có rất nhiều khái niệm khác nhau về từ xưng hô trong tiếng Việt. Theo phân loại của Nguyễn Kim Thản và Diệp Quang Ban thì từ xưng hô được xếp vào lớp đại từ. Theo Nguyễn Kim Thản: “Đại từ nhân xưng dùng để trỏ người hay động vật, vật thể”. Đại từ nhân xưng gồm có: tao, ta, mày, mi, nó, hắn, y, chúng và những đại từ gốc là danh từ: tôi, tớ, họ,…Phân theo ý nghĩa từ vựng, đại từ nhân xưng có ba ngôi; theo đặc điểm ngữ pháp của chúng có hai số: số ít và số nhiều. GVHD: Bùi Thị Tâm 14 SVTH: Nguyễn Thị Thúy Loan
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
79 p | 113 | 42
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Tình huống truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
89 p | 38 | 22
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Phương thức chiếu vật trong một số tác phẩm của Nam Cao
79 p | 51 | 20
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Đặc điểm truyện ngắn lãng mạn của Macxim Gorki
72 p | 44 | 19
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Thi pháp tập truyện Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân
69 p | 48 | 14
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Từ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt
72 p | 29 | 13
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật trí thức tiểu tư sản trong sáng tác của Nam Cao
86 p | 24 | 13
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Hình ảnh người phụ nữ trong thơ Nguyễn Duy
85 p | 19 | 12
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Cơ chế tạo hàm ý trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
68 p | 21 | 12
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Cảm hứng lãng mạn trong tập thơ "Gió lộng" của Tố Hữu
72 p | 23 | 11
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Từ địa phương trong ca dao Nam bộ
80 p | 24 | 11
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Từ chỉ đồ dùng trong gia đình và công cụ nông nghiệp trong ca dao Nam bộ
81 p | 21 | 10
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Nhân vật mang tính tự thuật trong tác phẩm của Nam Cao
85 p | 28 | 10
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Đặc điểm truyện Ba Phi
87 p | 20 | 9
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Tìm hiểu địa danh trong ca dao đồng bằng sông Cửu Long
70 p | 17 | 9
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Hình ảnh người phụ nữ trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng
84 p | 18 | 8
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Từ chỉ động vật trong ca dao Nam bộ
103 p | 25 | 8
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Chàng trai và cô gái trong ca dao Nam bộ về tình yêu đôi lứa
79 p | 13 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn