MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo xuất hiện ở Việt Nam từ thế kỷ thứ III sau Công nguyên “lịch sử tư
tưởng Việt Nam ngay từ buổi đầu ta thấy Sĩ Nhiếp (178 – 266) đã tổng hợp Nho giáo
chính thống từ phương Bắc xuống với Phật giáo của Khương Tăng Hội từ phương Tây Bắc Ấn Độ đến Giao Chỉ thế kỷ thứ III đem theo thiền học Đại Thừa Phật giáo”1.
Trung tâm Phật giáo Luy Lâu là một trung tâm của Phật giáo Việt Nam được hình
thành từ rất sớm tại vùng đất Giao Chỉ, nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Để có được một trận mưa, phải có ít nhất bốn hiện tượng thiên nhiên hợp lại, đó
là: Mây, sấm, gió, mưa. Và, người nông dân cho rằng, mỗi hiện tượng mưa xuất hiện
được làm ra bởi pháp thuật của một vị thần. Người làm nông cần có nước để tưới cây
hoa màu, cần mưa hòa gió thuận. Lúc bấy giờ, người nông dân trồng trọt hoa màu phụ
thuộc vào thời tiết và xem tự nhiên thiên nhiên như những bậc siêu nhiên, con người
không thể khống chế vào lực siêu nhiên ấy. Trước khi Phật giáo du nhập vào nước ta,
người nông dân Việt đã sẵn có các thần: Mây, mưa, sấm, gió mang tính bản địa của
mình, bởi trong thế giới quan của những cư dân trồng lúa nước không thể vắng bóng
những lực lượng siêu nhiên có khả năng tác động đến sự thành bại của một vụ gieo
trồng, nhất là với điều kiện canh tác của người Việt khi ấy còn phải phụ thuộc rất nhiều
vào tự nhiên.
Hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ Pháp được hình thành khi đạo Phật du nhập vào
nước ta, là hiện tượng tín ngưỡng bản địa của nước ta mang đậm màu sắc của nền văn
minh lúa nước kết hợp với Phật giáo tồn tại khá phổ biến ở đồng bằng Bắc bộ. Hình
thái thờ thần Tứ Pháp là một trong những hình thái tín ngưỡng thờ thần nông nghiệp cổ
sơ khi mà đời sống nông nghiệp lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên.
Tứ Pháp bao gồm: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Bốn Pháp này
tượng trưng cho những thế lực thiên nhiên như: mây, mưa, sấm, chớp. Tứ Pháp được
hình thành là sự kết hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng dân gian của những người nông
dân cầu mong mưa thuận, gió hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng thịnh vượng …các ngôi 1 Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam I- II- III, Nxb TP. HCM, Tr 17.
1
chùa thờ Tứ Pháp cũng ra đời để đáp ứng nhu cầu tinh thần của người dân qua việc thờ
cúng. Những lễ hội và kiến trúc của các ngôi chùa thờ Tứ Pháp cũng được xuất hiện từ
đây. Trải qua hơn hai ngàn năm, giá trị văn hóa ở những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp vẫn
còn bảo tồn và gìn giữ.
Để bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa ấy, học viên chọn đề tài “Kiến trúc
và lễ hội ở những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu -
Bắc Ninh” với mong muốn tìm hiểu, bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa vật thể và
phi vật thể tại đây.
Với đề tài này, học viên sẽ đi sâu nghiên cứu lĩnh vực lễ hội và kiến trúc ở
những ngôi chùa thờ Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện tương ứng
với bốn ngôi chùa: Chùa Dâu, chùa Đậu, chùa Tướng, chùa Dàn tại trung tâm Phật giáo
Luy Lâu, nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Chùa Dâu nói riêng cũng như trung tâm Phật giáo Luy Lâu là trung tâm Phật
giáo sớm nhất ở Việt Nam, có vị trí, vai trò quan trọng đối với đạo Phật nói chung và
tín ngưỡng thờ cúng của dân tộc Việt Nam nói riêng. Vì vậy hệ thống những ngôi chùa
thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu đã thu hút các các nhà khoa học nghiên
cứu từ các sử liệu.
Có rất nhiều đề tài được nghiên cứu xung quanh về chùa Dâu cũng như những
ngôi chùa thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu thông qua lễ hội, kiến trúc. Có
thể nói cho đến nay chùa Dâu vẫn lưu giữ được nhiều bản ghi chép về kiến trúc và lễ
hội, trong đó đáng chú ý nhất là kho ván in kinh gồm hơn 100 ván, chia ra làm mười
hai bộ sách khác nhau như: Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngũ lục, Cổ Châu Phật
bản hạnh ngữ lục, Hiến Cổ Châu Phật tổ Nghi, Nhân quả kinh quốc ngữ, Kỳ vũ kinh, Tam giáo kinh… Đó là di sản Hán – Nôm quý hiếm ít nơi có2. Cuốn sách Cổ Châu
Pháp Vân Phật Bản Hạnh Ngữ Lục là cuốn sách song ngữ Hán Nôm, còn cuốn Cổ
Châu Pháp Vân Phật Bản Hạnh Ngũ Lục là cuốn truyện thơ lục bát nôm. Hai cuốn này
đều nói về sự tích Man Nương được coi là biên soạn vào khoảng từ thế kỷ 15 đến thế
2 Nguyễn Hữu (2014), Chùa Dâu lịch sử và truyền thuyết, Nxb Thanh niên, tr. 70
2
kỷ 18. Cuốn thứ ba là Hiến Cổ Châu Phật Tổ Nghi nói về các nghi thức tế lễ. Như vậy
ba cuốn sách này được xem là những tài liệu cổ xưa nhất, còn được lưu giữ tại nhà
chùa. Trong cuốn sách Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp cũng nói về truyện
Man Nương nhưng so với Cổ Châu Pháp Vân Phật Bản Hạnh ngữ lục thì Trần Thế
Pháp đã rút ngắn truyện lại còn khoảng một phần ba. Đến đầu đời Lê, khi nền Phật giáo
dân tộc phục hưng mạnh mẽ, Phật Pháp Vân được nhiều lần thỉnh lễ về Hà Nội để cầu
đảo và tôn thờ, Lý Tử Tấn (1378 – 1460) đã viết một bài ký về đức Phật Pháp Vân với
nhan đề: Pháp Vân Cổ Tự Bi ký chép trong Toàn việt thi lục và Kiến văn tiểu lục 9, cả
2 đều do Lê Quý Đôn biên soạn. Về mặt chính sử thì Phật Pháp Vân xuất hiện lần đầu
tiên vào năm 1073 dưới thời vua Lý Nhân Tông, khi vua mới lên ngôi.
Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu về hệ thống Tứ
Pháp tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu. Một trong những tác giả có nhiều công trình
nghiên cứu nhất phải kể đến là tiến sĩ sử học Trần Đình Luyện. Cuốn sách thứ nhất:
Luy Lâu lịch sử và văn hóa, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Bắc Ninh, xuất bản năm 1999;
cuốn thứ 2 Lễ Hội Bắc Ninh – Sở Văn Hóa Thông tin Bắc Ninh, xuất bản năm 2003.
Đặc biệt trong đó phải kể đến cuốn sách: chùa Dâu và lễ hội rước Phật Tứ Pháp,
Phòng Văn hóa Thông tin Thể thao huyện Thuận Thành, 2000. Trong các cuốn sách
này Trần Đình Luyện đã nghiên cứu rất kỹ về kiến trúc và lễ hội chùa Dâu, nhưng chủ
yếu nhìn dưới góc độ sử học, và tác phẩm ấy vẫn chưa nêu lên tổng quan của bốn ngôi
chùa cổ thờ Tứ Pháp.
Cuốn sách Chùa Dâu – Cổ Châu, Pháp Vân, Diên Ứng Tự tác giả Nguyễn
Quang Khải – Nxb Tôn giáo, năm 2011, tác giả cũng trích dẫn truyền thuyết chùa Dâu
dựa theo bản: Cổ Châu pháp Vân bản hạnh.
Cuốn sách: Chùa Dâu lịch sử và truyền thuyết, tác giả: Nguyễn Hữu – Nxb
Thanh niên, 2010. Trong cuốn sách này nhà văn Nguyễn Hữu đã viết khá kỹ càng về
lịch sử Chùa Dâu, đặc biệt mô tả về lễ hội Chuà Dâu. Tuy nhiên tác phẩm vẫn chưa
nêu lên được giá trị kiến trúc của ba ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp còn lại.
Ngoài ra, các cuốn sách Chùa Dâu và nghệ thuật Tứ Pháp, của tác giả Phan Cẩm
Thượng, xuất bản năm 2002, Nxb Mỹ Thuật, và cuốn Sự tích Đức Phật chùa Dâu,
3
Nguyễn Quang Hồng, Nxb Văn hóa Thông tin, 1994 cũng chưa đề cập đến nhiều về lễ
hội và kiến trúc ở những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp.
Như vậy, vấn đề nghiên cứu về lễ hội và kiến trúc Chùa Dâu chưa từng được
nghiên cứu một cách hệ thống, nói cách khác chưa nghiên cứu dưới góc độ Việt Nam
học. Đề tài này, người viết sẽ kế thừa những kết quả của các công trình nghiên cứu
trước đó và khảo sát thực tiễn để làm rõ những giá trị văn hóa qua kiến trúc và lễ hội ở
những ngôi chùa cổ thờ tứ Pháp tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu về lễ hội và những kiến trúc điêu khắc nghệ thuật độc đáo ở những
ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu – Bắc Ninh nhằm mục đích
hệ thống lại kiến thức lịch sử về bốn ngôi chùa Tứ Pháp, ý thức việc bảo tồn và phát
huy những lễ hội nhằm nâng cao tính giáo dục, tính đoàn kết của con người Thuận
Thành nói chung và người con Việt Nam nói riêng, bảo tồn những kiến trúc độc đáo ở
những ngôi chùa này thông qua việc tìm hiểu thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm
nâng cao giá trị văn hóa.
Mục tiêu cụ thể
Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của
những ngôi chùa cổ thông qua những di tích lịch sử có tính chất giáo dục và vẫn còn
phát huy đến ngày hôm nay, những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể ở những lễ hội
và các loại hình nghệ thuật kiến trúc tại đây.
4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Những kiến trúc và lễ hội của bốn ngôi chùa thờ Tứ Pháp: Chùa Dâu thờ Pháp
Vân, chùa Đậu thờ Pháp Vũ, chùa Tướng thờ Pháp Lôi, chùa Dàn thờ Pháp Điện tại
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian
Đề tài tập trung vào không gian nghiên cứu ở bốn chùa cổ thờ Tứ Pháp tại trung
tâm Phật giáo Luy Lâu - Bắc Ninh:
Chùa Dâu: Thôn Khương Tự, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh
Bắc Ninh.
Chùa Đậu: Thôn Đông Cốc, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh
Bắc Ninh.
Chùa Tướng: Thôn Thanh Tương, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành,
tỉnh Bắc Ninh.
Chùa Dàn: Thôn Phương Quan, xã Trí Quả, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh.
Về thời gian
Đề tài sẽ nghiên cứu về Kiến trúc, lễ hội ở những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh ở thời gian hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp phân tích – tổng hợp
Với tinh thần kế thừa và phát huy những gì mà những nhà nghiên cứu đi trước,
thông qua việc sưu tầm các tài liệu, tiến hành phân tích để tìm ra những mặt mạnh,
những mặt hạn chế trong việc bảo tồn, giữ gìn kiến trúc, lễ hội có tính văn hóa. Từ đó,
tổng hợp những điểm mạnh và sắp xếp vào luận văn một cách có hệ thống.
Tham khảo một số sách về văn hóa, lễ hội, tôn giáo, lịch sử, nghệ thuật kiến
trúc cũng như tham khảo một số luận án tiến sĩ, các luận văn thạc sĩ, các bài báo cáo
khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến việc bảo tồn và phát huy những giá trị
5
văn hóa qua những lễ hội, các công trình kiến trúc, điêu khắc nghệ thuật tại chùa Dâu,
chùa Đậu, chùa Tướng, chùa Dàn để nêu lên được giá trị văn hóa lễ hội, nghệ thuật
kiến trúc ở những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu – Bắc
Ninh.
Phƣơng pháp so sánh lịch sử
So sánh những lễ hội tại những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp trước và sau khi Phật
giáo mới du nhập cho đến ngày nay. Những kiến trúc của các ngôi chùa thờ Tứ pháp từ
khi được thành lập cho đến hiện nay thông qua việc kế thừa, bảo tồn, phát huy của hậu
thế và biến đổi kiến trúc theo thời gian và tàn tích của chiến tranh.
Khảo sát thực địa.
Học viên sẽ trực tiếp đến huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh để khảo sát thực
tế, thu thập thông tin từ một số vị trụ trì ở bốn ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp: Pháp Vân,
Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu.
Quan sát tham dự.
Học viên đi đến vùng đất Luy Lâu xưa – nay là huyện Thuận Thành vào hai thời
gian diễn ra các lễ hội nhiều nhất trong năm đó là:
Tháng Giêng Âm lịch (tức là tháng 2 Dương lịch) để quan sát những sinh hoạt
tín ngưỡng tôn giáo của người dân thông qua hình thức lễ Phật đầu năm, mong sự bình
an, có nhiều sức khỏe, hạnh phúc đến với gia đình, cầu nguyện mưa hòa gió thuận, làm
ăn phát đạt trong công việc.
Từ ngày mùng 05 đến ngày mùng 10 tháng tư Âm lịch (tức là tháng 5 Dương
lịch). Thời gian này, học viên có cơ hội xem được tiến trình diễn ra lễ hội nổi tiếng
nhất trong năm là lễ hội chùa Dâu tại huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Thông qua việc khảo sát này, học viên sẽ càng hiểu sâu hơn về lịch sử, kiến trúc
từng ngôi chùa, hiểu được tín ngưỡng thờ Tứ Pháp ảnh hưởng bởi khí hậu, tự nhiên của
đồng bằng Bắc Bộ, chính những lễ hội này đã làm cho con người đoàn kết hơn, biết
yêu thương nhau, con cháu nhớ về cội nguồn, quê hương tổ quốc.
6
Ngoài Bốn phương pháp nghiên cứu nêu trên, tác giả còn sử dụng phương pháp
tiếp cận, phương pháp liên ngành Văn hóa học, và phương pháp Mỹ thuât học cho việc
nghiên cứu đề tài của học viên.
6. Ý nghĩa đề tài
6.1. Về khoa học
Củng cố cơ sở lý luận, các khái niệm về lễ hội, kiến trúc, Tứ Pháp, giá trị văn hóa,
nêu tổng quan về Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện.
Sau khi nghiên cứu tìm hiểu lịch sử, văn hóa, tác giả sẽ đưa ra những thông tin thiết
thực để phát huy những văn hóa có giá trị cho nhà chùa, và có thể cung cấp những
thông tin mới cho những người yêu thích nghiên cứu về những lễ hội và kiến trúc
những ngôi chùa cổ tại trung tâm Luy Lâu trong việc làm bài luận văn hay khảo luận
của các học viên cao học hoặc sinh viên Việt Nam học trong lĩnh vực khu vực học.
6.2. Về thực tiễn
Người viết sẽ tư vấn cho việc xây dựng mô hình kiến trúc của các ngôi chùa thờ Tứ
Pháp tại Bắc Ninh, truyền đạt những thông tin để bảo tồn kiến trúc, giữ gìn bản sắc văn
hóa thông qua những lễ hội của những ngôi chùa cổ tại vùng đất Luy Lâu xưa, và xa
hơn nữa, sẽ truyền đạt những thông tin các giá trị này cho các thế hệ sau.
Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở khoa học và thực tiễn, tham mưu cho các cơ
quan chức năng, trước hết là của tỉnh Bắc Ninh trong việc bảo tồn, phát huy những giá
trị văn hóa lễ hội và kiến trúc. Mặt khác, đề tài cũng là nguồn tài liệu tham khảo cho
những người quan tâm tìm hiểu về những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh.
7. Bố cục của Luận văn.
Ngoài phần Mở đầu, và Kết luận, Phụ lục, Nội dung chính của luận văn phân
bố trong ba chương:
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận và tổng quan về những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp.
Trong chương này, Học viên trình bày một số vấn đề mang tính lý thuyết. Đó là
các khái niệm liên quan đến đề tài: Kiến trúc, lễ hội, văn hóa, giá trị văn hóa, Tứ Pháp,
tổng quan về huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh và lịch sử ra đời, hình thành và phát
7
triển, đối tượng thờ cúng tại những ngôi chùa thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật giáo Luy
Lâu xưa, nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Chƣơng 2. Kiến trúc của những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật
giáo Luy Lâu.
Nghiên cứu làm rõ văn hóa dân gian dân tộc với sự ảnh hưởng của Phật giáo
qua nghệ thuật kiến trúc, trang trí của Tứ pháp. Chương này đi sâu vào tính bản địa, và
những sản phẩm của văn hóa trong nghệ thuật kiến trúc, phân bố cách thờ phượng,
không gian thờ cúng, nghệ thuật trang trí để từ đó nêu lên giá trị văn hóa qua nghệ
thuật kiến trúc ở những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp, nêu ra một số giải pháp, kiến nghị
để bảo tồn và phát huy giá trị của những ngôi chùa cổ tại vùng đất huyện Thuận Thành
– Bắc Ninh.
Chƣơng 3. Lễ hội ở những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật giáo
Luy Lâu.
Trong chương này, Học viên sẽ nêu lên những nghi lễ và hội thi trong những
ngày diễn ra lễ hội ở những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh, để từ đó khái quát được giá trị văn hóa của các lễ hội bởi giá trị cố kết cộng
đồng, giá trị tâm linh, giá trị giáo dục.
8
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN
VỀ NHỮNG NGÔI CHÙA CỔ THỜ TỨ PHÁP
1.1. Cơ sở ý luận
1.1.1. Khái niệm Văn hóa
Khái niệm Văn hoá được hình thành từ khi loài người xuất hiện, văn hóa là sản
phẩm do con người sáng tạo ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”3.
Ông Federico Mayor - Nguyên Tổng Giám đốc UNESCO, cho biết: “Đối với một
số người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và
sáng tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc
này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động”4.
Tuy vậy, việc xác định và sử dụng khái niệm văn hoá không đơn giản và luôn thay
đổi theo thời gian. Trong tác phẩm Cơ sở văn hóa Việt Nam của tác giả Trần Ngọc
Thêm cho rằng:
Từ "văn hóa" có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo
nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa);
theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (văn hóa Đông
Sơn)... Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm
3 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 431. 4 UNESCO (1989), Tạp chí “Người đưa tin UNESCO”, số 11-1989, Tr. 5
tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động... Chính với cách
9
hiểu rộng này, văn hoá mới làđối tượng đích thực của văn hóa học. Tuy nhiên,
ngay cả với cách hiểu rộng này trên thế giới cũng có hàng trăm định nghĩa khác
nhau. Để định nghĩa một khái niệm, trước hết cần xác định được những đặc trưng
cơ bản của nó. Đó là những nét riêng biệt và tiêu biểu, cần và đủ để phân biệt khái
niệm (sự vật) ấy với khái niệm (sự vật) khác. Phân tích các cách tiếp cận văn hóa
phổ biến hiện nay (coi văn hóa như tập hợp, như hệ thống, như giá trị, như hoạt
động, như kí hiệu, như thuộc tính nhân cách, như thuộc tính xã hội...), có thể xác
định được 4 đặc trưng cơ bản mà tổng hợp lại, ta có thể nêu ra một định nghĩa văn
hoá như sau:
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạovà tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội5.
1.1.1.1. Khái niệm giá trị
Trong Từ điển Tiếng Việt, Nxb Thanh Niên, Hà Nội của tác giả Trương Văn Hùng
cho rằng: “Giá trị là cái gì làm cho một vật nào đó trở nên ích lợi, cần dùng và có trao đổi cho một vật khác: Giá trị cần dùng. Giá trị trao đổi”6.
Tác giả Ngô Đức Thịnh cho rằng: “Giá trị là hệ thống những đánh giá mang tính
chủ quan của con người về tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái gì là cần,
là tốt, là hay, là đẹp, nói cách khác đó chính là những cái được con người cho là chân,
thiện, mỹ, giúp khẳng định và nâng cao bản chất người. Do vậy, giá trị văn hoá nói ở
đây là giá trị xã hội, nó gắn bó mật thiết với hoạt động sống của con người, sự tồn tại và phát triển của mỗi xã hội”7.
Giá trị cũng như tập quán, chuẩn mực, tri thức... đều là sản phẩm của quá trình tư
5 Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo Dục, Tr. 10 6 Trương Văn Hùng (2007), Từ điển Tiếng Việt, NXB Thanh Niên, Hà Nội, Tr 485 7 Ngô Đức Thịnh (2009), “Một số vấn đề lý luận nghiên cứu hệ giá trị văn hóa truyền thống trong đổi mới và hội nhập”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập.
duy, sản xuất tinh thần của con người, nó là yếu tố cốt lõi nhất của văn hoá. Giá trị, giá
10
trị văn hoá là một hình thái của đời sống tinh thần, nó phản ánh và kết tinh đời sống văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của con người.8
1.1.1.2. Giá trị văn hóa
Là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và
tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội trở nên lợi ích, có giá trị giữa con người với con người, giữa
con người với môi trường, giữa con người với xã hội.
Trong bài viết của tác giả Ngô Đức Thịnh ở Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập cho
rằng: “Giá trị văn hoá (Cultural Value) do con người trong mỗi xã hội sáng tạo ra
trong quá trình lịch sử, nhưng một khi hệ giá trị văn hoá đã hình thành thì nó lại có vai
trò định hướng cho các mục tiêu, phương thức và hành động của con người trong các
xã hội ấy. Nó chính là một thứ vốn xã hội (Social Capital). Như thế, khi nói bản chất
của giá trị hay nói tới vai trò định hướng, chi phối, điều tiết của hệ giá trị thì về thực
chất chúng ta đang nói tới mối quan hệ đa chiều của con người. Cũng như văn hoá, giá trị được sản sinh từ các mối quan hệ con người với tự nhiên, với xã hội”9.
1.1.2. Khái niệm lễ hội
Lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hóa đặc biệt có tính tập thể, phản ánh tín
ngưỡng và sinh hoạt của người dân trong lao động sản xuất, hay trong việc hình dung
lại các sự kiện lịch sử. Lễ hội ở mỗi quốc gia lại có những nét độc đáo riêng, mang
đậm dấu ấn riêng của quốc gia đó. Vì thế lễ hội giữ một vai trò quan trọng trong đời
sống tinh thần và đời sống xã hội, nó chứa đựng và phản ánh nhiều mặt của đời sống
8 http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-hoc/llvhh-nhung-van-de-chung/1593-ngo-duc-thinh- nghien-cuu-he-gia-tri-van-hoa-truyen-thong.html (truy cập 20/4/2019) 9 Ngô Đức Thịnh, 2009, Một số vấn đề lý luận nghiên cứu hệ giá trị văn hóa truyền thống trong đổi mới và hội nhập, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập
như: Kinh tế - xã hội, văn hóa, tâm lý và tôn giáo tín ngưỡng tộc người.
11
- Lễ
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, cuốn sách được
xuất bản năm 2010 tại nhà Nxb Từ điển Bách Khoa cho rằng: “Lễ là phép tắc phải theo khi thờ cúng hay giao thiệp trong xã hội, trong lễ có lễ bái và lễ giáo”10.
Lễ là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của con
người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc
sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện.
Ngoài ra theo bài viết “Giá trị lịch sử, truyền thống, văn hóa của lễ hội” của tác
giả Nguyễn Hùng Vĩ - Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian được đăng trên webside Học
viện Báo chí và Tuyên truyền ngày 14/5/2016 cho rằng: “Lễ là cử chỉ của con người
để tỏ thái độ tôn trọng với nhau, cũng như với các biểu trưng của tín ngưỡng. Các cử
chỉ đó tạo thành phong tục trong đời sống hoặc các nghi thức trong tín ngưỡng, tôn giáo, các nghi chế trong thiết chế xã hội”11.
- Hội.
Bài viết: “Giá trị lịch sử, truyền thống, văn hóa của lễ hội” được đăng trên
webside của Học viện Báo chí và tuyên truyền ngày 8/5/2016, Nhà nghiên cứu văn hóa
dân gian Nguyễn Hùng Vĩ cho rằng: “Hội là sự tập hợp đông người để thực hành diễn
xướng, trình diễn các phong tục, tín ngưỡng, các hình thức văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật, các sinh hoạt tinh thần xã hội”12.
Từ điển tiếng Việt, do Viện Ngôn ngữ học tổ chức biên soạn, Hoàng Phê chủ
biên, được Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2003, đã
đưa ra định nghĩa như sau:
- Hội là cuộc vui tổ chức chung cho đông đảo người dự, theo phong tục hoặc
nhân dịp đặc biệt.
10 Ngôn ngữ học Việt Nam (2010), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách Khoa, Tr. 275 11 http://ajc.edu.vn/Nghien-cuu-khoa-hoc/Gia-tri-lich-su-truyen-thong-van-hoa-cua-le-hoi/19727.ajc 12 http://ajc.edu.vn/Nghien-cuu-khoa-hoc/Gia-tri-lich-su-truyen-thong-van-hoa-cua-le-hoi/19727.ajc (Truy cập 12/4/2016)
Ví dụ: Hội mùa. Ngày hội xuống đồng. Lòng vui như mở hội;
12
Tổ chức quần chúng rộng rãi của những người cùng chung một nghề nghiệp
hoặc có chung một hoạt động.
Ví dụ: Hội nghề nghiệp. Hội từ thiện13.
- “Lễ hội”: Cuộc vui tổ chức chung, có các hoạt động lễ nghi mang tính văn
hóa truyền thống của dân tộc
Ví dụ: Hội Đền Hùng là lễ hội truyền thống. Tổ chức lễ hội đón xuân14.
- Lễ hội.
Khái niệm lễ hội dùng để chỉ những sinh hoạt gồm cả lễ và cả hội, điều thường
thấy trong sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân. Lễ hội truyền thống là những lễ
hội đã trường tồn trong lịch sử cộng đồng xã hội, được bảo lưu, phát triển, lặp lại và
quảng bá không ngừng.
Vậy “Lễ hội” là gì?
Mỗi vùng miền, một quốc gia lại có hình thức tổ chức Lễ hội khác nhau. Chính vì thế
mà đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hình thái sinh hoạt văn hóa này. Sau đây là
một số khái niệm điển hình về “Lễ hội” như:
Khi nghiên cứu về đặc tính và ý nghĩa “Lễ hội” ở nước Nga, M.Bachie cho
rằng: “Lễ hội là cuộc sống được tái hiện dưới hình thức tế lễ và trò biểu diễn, đó là
cuộc sống chiến đấu của cộng đồng cư dân. Tuy nhiên bản thân cuộc sống không thể
thành lễ hội được nếu chính nó không được thăng hoa, liên kết và quy tụ lại thành thế
giới tâm linh, tư tưởng của các biểu tượng, vượt lên trên thế giới của những phương
tiện và điều kiện tất yếu. Đó là thế giới, là cuộc sống thứ hai thoát ly tạm thời thực tại
13Hoàng Phê chủ biên (2003) do Viện Ngôn ngữ học tổ chức biên soạn, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Tr. 459. 14 Hoàng Phê chủ biên (2003) do Viện Ngôn ngữ học tổ chức biên soạn, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Tr. 561 15 https://giaoviendulich.wordpress.com/2010/01/24/bai-2-di%E1%BB%81u-ki%E1%BB%87n- %E1%BA%A3nh-h%C6%B0%E1%BB%9Fng-d%E1%BA%BFn-s%E1%BB%B1-phat-tri%E1%BB%83n-du- l%E1%BB%8Bch/ (Truy cập 12/4/2016)
hữu hiện, đạt tới hiện thực lý tưởng mà ở đó, mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ, lung linh, siêu việt và cao cả”15.
13
Nếu theo như định nghĩa này thì một sự kiện hay một cuộc chiến đấu của người
dân sẽ không được tưởng nhớ khi không có sự tác động và ảnh hưởng của con người.
Ở Việt Nam, khái niệm này đều là từ gốc Hán được dùng để gọi một nhóm loại
hình phong tục, chẳng hạn như: Lễ Thành Hoàng, Lễ gia tiên..., cũng như vậy trong hội
cũng có nhiều hội khác nhau như: Hội Gióng, Hội Lim, Hội chọi trâu. Thêm chữ “Lễ”
cho “Hội”, thời nay mong muốn gắn hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng này có ít
nhất hai yếu tố cũng là hai đặc trưng đi liền với nhau. Trước hết là lễ bái, tế lễ thần
linh, cầu phúc và sau là thăm thú vui chơi ở nơi đông đúc, vui vẻ (hội).
Hội là sinh hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu
cầu cuộc sống, từ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sự bình yên cho từng cá nhân,
hạnh phúc cho từng gia đình, sự vững mạnh cho từng dòng họ, sự sinh sôi nảy nở của
gia súc, sự bội thu của mùa màng, mà từ bao đời nay quy tụ niềm mơ ước chung vào
bốn chữ "Nhân khang, vật thịnh".
Hội và lễ là một sinh hoạt văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam. Hội và lễ có
sức hấp dẫn, lôi cuốn các tầng lớp trong xã hội cũng tham gia để trở thành một nhu
cầu, một khát vọng của nhân dân trong nhiều thập kỷ.
Trong cuốn “Lễ hội cổ truyền” – Phan Đăng Nhật cho rằng “Lễ hội là một kho
lịch sử khổng lồ, ở đó tích tụ vố số những phong tục, tín ngưỡng, văn hóa, nghệ thuật
và cả các sự kiện xã hội – lịch sử quan trọng của dân tộc...lễ hội còn là nơi bảo tồn,
tích tụ văn hóa (theo nghĩa rộng) của nhiều thời kỳ lịch sử trong quá khứ dồn nén lại cho tương lai”16.
Như vậy ta thấy “Lễ hội” là một thể thống nhất không thể tách rời. Lễ là phần
đạo đức tín ngưỡng, phần tâm linh sâu xa trong mỗi con người. Hội là các trò diễn
mang tính nghi thức, gồm các trò chơi dân gian phản ánh cuộc sống thường nhật của
người dân và một phần đời sống cá nhân nhằm kỷ niệm một sự kiện quan trọng với cả
16 Phan Đăng Nhật "Lễ hội cổ truyền", NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, Tr. 53
cộng đồng.
14
1.1.3. Kiến trúc
Ông Vitruvius - Một kiến trúc sư Roma trước công nguyên, tác giả của 5 bộ
sách về kiến trúc nổi tiếng đã nêu ba tiêu chí trong định nghĩa về kiến trúc: “Kiến trúc
phải hữu dụng, gây thích thú và phải là một tác phẩm nghệ thuật. Cụ thể hơn nữa, khi lật giở những trang từ điển Đông – Tây”17.
Người Mỹ thì định nghĩa “Kiến trúc là nghệ thuật và khọa học thiết kế, xây
dựng các công trình hay các nhóm lớn công trình tuân thủ các tiêu chí thẩm mỹ và công năng”18.
Người Pháp nói “Kiến trúc là nghệ thuật và khọa học xây dựng và trang trí các
ngôi nhà”19.
Người Australia thì xác định kĩ hơn: “Kiến trúc là nghệ thuật và khọa học xây
dựng, bao gồm quy họạch, thiết kế, cấu tạo và xử lý trang trí; là chuyên môn nghề nghiệp của KTS”20.
Còn ở Việt Nam, xin trích ngang từ Từ điển bách khọa Việt Nam (tập 2): “Kiến
trúc là nghệ thuật thiết kế và xây dựng các công trình, tổ chức các môi trường không gian, phục vụ cho cuộc sống và họạt động của con người”21.
Trong Từ điển Tiếng Việt, của Nxb Thanh Niên – Hà Nội, năm 2007, tác giả
Trương Văn Hùng cho rằng: “Kiến trúc là xây đắp, xây cất vật liệu kiến trúc, kiến trúc bằng vật liệu nhẹ”22.
1.1.4. Tứ pháp
“Tứ” là bốn. “Pháp”, trong Phật giáo, tiếng Phạn là Dharma, tiếng Pali là Dhamma,
tiếng Việt có nghĩa là chân lý, thiện pháp, là những sự vật hay hiện tượng được dùng
để tín ngưỡng trong tôn giáo. Pháp ở đây có nghĩa là: Mây, mưa, sấm, chớp được hóa
17http://ashui.com/forum/index.php?topic=5167.0;wap2 (truy cập 22/3/2016) 18 http://ashui.com/forum/index.php?topic=5167.0;wap2 (truy cập 22/3/2016) 19 http://ashui.com/forum/index.php?topic=5167.0;wap2 (truy cập 22/3/2016) 20 http://ashui.com/forum/index.php?topic=5167.0;wap2 (truy cập 22/3/2016) 21 http://ashui.com/forum/index.php?topic=5167.0;wap2 (truy cập 22/3/2016) 22 Trương Văn Hùng, 2007, Từ điển Tiếng Việt, NXB Thanh Niên, Hà Nội, Tr 627
thành các vị Phật: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện.
15
Tứ pháp là danh từ để chỉ các nữ thần bắt nguồn từ tín ngưỡng dân gian – thờ các
vị thần thiên nhiên gồm: Mây-Mưa-Sấm-Chớp, đại diện cho các hiện tượng tự nhiên có
vai trò quan trọng trong xã hội nông nghiệp. Sau này khi Phật giáo vào Việt Nam thì
nhóm các nữ thần này được biến Tứ pháp thành bốn vị Phật: Phật Pháp Vân, Phật Pháp
Vũ, Phật Pháp Lôi, Phật Pháp Điện.
Pháp Vân được thờ ở chùa Dâu (tên chữ Hán là Diên Ứng, Cổ Châu, Thiền Định),
chùa tọa lạc ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, nên gọi là bà Dâu. Pháp Vân
tượng trưng cho thần Mây.
Pháp Vũ được thờ ở chùa Đậu, và ngày nay mọi người thường hay gọi là Thành
Đạo Tự, tọa lạc ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Pháp Vũ
tượng trưng cho thần mưa. Mỗi khi trời hạn hán, dân làng thường hay lập bàn hương án
đối trước trượng Phật Pháp Vũ để cầu mưa.
Pháp Lôi được thờ ở chùa Tướng hay còn gọi là chùa Phi Tương, Phi Tướng Đại
Thiền Tự, chùa tọa lạc ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, Pháp lôi tượng trưng
cho thần sấm, nên gọi là bà Tướng.
Pháp Điện được thờ ở chùa Dàn, ngày nay được gọi là chùa Xuân Quang, chùa tọa
lạc ở thôn Phương Quan, xã Trí Quả. Pháp Điện tượng trưng cho thần Sấm nên gọi là
bà Dàn.
16
Bảng 1.1. Những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp ở trung tâm Phật giáo Luy Lâu, Bắc Ninh
STT Địa danh Tên chùa Đối tƣợng thờ
Tên cũ Tên ngày nay
1 Xã Thanh Khương, huyện Dâu Diên Ứng, Cổ Pháp Vân
Thuận Thành, tỉnh Bắc Châu, Thiền Định
Ninh
2 Xã Thanh Khương, huyện Đậu Thành Đạo Pháp Vũ
Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh
3 Xã Thanh Khương, huyện Tướng Phi Tương Pháp Lôi
Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh
4 Thôn Phương Quan, xã Dàn Xuân Quang Pháp Điện
Trí Quả, huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh
Nguồn: Nguyễn Hữu (2014), Chùa Dâu lịch sử và truyền thuyết, Nxb. Thanh Niên.
Ngoài một số ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp ở trung tâm Phật giáo Luy Lâu, ở vùng Thuận Thành23 còn có một số ngôi chùa khác cũng thuộc về nhóm di tích các chùa Tứ
Pháp. Những ngôi chùa này có một số điểm chung sau đây: Đối tượng thờ chính hoặc
là Tứ Pháp, hoặc là chi nhánh của Tứ Pháp, "Học trò" của Tứ Pháp; cách bài trí Phật
điện tương tự Phật điện các chùa Tứ Pháp, ngày hội chùa trùng với những ngày lễ hội ở
những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu - Bắc Ninh (mồng
Tám tháng Tư Âm lịch)... Tiêu biểu là:
- Chùa Huệ Trạch ở làng Xuân Quan (Dàn Chợ), xã Trí Quả. Đây là nơi thờ
Phật Pháp Thông (Đại Thánh Pháp Thông Vương Phật), một "Học trò” của Tứ Pháp).
- Chùa Đại Trạch ở làng Đại Trạch, xã Đình Tổ, cũng là nơi thờ Phật Pháp
23 Huyện nằm trong trung tâm Phật giáo Luy Lâu - Bắc Ninh.
Thông.
17
- Chùa Hà ở làng Công Hà, xã Hà Mãn, là nơi thờ Bà Hà, một "Chi cành" của bà
Dâu (Pháp Vân).
- Chùa Ngọc Trì (ở làng Ngọc Trì), chùa Ngọc Nội (ở làng Ngọc Nội), chùa
Thuận An (ở làng Thuận An), chùa Đức Nhân (ở làng Đức Nhân), chùa Nghi An (thuộc
làng Nghi An) - đều thuộc xã Trạm Lộ - cũng là những nơi thờ Tứ Pháp.
Sự xuất hiện các ngôi chùa Tứ Pháp kể trên đã minh chứng cho sự lan toả và
ảnh hưởng sâu rộng của trung tâm Phật giáo Luy Lâu tới đời sống tôn giáo, tín ngưỡng
của nhân dân các vùng gần xa. Các di tích này chính là những bổ sung quan trọng cho
nhóm di tích chùa Tứ Pháp tại trung tâm vùng Dâu.
Bảng 1.2. Hệ thống các chùa thờ Tứ Pháp ở các địa phương
ngoài trung tâm Luy Lâu- Bắc Ninh.
STT Địa danh Tên chùa Đối tƣợng thờ
1 Xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm, Thái Lạc Pháp Vân
tỉnh Hưng Yên Pháp Vũ Hồng Cầu
Pháp Lôi Nhạc Miếu
Pháp Điện Hồng Thái
2 Xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm, tỉnh Thôn Cầu Pháp Vân
Hưng yên Pháp Vũ Hoằng
Pháp Lôi Hướng Đạo
Pháp Điện Tân Nhuế
3 Huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam Quế Lâm Pháp Vân
Do Lễ
Thôn Bốn
Huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam Bà Đanh Pháp Vũ
Huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam Trinh Sơn
Huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam Đặng Xá Pháp Lôi
Huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam Nứa
18
TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam Bà Bầu Pháp Điện
4 Thi Sơn, Kim Bảng, Hà Nam Quyển Sơn Thờ cả Tứ Pháp
Thanh Sơn, Kim Bảng, Hà Nam Thanh Nộn, Phú
Viên, đình làng Lạt
Sơn
Văn Xá, Kim Bảng, Hà Nam Chanh Thôn
5 Thường Tín, Hà Nội Pháp Vân Pháp Vân
Đậu Pháp Vũ
6 Phường Giáp Lục, quận Hai Bà Sét (Đại Bi) Thờ cả Tứ Pháp
Trưng, Hà Nội
7 Xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm, Hà Keo (Sùng Nghiêm) Pháp Vân
Nội
Xã Ninh Hiệp, huyện Gia Chùa Nành
Lâm, Hà Nội
Nguồn: Tổng hợp từ các nguồn sách liên quan đến những ngôi chùa thờ Tứ Pháp
1.2. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu và những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp
tại Trung tâm Phật giáo Luy Lâu – Bắc Ninh
1.2.1. Khái quát về huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
Trong vùng văn hóa cổ, phong phú và độc đáo ở tỉnh Bắc Ninh. Thuận Thành là
một địa bàn có vị trí hết sức đặc biệt, nơi đây từng giữ vai trò thủ phủ đất nước, kinh tế,
văn hóa phát triển rực rỡ; là một trong những quê hương của các huyền tích về tổ tiên
mở nước; là nơi sản sinh ra các tài danh trên các lĩnh vực học hành, cầm, kỳ, thi, họa;
là quê hương của những di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng.
Đất Thuận Thành hôm nay là địa bàn chính của một bộ lạc thời các vua Hùng, là
địa bàn chính huyện Luy Lâu thời thuộc Hán và các đế chế Trung Hoa trong suốt 10
thế kỷ đầu Công nguyên. Thời Lý, Trần, là trung tâm của phủ Siêu Loại. Thời Lê là
trung tâm của phủ Thuận An. Sang thời Nguyễn, vào năm 1862, đổi tên là phủ Thuận
Thành, vẫn bao gồm 5 huyện: Siêu Loại, Gia Bình, Lang Tài, Văn Giang, Gia Lâm.
19
Huyện Thuận Thành ngày nay cơ bản là phần đất của huyện Siêu Loại thuộc phủ
Thuận An xưa kia.
Tên gọi qua nhiều lần thay đổi, song lịch sử miền đất này là một dòng chảy liên
tục. Trước hết, Thuận Thành là miền đất xuất hiện khá sớm, một trung tâm tụ cư của
dân Việt cổ trong quá trình từ miền cao tiến xuống, từ miền biển ngược lên, khai phá
đồng bằng. Trước đây, dù lăng tổ Kinh Dương Vương từ nghìn xưa đã được đặt tại
thôn Á Lữ (xã Đại Đồng Thành), dù dân gian còn truyền lưu rộng rãi câu chuyện về
những ông tổ Việt cổ: Đế Minh - Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân, Âu Cơ. Nhưng
chứng tích vật chất Việt Cổ ở đây vẫn chưa được phát hiện, nên những hiểu biết về đất
Thuận trước Bắc thuộc, không phải không có những chỗ chưa rõ ràng. Cuối năm 1990,
nhờ người dân giúp đỡ, cán bộ ngành văn hóa Bắc Ninh đã phát hiện một khu mộ Việt
cổ (hiện biết 2 mộ) tại thôn Đại Trạch, xã Đình Tổ, với những bộ hài cốt khá hoàn
chỉnh và hàng loạt đồ tùy táng đặc sắc: trống đồng minh khí, tấm che ngực, rìu giáo,
dao găm, mũi lao,... bằng đồng. Kết quả giám định ban đầu cho biết chủ nhân của
những hiện vật này là những người sáng tạo ra văn minh Đông Sơn rực rỡ, cách ngày
nay chừng 2300 - 2500 năm. Như vậy, có thể khẳng định rằng, ít nhất là từ thời Hùng
Vương dựng nước, đất Thuận Thành đã hình thành và là một địa bàn tụ cư khá lớn
dưới thời các vua Hùng.
Về mặt địa lý - cảnh quan, Thuận Thành là một vùng có ý nghĩa khá đặc biệt.
Theo trục Bắc - Nam, đây là vùng chuyển tiếp giữa miền cao Vĩnh Phú (mà Tiên Sơn,
với những núi sót là điểm cuối) với miền đồng bằng phía Nam. Theo trục Đông - Tây,
Thuận Thành là vùng chuyển tiếp giữa miền đồng bằng lưu vực sông Hồng, với miền
đồng bằng lưu vực sông Thái Bình - hai miền đồng bằng quan trọng nhất hợp thành
châu thổ Bắc Bộ. Sông Dâu, sau này là sông Đuống, cùng với các tuyến đường bộ dọc
theo hệ thống các tuyến sông ấy, chính là mạch máu giao thông giữ vai trò giao lưu -
chuyển tiếp cực kỳ quan trọng và sinh động của miền đất này.
Nhờ điều kiện thuận lợi, nên ngay sau khi được khai mở, Thuận Thành đã trở
thành địa bàn có sức hút mạnh mẽ cư dân Việt cổ từ các miền về đây tụ cư, xây dựng,
đưa vùng đất này từ rất sớm, trở thành một trung tâm kinh tế văn hóa phát triển. Điều
20
đó cắt nghĩa vì sao, ngay sau khi xâm lược nước ta, nhà Hán đã dựng tại đây trung tâm
cai trị - thủ phủ của chính quyền đô hộ dù có qua nhiều lần dịch chuyển cũng vẫn cứ
quanh quẩn ở miền đất này. Bước sang thời kỳ đất nước độc lập tự chủ, vai trò trung
tâm của đất Thuận Thành vẫn không hề suy giảm. Chính vì vậy, trong giai đoạn 12 sứ
quân, đất Thuận Thành và miền phụ cận đã được hai thủ lĩnh Lý Khuê và Lữ Đường
chọn làm nơi xây dựng địa bàn của mình. Dưới các thời Lý - Trần - Lê, kinh đô đất
nước đã định vị tại Thăng Long, song đất Thuận vẫn được các vị vua cùng các đại thần
và cả triều đình hết sức chú ý bởi vai trò phên dậu - cửa ngõ, một trung tâm kinh tế -
văn hóa phồn hưng của đất này.
Cũng chính do vai trò quan trọng của miền đất Thuận Thành, mà trong mắt kẻ
xâm lược, nơi đây trở thành một mục tiêu chiếm đóng hàng đầu. Vì vậy, từ rất sớm,
người dân Thuận Thành luôn phải đối mặt với kẻ xâm lược và đã góp nhiều công lớn
với dân tộc trong lịch sử đấu tranh giữ nước. Có thể kể tới cuộc nổi dậy quật cường của
Hai Bà Trưng, xóa sạch trung tâm đô hộ nhà Hán tại Luy Lâu; cuộc kháng chiến vĩ đại
chống Nguyên Mông của quân dân thời Trần - mà sông Dâu, đất Thuận là cầu nối giữa
Thăng Long - kinh đô với Lục Đầu giang - nơi tập kết của giặc, nơi đón địch của ta.
Trong các cuộc nổi dậy và kháng chiến lớn ấy, nhân dân Thuận Thành vừa là lực lượng
tại chỗ, vừa đóng góp cho nghĩa quân nhiều tướng tài, binh giỏi, mà ngày nay, hàng
loạt đình đền trong địa phương còn hương khói thờ phụng tưởng nhớ họ.
Thuận Thành cũng là miền đất có sự phát triển kinh tế khá sớm với tốc độ hưng
khởi nhanh, mạnh. Buổi đầu khai mở đất này, cư dân ở đây chủ yếu hoạt động trong
các lĩnh vực đánh bắt cá, trồng lúa, trồng dâu nuôi tằm (với nghề trồng dâu nuôi tằm
mà Ỷ Lan nguyên phi, thời Lý, người con gái của đất này, như một biểu tượng của sự
tiếp tục truyền thống). Kết quả đợt khai quật khảo cổ học, xuân 1986, đã phát hiện tại
trung tâm Dâu, trên bãi Đồng Dâu, di chỉ làng chài khá lớn, buổi đầu công nguyên với
hàng trăm chì lưới, bằng đất nung, đủ các cỡ, chứng tỏ một nghề chài lưới thực sự
thịnh đạt tại đây.
Đồng thời với sự hình thành một trung tâm chính trị, kinh tế, là trung tâm văn
hóa Thuận Thành.
21
Trước hết, đất Thuận là một trung tâm văn hóa dân gian khá tiêu biểu và phong
phú. Đây là nơi sản sinh và lưu giữ lâu đời tín ngưỡng cư dân nông nghiệp Việt cổ,
biểu hiện qua việc thờ các nữ thần mây, mưa, sấm, chớp (sau này được hệ thống hóa
thành hệ thống Tứ pháp); biểu hiện qua tín ngưỡng phồn thực, mà việc thờ Thạch
Quang tại đền Dâu xưa, chùa Dâu nay, là nét điển hình. Đây cung là nơi sản sinh
chuyện tổ tiên mở nước (Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân - Âu Cơ), sản sinh
những sinh hoạt văn nghệ dân gian đặc sắc (múa rối nước Đồng Ngư, Bùi Xá (xã Ngũ
Xá), hát ả đào, hát trống quân...). Trung tâm văn hóa - tín ngưỡng dân gian Việt cổ,
vùng Dâu, trong những thế kỷ đầu công nguyên, đã hòa nhập với Phật giáo từ Ấn Độ
truyền sang, đưa tới sự xuất hiện một trung tâm Phật giáo đầu tiên ở nước ta, mà hình
ảnh người con gái Việt (Man Nương) gắn chặt với sự gia đời hệ thống chùa thờ Tứ
pháp và trung tâm Phật giáo Dâu. Toàn bộ đặc điểm chùa chiền và hệ thống tượng
Phật, cách bài trí tượng Phật, cùng những sinh hoạt Phật giáo tại đây, đều được bắt
nguồn từ thực tế ấy. Điều đáng quan tâm ở đây là, ngay từ những thế kỷ đầu công
nguyên, trung tâm Phật giáo Dâu đã hình thành và ngày càng phát triển, có tác động
sâu rộng tới đời sống nhân dân trong vùng. Trải qua các triều đại Lý - Trần - Lê sau này, Thuận Thành vẫn là một quê hương chùa tháp và Phật giáo nổi tiếng24.
Để phục vụ âm mưu đồng hóa, ngay từ thời thuộc Hán, các thái thú Tích Quang,
Nhâm Diêm, đặc biệt là thái thú Sĩ Nhiếp sau này, đã đẩy mạnh việc mở trường dạy
chữ Nho. Vì lẽ ấy, Dâu – Luy Lâu không chỉ là nơi đan xen khá phức tạp văn hóa Việt
– Hán, mà còn sớm hình thành một trung tâm Nho học lớn. Những chùa Bình, chùa
Định, đền Lũng, ở vùng Dâu đến ngày nay vẫn được giải thích là nơi bình văn, định
văn, là trường học.
Mặt khác, cũng từ trong trường kỳ tiếp biến và phát triển văn hóa đặc biệt, Thuận
Thành là nơi sản sinh và ngày nay đang lưu giữ những di sản văn hóa dân tộc vô cùng
quý báu. Trở về Thuận Thành là trở về một vùng của những lễ hội văn hóa cổ truyền
24 Dưới thời Lý - Trần, đặc biệt là thời Lý, nhiều lần các vị vua đã tổ chức viếng thăm và làm
lễ (cầu đảo, cầu tự...) tại các chùa vùng Dâu.
rực rỡ và sinh động. Tại đây, ta sẽ được dạo thăm một hệ thống di tích lịch sử, văn hóa,
22
khép kín về hành trình nhưng mở rộng về những hiểu biết, thẩm nhận kho tàng văn hóa
dân tộc. Đặt biệt là khu di tích những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp.
Luy lâu là tên gọi một toà thành cổ - thành Luy Lâu, nơi đặt lỵ sở của chính
quyền đô hộ nhà Hán trên đất nước ta vào buổi đầu Công nguyên, nay thuộc xã Thanh
Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Luy Lâu cũng là tên một huyện - huyện
Luy Lâu thời thuộc Hán và các đế chế Trung Hoa trong nhiều thế kỷ dưới thời Bắc
thuộc. Luy Lâu cũng còn là một vùng văn hoá cổ, trung tâm của vùng văn hoá này cơ
bản là vùng đất thuộc huyện Thuận Thành ngày nay.
1.2.2. Tổng quan về những ngôi chùa cổ thờ tứ pháp
Hình 1.1. Sơ đồ các chùa thờ Tứ Pháp tại Trung tâm Phật giáo Luy Lâu (nay là huyện
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
Nguồn: Kết quả khảo sát thực địa tại chùa Dâu ngày 22/2/2016
1.2.2.1. Chùa Dâu
Chùa Dâu còn gọi là chùa Pháp Vân, còn gọi là chùa Diên Ứng, hay Cổ Châu
tự. Chùa được khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226 là ngôi chùa lâu
đời được tọa lạc trên khu trung tâm Phật giáo Luy Lâu. Nơi đây là thủ phủ của quận
23
Giao Chỉ (năm 203 đổi thành Giao Châu25) có từ thời của Sĩ Nhiếp, được vua nhà Hán
phong làm Thái thú tại quận này, đóng ở Luy Lâu – Dâu từ năm 187 đến 226.
Chùa Dâu là nơi giao lưu của hai luồng văn hóa Phật giáo, từ Ấn Độ sang và từ
phương Bắc xuống, chủ yếu bằng đường thủy theo dòng sông Dâu. Vào buổi đầu Công
Nguyên, các tăng sỹ Ấn Độ, tiêu biểu là Khâu-đà-la đã tới đây truyền bá đạo Phật đầu
tiên. Cuối thế kỷ VI, nhà sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi từ Trung Quốc đến chùa này và lập nên
một phái thiền ở Việt Nam. Chùa Dâu trở thành trung tâm của phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi,
nơi trụ trì của nhiều cao tăng Việt Nam, Ấn Độ và Trung Quốc đến để nghiên cứu, biên
soạn, phiên dịch kinh Phật, đào tạo tăng ni.
Chùa được khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226, những tài
liệu, cổ vật còn lại ở chùa Dâu, đặc biệt là bản khắc “Cổ Châu Pháp vân Phật bản
hạnh”, cùng kết quả nghiên cứu về lịch sử Phật Việt Nam của các nhà sử học và Phật
học đã khẳng định “Chùa Dâu là tổ đình của Phật giáo Việt Nam”, được nhà nước xếp
hạng di tích lịch sử ngày 28/4/1962.
Năm 1313, chùa được xây dựng lại và trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ tiếp
theo. Đời nhà Trần, vua Trần Nhân Tông đã sai Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi về kiến
thiết lại chùa Dâu thành “chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp”. Trải qua bao
thăng trầm và chiến tranh tàn phá nhưng chùa Dâu với tháp gạch cao sừng sững, với
tòa ngang, dãy dọc nguy nga, cổ kính vẫn còn đó.
Truyền thuyết dân gian ghi nhận người xây dựng lại chùa tháp ở Luy Lâu là ông
Mạc Đỉnh Chi, còn gọi là ông Điểm Chi (1272 – 1346). Sách Đại Nam nhất thống chí,
phần tỉnh Bắc Ninh ghi: “Đời Trần, Mạc Đỉnh Chi dựng chùa trăm gian, tháp chín tầng và cầu chín nhịp, nền cũ nay vẫn còn”26.
Chùa Dâu vào thời Trần được trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi cho trùng tu mở rộng
với quy mô rất lớn theo kiểu “chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp”. Đến thời
25 Nguyễn Hữu, Chùa Dâu lịch sử và truyền thuyết, NXB Thanh niên, 2014, Tr 6 26 Đại Nam nhất thống chí, Tập V, 1971, Bản dịch – Nxb Khoa học xã hội, Tr 109
Lê Trung Hưng và thời Nguyễn, chùa Dâu tiếp tục được trùng tu và mở rộng.
24
Thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta, Chùa Dâu đã bị giặc Pháp - Nhật
chiếm đóng, phá phách, chứa thóc để phục vụ chiến tranh.
Đến năm 2011, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, Chùa Dâu đã được
trùng tu tôn tạo với quy mô lớn.
Từ năm 2001, tỉnh Bắc Ninh ra được “Quy chế quản lý và sử dụng di tích Lịch
sử - Văn hoá”, đã phân cấp quản lý về nhà nước về di tích.
Chùa Dâu gắn với huyền tích Phật mẫu Man Nương và tứ Pháp (Pháp Vân,
Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện), là biểu hiện sinh động sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
tín ngưỡng dân gian của người Việt với Phật giáo khi mới du nhập. Tương truyền, nàng
Man Nương, cô gái Kẻ Mèn (nay thuộc xã Hà mãn, Thuận Thành) dốc tâm học đạo
Phật, một hôm nằm ngủ quên, sư Khâu Đà La vô tình bước qua mà bỗng nhiên mang
thai. Kết quả đến giờ Ngọ ngày 08 tháng 4 (Âm lịch) thì sinh một nữ nhi. Nàng liền
đem con đến trả cho sư Khâu-đà-la. Nhà sư mang đứa bé đến gốc cây dung thụ gõ cây
đọc kệ. Cây dung thụ bỗng nứt toác ra ôm đúa bé vào lòng. Rồi Khâu-đà-la cho Man
Nương cây tích trượng và dặn khi nào có đại hạn cứ cắm xuống đất và ước nguyện thì
sẽ có nước để cứu dân. Thế rồi vào năm Giáp Tý, mưa bão đánh đổ cây dung thụ trôi
theo dòng sông Dâu về đến thành Luy Lâu thì quẩn không trôi được nữa. Bao nhiêu
chàng trai trong vùng được huy động đến kéo cây vào bờ nhưng cây không hề nhúc
nhích. Vừa lúc đó, Man Nương vô tình ra sông rửa tay, bỗng dưng cây dập dình như
con tìm thấy mẹ. Man Nương ném dải yếm ra thì cây dung thụ trôi ngay vào bờ. Cũng
khi ấy Sỹ Nhiếp trong thành Luy Lâu được mộng phải tạc cây dung thụ thành tượng Tứ
Pháp để thờ. Sỹ Nhiếp cho ngay thợ xẻ cây dung thụ tạc tượng Tứ Pháp. Khi tượng đã
làm xong, làm lễ đặt tên cho pho thứ nhất thì bỗng thấy trời nổi mây ngũ sắc liền đặt
tên là Pháp Vân, thờ ở chùa Dâu, dân gian gọi là bà Dâu. Khi đặt tên cho Pho thứ hai
thì bỗng thấy trời nổi gió lớn liền đặt tên là Pháp Vũ, thờ ở Chùa Thành Đạo (tức chùa
Đậu) dân gian gọi là bà Đậu. Đến khi đặt tên cho pho thứ ba thì bỗng thấy trời nổi sấm
ầm ầm thì liền đăt tên là Pháp Lôi thờ ở chùa Phi Tướng (tức chùa Tướng) dân gian gọi
là bà Tướng. Đến khi đặt tên cho pho thứ tư thì bỗng thấy trời nổi chớp, liền đặt tên là
Pháp Điện thờ ở chùa Phương Quan (tức chùa Dàn) dân gian gọi là bà Dàn. Nhưng khi
25
làm lễ rước Phật Tứ Pháp về các chùa, chỉ được ba pho, còn pho tượng Pháp Vân
không hề chuyển động. Hỏi ra mới biết khi tạc tượng rìu đẽo phải hòn đá trong cây
dung thụ đã quẳng xuống sông. Tức thì dân các làng chài quanh đấy được phái đi mò
nhưng không hề thấy. “Khi Man Nương đi dò đến giữa sông Dâu nói rằng: “Con mẹ ở
đâu lên đây với mẹ!” thì bỗng nhiên hòn đá dưới nước nhảy lên vào lòng và phát sáng
rực rỡ. Sỹ Nhiếp cho là lạ liền đem hòn đá ấy tạt thành tượng, gọi tên là Đức Thạch Quang để thờ27”, ngày nay được thờ ở chùa Dâu.
Câu chuyện nàng Man Nương được giải thích là sự mầu nhiệm của “nhân thiên
hợp khí”. Thực chất đó là cuộc giao thoa giữa đạo phật với tín ngưỡng bản địa, tiền
thân của Tứ pháp (Mây, Mưa, Sấm, Chớp) thờ ở vùng Luy Lâu rồi lan tỏa ra nhiều
vùng khác. Ngày mồng 8 tháng 4 không chỉ là ngày sinh Phật Thích Ca (Ấn Độ) mà là
ngày sinh của Phật Tứ Pháp (Việt Nam).
1.2.2.2. Chùa Đậu
Tại thôn Đông Cốc - xã Hà Mãn - huyện Thuận Thành - Bắc Ninh xưa kia có
ngôi chùa Pháp Vũ, còn gọi là chùa Thành Đạo và cũng gọi là chùa Đậu, chùa thờ Phật
Pháp Vũ (Bà Đậu) là một trong Tứ pháp của hội Dâu. Chùa tọa lạc ở đất xóm Cầu,
thôn Đông Cốc, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Năm 1948 do
đất nước có chiến tranh, Pháp đem quân về đóng bốt tại Chùa, lúc đó nhân dân trong
làng phải rước tượng Pháp Vũ sơ tán sang gửi thờ nhờ ở chùa Dâu.
Cuối năm 1951, đồn giặc bị quân ta đánh tan, ngôi Chùa cũng bị phá hủy hoàn
toàn… Sau đó khu đất được Nhà nước sử dụng xây kho chứa lương thực. Năm 1968,
do yêu cầu của cơ chế sản xuất mới, Nhà nước cắt gần hai chục mẫu ruộng của thôn
Đông Cốc cho xã Thanh Khương, trong đó có cả phần đất thuộc chùa Đậu trước đây.
Sau khi đất nước hòa bình, các phong trào văn hóa văn nghệ được khôi phục,
các đình, chùa được tái thiết lại…với nhũng giá trị về mặt tâm linh, ngôi chùa Đậu -
Thành Đạo Tự đã được phục dựng vào năm 1997 ngay cạnh Khu Di tích Đình làng
Đông Cốc, nhưng chùa Đậu không xây lại trên nền chùa cũ mà xây trên một khu đất
27 Nguyễn Hữu, 2014, Chùa Dâu lịch sử và truyền thuyết, Nxb Thanh niên, Tr 17
mới.
26
Khi có ngôi thờ tự mới, dân làng thôn Đông Cốc muốn rước tượng Pháp Vũ về
chùa Đậu để thờ theo nguyện vọng của dân làng Đông Cốc, nhưng cho đến nay vẫn
chưa thực hiện được.
1.2.2.3. Chùa Tƣớng
Từ Hà Nội qua sông Hồng, đi theo Quốc lộ số 5 khoảng 15km rẽ trái, đi theo
Quốc lộ 282, 10km đến ngã tư chợ Dâu, Thuận Thành, Bắc Ninh, đi theo tỉnh lộ 282
khoảng 2km đến chợ Dàn, bên cạnh đó là chùa thôn Xuân Quan có tên hiện nay là chùa
Huệ Trạch, ngày xưa còn gọi là chùa Pháp Lôi, chùa Tướng.
Pháp Điện Tự, ngày nay gọi là Chùa Phi Tướng. Chùa ở phía nam của thành
Luy Lâu cổ có tên chữ là “Phi Tướng Đại Thiền Tự”, xưa thuộc xã Thanh Tương, tổng
Khương Tự, nay thuộc xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, là ngôi chùa thuộc hệ
thống Tứ Pháp trung tâm Phật giáo cổ xưa nhất của nước ta.
Theo sách Đại Nam nhất thống chí cho biết: “Các chùa Tứ Pháp được khởi
dựng ở vùng Dâu - Luy Lâu vào thế kỷ II SCN. Trải các thời đại, các chùa Tứ Pháp đã
được trùng tu nhiều lần và để lại dấu ấn kiến trúc điêu khắc đậm nét của các thời Trần, Lê, Nguyễn”28.
Vào thế kỷ thứ 17, chùa Phi Tướng được trùng tu theo kiểu “Nội công ngoại
quốc” gồm các toà: Tiền đường, Thiêu hương, Thượng điện, Hậu đường, hai bên là
hành lang, phía trước là Gác chuông, Tam quan cầu Phật ngự. Sự kiện trùng tu được
khắc bia đá có tên “Phi Tướng tự bi ký” dựng vào năm Chính Hoà 18 (1697), nội dung
như sau: “Tại xã Lạc Thổ, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, tiểu tăng là Nguyễn Đức
Khang, tự Pháp Ninh, đạo hiệu Chân Kính, tiểu ni là Nguyễn Thị Thái hiệu là Diệu
Xuân, trụ trì tại bản xã (gồm các thôn Thanh Hoài, Thanh Tương, Lũng Triền) ở ngôi
chùa là “Phi Tướng đại thiền sự”. Trước đây có người cha đã làm phúc rất nhiều,
nhưng chưa kịp lập bia đá để lại cho đời sau, nên chưa ghi lại những sự việc từ thuở
ban đầu. Nay cung kính ghi lại việc như sau:
Đức Đại Thánh Pháp Lôi Phật linh ứng xuất thế, có phật tử vâng mệnh là
28 Đại Nam nhất thống chí, 1971, Tập V, Bản dịch – NXB Khoa học xã hội, Tr 110
Khánh Giác Hoà thượng Nguyễn Tôn Sinh, tự là Phúc Đức, hiệu Huệ Khánh Viên
27
Quảng thiền sư, Bồ Tát lão ni là Vũ Thị Nhiên hiệu là Hải Thuận, Vũ Thị Hưng hiệu là
Huệ Tính, Vũ Thị An hiệu là Từ Thịnh xuất gia đầu Phật, mang tiền của gia đình hưng
công và khuyến giáo mọi người cùng nhau làm phúc chung xây Thượng điện, Thiêu
hương, Tiền đường, Hậu đường, hai bên hành lang, gác chuông, tam quan và tạo các
tượng Phật, đúc mới quả hồng chung (chuông), khánh báu, in các bản kinh để làm tài
liệu tụng độ sau này. Các việc trên hoàn thành tốt đẹp, ghi vào bia đá lưu truyền muôn
đời sau.
Chùa Phi Tướng bảo lưu được hệ thống tài liệu cổ vật quý giá như: Tượng Phật,
bia đá, chuông đồng cho biết khá rõ những thông tin về lịch sử ngôi chùa, cũng như
người được thờ là “Đại Thánh Pháp Lôi Phật” (Ngài vừa là Thánh vừa là Phật). Các
sắc phong có niên đại như sau: Cảnh Hưng tứ niên (1743), Cảnh Hưng tứ thập tứ niên
(1783), Minh Mệnh nhị niên (1821), Thiệu Trị tứ niên (1844), Tự Đức tam niên
(1850), Đồng Khánh nhị niên (1887). Trong số trên, sắc phong có niên đại cổ nhất
“Cảnh Hưng tứ niên tam nguyệt nhị thập thất nhật” (tức 27/3/1743) có nội dung ca
ngợi công lao to lớn với dân với nước và sự linh thiêng của Đại Thánh Pháp Lôi Phật
như sau:
Sắc Đại Thánh Pháp Lôi Phật, khí hun núi Bắc, uy chấn trời Nam, mênh mang
ở trên, vận thần cơ giúp đỡ nhân dân, nối tiếp yên ổn, rực rỡ tiếng tăm, đức sáng tốt
đẹp, mãi phù vận nước dài lâu, công lao to lớn hiển ứng linh thiêng. Hợp cử bao
phong phụng sự Đại nguyên soái tổng quốc chính thượng sư Minh vương ban sắc chỉ
chuẩn ứng phong cho thần là Đại Thánh mậu đức phong công, tuấn liệt Pháp Lôi
Phật. Vậy ban sắc.
Chùa Phi Tướng thuộc hệ thống chùa Tứ Pháp là trung tâm Phật giáo cổ xưa
nhất, là danh lam cổ tự nổi tiếng, đã để lại kho tàng di sản văn hoá quý giá, hàng năm
đã thu hút hàng ngàn vạn Phật tử, khách tham quan khắp mọi miền trong nước và quốc
tế.
28
1.2.2.4. Chùa Dàn
Chùa tọa lạc trên diện tích 1,5ha, Phía Đông nam giáp làng Phương Quan, Phía
Tây Nam giáp làng Tư Thế, Phía đông Bắc giáp làng Đại Trạch. Chùa Dàn tọa lạc trên
thôn Phương Quan, xã Trí Quả, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Chùa Dàn là nơi thờ Phật Pháp Điện, là một trong bốn vị Tứ Pháp. Pháp Điện
tượng trưng cho thần Chớp trong bốn vị thần: Mây, mưa, sấm, chớp.
Sắc phong Phật chủ chùa Huệ Trạch có đoạn viết:
“Sắc Bắc Ninh tỉnh, Thuận Thành phủ, Siêu Loại huyện, Khương Tự tổng,
Phương Quan xã, Xuân Lan thôn phong phụng sự Đại Thánh Pháp Thông Vương Phật
tôn thần hộ quốc tý dân, Túy mục dực bảo trung hưng thượng đẳng thần”
Chùa Dàn, hay còn gọi là chùa Phương Quan, và cũng là chùa Huệ Trạch một
trong những linh địa linh thiêng bậc nhất Việt Nam.
Thành Luy Lâu trong thời kỳ Bắc thuộc, thuộc nhà Đông Ngô, Sĩ Nhiếp, một
quan chức người Hán được vua Ngô cử làm thứ sử Giao Châu, ông đã cho xây dựng lại
thành Luy Lâu, đặt làm trung tâm của bộ máy cai trị.
Luy Lâu thời Bắc thuộc không chỉ là trung tâm chính trị, mà còn là trung tâm
kinh tế - thương mại, trung tâm văn hóa - tôn giáo lớn và cổ xưa nhất của Việt Nam.
Đô thị Luy Lâu nằm giữa khu vực giao nhau giữa Sông Dâu và Sông Đuống,
giữa trung tâm đồng bằng châu thổ Bắc Bộ, trong đó Sông Dâu giữ vai trò trục không
gian kiến trúc chính. Các công trình của đô thị chủ yếu dựng đặt, xây cất bên bờ Sông
Dâu (thành lũy bên một bờ sông). Trung tâm đô thị là tòa Thành Luy Lâu kiên cố và bề
thế - trụ sở chính và căn cứ quân sự của bộ máy cai trị. Trong thành là công đường,
dinh thất, nhà cửa, đồn trại, kho bãi… Mặt lũy thành là tháp canh, đồn trại, bao lấy lũy
thành là hào sâu, lũy tre dày đặc nhằm bảo vệ bộ máy cai trị của phong kiến ngoại tộc.
Ngoài thành, ở hai phía Nam - Bắc là nhà ở, dinh thự, lầu gác của quan lại, quý tộc là
chủ yếu, mà nay còn lại dấu tích khảo cổ và địa danh Văn Quan, Phương Quan, Mã
Quan, Cánh Sở…Di tích để lại ngày nay chỉ còn một đoạn tường thành nhỏ còn sót lại,
tại xã Thanh Khương, Thuận Thành, Bắc Ninh.
29
Tại đây, tư tưởng Nho giáo và văn hoá Hán Đường đã được truyền bá liên tục
vào nước ta. Đây là nơi đầu tiên Sỹ Nhiếp mở trường lớp dạy chữ và văn hoá Hán.
Ngoài ra Luy Lâu còn là trung tâm Phật giáo lớn và cổ xưa nhất của người Việt. Hệ
thống di tích, chùa tháp quần tụ đậm đặc ở đây với trung tâm là chùa Dâu cùng nhiều
nguồn di vật, tài liệu như tượng pháp, bia ký, bản khắc Cổ Châu Pháp Vân vật bản
hạnh và lễ hội chùa Dâu - lễ hội Phật giáo lớn nhất trong đồng bằng Bắc Bộ với các
nghi lễ Tân Phật, rước Tứ Pháp, rước nước đã cho thấy Luy Lâu là trung tâm Phật giáo
lớn và sớm nhất Việt Nam. Luy Lâu là không gian điển hình đan xen, hỗn dung tiếp
xúc, biến đổi hội tụ và kết tinh văn hoá Việt Nam cổ với văn hoá Phật - Ấn, Nam Á và
Trung Á, văn hoá Nho Lão (Trung Hoa - Đông Á) để rồi sinh thành bản sắc văn hoá
Lạc Việt.
1.3. Di sản văn hóa vật thể và nghệ thuật tạo hình ở những ngôi chùa cổ thờ
Tứ Pháp.
Đáng chú ý nhất là các di tích/các ngôi chùa thuộc trung tâm Phật giáo Dâu
(chùa Dâu, chùa Đậu, chùa Tướng, chùa Dàn, chùa Tổ, chùa Huệ Trạch), các hiện vật
(hệ thống tượng, đồ thờ cúng...) và các sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng diễn ra tại những
di tích này đã giữ vai trò bảo lưu (thông qua “cái vỏ” vật chất và “cái vỏ” Phật giáo)
lớp văn hoá đầu tiên của văn hoá vùng Dâu - đời sống văn hoá, tinh thần của những cư
dân nông nghiệp Việt cổ - với các tục thờ cây (cây Dâu - cây Dung thụ), thờ đá - gắn
với tín ngưỡng phồn thực (sau thành “Phật Thạch Quang”), tôn thờ các hiện tượng
thiên nhiên thường xuyên tác động,chi phối hoạt động sản xuất nông nghiệp (các hiện
tượng mây, mưa, sấm, chớp - sau thành Phật Tứ Pháp)... Những cứ liệu đó cũng gợi
nghĩ tới (một phần) hoạt động sản xuất của cộng đồng cư dân ở vùng Dâu đương thời:
chủ yếu là sản xuất nông nghiệp (với việc trồng lúa nước và trồng dâu, nuôi tằm), có
kết hợp với việc đánh bắt cá (trên sông Dâu). Mặt khác, từ việc khởi đầu cư dân ở đây
tôn thờ các hiện tượng thiên nhiên cụ thể, rồi được “nhân hoá” thành các nữ thần (các
bà: Dâu, Đậu, Tướng, Dàn) trước khi được “Phật hoá” thành Tứ Pháp, có thể xác định
vùng Dâu, từ những thế kỷ trước Công nguyên, đã trở thành một trung tâm giao lưu,
buôn bán phát triển - Có một thực tế khá phổ biến là, ở những trung tâm thương nghiệp
30
phát triển thời cổ (các đô thị cổ), về mặt đời sống tín ngưỡng, thường xuất hiện gắn với
việc thờ các thần mẫu - nữ thần.
Tiểu kết
Trong số những trung tâm Phật giáo được thành hình vào thời Hậu Hán (25-220)
thì trung tâm Phật giáo Luy Lâu là lớn mạnh hơn cả. Phật giáo Luy Lâu đã cung cấp
thành quả Phật học chẳng những cho Phật giáo Giao Châu mà còn cho cả Phật giáo
Viễn Đông. Tác giả Nguyễn Lang trong tác phẩm Việt Nam Phật giáo sử luận chép
rằng: “Trong ba trung tâm Phật giáo đời Hán, trung tâm Luy Lâu là trung tâm có tổ chức tăng đoàn sớm nhất”29.
Pháp sư Đàm Thiên tâu với vua Văn Đế (vua nhà Hán) rằng: “Khi Phật pháp tới
Giang Đông chưa đầy đủ gì thì ở thủ đô Luy Lâu của Giao Châu đã có tới hai mươi ngôi bảo sát (chùa), độ hơn 500 vị tăng và dịch được hơn 15 cuốn kinh rồi . . .”30
Có thể nói vùng đất Luy Lâu - Bắc Ninh là cái nôi của Phật giáo, là trung tâm sinh
hoạt Phật giáo Giao Châu qua nhiều thế kỷ, nơi mà một thời vành đai Phật giáo tỏa
rộng khắp cả vùng đồng bằng Bắc bộ. Những bậc thạc đức, cao Tăng làm việc cố vấn
trong triều đình như: Thái sư, Tăng thống, Quốc sư, Thượng sĩ v.v… phần lớn cũng
đều xuất thân từ đất Luy Lâu thuộc tỉnh Bắc Ninh này.
Từ khi Phật giáo du nhập vào nước ta thì hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ Pháp cũng
được hình thành. Từ vị Phật tổ Bổn Sư Thích Ca bên Ấn Độ khi sang Việt Nam thì
biến các vị thần: Mây, mưa, sấm, chớp thành các vị Phật: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp
Lôi, Pháp Điện.
Thông qua quá trình tiếp cận các nguồn tư liệu thứ cấp, trong nội dung chương 1,
đề tài tập trung làm rõ các khái niệm, các thuật ngữ các vấn đề liên quan đến: Lễ hội,
kiến trúc, giá trị văn hóa, Tứ Pháp. Đồng thời đề tài cũng khái quát một cách rõ nét
29 Nguyễn Lang (1995), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Tôn giáo, Tr. 29 30 Nguyễn Lang (1995), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Tôn giáo, Tr. 33
tổng quan về địa bàn nghiên cứu tại huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh và những ngôi
31
chùa cổ: Chùa Dâu, chùa Đậu, chùa Tướng, chùa Dàn, tương ứng thờ bốn vị: Pháp
Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện.
32
CHƢƠNG 2
KIẾN TRÚC CỦA NHỮNG NGÔI CHÙA CỔ THỜ TỨ PHÁP
TẠI TRUNG TÂM PHẬT GIÁO LUY LÂU - BẮC NINH
2.1. Nghệ thuật kiến trúc
2.1.1. Chùa Dâu
Chùa có nhiều tên gọi khác nhau: chùa Khương Tự, Cổ Châu tự, Thiền Định tự,
Diên Ứng tự, Pháp Vân tự, nhưng dân gian thường gọi là chùa Dâu. Chùa thuộc thôn
Khương Tự, xã Thanh Khương. Sách Đại Nam nhất thống chí (tập IV) chép về chùa
như sau: "Chùa Diên Ứng ở xã Khương Tự, huyện Siêu Loại, có 4 tượng là Pháp Vân,
Pháp Vũ, Pháp Điện và Pháp Lôi, thường tỏ ra anh linh. Đời Trần, Mạc Đĩnh Chi dựng chùa trăm gian, tháp chín tầng và cầu chín dịp, nền cũ nay vẫn còn"31. Trải qua mưa
nắng, thời gian, chùa đã nhiều lần hư hỏng và cũng đã nhiều lần được tu sửa. Đến nay,
chùa Dâu vẫn là một ngôi có quy mô lớn trong vùng.
Chùa gồm nhiều công trình kiến trúc hợp thành. Các công trình kiến trúc chính
của chùa đều nhìn về hướng Tây, được xây dựng trên một trục thẳng, thứ tự từ ngoài
vào trong như sau:
Tam quan: Được xây dựng ở phía trước chùa, bên bờ sông Dâu cổ (gần chỗ cầu
Dâu hiện nay). Công trình này đã bị phá huỷ từ lâu, nay vẫn chưa xác định được chính
xác dấu vết nền móng cũ.
Sân chùa: Hình gần chữ nhật, chiều dài khoảng 150m, chiều rộng khoảng 100m.
Bên phải sân chùa là ao chùa. Sân chùa xưa là nơi "Họp" chợ Âm - Dương (còn gọi là
chợ Tam bảo), sau này vẫn được sử dụng làm nơi "Họp" chợ của nhân dân trong vùng.
Tiếp liền phía trong sân chùa là các công trình kiến trúc chính của chùa, được bố
cục theo kiểu "Nội công ngoại quốc": tháp Hoà Phong và ba công trình Tiền đường,
Thiêu hương, Thượng điện nằm lọt trong bốn dãy nhà quây xung quanh theo hình chữ
31 Đại Nam nhất thống chí, T.IV, 1971, Nxb. Khoa học Xã hội, tr.109
nhật.
33
"Bốn dãy nhà quây xung quanh" đó bao gồm: hai dãy hành lang ở hai bên, mỗi dãy 22
gian (dài 50m, rộng 3,8m), Bái vọng đường - toà nhà ở phía trước (có 9 gian, dài 28m,
rộng 7m) và Hậu đường - toà nhà ở phía sau.
Hình 3.1. Tháp Hòa Phong và quang cảnh trước sân chùa Dâu.
Nguồn: Khảo sát thực địa ngày 22/2/2016.
Tháp Hoà Phong nằm ở trung tâm khoảng sân giữa Bái vọng đường và Tiền
đường. Tháp có bình đồ hình vuông, mỗi cạnh đáy dài 6,75m; được xây bằng gạch rồi
"bắt mạch" (không trát tường). Chiều cao toàn bộ tháp khoảng 15m, được chia làm 3
tầng, càng lên cao, tháp càng thu nhỏ lại. Lòng tháp để rỗng, tầng dưới có mở 4 cửa ở 4
phía. Theo nội dung được khắc trên tấm bia 4 mặt, đặt ở phía trước tháp, thì tháp Hoà
Phong được khởi công xây dựng tháng 8 năm 1737, đến tháng 4 năm 1738 thì hoàn thành32.
Tháp Hoà Phong được dựng ở giữa sân chùa. Theo thư tịch cổ, vào thời Trần,
Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi cho trùng tu chùa Dâu, xây tháp cao 9 tầng, nhưng kiến
trúc của tòa tháp hiện còn là của thời Lê Trung Hưng. Tháp được xây bằng gạch nung
32 Nguyễn Mạnh Cường (1995), Chùa Dâu và hệ thống chùa Tứ Pháp, Luận văn Phó tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Viện Khảo cổ học, tr. 21
già, với 3 tầng, cao 15m. Tầng thứ nhất, mỗi cạnh rộng 6,75m, cao 4,5m, bốn mặt đều
34
có cửa, xây cuốn vòm. Tầng thứ hai cao 4m, mỗi cạnh rộng 6,15m, có 4 cửa cuốn vòm.
Trên cùng là vòm mái, được xây cuốn bằng gạch. Đỉnh tháp được tạo hình như một
bình nước cam lộ. Trong lòng tháp, phía dưới có bệ thờ “Tứ trấn” (Tứ Thiên Vương),
bằng gỗ phủ sơn, cao 1,60m. Phía trên treo khánh đồng, chuông đồng. Phía trước tam
cấp cửa phía Tây có 2 tượng sóc đá, mang phong cách nghệ thuật thời Lê Trung Hưng.
Bên trái có một tượng cừu đá (dấu ấn của văn hoá phương Bắc, phản ánh sự hiện diện
của Thái thú Sĩ Nhiếp khi đóng trị sở ở thành Luy Lâu). Trên tháp Hoà Phong hiện còn
một tấm biển bằng đá xanh gắn ở phía Tây (tầng hai) có đề 3 chữ “Hòa Phong tháp”.
Bảng 3.1. Những hiện vật được bảo tồn ở chùa Dâu.
(Tổng số có 38 hiện vật và nhóm hiện vật)
TT Hiện vật Niên đại
Thế kỷ thứ 17 1 Tượng Phật Pháp Vân
Thời Hán 01 cừu đá 2
Minh Mệnh 18 (1837), 01 khánh đồng 3
Cảnh Thịnh Quý Sửu 01 chuông đồng 4
(1793).
Thế kỷ 18 01 hương án 5
Thế kỷ 18, 19 05 bia đá 6
Thế kỷ 18, 19 27 tượng và nhóm tượng 7
Thế kỷ 19 01 ngai thờ đá 8
Nguồn: Thích Đàm Tùy – Sư trụ trì chùa Dâu cung cấp, 2016.
2.1.2. Chùa Đậu
Chùa Đậu, tên chữ là "Thành Đạo tự", thuộc thôn Đại Tự, xã Thanh Khương, ở
về phía Đông Nam chùa Dâu và cách chùa Dâu khoảng 200m về phía Đông Bắc chùa.
Chùa quay hướng Tây.
Chùa Đậu là nơi thờ Phật Pháp Vũ. Xưa kia, chùa Đậu thuộc đất làng Đông Cốc
(xã Hà Mãn). Chùa cũng có quy mô to lớn, nhưng trong thời kỳ Kháng chiến chống
Pháp, chùa đã bị giặc phá. Từ đó, tượng Pháp Vũ được chuyển về đặt trên Thượng điện
chùa Dâu. Di vật của chùa còn trên nền đất cũ chỉ là một tấm bia 4 mặt, khắc năm Đinh
35
Tỵ niên hiệu Vĩnh Hựu (1737), nội dung ghi về việc cúng giỗ tại chùa (Gần đây, nhân
dân làng Đại Tự, được sự hỗ trợ của một số vị sư trong vùng, đã cùng nhau đóng góp
tiền của, công sức để xây dựng một ngôi chùa mới trên khu đất chùa Đậu xưa).
Hình 3.2. Tổng quan của chùa Đậu ngày nay.
Nguồn: Khảo sát thực địa ngày 22/2/2016.
2.1.3. Chùa Tƣớng
Chùa Tướng (Phi Tướng tự) là nơi thờ Phật Pháp Lôi. Chùa thuộc thôn Thanh
Tương, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Chùa được xây dựng
trên một gò đất tại góc Tây Nam thành Luy Lâu. Chùa tọa lạc ở phía Bắc chùa Dâu và
cách chùa Dâu khoảng 600m.
Mặt chùa quay hướng Tây. Các công trình kiến trúc chính của chùa gồm ba toà:
Tiền đường, Thiêu hương, Thượng điện. Trong ba toà nhà này, chỉ có Thiêu hương và
Thượng điện là công trình kiến trúc cổ còn lại (tuy cũng đã được sang sửa nhiều), còn
toà Tiền đường là công trình mới được xây dựng. Sau cụm kiến trúc chính này là toà
Tam bảo hậu, cũng vừa mới được trùng tu lại. Tuy vừa mới trùng tu, nhưng kinh phí ít,
chưa có sự quan tâm sau sắc của các ban ngành lãnh đạo của nhà nước nên chánh điện
cũng rất còn khiêm tốn về mặt diện tích.
36
Hình 3.3. Trước Cổng chùa Tướng.
Nguồn: Khảo sát thực địa ngày 22/2/2016
2.1.4. Chùa Dàn
Chùa Dàn thuộc thôn Phương Quan (nên còn gọi là chùa Phương Quan), xã Trí
Quả, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Chùa hướng về phía Tây và cách chùa Dâu
gần 2km.
Đây là một công trình tôn giáo - tín ngưỡng có chức năng thờ phụng theo kiểu
tiền thần, hậu Phật. Các công trình kiến trúc chính của chùa bố cục theo kiểu chữ
"công", ở gian giữa chánh điện thờ Phật Pháp Điện, hai bên cũng được thờ các vị La
hán, thứ tự từ phía ngoài vào, như nhân dân ở đây thường gọi, là: Tiền đường, Thiêu
hương và Thượng điện.
37
Hình 3.4. Trước chánh điện chùa Dàn.
Nguồn: Khảo sát thực địa ngày 22/2/2016
2.2. Phân bố không gian thờ cúng và sinh hoạt
2.2.1. Phân bố không gian thờ cúng
2.2.1.1. Chùa Dâu
Tiền đường là toà nhà 7 gian, dài 21m, rộng 9,5m. Đây là công trình được tu tạo
vào năm Khải Định thứ 3 (1918).
Thiêu hương là toà nhà xoay dọc để nối Tiền đường với Thượng điện. Đây là
công trình có mặt nền cao hơn Tiền đường 0,37m; kiến trúc đơn giản; chiều dài 9m,
chiều rộng 7m.
Thượng điện có mặt nền cao hơn Thiêu hương 0,47m. Đây là toà nhà 1 gian, 2
chái, 4 mái, các góc mái là những đầu đao cong thanh thoát. Nền nhà hình chữ nhật
(dài 14m, rộng 10,4m). Trên các bộ phận liên kết khung gỗ của thượng điện đều được
chạm khắc nhiều đồ án trang trí hình rồng, mây, hoa lá... Qua các đồ án trang trí này,
một số nhà nghiên cứu đã đoán định, toà Thượng điện được khởi dựng từ thời Mạc, tu
38
bổ lớn vào thời Lê Trung hưng (khoảng thế kỷ XVII), sau đấy, còn trải qua nhiều lần tu bổ khác33.
Ngoài các công trình kiến trúc chính kể trên, chùa Dâu còn có nhà tổ (5 gian) và
một dãy tăng phòng, được xây dựng ở bên phải chùa. Vườn tháp của chùa để ở phía
sau nhà tổ. Nhân dân địa phương còn cho biết, xưa kia, ở liền phía sau toà Hậu đường,
là đền thờ đức Thạch Quang (3 gian), nhưng công trình này đã bị phá hỏng từ lâu.
Phật điện chùa Dâu được bài trí khá đặc biệt.
Toà Tiền đường là nơi đặt hai tượng Hộ Pháp, hai bên là tượng Đức Ông và
Đức Thánh Tăng; ở hai hồi nhà là hai dãy tượng Bát bộ Kim Cương.
Toà Thiêu hương: trên ban thờ chính có tượng Thích ca sơ sinh; áp vách tường
hai bên là nơi bày các tượng Thập điện Diêm Vương.
Thượng điện nằm ở vị trí trung tâm của chánh điện. ở giữa là nơi tôn nghiêm
nhất được thiết kế bàn Phật và thờ Phật Pháp Vân ở giữa. Phía trước chệch bên phía tay
trái khoảng 5 mét tượng Pháp Vân là tượng Pháp Vũ (được chuyển từ chùa Đậu về
đây) và khám nhỏ thờ đức Phật Thạch Quang được an vị ở phía trước tượng Pháp Vân.
Hai bên khám thờ này là hai chiếc ghế thờ thời Mạc, trên mỗi ghế đều có một pho
tượng nhỏ - truyền rằng, đó là con của Tứ Pháp. Ở phía dưới, vị trí thấp hơn, là hai
tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ và hai tượng Bà Trắng, Bà Đỏ ở hai bên
Phía sau tượng Pháp Vân là pho tượng Thủ bệ (giữ bệ), được đặt trên một bệ đá
hoa sen.
Toà Hậu đường là nơi bài trí các tượng giống như việc bài trí ở các toà Tam bảo
tại các ngôi chùa Việt khác, nên thường được gọi là Tam bảo hậu.
Ngoài các tượng kể trên, ở hai dãy hành lang hai bên còn có tượng Thập bát La
33 Nguyễn Mạnh Cường (1995), Chùa Dâu và hệ thống chùa Tứ Pháp, đã dẫn, tr. 35.
Hán.
39
Hình 3.5. Mười tám vị La Hán được thờ hai dãy hành lang tại chùa Dâu.
Nguồn: Khảo sát thực địa ngày 22/2/2016
2.2.1.2. Chùa Tƣớng
Phật điện chính của chùa Tướng, được bài trí tại gian giữa Thượng điện, cũng
rất đơn giản. Chiếm vị trí trung tâm là tượng Pháp Lôi. Phía trước Pháp Lôi là tượng
đức Thánh Tải, được đặt trên một ngai gỗ nhỏ. Phía sau Pháp Lôi là tượng Thủ bệ.
Ngoài ra, ở gian bên trái thượng điện còn có một ban thờ nhỏ, trên đó có một bia tượng
bằng đá xanh, chạm khắc rất tinh tế. Bia tượng này được làm vào năm Chính Hoà thứ
18 (1697), trên đó khắc rõ tên những người đã công đức tiền của để dựng Tiền đường,
Thiêu hương, Hậu đường, hành lang hai bên, gác chuông và tam quan chùa đương thời.
2.2.1.3. Chùa Dàn
Các công trình này được sử dụng như sau:
- Tiền đường và Thiêu hương là nơi thờ Thành Hoàng làng (chưa rõ tên và lai
lịch thần). Gian Thiêu hương được sử dụng như một hậu cung đình - ở phía trước gian
thờ này cũng có bức đại tự ghi 4 chữ Hán "Thánh cung vạn tuế". Đặc biệt, tại gian bên
phải của Tiền đường (tiếp liền gian giữa), hiện có ban thờ ông tổ nghề câu (cá) của
40
làng - Ban thờ nhỏ, trên có đặt bát hương và một khám gỗ, trong khám xưa có tượng
ông tổ nghề câu, nhưng nay đã bị mất.
- Thượng điện: Công trình này đảm nhiệm chức năng của một ngôi chùa. Đây là
nơi thờ Phật Pháp Điện, với cách bài trí Phật điện cũng tương tự các chùa thờ Tứ Pháp
khác: Pháp Điện được đặt tại vị trí trung tâm Phật điện, phía trước là tượng Đức Thánh
Tải đặt trên ngai gỗ, phía sau là tượng Thủ bệ, cũng đặt trên ngai gỗ. Rất tiếc, tượng
Thủ bệ nay đã bị mất.
Ngoài các công trình kiến trúc kể trên, chùa Dàn cũng có toà Tam bảo hậu,
nhưng được xây tách hẳn ra phía sau Thượng điện. Đây là nơi bài trí thờ phụng như toà
Tam bảo ở các ngôi chùa Việt khác.
Như vậy, thực tế bố cục kiến trúc và việc được sử dụng làm nơi thờ cúng kiểu
“tiền thần hậu Phật” của chùa Dàn, như vừa trình bày, tự nó đã thể hiện những nét
riêng biệt và độc đáo của di tích này trong hệ thống các chùa thờ Tứ Pháp.
2.2.2. Bài trí tƣợng thờ trong chùa
2.2.2.1. Chùa Dâu
Cũng như nhiều chùa chiền trên đất Việt Nam, chùa Dâu được xây dựng theo
kiểu "nội công ngoại quốc". Bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhật bao quanh ba ngôi
nhà chính: Tiền đường, thiêu hương và thượng điện. Tiền đường của chùa Dâu đặt
tượng Hộ pháp, tám vị Kim Cương; Gian thiêu hương đặt tượng Cửu Long, hai bên có
tượng các vị Diêm Vương, Tam châu Thái tử, Mạc Đĩnh Chi. Thượng điện để tượng
Bà Dâu (Pháp Vân), Bà Đậu (Pháp Vũ), và các hầu cận. Các pho tượng Bồ tát,Tam
thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt ở phần hậu điện phía sau chùa chính.
Một trong những ấn tượng khó có thể quên được ở nơi đây là những pho tượng
thờ. Ở gian giữa chùa có tượng Bà Dâu, hay nữ thần Pháp Vân, uy nghi, trầm mặc,
màu đồng hun, cao gần 2 m được bày ở gian giữa.
Phong cách tạc tượng và các đồ án trang trí trên tượng cho thấy tượng Pháp Vân
có niên đại cuối thế kỷ 17.
Dưới tượng Pháp Vân, ở hai bên có hai tượng được dân gian gọi là Bà Trắng và
Bà Đỏ. Đây là tượng hai bà có nhiều công đức vào Chùa Dâu làm hương hỏa.
41
Tượng Thạch Cuông hay Thạch Quang là một hòn đá cuội màu nâu nhạt, cao
0,19m, đường kính đầu 0,11m đựng trong một hộp đựng sơn son thếp vàng và để trước
mặt tượng Pháp Vân.
Tượng Ngọc Nữ mặc khá nhiều áo. Đối diện với Ngọc Nữ là tượng Kim Đồng.
Hai tượng có phong cách nghệ thuật và kỹ thuật tạo tượng gần giống nhau.
Phía dưới sát bên phải Pháp Vân là chiếc ngai bên trong đặt tượng “Đức Thánh
Tải ” hay “Phật Con”. Chân cột bên phải có đề dòng chữ Hán “Lê triều Bảo Thái vạn
vạn niên” - tức thời Lê Dụ Tông năm 1727.
Hai bên góc của Thượng điện còn có các ban thờ của các lớp tượng thời sau
như: Lục Vị Công Tào, Tứ Bồ Tát, Quan Âm thiên thủ thiên nhỡn và đặc biệt là pho
tượng Thiền sư Tỳ na đa lưu chi được thờ ở phía sau của tượng Pháp Vân.
Ở hai bên là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ. Phía trước là một hộp gỗ trong
đặt Thạch Quang Phật là một khối đá, tương truyền là em út của Tứ Pháp.
Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị phá huỷ thời kháng chiến chống Pháp, nên tượng Bà
Đậu (Pháp Vũ) cũng được đưa về thờ ở chùa Dâu. Tượng Pháp Vũ với những nét thuần
Việt, đức độ, cao cả. Theo sự giới thiệu của sư thầy trụ trì chùa Dâu Thích Đàm Tùy
cho biết tượng bà Pháp Vũ thờ tại chùa Dâu có niên đại thế kỷ 18.
Bên trái của thượng điện có pho tượng thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tượng được
đặt trên một bệ gỗ hình sư tử đội tòa sen, có thể có niên đại thế kỷ 14.
Trong không gian chùa Việt (Bắc Bộ), từ kiến trúc, bài trí, tượng thờ, pháp khí,
cho đến cây cối được trồng trong di tích đều ẩn chứa những cấu tứ sâu sắc bởi ý nghĩa
minh triết của Phật giáo hòa quyện với ước vọng cầu mùa của người Việt. Nếu bố cục
ngôi chùa theo kiểu “nội Công ngoại Quốc” là hình thức phổ biến hơn cả thì nhìn
chung chùa bao gồm một điện thờ hình chữ “Công”, một dãy hành lang bao quanh ba
mặt và một sân rộng. Khu trung tâm là điện thờ Phật của chùa, thông thường bao gồm
ba ngôi nhà nằm kế tiếp nhau, lần lượt là Tiền đường – Thượng điện – Nhà Tổ, Mẫu...
Trong không gian tĩnh lặng, khói hương trầm quyện tỏa, ánh nến, người Việt
đến chùa để tỉnh tâm mình, nhìn lại tâm mình với chánh niệm và tỉnh giác qua hành
động, lời nói, suy nghĩ để lánh xa các điều ác, làm các việc lành, mang lại sự an lạc, lợi
42
ích cho chính bản than, cho gia đình và xã hội. tỏ bày biết bao tâm tư vui buồn của kiếp
người trong cõi thế mênh mang.
2.2.2.2. Chùa Đậu, chùa Tƣớng, chùa Dàn
Cả ba chùa: Chùa Đậu, chùa Dàn và Chùa Tướng đều có cách lối thờ giống
nhau. Vì chánh điện có diện tích hẹp, nên ban điện thờ ở giữa chánh điện được thờ
tượng bà Pháp Vũ (tượng mới) thờ tại chùa Đậu, Pháp Lôi tại chùa Tướng và Pháp
Điện tại chùa Dàn, đứng hai bên gian tiền đường có tám Tượng Bát bộ Kim Cương: Là
vị phiếm thần, gồm tám pho tượng làm không gian tăng thêm phần uy nghiêm. Các
tượng đều mặc áo giáp trụ, mũ kim khôi, đi hia, cầm binh khí song dáng đứng theo các
thế tấn, thế tay khác nhau thể hiện tinh thần dũng mãnh và cương quyết.
Hình 3.6. Nghi lễ dâng sao giải hạn trong chánh điện chùa Dàn.
Nguồn: Khảo sát thực địa ngày 22/2/2016
43
2.3. Nghệ thuật trang trí
2.3.1. Nghệ thuật điêu khắc
2.3.1.1. Tƣợng Pháp Vân
Pho tượng Pháp Vân là một trong những pho tương hiếm thấy của Phật Giáo
Việt Nam. Tượng được tạc theo phong cách đặc trưng của tượng Phật Mật Giáo
phương Nam Ấn Độ, mình mặc Thiên y, đầu đội Thiên quan có dáng dấp vẽ đẹp yêu
kiều của hình tượng nữ thần. Tượng Bà Dâu, hay Nữ Thần Pháp Vân có dáng dấp uy
nghi, trầm mặc, màu đồng hun, cao gần 2m được bày ở gian giữa chùa Dâu.
Trung tâm Thượng điện là ban thờ Đại Thánh Pháp Vân Phật (gọi tắt là Pháp
Vân). Ngài tọa thiền trên tòa sen, đặt trong khám thờ lớn chạm rồng và sơn son thiếp
vàng rực rỡ. Tượng có thân hình to lớn nhưng thanh thoát (cao 1,57m, vai rộng 0,65m,
đùi rộng 1,15m), trong thế ngồi bán kiết chân phải gác lên chân trái để lộ bàn chân, trên
tòa sen nở rộ. Đầu kết tóc thành các cụm xoắn ốc nhỏ đen nhánh, giữa trán nổi lên quý
tướng của Phật, tai to chảy dài, lông mày cong, mắt nhìn xuống nhân từ, mũi dọc dừa,
miệng mỉm cười nhân hậu. Cổ cao ba ngấn. Vai rộng, ngực nở, bụng thon. Váy có
nhiều nếp, thắt lưng ngang bụng. Tay phải giơ lên ngang ngực trong lòng bàn tay để lộ
hạt minh châu (ngọc sáng). Tay trái để ngửa lên đùi, ngón tay kết ấn, trong lòng bàn
tay có một viên ngọc sáng.
Tượng có gương mặt đẹp với chấm bạch tướng hào quang nổi cao giữa trán gợi
liên tưởng tới phong tục gắn hạt ty ca lên tráng của người nữ dân tộc ấn độ, một biểu
tượng của Tây Trúc quê hương nguồn cội của đạo phật. Ở hai bên là tượng Kim đồng
ngọc nữ theo tín ngưỡng Phật bà Quan Âm.
44
Hình 3.7. Tượng Pháp Vân được thờ tại chùa Dâu.
Nguồn: Khảo sát thực địa ngày 22/2/2016
2.3.1.2. Tƣợng Pháp Vũ
Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị Pháp phá hủy, nên tượng Bà Đậu (Pháp Vũ) cũng
được đưa về thờ ở chùa Dâu. Tượng Pháp Vũ với những nét thuần Việt, hiền lành
thanh tịnh trang nghiêm. Khuôn mặt màu đen, nhưng tròn đầy và thánh thiện với mũi
dọc dừa, lông mày lá liễu, đôi mắt nhìn xuống bao dung, miệng mỉm cười, tay phải giơ
lên ngang ngực, ngón tay kết ấn, phúc hậu toát lên vẽ đẹp của người Phụ nữ dân tộc
Việt, toàn thân được sơn phủ một lớp sơn màu đen. Tượng được chạm trỗ vào thế kỷ
thứ 18.
45
Hình 3.8. Tượng Pháp Vũ thờ tại chùa Dâu.
Nguồn: Khảo sát thực địa ngày 22/2/2016
2.3.1.3. Tƣợng Pháp Lôi
Cũng như chùa Dâu, tại trung tâm Thượng điện là tượng Phật Pháp Lôi. Tượng
được tạo tác tương tự như tượng Pháp Vân (to lớn, thánh thiện, sơn màu mận chín),
nhưng về đường nét to mập hơn và nụ cười tươi hơn. Hậu đường là nơi có nhiều lớp
tượng về sau được phối thờ như các ngôi chùa khác.
Thượng điện là trung tâm điện Phật, giữa là ban thờ Phật Pháp Điện. Ngài toạ thiền
trên toà sen trong khám gỗ lớn chạm rồng, sơn son thếp vàng, thân cao 1,45m, vai rộng
0,55m, đùi rộng 1,05m. Đài sen cao 0,25m với 3 lớp cánh to mập. Ngài có thân hình nữ
tính, khuôn mặt đầy đặn, thánh thiện với mũi dọc dừa, lông mày lá liễu, đôi mắt nhìn
xuống bao dung, miệng mỉm cười, tay phải giơ lên ngang ngực, ngón tay kết ấn, tay
46
phải để ngửa trên đùi có hạt ngọc “minh châu”; toàn thân được sơn phủ một lớp sơn
màu mận chín, biểu tượng của một bầu trời no đủ mây mưa sấm chớp.
Tượng Pháp Lôi sơn màu gụ bóng (tổng hợp màu đỏ của máu và màu đen của
mây đen tượng trưng cho nguồn sống và sự huyền bí). Ngài có thân hình nữ tính,
khuôn mặt đầy đặn, thánh thiện với mũi dọc dừa, lông mày lá liễu, đôi mắt nhìn xuống
bao dung, miệng mỉm cười đầy thánh thiện trong đó bao quát cả vị Phật, vị thần, người
mẹ bảo hộ, che chở cho các con.
Hình 3.9. Tượng Pháp Lôi tại chùa Tướng.
Nguồn: Khảo sát thực địa ngày 22/2/2016
2.3.1.4. Tƣợng Pháp Điện
Theo tác giả Nguyễn Dũng trong bài viết Hướng về 1000 năm Thăng Long Hà Nội
được đăng trên trang web giacngo.vn đánh giá rằng tượng Phật Pháp Điện là một tác
phẩm kiệt xuất có một không hai của nhân loại: Tượng Pháp Điện (thần sấm sét), trong
47
dân gian được gọi là bà Dàn, cao 1,6m, được đặc tả nổi bật hai đặc điểm: Vừa là Phật,
vừa là Thần. Thần: Bà là pháp Điện, Phật: Bà là hóa thân của đức Quan Âm. Thoáng
nhìn thấy Pháp Điện ngồi trên toà sen với những đường nét mềm mại, tinh khiết, tự
nhiên, thư thái. Nhưng khi thể hiện quyền uy của thần thì nghệ nhân khắc hoạ rất tinh
tế và sắc sảo trên nét mặt và đôi bàn tay. Tượng Pháp Điện được tạc là một giai nhân
34 https://giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=5AD449 (truy cập 1/4/2016)
tuyệt sắc như người thật: mũi cao, mặt nở nét mặt thanh tú, làn mi cong dài, miệng cười hé mở34.
48
Hình 3.10. Tượng Pháp Điện tại chùa Dàn.
Nguồn: khảo sát thực địa ngày 22/2/2016
Nhìn chung, các tượng trong hệ thống Tứ Pháp đều rất cao lớn, tất cả bốn tượng
đều tư thế ngồi thiền cao khoảng 1,5m, thường tạc ở tư thế thân thẳng, giống như tượng
Phật ngồi kiết già trong tư thế hoa sen, tay phải giơ lên, tay trái để trên đùi cầm chuỗi
ngọc. Các pho tượng có tóc xoăn màu đen, nhục khảo nổi cao, tai dài, tọa trên đài sen.
Tuy nhiên Tượng tứ Pháp có gương mặt đẹp với những nét thuần Việt, đức độ. Những
pho tượng tạc từ thế kỷ XVI đầu XVII mặc áo sát người (tượng Pháp Vân, chùa Dâu),
còn muộn hơn thường để mình trần mặc váy (tượng Pháp Vân, chùa Nành). Thường
các tượng Tứ Pháp sơn màu gụ bóng (tổng hợp màu đỏ của máu và màu đen của mây
đen tượng trưng cho nguồn sống và sự huyền bí).
Đặc trưng cơ bản nhất của tín ngưỡng thờ Tứ pháp được thể hiện ở hình thức và
màu sắc của các pho tượng thờ: “Là một tượng Phật, song không có áo cà sa, mà lộ
thân, khiến một số nhà nghiên cứu cho là biểu hiện của sự “bộc lộ” bầu trời mây. Còn
49
màu của tượng Pháp Điện Thường người ta nghĩ tới màu nước hoặc màu da của con
người, thực ra thì đây là một màu đặc biệt hợp bởi đỏ và đen. Có thể dễ chấp nhận màu
đen gắn với nước, còn màu đỏ? Nhiều người nghĩ ngay tới nghĩa âm dương, cho rằng
trong nước có lửa. Nhưng còn một nghĩa khác đã tồn tại trong ý thức người Việt là màu
đỏ được gắn với hạnh phúc, sự phồn thịnh no đủ, sức sống, khỏe mạnh… Phải chăng,
sự hỗn hợp của hai màu đen đỏ đã mang ý nghĩa biểu tượng của việc cầu phồn thực.
Một số nhà dân tộc học nhận định rằng: đó là màu liên quan tới Siva, một tối thượng thần nông nghiệp, trong hệ thần linh cổ đại của người Ấn Độ”35. Một điểm cần lưu ý
nữa, là hầu hết các tượng Tứ pháp không chỉ ngự trên đài sen như các tượng Phật thông
thường mà còn được ngồi trên ngai đặt trong khám, hiện tượng này như càng nhấn
mạnh đến nguồn gốc “thần” của các ngài, hay là biểu hiện cho sự kết hợp giữa Phật
giáo và tín ngưỡng dân gian một cách rõ rệt. Ngoài những nét chung cơ bản này, sự
chuyển hóa,
Biến đổi trong tín ngưỡng thờ Tứ pháp trước hết cũng được thể hiện ở hình thức tạo
tác tượng. Theo nhà mỹ thuật học Trần Lâm Biền thì tượng Tứ Pháp ở vùng Bắc Ninh
cũ (như Dâu, Thái Lạc…) được tạo hình theo phong cách của tượng Phật: “tượng tuân
thủ những nguyên tắc của một pho tượng Phật thông thường, cũng Unisa nổi khối
tượng trưng cho trí tuệ vô biên, vẫn tóc xoắn ốc biểu hiện cho những chữ thánh chứa đầy huyền lực…”36.
Những chùa Tứ Pháp trước kia thường được dân làng và dân trong vùng tổ chức
các lễ cầu đảo mỗi khi hạn hán. Ở Tứ Pháp, tồn tại cả linh khí dân tộc và cả sức mạnh
truyền thống, phù giúp cho xã hội hiện tại và góp phần làm nên bản sắc riêng biệt cho
Phật giáo Việt Nam. Người dân tin rằng, những vùng miền nào rước chân nhang về thờ
Tứ Pháp thì ở đó được mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Với đức Phật Tứ Pháp,
hình ảnh đức Phật Ấn Độ đã mang một nội dung mới, mang nặng yếu tố bản địa, một
đức Phật quyền năng, gần gũi với nhân dân và phò trợ cho dân tộc. Có thể nói, tín 35 Trần Lâm Biền (2000), Một con đường tiếp cận lịch sử, Nxb. VHDT, H, tr. 431. 36 Trần Lâm Biền (2006), “Vài suy nghĩ về di tích nghệ thuật ở Bắc Ninh thời tự chủ”, trong Vùng văn hóa quan họ Bắc Ninh, Viện Văn hóa Thông tin - Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh, H, tr. 21.
50
ngưỡng Tứ Pháp là một trong những chỗ dựa về tâm linh của người Việt qua nhiều thời
đại, và tồn tại cho đến tận ngày naỵ
Ngoài ra qua những kết quả khảo sát tại chùa Pháp Vân (chùa Dâu), chùa Pháp
Vũ (chùa Đậu), chùa Pháp Lôi (chùa Tướng) và chùa Pháp Điện (chùa Dàn) cho thấy
lớp kiến trúc khá độc đáo vào buổi đầu công nguyên. Đó là kiến trúc kiểu tu viện bao
quanh một ngọn tháp ở trung tâm. Hiện nay, tại một số chùa Tứ Pháp vẫn còn các
thành bậc cửa bằng đá chạm rồng và sấm mang đậm phong cách kiến trúc thời Trần.
Một số bộ vì nóc và chạm khắc gỗ với các đề tài rồng, nhạc công, vũ nữ, phỗng, hoa lá,
mây, sóng. . . Nhìn chung, kiến trúc các chùa Tứ Pháp thường là chùa lớn kiểu chùa
trăm gian, nội công ngoại quốc. Đặc biệt, Sư thầy Thích Đàm Tùy – Trụ trì chùa Dâu
cho biết: “Ở chùa Dâu giữa sân chùa trải rộng là cây tháp Hòa Phong. Tháp xây bằng
loại gạch cỡ lớn ngày xưa, được nung thủ công tới độ có màu sẫm già của vại sành.
Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng 17m
nhưng vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá
khắc chữ "Hòa Phong tháp". Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7m. Tầng dưới có 4 cửa
vòm. Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc
năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương cao 1,6 m ở bốn góc. Trước tháp, bên phải có tấm
bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng một con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Tượng này là dấu vết duy nhất còn sót lại từ thời nhà Hán”37.
2.3.2. Nghệ thuật hội họa
Nhìn chung, Những ngôi chùa thờ Tứ Pháp tại Trung tâm Phật giáo Luy Lâu
mang kiến trúc rất nghệ thuật và độc đáo mà không phải các ngôi chùa cổ Bắc Bộ cũng
có được. Nghệ thuật hội họa ở những ngôi chùa này không phát huy bằng nghệ thuật
điêu khắc và nghệ thuật thư pháp, tuy nhiên, nhờ có hội họa mà những sản phẩm của
các bức tượng mới sinh động. Nhờ hội họa mà các màu sắc của các bức tượng được hài
hòa theo âm dương ngũ hành, đường nét trang trí trên mão, trang phục của các bà mới
37 Thích Đàm Tùy – Sư trụ trì chùa Dâu cung cấp ngày 22/2/2016
tạo nên những đặc điểm văn hóa độc đáo riêng.
51
2.3.3. Nghệ thuật thƣ pháp
Tại chùa Pháp Vân – Chùa Dâu, trước mỗi ban thờ đều có những câu hoành phi
được treo trên cao và ở giữa mỗi ban, các câu đối được treo các đối xứng hai bên của
các cột trụ. Tất cả những câu hoành phi và các câu đối đều được điêu khác bằng chữ
Hán cổ.
Hình 3.11. Những câu hoành phi và các câu đối được treo trong chánh điện chùa Dâu.
Nguồn: Khảo sát thực địa ngày 22/2/2016
Hoành phi:
1. 母議天下
Âm Hán: Mẫu nghi thiên hạ
Âm Việt: Mẹ muôn dân
Câu hoành phi này được treo ở gian chính giữa, trung tâm điện thờ Phật Pháp Vân. Mẹ
là Phật Pháp Vân. Ngài vừa là Phật trong nhà chùa, vừa là mẹ của tất cả nhân dân.
2. 雨露霑濡
Âm Hán: Vũ lộ triêm nhu
Âm Việt: Mưa móc thấm nhuần
52
Câu này được treo ở chính giữa chánh điện, song song với câu hoành phi “Mẫu nghi
thiên hạ”, nằm phía ngoài. Mong muốn của người dân là thờ Phật để Phật gia hộ cho
thiên hạ được ấm no vì mưa hòa gió thuận.
3. 尼眾安和.
Âm Hán: Ny chúng an hòa.
Âm Việt: Các ni cô sống an hòa.
Câu hoành Phi này được trang trí trên cửa vào thượng điện ở chùa Dâu. Tinh thần an hòa là các sư thầy phải sống lục hòa38, Lục hoà là 6 nguyên tắc sống hoà hợp,
đoàn kết trong tình thương đầy thánh thiện của các sư thầy sống trong chùa. Nơi
nào sống an hòa thì nơi ấy sẽ có một sức mạnh nhờ năng lượng của đoàn kết và các
sư thầy mới an tâm tu học tốt.
4. 奉事祖堂
Âm Hán: Phụng sự tổ đường.
Âm Việt: Nhà thờ tổ.
Câu này được treo ở trên, phía trước ban thờ tổ sư Khâu Đà La.
Câu đối
Cũng tại chùa Dâu, các câu đối được treo vào các cột trụ hoặc trang trí hai bên
của các ban thờ trong chánh điện. Tất cả các câu đối này được ghi bằng tiếng Hán
cổ.
1. 仙靈顯化莊嚴百萬人天咸稽首;
佛日常輝朗耀三千世界共皈依.
Âm Hán:
Tiên linh hiển hóa trang nghiêm, bách vạn nhân thiên hàm khể thủ;
Phật nhật thường huy lãng diệu, tam thiên thế giới cộng quy y.
Âm Việt:
Tiên linh thiêng hiển hóa trang nghiêm, trăm vạn người thiên hạ đều cúi lạy;
38 Hoà đồng trên nguyên tắc: Kỷ luật, Hành động, ngôn luận, quyền lợi, ý chí, nhận thức
Phật luôn luôn trong sáng diệu kỳ, ba ngàn năm thế giới đều theo Phật.
53
Đầu tiên phải giữa trang nghiêm và tỏ ra thái độ thành kính, có như thế mới sinh ra
phước đức và mọi người trong thiên ha mới kính phục. Đức Phật có được các yếu tố đó
nên tất cả mọi người trong thế giới đều quy hướng, nương tựa Đức Phật.
2. 殿宇松雲辉暎荘嚴周法界
香烟結彩甘露臨門普濟周
Âm Hán: Điện vũ tùng vân, huy ánh trang nghiêm, chu Pháp giới;
Hương yên kết thái, cam lộ lâm môn, phổ tế chu.
Âm Việt: Điện cao sánh tùng mây, ánh sáng trang nghiêm tràn Pháp giới; Khói hương cuộn sắc màu, cam lộ (39) tưới khắp cả Thiền môn.
Câu đối này được ghi 2 cột trụ trước bàn thờ hậu Tam bảo. Ánh sáng tôn nghiêm thấm
nhuần Phật Pháp ví như bay lên cao đến tận mây trời và khi mưa xuống thì tưới những
giọt sương ngọt, mát mẻ, an lạc, hạnh phúc cho cả khuôn viên trong chùa.
3. 向禪門啼聰眞徑使便眾心安已悅
願世界早成万國咸霑佛福寿而昌
Âm Hán: Hướng thiền môn đề thông chân kinh sử, tiện chúng tâm an dĩ duyệt;
Nguyện thế giới tảo thành vạn quốc, hàm triêm Phật phúc thọ nhi xương.
Âm Việt: Hướng Thiền môn cầu thấu chân kinh sử, để muôn lòng yên vui sung sướng.
Nguyện cho thế giới sớm thành vạn nước, thấm nhuần phúc Phật thọ thịnh hưng.
Câu đối này được treo ở phía bên trong chánh điện chùa Dâu. Về chùa để học kinh
Phật, và khi hiểu được rồi thì thực hành lời Phật dạy, lúc đó sẽ được an lạc, hạnh phúc.
Nguyện cho thế giới người người ai cũng biết được giáo lý Phật dạy để rồi cũng được
an lạc, hạnh phúc.
4. 儼儼金容南國聖
巍巍寶相母中王
Âm Hán: Nghiễm nghiễm kim dung Nam quốc thánh;
Nguy nguy bảo tướng Mẫu trung Vương.
Âm Việt: Tướng của Mẫu cao sang vòi vọi; 39 Cam lộ: sương ngọt – điềm tốt.
54
Thánh nước Nam dáng mạo uy nghiêm.
Câu đối này tán thán dung tướng của Mẫu, Mẫu là bà Pháp Vân, bà có tướng cao sang,
uy nghiêm như một vị Phật, Thánh luôn bảo hộ che chở nước Nam.
5. 四聖公同嚴法像
萬民歡樂仰慈顏
Âm Hán: Tứ Thánh công đồng nghiêm pháp tướng;
Vạn dân hoan lạc ngưỡng từ nhan.
Âm Việt: Bốn Thánh công đồng nghiêm tướng pháp;
Vạn dân hoan lạc ngắm nhan hiền.
Dung nhan của bốn bà: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện đều có tướng Pháp
rất trang nghiêm, khi tất cả mọi người nhìn vào, chiêm bái tôn tượng thì cảm thấy rất
an lạc, hạnh phúc.
6. 祖堂修造增好美
古跡保存合新莊
Âm Hán: Tổ đường tu tạo tăng hảo mỹ;
Cổ tích bảo tồn hợp tân trang.
Âm Việt: Tu tạo Tổ đường tăng vẻ đẹp;
Bảo tồn di tích hợp thời trang.
Tu tạo chùa là công đức thật vô cùng lớn, vừa là làm đẹp cho cảnh quan ngôi chùa, biết
thừa kế và phát huy những giá trị, ý nghĩa và phù hợp di tích lịch sử.
7. 江山依舊眞古鏡
景物有扶進文明.
Âm Hán: Giang sơn y cựu chân cổ kính;
Cảnh vật hữu phù tiến văn minh.
Âm Việt: Non sông như cũ trông cổ kính;
Cảnh vật tô bồi dáng văn minh.
Phải bảo vệ non sông tổ quốc, giữ gìn cái truyền thống tốt đẹp của ông cha. Biết tiếp
thu những nền văn minh mới để đưa đất nước ta càng ngày càng giàu đẹp hơn.
55
8. 百万慈心恶取变
光明寳慧現珠員
Âm Hán: Bách vạn từ tâm ác thủ biến;
Quang minh bảo tuệ hiện châu viên.
Âm Việt: Muôn vạn tâm hiền lùi xa ác;
Quang minh trong sáng hiện viên toàn.
Câu đối này gửi thông điệp đến người đọc nếu ai để tâm hiền lành, suy nghĩ những
điều thiện như kinh Đức Phật dạy: “lánh xa các điều ác, hãy làm các điều lành, giữ tâm
ý trong sạch, là lời chư Phật dạy” thì người ấy sẽ không gặp các điều ác, ánh sáng thiện
Pháp sẽ luôn hiển hiện trong cuộc sống.
9. 三元庇佑恩光大
萬善同歸福澤長
Âm Hán: Tam nguyên tý hựu ân quang đại;
Vạn thiện đồng quy phúc trạch trường. Âm Việt: Ba nguyên40 trợ giúp, ơn càng sáng;
Vạn thiện cùng về, phúc trạch lâu.
Trời, đất, con người trợ giúp thì phải biết nhớ ơn và đền ơn, khi biết ơn và đền ơn càng
sâu sắc thì sẽ có nhiều phước thiện, phúc đức giữ được bền lâu.
10. 佛號彌陀法界藏身隨處現
國名極樂寂光真景箇中玄.
Âm Hán: Phật hiệu Di Đà pháp giới tàng thân tùy xứ hiện;
Quốc danh Cực Lạc tịch quang chân cảnh cá trung huyền.
Âm Việt: Phật hiệu Di Đà pháp giới, ẩn thân tùy chốn hiện;
Quốc danh Cực Lạc, quang cảnh thật yên tĩnh u huyền.
40 Ba nguyên: Trời, đất, con người
11. 玉質現桃枝噴水九龍沐浴
56
金身來雪嶺含花眾鳥迎歡
Âm Hán: Ngọc chất hiện đào chi phún thủy, cửu long mộc dục;
Toàn thân lai tuyết lĩnh hàm hoa, chúng điểu nghênh hoan.
Âm Việt: Mình ngọc hiện cành đào phun nước, chín rồng cùng tắm gội;
Thân vàng mang núi tuyết như hoa, bầy chim chóc vui đùa.
Câu đối này nói về sự tán thán lúc Thái Tử Tất Đạt Đa (sau này xuất gia thành Phật
hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni) đản sanh, tương tự như câu: “Tắm thân có nước chín rồng, Đỡ gót có sen bảy đóa”41. Ngày đức Phật đản sinh tất cả chim chóc vui đùa, mọi
người đều hoan hỷ.
Tại chùa Pháp Điện, những câu đối treo ở trước những cây cột của chánh điện
không còn viết chứ Hán mà thay vào đó là Việt hóa, Phật tử nhìn vào họ có thể đọc và
hiểu ngay
Ở trước chánh điện chùa Pháp Điện có những câu đối như sau:
1. Cảnh Phật trang nghiêm, mõ sớm gõ tan hồn mộng ảo
Cửa chùa thanh tịnh, chuông chùa ngân vọng tiếng từ bi.
2. Chuông Sớm Trống Chiều Nhắc Nhở Khách Lợi Danh Chìm Sông Ái
Lời kinh hiệu Phật gọi về người say mộng đắm biển mê.
2.3.4. Nghệ thuật may thêu
Mỗi dịp, cứ đến ngày lễ hội hằng năm, hoặc tết nguyên đán cổ truyền các nhà sư
và các Phật tử trong các chùa Tứ Pháp thường treo cờ lễ hội, cờ Phướn, còn gọi là cờ
xí, treo tràn, phan, lọng, và những câu đối bằng rèm, bằng vải. Mỗi khi rước lễ hoặc
cung nghinh Chư tôn đức tăng, ni, nhà chùa thường cho rước lọng đi trước để tô thêm
buổi lễ long trọng và trang nghiêm.
Theo Từ điển Phật học Huệ Quang, Phan(42) (Phạn: Pataka/Ketu) là từ gọi
chung các loại cờ xí. Phật giáo dùng phan để hiển bày uy đức hàng ma của chư Phật,
Bồ tát.
41 Thích Nhật Từ (biên soạn) 2012, Nghi thức Phật Đản”, Nxb Hồng Đức, Tr. 18 42 Theo Từ điển Phật học Huệ Quang, tập 6, Thích Minh Cảnh chủ biên.
57
Phan ở chùa Pháp Vân cũng như các chùa khác trong Phật giáo đều giống nhau,
đầu phan hình tam giác, thân phan hình chữ nhật dài, phần dưới tua gọi là chân phan.
Có thể dùng nhiều thứ vật liệu để tạo phan như gấm, lụa, sa-tanh, đồng dát mỏng, ngọc
báu, gỗ... Con về màu sắc, có loại phan chỉ có một màu như trắng, đỏ, vàng, xanh, vàng
nhạt, hồng. Mật giáo thường dùng phan 5 màu: xanh, vàng, đỏ, trắng, đen để phối hợp
với ngũ hành và ngũ tạng trong thân thể. Ngoài ra còn có phan 8 màu, phan 9 màu,
phan tạp sắc... ở giữa phan của các ngôi chùa Tứ Pháp thường có dòng chữ “Nam mô
thường trụ thập phương Phật” viết bằng tiếng Hán, chữ màu vàng, nền đỏ.
Trang phục của các bà cũng cần quan tâm, các bà thường được trang phục bởi
hai màu: màu vàng và màu đỏ, có điểm vài chút màu xanh, các bà đều được đội mão,
và các mão gần giống nhau, mão có nền màu đỏ nhung và được trang trí hoa văn bởi
rồng, phụng tạo thêm vẽ quyền lực bởi con người luôn chịu khuất phục trước thiên
nhiên, và các bà Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện đại diện cho Mây, mưa sấm,
chớp.
58
Hình 3.12. Những lá phan được treo ở chùa Dàn.
Nguồn: Khảo sát thực địa ngày 22/2/2016
2.4. Giá trị văn hóa qua nghệ thuật kiến trúc ở những ngôi chùa cổ thờ Tứ
Pháp
2.4.1. Giá trị nghệ thuật
Đến với chùa Dâu và những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật giáo
Luy Lâu, chúng ta không những được chiêm ngưỡng những kiến trúc cổ xưa được
chạm trổ trên đá, trên gạch đất nung, có mái ngói rêu phong, những hoa văn, kiến trúc
nghệ thuật điêu khắc rồng có niên đại vào thời Lý Trần. Con rồng không chỉ là biểu
tượng văn hóa quý trong di sản văn hóa vật thể mà còn hiện diện rất phong phú trong
di sản văn hóa phi vật thể. Những giá trị văn hóa nghệ thuật kiến trúc này nó mang tính
nhân văn và làm cho con cháu sau này nhớ về cội nguồn vì người con Việt Nam là
dòng giống của “Con rồng cháu tiên”.
59
Cho đến nay, kết quả của việc khai quật khảo cổ học nhằm cung cấp tư liệu cho
công tác nghiên cứu về vùng Dâu - một trung tâm Việt cổ trước khi bị nhà Hán xâm
lược, vẫn còn nhiều hạn chế. Ngoài phát hiện 02 ngôi mộ cổ, còn hài cốt, kèm theo 02
bộ hiện vật bằng đồng (rìu, giáo, dao găm, tấm che ngực, trống đồng minh khí...) ở
thôn Đại Trạch (xã Đình Tổ), có niên đại khoảng hơn hai nghìn năm cách ngày nay;
cùng đó, là các kết quả đào thám sát khảo cổ, cũng tại khu vực Đại Trạch, “cho biết
lịch sử cư trú của vùng này còn được đẩy lùi tới giữa thiên niên kỷ II trước Công nguyên”43, thì những cuộc điều tra và khai quật khảo cổ trong nhiều năm qua, dù đã
tìm thấy nhiều hiện vật, nhưng niên đại của những hiện vật ấy, sớm nhất cũng chỉ là vào những thế kỷ đầu Công nguyên44. Dẫu vậy, đó vẫn là những bằng chứng xác thực
không chỉ về sự có mặt, mà còn đã ở vào trình độ phát triển khá cao, của cộng đồng cư
dân Việt cổ, tại vùng này, từ những thế kỷ trước Công nguyên.
Ngoài ra, tín ngưỡng Phật giáo ấn Độ đan xen trong tín ngưỡng dân gian ở Việt
Nam. Từ một vị Phật tổ Thích Ca Mâu Ni ở Ấn Độ sang Việt Nam đã biến các vị thần:
Mây, mưa, sấm, chớp thành các vị Phật như: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện.
Các vị Phật này luôn được người dân tin tưởng sự gia hộ để có mùa màng bội thu, cơm
no áo ấm, mưa thuận, gió hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng thịnh vượng.
Các ngôi chùa thờ Tứ Pháp ở huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh không chỉ có ý
nghĩa quan trọng về chiều dài lịch sử, văn hóa, nguồn gốc Phật giáo Việt Nam, mà
song hành với nó là chiều sâu văn hóa Việt ẩn tàng trong từng mái chùa rêu phong,
trong mỗi pho tượng cổ và trong lễ hội dân gian... Bảo tồn, phát huy những giá trị của
hệ thống chùa thờ Tứ Pháp chính là gìn giữ phát huy giá trị văn hóa, tín ngưỡng đặc
43 Phạm Minh Huyền “Luy Lâu nhìn về một truyền thống được thể hiện qua chứng tích khảo cổ học”, Khu di tích Lăng Kinh Dương Vương và văn hóa Luy Lâu, UBND huyện Thuận Thành - Sở VHTT.Bắc Ninh xuất bản, 2002, tr.191 44 Nguyễn Hữu Toàn, “Thuận Thành trong vùng văn hóa cổ Bắc Ninh”, Văn hóa Nghệ thuật, số 9- 1997, tr. 38 - 41.
trưng vùng Kinh Bắc.
60
2.4.2. Giá trị thẩm mỹ
Từ vị Phật Thích Ca Mâu Ni ở Ấn Độ, khi du nhập vào Việt Nam thì các vị thần
bảo hộ thời tiết trở thành các vị Phật. Phật Việt Nam mang bản sắc dân tộc riêng, có
khuôn mặt nữ tính, phúc hậu của người phụ nữ Việt đảm đang. Khi đứng trước các tôn
tượng Tứ Pháp để chiêm bái, lễ lạy, cầu nguyện thì làm cho chúng ta có một cảm giác
rất gần gũi, tôn kính như người con thỏ thẻ tâm sự với mẹ và người mẹ lúc nào cũng lo
cho các con.
Cách đặt tên ngôi bảo tháp Hòa Phong tại chùa Dâu cũng nhằm ý nghĩa mong
muốn mưa hòa gió thuận. Theo các tác giả Nguyễn Hữu-Nguyễn Duy Hợp trong cuốn
sách Chùa Dâu lịch sử và truyền thuyết thì tên tháp Hòa Phong là rút gọn từ chữ hòa
cốc phong đăng, nghĩa là thóc lúa được mùa. Chữ Hán phong là chữ có nghĩa thịnh,
lớn, dầy chứ không phải chữ có nghĩa là gió. Tên tháp Hòa Phong là thể hiện ước
muốn, khát vọng ngàn đời trong việc thu hoạch vụ mùa bội thu của cư dân nông nghiệp
2.4.3. Giá trị tâm linh
Đặc trưng cơ bản nhất của tín ngưỡng thờ Tứ Pháp được thể hiện ở hình thức và
màu sắc của các pho tượng thờ: “Là một tượng Phật, song không có áo cà sa, mà lộ
thân, khiến một số nhà nghiên cứu cho là biểu hiện của sự “bộc lộ” bầu trời mây. Còn
màu của tượng? Thường người ta nghĩ tới màu của nước, thực ra thì đây là một màu
đặc biệt hợp bởi đỏ và đen. Có thể dễ chấp nhận màu đen gắn với nước, còn màu đỏ?
Nhiều người nghĩ ngay tới nghĩa âm dương, cho rằng trong nước có lửa. Nhưng còn
một nghĩa khác đã tồn tại trong ý thức người Việt là màu đỏ được gắn với hạnh phúc,
sự phồn thịnh no đủ, sức sống, khỏe mạnh. Phải chăng, sự hỗn hợp của hai màu đen đỏ
đã mang ý nghĩa biểu tượng của việc cầu phồn thực. Một nhà dân tộc học còn nói với
chúng tôi rằng: đó là màu liên quan tới Siva, một tối thượng thần nông nghiệp, trong hệ thần linh cổ đại của người Ấn Độ”45. Ý nghĩa âm dương hài hòa của màu sắc trong
các pho tượng Phật Tứ Pháp làm cho người ta có niềm tin các vị sẽ làm cho khí trời ôn
45 Trần Lâm Biền (2000), Một con đường tiếp cận lịch sử, Nxb. VHTT, H, tr. 431.
hòa, mưa hòa gió thuận, cây cối tốt tươi, nhân dân ấm no hạnh phúc.
61
Các di tích ở vùng Dâu trở nên có giá trị đặc biệt, vì đó là nơi đang lưu giữ
những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể, phản ánh đời sống văn hóa, tinh thần
phong phú, đa dạng của cộng đồng cư dân Việt cổ, là chủ nhân của vùng đất này đương
thời. Đáng chú ý nhất là các di tích/các ngôi chùa thuộc trung tâm Phật giáo Dâu (chùa
Dâu, chùa Đậu, chùa Tướng, chùa Dàn, chùa Tổ, chùa Huệ Trạch), các hiện vật (hệ
thống tượng, đồ thờ cúng...) và các sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng diễn ra tại những di
tích này đã giữ vai trò bảo lưu (thông qua “cái vỏ” vật chất và “cái vỏ” Phật giáo) lớp
văn hoá đầu tiên của văn hoá vùng Dâu - đời sống văn hoá, tinh thần của những cư dân
nông nghiệp Việt cổ - với các tục thờ cây (cây Dâu - cây Dung thụ), thờ đá - gắn với
tín ngưỡng phồn thực (sau thành “Phật Thạch Quang”), tôn thờ các hiện tượng thiên
nhiên thường xuyên tác động/chi phối hoạt động sản xuất nông nghiệp (các hiện tượng
mây, mưa, sấm, chớp - sau thành Phật Tứ Pháp)... Những cứ liệu đó cũng gợi nghĩ tới
(một phần) hoạt động sản xuất của cộng đồng cư dân ở vùng Dâu đương thời: chủ yếu
là sản xuất nông nghiệp (với việc trồng lúa nước và trồng dâu, nuôi tằm), có kết hợp
với việc đánh bắt cá (trên sông Dâu). Mặt khác, từ việc khởi đầu cư dân ở đây tôn thờ
các hiện tượng thiên nhiên cụ thể, rồi được “nhân hoá” thành các nữ thần (các bà: Dâu,
Đậu, Tướng, Dàn) trước khi được “Phật hoá” thành Tứ Pháp, có thể xác định vùng
Dâu, từ những thế kỷ trước Công nguyên, đã trở thành một trung tâm giao lưu, buôn
bán phát triển - Có một thực tế khá phổ biến là, ở những trung tâm thương nghiệp phát
triển thời cổ (các đô thị cổ), về mặt đời sống tín ngưỡng, thường xuất hiện/gắn với việc
thờ các thần mẫu - nữ thần.
2.4.4. Giá trị giáo dục
Cách bài trí các tôn tượng trong chùa cũng là một giá trị nghệ thuật mang tính
giáo dục. Mỗi chùa trong hệ thống Tứ Pháp đều thờ các vị Phật tương ứng với các
chùa. Phật được an vị nơi trung tâm ngôi chánh điện, là nơi trang trọng nhất, các vị Bồ
tát, La Hán, các vị thần, các vị tổ sư Thiền qua các thời kỳ thờ xung quanh … đây là
mô hình của hộ gia đình, cha mẹ là người giữ vị trí vai trò quan trọng nên được ngồi ở
bàn trên, chính giữa, các con trong gia đình cũng tùy theo ngôi vị, ngồi theo thứ lớp với
62
tinh thần kính trên nhường dưới. Và đây cũng là mô hình thu nhỏ của làng xã, vị
trưởng làng ở giữa, dân làng sống bao bọc xung quanh, các vị thần hoàng thổ địa canh
giữ làng và bảo hộ cho người dân trong tinh thần đoàn kết để tạo nên sức mạnh canh
giữ nơi chôn nhau cắt rốn, xa hơn nữa là bảo vệ quê hương đất nước.
2.5. Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa kiến trúc của những ngôi chùa cổ thờ
Tứ Pháp ở Luy Lâu, Bắc Ninh
2.5.1. Giải phảp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa kiến trúc của những
ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp ở Luy Lâu, Bắc Ninh
Những giá trị đặc biệt của các di tích tại bốn ngôi chùa thờ Tứ Pháp: Chùa Dâu
thờ Pháp Vân, chùa Đậu thờ Pháp Vũ, chùa Tướng thờ Pháp Lôi, chùa Dàn và Pháp
Điện tại trung Tâm Phật giáo Luy Lâu đã và đang không chỉ hấp dẫn các nhà nghiên
cứu lịch sử, văn hoá, mà còn chứa đựng một tiềm năng du lịch văn hoá lớn.
Trước thực trạng nhiều di tích ở vùng Luy Lâu, nói chung cũng như bốn ngôi
chùa thờ Tứ Pháp nói trên trong nhiều năm qua, còn ít được quan tâm gìn giữ, tôn tạo,
thậm chí bị huỷ hoại và xuống cấp nghiêm trọng. Những người dân sống gần những
ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh vẫn chưa có ý thức
việc bảo tồn, gìn giữ những di tích, thậm chí họ còn phá hoại, đánh cắp những tài sản
quý giá cổ xưa ở trong chùa, một số người lấn đất chùa, phóng uế làm mất vệ sinh và ô
nhiễm môi trường. . .
Mặc khác, các ngôi chùa thờ Tứ Pháp tại vùng đất Luy Lâu này vẫn chưa được
quan tâm nhiều bởi các ban ngành có chức năng. Các chùa đã xuống cấp trầm trọng,
chỉ có Chùa Dâu vẫn còn được bảo tồn những kiến trúc cổ xưa, nhưng các chùa còn lại
vẫn còn chưa được quan tâm nhiều.
Qua những thực trạng trên, Tác giả xin được nêu ra những giải pháp để bảo tồn
và phát huy giá trị văn hóa của những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp ở Luy Lâu, Thuận
Thành, Bắc Ninh như sau:
Các ban ngành, chức năng của sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh
tìm hiểu về tầm quan trọng một cách sâu sắc hơn để quảng bá trên những thông tin
truyền thông của đại chúng về những giá trị văn hóa thông qua lễ hội, kiến trúc ở
63
những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại Trung tâm Phật giáo Luy Lâu – Bắc Ninh để mọi
người dân trong vùng cũng như ngoài khu vực họ biết tầm quan trọng, giá trị để cùng
nhau bảo tồn, gìn giữ những di tích lịch sử, không phá hoại, đánh cắp những vật cổ
trong chùa, biết giữ gìn vệ sinh, tạo mỹ quan trong khuôn viên chùa được xanh, sạch
đẹp. Có như thế, khách thập phương cũng như mọi người về chùa cảm thấy sự bình an,
an lạc, tâm hồn thanh tịnh, con người yêu thương, đoàn kết lẫn nhau.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh kết hợp với các sư Thầy và Ban
quản tự trong chùa đưa ra kế hoạch, chương trình chi tiết, hoạt động lễ hội, tổ chức hội
thảo, tu tạo lại những di tích văn hóa cổ xưa của các ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp. Có
những giải pháp như vậy mới gìn giữ bảo tồn những lễ hội và kiến trúc tại những ngôi
chùa cổ thờ Tứ Pháp tại Trung tâm Phật giáo Luy Lâu – Bắc Ninh.
3.5.2. Một số kiến nghị
Thông qua tập luận văn này, học viên có những kiến nghị đối với Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh cũng như các sư Thầy và Ban quản tự trong chùa
như sau:
Thứ 1. Tích cực tuyên truyền quảng bá về giá trị của di tích trên các phương tiện
thông tin đại chúng. Hoàn thiện hệ thống biển báo đường chỉ dẫn đến di tích. Dịch toàn
bộ tài liệu chữ Hán sang tiếng Việt trong di tích để nhân dân địa phương và khách tham
quan hiểu biết sâu sắc về các giá trị của di tích. Đặc biệt quan tâm đến việc tuyển dụng
và đào tạo một cách bài bản đội ngũ thuyết minh viên ở các di tích để hướng dẫn mọi
đối tượng khách tham quan sao cho thật hấp dẫn, để thu hút du khách trong nước và
nước ngoài.
Thứ 2. Ban trị sự Phật giáo tỉnh Bắc Ninh tuyển chọn những vị Tăng, ni có đức,
có tài về trụ trì tại những ngôi chùa cổ này để hướng dẫn tu học, thuyết kinh giảng
pháp cho Phật tử, và người dân trong vùng.
Thứ 3. Trong việc bảo vệ di tích cần có kế hoạch bảo vệ toàn bộ các di sản văn
hoá vật thể của di tích. Có các biện pháp bảo vệ chống trộm cắp, mất mát thất lạc tài
liệu, cổ vật, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng trong việc bảo vệ di tích.
64
Thứ 4. Lập dự án quy hoạch tổng thể cho Chùa Dâu và xây dựng, trùng tu
những công trình kiến trúc cổ xưa cho ba ngôi chùa còn lại: Chùa Đậu, Chùa Tướng,
chùa Dàn trong hệ thống thờ Tứ Pháp trong huyện Thuận Thành.
Tiểu kết.
Qua khảo sát thực địa và tìm hiểu từ Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc
Ninh, trong hệ thống các chùa thờ Tứ Pháp tại huyện Thuận Thành, mới có hai chùa
được xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa cấp quốc gia là chùa Dâu (xếp hạng năm 1962),
và tại chùa Dâu, vào ngày 09/12/2013, nguyên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký
quyết định công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt; Ngày 31 tháng 1 năm 1992, quyết
định số 138 của Bộ Văn hóa – Thông tin và Thể thao ký công nhận Chùa Xuân Quan (còn gọi là chùa Tướng) - xã Trí Quả - huyện Thuận Thành - Hà Bắc46 là Di tích lịch
sử và nghệ thuật. Suốt nhiều năm qua, các di tích về những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp
tại Trung Tâm Phật giáo Luy Lâu – Bắc Ninh còn lại vẫn không được quan tâm. Chùa
Đậu bị phá hoàn toàn vào thời chiến tranh, tuy nhiên sau này mới khôi phục lại ngôi
chùa, nhưng không phải trên nền cũ, chính vì vậy tượng Phật Pháp Vũ hiện nay vẫn
còn thờ tại chùa Dâu. Chùa Dàn có ngôi chánh điện khá khiêm tốn về diện tích và
chiều cao, các công trình cũng đang xuống cấp và cũng phải cần tu bổ, bảo tồn, phát
huy những giá trị kiến trúc có giá trị. Tuy nhiên, khi người viết đề cập việc bảo tồn và
xây dựng lại ngôi chùa với tầm vóc như tuổi thọ của lịch sử ngôi chùa thì vị trụ trì chùa
đưa ra những lý do: vì mới về quản lý nên chưa có nguồn kinh phí, chưa được các ban
ngành quan tâm ủng hộ, vì chúng tăng trú xứ trong ngôi chùa ít nên các hoạt động vẫn
chưa có nhiều để thu hút Phật tử về sinh hoạt tu học.
Thông qua quá trình tiếp cận các nguồn tài liệu thứ cấp, tiến hành khảo sát thực
địa và thu thập các nguồn tài liệu sơ cấp, trong nội dung chương 3, đề tài đã khái quát
nghệ thuật kiến trúc, phân bố không gia thờ cúng, bài trí tượng thờ trong chùa, những
nghệ thuật: Trang trí, điêu khắc, thư pháp, may thêu, đồng thời cũng nêu lên giá trị văn 46 Tỉnh Hà Bắc, nay là tỉnh Bắc Ninh
65
hóa qua nghệ thuật kiến trúc và những cái vẫn chưa được quan tâm của các cấp lãnh
đạo, các ban ngành nhà nước cho những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật
giáo Luy Lâu – Bắc Ninh. Đặc biệt, đề tài cũng đưa ra những giải pháp, kiến nghị để
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tại đậy.
66
CHƢƠNG 3
LỄ HỘI Ở NHỮNG NGÔI CHÙA CỔ THỜ TỨ PHÁP
TẠI TRUNG TÂM PHẬT GIÁO LUY LÂU – BẮC NINH
3.1. Lễ hội rƣớc Tƣợng.
Hội chùa Dâu là lễ hội được diễn ra với quy mô rộng lớn của ba xã thuộc vùng
Dâu – Luy Lâu (Thuận Thành) là: Xã Thanh Khương, xã Trí Quả, xã Hà Mãn với 5
ngôi chùa lớn thờ Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện và chùa Tổ thờ bà Man
Nương là mẹ của Tứ Pháp.
Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Tháng Tư ngày Tám thì về hội Dâu
Hội Dâu được diễn ra lễ hội chính thức vào ngày mồng 8 tháng tư, là hội hàng
tổng. Dự hội Dâu không chỉ là hành hương về đất Phật, mà người ta gặp ở đây những
sinh hoạt văn hoá của cư dân nông nghiệp. Năm ngôi chùa thờ năm mẹ con bà Man
Nương quây quần trong năm làng. Hội tưng bừng và mang nhiều ý nghĩa là nhờ các
đám rước: rước chào, rước đón, rước đưa. Người rước kiệu là trai, gái tuyển chọn trong
12 làng (cả tổng), mỗi làng góp từ 20 đến 50 người:
Bà Man Nương (Phật mẫu) trụ ở Chùa Tổ (Mẫn Xá).
Bà Dâu (Pháp Vân - con cả) ở chùa Dâu còn gọi là chùa Thiền định Diên ứng,
Thanh Khương.
Bà Đậu (Pháp Vũ - con thứ hai) ở chùa Đậu, ngày nay gọi là chùa Thành Đạo
(làng Hành Đạo).
Bà Tướng (Pháp Lôi - con thứ ba) ở chùa Tướng, ngày nay gọi là chùa Phú
Tương (Thanh Tương).
Bà Dàn (Pháp Điện - con út) ở chùa Dàn, ngày nay còn gọi là chùa Phương
Quan.
67
Bảng 2.1. Chương trình lễ hằng năm tại những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp – Bắc Ninh.
STT Thời gian Sự kiện lễ Địa điểm
1 Sáng mùng Lễ phong áo, mũ cho Phật Tất cả các
5 tháng 4 ngôi chùa
thờ Tứ Chiều mùng Lễ “Hạ tòa” tức lễ rước Phật ra ngự ở tòa ngoài
Pháp 5 tháng 4 (Thiêu hương)
2 Sáng mùng Các làng thờ Tứ Pháp rước “Phật mẹ, Phật con” Tất cả các
6 tháng 4 (mỗi Phật Tứ Pháp lại có một pho tượng nhỏ được ngôi chùa
tạc giống hệt để tham gia rước hội, có làng gọi là thờ Tứ
Phật con, có làng gọi là đức Thánh Tải) về đình Pháp
làng để thờ phụng một đêm (bởi theo Sắc phong
các triều vua ban các ngài vừa là Thần vừa là Phật)
Phật Pháp Điện được rước về chùa Văn Quan (làng
Dàn Cối).
3 Sáng mùng Các làng thờ Pháp Lôi và Pháp Điện tổ chức rước Đình làng
7 tháng 4 “Phật Mẹ, Phật con” ra cầu Phật Ngự và ở đình
làng một đêm.
4 Mùng 8 Tượng Sĩ Vương (Sĩ Nhiếp) và “Bà Chúa” được Chùa Dâu
tháng 4 rước ra Chùa Dâu để khai hội vì truyền rằng là
người có công tạc tượng Tứ Pháp. Sau đấy, các
làng thờ Tứ Pháp rước đến Chùa Dâu
Chiều 8 Tượng Tứ Pháp được các làng rước đến chùa Tổ Chùa Tổ47
tháng 4 để bái Phật Mẫu Man Nương. Sau khi làm lễ bái (nơi thờ
Tổ, kiệu Tứ Pháp lại được rước trở lại Chùa Dâu Phật Mẫu
và ngự ở đó một đêm Mang
47 Còn gọi là chùa Mãn Xá, xã Hà Mãn, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
Nương)
68
5 Sáng ngày Dân làng lại tổ chức rước Tứ Pháp đến bái Phật Chùa Tổ
mùng 9 Mẫu Man Nương một lần nữa, rồi lại rước trở lại
tháng 4 Tam quan Chùa Dâu
6 Sáng ngày Các làng thờ Tứ Pháp làm lễ an vị rước tượng Phật Tất cả các
mùng 10 vào thượng cung của mỗi chùa và kết thúc lễ hội chùa thờ
Tứ Pháp tháng 4
Nguồn: Nguyễn Hữu (2014), Chùa Dâu lịch sử và truyền thuyết, Nxb. Thanh Niên.
Hàng năm, hội Tứ Pháp được tổ chức vào ngày mồng 8 tháng 4 (Âm lịch). Hội xưa
có 12 làng (xã) thuộc tổng Dâu (Khương Tự) cùng phối hợp tổ chức, 12 làng này thuộc
3 xã: Thanh Khương, Trí Quả và Hà Mãn. Để tổ chức hội, trước đó Chánh tổng, quan
viên, chức sắc, hương lão đã phải họp bàn tại đền Lũng Khê (trong thành Luy Lâu) để
phân công nhiệm vụ cho các làng, riêng làng Văn Quan (Dàn Cối) được phân công làm
gậy “Bạch Trượng”, làng Trà Lâm làm “Hồng Côn” để múa dẹp đường trong lễ rước
Phật Tứ Pháp.
Chính hội diễn ra trong hai ngày mồng 8 và mồng 9 (tháng 4), nhưng từ sáng
ngày mồng 7, nhân dân các làng đã kéo đến các chùa tiến hành việc chuẩn bị. Chiều
mồng 7, các tượng Tứ Pháp được hạ xuống kiệu để “tắm” (lau rửa cho sạch sẽ), rồi
“phong y” (mặc quần áo đẹp), để ngày hôm sau rước đi tham gia hội. Tối hôm đó
(mồng 7), và trong cả hai đêm mồng 8, mồng 9, lão bà của các làng đều tập trung ra
các chùa, cùng nhau ôn lại sự tích của các vị Phật trong tứ Pháp cho các con, các cháu
nghe.
Sáng sớm ngày mồng 8, nhân dân các làng tố chức rước tượng Tứ Pháp từ các
chùa về chùa Dâu. Khi tới chùa Dâu thì diễn trò: “Mẹ đuổi con”, Bốn kiệu: Pháp Vân,
Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, mỗi kiệu chạy ba vòng rồi trở về vị trí cũ, còn kiệu bà
Phật Mẫu Man Nương thì rước vào trong chùa Dâu.
Hội Dâu bắt đầu bằng việc dân làng Lũng Khê (làng “sở tại” của đền Lũng - nơi
thờ Sĩ Nhiếp) rước ngai thờ thái thú Sĩ Nhiếp và con gái ông ta ra chùa Dâu để khai
69
hội48, xong lại rước (ngai thờ Sĩ Nhiếp và con gái ông ta) về đặt tại đền Lũng. Ngay sau
đó, các làng bắt đầu cuộc rước các bà Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện về “hội đồng”
cùng chị cả Pháp Vân tại sân chùa Dâu. (Ở các chùa Tứ Pháp, xưa kia chùa nào cũng
có một tượng “Thủ bệ” (giữ bệ) đặt ở sau Tứ Pháp. Khi Tứ Pháp "đi" dự hội, thì tượng
“Thủ bệ” được rước lên đặt vào chỗ tượng Tứ Pháp. Tượng “thủ bệ” ở đó là để thay Tứ
Pháp trông giữ chùa, dẹp đuổi ma quỷ nếu chúng đến “cướp chỗ” của Tứ Pháp).
Khi Tứ Pháp đã tập hợp bên nhau tại chùa Dâu, cũng là khi rất nhiều trò diễn,
nhiều cuộc thi tài thể thao, văn nghệ dân gian được tổ chức, như: Múa sư tử, múa hoá
trang rùa và hạc, múa trống, đốt cây bông, đấu cờ người, đấu vật... Các trò vui, cuộc thi
này kéo dài trong suốt 2 ngày mồng 8 và mồng 9. Nhưng đặc biệt hơn cả là cuộc thi
“cướp nước” giữa hai bà Pháp Vũ và Pháp Lôi: Đúng 12 giờ trưa, hai đội rước của hai
làng Đại Tự và Thanh Tương tập trung ở sân chùa Dâu, chờ khi có hiệu lệnh, mỗi đội
liền rước một kiệu - trên có đặt tượng Pháp Vũ hoặc Pháp Lôi, chạy một mạch ra tam
quan chùa. Đội nào chạy đến trước và hạ kiệu an toàn, được coi là thắng cuộc. Tương
truyền, năm nào bà Pháp Vũ thắng thì năm đó mưa thuận gió hoà, năm nào bà Pháp
48 Vì theo nhân dân trong vùng, Sĩ Nhiếp là người có công tạc tượng Tứ Pháp và xây dựng hệ thống các chùa thờ Tứ Pháp.
Lôi thắng thì năm đó đồng ruộng rất nhiều đỉa.
70
Hình 2.1. Lễ khai hội chùa Dâu. Nguồn: baobacninh.com.vn49
Cũng trong hai ngày mồng 8 và mồng 9, mỗi ngày một lần, vào khoảng chiều
muộn, bốn chị em Tứ Pháp còn được tổ chức rước ra chùa Tổ để bái vọng Mẹ (Phật
mẫu Man Nương) và ông bà Tu Định. Sau cuộc bái vọng ngày mồng 9, cả bốn chị em
Tứ Pháp cùng được rước đi tuần hành quanh tổng. Đoàn rước, với sự tham gia của đại
diện nhân dân 12 làng thuộc tổng Khương Tự, có mang theo nhiều cờ, biển, bát bửu,
tàn vàng, quạt lớn, lại có chiêng trống gõ nhịp vang lừng. Cuộc diễu hành bắt đầu từ
chùa Tổ, trở về Dâu, rồi lần lượt qua các làng Đại Tự, Thanh Tương, Thanh Hoài,
Lũng Khê, Phương Quan, (đường “tuần nhiễu” nay vẫn còn dấu vết rõ ở nhiều đoạn).
Đến trước cửa đình của các làng, đoàn rước đều dừng lại để Tứ Pháp bái vọng thành
hoàng làng, cũng là để vị tiên chỉ của làng đó ra lễ Tứ Pháp. Khi đến chùa làng Thanh
Tương (Phi Tướng tự) thì Pháp Lôi (bà Tướng) chào chị, chào em rồi được đưa về chùa
của mình (làng Thanh Tương làm lễ rồi rước Pháp Lôi vào chùa). Khi đi qua thành Luy
Lâu, đoàn rước dừng lại trước cửa đền Lũng để Tứ Pháp vái Đống Răm. Cứ lần lượt
như vậy, đoàn tuần nhiễu đưa Pháp Điện về chùa Phương Quan; rồi hai bà Pháp Vân,
Pháp Vũ về đến chùa Dâu thì hai chị em chào nhau, sau đấy Pháp Vân về chùa Dâu,
49 http://baobacninh.com.vn/news_detail/87238/tray-hoi-chua-dau-%E2%80%93-ngoi-chua-co-nhat-viet- nam.html (truy cập 1/4/2016)
Pháp Vũ về chùa Đậu (Pháp Vũ về cuối cùng). Lúc đó, hội coi như đã kết thúc.
71
Ngoài các hoạt động chính của hội kể trên, trong hai ngày mồng 8 và mồng 9,
các gia đình ở trong 12 làng thuộc tổng Khương Tự đều sắm sửa lễ vật ra chùa lễ Phật
(lễ vật thường là hương, hoa, quả). Họ còn làm cỗ ở nhà để thết đãi bà con và bạn bè xa
gần về dự hội. Vì thế, suốt bốn năm ngày, cả vùng Dâu nhà nhà nhộn nhịp, làng làng
tưng bừng. Đấy là dịp vui chung lớn nhất trong năm của nhân dân vùng Dâu.
Hình 2.2. Lễ rước tượng sang chùa Phật mẫu trước khi diễn ra các lễ hội. Nguồn: asiaholiday.com.vn50
3.2. Hội thi cƣớp nƣớc
Mồng 8 tháng tư, các làng rước tượng ba bà Pháp Lôi, Pháp Điện, Pháp Vũ về chùa
Dâu hội với chị cả. Người dự hội quá đông, không rước được, bà Dàn cho đánh gậy.
Ba mươi hai (32) gậy trao cho các tráng đinh múa một vũ khúc mạnh, đẹp mắt, để “dẹp
đám”, mở lối cho người rước tượng lên đường.
Thi cướp nước tiến hành diễn ra vào buổi trưa ngày mùng tám tháng tư, tức là ngày
chính hội. Để chuẩn bị cho cuộc thi, người ta đã kê hai cái bàn ở hai bên cửa ngách
cổng Tam quan, cách nhà tiền tế khoảng 200m. Đó là hai cái bàn bằng gỗ lim khá vững
chắc, to rộng để Phật ngự. Tiếp đó dùng vải màn quây quanh hai cái bàn.
Tính chất cuộc thi mang ý nghĩa tượng trưng nên chỉ có hai “bà” – tức là hai pho
tượng Pháp Vũ và Pháp Lôi tham gia cuộc thi, còn hai pho tượng Pháp Vân và Pháp
50 http://asiaholiday.com.vn/du-lich-le-hoi-chua-dau-bac-ninh
Điện vẫn được ngồi yên vị trong chùa.
72
Hai pho tượng tham gia dự thi là tượng mộc, sơn màu cánh gián, đầu đội mũ màu
vàng, mình mặc áo yếm, cổ đeo kiềng, hai bàn tay ngửa ra có tết hoa bằng vải màu,
tấm áo choàng bằng vải lụa thêu hoa ôm choàng lấy toàn thân, trông rất uy nghiêm,
lộng lẫy. Và để cho hai pho tượng “chạy” như bay, mỗi pho tượng cần phải có tám
chàng trai khỏe mạnh, vóc người cân đối, cao bằng nhau rước kiệu. Những chàng trai
đó trông giống như những quân tốt đỏ trong bộ tam cúc: Đầu chít khăn đỏ, mình mặc áo lậu có nẹp đỏ, chân quấn xà cạp, đi dày vải, và luôn trong tư thế sẵn sàng.51
Trước cuộc thi được diễn ra, có một số thanh niên trong làng mặc đồ lậu, đầu đội
khăn, vừa đi vừa múa gậy để dẹp đám, mở đường, làm công tác trật tự cho buổi lễ.
Khi bốn chị em hội ngộ rồi thì đám rước Tứ Pháp về chùa Mãn Xá bái vọng mẹ là
mẫu Man Nương. Mồng 9 hội cũng diễn ra như vậy. Rồi cả đám rước lớn đi quanh
tổng một vòng (từ chùa Dâu lại về chùa Dâu). Đám rước tới Thanh Tương, bà Tương
(Pháp Lôi) chào chị, chào em rồi về chùa Pháp Lôi. Đến Phương quan bà Điện chào
hai chị Vân, Vũ để về chùa mình. Đến chùa Dâu, hai bà Vân, Vũ chào nhau ai về chùa
nấy.
Đúng ngọ (12 giờ trưa), Sau một hồi trống chiêng vang lên rộn rã, cuộc thi cướp
nước bắt đầu, các chàng trai đã được chọn nhanh chóng ghé vai rước kiệu Phật đứng
bật lên, hai kiệu Phật được rước chạy như bay về phía trước, áo choàng của hai vị Phật
Pháp Vũ và Pháp Lôi căng phồng lộng trong gió, người dân đứng hò reo cổ vũ xung
quanh..
Khi tiếng trống khẩu hiệu ra lệnh bắt đầu, hòa vào tiếng hò reo, dân hai làng
Phương Quan, Hành Đạo rước kiệu hai bà chạy từ cửa chùa Dâu ra tam quan (khoảng
300m). Đặt kiệu xuống, mỗi kiệu một đô tuỳ (người khiêng) cầm bình múc nước ở
giếng rồi thi nhau về trước, lĩnh thưởng. Niềm vui rộn ràng, nô nức ấy kéo dài cho đến
khi cả hai pho tượng đã về đến đích.
Sau cuộc thi cướp nước, người dân trong làng cho rằng, nếu Pháp Vũ về đích trước
thì năm đó mưa hòa gió thuận, cây cối tươi tốt, còn nếu Pháp Lôi về đích trước thì năm
51 Nguyễn Hữu (2014), Chùa Dâu lịch sử và truyền thuyết, NXB Thanh Niên, tr 23.
đó hạn hán, mất mùa, ruộng đồng lắm sâu nhiều đỉa vì theo kinh nghiệm của dân gian
73
là “nếu sấm đi trước thì không bao giờ có mưa”. Do vậy, cuộc thi cướp nước trong lễ
hội Dâu được quan tâm của đông đảo nhiều người trong làng để chờ xem tương lai
mùa vụ năm nay ra sao.
3.2.1. Tục đón đƣờng
Đến với trung tâm Phật giáo Luy Lâu, chúng ta sẽ được chiêm bái các thắng tích
những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp, hiểu được lịch sử, văn hóa từ khi có nền văn hóa Phật
giáo từ Ấn Độ du nhập vào nước ta. Biến Đức Phật Ấn Độ thành các vị Phật rất gần gũi
với nền văn hóa nông nghiệp, văn hóa lúa nước, gần với đời sống người dân Việt. Đến
với hội Dâu, khách hành hương không những được chiêm bái tương, Pháp Vân (bà
Dâu), Pháp Vũ (bà Đậu), Pháp Lôi (bà Tướng), Pháp Điện (bà Dàn), tượng Kim Đồng,
Ngọc Nữ đầy nữ tính. Khách hành hương sẽ đắm hồn trong con sông Dâu hiền hòa thơ
mộng, huyền thoại. Không những tham gia những lễ hội ở chùa Dâu mà còn được
chứng kiến các phong tục trong lễ hội. Tục “Đón đường” được tiến hành một nghi lễ
hết sức đặc biệt, không lễ hội nào có.
Dân gian truyền rằng vào năm Giáp Tý, khi bà Man Nương đã ngoài 80 tuổi, trời
làm một trận bão táp phong ba khủng khiếp. Ở trên rừng, cây Dung Thụ (tức cây Dâu)
mang trong mình đứa con của cuộc “Nhân - Thiên hợp khí” giữa sư Khâu Đà La và
nàng Man Nương bị bão đánh đổ trôi về sông Dâu đến trước cửa thành Luy Lâu thì
quẩn lại không trôi nữa. Người dân rủ nhau hợp lực kéo lên nhưng cây vẫn không dịch
chuyển. Đúng lúc ấy, bà Man Nương ra bến rửa tay, cây Dâu bỗng nhiên rập rình
mừng rỡ như con gặp mẹ. Bà Man Nương tức thì ném dải yếm ra và nói “có phải con
mẹ thì về đây với mẹ”. Lập tức cây Dâu lao thẳng lên bờ như có người kéo khiến ai
nấy đều kinh ngạc. Trước đó, quan Thái thú Sỹ Nhiếp đã được thần Phật báo mộng cho
biết nên cử người mời thợ về tạc thành bốn pho tượng Tứ Pháp. Một tốp thợ họ Đào
được mời đến, họ chia cây Dâu làm bốn khúc, tạc thành bốn pho tượng là Pháp Vân,
Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện.
Kể từ đó, Phật Tứ Pháp trong tâm thức dân gian có bốn chị em gái. Nhưng
người dân vùng Dâu còn truyền giữ một số giai thoại thú vị về người em gái thứ Năm
và những mối quan hệ ràng buộc khác liên quan đến Tứ Pháp.
74
Giai thoại về bà Keo - em gái thứ Năm của Tứ Pháp.
Những người già sống ở vùng Dâu kể: Khi tạc xong bốn pho tượng, người thợ
họ Đào thấy còn thừa một khúc gỗ xấu xí và nhỏ bé nên đã tạc thành một pho tượng
nữa. Pho tượng ấy sau đó được người dân đưa về thờ ở chùa Keo thuộc xã Giao Tất,
tổng Kim Sơn (nay thuộc xã Kim Sơn, Gia Lâm, Hà Nội). Vậy là có năm chị em Phật
bà được sinh ra từ cây Dâu thần ấy. Hàng năm, đến ngày hội Dâu mồng Tám tháng Tư,
cả năm bà Phật công đồng về chùa Dâu mở hội. Nhưng bà Keo xấu người xấu cả nết,
thường ghen ghét, đố kỵ vì bốn chị được thờ ở gần mẹ (tức gần chùa Tổ - thờ Phật Mẫu
Man Nương) lại được nhà vua tôn vinh. Vì thế, trong lễ hội, bà Keo thường có những
hành động quấy rối, phá phách làm cho buổi lễ mất sự tôn nghiêm, hội mất vui. Bốn bà
chị tức giận đã ra lệnh cấm không cho bà út về dự hội.
Để chắc chắn, vào trước lễ hội một ngày, người ta cử một người đàn ông đứng
bên đường đoạn chùa Thầm chờ đón người của bà Keo đi tới để báo tin giả. Quả nhiên,
đến non trưa thì có một kỵ sỹ cưỡi ngựa từ ngoài Keo Sủi vào. Chàng kỵ sỹ đó hỏi
thăm người đàn ông bên đường xem “năm nay chùa Dâu có mở hội không?”. Khi nghe
được câu trả lời “không mở hội” thì chàng kỵ sỹ thất vọng, lên ngựa quay về. Cũng từ
đó, người dân vùng Dâu tin rằng, nhờ “đánh lừa” được bà Keo nên hội Dâu diễn ra vui
tươi, suôn sẻ. Chính bởi giai thoại về bà Keo - người em gái thứ năm của Phật Tứ Pháp
nên trong lễ hội chùa Dâu ngoài các trò thi múa gậy, thi cướp nước, thi rước phật ban
đêm… còn có một nghi thức đặc biệt khác mà không phải ai cũng biết, đó là tục “đón
đường”.
3.2.2. Tục múa gậy hồng côn và bạch trƣợng
Năm nào cũng vậy, vì người dự hội đông vô ngần, chật bãi chật đường, nên Bà
Dàn (là em út) phải có mục “đánh gậy” để dẹp lối cho các đoàn rước và lấy đất mở hội
- Thực ra là, làng Dàn được phân công chọn lấy 32 thanh niên khoẻ mạnh, đi thành
đoàn, mỗi người mang theo một cây gậy tre (gậy được cuốn giấy đỏ thì gọi là “hồng
côn”, gậy tre “bánh tẻ” đem xát muối, phơi nắng cho trắng thì gọi là “bạch trượng”),
vừa đi vừa múa (gậy) để dẹp đường.
75
Bạch trượng (gậy trắng) làm bằng tre bánh tẻ đã tới lá nhưng chưa đến độ già,
người ta đốn tre, tiện mấu rồi xát muối đem phơi nắng cho đến khi gậy chuyển sang
màu trắng. Sau đó dùng nhang đen và lá ngái trộn lẫn đem đốt. Vừa đốt vừa hơ cây gậy
đã bọc kín bằng giấy bản, chỉ để hở những chỗ có mấu tre. Khói lá ngái, nhang đen sẽ
làm cho mấu đen, còn gióng tre vẫn trắng, tạo thành cây gậy hai màu rất đẹp. Hồng
Côn (gậy đỏ) cũng làm bằng tre nhưng đơn giản hơn, chỉ cần lấy giấy bóng kính đỏ dán
kín bên ngoài.
Mỗi loại gậy gồm 32 cây. Làng Văn Quan đánh bạch trượng. Làng Trà Lâm
đánh hồng côn.
“Sáng mùng tám tháng tư, rước bà út Pháp Điện lên cầu Bụt Ngự làm lễ. Buổi
trưa rước lên chùa Dâu họp mặt bốn chị em gọi là công đồng. Khi bà Dàn lên đến
chùa Dâu, đội đánh gậy biểu diễn những điệu múa nhanh, mạnh, dứt khoát mà uyển
chuyển để dẹp đám. Sau ba vòng múa gậy là tiết mục thi cướp nước giữa bà Đậu
(Pháp Vũ) với bà Tướng (Pháp Lôi). Rồi kiệu bà Út theo ba chị được rước sang chùa
Mãn Xá làm lễ bái kiến Phật Mẫu Man Nương. Tối mùng chín tháng tư, Phật Tứ Pháp
được rước đi tuần nhiễu từ đông sang tây, theo chiều quay trái đất, thành một vòng
khép kín qua bốn chùa trong vùng. Nhờ ánh đuốt lung linh, những cây gậy múa loang
loáng như phát ra tia chớp, càng làm cho đám rước thêm phần sôi động. Chớp là tên bà Dàn (Pháp Điện)”52.
3.3. Hội thi thả chim bồ câu
Hội thi thả chim thường được tổ chức vào ngày lễ Hội Dâu, ngày mùng tám
tháng tư và những dịp như kỷ niệm sinh nhật Bác Hồ, ngày Giải phóng Miền Nam
30/4, hoặc sau vụ gặt...
Người dân Bắc Ninh nuôi chim bồ câu để thi vào những dịp hội của Làng được
diễn ra thì đòi hỏi rất nhiều công sức và lòng kiên trì.
“Người ta phải chọn tông (giống) chim thích hợp, ghép đàn và huấn luyện sao
52 Nguyễn Hữu (2014), Chùa Dâu lịch sử và truyền thuyết, Nxb Thanh Niên, Tr. 41
cho khi mở cửa lồng thả chim ra, chúng phải bay thành đội hình đẹp mắt, chặt chẽ, cự
76
ly, sải cánh đồng đều nhau, bám theo sự dẫn dắt của chim đầu đàn”. Những con chim
ấy phải là những chim được nuôi và tập dượt thành đàn gồm mười con.
Khi thi, các đàn chim thi được thả theo số đã đánh thứ tự. Đàn chim được giải
cao là đàn chim bay quần tụ đường lên cao theo phương thẳng đứng, lên được độ cao
nhất vẫn tụ đàn. Để có được đàn chim với đầy đủ những tiêu chuẩn trên, phải nhiều
công phu. Trước hết là việc chọn chim và ghép đàn. Ngực chim phải nở, cánh to, thân
nhỏ, cổ phải thon. Chọn những con chim đồng tử mắt nhỏ mới chịu được nắng gió, có
khả năng bay cao. Kinh nghiệm những người thi thả chim bồ câu nhiều năm cho biết
những con chim có mấy cái lông nâu ở cổ thì bay khoẻ và rất khéo dẫn đường cho cả
đàn bay theo. Những con chim này còn làm nhiệm vụ hướng dẫn toàn đàn, biết chặn
trước đưa sau, khiến những con chim khác muốn bay nhanh hơn hay chậm lại cũng
không được. Chúng biết phân biệt đàn chim lạ, không bao giờ nhập với đàn chim khác.
Chọn được chim rồi, ghép đôi trống mái, rồi lại ghép đàn, chăm sóc huấn luyện. Nuôi
chim phải chăm sóc tỷ mỉ, theo dõi hàng ngày. Thóc cho ăn vừa đủ, béo quá không tốt,
mà gầy quá không đủ sức bay. Trong quá trình tập luyện cho bay thử dần dần, mỗi
ngày xa nhà một ít, cách sông, ngòi, loại dần những con yếu và hay tách rời đàn. Vì
thế, chăm sóc và huấn luyện một đàn chim 10 con để dự thi thật công phu, tốn kém.
Ban chấm thi của hội thả chim bao gồm hai nhóm: Trịch ngoài làm nhiệm vụ sơ khảo,
trịch nội làm nhiệm vụ chung khảo. Khi đàn chim bay lên, trịch ngoài làm nhiệm vụ
đánh trống thúc và theo dõi. Nếu đàn chim nào bắt đầu lượn vòng mà không phạm lỗi
lớn như tách khỏi đàn mà không nhập lại qua ba vòng lượn, tan đàn hoặc bay là là mà
không bốc lên cao đã phá ngang bay về tổ thì trịch ngoại điểm 3 tiếng trống cái chuyển
giao đàn chim đó cho trịch nội chấm tiếp. Trịch nội phân công giám khảo chấm tiếp
đàn chim đó và đánh ba tiếng trống khẩu nhận đàn. Nghe tiếng trống khẩu, người phát
lại cho mở tiếp đàn chim sau. Cách chấm thi cũng rõ ràng, minh bạch, tuy giám khảo
có nhìn thấy lồng chim nhưng cũng không sợ thiên vị vì chấm theo số thứ tự của đàn
trong danh sách chứ không chấm theo tên chủ chim. Khi đàn chim nào đã qua được
tầng trung (chỉ nhìn thấy cánh chim vỗ) mà không mắc lỗi nặng để bị loại lên tầng
thượng (không nhìn thấy cánh vỗ chỉ nhìn thấy chấm đen) những đàn chim đó đều
77
được Ban giám khảo bình xét thưởng, cho điểm, xếp loại. ở tầng thượng, đàn chim nào
tụ lại chỉ nhìn thấy một vòng tròn khép kín bằng miệng ấm tích ngay trên trung tâm nơi
mở hội, vòng tròn đó cứ bé dần lại tới khi chỉ còn thấy một chấm đen nhỏ rồi biến mất,
đàn chim đó sẽ nhận được giải cao của hội thi. Hiện nay, những ngày hội lớn của cả
nước như: Quốc khánh và các dịp lễ khác, nếu có thi thả chim, giải thưởng lớn vẫn
thuộc về các sân chim nổi tiếng xưa của Kinh Bắc. Hội thả chim thường tổ chức vào
tháng 3 hoặc tháng tư âm lịch. Vì mùa này không có chim cắt, diều hâu, thêm nữa điều
kiện thời tiết thích hợp cho chim bay.
Theo phong tục cổ truyền vùng Kinh Bắc này, mỗi khi hội thi thả chim tổ chức ở
làng nào thì người dân ở đó không được tham gia thi, chỉ được quyền làm giám khảo.
Đàn chim đoạt giải cao là đàn chim bay quần tụ lên cao theo phương thẳng đứng, lên
tới được độ cao nhất vẫn tụ đàn. Giải thưởng chỉ là những vật dụng đơn giản như quạt
điện, phích nước... nhưng người dân địa phương quan niệm giá trị danh dự của giải là
rất lớn.
3.4. Hội thi hát quan họ
Lễ hội và sinh hoạt văn hoá Quan họ đã kết tinh những giá trị tiêu biểu, những
truyền thống tốt đẹp của quê hương, con người tỉnh Bắc - Bắc Ninh:
“Tỉnh Bắc có lịch, có lề,
Có nghề buôn bán, có nghề cửu canh.
Có nghề xe chỉ học hành,
Có nghề tô vẽ tờ tranh bốn mùa!”
(Ca dao cổ).
Vì vậy có thể nói, Bắc Ninh là quê hương của thi ca, nhạc hoạ, là về với cội
nguồn dân tộc và văn hoá Việt Nam.
Hát quan họ đã thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước tới Bắc Ninh. Các lễ
hội chùa Dâu, hội Lim, hội Diềm, hội đền Đô, hội chùa Phật Tích, hội Đồng Kỵ… Các
chương trình du lịch qua miền Quan họ, chương trình “Sân chơi hát đối”, “Đậm đà
khúc hát dân ca” trên Đài phát thanh truyền hình Bắc Ninh thực hiện trong những năm
qua, hội thi hát Quan họ đầu xuân đã được duy trì gần 20 năm nay.
78
Nói về hát quan họ ở chùa Dâu, tối ngày mùng bảy, mùng tám, mùng chín các
nghệ sĩ hát quan họ thường tập trung về chùa Dâu để giao lưu văn hóa thông qua
những bài hát quan họ, đây là dịp để mọi người thắt tình đoàn kết của các làng xã với
nhau trong huyện Thuận Thành tại trung tâm Luy Lâu và các huyện lân cận trong tỉnh
Bắc Ninh, thậm chí cũng thu hút rất nhiều du khách ở ngoài tỉnh.
Hội làng ở vùng Quan họ thường có nhiều nhóm Quan họ từ các nơi kéo về dự
hội. Họ tổ chức hát với nhau để cầu phúc, cầu may, thêm bạn thêm bè, và để cho vui
hội.
Hát Quan họ trong ngày hội thường có hai hình thức: Hát vui và hát thi.
Hát vui: Đó là cuộc hát giữa các nhóm Quan họ đã kết bạn (bao giờ cũng là một
nhóm nam và một nhóm nữ); cũng có thể là đến hội rồi, trong cuộc vui, các nhóm mới
mời nhau cùng hát, để mở rộng thêm mối quan hệ, tình bạn và để học hỏi lẫn nhau.
Những cuộc hát này được diễn ra nhiều thời gian của ngày hội.
Lề lối hát hội, hát vui không quá chặt chẽ như hát canh - Không nhất thiết phải
đảm bảo đối giọng, đối lời, mà thường là chỉ nặng về đối ý, đối tình, để sao cho cuộc
hát thể hiện thật sinh động sự hô ứng, giao hòa, mặn nồng giữa các nhóm. Cũng không
nhất thiết phải hát qua đủ ba chặng như hát canh, mà thông thường các nhóm Quan họ
chỉ chọn những bài thuộc giọng vặt để thể hiện. Khi sắp chia tay, cũng có hát một số
bài giọng giã, nhưng không nhiều.
Có hai loại hát Quan họ:
Hát cầu đảo.
Gọi chung là hát cầu đảo, nhưng chủ yếu là hát để cầu mưa. Những năm trời
hạn hán, nhân dân các làng Quan họ tại tỉnh Bắc Ninh cũng như trong đặc biệt trong
hội Dâu thường tổ chức hát cầu đảo. Tham gia hát cầu đảo chỉ có Quan họ nữ, trước đó
đã được giữ gìn chay tịnh suốt 2 - 3 ngày. Khi hát cầu đảo, Quan họ chỉ hát một giọng
la rằng, với những bài ca có nội dung cầu mong trời cho mưa thuận gió hòa, để mùa
màng tươi tốt.
79
Hát giải hạn
Trước đây, theo quan niệm của nhân dân vùng Quan họ, cũng là quan niệm
chung của nhiều người, người ta cho rằng những may rủi đến với con người trong cuộc
sống phần nhiều là do số phận hoặc do những lực lượng siêu nhiên chi phối. Vì vậy,
khi gặp hoạn nạn hoặc chuẩn bị đến thời điểm được cho là sẽ gặp hoạn nạn (theo một
chỉ dẫn, phán đoán nào đó), người Quan họ thường tổ chức hát Quan họ tại nhà mình
để mong được giải hạn (vượt qua hoặc tránh được “hạn”). Họ tin rằng, khi có bạn bè
nam nữ Quan họ đến nhà hát vui, thì cái may sẽ đến, cái rủi sẽ qua. Hát giải hạn cũng
theo lề lối hát đối đáp, nhưng chỉ mở đầu bằng một bài la rằng, sau đó hai bên tùy ý
lựa chọn các bài hát để đối đáp, miễn là các bài ấy đều có nội dung hướng tới việc cầu
mong sự tốt lành sẽ đến với gia chủ và khi hát lên, mọi người đều cảm thấy vui vẻ, gắn
bó với nhau hơn. Trong hội chùa Dâu, vào đêm mùng 7, mùng 8, mùng 9 cũng được tổ
chức hát giải hạn để dân làng trong vùng được mọi công việc đều được hanh thông,
may mắn trong suốt một năm.
Dân ca Quan họ Bắc Ninh đã chính thức được UNESCO công nhận là di sản
văn hoá phi vật thể của nhân loại. Festival Bắc Ninh đang được ngành Văn hoá - Thể
thao và Du lịch tỉnh tích cực tham mưu tổ chức vào đúng dịp đầu xuân 2010 với nhiều
chương trình văn hoá nghệ thuật - thể thao hoành tráng và đặc sắc, đậm bản sắc văn
hóa vùng Kinh Bắc, chào mừng Dân ca Quan họ Bắc Ninh là Di sản văn hoá phi vật
thể đại diện của nhân loại do UNESCO trao tặng.
80
Hình 2.3. Các nghệ sĩ hát quan họ trong những ngày lễ hội Dâu.
Nguồn: tuvidauso.com53
3.5. Hội thi chơi cờ ngƣời
Cuộc đấu cờ người thường được tổ chức trong các ngày mùng tám, mùng chín,
mùng mười trong hội chùa Dâu. Bàn cờ là sân chùa Dâu trước tháp Hòa Phong. Cuộc
đấu cờ người được chuẩn bị chu đáo hàng tháng trời. Ðịnh được bàn cờ,sân bãi nơi
đánh cờ chỉ mới là việc phụ. Ðầu tiên là việc tuyển người. Những người được chọn làm
quân cờ phải là những trai thanh gái lịch, con cái của những gia đình có nề nếp được
dân làng quý trọng, đồng tình. Số lượng cần thiết là 16 nam, 16 nữ. Trong số này phải
chọn ra hai tướng: một nam, một nữ giữ vị trí tướng Ông, tướng Bà. Ngoài ra, không
thể thiếu người thứ 33 là tổng cờ (trọng tài) trực tiếp giúp ban giám khảo theo dõi cuộc
đấu. Ba người này (tổng cờ và hai tướng) là thuộc loaị gia đình khá giả, phong lưu, có
thể "khao quân" khi cần thiết. Chọn xong, tổng cờ họp hai đội nam, nữ thông báo về
trang phục, dặn dò về phong thái trong lúc làm nhiệm vụ "quân cờ". Quần áo mỗi
người tự sắm, song phải thống nhất trong từng phe (quân đen, quân đỏ) khi ra sân bãi,
bàn cờ được tạo ra một màu sắc rực rỡ nhiều màu trong ngày lễ hội.
Mỗi "quân cờ" có ghế đẩu ngồi có thể có đội nón nếu trời nắng to. Trước ngực mỗi
"quân cờ" có treo tên quân cờ bằng chữ Hán. Còn tướng, trang phục như hình vẽ, hoặc
gần như thế, trong quân bài; đó là quân phục cấp tướng đời xưa, có lọng che. Hai đấu
thủ có chỗ ngồi riêng...
Ngoài hội thi cướp nước, hội thi hát quan họ, hội thi thả chim bồ câu, hội thi chơi
cờ người, dâng nước, đánh gậy trên bãi chùa Dâu, còn có múa sư tử, múa hóa trang rùa
và hạc, múa trống, đấu vật, và đốt cây bông. Người hành hương và dự hội trong những
ngày lễ hội đêm ngày lui tới không lúc nào ngớt. Ý nghĩa của nghi lễ rước không chỉ là
tình Mẹ - Con, Chị - Em - biểu hiện đức độ truyền thống, mà đám rước còn được hiểu
là sự giao hoà thời tiết. Những lễ hội chùa Dâu được diễn ra cũng mang thông điệp tình
đoàn kết của dân làng thông qua tinh thần chung là mong muốn được mưa hòa gió
53 http://tuvidauso.com/bai-viet/cac-le-hoi-ngay-8-thang-4-am-lich---hoi-chua-dau.html
thuận, cây cối tươi tốt, mọi công việc trong đời sống đều được hanh thông, may mắn.
81
Hình 2.4. Nghi lễ dâng hương tại chùa Mãn Xá, nơi thờ Phật Mẫu Man Nương,
chuẩn bị diễn ra các buổi lễ.
Nguồn: Khảo sát thực địa ngày 8/4/2016
3.6. Giá trị văn hóa của các lễ hội ở những ngôi chùa cổ thờ Tứ pháp
3.6.1. Giá trị cố kết cộng đồng
Hội chùa Dâu là một lễ hội văn hóa dân tộc của người con Bắc Ninh nói riêng
cũng như người con Việt Nam nói chung, lễ hội này mang dấu ấn ảnh hưởng của nền
văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước từ thời đầu công nguyên cho đến ngày nay. Lễ hội
ở những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại Trung tâm Phật giáo Luy Lâu không những
mang tính tôn giáo mà còn cả tính văn hóa dân tộc.
Những nội dung trên của lễ hội tôn giáo, dân tộc tại lễ hội chùa Dâu ứng vào hội
chùa ở Việt Nam từ 2000 năm nay trong không gian đồng bằng và trung du Bắc bộ.
Phật giáo là một tôn giáo ngoại nhập, vào Việt Nam từ rất sớm. Từ Ấn Độ đạo Phật
truyền vào nước ta có thể trước cả Trung Quốc, bằng đường bộ, qua đất Phù Nam, dọc
theo bờ biển Trung Bộ, rồi đến Bắc Bộ. Sách sử Việt Nam Cổ Châu Pháp Văn bảo
hạnh ngữ lục chép: "Khâu Đà La và Ma Ha Kỳ Vực đã cùng nhau tới Luy Lâu, trị sở
82
của Sĩ Nhiếp, cuối đời Hán Linh đế (khoảng 168-169). Khi đến Giao Châu thì Khâu Đà
La ở lại".
Tư tưởng bình đẳng trong Phật giáo “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh” hay
“Ai sinh ra cũng đều có dòng máu đỏ, nước mắt cùng mặn”. Tư tưởng bình đẳng này
rất phù hợp với thời điểm ấy, sức sống bên ngoài và sức mạnh bên trong của làng và
người Việt cổ, họ có tinh thần cố kết cộng đồng, tinh thần bình đẳng, dân chủ thời công
xã, sống đoàn kết trong làng, xã cùng với các tín ngưỡng dân gian bản địa hình thành
trong nền văn minh Việt cổ - văn minh sông Hồng nói chung và cũng đã hình thành
nên giá trị văn hóa dân tộc Việt bên bờ sông Dâu thông qua các lễ hội vào ngày mùng
tám tháng tư hằng năm được tổ chức ở những ngôi chùa thờ Phật Tứ Pháp tại trung tâm
Luy Lâu.
Thật vậy, những lễ hội tại những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật
giáo Luy Lâu đã tồn tại như một giá trị, một bản sắc văn hóa dân tộc, nên khi cộng
đồng người Việt sống bằng nông nghiệp trồng lúa nước tiếp xúc với Phật giáo đã
không xảy ra phản ứng đối kháng, song lại tạo ra sự hoà nhập cộng đồng người dân và
nhà chùa.
Rõ ràng ở đây gọi là đất Phật tổ mà đạo Phật đã nhường cho tín ngưỡng dân
gian với nghi thức nông nghiệp được cử hành vào ngày 8 tháng tư, tức lễ Phật đản.
Liên tưởng về hội Dóng (mồng 9 tháng tư) càng làm sáng tỏ đó là nhịp cầu mùa lễ hội
phổ biến của người Việt vùng đất này. Hơn nữa, ngày Phật đản, mà chính Pháp Vân,
Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện là vị hoá thân của Phật và cũng là biểu tượng của tín
ngưỡng nông nghiệp và tôn giáo bản địa. Ngày Phật đản ở Ấn Độ vào ngày mùng 8
tháng 4, tới chùa Dâu, Người việt cũng lấy ngày 8 tháng 4 là ngày sinh của Pháp Vân,
Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện.
Những ngày diễn ra lễ hội, đa số người dân đều đến xem và tham gia các hội thi.
Đây là cơ hội để mọi người gặp nhau, được giao lưu văn hóa, các thành viên trong đội
đem hết sức mình để đóp góp trong hội thi và dân làng đều cổ vũ hết sức nhiệt tình tạo
ra một sức mạnh, năng lượng của sự đoàn kết. Bằng lời ca Quan họ, các nghệ sĩ chuyên
nghiệp cũng như không chuyên nghiệp trong làng đã cống hiến hết sức mình để phục
83
vụ cho lễ hội thông qua: “Hội thi hát Quan họ”, “Sân chơi hát đối”, “Đậm đà khúc hát
dân ca”, hát cầu đảo, hát giải hạn. Với những làn điệu dân ca ấy, người dân trong làng
học được giá trị lịch sử của cha ông, tinh thần đoàn kết dân tộc tạo nên một cố kết cộng
đồng của người con Bắc Ninh nói riêng cũng như người con Việt Nam nói chung.
3.6.2. Giá trị tâm linh
Đạo Phật du nhập vào nước ta biến các vị thần thành các vị Phật để luôn gần gũi với người dân qua hình ảnh ông Bụt54 luôn giúp đỡ những người hiền lành, có cuộc
sống bất hạnh trong cuộc sống được thể hiện qua những câu chuyện trong dân gian:
Cây tre trăm đốt, Tấm Cám. . . Các vị Phật hộ cho người dân trong việc cày cấy, trồng
trọt, tạo ra mưa hòa gió thuận, cây cối tốt tươi.
Hội Dâu là một bằng chứng phản ánh sự dung hoà giữa việc thờ Phật với việc
tôn thờ các vị thần bảo hộ các cộng đồng làng xã trong vùng - Tứ Pháp trên đường tuần
nhiễu đã dừng lại, tại các cửa đình làng, để “bái vọng” thành hoàng của làng mà đoàn
rước đi qua, đồng thời, cùng lúc đó, vị tiên chỉ của làng - người đại diện cao nhất của
làng, cũng ra làm lễ Tứ Pháp.
Hội Dâu còn là một bằng chứng xác nhận việc, ngay từ những thế kỷ đầu Công
nguyên, Phật giáo và Nho giáo, khi du nhập vào Việt Nam đã có sự dung hoà, thậm chí
có thể nói, đấy là một cuộc “chung sống” êm dịu. Vì thế, thái thú Sĩ Nhiếp - người
được đời sau tôn là ông tổ của việc học hành ở nước ta (“Nam Giao học tổ”), đã được
dân làng Lũng Khê - theo sự phân công của dân hàng tổng, rước bài vị ra chùa Dâu để
khai hội Dâu.
Như vậy, lễ hội ở những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại huyện Thuận Thành, tỉnh
Bắc Ninh cho thấy rõ, từ hàng ngàn năm qua đã mở rộng nội hàm. Ở đây vẫn là một lễ
hội tôn giáo, đồng thời cũng là một sinh hoạt văn hoá dân gian của cộng động làng
xóm người Việt tạo nên một bản sắc văn hóa dân tộc Việt rất giá trị bởi sự gắn bó với
dân làng, bởi sự gần gũi, đoàn kết lẫn nhau, là nơi giao lưu văn hóa của các vùng miền
54 Tiếng Pali hoặc tiếng Phạn là Buddha, tiếng Hán dịch là Phật Đà, gọi tắt là Phật.
và học hỏi những cái hay, cái mới.
84
3.6.3. Giá trị giáo dục
Như vậy, đạo Phật đã hoà nhập vào tín ngưỡng bản địa thật vô cùng hiền hoà,
dân dã, mang màu sắc địa phương và thấm nhuần chất lễ hội nông nghiệp để hội làng
vẫn là hội chùa. Nói cách khác, ở thời điểm này, hội chùa đã thu nhận chức năng của
hội làng. Đây là cơ hội để các con, các cháu làm ăn xa cũng quay về với ông bà, cha
mẹ, người thân, xóm làng quê hương trong tinh thần “Uống nước nhớ nguồn”, nhớ về
cội nguồn nơi “Chôn nhau cắt rốn”.
Đây là những văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam bởi sự dung hòa sự du nhập
của Phật giáo Ấn Độ kết hợp với văn hóa dân gian Việt Nam đó là: Văn hóa tín
ngưỡng thờ Mẫu.
Ngoài ra, thông qua các lễ hội thờ Tứ Pháp tại Trung tâm Phật giáo Luy Lâu –
Bắc Ninh, ta còn thấy được:
Giá trị khoa học: Một giá trị chân thực trong cuộc sống hằng ngày của người
dân nông nghiệp làm lúa nước, con người phụ thuộc vào thiên nhiên, mong cầu những
vị thần gia hộ luôn được mùa màng thịnh vượng, cây cối tốt tươi.
Giá trị nhân bản: Sự thành kính cầu nguyện của người dân đối với các vị Phật
làm con người hướng về thiện, tin tưởng về luật nhân quả trong Phật giáo, làm lành sẽ
được quả thiện và gặp may mắn, có nhiều phúc lộc trong cuộc sống.
Giá trị thẩm mỹ: Thông qua các lễ hội, con người trở về với bản tâm thanh tịnh
trong những buổi lễ, hội: Rước tượng, cướp nước . . .
3.7. Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa lễ hội của những ngôi chùa cổ thờ Tứ
Pháp tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu – Bắc Ninh
3.7.1. Giải phảp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội của những ngôi
chùa cổ thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu
Đã từ lâu, lễ hội chùa Dâu rất nỗi tiếng và thu hút rất nhiều người dân trong
vùng, trong và ngoài tỉnh với các lễ hội rước tượng, hội cướp nước, hội thi hát quan họ,
hội thi thả chim bồ câu, hội đánh cờ người, lễ cầu mưa, lễ cầu bình an gia sự. . . Ngày
chính hội diễn ra vào ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch hằng năm, Đây là một trong những
lễ hội lớn và lâu đời nhất tại huyện thuận thành, tỉnh Bắc Ninh và lan rộng ra vùng
85
đồng bằng Bắc Bộ, phản ánh ước nguyện về một năm mưa thuận gió hoà, mùa màng
thịnh vượng, cây cối tốt tươi, ấm no hạnh phúc. Đến lễ hội, người dân mong cầu những
điều có được phúc lành nhất trong đời sống của họ.
Do điều kiện khách quan mà nhiều năm nay lễ hội chùa Dâu và các ngôi chùa
thờ Tứ Pháp tại huyện Thuận Thành, tỉnh bắc Ninh không được tổ chức. Tuy nhiên,
đến ngày lễ hội du khách vẫn nhớ ngày và về dự hội Dâu. Về đảnh lễ Phật Tứ Pháp,
chiêm bái một trong những ngôi chùa cổ, linh thiêng nhất Việt Nam và tham gia nhiều
hoạt động văn hoá dân gian độc đáo, mang bản sắc đặc trưng vùng Kinh Bắc như: nghe
hát quan họ trên thuyền rồng, hát ca trù, múa rối nước, đánh cờ người, thả chim bồ
câu…
Để các lễ hội chùa Dâu và các ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp được diễn ra hằng
năm, Tác giả xin được nêu ra những giải pháp để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
của những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp ở Luy Lâu, Thuận Thành, Bắc Ninh như sau:
Các ban ngành, chức năng của sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh
tìm hiểu về tầm quan trọng một cách sâu sắc hơn để quảng bá trên những thông tin
truyền thông của đại chúng về những giá trị văn hóa thông qua lễ hội ở những ngôi
chùa cổ thờ Tứ Pháp tại huyện Thuận Thành – Bắc Ninh để mọi người dân trong vùng
cũng như ngoài khu vực họ biết tầm quan trọng, giá trị của lễ hội. Có như thế, khách
thập phương cũng như mọi người về chùa cảm thấy sự bình an, an lạc, tâm hồn thanh
tịnh, con người yêu thương, đoàn kết lẫn nhau.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh kết hợp với các sư Thầy và Ban
quản tự trong chùa đưa ra kế hoạch, chương trình chi tiết, hoạt động các lễ hội để thu
hút các mạnh thường quân ủng hộ tài vật, tài trợ cho các chương trình lễ hội. Có những
giải pháp như vậy mới gìn giữ bảo tồn những lễ hội tại những ngôi chùa cổ thờ Tứ
Pháp tại huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
3.7.2. Một số kiến nghị
Thông qua tập luận văn này, học viên có những kiến nghị đối với Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh cũng như các sư Thầy và Ban quản tự trong chùa
như sau:
86
Thứ 1. Tích cực tuyên truyền quảng bá về giá trị của lễ hội trên các phương tiện
thông tin đại chúng để thu hút người dân trong địa phương, trong và ngoài tỉnh. Hoàn
thiện hệ thống biển báo đường chỉ dẫn đến di tích.
Thứ 2. Ban trị sự Phật giáo tỉnh Bắc Ninh, các cơ quan, ban ngành có liên quan
nhà nước quan tâm nhiều hơn nữa về việc tổ chức tốt các buổi lễ diến ra hằng năm.
Thứ 3. Tổ chức lễ hội truyền thống hằng năm mà không được vắng đoạn nhằm
thu hút đông đảo nhân dân hướng về cội nguồn, đoàn kết cộng đồng, phát huy những
thuần phong mỹ tục, giáo dục các truyền thống tốt đẹp cho thế hệ hôm nay và con cháu
mai sau, đồng thời thu hút quần chúng vào những sinh hoạt văn hoá văn nghệ vui tươi
lành mạnh, tạo không khí phấn khởi trong nhân dân địa phương và khách tham quan.
87
Tiểu kết
Các lễ hội thường niên thuộc hệ thống Tứ pháp đều được tổ chức trong khoảng
thời gian từ sau tết Nguyên đán cho tới tháng tư (Âm lịch), theo Nông lịch của người
Việt cổ, đây chính là thời gian bắt đầu bước vào một chu trình thời gian sản xuất mới,
chuẩn bị để bước vào một vụ gieo trồng (lúa) mới, nên ý nghĩa của những lễ hội này
thường để cầu mưa hay mong “mưa thuận gió hòa” cho cả năm. Trong diễn trình lễ hội
luôn có các lễ thức như rước nước, cướp nước,…(tùy từng lễ hội), những lễ thức
này được diễn ra với nhiều hình thức khác nhau, nhưng người viết cho rằng, ý nghĩa
khởi nguyên của những nghi lễ đó thì không hề khác nhau, đều là để cầu “hòa cốc
phong đăng”. Tuy nhiên, điểm đặc biệt trong tín ngưỡng thờ Tứ pháp lại nổi lên ở các
lễ cầu đảo, bởi đây chính là những lễ thức thể hiện rõ nhất ước vọng điều hòa được
nguồn nước của người nông dân Việt. Hiện nay, khi tiếp xúc với các truyền thuyết hay
thần tích về Tứ pháp, người viết nhận thấy, phần lớn các bản kể đều chỉ nói đến sự linh
ứng của các ngài trong việc làm mưa chống hạn, chứ không thấy nhắc đến khả năng
“dừng mưa” của các ngài. Nhưng cho đến đời Lý, chính sử đã ghi nhận việc rước Phật
Pháp Vân để cầu tạnh: “Quý Sửu, Thái Ninh năm thứ hai [1073], (Tống Hy Ninh năm thứ 6). Bấy giờ mưa dầm, rước phật Pháp Vân về kinh để cầu tạnh”55. Tác giả cũng cho
rằng, quan niệm về một hay nhiều vị thần có khả năng làm mưa và cả làm tạnh vẫn tồn
tại trong dân gian trước khi Phật giáo du nhập vào nước ta và được thể hiện trong hình
tượng bà Dâu – nữ thần nông nghiệp của người Việt cổ. Việc triều đình nhà Lý rước
tượng phật Pháp Vân để cầu tạnh có thể chỉ là “tiếp thu” ý nghĩa về quyền năng thiêng
của bà Dâu vẫn còn hiện hữu trong ký ức dân gian đương thời. Bởi sau khi đã được
Phật giáo hóa, bà Dâu trở thành Pháp Vân, đền Dâu trở thành chùa Dâu thờ Pháp Vân (vào khoảng thế kỷ II sau Công nguyên56), nhưng cảnh quan tự nhiên vùng đồng bằng
55 Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (1998), Đại Việt sử ký toàn thư (Dịch theo bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 – 1697), tập I, Nxb. KHXH, H, tr. 277 56 Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam cái nhìn địa - văn hóa, Nxb.Văn hóa dân tộc - Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, H, tr. 141 - 142.
Thuận Thành – Bắc Ninh và rộng ra là cả châu thổ sông Hồng từ sản xuất cho đến sinh
88
hoạt, con người chủ yếu trông chờ vào nước mưa, trong bối cảnh ấy, chống hạn sẽ là
vấn đề nổi lên hàng đầu. Có lẽ vì vậy mà các thần tích, truyền thuyết về Tứ pháp (chỉ
mới ra đời từ thời điểm này trở về sau) mới đặc biệt chú ý đến “khả năng” làm mưa của
các Ngài, đồng thời dân gian đương thời và sau này khi thờ cúng Tứ pháp cũng
“nghiêng” về việc làm mưa của Tứ Pháp nhiều hơn, nên cho đến nay, những lễ thức
cầu tạnh gắn với Tứ pháp đã nhạt nhòa trong ký ức dân gian. Và trong quá trình điền
dã học viên cũng chưa tiếp cận được với nguồn tư liệu về lễ thức này.
Ý nghĩa quan trọng nhất của hội chùa Dâu nói riêng cũng như hệ thống tứ Pháp
nói chung tại trung tâm Luy Lâu là cầu cho mưa thuận gió hòa, ước vọng ngàn đời của
cư dân nông nghiệp, một lễ hội Phật giáo lớn của vùng đồng bằng và Trung du Bắc Bộ.
Mỗi dịp lễ hội hàng năm với sự diễn lại sự tích của các vị Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp
Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, Man Nương, hội chùa Dâu nói riêng cũng như lễ hội ở
những ngôi chùa thờ tứ Pháp đã biểu lộ sự sùng bái tín ngưỡng phồn thực cổ sơ của cư
dân vùng lúa nước. Trải qua hàng ngàn năm, phần “lễ” của hội đã ít nhiều bị mai một,
mặc dù vậy chúng ta vẫn nhận thấy chân nét đẹp, giá trị văn hóa truyền thống phản ánh
đời sống tín ngưỡng đa dạng, sự sáng tạo phong phú của người xưa còn được lưu giữ
đến ngày nay.
Thông qua quá trình tiếp cận các nguồn tài liệu thứ cấp, tiến hành khảo sát thực
địa và thu thập các nguồn tài liệu sơ cấp, trong nội dung chương 2, đề tài đã khái quát
hệ thống, diễn trình của lễ hội, đồng thời, đề tài cúng nói lên được giá trị văn hóa của
các lễ hội ở những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu – Bắc
Ninh.
89
KẾT LUẬN
Qua những kết quả khảo sát thực địa ở chùa Dâu và chùa Đậu, chùa Tướng,
chùa Dàn tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu – Bắc Ninh cho thấy kiến trúc ở những ngôi
chùa này khá độc đáo vào buổi đầu công nguyên. Đó là kiến trúc kiểu tu viện bao
quanh một ngọn tháp ở trung tâm. Trải qua nhiều năm trùng tu, sửa chữa, các công
trình nghệ thuật kiến trúc cũng bị tàn phá bởi chiến tranh nên các kiến trúc cổ xưa
không còn nguyên vẹn. Tuy nhiên, Một số kiến trúc hoa văn trên mái chùa, chạm khắc
gỗ với các đề tài rồng, phượng, chư thiên, hoa lá, mây, sóng… hiện còn tại chùa Dâu.
Nhìn chung, kiến trúc các chùa Tứ Pháp thường là chùa lớn kiểu chùa trăm gian, nội
công ngoại quốc.
Các ngôi chùa thờ Tứ Pháp không những có những kiến trúc đẹp, đặc biệt để thu
hút du khách nghiên cứu, tham quan mà còn là nơi thường hay đăng cai tổ chức các
buổi lễ hội nên các chùa thường hay có diện tích rộng, thoáng đãng, địa thế đẹp, tụ
thủy. Giữa các khối nhà bố trí vườn hoa, cây cảnh. Ngoài khu vực trung tâm của ngôi
chùa – là nơi trang trọng nhất để làm chánh điện thờ Phật Tứ Pháp và các vị tổ sư, La
hán. . .còn có khu vực nhà phụ làm nơi sinh hoạt của Tăng, Ni. Các ngôi mộ được xây
thành những ngôi tháp nhỏ của các vị trụ trì chùa qua các thế hệ cũng được chôn trong
khuôn viên chùa. Những công trình được trang trí xung quanh ẩn nấp vào những cây
xanh tạo nên cảnh sắc thiên nhiên giữa đạo với đời. Trong mặt bằng kiến trúc dàn trải
như thế, có những công trình kiến trúc mang tính đột khởi tạo thành điểm nhấn, ví dụ
như tháp Hòa Phong tại chùa Dâu (giờ còn lại là kiến trúc cao 3 tầng).
Những chùa Tứ Pháp trước kia thường được dân làng và dân trong vùng tổ chức
các lễ cầu đảo mỗi khi hạn hán. Ở Tứ Pháp, tồn tại cả linh khí dân tộc và cả sức mạnh
truyền thống, phù giúp để có niềm tin cho xã hội hiện tại và góp phần làm nên bản sắc
văn hóa riêng biệt cho Phật giáo cũng như người nông dân Việt Nam nói chung .
Người dân tin rằng, những vùng miền nào thờ Tứ Pháp thì ở đó được mưa thuận gió
hòa, mùa màng bội thu. Có thể nói, tín ngưỡng Tứ Pháp là một trong những chỗ dựa về
tâm linh của người Việt qua nhiều thời đại, và tồn tại cho đến tận ngày nay thông qua
90
duy trì bảo tồn các lễ hội hằng năm tại những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp vùng Luy Lâu
– Bắc Ninh này.
Tóm lại, Phật giáo Tứ pháp là một sáng tạo đặc sắc mang tính bản địa rất cao
của người nông dân Việt, tuy đã được bao quanh bằng những vầng hào quang của Phật
giáo, nhưng chúng ta vẫn nhìn thấy trong đó ước vọng, khả năng… hòa điệu với thiên
nhiên và cả sự lựa chọn cách khai thác tự nhiên của một tộc người.
Thông qua quá trình tiếp cận các nguồn tài liệu thứ cấp, tiến hành khảo sát thực
địa và thu thập các nguồn tài liệu sơ cấp:
Trong nội dung chương 1, đề tài tập trung làm rõ các khái niệm, các thuật ngữ
các vấn đề liên quan đến: Lễ hội, kiến trúc, giá trị văn hóa, Tứ Pháp. Đồng thời đề tài
cũng khái quát một cách rõ nét tổng quan về địa bàn nghiên cứu tại huyện Thuận
Thành tỉnh Bắc Ninh và những ngôi chùa cổ: chùa Dâu, chùa Đậu, chùa Tướng, chùa
Dàn, tương ứng thờ bốn vị: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện.
Trong nội dung chương 2, đề tài đã khái quát hệ thống, diễn trình của lễ hội,
đồng thời, đề tài cúng nói lên được giá trị văn hóa của các lễ hội ở những ngôi chùa cổ
thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu – Bắc Ninh.
Trong nội dung chương 3, đề tài đã khái quát nghệ thuật kiến trúc, phân bố
không gia thờ cúng, bài trí tượng thờ trong chùa, những nghệ thuật: Trang trí, điêu
khắc, thư pháp, may thêu, đồng thời cũng nêu lên giá trị văn hóa qua nghệ thuật kiến
trúc ở những ngôi chùa cổ thờ Tứ Pháp tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu – Bắc Ninh.
Đặc biệt, đề tài cũng đưa ra những giải pháp, kiến nghị để bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa tại đậy.
91
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Sách.
1. Trần Lâm Biền (1996), Chùa Việt, Nxb Văn hóa Thông tin.
2. Trần Lâm Biền (2000), Một con đường tiếp cận lịch sử, Nxb. Văn hoá
Thông tin.
3. Nguyễn Đăng Duy (2001), Văn hóa Tâm linh, nxb. VH-TT
4. Đại Nam nhất thống chí, T.IV (1971), Nxb. Khoa học Xã hội
5. Đại Nam nhất thống chí, T.V (1971), Bản dịch của Nxb. Khoa học xã
hội
6. Trần Nguyên Giáp (1986), Tuệ Sỹ dịch, Phật giáo Việt Nam từ khởi
nguyên đến thế kỷ XIII, NXB Sài Gòn
7. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tư Tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb. KHXH,
Hà Nội.
8. Nguyễn Quang Hồng (1994), Sự tích đức Phật chùa Dâu, Nxb. Văn hóa
Thông tin.
9. Nguyễn Quang Hồng chủ biên (1997), Viện nghiên cứu Hán Nôm, Di
Văn chùa Dâu, Nxb. KHXH, Hà Nội.
10. Trƣơng Văn Hùng (2007), Từ điển Tiếng Việt, NXB Thanh Niên, Hà
Nội
11. Nguyễn Hữu (2014), Chùa Dâu lịch sử và truyền thuyết, NXB Thanh
niên.
12. Thanh Hƣơng, Phƣơng Anh (1971), Hà Bắc ngàn năm văn hiến, Nxb.
Văn hóa Hà Bắc.
13. Lê Văn Kỳ (1992), Lễ hội cổ truyền (Viện Văn hóa Dân gian, nhiều tác
giả), Nxb. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.
14. Nguyễn Lang (1995) Phật giáo Việt Nam sử lược, Hà Nội, Nxb. Tôn
giáo.
15. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
92
16. Hữu Ngọc chủ biên (1995), Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam, Nxb.
Thế giới.
17. Hoàng Phê chủ biên (2003) do Viện Ngôn ngữ học tổ chức biên soạn,
Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng
18. Lê Mạnh Thát (1999), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tập 1, Huế, Nxb.
Thuận Hóa.
19. Lê Mạnh Thát, Lịch Sử Phật giáo Việt Nam, tập 1 (1999) tập 2 (2001)
tập 3 (2002), Nxb. Tp HCM.
20. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo Dục
21. Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga (1990), Thiền uyển tập anh, Bản
dịch của Nxb. Văn học.
22. Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam I- II- III, Nxb.
TP. HCM
23. Phan Cẩm thƣợng (2002), Chùa Dâu và nghệ thuật tứ Pháp, Nxb Mỹ
Thuật.
24. Thích Nhật Từ (biên soạn) 2012, Nghi thức Phật Đản”, Nxb Hồng Đức
25. Tôcarev X.T (1994), Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển của
chúng, bản dịch, Nxb. Chính trị Quốc gia.
26. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (1998), Đại Việt sử ký toàn thư (Dịch
theo bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 – 1697), tập I, Nxb. KHXH.
II. Bài báo khoa học, tạp chí.
1. Trần Lâm Biền (2006), “Vài suy nghĩ về di tích nghệ thuật ở Bắc Ninh thời
tự chủ trong vùng văn hóa quan họ Bắc Ninh”, Viện Văn hóa Thông tin - Sở
Văn hóa Thông tin Bắc Ninh.
2. Nguyễn Mạnh Cƣờng (1995), Chùa Dâu và hệ thống chùa Tứ Pháp, Luận
văn Phó tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Viện Khảo cổ học.
3. Phạm Minh Huyền (2002), “Luy Lâu nhìn về một truyền thống được thể
hiện qua chứng tích khảo cổ học”, Khu di tích Lăng Kinh Dương Vương và
93
văn hóa Luy Lâu, UBND huyện Thuận Thành - Sở VHTT.Bắc Ninh xuất
bản
4. Nguyễn Duy Hinh “Chùa Đậu, suy nghĩ khảo cổ học Phật giáo”, Tạp chí
Khảo cổ học số 4/84.
5. Tô Ngọc Thanh (2002), "Múa rối nước, Nhã nhạc Việt Nam có hy vọng?",
Báo Người Hà Nội, số 36.
6. Ngô Đức Thịnh (2009), “Một số vấn đề lý luận nghiên cứu hệ giá trị văn
hóa truyền thống trong đổi mới và hội nhập”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong quá trình
đổi mới và hội nhập.
7. Nguyễn Hữu Toàn (số 9-1997) “Thuận Thành trong vùng văn hóa cổ Bắc
Ninh”, Văn hóa Nghệ thuật.
8. Chu Quang Trứ, “Hệ thống chùa Tứ Pháp - đền thần trong chùa Phật”,
KTVN số 1/99
9. UNESCO (1989), Tạp chí “Người đưa tin UNESCO”, số 11-1989.
10. Trần Quốc Vƣợng (1998), Việt Nam cái nhìn địa - văn hóa, Nxb.Văn hóa
dân tộc - Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật.
III. Trang website.
1. http://asiaholiday.com.vn/du-lich-le-hoi-chua-dau-bac-ninh (13/4/ 2016)
2. http://ajc.edu.vn/Nghien-cuu-khoa-hoc/Gia-tri-lich-su-truyen-thong-van-hoa-
cua-le-hoi/19727.ajc (12/4/2016)
3. http://baobacninh.com.vn/news_detail/87238/tray-hoi-chua-dau-%E2%80%93-
ngoi-chua-co-nhat-viet-nam.html (truy cập 1/4/ 2016)
4. http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/245/0/1788/Chua_Dau_Bac_Ninh_n
goi_chua_co_nhat_Viet_Nam (13/4/ 2016)
5. http://www.buddhistedu.org/viet/index.php/kh%E1%BA%A3o-
c%E1%BB%A9u/van-hoa-giao-duc/van-hoa-dan-gian/319-tin-nguong-tho-tu-
phap-tai-dong-bang-bac-bo (9/4/ 2016)
94
6. https://giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=5AD449 (truy cập
1/4/2016)
7. https://giaoviendulich.wordpress.com/2010/01/24/bai-2-di%E1%BB%81u-
ki%E1%BB%87n-%E1%BA%A3nh-h%C6%B0%E1%BB%9Fng-
d%E1%BA%BFn-s%E1%BB%B1-phat-tri%E1%BB%83n-du-
l%E1%BB%8Bch. (12/4/2016)
8. http://tuvidauso.com/bai-viet/cac-le-hoi-ngay-8-thang-4-am-lich---hoi-chua-
dau.html (12/4/ 2016)
9. http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-hoc/llvhh-nhung-van-de-
chung/1593-ngo-duc-thinh-nghien-cuu-he-gia-tri-van-hoa-truyen-thong.html
(20/4/2016)