
Các nhân vật và thời kỳ
[sửa] Alexandros Đại đế (332 TCN - 323 TCN)
Bài chi tiết: Alexandros Đại đế
Tượng Alexandros Đại Đế ở Bảo tàng Anh Quốc, Luân Đôn.
Vào khoảng năm 500 trước Công nguyên, chủng tộc Hy Lạp chia thành nhiều vương quốc và thành
bang nhỏ sinh sống tập trung ở bán đảo Thổ Nhĩ Kỳ và bán đảo Hy Lạp. Lúc ấy đế quốc Ba Tư đang rất
hùng mạnh, nên mấy lần sang đánh. Một số thành bang ở bán đảo Hy Lạp như Athena, Sparta,… đã
đoàn kết và đánh lui được quân Ba Tư một cách vẻ vang, nhưng ở bán đảo Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều nơi
khác thuộc châu Âu thì họ bị người Ba Tư đô hộ. Qua mấy thế hệ, người Hy Lạp ngày càng nuôi chí
đánh chiếm lại Ba Tư để phục thù.
Dưới triều vua Philippos II (382 TCN - 336 TCN), cha của Alexandros Đại đế, xứ Macedonia ngày càng
hùng mạnh. Nhiều nước tộc Hy Lạp mới tôn Macedonia làm minh chủ, thảo kế hoạch liên quân
Macedonia - Hy Lạp đi xâm lăng Ba Tư. Philipos II thấy mình chưa đủ mạnh, nên có ý chần chờ. Đến
đời Alexandros Đại đế thì mới khởi binh.
Alexandros Đại đế (356 TCN - 323 TCN), đã chinh phạt đế quốc Ba Tư, và đánh bại vua Darius III tại
trận Issus năm 333 TCN và vào đến Ai Cập năm 332 TCN. Lúc bấy giờ quan thống đốc ('satrap') Ai Cập
là Mazaces mở rộng cửa giao Ai Cập cho Alexandros. Alexandros không phải đánh trận nào, lại còn
được Mazaces đánh dùm một đoàn quân đánh thuê người Hy Lạp đang phục vụ đế quốc Ba Tư.
Dân chúng Ai Cập vốn ghét người Ba Tư đã ngạo mạn khinh dể tông miếu, thần linh xứ họ, nên tiếp đón
Alexandros nồng nhiệt. Vị vua 24 tuổi này biết khôn khéo tránh điều lầm lỗi của người Ba Tư, đã vào
đền Ptah tế lễ và lên ngôi 'pharaon'. Ông đi hành hương ở ốc đảo Siwa, và tại đây được đồng cốt ứng nói
ông là con của thần Amon-Ra [1]. Tên tiếng Hy Lạp của ông vốn là "Alexandros", ông được gọi bởi dân
Ai Cập là 'pharaoh' "Alexandres".
Năm 331 TCN, ông ra lệnh xây hải cảng Alexandria, với ý định đặt thành phố này làm kinh đô. Rồi ông
rời Ai Cập để tiếp tục cuộc chinh phạt. Những năm kế tiếp, ông chỉ thực sự đóng đô tại các thành phố
Susa, Ecbatane và Babylon ở Iran và Iraq.
1

Alexandros Đại đế đã chiếm được trọn đế quốc Ba Tư, nhưng vào năm 323 TCN, ông mất khi tuổi mới
33 tại Babylon. Vài tháng trước khi mất, ông tập trung lực lượng để chuẩn bị mở rộng thêm bờ cõi.
Quân sĩ của ông đã quá chán vào sinh ra tử để phục vụ giấc mộng bá chủ hoàn cầu của ông, nên đã nổi
loạn. Trong cuộc loạn đó, họ đã hô những khẩu hiệu như:
"Ông muốn chinh phục thêm thì cứ việc! Nhưng khỏi kêu bọn tôi! Chỉ mình ông và cha ông là
thần Amon cũng đủ!".[2]
Điều này chứng tỏ rằng Alexandros Đại Đế dù xa Ai Cập lâu ngày, nhưng vẫn thường xuyên nói mình
là con của thần Amon xứ Ai Cập.
[sửa] Cleomenes của Naucratis (331 TCN - 323 TCN)
Khi rời Ai Cập, vị vua trẻ đã giao vùng Cyrenaica nay thuộc đông bộ Libya cho Appollonios cai quản.
Đất Ai Cập được chia làm ba phần, hai phần trong nội địa giao cho hai người Ai Cập cầm quyền, còn
vùng châu thổ sông Nile và duyên hải giao cho các tướng Peucestas, Balacros, Pantaleon, Lycidas và đô
đốc Polemon, cộng tác với quan "nomarch" lo việc thu thuế là Cleomenes. Dần dần, tất cả quyền chính ở
Ai Cập đều vào tay Cleomenes. Để phân biệt với những người trùng tên, người ta gọi ông là "Cleomenes
của Naucratis" theo cách thông dụng xưa ở Hy Lạp. Naucratis là tên thành phố ông cư ngụ.
Cleomenes là người tham lam. Có lần ông quỵt không trả một tháng tiền lương của lính. Ông đầu cơ tích
trữ, chờ lúc thất mùa (năm 329 TCN) thì bán lúa mì giá thật cao, lại tăng thuế xuất khẩu thực phẩm đi
Hy Lạp. Ông cũng đánh thuế rất cao các loài thú mà tín ngưỡng cổ Ai Cập coi là "linh vật" nên các tu sĩ
Ai Cập oán giận lắm. Nhiều người Ai Cập gởi đơn khiếu nại đến Alexandros Đại đế. Alexandros cho
Cleomenes chuộc tội bằng cách tiếp tục xây thành Alexandria và xây đền thờ thần Hephestion.
Thành phố Alexandria mới xây, thiếu người ở. Cleomenes đánh thuế thật cao dân chúng thành
Canopus[3] gần đó. Ai không nộp thuế nổi phải di cư sang Alexandria.
Bài chi tiết: Cleomenes của Naucratis
[sửa] Thống đốc Ptolemaios và chiến tranh Diadochi (323 TCN - 305 TCN)
Alexandros Đại đế qua đời vào tháng 6 năm 323 TCN. Các tướng lãnh và đại thần hội nghị ở Babylon,
tôn người anh khác mẹ của Alexandros là Philipos III (359 TCN - 317 TCN) - lớn hơn Alexandros 3
tuổi - nối ngôi. Philipos III trí khôn vốn kém phát triển từ thuở bé, nên chỉ làm vua lấy vì. Quyền nhiếp
chính ở tay tướng Perdikkas. Hội nghị cũng quyết định sẽ tôn một đứa con còn là bào thai - của một
hoàng phi người Hy Lạp - của Alexandros Đại đế khi nào chào đời là Alexandros IV (323 TCN - 308
TCN) lên ngôi.
Hội nghị Babylon cũng bổ nhiệm một số thống đốc tỉnh, vẫn gọi là chức satrap theo hệ thống hành
chính Ba Tư. Đất Ai Cập được giao cho tướng Ptolemaios, một trong 7 vị cận thần của Alexandros Đại
Đế. Việc làm quan trọng đầu tiên khi Ptolemaios đặt chân vào Ai Cập vào cuối năm 323 TCN là ông cho
xử án và tử hình Cleomenes, người phó thống đốc của mình. Cleomenes chết, Ptolemaios vừa loại trừ
được một kình địch, vừa được lòng dân và quân sĩ đất Ai Cập.
Việc làm quan trọng thứ nhì của Ptolemaios là chiếm vùng Cyrenaica ở đông bộ Libya. Việc này tuy
nằm trong kế hoạch đã được các tướng bàn thảo tại Babylon, nhưng có lẽ ông đã thực hiện và thành
công quá sớm, làm chấn động các tướng khác, nhất là quan nhiếp chính Perdikkas, khiến loạt chiến
tranh Diadochi (322 TCN - 301 TCN) đã bùng nổ. Lần đầu tiên trong lịch sử, một cuộc chiến đã liên can
đến nhiều vùng của cả 3 châu Á, Âu, và Phi.
2

Được thái hậu Olympias, mẹ của Alexandros Đại đế, mời về Macedonia để loại trừ quan giám quốc
Antipatros, tướng Perdikkas thừa dịp về ngay để tiến hành thêm mưu định của ông: 1) Cưới Kleopatra
của Macedonia (khoảng 356 TCN - 308 TCN), chị/em gái của Alexandros Đại đế. 2) Tổ chức đám tang
Alexandros tại quê nhà, và, lên ngôi vua. Không may cho Perdikkas, nhiều việc xảy ra ngoài sự tiên liệu,
ông ứng biến vụng về mà độc đoán, làm mất lòng dân, và mất lòng công chúa Kleopatra, khiến bà [4]
nhất quyết không ưng ông. Còn linh cữu của Alexandros Đại đế về đến Syria thì gặp Ptolemaios đem
đại quân đến rước, phải đổi hướng đi Ai Cập. Ptolemaios cho tạm táng Alexandros Đại đế tại Memphis,
trong khi cho xây lăng quy mô ở Alexandria.
Perdikkas giận Ptolemaios đoạt linh cữu, đem binh thủy bộ đánh Ai Cập năm 321 TCN. Quân Perdikkas
không lấy nổi thành Peluse, thành "Bức Tường Lạc-Đà" và cũng không qua nổi sông Nile. Perdikkas
hống hách, bị giết trong lều bởi hai tướng theo tùng chinh là Peithon và Seleukos.
Vương quốc của Ptolemaios
Các vương quốc diadochi khác:
Vương quốc của Kassandros
Vương quốc của Lysimachos
Vương quốc của Seleukos
Ipiros
Các lãnh thổ khác:
Carthage
La Mã
Các thuộc địa của tộc Hy Lạp
Lãnh thổ của tướng Ptolemaios rộng lớn không thua lãnh thổ của một vài pharaon vĩ đại nhất, với miền
đông Libya, Palestine, Syria, nhiều vùng đất trên bán đảo Thổ Nhĩ Kỳ, đảo Kypros và nhiều đảo ở biển
Aegean. Trong chiến tranh Diadochi (322 TCN - 301 TCN) và cuộc chiến không tên sau đó, ông đã
được và mất nhiều vùng, nhưng Ai Cập thì luôn giữ được.
Năm 308 TCN, có lẽ với ý định dốc toàn lực chiếm Hy Lạp và Macedonia, tướng Ptolemaios đã bỏ
Alexandria mà dời triều đình và bộ tham mưu sang đảo Cos. Năm 305 TCN, hải quân ông bị hải quân
của tướng Demetrios đánh bại tại Salamis ở Cyprus [5] khiến ông bị mất thế bá chủ trên biển ở miền đông
Địa Trung Hải. Trọng tâm của ông lại được dời về Ai Cập.
[sửa] Pharaon Ptolemaios I Soter (305 TCN - 282 TCN)
Bài chi tiết: Ptolemaios I Soter
3

Tượng Ptolemaios Soter ở viện bảo tàng Louvre, Pháp.
Ptolemaios, cũng như các "sứ quân" diadochi đều muốn lợi dụng danh nghĩa của gia đình Alexandros
Đại đế để thống nhất đế quốc. Nhưng từng người một trong gia đình này đều gặp phải một chung cuộc
không tốt do cuộc chiến tranh quyền này. Năm 317 TCN, thái hoàng thái hậu Olympias đánh thắng con
ghẻ là vua Philipos III[6] , rồi cho lính giết vua, khi đó Philipos mới 42 tuổi. Sau đó, Olympias ép
Eurydice, hoàng hậu của Philipos III phải tự tử. Công chúa Kleoptatra lần lượt được hỏi cưới bởi các "sứ
quân" Kassandros, Lysimachos, Antigonos nhưng bà không ưng. Cuối cùng bà ưng tướng Ptolemaios
nhưng bị tướng Antigonos giết năm 308 TCN trước khi gặp được Ptolemaios để cử hành hôn lễ. Thái
hậu Roxana (vợ Alexandros Đại đế) và tự quân Alexandros IV thì bị tướng Kassandros cho người giết
chết cũng năm 308 TCN (có tài liệu cho là 311, 310 hoặc 309 TCN). Heracles, con tư sinh của
Alexandros Đại đế và tiểu thơ Barsine, con gái quan thống đốc satrap tỉnh Phrygia được quan nhiếp
chính Polyperchon rước toan tôn làm vua, nhưng tướng Kassandros mua chuộc được Polyperchon, khiến
Polyperchon giết cả mẹ con Barsine và Heracles năm 308 TCN.
Năm 306 TCN, tướng Antigonos xưng basileos (vua), khiến các tướng khác lần lượt làm theo.
Ptolemaios cũng xưng pharaon năm sau (305 TCN). Năm đó, ông đem quân đến đảo Ródos. Ở đó, họ
gọi ông là "cứu tinh", tiếng Hy Lạp gọi là "Soter". Vì vậy, ông được gọi là Ptolemaios Soter từ đó. Cùng
năm đó, Kassandros xưng basileos ở Macedonia, và Seleukos xưng basileos ở các vùng Syria, Iraq, Iraq,
Afghanistan và phụ cận.
Vương quốc của họ Ptolemaios và các lân bang năm 301 TCN.
Ptolemaios I Soter, ngoài công trình khởi nghiệp, cũng là vị vua vĩ đại nhất của nhà Ptolemaios, với
những xây dựng của ông. Vào khoảng năm 297 TCN, ông đã cho khởi xây ngọn hải đăng Alexandria, kỳ
4

Năm 285 TCN, Ptolemaios I Soter lập con trai của quý phi Berenice I là Ptolemaios II Philadelphos làm
vua chung với ông. Hai cha con cùng trị vì đến năm 283 TCN thì Ptolemaios I Soter qua đời, hưởng thọ
84 tuổi.
[sửa] Ptolemaios Keraunos
Ptolemaios Keraunos, con trai của nguyên phi Eurydice, không được truyền ngôi, nên oán giận, chạy
sang vương quốc Seleukos ở Á Châu nhờ giúp đỡ. Thời cuộc đưa đẩy, ông được nối ngôi cậu là
Kassandros làm vua Macedonia năm 281 TCN. Được làm vua rồi thì lòng tự ái của ông thỏa mãn, nên
ông không đánh Ai Cập, mà lại hoà thuận với em trai là vua Ptolemaios II Philadelphos của Ai Cập.
Bài chi tiết: Ptolemy Keraunos
[sửa] Pharaon Ptolemaios II Philadelphos (285 TCN - 246 TCN)
Bài chi tiết: Ptolemaios II Philadelphos
Ptolemaios II là vua đầu tiên của nhà Ptolemaios được các giáo sĩ Ai Cập làm lễ tôn làm pharaon. Ông
lại được lòng người Ai Cập hơn nữa khi ông noi theo tích thần vương Osiris kết duyên với em gái là
thần Isis - cưới chị là Arsinoe Philadelphos và cả hai cùng làm "con thần" ngự trị xứ Ai Cập.
Người hoàng hậu đầu tiên của ông là Arsinoe I, con gái vua Lysimachos xứ Thrace, bị ông truất phế, để
tấn phong Arsinoe II là chị cùng cha cùng mẹ với ông. Cổ tục Hy Lạp cấm điều này, mà chỉ cho phép
anh hoặc chị em cùng cha khác mẹ lấy nhau. Người Macedonia và Hy Lạp xem điều này là đặc biệt, nên
đặt cho cả ông lẫn hoàng hậu Arsinoe II ngoại hiệu "Philadelphos", có nghĩa là "người lấy anh/em trai"
và "người lấy chị/em gái"[7]. Từ đấy trở đi, việc anh hoặc chị em trong gia đình hoàng tộc lấy nhau - theo
tục lệ Ai Cập - và cùng trị nước trở thành thông lệ trong triều đại Ptolemaios.
Arsinoe II là người có tiếng tàn ác và thích mở rộng lãnh thổ. Bà lớn hơn vua Ptolemaios II đến 7 tuổi,
nhưng vì say mê bà, vua Ptolemaios II đã chăm lo thôn tính các lân bang. Ông chiếm lại được nhiều
vùng đất mà tiên vương Ptolemaios I Soter đã mất vào giai đoạn chiến tranh Diadochi lần thứ tư (308
TCN - 301 TCN) và đô hộ thêm nhiều vùng đất khác. Trong cuộc chiến tranh Syria lần thứ nhất (274
TCN - 271 TCN) chống nhà Seleukos ở Tây Á, ông toàn thắng. Nhà thơ Theocrite, trong tác phẩm
"Tuyên dương Ptolemaios", đã liệt kê các sắc dân trong vương quốc của ông: người Ethiopia da đen,
người quần đảo Cyclades ngoài khơi Hy Lạp, người Ả Rập (ở bán đảo Sinai và các vùng lân cận), người
vùng Cyrenaica, nhiều sắc dân ở Tiểu Á.
Sau cuộc chiến tranh Syria lần thứ hai (260 TCN - 253 TCN), ông ký hoà ước với vương quốc Seleukos,
điều khoản như sau: ông gả con gái là Berenice, con của hoàng hậu Arsinoe I cho vua nhà Seleukos là
Antiokhos II, với một gia tài khổng lồ làm của hồi môn. Ngược lại, vua Antiokhos II phải từ hôn và truất
phế hoàng hậu Laodice I, và phải lập con tương lai của công chúa Berenice làm đông cung thái tử.
Sự xa hoa của triều đình Alexandria đạt đến cao điểm vào thời ông. Vài tài liệu như "Bài thơ dã tình
(Idylle) thứ XV" của Theocrite kể lại những buổi lễ hội rước thần thật linh đình[8].
[sửa] Pharaon Ptolemaios III Euergetes (246 TCN - 222 TCN)
Bài chi tiết: Ptolemaios III Euergetes
5

