BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HÀ MINH CHÂU
JACK LONDON Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
TP. HỒ CHÍ MINH-1998
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc Phó Giáo sư LƯƠNG DUY TRUNG, người trực
tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình làm luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn:
Các giáo sư đã giảng dạy
Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo sau Đại học, cùng Ban Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn
Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
Ban Giám hiệu Trường Cao đẳng Sư phạm TP. Hồ Chí Minh. Gia đình và bạn bè đã
tạo điều kiện và tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành công trình này.
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................. 4
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................... 5
MỤC LỤC ......................................................................................................................... 6
PHẦN DẪN NHẬP ........................................................................................................... 9
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: ....................................................................................................... 9
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ............................................................................................................. 11
3. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU ................................................................... 16
3.1.Đối tượng nghiên cứu: .................................................................................................. 16
3.2.Phạm vi nghiên cứu: ..................................................................................................... 16
4.MỤC TIÊU CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN .................... 17
5.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................................................... 17
6.CÂU TRÚC CỦA LUẬN ÁN .............................................................................................. 17
CHƯƠNG 1: NHỮNG TIÊN ĐỀ LỊCH SỬ - XÃ HỘI - TƯ TƯỞNG - VĂN HÓA
CỦA VIỆC TIẾP NHẬN VĂN HỌC MỸ VÀ JACK LONDON Ở VIỆT NAM ..... 19
1.1. Những tiền đề lịch sử - xã hội - tư tưởng - văn hóa của việc tiếp nhận văn học Mỹ và
Jack London ở Việt Nam: ...................................................................................................... 19
1.1.1. Bối cảnh xã hội - lịch sử của việc tiếp nhận văn học Mỹ nói chung và Jack London nói riêng: ............................................................................................................................. 19
1.1.2. Vài nét về giao lưu văn hóa - văn học ở Việt Nam: ................................................. 21
1.1.3. Vài nét về lý luận tiếp nhận văn học: ....................................................................... 22
1.2.Tình hình tiếp nhận văn học Mỹ và Jack London ở Việt Nam ..................................... 27
1.2.1. Vài nét về truyền thống, hiện thực nước Mỹ và văn học Mỹ: .................................. 27
1.2.2.Tình hình tiếp nhận văn học Mỹ và Jack London ở Việt Nam:................................. 31
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ GIỚI THIỆU VÀ NGHIÊN CỨU JACK LONDON Ở VIỆT
NAM ................................................................................................................................. 36
2.1.Quá trình giới thiệu và nghiên cứu Jack London .......................................................... 36
6
2.1.1.Thống kê các bài giởi thiệu và nghiên cứu Jack London: ......................................... 36
2.1.2.Nguyên nhân phát triển của quá trình nghiên cứu và giới thiệu Jack London ở Việt Nam: ................................................................................................................................... 40
2.2.Nhận xét về nội dung nghiên cứu và giời thiệu Jack London: ..................................... 42
2.2.1.Những ý kiến nhận định giống nhau ......................................................................... 42
2.2.2.Những ý kiến nhận định khác nhau ........................................................................... 49
2.3.Một số suy nghĩ và đê xuất về vấn đề giđi thiệu và nghiên cứu Jack London: ............ 50
2.3.1.Một số suy nghĩ về vấn đề giới thiệu và nghiên cứu Jack London: .......................... 50
2.3.2.Một số đề xuất về nhu cầu tiếp nhận Jack London: .................................................. 56
HƯƠNG 3: VẤN ĐỀ DỊCH TÁC PHẨM JACK LONDON ..................................... 60
3.1.Dịch văn học ở Việt Nam ................................................................................................. 60
3.1.1.Quan niệm về nghệ thuật dịch ................................................................................... 60
3.1.2.Quan niệm về một bản dịch hay ................................................................................ 63
3.2.Dịch tác phẩm Jack London ở Việt Nam: ....................................................................... 65
3.2.1.Thống kê các tác phẩm đã dịch: ................................................................................ 65
3.2.2.Nhận xét về quá trình dịch tác phẩm Jack London ở Việt Nam: ............................... 71
3.2.3.Về các bản dịch: ........................................................................................................ 76
3.2.3.1.Nhận xét chung: ................................................................................................. 76
3.2.3.2.Một số ví dụ về độ lệch giữa nguyên tác và bản dịch ........................................ 78
3.2.3.3.Một số ví dụ về " đạt" và " nhã " trong các bản dịch: ....................................... 83
3.2.3.4.Về đoạn văn dịch "Con Chó Bấc" trong chương trình văn lớp bảy................... 88
3.2.4.Ý nghĩa của vấn đề dịch và giới thiệu tác phẩm Jack London .................................. 89
3.2.5.Một số đề xuất về việc dịch tác phẩm Jack London: ................................................. 91
CHƯƠNG 4: JACK LONDON TRONG NHÀ TRƯỜNG ........................................ 93
4.1.Jack London trong chương trình giảng dạy: ................................................................. 93
4.1.1.Jack London trong chương trình bậc Đại học và Cao đẳng: ..................................... 93
4.1.2.Jack London trong chương trình phổ thông: ............................................................. 94
4.2.Jack London trong nội dung giảng dạy và học tập ........................................................ 96
7
4.2.1.Ở bậc Đại học và Cao đẳng ....................................................................................... 96
4.2.1.1.Nội dung giới thiệu Jack London: ...................................................................... 96
4.2.1.2.Điều tra thực tế: ................................................................................................. 98
4.2.2.Ở Trường trung học cơ sở:....................................................................................... 100
4.2.2.1.Nội dung giảng dạy và học tập: ....................................................................... 100
4.2.2.2.Điều tra thực tế: ............................................................................................... 102
4.3.Nhận xét chung về vấn đề giảng dạy và học tập Jack London trong nhà trường. ..... 104
4.4.Một số đề xuất về vấn đề giảng dạy Jack London trong nhà trường .......................... 110
PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................................................... 115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 118
TIẾNG VIỆT: ....................................................................................................................... 118
TIẾNG ANH: ....................................................................................................................... 123
PHỤ LỤC ...................................................................................................................... 124
PHỤ LỤC 1: ......................................................................................................................... 124
PHỤ LỤC 2: ......................................................................................................................... 128
PHỤ LỤC 3: ......................................................................................................................... 131
8
PHẦN DẪN NHẬP
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Nói đến văn học Hoa Kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, người đọc không thể không
nhắc đến Jack London, nhà văn hiện thực nổi tiếng.
Tuy không đoạt giải Nobel văn chương như các nhà văn Mỹ tên tuổi (Sinclair Lewis,
William Faulkner, Pearl Buck, John Ernest Steinbeck, Ernest Hemingway ...), tuy không được
xem là nhà cách mạng về phương diện thể loại truyện ngắn như E. Hemingway (dù rằng hầu
như Jack London thu hút nhiều lớp độc giả qua các truyện ngắn), nhưng Jack London vẫn là "
một trong số những nhà văn được nhiêu người biết đến và có tác phẩm phong phú nhất
trong thời đại của ông"[ 77, 406 ].
Cuộc đời đầy sóng gió, đầy biến động của Jack London, sự nỗ lực vượt khó để trở thành
nhà văn, tính hiện thực và tư tưởng của tác phẩm ... tất cả đã đưa người đọc đến với Jack
London, thôi thúc sự tìm hiểu về thế giới văn chương nghệ thuật của tác giả.
Ở Việt Nam, tên tuổi Jack London đã trở nên quen thuộc với nhiều lớp độc giả. Chẳng
những thế, Jack London và những sáng tác của ông ngày càng được quan tâm, cụ thể là ở các
lĩnh vực: nghiên cứu, dịch thuật và giảng dạy.
Đề tài "Jack London ở Việt Nam" được chúng tôi đưa ra và quan tâm vì những lý do sau:
1. Jack London là một nhà văn khá quen thuộc trên văn đàn Mỹ cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX, đã để lại một sự nghiệp sáng tác khá đô sộ:
Với những khát vọng mãnh liệt trong cuộc sông và sáng tạo, Jack London đã sống một
cuộc đời phiêu lưu, từng trải, dấn thân và cống hiến để vượt qua thử thách của cuộc sống, để
đạt được những điều mình mong muốn - trong đó cố việc trở thành nhà văn nổi tiếng. Jack
London đã đưa vào tác phẩm của mình (hơn hai ữãm tác phẩm bao gồm nhiều thể loại) những
gì biểu hiện về thời đại ông đang sông. Đó là hiện thực của đất nước, xã hội và con người Mỹ
vốn cực kỳ phong phú và phức tạp. Jack London mang lại vinh dự cho nước Mỹ không phải từ
giải thưởng mà từ những tên gọi tôn vinh do người Mỹ và độc giả các nước khác đặt cho:
9
- "Jack Lonđon, người lãng du, nhà tiểu thuyết và nhà cải cách xã hội" (H.M. Bland -
Mỹ).
- "Jack London, ngọn đèn hiệu của nên văn học Mỹ" (Lewis Mumford - Mỹ).
- "Jack London, một trong những nhà văn vô sản đâu tiên ở phương Tây" (Bách khoa
toàn thư về văn học - Liên Xô).
- "Jack London, nhà viết tiểu thuyết đã sống với những cuốn sách của mình" (Francis
Lacassin - Pháp).
- "Jack London, nhà văn tiến bộ trong gừii đoạn cuối thế kỷ XIX, đâu thế kỷ XX ở Mỹ"
(Từ điển văn học - Việt Nam).
- "Jack London, nhà văn hiện thực Mỹ nổi tiếng" (Những nền văn minh thế giới - Việt
Nam).
2.Jack London được dịch, nghiên cứu và giởi thiệu ở Việt Nam từ rất lâu, nhưng
chưa có những công trình nghiên cứu cụ thể về quá trình này.
Jack London và tác phẩm của ông thu hút sự quan tâm của độc giả Việt Nam thể hiện ở
quá trình dịch, nghiên cứu và giới thiệu nhà văn và tác phẩm. Quá trình ấy có sự thay đổi về số
lượng và chất lượng theo thời gian. Tuy nhiên, chưa có công trình nào tìm hiểu và giải thích về
sự thay đổi ấy.
Quá trình dịch, nghiên cứu và giới thiệu Jack London từ những năm 80 đã có sự gia tăng
về số lượng và chất lượng so với trước kia. Điều đó đã khẳng định sự quan tâm ngày càng
nhiều của độc giả Việt Nam đối với nhà văn này. Tìm hiểu, khai thác và lý giải về điều này
cũng là mong muốn của chúng tôi. Bởi lẽ, bản thân chúng tôi cũng đã từng và vẫn luôn yêu
thích, bị thu hút vì những câu chuyện ly kỳ, hấp dẫn của Jack London và vì những bộ phim tràn
đầy ý nghĩa của sự tranh đấu được chuyển thể từ các tác phẩm của ông.
3.Jack London được đứa vào chương trình giảng dạy , nhưng chứa có công trình,
bài viết tìm hiểu về việc giảng dạy và học tập tác giả này trong nhà trường.
Giáo trình văn học nước ngoài ở các trường Cao đẳng và Đại học chuyên nghiệp đề cập
đến Jack London trong sự giới hạn của cấu tạo chương trình chung và sự quy định về thời gian.
10
Do vậy, đất dành riêng cho ông chưa nhiều. Tuy nhiên, sự hiện diện của Jack London cùng với
đoạn trích " Con chó Bấc " trong " Tiếng gọi nơi hoang đã " ở chương trình bậc Trung học cơ
sở phải chăng cũng là một trong những nhân tố chính để khẳng định vị trí của Jack London ở
Việt Nam ?
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn và đi vào nghiên cứu đề tài "
Jack London ở Việt Nam".
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Jack London là nhà văn xuất thân từ cuộc sống khốn khó, nhờ vào năng lực của mình mà
xây dựng được một sự nghiệp văn chương đồ sộ. Cuộc đời và sự nghiệp của ông khiến các nhà
nghiên cứu nói riêng và độc giả nói chung quan tâm.
Tìm hiểu về Jack London, giới nghiên cứu phê bình văn học ở Mỹ và các nước đã đứng ở
những góc độ khác nhau để có những nhìn nhận và đánh giá khác nhau về tác giả này: Jack
London là một nhà văn thiên tài, Jack London chỉ đơn thuần là một nhà văn viết truyện giải trí,
Jack London là một nhà văn chiến sĩ, Jack London là nhà hoạt động xã hội...
Ở Mỹ, quê hương của Jack London, nhà văn được tiếp nhận và đánh giá với hàng loạt
công trình nghiên cứu. Dưới đây là một số công trình và bài viết tiêu biểu.
Viết về cuộc đời Jack London, "Through the South Sea with Jack London" (Xuyên biển
Nam với Jack London) của Martin E. Johnson, "Jack London, what he was and what he
accomplished " (Jack London, ông là ai và đã tự hoàn thiện như thế nào) của Grace I. Colbron,
"Sailor on houseback : The biography of Jack London" (Thủy thủ trên yên ngựa : cuộc đời
của Jack London) của Irving Stone ... nhìn chung đều xem ông là một nhà văn có số phận đặc
biệt, đầy sóng gió, một nhà văn có cá tính.
Viết về tư tưởng và thái độ chính ưị của Jack London có "Jack London, the new
Republic" (Jack London, người Cộng hòa mới) của Lewis Mumford, "Jack London, the
wonder boy" (Jack London, chú bé lang thang) của Charles s. Walcutt, "The American rebel"
(Người Mỹ nổi loạn) của Philip S. Fones ... về mặt này, Jack London được xem là nhà văn vô
sản đầu tiên của thế giới phương Tây , là một ương những biểu tượng cách mạng ương lịch sử
Mỹ, hay là “người Mỹ nổi loạn”.
11
Dưới góc độ tiếp cận tác phẩm để nhận ra giá trị của chúng, các nhà nghiên cứu có những
đánh giá rất đa dạng. Trong lời đề tựa tuyển tập “Best short stories of Jack London”, Eugene
Burdick cho rằng Jack London đã viết với những rung cảm hầu như tuyệt vời, đã "đem cái thế
giới man dại và đã biến tích ấy làm cho nó sống động trước mắt độc giả ngày nay [86, 4 ].
Các tác giả Andrew J. Porter, Henry L.Terric, Edward J. Gordon với công trình nghiên cứu
"American Literature" lại đánh giá nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn của Jack London "có vẻ là
công việc của một nhà văn viết thuê, nhưng một số quyển là những tác phẩm kinh điển
nhỏ"[ 84, 526 ], có nghĩa là không phải tất cả các tác phẩm đều có giá trị như nhau.
Ở Liên Xô trước đây, Jack London được xem là "một trong những nhà văn được yêu
thích nhất". Bách khoa toàn thư về văn học của Liên Xô (tập 4) viết: "Các nhà nghiên cứu
hiện đại đã làm sáng tỏ những quan niệm nghệ thuật độc đáo của văn xuôi Jack Londotiy
cũng như mối quan hệ của ông với nên văn học tiến bộ Mỹ và Nga cùng với các phong trào
xã hội" [44, 286].
Riêng ở Việt Nam, Jack London được dịch và giới thiệu với nhiều loại độc giả trên sách
báo, các công trình nghiên cứu và tác phẩm dịch, nhưng chưa có sự tổng kết và đánh giá.
1.Những bài nghiên cứu và giđi thiệu trên sách báo:
Ở những bài viết này, cuộc đời và hoạt động của Jack London được chú trọng giới thiệu
và nghiên cứu, chẳng hạn như về tiểu sử, đời tư, quá trình phấn đấu, tư tưởng chính trị ... Sự
giới hạn của những trang báo ít nhiều khiến nhà nghiên cứu phải lựa chọn và giới hạn vấn đề
khi giới thiệu.
Trước năm 1975, tác giả Thanh Tâm với bài viết "Văn hào Jack London" (1960), Từ
Trẫm Lệ với "Một cuộc đời phiêu bạt tên London" (1965) viết về cuộc đời lang thang và tấm
gương vượt khó của Jack London. Ở miền Bắc (1966), Đỗ Đức Dục viết về quan điểm chính trị
và thái độ đứng về phía những người bị áp bức của Jack London trong bài "Giấc mơ đầu thế kỷ
của Jack London".
Từ sau năm 1975, Jack London vẫn được chú trọng nghiên cứu và giới thiệu với các bài
viết ttên tạp chí Văn học và Kiến thức Ngày nay: "Jack London và cuộc đấu tranh giai cấp,
đâu tranh dân tộc" của Lê Đình Cúc, "Jack London, những trang đời bị quên lãng" của
12
Thanh Huyền đã khẳng định quan điểm của Jack London về đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân
tộc và sự cống hiến của Jack London trong hoạt động xã hội. Trần Thế Quân với "Những
người đàn bà trong đời của Jack London" ,Thanh Huyền với "Jack London, những trang đời
bị quên lãng" đã viết về đời tư Jack London với những mối tình thiếu suông sẻ.
Ngoài ra, trong những bộ sách và công trình nghiên cứu về những vấn đề lớn như vấn đề
văn minh, văn học thế giới, vấn đề văn hóa, văn học Mỹ ... cũng có đất dành riêng cho Jack
London với những bài viết có đầu đề hẳn hoi, điểm qua những nét nổi bật về cuộc đời và tác
phẩm của Jack London (London , Jack London- nhà văn vô sản Mỹ đầu tiên , Jack London -
nhà văn hiện thực Mỹ nổi tiếng ...) . Đó là các bài viết về Jack London trong "Từ điển văn học
" "Những nền văn minh thế giới” "Hồ sơ văn hóa Mỹ " (Hữu Ngọc), "Hành trình văn học
Mỹ” (Nguyễn Đức Đàn), "Ấn tượng văn chương" (Lữ Huy Nguyên) ...
2. Những bài giới thiệu sách:
Đó là những bài giới thiệu, đề từ ở đầu những tác phẩm được dịch và phổ biến rộng rãi.
Có khi đó là bài viết của chính dịch giả, có khi là của nhà xuất bản hoặc của một tác giả khác.
Có những bài giới thiệu chung chung, sơ lược về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác như các
bài giới thiệu trong tập truyện "Tiếng gọi nơi hoang dã" do Bùi Việt Hồng dịch, "Từ bỏ thế
giới vàng" do Đặng Quốc Thanh và Nguyễn Mạnh Bùi Nghĩa dịch, "Nanh trắng" do Bảo
Hưng và Trứng Dũng dịch.
Có những bài chỉ giới thiệu về tác phẩm ấy và cũng chỉ tập trung vào nội dung phản ánh
tính tư tưởng của nó. Đó là trường hợp của các bài giới thiệu trong "Gót sắt" do Vũ Cận dịch,
"Martin Mon" do Bùi Phụng và Bùi Ý dịch, " Văn phòng ám sát" do Đặng Thu Hương dịch,
"Cô gái băng tuyết" do Đào Xuân Dũng dịch.
Trong các tập truyện "Tiếng gọi nơi hoang dã" (Mạnh Chương và nhiều người dịch), "Sự
im lặng màu trắng" và "Sóng lớn Canaca" (nhiều người dịch), trong tác phẩm "Cơn sốt vàng"
(Thanh Việt Thanh dịch), các bài giới thiệu đã nêu lên nhiều vân đề cụ thể, chi tiết về quá trình
sống và hoạt động của Jack London, sự phát triển của tư tưởng, cả những thành công và hạn
chế trong sáng tác của nhà văn.
13
Từ những quan niệm và đánh giá của các tác giả, có thể thấy Jack London được xem là
một nhà văn có cuộc đời ngắn ngủi nhưng vô cùng phong phú, là nhà văn vô sản đầu tiên trong
thế giới phương Tây, là nhà văn hiện thực nổi tiếng đã đưa cuộc sống vào trong tác phẩm rất
thành công, là nhà văn có sắc thái riêng ương sáng tạo ...
Bài giới thiệu trong hai tập truyện "Sự im lặng màu trắng" và "Sóng lớn Canaca" của
nhà xuất bản Tác phẩm mới nhận định : "Giắc Lănđơn sống một cuộc đời ngắn ngủi nhưng
tràn đây các sự kiện và ấn tượng. Xuất hiện bất ngờ và nổi tiếng nhanh chóng trong chưa
đầy hai chục năm sáng tác, ông đã để lại một di sản văn học khổng lồ. Tuy không đều nhau
về giá trị tư tưởng và nghệ thuật, di sản ấy cũng giúp ông dễ dàng trở thành một trong
những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Mỹ, có ảnh hưởng lớn đến nhiều nhà văn các thế
hệ tiếp theo, không chỉ ở trong nước mà còn ở các nước khác" [44, 5 ].
3. Những bài viết về các vấn đề khác có nhắc đến Jack London:
Sự xuất hiện của Jack London trong những công trình, bài viết về các vấn đề khác tuy có
độ đậm nhạt khác nhau; có lúc chỉ là nêu tên, nhắc qua; có lúc dùng để liên hệ, so sánh hay
khẳng định, phân tích, chứng minh cho một luận điểm nào đó ... nhưng tất cả đều có ý nghĩa
khẳng định dấu ấn của Jack London trong lĩnh vực nghiên cứu ở Việt Nam.
"Hương sắc trong vườn văn" (Nguyễn Hiến Lê) trong phần nêu kinh nghiệm viết văn của
một số nhà văn có nêu kinh nghiệm của Jack London.
"Ba nhà văn hiện đại" (Hoàng Nhân) dẫn chứng về sự khác nhau trong miêu tả (đấu
Quyền Anh) giữa Hemingway và Jack London.
"Đại cương văn học sử Hoa Kỳ" (Đắc Sơn) nhắc đến Jack London trong đoạn nói về việc
phản ánh hiện thực xã hội miền Tây nước Mỹ của các nhà văn Mỹ.
"Truyện ngắn Mỹ hiện đại" (Lê Huy Bắc) trên tạp chí Văn học nước ngoài, trong phần
liệt kê tên tuổi những bậc thầy truyện ngắn Mỹ có tên Jack London.
"Tình hình giới thiệu và nghiên cứu văn học Mỹ ở Việt Nam" (Mai Hương -Nguyễn thị
Huế) giới thiệu Jack London về nhiều mặt (số lượng tác phẩm dịch, thể loại, nội dung và giá trị
của các tác phẩm).
14
"Văn hóa văn nghệ phục vụ chả nghĩa thực dân mới Mỹ tại miền Nam Việt Nam"
(Trần Trọng Đăng Đàn) đề cập đến Jack London khi nói về việc tên tuổi của những cây bút tiến
bộ Mỹ bị Mỹ - nguy lợi dụng xuyên tạc.
Mỗi nhà nghiên cứu, từ góc nhìn và sự cảm nhận cá nhân, từ ý thích và nội dung, mục
đích viết của mình, đã có những phát hiện khác nhau về Jack London.
Mặt khác, việc giới thiệu những giai thoại về Jack London với những câu chuyện "Tìm
vàng", "Sáng tác bằng chân", "Công thức của bà" và "Những bí ẩn trong cuộc đời nhà
văn" là những câu chuyện góp phần làm phong phú thêm cho quá trình nghiên cứu và giới
thiệu Jack London ở Việt Nam.
4. Những bài viết trong giáo trình, giáo khoa, luận văn và luận án:
Bộ sách "Văn học phương Tây" (nhiều tác giả), sách dùng chung cho các trường Đại học
Sư phạm, không có chương, bài dành riêng cho Jack London nhưng ở chương "Ơnixt
Heminguây” phần văn học thế kỷ XX khi liên hệ đến Jack London, Đặng Anh Đào nhận định
Jack London là "một trong những nhà văn ở tầm cỡ lớn do tính chất phổ cập của tác phẩm"
và điểm qua một số nét trong phong cách nghệ thuật của Jack London.
Sách giáo khoa Văn 7 trích dẫn đoạn "Con chó Bấc" từ tác phẩm "Tiếng gọi nơi hoang
dã" có phần tiểu dẫn giới thiệu vài nét về tác giả, tóm tắt tác phẩm và những câu hỏi hướng dẫn
tìm hiểu bài.
Ngoài ra, còn có những bài viết toong các đầu sách tham khảo gồm loại bổ sung kiến thức
phục vụ cho giảng văn và loại hướng dẫn tập làm văn nhằm giới thiệu cụ thể hơn về cuộc đời
và sự nghiệp nhà văn Jack London, trả lời câu hỏi phần hướng dẫn học bài và giới thiệu những
dàn bài, những bài làm văn mẫu phát biểu cảm nghĩ về con chó Bấc.
Về luận văn, luận án thì từ sau năm 1975 đến nay, nếu như Hemingway là nhà văn Mỹ
được nhiều luận văn và luận án chọn làm đề tài nghiên cứu (7 luận án Thạc sĩ và 4 luận án Tiến
sĩ) thì với Jack London, chỉ duy nhất có một luận án Thạc sĩ với đề tài "Jack London và vấn đề
đấu tranh sinh tôn của thời đại ông" (Lê Ngọc Thúy thực hiện, giáo sư Lương Duy Trung
hướng dẫn). Luận án đã phát triển các vấn đề đấu tranh sinh tồn trong cuộc đời và sáng tác, đấu
tranh sinh tồn qua các ưuyện phiêu lưu, đấu tranh sinh tồn và đấu ữanh xã hội, đấu tranh giai
15
cấp và từ kinh nghiệm sinh tồn đến triết lý đấu tranh sinh tồn. Từ đó, tác giả nhận định Jack
London là "một con người có nhận thức sâu sắc vê cuộc đấu tranh sinh tôn và ý nghĩa của
cuộc sông chung quanh và của chính mình" và "đấu tranh sinh tồn là một chủ đề quán
xuyến trong hâu hết các truyện ngắn, truyện vừa và truyện dài của Jack London" [73, 39 ].
Có thể nói, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều cách nhìn nhận, nhiều quan điểm về Jack
London và tác phẩm của ông. Điều đó cũng mang đến cho lĩnh vực nghiên cứu và giới thiệu
Jack London sự phong phú, nhiều màu và nhiều vẻ. Trên cơ sở những ý kiến và nhận định của
các nhà nghiên cứu, cũng như dựa vào thực tế của việc giảng dạy và dịch tác phẩm Jack
London ở Việt Nam, chúng tôi cố gắng khảo sát ở nhiều phương diện, tiếp cận từ nhiều góc độ
nhằm đạt được những mục tiêu mà luận án đã đề ra.
3. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1.Đối tượng nghiên cứu:
- Những bài viết, công ứình nghiên cứu ở Việt Nam về con người, sự nghiệp sáng tác của
Jack London.
- Những tác phẩm của Jack London được dịch sang tiếng Việt.
- Những bài viết ở các giáo trình, sách giáo khoa, sách hướng dẫn giảng dạy, luận văn sau
Đại học và những đối tượng giảng và học tác giả này trong nhà trường.
3.2.Phạm vi nghiên cứu:
Từ việc xác định các vấn đề có liên quan, chúng tôi triển khai đề tài trong những giới hạn
sau :
- Giới hạn về thời gian nghiên cứu Jack London ở Việt Nam: Thời gian người thực hiện
đề tài tìm thấy tác phẩm của Jack London được dịch sang tiếng Việt và các bài nghiên cứu của
Jack London có mặt ỏ Việt Nam đến đầu năm 2000.
- Giới hạn về nội dung nghiên cứu trên những bình diện cụ thể sau:
* vấn đề giới thiệu và nghiên cứu Jack London ở Việt Nam
* Vấn đề dịch tác phẩm Jack London ở Việt Nam
* Vấn đề dạy và học Jack London trong nhà trường
16
4.MỤC TIÊU CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Xuất phát từ hướng nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu về Jack London ở Việt Nam trên cơ
sở những vấn đề đã được nghiên cứu và giới thiệu, những tác phẩm Jack London được dịch,
chúng tôi xác định mục tiêu của luận án và xem đó cũng là những đóng góp mới của luận án so
với những gì mà các công trình thuộc phạm vi đề tài đã giải quyết như sau:
- Góp phần tìm hiểu,giải thích và bước đầu tổng kết,đánh giá về việc tiếp nhận Jack
London ở Việt Nam trên ba bình diện:nghiên cứu,dịch thuật và giảng dạy.
- Đề xuất một số ý kiến của cá nhân về nhu cầu tiếp nhận Jack London.
- Mong muốn góp một tiếng nói có tính chất nghiên cứu của cá nhân vào việc nghiên cứu,
dịch thuật và giảng dạy Jack London.
Việc nghiên cứu, dịch thuật và giới thiệu Jack London vẫn còn đang tiếp diễn. Do đó,
những gì mà luận án này nghiên cứu, đề cập đến có thể chưa trọn vẹn và chưa ổn định.
5.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài thuộc lĩnh vực tiếp nhận văn học nhằm khảo sát công chúng Việt Nam (giới phê
bình, nghiên cứu, dịch thuật...) tiếp nhận Jack London như thế nào nên phương pháp nghiên
cứu chủ yếu trong luận án là phương pháp tiếp cận của tiếp nhận văn học. Ngoài ra , để khảo
sát các nội dung của tiếp nhận văn học đã đề ra (nghiên cứu, giới thiệu, dịch, dạy và học), trong
luận án còn dùng các phương pháp tiếp cận khác như tiếp cận xã hội học (được thực hiện qua
nội dung các bảng và các nhận xét điều ưa xã hội học), tiếp cận của một lĩnh vực chuyên ngành
là dịch văn học (dựa trên lý thuyết dịch văn học), tiếp cận thi pháp học ...
6.CÂU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
PHẦN DẪN NHÁP
I.Lý do chọn đề tài
II. Lịch sử vấn đề
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
IV.Mục tiêu của việc nghiên cứu và đóng góp của luận án
17
V.Phương pháp nghiên cứu
VI.Cấu trúc của luận án
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1 : Những tiền đề lịch sử - xã hội - tư tưởng - văn hóa - văn học của việc tiếp
nhận văn học Mỹ và Jack London ở Việt Nam.
Chương 2 : Vấn đề giới thiệu, nghiên cứu Jack London ở Việt Nam.
Chương 3 : Vấn đề dịch tác phẩm Jack London ở Việt Nam
Chương 4 : Jack London trong nhà trường
PHẦN KẾT LUÂN PHẦN PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1 : Bản gốc bức thư Jack London xin ra khỏi Đảng Xã hội và thư trả lời của
Đảng Xã hội.
PHỤ LỤC 2 : Những sáng tác của Jack London
PHỤ LỤC 3 : Giới thiệu giáo án giảng dạy đoạn trích "Con chó Bấc "
18
CHƯƠNG 1: NHỮNG TIÊN ĐỀ LỊCH SỬ - XÃ HỘI - TƯ TƯỞNG -
VĂN HÓA CỦA VIỆC TIẾP NHẬN VĂN HỌC MỸ VÀ JACK
LONDON Ở VIỆT NAM
1.1. Những tiền đề lịch sử - xã hội - tư tưởng - văn hóa của việc tiếp nhận văn học
Mỹ và Jack London ở Việt Nam:
Văn học Việt Nam trong quá trình phát triển, một mặt chịu sự tác động của những điều
kiện xã hội lịch sử cụ thể, một mặt do sự vận động nội tại của nó và do nhu cầu giao lưu văn
hóa - vân học với nước ngoài.
Cùng với việc tiếp nhận các nên văn học lớn của Trung Hoa, Ấn Độ rồi Liên Xô, Anh,
Pháp...,Việt Nam đón nhận văn học Mỹ với những tác động kể trên.
Nêu những tiền đề về lịch sử - xã hội - tư tưởng - văn hóa, chúng tôi cho rằng đó cũng là
những điều kiện cụ thể và cần thiết cho việc tiếp nhận văn học Mỹ nói chung và Jack London
nói riêng ở Việt Nam.
1.1.1. Bối cảnh xã hội - lịch sử của việc tiếp nhận văn học Mỹ nói chung và Jack London
nói riêng:
Lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam gắn liền với lịch sử chống xâm lược gay go, đẫm
máu.
Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam đã mở sang một kỷ nguyên mới khi nhân
dân chiến thắng đế quốc Mỹ, thống nhất hai miền Nam - Bắc, giành lại chủ quyền đất nước.
Tuy nhiên, khó mà quên được, khó lòng tả xiết nỗi nhục mất nước và sự tàn khốc của ách đè
nén ngoại tộc đối với dân tộc trong hơn một nghìn năm dưới thời bọn phong kiến phương Bắc ,
80 năm dưới thời Pháp thuộc và 20 năm dưới thời Mỹ - ngụy. Công cuộc chiến đấu chống và
chiến thắng bọn thống trị phương Bắc, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ - những kẻ thù mạnh và
hung bạo - là những chiến tích vẻ vang và vinh quang của lịch sử dân tộc.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra trong khoảng thời gian hơn 20 năm "là cuộc chiến
tranh yêu nước vĩ đại, cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc tiêu biểu của
19
nhân dân ta. Cuộc chiến tranh đã kéo dài hơn hai thập niên, dài hơn bất cứ cuộc chiến
tranh nào trong lịch sử và phải chông lại một đế quốc lớn mạnh nhất là đế quốc Mỹ" [32,
176 ]. Với mục đích "hủy diệt và nô địch" dân tộc ta, năm đời Tổng thống Mỹ đã nối chân
nhau điều hành qua các kế hoạch chiến lược thực dân mới và chiến tranh xâm lược của Mỹ.
Chúng đã dội xuống hai miền đất nước ta hơn bảy, tám triệu tấn bom đạn - khối lượng bom đạn
lớn hơn lượng bom đạn mà chúng đã sử dụng trong bất cứ cuộc chiến tranh nào ưước đó. Ở
miền Nam, với việc tăng viện trợ về quân sự, đầu tư vốn, kỹ thuật nhằm phát ứiển kinh tế miền
Nam, du nhập "lối sống Mỹ", các tạp chí, sách vở, tác phẩm văn học có tính chất là một
phương tiện truyền thông , tuyên truyền, phổ biến văn hóa và tư tưởng, đế quốc Mỹ- thông qua
chính quyền và quân đội tay sai- đã ra sức thực hiện ý đồ biên miền Nam thành thuộc địa kiêu
mới. ơ miền Bắc, nhân dân vừa phải tiến hành cách mạng XHCN, vừa phải chống chiến tranh
phá hoại của Mỹ, lại vừa phải chi viện cho miền Nam đánh Mỹ.
Trong hoàn cảnh lịch sử - xã hội ấy, văn học Mỹ đã được dịch, giới thiệu và nghiên cứu
với những quan điểm, yêu cầu và mục đích khác nhau ở mỗi miền.
Ở miền Nam, trong mục đích xâm lược bằng văn hóa,đế quốc Mỹ đã dốc hết toàn lực cho
địa hạt này. Những tác phẩm về văn hóa, văn học Mỹ bằng nguyên tác được nhập vào Việt
Nam, ngoài lý do khuyến khích nhiều người Việt Nam học tiếng Mỹ, cũng còn nhằm mục đích
giới thiệu một nền văn học Mỹ vốn là "một cường quốc văn học".
Cùng thời điểm ấy, ở miền Bắc, dưới nhãn quan chính trị, về văn học Mỹ, chỉ những tác
phẩm văn học hiện thực tiến bộ được quan tâm.
Từ sau ngày đất nước thống nhất, xã hội Việt Nam phải đối mặt với nhiều vấn đề phức
tạp về chính trị, kinh tế,văn hóa nhưng đã vượt qua những khó khăn lớn để phát triển trong sự
hội nhập với thế giới . Đặc biệt là dù Chính phủ Mỹ đã duy ữì chính sách cấm vận đối với Việt
Nam trong hơn hai mươi năm nhưng văn học Mỹ vẫn được giới thiệu với công chúng Việt
Nam. Theo một số nhà nghiên cứu có quan tâm tới vấn đề giới thiệu văn học Mỹ ở Việt Nam
như Lê Đình Cúc, Nguyễn Hồng Dũng, Nguyễn Kim Anh thì chỉ tính từ sau 1975 đến gần đây
đã có hơn ba trăm đầu sách của hơn một trăm nhà văn Mỹ được các nhà xuất bản khắp ba miền
đất nước in ấn.
20
1.1.2. Vài nét về giao lưu văn hóa - văn học ở Việt Nam:
Là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy
qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên
và xã hội của mình, văn hóa đã tồn tại cùng với quá trình phát triển của loài người. Văn hóa
bao gồm tất cả những gì tạo nên hình hài và bản sắc mỗi dân tộc, làm cho dân tộc này khác với
dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán,
lối sống và lao động.
Trong quá trình phát triển, văn hóa của các dân tộc được bền bỉ tích lũy, thâu nhận, gạn
lọc để rồi chuyển tải và biến đổi.
Nước ta đã có một di sản văn hóa truyền thống lâu đời và quí báu. Trong suốt mấy nghìn
năm dựng nước và giữ nước, văn hóa Việt Nam vẫn trường tồn và giữ gìn bản sắc dân tộc của
mình. Kế thừa tinh hoa các thời đại trước, chúng ta tiếp nhận có chọn lọc cái đẹp, cái cao cả,
cái tiến bộ là chủ yếu.
Trong "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam", tác giả Trần Ngọc Thêm đã nêu chứng cứ
khẳng định "mọi nền văn hóa thường bao gồm ba thành phần: các yếu tố bản địa, các yếu tố
vay mượn gần (khu vực) và các yếu tố vay mượn xa (thế giới)" [71, 616 ]. Và văn hóa của bất
kỳ dân tộc nào, để nó vẫn là nó, phải có tinh thần chủ đạo là các yếu tố bản địa. Trong ý nghĩa
đó, giao lưu văn hóa là một hiện tượng bình thường, một quá trình có tính qui luật của sự vận
động và phát triển văn hóa nghệ thuật dân tộc. Nói giao lưu là nói trao đổi, vay mượn, ảnh
hưởng qua lại. Và do đó, giao lưu văn hóa chính là quá trình trao đổi chất giữa các nền văn hóa
với nhau. Mỗi liền văn hóa dân tộc sẽ bị suy thoái nếu không có quá trình trao đổi chát này. Nó
là động lực để thúc đẩy sự tiến bộ của các nền văn hóa.
Trải qua nhiều thế kỷ, văn hóa Việt Nam với những nét bản sắc riêng cả về vật chất lẫn
tinh thần đã liên tục tồn tại và phát triển trong sự giao lưu mật thiết với văn hóa khu vực, mà
đậm nét nhất là văn hóa Trung Hoa, rồi với văn hóa phương Tây. Do hoàn cảnh lịch sử, việc
giao lưu văn hóa ở nước ta có khi chẳng phải do tự nguyện hoàn toàn, mà có lúc bị áp đặt. Với
đặc điểm đất nước thường xuyên có chiến tranh, nhân dân Việt Nam có lúc bị áp đặt bởi nền
văn hóa xâm lược phương Bắc với chính sách đồng hóa một cách thâm độc và bền bĩ, nhất
quán, nhằm thủ tiêu nền văn hóa nước ta hay nền văn hóa "làm cho dân ngu để dễ cai trị" của
21
bọn xâm lược phương Tây. Đó là những vết tích mãi mãi còn nhức nhối trong tim gan chúng
ta. Mặc dù vậy, dân tộc ta với bản sắc và bản lĩnh của mình , đã tông biết chọn lọc và tiếp nhận
những tinh hoa và tư tưởng của văn hóa thế giới để xây dựng và phát triển nền văn hóa của đất
nước.
Riêng từ năm 1980 trở về sau, với tư tưởng cởi mở, nước ta đã áp dụng một đường lối đổi
mới toàn diện. Trên phương diện quan hệ quốc tế, chúng ta đã tiến hành chính sách mở cửa
theo tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với các nước vì hòa bình, độc lập và phát triển. Trên
lĩnh vực văn hóa, Việt Nam đã tăng cường ưao đổi hợp tác đa phương với nước ngoài.
Văn học Mỹ cập bến Việt Nam nằm trong nhu cầu giao lưu văn hóa quốc tế, trong đó có
văn học. Tất nhiên là quá trình giao lưu với văn học Mỹ còn chịu sự chi phối của những điều
kiện kinh tế, lịch sử, chính trị - xã hội, nhưng thực tế cho thây Mỹ bắt đầu có liên can đến chính
ttị ở Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám, còn văn học Mỹ đã được dịch và giới thiệu từ
những năm 1920.
Về mặt chính trị, từ cuối năm 1949, đế quốc Mỹ mới thật sự can thiệp vào cuộc chiến
tranh Đông Dương. Ở Việt Nam, nhờ sự giúp sức của đế quốc Mỹ, thông qua kế hoạch Revers,
thực dân Pháp tăng cường hệ thống phòng ngự, nuôi dưỡng âm mưu tấn công Việt Bắc lần thứ
hai để nhanh chóng kết thúc cuộc chiến tranh chống Pháp của nhân dân ta.
Trong khi đó, văn học Mỹ đã có mặt sớm hơn. Chúng tôi không dám khẳng định chắc
chắn là bạn đọc Việt Nam đã được tiếp cận với văn học Mỹ từ bao giờ và tác phẩm nào được
giới thiệu đầu tiên ở Việt Nam nhưng kết quả điều ưa cho thấy từ năm 1925 đã có bản dịch
tiếng Pháp "Les aventures de Huckleberry Finn" dịch từ nguyên tác "The Adventures of
Huckleberry Finn" của Mark Twain và năm 1929 cũng đã có bản tiếng Pháp "Croc blanc" dịch
từ nguyên tác "White fang" của Jack London.
1.1.3. Vài nét về lý luận tiếp nhận văn học:
Tiếp nhận văn học cũng là một quá trình phổ biến của giao lưu văn hóa. Tuy nhiên, do nó
thuộc lĩnh vực có những vấn đề lý luận rất riêng nên chúng tôi tách ra thành đề mục riêng,
nhằm nghiên cứu cụ thể và sâu sắc hơn.
22
Lý thuyết tiếp nhận văn học hiện đại là kết quả của cả một quá trình thai nghén lâu dài mà
gốc gác của nó có khi phải tính từ lý thuyết của Aristote từ thời kỳ thượng cổ về "Catharsis" -
sự thanh lọc cảm thụ thẩm mỹ của độc giả. Thế nhưng mãi đến thế kỷ XX, thế giới mới bắt đầu
quan tâm đến khâu tiếp nhận văn học, mà mở đầu là sự ra đời của trường phái "mỹ học tiếp
nhận" Konstanz (Đức) vào những năm 60, 70 của thế kỷ này.
Từ những thập kỷ đầu cửa thế kỷ, Levin Schucking đã phát triển một lý thuyết được nhiều
người chú ý tới là xã hội học về thị hiếu có liên quan đến phạm trù "công chúng". Và từ đó,
xung quanh phạm trù này đã xuất hiện các phạm trù dẫn xuất khác như sự tác động văn học, sự
giao lưu, tâm đón nhận, thị hiếu... Tiếp đó, nhiều nhà nghiên cứu khác như Robert Escarpit,
Werner Krauss, Walter Hohmann... cũng đã nghiên cứu và đề cập đến vấn đề tác phẩm văn học
và các mối quan hệ phụ thuộc của nó, làm cơ sở tiền đề cho một "mỹ học tiếp nhận" ra đời.
Nhà nghiên cứu Macxit Walter Hohmann cũng đã trình bày một cách hệ thống vai trò của
công chúng trong quá trình sản xuất và tiếp nhận văn học. Và có thể nói, người đầu tiên đưa ra
được một mô hình hoàn thiện về "mỹ học tiếp nhận" là Hans Robert Jauss. Theo ông, văn học
sử trước đây chỉ làm công việc thống kê các sự kiện có liên quan đến tác giả và tác phẩm,
không theo dõi quãng đường tiếp theo của văn học trong công chúng độc giả. Ngày nay, đã đến
lúc cần phải có một nền văn học sử của độc giả để hoàn thiện các khâu của quá trình văn học.
Jauss đưa ra cách nhìn về tác phẩm văn học với sự tồn tại của nó là tùy thuộc vào độc giả: Tác
phẩm văn học = văn bản + sự tiếp nhận của độc giả đối với nó. Cái mới nhất trong mỹ học tiếp
nhận của Jauss là khái niệm “tầm đón nhận” (Erxvartung shoriznot) và "tầm đón nhận" của
công chúng là hệ quy chiếu kinh nghiệm nghệ thuật của người tiếp nhận. Nó sẽ thay đổi theo
lịch sử và tùy thuộc vào tác động của tác phẩm được tiếp nhận. Jauss cũng đưa ra khái niệm
"khoảng cách thẩm mỹ": là khoảng cách giữa tầm đón nhận có trước (của độc giả) với tác
phẩm mà sự đón nhận đó có thể kéo theo một sự thay đổi tầm đón nhận, đi đến chỗ gặp gỡ
những kinh nghiệm riêng, hoặc làm cho các kinh nghiệm mới được biểu hiện lần đầu thâm
nhập vào ý thức. Khoảng cách thẩm mỹ này được đo bằng phản ứng của công chúng và bằng
những phán đoán của giới phê bình và nó có thể trở thành một tiêu chuẩn phân tích lịch sử. Có
nghĩa là cái phương thức tác động của tác phẩm đối với tầm đón nhận của công chúng đầu tiên
sẽ làm thành một tiêu chuẩn để đánh giá giá trị thẩm mỹ của tác phẩm. Khoảng cách thẩm mỹ
sẽ quy định đặc tính nghệ thuật của một tác phẩm văn học.
23
Quan điểm của Jauss với những ý kiến bổ ích đã làm cơ sở cho sự phát triển và sự ảnh
hưởng khá mạnh mẽ ngày nay của "mỹ học tiếp nhận".
Mỹ học tiếp nhận đã chú ý đến yếu tố tác động qua lại tích cực giữa tác phẩm và công
chúng và việc phân tích tầm đón nhận của độc giả cho thấy rằng nó luôn luôn đặt "cái xã hội"
trong mối liên quan với "cái nghệ thuật".
Giới nghiên cứu Việt Nam mà người đi tiên phong là Nguyễn Văn Hạnh rồi đến Trần
Đình Sử, Hoàng Trinh, Nguyễn Văn Dân, Huỳnh Như Phương ... đã nắm bắt được cái cốt lõi
của vấn đề lý luận tiếp nhận, đưa ra những ý kiến và hệ thống lý thuyết (gắn với những khái
niệm: thưởng thức,ngưỡng tâm lý,phản tiếp nhận...) góp phần khẳng định vị trí của lý luận tiếp
nhận ở nước ta.
Nhà văn sáng tạo tác phẩm là để đưa nó đến với người đọc và lúc đó, tác phẩm mới bắt
đầu vòng đời của nó. Tác phẩm chỉ đi trọn vòng đời khi được người đọc tiếp nhận, phát hiện ra
những lớp ý nghĩa ẩn chứa bên ương nó. "Một tác phẩm đã hoàn thành chưa nhất thiết phải
hoàn tất" [ 24y 136 ]. Nhà văn hoàn thành tác phẩm, còn bạn đọc hoàn tất tác phẩm. "Văn học
tò một sẵn phẩm tinh thân, kết tình những kỉnh nghiệm tư tưởng ánh cảm của con người
trước một cuộc sống nhất định. Chỉ khỉ nào sử dụng đến thế giới tình thần đó mới coi là tiếp
nhận văn học toàn vẹn" [52, 222 ]. Và do đó, tiếp nhận văn học đòi hỏi sự tham gia của toàn
bộ nhân cách con người – tri giác, cảm giác, tưởng tượng, liên tưởng, suy luận... - đòi hỏi sự
bộc lộ cá tính, thị hiếu, và lập trường xã hội, sự tán thành và phản đối... Chính vì vậy mà khái
niệm tiếp nhận bao quát hơn và bao hàm các khái niệm cảm thụ, thưởng thức, lý giải, đồng
cảm...
Qua ngôn ngữ và các phương thức nghệ thuật, nhà văn truyền đến người đọc nội dung
tinh thần mà mình thể hiện trong tác phẩm. Có thể nói, tác phẩm đã góp phần định hướng sự lý
giải, tưởng tượng của người đọc nên người đọc có thể tiếp cận đồng nhất với tác phẩm. Như
trường hợp những chiến sĩ Xô Viết đã xúc động gửi thư cho M.Solokhov khi họ đọc xong "Họ
chiến đấu vì tổ quốc" của ông: "Rất thực. Tất cả tôi đều trải qua" [52, 225 ]. Những người
chiến sĩ đã từng cầm súng, trải qua bom đạn ở thời chống Mỹ làm sao không xúc động khi tìm
thấy nhiều hình ảnh, cuộc sống của chính mình trong các tác phẩm về chiến tranh, dù là ở thời
24
bình như "Chim én bay" (Trí Huân), "Nước mắt đỏ" (Trần Huy Quang), "Vòng tròn bội bạc"
(Chu Lai)... Từ đó cũng có thể cho rằng tiếp nhận văn học là một hoạt động xã hội lịch sử mang
tính khách quan. Hoạt động này cũng mang tính cá nhân sâu sắc, gắn liền với tình cảm, thị hiếu
của mỗi người.
Số phận lịch sử của tác phẩm văn học không chỉ tùy thuộc vào những biến đổi của hoàn
cảnh cảnh lịch sử mà còn tùy thuộc vào kinh nghiệm sống, vốn văn hóa và trạng thái tâm lý của
người đọc. Trong ý nghĩa đó, khẳng định vai trò chủ động và tích cực của người đọc trong đời
sống văn học như nhà nghiên cứu Youri Borev là phù hợp: "Người đọc không chỉ đơn thuần
là người có nhu câu vê các tác phẩm nghệ thuật, không chỉ là đối tượng của sự tác động tư
tưởng - nghệ thuật của tác phẩm. Người đọc là người cùng tham gia vào tiến trình sáng tạo
để xây dựng ý nghĩa của tác phẩm nghệ thuật" [24,148 ].
Mỗi một độc giả có một tầm hiểu biết của mình về mặt văn học và tầm hiểu biết đó sẽ
luôn thay đổi theo lịch sử và tùy thuộc vào tác động của tác phẩm được tiếp nhận mà tác động
này phụ thuộc vào việc tác phẩm có phan ánh đời sống chân thực khái quát, sâu sắc, phong
phú, cung cấp nhiều ý nghĩa tiềm tàng cho người tiếp nhận hay không.
Người đọc bình thường, theo Trần Đình Sử trong "Bạn đọc và tiếp nhận văn học", bao
gồm tất cả công chúng thuộc mọi lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, thành phần
và địa vị xã hội, thẩm mỹ và khuynh hướng tư tưởng của họ. Công chúng văn học luôn bị quy
định bởi điều kiện xã hội lịch sử nên ở mỗi thời đại, công chúng văn học có khác nhau, chỉ thu
hẹp ở một giới nào đó hay là tất cả, bao gồm cả đông đảo nhân dân lao động. Tâm lý tiếp nhận
của người đọc vì vậy cũng không đồng nhất nhau. Có người tiếp nhận trọn vẹn những giá trị
thẩm mỹ của tác phẩm, có người tiếp nhận bằng lý trí hoặc thuần cảm xúc hay chỉ để "giết" thì
giờ.
Người đọc đặc biệt - nhà văn, nhà phê bình và người dịch - cũng bị xã hội quy định như
những người đọc khác, nhưng sự tiếp nhận của họ khác biệt ở tính chất nghề nghiệp và độ
chuyên sâu. "Tiếp nhận văn học của nhà vấn nhiêu khi khó tránh khỏi yếu tố chủ quan
phiến diện nhưng thường bão hòa xúc cảm và có nhiều phát hiện sắc sảo lý thú" [52, 236 ].
Tiếp nhận văn học của nhà phê bình thể hiện ý thức về văn học trên cấp độ ý nghĩa xã hội, xuất
phát từ những lập trường xã hội nhất định, từ nhu cầu phát triển những trào lưu văn học nhất
25
định. Tiếp nhận văn học của người dịch văn chương nhiều khi thể hiện tính chủ quan nhưng với
những tác phẩm họ dịch thì không ngoài ý thức tán thưởng, trân trọng bởi nó xuất phát từ suy
nghĩ về việc đáp ứng nhu cầu giao lưu văn học và thị hiếu, tình cảm của người đọc.
Văn học Mỹ được giới thiệu khá sớm và có chỗ đứng lâu dài ở Việt Nam cũng là nhằm
đáp ứng nhu cầu của công chúng Việt Nam. Công chúng Việt Nam thưởng thức văn chương
với các giá trị đích thực của nó nhằm thỏa mãn nhu cầu văn hóa, trí tuệ, tình cảm của mình. Do
công chúng tiếp nhận có nhiều thành phần khác nhau, nên tầm đón nhận hay tầm văn hóa của
họ cũng khác nhau. Giới trí thức ở Miền Nam thích đọc những tác phẩm văn học Mỹ của các
nhà xuất bản Ziên Hồng, Chim Đàn bởi đó là những tác phẩm có giá trị đích thực và được dịch
từ những dịch giả nổi tiếng như Lê Bá Kông, Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, Lê Hùng Tâm và
Nguyễn Gia Liên. Những độc giả có tầm văn hóa thấp dễ bị lừa và dễ xao động trước việc
tuyên truyền, nô dịch văn hóa của Mỹ - ngụy lại thích những tác phẩm thuần giải trí hoặc suy
đồi. Ở Miền Bắc, tuy văn học Mỹ được giới thiệu ít nhưng có chọn lọc. Nó đáp ứng được nhu
cầu tìm hiểu ít nhiều về giá trị hiện thực trong những tác phẩm tiêu biểu ấy. Từ khi có chủ
trương mở cửa, thị hiếu, nhu cầu thẩm mỹ của công chúng thay đổi nhiều. Sự thu hẹp trong
việc giới thiệu văn học của chỉ một sô" nước, sự thu hẹp một sô" mảng đề tài về tình yêu, phiêu
lưu, trinh thám đã bị phá vỡ. Văn học Mỹ và những đề tài phong phú của nó đã có thể đáp ứng
nhu cầu thẩm mỹ thưởng thức văn chương và nhu cầu giải trí hết sức tự nhiên và chính đáng
của công chúng. Đặc biệt, công chúng là những nhà phê bình cũng đã góp phần kích thích suy
nghĩ, cảm xúc của người đọc .Những người thích văn chương bị kích thích nên trở nên háo hức
muốn đọc, muốn hiểu và tim tòi với những tác phẩm được khen ngợi hay bị phê phán.
Ngoài ra, nhu cầu đổi mới, sáng tạo trong sáng tác nhằm phát triển văn học nước nhà
cũng là một yếu tố tích cực để văn học Mỹ được quan tâm ở Việt Nam. Nếu như trước đây
nhiều người nhận thấy phong cách huyễn tưởng của Edgar Poe ương truyện ngắn "vàng và
máu" của Thế Lữ hay "Chế Lan Viên đã đi từ Bôđơler, Edgar Poe đen thơ Đường, còn Hàn
Mặc Tư đã đi từ thơ Đường đen Bôđơler, Edgar..." [l0, 246] thì ngày nay, có người cũng đã
tìm thấy những ảnh hưởng, giao thoa văn học giữa một số nhà văn đương đại Việt Nam
(Nguyễn Huy Thiệp, Trần Trung Chính,...) với nhà văn Mỹ Hemingway khi nghiên cứu về nhà
văn này. Tất cả đã cho thấy mối hứng thú đối với văn học Mỹ đến từ nhiều phía khác nhau.
26
Jack London được tiếp nhận ở Việt Nam, ngoài những nguyên nhân riêng từ ấn tượng về
cuộc đời và tác phẩm, cũng không thể tách khỏi nền văn học Mỹ trong sự du nhập vào Việt
Nam với những tiền đề trên.
Những tiền đề trên có thể chưa đầy đủ, nhưng phần nào khẳng định sự có mặt, sự tồn tại
của văn học Mỹ và Jack London ở Việt Nam không phải do ngẫu nhiên.
1.2.Tình hình tiếp nhận văn học Mỹ và Jack London ở Việt Nam
1.2.1. Vài nét về truyền thống, hiện thực nước Mỹ và văn học Mỹ:
Theo các chuyên gia nghiên cứu thì "vào lúc đến gân năm 2000, nước Mỹ đang trải qua
một thời điểm mấu chốt trong lịch sử của nó. Nó đã không thể duy trì được sức mạnh và vai
trò bá quyền mà một cuộc chiến tranh thế giới đã đem lại cho nó trong khi tàn phá phân còn
lại của thế giới" [ 33,10 ]. Thế nhưng những gì trước đó mà nước Mỹ đã làm và có được với
những huyền thoại của nó vẫn không ngừng đìu hút sự hiếu kỳ của mọi người.
Miền đất mà sau này là nước Hoa kỳ (1607) vốn ban đầu chỉ gồm những cư dân da đỏ. Từ
năm 1513, người Tây Ban Nha đã đặt chân lên khai phá đầu tiên và tiếp đó là những đợt tiến
quân của những di dân người Anh, Pháp, Hà Lan, Đức ... Động lực duy nhất của họ là giấc mơ
về sự tự do và phồn vinh mà sau này, nó trở thành một trong những nội dung thuộc "giấc mơ
của người Mỹ" (The American dream).
Có lẽ từ khi tàu Mayflower (Hoa tháng năm) bỏ neo ngoài khơi mũi đất Cape Cod vào
năm 1620 vì một nhầm lẫn trong chuyến hải hành đã có giấc mơ của người Mỹ. Hiệp ước
Mayflower của những hành khách trên tàu ra đời, thể hiện sự nhất trí về mục đích cần thiết cho
sự sống còn ở miền hoang dã, nhấn mạnh về việc đoàn kết và tinh thần trách nhiệm chung
trong lao động và chiến đấu. Người ta không thể định nghĩa giấc mơ ấy một cách rõ ràng vì nó
quá đa dạng. Trong tự tâm hồn người Mỹ, nó thường bao hàm "những khái niệm về tự do,
công bằng, bình đẳng và gồm cả sự thịnh vượng về vật chất" [83, 80 ]. Đó là một giấc mơ về
tương lai, hàm chứa ý tưởng về sự tiến bộ và sự thay đổi khó có thể thực hiện được một cách
nhanh chóng và dễ dàng.
Dấn thân vào công cuộc khai phá lục địa Bắc Mỹ để biến giấc mơ thành hiện thực, dấn
thân vào một cố gắng để thiết lập một ữật tự xã hội tốt hơn là cái trật tự mà cha ông mình đã
27
kinh qua, những cá nhân thuộc đủ các dân tộc đã chấp nhận mọi thiếu thốn, lao động cật lực,
trải qua thử thách và đã được hun đúc thành một chủng tộc mới gọi là người Mỹ. Với những
truyền thống đặc trưng đã trở thành những "huyền thoại truyền thống về người Mỹ", họ đã
làm phong phú thêm huyền thoại về tân thế giới, về vùng đất bầu sữa và về Céres của thời
hoàng kim. Những thành quả của công cuộc khai phá, chinh phục và tất cả những gì kéo theo
nó được giải thích bằng sự hiện hữu của đất đai màu mỡ và bằng bản thân những con người
hăng hái, nhiệt thành, quyết tâm chinh phục và không ngừng vươn tới.
Số phận của nước Mỹ đã được định đoạt trong chuyến đi của những tín đồ Thanh giáo khi
đổ bộ lên bờ biển nước này. Nhiều sử gia cũng đã từng lưu ý đến tác động to lớn của các thiết
chế tôn giáo được nhấn mạnh trong kinh thánh đối với truyền thống Mỹ, nên không thể phủ
nhận ba cội rễ đan chéo vào nhau để nuôi dưỡng truyền thống văn hóa Mỹ : Tín điều ương kinh
thánh, ý thức công dân của chế độ Cộng hòa và chủ nghĩa cá nhân. Tất cả đã thấm vào xã hội
Mỹ, chứa trong mình mọi mầm mong của chủ nghĩa tư bản và là nguồn gốc của tính cách Mỹ :
có niềm tin mạnh mẽ, có bản năng hành động liên tục, có tinh thần lạc quan hướng tới tương
lai, có sáng kiến cá nhân và có suy nghĩ độc lập. Hơn một xã hội nào khác, xã hội Hoa Kỳ luôn
"chạy đua về phía trước" để thích nghi, để được khám phá và để đương đầu trong sự vận động
của nó nên nó đòi hỏi những con người thích hợp. Ronald Regan về sau khẳng định: “Trong
một thời gian dài, ai muốn được chấp nhận vào lòng dân tộc, được Chúa ân sủng cũng phải
trải qua một cuộc tuyển chọn dữ dằn, với những tiêu chuẩn không loại bỏ cả chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc lẫn sự kỳ thị tôn giáo và các ý đồ kinh tế " [ 33,194 ].
Lịch sử nước Mỹ cho thấy để được là một nước Mỹ tràn đầy sự sung mãn, đa dạng và sự
giàu có, xứ sở làm nảy sinh nhiều huyền thoại ấy đã từng liên tục lao vào những cuộc chinh
phục lãnh thổ, đấu tranh bảo vệ nền độc lập, tái thiết quốc gia với đầy dẫy những thách thức,
mâu thuẫn và phức tạp về kinh tế - tư tưởng - chính trị - xã hội...
Trải qua những cuộc chiến tranh đầy cam go, nổi bật là cuộc chiến tranh giành độc lập từ
tay người Anh (1775 - 1781), cuộc nội chiến nhằm duy trì và bảo vệ Liên bang giữa 23 tiểu
bang miền Bắc và 11 tiểu bang miền Nam (1861 - 1865), nước Mỹ đã mạnh lên khi ra khỏi thử
thách: Chiến tranh làm tăng đáng kể sự phát triển kinh tế của đất nước. Khi cuộc chiến tranh
giữa Tây Ban Nha và Mỹ diễn ra đồng thời ở Cuba và Philippines với kết thúc thắng lợi của
28
Mỹ (1898), khi Mỹ thể hiện vai trò can thiệp lớn vào cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất thì
nó đã thật sự trở thành một cường quốc thực dân, bước vào một thời kỳ bành trướng và củng cố
lãnh thổ.
Vượt qua những phức tạp của nạn phân biệt chủng tộc, những khó khăn về nạn đầu cơ
trục lợi của bọn Rings, những hạn chế của chủ nghĩa tư bản Mỹ gắn với phong trào cải cách mà
nó đặt ra, những mâu thuẫn giữa chủ và thợ làm nổ ra những cuộc đấu tranh, biểu tình của công
nhân ở các nhà máy, nước Mỹ đã lớn mạnh vượt bậc với sự phát triển của các đô thị, các khu
trung tâm kinh tế thương mại. Đó là kết quả của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và tích
tụ tư bản chủ nghĩa ở Mỹ từ nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, thể hiện nghị lực đáng
khâm phục của người Mỹ.
Là đất nước của những luận thuyết, tư tưởng gắn liền với quá trình khai phá và xây dựng
như thuyết Nông bản (Agrarianism), thuyết Dân chủ (Democratison), chủ nghĩa thực dụng
(Pragmatism), chủ nghĩa công cụ (Instrumentalism), chủ nghĩa toàn Mỹ (Panamericanism), ...
trên bước đường phát ữiển theo quy luật đào thải, Hoa Kỳ cũng là nơi du nhập những học
thuyết, lý thuyết của Darwin, spencer, Nietzche, chủ nghĩa siêu nghiệm (Transcendentalism),
chủ nghĩa tự nhiên (Naturalism), chủ nghĩa lãng mạn (Romanticism), chủ nghĩa hiện thực
(Realism) và chủ nghĩa xã hội khoa học của Marx và Engels. Tuy không phải một sớm một
chiều người Mỹ dễ dàng thừa nhận, lựa chọn và chịu ảnh hưởng các loại lý thuyết, tư tưởng
trên, nhưng có thể nói là chúng đã dần dần ít nhiều ảnh hưởng, chi phối và hòa nhập vào đời
sống văn hóa tinh thần và kể cả chính trị ở Mỹ thời kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Lấy cảm hứng từ thiên nhiên và con người của đất nước, phản ánh xã hội và lịch sử, ảnh
hưởng những lý thuyết, tư tưởng cũng như những trào lưu và trường phái văn học được du
nhập hoặc ra đời trên đất Mỹ, văn học Mỹ đã hình thành và phát triển trên cái nền của truyền
thống, lịch sử Mỹ và trong sự vận động không ngừng của xã hội Mỹ. Khởi đầu bằng các truyền
thuyết, thần thoại và những bài ca truyền miệng thuộc các nền văn hóa của dân da đỏ, văn học
Mỹ đã đi qua một chặng đường gần bốn thế kỷ để khẳng định là một nền văn học lớn mạnh và
mang bản sắc Mỹ. Thành tựu của văn học Mỹ trong hai thế kỷ XVII - XVIII không nhiều. Văn
học Mỹ thế kỷ XVII là văn học của thời kỳ thuộc địa, ít có những tác phẩm thể hiện cá tính
sáng tạo của nhà văn. Khuôn mẫu chính của những tác giả thuộc địa là lối viết đã lỗi thời ở
29
nước Anh và Kinh thánh. Đến thế kỷ XVIII, văn học Mỹ thể hiện ngày càng rõ bản sắc riêng
của một dân tộc sau khi đã hoàn thành nền độc lập. Thời kỳ này, nước Mỹ đã sản sinh ra thế hệ
các nhà văn, nhà thơ Mỹ lỗi lạc đầu tiên như Benjamin Franklin, Philip Freneau... Và trong hai
thế kỷ XIX - XX, văn học Mỹ đã phát triển nhanh với những tên tuổi của nhiều nhà văn và nhà
thơ nổi tiếng : Edgar Poe, Nathaniel Hawthorne, Herman Melville, Mark Twain, Jack London,
Ernest Hemingway, Henry Longfellow, Walt Whitman, Ezra Pound ...
Cho đến hôm nay, "giấc mơ của người Mỹ" đã đi qua nhiều cuộc thăng trầm của đất
nước, đã có những thay đổi qua nhiều chặng đường và chắc chắn là nó chưa được thực hiện
một cách trọn vẹn - hoàn hảo. Tuy nhiên, nước Mỹ sau gần bốn thế kỷ hình thành và phát triển
với những thành tựu lớn, " những diện mạo xã hội"phức tạp, " những sắc thái có tính cách rất
Mỹ" vẫn là một nỗ lực lớn lao đáng khâm phục của người Mỹ. Trong một chừng mực nào đó,
huyền thoại về người con trai nghèo khổ làm giàu bằng lao động vẫn còn có ý nghĩa.
Là người Mỹ sống trên đất nước Mỹ, trong buổi giao thời giữa hai thế kỷ XIX - XX, hơn
ai hết, Jack London đã chứng kiến và nếm trải những vinh quang ngọt ngào lẫn hụt hẫng đắng
cay của một giai đoạn khai phá và tái thiết phục vụ cho nhu cầu sinh tồn, cho một ước mơ về cả
hai mặt vật chất- tinh thần của người Mỹ và của cả những người đến di trú tại Mỹ bởi sự quyến
rũ của đất nước này. Từ những thách thức lớn của các cuộc khai thác tài nguyên dồi dào, khai
phá thiên nhiên hoang sơ, những cuộc xung đột đẫm máu giữa các chủng tộc ,các giai cấp mà
khả năng con người đòi hỏi phải được bộc lộ và tận dụng, Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ đã có được
những thành quả đáng phục về xây dựng và sáng tạo, đồng thời cũng kéo theo sau nó những
mặt trái khó có thể xóa nhòa.'Phồn vinh, thịnh vượng và khốn cùng; tự do, dân chủ và bất công;
hiền lành và tàn bạo; tốt và xấu ... tất cả quyện lẫn nhau trong một nước Mỹ muôn màu muôn
vẻ.
Xã hội ấy, cuộc sống nghiệt ngã ấy buộc con người phải đối mặt và đấu tranh để tồn tại,
để thỏa mãn ham thích ,tham vọng, để được sống tự do theo lòng tin của mình hay để đạt được
hiện thực của khát vọng về một xã hội, một cuộc sống công bằng và tràn trề hạnh phúc.
Mang trong mình những dấu ấn sâu sắc của thời đại, Jack London đã sống, dấn thân,
tranh đấu và cống hiến với cả tâm hồn và cuộc đời không kém phần mâu thuẫn và phức tạp.
30
Cũng hơn bất cứ những ai của nước Mỹ cùng thời, bằng ngòi bút của mình, Jack London đã thể
hiện rõ nhất những vấn đề của thời đại mình với thái độ yêu, ghét rõ ràng.
Là một nhà văn mà cuộc đời gắn với những ngày dài tranh đấu chống cái nghèo, cái dốt,
chống ma rượu, chống bất công; gắn với những chuỗi ngày phiêu lưu gần như vô tận, Jack
London đã sống hết mình, sống có ý nghĩa cho trọn vẹn cuộc đời ngắn ngủi, chỉ hưởng dương
40 tuổi của mình. Là một nhà văn mà khi dựng nên bất cứ một cốt truyện nào thì hầu như đã có
sẩn cả khung cảnh lẫn những nhân vật hết sức sinh động và sống sát với thực tế, Jack London
đã tạo nên một sự nghiệp văn chương vững vàng để từ đó, ông được xem là "một trong số
những nhà văn được nhiêu người biết đến và có tác phẩm phong phú nhất trong thời đại
của ông" [76, 406]
Cuộc đời Jack London tuy không dài nhưng khá sôi động, mang đậm hơi thở của thời đại.
Sự nghiệp Jack London tuy không vĩ đại nhưng đủ để đưa ông lên hàng “bậc thầy truyện ngắn
Mỹ”
1.2.2.Tình hình tiếp nhận văn học Mỹ và Jack London ở Việt Nam:
Từ đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam đã có mối tiếp xúc chặt chẽ với văn học thế giới.
Cùng với văn học phương Đông trước đó, giờ có thêm văn học phương Tây. Dù ở trong hoàn
cảnh chiến tranh, đất nước bị chia cắt, hay ở ương thời bình, đất nước thống nhất, thực hiện
chính sách mở cửa thì văn học hiện đại Việt Nam vẫn tự thấy có nhu cầu tiếp cận, tiếp thu các
tư tưởng xã hội và tư tưởng nghệ thuật của nhiều nền văn học trên thế giới, bởi lẽ "văn học thế
giới quá phong phú nên công chúng không thể chối bỏ nó được" [l0, 250]
Bến đỗ Việt Nam đã đón nhận văn học Mỹ xuất phát từ những cơ sở về hoàn cảnh lịch sử
của thời đại, từ nhu cầu của công chúng về văn hóa - văn học và từ sự đòi hỏi của quá trình
giao lưu.
Dù rằng văn học Mỹ là một nền văn học trẻ trên thế giới, nhưng như đã nói ở trên, văn
học Mỹ đã thâm nhập vào Việt Nam khá sớm. Những năm 20, một số tác phẩm văn học Mỹ đã
có mặt ở Việt Nam qua ngôn ngữ trung gian (Pháp, Đức, Ý...). Từ trước Cách mạng tháng tám
(1945), có nghĩa là trước khi Mỹ đặt chân xâm lược miền Nam Việt Nam, đã có vài tác phẩm
văn học Mỹ được dịch sang tiếng Việt, nhưng chủ yếu là dịch từ các bản tiếng Pháp. Chẳng hạn
31
như "Gió Đông gió Tây" (P. Buck) do Huyền Kiêu dịch năm 1935, “Truyện kỳ lạ” (E. Poe) và
"Đảo kho vàng" (R.L. Stevenson) do Vũ Ngọc Phan dịch năm 1944. Đó cũng là những tác
phẩm được xem là "hay" theo người dịch. Nó cũng đã được người đọc đương thời đón nhận và
xem như là chút "hương xa hoa lạ".
Trong hoàn cảnh lịch sử hơn 20 năm dài đế quốc Mỹ xâm lược nước ta, văn học Mỹ đã
được dịch, nghiên cứu và giới thiệu qua tiếng Anh, tiếng Mỹ với những mục đích và nhu cầu
khác nhau ở hai miền Nam - Bắc. Ở miền Bắc, trước năm 1975, chỉ có trên dưới 10 đầu sách
được dịch và giới thiệu, chủ yếu là những tác phẩm của những nhà văn được xem là "tiến bộ"
và “hiện thực”. Những tác phẩm đầu tiên được dịch năm 1960 là " Mười ngày rung chuyển
thế giới" (John Reed), "Gót sắt" (J. London), "Truyện phiêu lưu của Huckleberry Phinn"
(Mark Twain). Những năm sau, một số tác phẩm khác cũng được dịch, nhưng trong tình trạng
ít và rời rạc. Những tác phẩm tiêu biểu là "Ông già và biển cả" (E. Hemingway), "Túp lều bác
Tôm " (B. Stowe), "Cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer " (Mark Twain), một số truyện ngắn của
Jack London, O. Henry ...
Ở miền Nam, văn học Mỹ được dịch và giới thiệu nhiều và đa dạng hơn với mục đích
thỏa mãn nhu cầu văn hóa - văn học của quần chúng và cũng bởi đó là phương tiện phục vụ
mục tiêu xâm lược của đế quốc Mỹ. Những tác phẩm dịch phong phú về thể loại và đề tài như
truyện phiêu lưu - trinh thám của Edgar A. Poe, Willa Cather, Melville truyện tình cảm của
Pearl s. Buck, Robert Loh truyện khoa học viễn tưởng của Willey Ley, Raymond F. Yate ...
Đặc biệt là các công trình về văn học Mỹ và các nhà văn Mỹ của các nhà nghiên cứu Mỹ cũng
được chú trọng dịch và giới thiệu như "Những năm trưởng thành" của Van Wych Brooks do
Từ An Tùng dịch (1957), "Năm văn sĩ Hoa Kỳ" do Lê Bá Xông và Bửu Nghi dịch, "Năm thi sĩ
Hoa Kỳ" do Phan Khải và Nguyễn Văn Cơ dịch (1963) từ giáo trình trường Đại học Minnesota,
"Năm mươi năm tiểu thuyết Mỹ" của Nathan Glick do Dương Đức Nhụ dịch (1970).
Điều tra cơ bản ở các thư viện lớn tại TP. Hồ Chí Minh cho thấy tác phẩm dịch, các bài
viết và công trình giới thiệu văn học Mỹ không phải là ít (273 so với việc dịch và giới thiệu văn
học Đức là 57, Ý là 58, Anh là 91, Pháp là 499 và Liên Xô là 120). Riêng việc giới thiệu Jack
London và tác phẩm của ông chiếm tỷ lệ khoảng l0% trong tổng số tác phẩm và bài viết về văn
32
học Mỹ, gồm các bài nghiên cứu được dịch và các bài viết của các nhà nghiên cứu Việt nam,
những tác phẩm nguyên tác, những bản dịch tiếng Phấp, tiếng Ý và tiếng Việt.
Từ sau ngày đất nước thống nhất, việc dịch, nghiên cứu và giới thiệu văn học Mỹ diễn ra
ương những tác động do quá ữình giao lưu, ảnh hưởng giữa các nền văn học, nhất là sau thời
mở cửa. Ước tính đến nay đã có trên 400 tác phẩm với đủ các thể loại văn xuôi, thơ, kịch ...
được dịch và giới thiệu ở Việt Nam.
Các thư mục lập được (ở các thư viện TP. Hồ Chí Minh) cho thấy những tác phẩm được
dịch và giới thiệu ở Việt Nam chủ yếu là tập trung vào văn học Mỹ ở thế kỷ XX, rất ít tác phẩm
ở thế kỷ XIX. Đối tượng mà các dịch giả Việt Nam quan tâm và giới thiệu là những tác phẩm
hiện thực tiến bộ, thể hiện sâu đậm chủ nghĩa nhân đạo mà nhân vật chính là những con người
giàu tình yêu thương, có khát vọng sống tự do và bình đẳng. Phần lớn đó là những tác phẩm
của những tác giả hàng đầu và những nhà văn hiện đại nổi tiếng thế giới như "Mười ngày rung
chuyển thế giới" (John Reed), "Chuông nguyện hôn ai", "Vĩnh biệt vũ khí", "Mặt trời vẫn
mọc", "Ông già và biển cả" ... (E. Hemingway), hàng loạt truyện ngắn của Jack London, O'
Henry và nhiều tác phẩm khác nữa của những tác giả nổi tiếng như Theodore với "Bi kịch Mỹ",
"Jenny Ghechac", “Nhà tư bản tài chính" hay j. Steinbeck với "Chùm nho uất hận", "Cuồng
vọng", "Phía Đông vườn địa đàng"... Từ những tác phẩm về hiện thực nước Mỹ và người Mỹ
với cả những mặt tích cực và tiêu cực, công chúng Việt Nam có thể hình dung khá đầy đủ về xã
hội Mỹ, tính cách Mỹ, lối sống Mỹ...
Từ góc độ thể loại có thể thấy là tiểu thuyết tâm lý xã hội, trinh thám được dịch nhiều
nhất (chiếm khoảng 90% tổng số sách văn học Mỹ được dịch - theo thống kê của Mai Hương
và Nguyễn Thị Huế) và hầu hết là tiểu thuyết thế kỷ XX. Theo sau tiểu thuyết là thể loại truyện
ngắn được tuyển dịch tập trung trong các tập truyện ngắn hoặc rải rác ở các tạp chí. Ký, phóng
sự, thơ và kịch là những thể loại ít được dịch hơn. Theo một số nhà nghiên cứu thì về thơ, "tái
nay chỉ có khoảng dấm tập" [81, 199]; về kịch, "mới chỉ có trên dưới 10 vở được dịch"[81,
199] và về ký, phóng sự thì" đến nay, tổng số tập kỷ, phóng sự cũng chỉ tính trên đâu ngón
tay" [81,199].
33
Riêng về lĩnh vực nghiên cứu giới thiệu văn học Mỹ, các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng
đã chú ý đến nền văn học Mỹ từ những năm 50 nhưng dường như chưa có sự quan tâm đầy đủ
để có thể nghiên cứu, giới thiệu toàn diện về nền văn học này.
Việc nghiên cứu, giới thiệu văn học Mỹ trước năm 1975 còn lẻ tẻ và chưa đồng bộ. Ở
miền Nam, hầu như những nhà nghiên cứu chỉ giới thiệu về các hiện tượng văn học với "Vài
nét về văn chương nước Mỹ" của Văn Quy (1957), "Đại cương về văn học sử Hoa Kỳ" của
Đắc Sơn (1966) và những bài viết về cuộc đời của một số nhà văn Mỹ như Mark Twain, Jack
London, Hemingway ... trên các tạp chí.
Ở miền Bắc, từ sau năm 1960, văn học Mỹ được nghiên cứu và giới thiệu trong một số
giáo trình "Văn học phương Tây", phục vụ cho sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng
chuyên ngành cùng với những bài viết về một tác giả - tác phẩm nào đó, chủ yếu là giới thiệu
trên "Tạp chí Văn học"~tạp chí chuyên ngành nghiên cứu về văn học các nước. Văn học Mỹ
xuất hiện ương tạp chí Văn học lần đầu tiên (1962) với bài viết "Ông già và biển cả" và mãi 4
năm sau (1966) mới tái xuất hiện với 6 bài viết trong số đặc biệt về văn học Mỹ : "Mười ngày
rung chuyển thế giới của J. Reed”, "Giấc mơ đầu thế kỷ của Jack London", “Theodore
Dreiser - nhà văn hiện thực của nhân dân Mỹ"... Theo nhận định của Mai Hương và Nguyễn
Thị Huế thì "Nhìn chung, trước năm 1975, các bài viết về văn học Mỹ trên tạp chí Văn học
còn lẻ tẻ và tự phát. Đa số ở dạng giới thiệu các hiện tượng văn học, chưa đi sâu vào những
vấn đề thi pháp hoặc nghệ thuật" [80, 208].
Văn học Mỹ được nghiên cứu, giới thiệu tập trung và có hệ thống hơn từ sau ngày đất
nước thống nhất, khi các nhà nghiên cứu văn học tập trung tìm hiểu về quá trình phát triển của
văn học Mỹ, các trào lưu, khuynh hướng, hình thức nghệ thuật và đặc trưng nghệ thuật của
từng nhà văn.
Cho đến nay, ngoài một số giáo trình có phần văn học Mỹ dùng ở các trường Đại học và
Cao đẳng chuyên ngành, còn có một số chuyên luận có đề cập đến văn học Mỹ như trong "Ba
nhà văn hiện đại" của Hoàng Nhân, "Nhà giáo - nhà văn Nguyễn Đức Nam" tập hợp các bài
viết của Nguyễn Đức Nam, "Hồ sơ văn hóa Mỹ" của Hữu Ngọc, những bài viết trên "Tạp chí
Văn học" ... Việc xuất hiện những bài viết tìm hiểu về tình hình văn học Mỹ ở Việt Nam trên
các tạp chí, ở các hội nghị và những bài giới thiệu ở những tác phẩm dịch cho thấy mối quan
34
tâm của những người nghiên cứu đối với nền văn học vốn được coi là trẻ ấy. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu giới thiệu văn học Mỹ ở Việt Nam vẫn đang đòi hỏi cần phải có sự song hành, hỗ
trợ cho công việc dịch thuật và giới thiệu. Điều đó có ý nghĩa thể hiện chức năng "hướng dẫn"
của nghiên cửu lý luận đối với việc tổ chức dịch thuật và với cả việc tiếp nhận của công chúng.
Trong tương quan với việc đón nhận văn học các nước qua con đường dịch thuật, nghiên
cứu và giới thiệu, văn học Mỹ được dịch, nghiên cứu và giới thiệu như vậy cũng khá tương
xứng. Tuy rằng cũng còn nhiều tồn tại trong lĩnh vực dịch và giới thiệu văn học Mỹ ở Việt
Nam (một số tác phẩm được dịch thiếu chọn lọc, có phần tùy tiện) nhưng các dịch giả Việt
Nam đã cố gắng giới thiệu các tác giả - tác phẩm tiêu biểu và các khuynh hướng văn học, giúp
công chúng Việt Nam có thể tiếp cậnỵới nền văn học Mỹ và xã hội Mỹ với tất cả sự đa dạng
của nó.
Jack London là một trong những nhà văn Mỹ được giới thiệu và dịch nhiều trong xu
hướng chung của tình hình giới thiệu văn học Mỹ ở Việt Nam.
Công chúng Việt Nam (bao gồm nhiều thành phần) có tầm văn hóa chung khi tiếp nhận
Jack London do chịu sự chi phối chung của những điều kiện kinh tế, lịch sử và chính trị của xã
hội. Tuy nhiên, ở những lĩnh vực nhất định, tầm tiếp nhận, tầm văn hoá của công chúng cũng
có những khác biệt, nhất là đối với những công chúng đặc biệt như nhà phê bình, nhà dịch
thuật, đối tượng giảng dạy và học tập... Sự khác biệt này nảy sinh từ nhiều yếu tố nhưng cơ bản
nhất là từ tính chất nghề nghiệp.
Riêng trong luận văn này, chúng tôi sẽ tìm hiểu về việc tiếp nhận Jack London của các
đối tượng trên ở các lĩnh vực dịch thuật, nghiên cứu, giới thiệu và giảng dạy.
35
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ GIỚI THIỆU VÀ NGHIÊN CỨU JACK
LONDON Ở VIỆT NAM
Đến với Jack London, một nhà văn từ cuộc sống gian truân làm nên sự nghiệp, giới
nghiên cứu, phê bình Việt Nam xuất phát từ những cách tiếp cận, góc nhìn và sự cảm nhận
khác nhau nên những nội dung nghiên cứu, những vấn đề nhận xét và đánh giá vì vậy không là
những bản sao của nhau.
Nếu xét cụ thể và rành mạch thì những bài thuần nghiên cứu về Jack London chưa nhiều .
Tuy nhiên, các bài giới thiệu sách của các dịch giả, nhà xuất bản ( dù là hầu như chỉ dừng lại ở
mức độ giới thiệu, ít nêu ý kiến nhận định ) đã góp phần làm cho nội dung và hình thức nghiên
cứu, giới thiệu Jack London thêm phong phú .
2.1.Quá trình giới thiệu và nghiên cứu Jack London
2.1.1.Thống kê các bài giởi thiệu và nghiên cứu Jack London:
Trong thư mục của chúng tôi (mà chắc rằng chưa phải là đầy đủ), tập truyện "Một thiên
ánh hận" (An odyssey of the North) gồm năm truyện ngắn của Jack London do Anh Liễn dịch
năm 1955 là những truyện được dịch sớm hơn so với những truyện khác của Jack London ở
Việt Nam. Bài giới thiệu đi kèm với tập truyện này vì vậy cũng được chúng tôi coi là bài
nghiên cứu sớm viết riêng về Jack London. Từ đó, những bài nghiên cứu và giới thiệu về Jack
London vẫn tiếp tục trình làng, nhưng có những giai đoạn mà giữa bài viết trước và bài viết sau
có một khoảng cách khá dài về thời gian. Chúng tôi thống kê những bài viết từ năm 1955 đến
đầu năm 2000, là những bài viết của các tác giả Việt Nam có đề mục viết riêng về Jack London
ữong các công trình nghiên cứu tự do (tạp chí, bài giới thiệu tác phẩm dịch và các sách khác).
36
37
38
Ngoài ra, trong nhiều sách báo viết về các vấn đề khác, các tác giả còn đề cập đến Jack
London, hoặc để dẫn chứng, minh họa cho một nhận định nào đó, hoặc để so sánh làm nổi rõ
lên với ý khẳng định và ca ngợi, chẳng hạn như sự nỗ lực trong cuộc sống, cách viết văn,
phương thức phản ánh hiện thực ... Tuy nhiên, do những ý kiến nhận định trên không phải là
những bài viết riêng dành cho nhà văn Jack London nên không đưa vào bảng thống kê và biểu
đồ về quá trình nghiên cứu và giới thiệu Jack London.
39
2.1.2.Nguyên nhân phát triển của quá trình nghiên cứu và giới thiệu Jack London ở Việt
Nam:
Trong khả năng tìm kiếm và đọc được, chúng tôi không dám khẳng định đó là tất cả
những bài nghiên cứu, giới thiệu Jack London ở Việt Nam. Tuy nhiên, dựa vào kết quả đã
nghiên cứu và thống kê ưên, có thể khẳng định việc nghiên cứu, giới thiệu Jack London ở Việt
Nam là có một quá trình lâu dài.
Nhìn vào sơ đồ sẽ thấy quá trình giới thiệu và nghiên cứu Jack London không liên tục với
sự gia giảm của các bài giới thiệu và nghiên cứu, nhất là ở những năm 50 - 60 - 70, chỉ có rải
rác vài bài nghiên cứu và tưởng chừng như chững lại cuối những năm 70, đầu 80. Nhưng trong
những năm 80 - 90 và tính đến nay (đầu năm 2000), số lượng bài viết về Jack London đã có sự
gia tăng lớn mà đĩnh cao là thập kỷ 80 và 90 do nhiều nguyên nhân.
Những năm 50, bài viết về Jack London quả là ít ỏi ( chúng tôi chỉ tìm thấy một bài giới
thiệu). Có lẽ đây mới chỉ là giai đoạn xuất phát, công việc nghiên cứu về Jack London chỉ mới
bắt đầu nên chưa thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
Những năm 60, Jack London được nghiên cứu giới thiệu chủ yếu ở miền Nam, với sự chú
trọng về cuộc đời và những tác phẩm được xem là hay nhất của nhà văn, đặc biệt là khi Mỹ đưa
văn học Mỹ vào miền Nam với mục đích vừa nhằm giới thiệu về một nền văn học lớn của thế
giới, vừa nhằm phục vụ cho âm mứu văn hóa của chủ nghĩa thực dân mới. Tuy nhiên, số lượng
các bài nghiên cứu và giới thiệu dành cho Jack London như vậy là chưa nhiều lắm so với các
tác giả khác như w. Faukner, Pearl Buck, E. Hemingway ... Phải chăng vì Jack London không
nằm trong số' những nhà văn đỉnh cao (với biểu hiện cụ thể là giải Nobel văn chương hay giải
Pulitzer) ? Thời kỳ này, những tác phẩm đoạt giải thưởng Nobel và Pulitzer được dịch nhiều.
Và phải chăng vì Jack London là một trong những nhà văn bị liệt vào loại "khuấy bùn "
(Muckrakers)?
Miền Bắc ở giai đoạn này mới bắt đầu làm quen với văn học Mỹ và còn trong sự dè dặt,
chỉ nghiên cứu, giới thiệu một số nhà văn tiến bộ hiện thực (như Jack London, Hemingway ...)
nên số bài giới thiệu và nghiên cứu về Jack London rất hạn chế.
40
Những năm 70, suốt một thời gian dài, việc nghiên cứu,giới thiệu Jack London rơi vào im
lặng, cụ thể là trước năm 1975, chỉ có bài giới thiệu về Jack London cùng một số nhà văn Mỹ
khác trong tập "Hoa dại". Sau năm 1975, cũng chỉ có duy nhất bài của Lê Đình Cúc đăng trên
tạp chí Văn học : "Giắc Lơnđơn và cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc". Nhân tố
chính trị mà cụ thể là việc cắt đứt quan hệ với Mỹ, coi đế quốc Mỹ là kẻ thù chiến ữanh sau
những gì chúng gây ra trên đất nước Việt Nam được xem là nguyên nhân chính làm gián đoạn
việc nghiên cứu và giới thiệu văn học Mỹ nói chung và Jack London nói riêng.
Từ những năm 80, Jack London đã có vị trí đáng kể trong lĩnh vực nghiên cứu và giới
thiệu ở Việt Nam, xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân của sự "đổi mới"
trong sáng tạo nghệ thuật và "mở cửa" trong giao lưu - tiếp nhận.
Jack London là một khuôn mặt đặc biệt trong văn đàn Mỹ, không phải chỉ bởi trong cuộc
đời, trong sự nghiệp sáng tác và ương tư tưởng của ông mang đậm dấu ấn của nước Mỹ những
năm ông sống mà còn bởi vì Jack London đã sông hết mình và đã viết hết mình về một thời đại
thịnh vượng và lầm than, về những con người tràn đầy khát vọng và cùng cực đau thương. Mặt
khác, Jack London cũng lại được đánh giá là “bậc thầy của truyện ngắn Mỹ”. Do vậy, nghiên
cứu và giới thiệu nhiều về Jack London ương thời kỳ đổi mới văn học và "mở cửa" trong giao
lưu - tiếp nhận là hiển nhiên.
Ngoài ra, bài nghiên cứu và giới thiệu Jack London ở những năm này cũng tăng theo số
lượng tác phẩm dịch. Bởi lẽ, không kể những bài viết về các vấn đề khác có đề cập đến Jack
London thì những bài viết về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Jack London ở phần giới thiệu
sách chiếm một số lượng không nhỏ. Nói cụ thể hơn, ở giai đoạn này,theo thống kê thì chỉ có
một bài nghiên cứu, còn lại là những bài giới thiệu sách.Văn học Mỹ nói chung và tác phẩm
Jack London nói riêng được dịch nhiều từ giữa thập kỷ 80 đáp ứng nhu cầu thưởng thức của
công chúng. Những bài viết về Jack London gia tăng cũng từ thời gian đó.
Nếu như những năm 80, Jack London được giới thiệu và nghiên cứu nhiều qua các bài
giới thiệu sách thì những năm 90, ông lại có mặt nhiều ở những công trình và bộ sách nghiên
cứu các vấn đề lớn như "Hồ sơ văn hóa Mỹ" (Hữu Ngọc), "Hành trình văn học Mỹ" ( Nguyễn
Đức Đàn), "Những nền văn minh thế giới" (nhiều tác giả) và "Ấn tượng văn chương" (Lữ
Huy Nguyên). Cụ thể là có đến sáu bài nghiên cứu và chỉ có hai bài giới thiệu.
41
Trong những năm này, Jack London được nghiên cứu và giới thiệu trong yêu cầu chung,
đáp ứng trình độ nhận thức, tìm hiểu ngày càng cao của người đọc là cần thiết phải cổ những
công trình nghiên cứu giới thiệu, hệ thống những vấn đề về văn hóa - văn học của thế giới nói
chung và của Việt Nam nói riêng. Hơn nữa, văn học Mỹ ở Việt Nam từ những năm 80 được
dịch, nghiên cứu và giới thiệu với nhịp độ phát ttiển cao. Tính đến thập kỷ 90, nó đã có một
quá ưình lâu dài nhưng chưa có sự tổng kết và đánh giá. Các bài viết về Jack London ở giai
đoạn này gia tăng trong sự phát triển của những bộ sách và công trình nghiên cứu về các vấn đề
có tính chất khái quát, tổng hợp đáp ứng nhu cầu thực tế về văn hóa - văn học. Điều đổ cũng có
nghĩa là nó đòi hỏi chú trọng tính nghiên cứu toàn diện và sâu sắc hơn.
2.2.Nhận xét về nội dung nghiên cứu và giời thiệu Jack London:
Lược thuật những nội dung giới thiệu, những ý kiến nhận xét và đánh giá trong các công
trình nghiên cứu, chúng tôi xem đó là cơ sở để so sánh, nhận xét và bày tỏ ý kiến của mình.
Có thể thấy Jack London được nghiên cứu và đánh giá về nhiều mặt, từ cuộc đời cho đến
sự nghiệp văn chương, giá ừị tác phẩm .Những ý kiến của các nhà nghiên cứu có khi đồng quan
điểm nhưng cũng có lúc khác nhau.
2.2.1.Những ý kiến nhận định giống nhau
* Về đánh giá tầm cỡ:
Có nhiều ý kiến đánh giá cao nhà văn Jack London. NXB. Trẻ, NXB. Tác phẩm mới,
NXB. Long An, Phùng Văn Tửu, Hữu Ngọc, Mạnh Chương, Mai Hương và Nguyễn Thị Huế
ương các bài giới thiệu và nghiên cứu khẳng định Jack London là "nhà văn hiện thực Mỹ" đã
để lại một di sản lớn và có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến những thế hệ nhà văn sau. NXB. Lao
động và Lê Huy Bắc trong một số bài viết về văn học Mỹ xếp ông vào hàng "bậc thầy trong
truyện ngắn Mỹ". NXB. Tác phẩm mới, Bùi Phụng và Bùi Ý khẳng định "Ông là nhà văn
xuất sắc nhất của văn học Mỹ".
* Về quan hệ của cuộc sống và tư tưởng Jack London đối với sáng tác của ông:
Nhìn chung , các bài viết về cuộc sống, hoạt động và tư tưởng của Jack London thể hiện
những ý kiến, nhận định hầu như thống nhất nhau, xuất phát từ việc kể và nhìn lại những sự
42
kiện có thật trong cuộc đời tác giả. Qua đó , các nhà nghiên cứu cũng đề cập đến mối quan hệ
của chúng đối với sáng tác của nhà văn.
Jack London đã "lớn lên trong cảnh nghèo khổ, từng qua cơn thử lửa của cuộc sống
khắc nghiệt, tàn nhẫn trong đấu tranh xã hội và đấu tranh với thiên nhiên" [9,19]:
Là đứa con của một cuộc hôn nhân không chính thức, chưa đầy một tuổi, Jack London đã
phải thay đổi tên cho phù hợp với cuộc hôn nhân mới của mẹ và phải sống trong tình mẫu tử
không có chi là mãnh liệt của bà. Cuộc sống tình cảm vốn đã thiệt thòi, nhưng cuộc sống vật
chất cũng chẳng hơn gì ! Cảnh nghèo đói, túng thiếu của gia đình đã sớm đẩy Jack London vào
nỗi vất vả và lăn lộn trong đủ loại công việc.
Năm 10 tuổi, Jack London phải vừa đi học vừa bán báo. 13 tuổi, Jack London phải từ giã
nhà trường để lao vào vòng xoay của cuộc mưu sinh. Rồi từ việc quét dọn ương các tiệm cà
phê, Jack London tiếp tục trải qua những tháng ngày vất vưởng, khi là một công nhân ừong nhà
máy đồ hộp, lúc là một tên lưu manh mỗi tối đi ăn hàng, đánh cắp sò ở vùng Lower Bay đem
về bán tại bến tàu Oakland. Ở tuổi 15, Jack London trở thành một tên tuổi lợi hại trong đám
cướp biển. Khi túi tiền rỗng tuếch, Jack London lại xin làm thủy thủ trên những chiếc tàu buồm
đi săn, làm công nhân trong xưởng đay, làm phu khuân vác, gác cổng, xén cỏ, chải thảm, giặt
quần áo, đi tìm vàng ...
Trong cái nhìn đầy cảm thông, Đỗ Đức Dục nhìn thấy ở cuộc đời ấy "một thời thơ ấu và
thanh niên nghèo đói đau khổ" [ 9, 19 ]. Từ Trẫm Lệ thì xót xa : "Ở vào cái tuổi để vui chơi,
đứa bé ấy lại phải chịu nhiêu vất vả" [36, 104 ]. Thanh Tâm thốt lên : "Thật là một cuộc đời
trâu ngựa vô cùng khổ cực" [69,1020 ]. Lữ Huy Nguyên kết luận : "Đó là cuộc đời một con
người trầm luân phiêu bạt, suốt đời không biết cha mình là ai, nếm trải đủ mùi cay ngọt..."
[59, 674 ].
Jack London đã sống một cuộc đời phiêu lưu và từng trải:
Trên thực tế, không hiếm những nhà văn trên thế giới, nhất là ở Mỹ, trước -sau hoặc cùng
thời với Jack London đã từng rày đây mai đó vì mục đích nghề nghiệp, phiêu lưu, du lịch hay
kiếm sống như Mark Twain, Hermen Melville, Emest Hemingway ... Thế nhưng lại hiếm có
43
những nhà văn mà người ta có cảm tưởng cuộc đời là những chuỗi ngày phiêu lưu gần như vô
tận như Jack London.
Không phải ngẫu nhiên mà hầu như khi đọc những bài viết về cuộc đời Jack London,
chúng ta đều bắt gặp hình ảnh của kẻ lãng du mà hành ưang ban đầu chỉ là một chiếc bị và một
chiếc gậy. Nhiều bài giới thiệu sách của Mạnh Chương, Bùi Phụng, Bùi Ý, Bùi Việt Hồng,
NXB. Tổng hợp Long An, NXB. Trẻ ... đều nói về cuộc đời phiêu bạt và lang thang khắp nước
Mỹ của Jack London mà từ đó vốn sống của ông ngày càng giàu thêm. "Với một cái bị, một
chiếc gậy và mười đô-la chị gái cho, Giắc Jack Lơnđơn bắt đầu lang thang khắp nước Mỹ.
Chú đi từ thành phố náo động đến miền nông thôn cô tịch xơ xác, từ bờ biển Thái Bình
Dương đến miền Bắc cực xa xôi quanh năm băng giá và chó sói, chú phiêu bạt tới những
hòn đảo xa xôi và đi đến vùng Alaxca cùng với người đi tìm vàng trong cơn sốt vàng" [7,
117].
Jack London là một nhà văn có tư tưởng tiến bộ:
Ở tuổi 19, Jack London đã nhận thức sâu sắc về sự bất công tàn bạo của xã hội tư bản mà
mình đang sống, rồi tìm đọc "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" của Marx và Engels, tìm đọc
những sách triết lý, kinh tế của spencer, Fiske, Nietzsche ...và kết bạn với nhiều nhà hoạt động
XHCN ở Mỹ. Khi trở thành thành viên của Đảng Lao động Xã hội một năm sau đó, Jack
London đã tích cực hoạt động và chuyên diễn thuyết cho Đảng này. "Ở mọi nơi, ông đêu lớn
tiêng lên án chê độ XHTB thối nát và đấu tranh cho quyên lợi của giai cấp công nhân" [7,
118 ]. Ngả về phía những người dân bị áp bức, ông thẳng thắn tố cáo, phê phán chính sách và
thái độ của bọn thực dân da trắng kiêu căng, tàn ác.
Trong bài viết của mình, Đỗ Đức Dục, Phùng Văn Tửu, Lê Đình Cúc, Hữu Ngọc ... cùng
thống nhất khi nói về thái độ bênh vực những người nghèo khổ, chống lại xã hội tư sản của
Jack London và khẳng định tinh thần trách nhiệm của Jack London là phấn đấu để đấu tranh
cho một tư tưởng tiến bộ bằng cuộc đời và tác phẩm của ông, đấu tranh cho giai cấp bị áp bức.
"Công lao của Giắc Lơnđơn trước hết là ông suốt đời phấn đấu không biết mệt mỏi để tuyên
truyền cho tư tưởng tiến bộ bằng cuộc đời và tác phẩm của mình, suốt đời đấu tranh cho
giai cấp công nhân" [7,126 ].
44
Việc Jack London ghi tên gia nhập Đảng Xã hội, từng bị bắt vì diễn thuyết về chủ nghĩa
xã hội trong vườn Tòa Đô sảnh, việc Jack London bị chính quyền và nhiều người coi là nhân
vật nguy hiểm, bị Tổng Thống Mỹ liệt vào loại nhà văn "khuấy bùn" là bằng cớ cho việc
khẳng định thái độ chính trị tiến bộ của Jack London.
Jack London là một nhà văn đã nêu một tấm gương sáng về năng lực phấn đấu và
sự thành công trong sự nghiệp:
Sinh ra trong những khu nhà ổ chuột ở San Francisco, bị níu kéo vào vòng xoay lẩn quẩn
của cuộc sống ở đó, nhưng Jack London luôn sống ương sự tìm kiếm không ngừng sự an toàn
về vật chất và sự phong phú về tinh thần để vượt qua cuộc sống, số phận mà người ta gọi là
định mệnh. Lăn lộn với đủ mọi công việc của người lao động chân tay, lăn xả vào những hoạt
động chính trị vì lợi ích của nhân loại lầm than, lao vào viết văn trong hoàn cảnh thiếu thốn ...
Jack London đã hoạt động không ngừng nghỉ để giành quyền mưu sinh và để vươn tới ánh sáng
của tri thức. Thời gian ngồi ở ghế nhà trường không nhiều, nhưng chính nhờ vào lòng ham học
hỏi và say mê viết văn, nhờ vào ý thức vươn lên và năng lực phấn đấu mà Jack London đã vượt
qua những thử thách khắc nghiệt của cuộc sống để trở thành nhà văn nổi tiếng.
Đề cập đến khát vọng, ý chí và năng lực phấn đấu của Jack London, hầu như các bài viết
về nhà văn này ở Việt Nam đều nhắc đến quá trình sống, tự học và tự rèn luyện để trở thành
nhà văn nổi tiếng của ông, mặc dù có thể thấy là không có nhiều những lời nhận định và đánh
giá chung. Nhận định của Đỗ Đức Dục và Mạnh Chương có thể được xem là tiêu biểu và khái
quát. Đỗ Đức Dục cho rằng :"Chính cuộc đời của bản thân Jack London đã là một tấm
gương của sức mạnh vươn lên, của nghị lực kiên cường và từ một kẻ nghèo hèn thất học, bị
xã hội mông bỏ, ông đã tự lực vươn mình để trỗ thành một nhà văn nổi tiếng" [9, 20 ]. Mạnh
Chương nhìn nhận: "Ông là con người vĩ đại trong mọi ý nghĩ và việc làm của Ông"[42, 3 ].
Jack London đã thể hiện cuộc sống,tư tưởng của mình trong sáng tác: Có thể nói, theo nhiều
nhà nghiên cứu thì những gì Jack London trải qua đều là đề tài cho sáng tác của ông, "trang
sách và trang đời nhiêu khi chỉ là một" [26,22]. Hơn thế nữa, sáng tác của Jack London gắn
với cuộc sống, tư tưởng của ông. Jack London đã "đấu tranh cho một tư tưởng tiến bộ bằng
cuộc đời và tác phẩm của mình"[7, 126]. Điểm qua những đề tài chính trong sáng tác của Jack
London sẽ thấy đề tài trong thế giới tác phẩm của Jack London đa dạng và tạo thành một hệ
45
thống mang đậm dấu ấn của tác giả. Có thể thấy một số đề tài nổi bật mà sự phân chia ở đây chỉ
có ý nghĩa tương đối vì các tác phẩm là cả một hệ thống đề tài liên quan với nhau :
Đề tài phiêu lưu:
Đề tài này chiếm nhiều nhất trong toàn bộ sáng tác của Jack London ( trên 120 truyện ).
Tác giả miêu tả những cuộc khai thác đất đai và tài nguyên của nước Mỹ, nhất là phong trào đi
đào vàng từ cuối năm 1890 mà Jack London đã từng tham gia và cũng đã từng phải đương đầu
với những thử thách, với các thế lực (con người, con vật, thiên tai ... ) giữa thiên nhiên hoang
dã. Trong những hoàn cảnh khắc nghiệt, nhân vật của Jack London có dịp bộc lộ bản năng, ý
chí, kinh nghiệm của mình và kết thúc cuộc phiêu lưu hoặc bằng chiến thắng ( Như chàng
Argus thời đại xa xưa, Ngôi nhà của Mapuhi, Từ bỏ thế giới vàng ... ), hoặc với sự thất bại
(Một nghìn tá trứng, một câu chuyện của người lính già, Hai cục vàng ...), hoặc bị tiêu diệt
(Quy luật sống, Nhóm lửa ...)
Đề tài đấu tranh xã hội:
Đây là mảng đề tài phản ánh những cuộc đấu tranh căng thẳng giải quyết xung đột chủng
tộc, xung đột giàu nghèo và xung đột giai cấp. Xung đột chủng tộc trong tác phẩm Jack London
xuất phát từ mục tiêu chiếm đất, khai thác tài nguyên của người da trắng và quá trình chiến đấu
để tồn tại của người da màu ( Hội những người già, A ! A ! A !, Kulau hủi, Con trai của chó
sói... ). Xung đột giai cấp trong tác phẩm Jack London bắt nguồn từ xung đột giữa người giàu
và người nghèo, cụ thể là người nghèo luôn bị khinh rẻ ( Martin Eden, Một người Mexico, Kẻ
bỏ đạo...), còn bọn tư bản thì sống trong xa hoa, hoang phí từ sự lợi dụng, áp bức và bóc lột
người nghèo ( Gót sắt) . Sự xung đột ấy nảy sinh trên cơ sở áp bức bóc lột giai cấp nên nó cũng
được giải quyết bằng đấu tranh giai cấp ( Đám dân dưới vực thẳm, Gót sắt) . Thể hiện đề tài
này, Jack London tỏ rõ thái độ đứng về phía quần chúng nhân dân lao động, ca ngợi những
phẩm chất tốt đẹp, đặt niềm tin và hy vọng vào họ.
Đề tài đấu tranh tư tưởng:
Đề tài này tuy không được phản ánh nhiều trong tác phẩm của Jack London nhưng được
tập trung ở những tác phẩm dường như biểu lộ nhiều nhất "chất Jack London" trước sự khủng
hoảng của xã hội Mỹ: khao khát hành động thực hiện lý tưởng, dấn thân, rồi cảm thấy cô đơn,
46
bi quan và từ bỏ tất cả ( Từ bỏ thế giới vàng ), hoặc tìm đến cái chết ( Martin Eden, Văn
phòng ám sát). Những trăn trở, nghĩ suy, đấu tranh giằng xé trong tư tưởng trước những mâu
thuẫn trong xã hội và trước sự bất lực, vỡ mộng của những nhân vật muốn thực hiện lẽ công
bằng trong một xã hội bất công phải chăng cũng chính là nỗi niềm của Jack London. Và phải
chăng có mối dây liên hệ nào đó giữa tâm trạng bi quan và vụ tự vẫn của Martin Eden, Pazini
trong tác phẩm với vụ tự vẫn của Jack London trong đời thực ? Cho đến nay, vẫn chưa có một
kết luận khẳng định chính xác về vấn đề này.
*Về nội dung tác phẩm:
Đề cập đến nội dung hiện thực được xây dựng trong tác phẩm Jack London, nhiều ý kiến
cùng thống nhất khi nói đến sự hiện diện của của cuộc sống thực tế nhiều màu, nhiều vẻ.
Nguyễn Đức Đàn cho rằng Jack London đã viết về đời sống thực tế của nước Mỹ, "mô tả đúng
những điêu ông đã trông thấy" [ 13, 194 ]. Bùi Phụng và Bùi Ý nói đến cái vốn tư liệu sống
phong phú mà Jack London đưa vào hàng ngàn truyện ngắn của ông.
Nhiều nhà nghiên cứu không chỉ nêu nhận xét mà còn dẫn ra những biểu hiện cụ thể của
hiện thực ấy ương tác phẩm của Jack London : Vấn đề đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc
và thế giới tự nhiên (Lê Đình Cúc), thiên nhiên của đất nước và cảnh sống của người dân
(Nguyễn Đức Đàn), bức tranh vê thế giới loài vật (NXB Tác phẩm mới), cuộc chiến đấu cho
sự tôn tại của con người (NXB Tác phẩm mới), những thối nát của giới chính trị và kinh
doanh Mỹ (Hữu Ngọc), "sự tàn bạo thời nguyên thủy" trong một nước Mỹ văn minh (Đắc
Sơn) ... Cụ thể hơn, dịch giả Thanh Việt Thanh nhận định : "Ngoài chủ đề có tính cách phiêu
lưu, mô tả cảnh gian nan cùng cực của một số người đi săn vàng ở vùng Bắc Canada quanh
năm tuyết phủ, ngòi bứt Jack London còn nhạy bén hơn nữa qua đề tài hiện thực phê phán
xã hội tư bản, người bóc lột người đến tệ hại của giới lánh doanh, bọn thương mãi, những
chính khách xôi thịt và nỗi thống khổ của nhân dân nghèo đói[47, 5 ].
Từ những vấn đề hiện thực được phản ánh ấy, một số nhà nghiên cứu đã quan tâm đến
thái độ của nhà văn. Đó là thái độ yêu ghét rõ ràng của một con người nếm trải và có cái nhìn
sâu sắc đôi với xã hội. "Đứng về phía những người cơ cực", Jack London bênh vực, "ca ngợi
những phẩm chất tốt đẹp của con người lao động mà mới nhìn qua khó nhận thấy sau cái
vỏ thô nhám của cuộc sống phũ phàng"[43,51], "đã miêu tả giai cấp mình với niềm thông
47
cảm sâu xa" [42,4 ]. Đối lập với những kẻ bóc lột, Jack London "chống lại xã hội tư sản" lên
án xã hội tư bản" [ 38,6 ], lột trần một cách không thương tiếc, "lên án sự bóc lột của chủ
nghĩa tư bản, lòng tham không đáy và các thói xấu khác của bọn tư bản"[43, 5 7], "đả phá
kịch liệt chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc"[19, 4 ]. Jack London đã
"nói thẳng những gì ông muôn nói", đã "mạnh dạn phanh phui mổ xẻ đời sống và xã hội
nước Mỹ ghê tởm mà ông đang sống" [7,119].
Nhiều tác giả nói đến hạn chế và mâu thuẫn của tư tưởng thể hiện trong sáng tác cũng như
đã từng nói về hạn chế tư tưởng của Jack London trong cuộc sống: Nguyễn Đức Đàn cho rằng
Jack London "viết về đời sống thực tế của nước Mỹ nhưng còn có những xu hướng không
tưởng, chịu ảnh hưởng của cấc nhà tư tưởng tư sản nhưHerbert, Spencer và Nietzsche" [13,
194 ]. Phùng Văn Tửu phê phán tư tưởng tiến hóa máy móc mà Jack London tiếp thu từ
Spencer : "Ảnh hưởng của triết học Xpenxơ còn đe lại trong ông dấu vét khá đậm như khi
ông nghiêng vè phía vận dụng những quy luật sinh vật học để giải thích cuộc đấu tranh sinh
tồn"[17, 416]
* Về nghệ thuật biểu hiện:
Trong lĩnh vực nghiên cứu văn học ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã từng đề cập đến
phương diện nghệ thuật trong sáng tác của các nhà văn nước ngoài. Đặc biệt, có khá nhiều bài
viết về nghệ thuật biểu hiện tác phẩm của nhà văn Mỹ Hemingway. Nhưng riêng về nhà văn
Jack London, chưa có một công trình và bài viết nào tập trung khai thác phương diện nghệ
thuật trong các tác phẩm của ông. Chỉ có thể bắt gặp một số ý kiến nhận xét rải rác trong các
bài giới thiệu, nghiên cứu về nhà văn này.
Lê Đình Cúc, Đỗ Đức Dục, Mạnh Chương, Thanh Việt Thanh ... cùng nhận định về sự
phong phú của đề tài, những vấn đề của cuộc sống trong tác phẩm Jack London. Dường như
trong ông luôn có sẵn cả khung cảnh lẫn những nhân vật hết sức linh động và sống sát với thực
tế, những nhân tố chính tạo nên cốt truyện hấp dẫn.
Và cũng chính vì vậy mà khi nói đến cốt truyện, nhiều ý kiến và nhận định đã khẳng định
ưu điểm của Jack London là từ những câu chuyện và sự kiện trong đời sống , ông đã không chỉ
xây dựng nên những cốt truyện hoàn chỉnh mà còn tạo nên sức mạnh thuyết phục và lôi cuốn
của nó. cốt truyện của Jack London "có sức hấp dẫn và sinh động" (Lê Đình Cúc - NXB. Tác
48
phẩm mới, Nguyễn Xuân Lạc), "ly kỳ" (Thanh Tâm), "có tính khái quát và ừm cao tư tưởng"
(NXB. Long An) mà người đọc dễ dàng nhận ra khi tiếp xúc với tác phẩm.
2.2.2.Những ý kiến nhận định khác nhau
* Về quan hệ của cuộc sống và tư tưởng của Jack London đối với sáng tác:
Không có ý kiến nhận định khác nhau về mối quan hệ giữa cuộc sống, tư tưởng của Jack
London với sáng tác của ông. Tuy nhiên,trong những nhận định về tư tưởng của Jack London,
không ít nhà nghiên cứu Việt Nam thể hiện cách nhìn khác nhau. Nhìn vào cuộc sống giàu sang
của Jack London sau khi nổi tiếng, có người cho rằng ông đã chuyển sang một giai cấp khác và
đã thoái hóa. Từ hành động xin ra khỏi Đảng Xã hội của Jack London (1916), có ý kiến cho
rằng đó là một bước lùi. Theo Phùng Văn Tửu, "ý thức chính trị của nhà văn có nhiều hạn
chế" [77, 406 ]. Theo Mạnh Chương, Jack London "có lúc sai lầm về nhận thức và quan
điểm"[424 ], thậm chí Nguyễn Đức Đàn cho rằng Jack London là "nhà văn tự cho mình là
XHCN" [13,194 ].
*Về nội dung tác phẩm:
Như đã nói ở trên (phần Những ý kiến nhận định giống nhau -về nội dung tác phẩm),các ý
kiến nhận định của các nhà nghiên cứu, dịch thuật về nội dung tác phẩm Jack London hầu như
thống nhất nhau. Chúng tôi không tìm thấy những phát biểu khác nhau.
* Về nghệ thuật biểu hiện:
Về văn phong, trong cách cảm nhận riêng của mình, các nhà nghiên cứu có nhiều ý kiến
khác nhau. Mạnh Chương cho rằng : "Văn phong của Jack London khó, ngôn ngữ phức tạp"
[42, 5 ]. Theo Thanh Việt Thanh và NXB An Giang, văn phong của Jack London "bình dị, trữ
tình". Bùi Việt Hồng cho là : "Ngôn từ phong phú, súc tích, phong cách đa dạng". Lại có khá
nhiều ý kiến tập trung vào "lối viết" của tác giả hoặc tìm thấy ở đó cách thể hiện mang những
nét của nghệ thuật cổ điển như Đặng Anh Đào nhận xét : "Lối viết của ông cũng rất cổ điển"
[14, 702] hoặc có người nhận ra cái khả năng nắm bắt, phát hiện, nhận xét, ứng phó nhanh, có
tính chất đi vào chiều sâu, vào những vấn đề thuộc bản chất và có ý nghĩa. Đó là lối viết "sắc
sảo, nhạy bén" như lời NXB Long An, là "lối viết mạnh bạo, ào ạt nhưng không kém phân
49
tình tế và sâu sắc" như nhận định của NXB Tác phẩm mới,là "lời văn cuốn hút" như nhận
định của Nguyễn Xuân Lạc.
Về nhân vật trong tác phẩm Jack London, hầu như các ý kiến nhận định không đề cập đến
những biểu hiện về diện mạo, dáng vẻ bề ngoài mà chỉ tập trung vào những biểu hiện của hành
động, thái độ và tâm lý có cá tính. Theo Đặng Anh Đào, đó là "những nhân vật anh hàng kiểu
Mỹ nhưng hãy còn cổ sơ, sống một cuộc đời sóng gió, ngang tàng và gần thiên nhiên" [14,
703 ]. Thanh Tâm cho rằng "nhân vật trong truyện của ông không có tính cách là siêu nhân,
tôn trọng đạo đức như những bậc thánh nhân" [70,1142 ]. Với NXB. Tác phẩm mới, nhân
vật trong truyện Jack London "có cá tính mãnh liệt, nhiêu khi đến mức tàn nhẫn, thường
phải vật lộn với một hoàn cảnh cũng hết sức khó khăn" [44, 6 ].
* Đánh giá chung về tác phẩm:
Nhiều ý kiến tập trung phê phán mạnh mẽ sự dễ dãi, hời hớt và thiếu đầu tư ở một số tác
phẩm của Jack London. Tuy nhiên, cách nhìn và lý giải về vấn đề này có sự khác nhau. Lữ Huy
Nguyên một mặt khẳng định sự tuyệt vời, đồ sộ của những tác phẩm nói chung, mặt khác cho
rằng "chính ông cũng lại là tác giả một số tác phẩm cố tính nghệ thuật non yếu" [59, 675 ].
Bùi Phụng và Bùi Ý một mặt đánh giá cao "tính hiện thực, đúng đắn" của hầu hết các tác
phẩm, mặt khác cho rằng Jack London còn "viết những truyện ngắn và tiểu thuyết giả tạo"
[38, 4 ].. Không chút nương nhẹ, Mạnh Chương nhận xét: "Có lúc ông sáng tác vì đồng đô-la
nên chỉ phục vụ thị hiếu tầm thường" [42, 8 ].
Trên đây là những ý kiến nhận xét về mặt mạnh, mặt yếu có liên quan đến nội dung hiện
thực cũng như nghệ thuật biểu hiện của tác phẩm Jack London mà các nhà nghiên cứu đã nêu
ra xuất phát từ góc nhìn và sự cảm nhận của cá nhân. Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi
chỉ nêu và so sánh các ý kiến tiêu biểu trong cùng vấn đề đã được tiếp cận từ các tư liệu thu
thập được. Vì vậy, có thể còn những vấn đề riêng lẻ khác, xin không bàn đến ở đây.
2.3.Một số suy nghĩ và đê xuất về vấn đề giđi thiệu và nghiên cứu Jack London:
2.3.1.Một số suy nghĩ về vấn đề giới thiệu và nghiên cứu Jack London:
Như đã nói, do tính chất nghề nghiệp, ngưỡng tiếp nhận của nhà phê bình thể hiện độ
chuyên sâu. Có thể thấy rằng giới nghiên cứu, phê bình Việt Nam đã xem xét Jack London về
50
nhiều mặt và rất công phu: từ cuộc đời,tư tưởng đến sáng tác. ..Những nhận định, đánh giá của
họ tuy có lúc chưa thật toàn diện và còn mang tính chất chủ quan của cá nhân nhưng không
kém phần sâu sắc, có ý nghĩa khám phá và thể hiện sự tiếp nhận có ý thức và có phương
hướng. Nó xuất phát từ góc độ nghiên cứu văn hoá nghệ thuật và cả từ nhãn quan chính trị. Và
ương nhũng hoàn cảnh xã hội khác nhau của đất nước, tầm đón nhận của các nhà nghiên cứu,
dịch thuật về Jack London cũng có ít nhiều sự khác biệt.
Ngưỡng tiếp nhận của nhà dịch thuật thể hiện mức độ chuyên sâu ở khía cạnh khác - sự
cảm nhận tinh tế về tác phẩm được dịch . Nhưng không vì thế mà họ bỏ qua các qua các yếu tố
khác liên quan đến nhà văn. Các nhận định, đánh giá về Jack London của các dịch giả, nhà xuất
bản tuy dừng lại ở mức độ chung chung nhiứig cho thấy sự hiểu biết nhất định và cách nhìn
chủ quan của họ về tác giả, tác phẩm mà mình chọn dịch.
Có thể nói, sự phong phú, đa dạng về hình thức và nội dung ương nghiên cứu, giới thiệu
Jack London đã góp phần giới thiệu và cung cấp cho độc giả những hiểu biết về tác giả Jack
London và tác phẩm của ông. Những giới thiệu về chân dung tác giả đã phần nào giúp cho độc
giả hình dung được con đường hình thành tài năng của nhà văn là cả một quá trình phấn đấu
vượt lên trên những trở ngại và thử thách của thực tế cuộc sống. Tác phẩm của Jack London là
hình ảnh của một đất nước, một xã hội, một cuộc sống mà ở đó, dấu ấn về sự phát triển, khai
phá và về tính chất khốc liệt của quy luật đấu tranh sinh tồn đã in sâu. Những giới thiệu chung
hoặc riêng lẻ về tác phẩm cho người đọc hình dung được phần nào về thực trạng nước Mỹ, xã
hội Mỹ trong những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cũng như tài năng phản ánh trong
sáng tác của tác giả.
Việc nghiên cứu, giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Jack London cả về
mặt thành công lẫn hạn chế, cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực, còn là sự gợi mở, dẫn dắt, kích
thích, đưa người đọc đến với thế giới văn chương của tác giả, góp phần nâng cao thị hiếu tiếp
nhận cho người đọc, đồng thời cũng tránh được khuynh hướng lý tưởng hóa nhà văn. Mặc dù
vậy, trong nghiên cứu và giới thiệu Jack London, khó có thể tránh khỏi những ý kiến chủ quan
của cá nhân người viết khiến người đọc đồng tình, phủ nhận hoặc phân vân, tự mình suy ngẫm
và đánh giá lại. Do đó, những ý kiến và nhận định ấy được xem như là sự gợi mở, hè lộ để độc
giả có ý thức và định hướng cụ thể trong khi đọc Jack London.
51
Có thể nói, với mục đích phục vụ bạn đọc đông đảo, những bài nghiên cứu và giới thiệu
đã giúp cho độc giả có được chân dung nhà văn với những nét cơ bản và có cái nhìn chung về
giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật trong sáng tác của Jack London. Nó đáp ứng được yêu cầu
giới thiệu về nhà văn, đồng thời cũng đáp ứng được yêu cầu thông tin, dẫn dắt và kích thích
người đọc. Nó có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển năng lực tiếp nhận của người đọc.
Ở góc độ nhìn nhận của bản thân, chúng tôi tìm thấy những gợi mở nhất định và cần thiết
làm cơ sở để mở rộng vấn đề. Tuy nhiên, có những nhận định tỏ ra khắt khe hay có phần phiến
diện, chúng tôi nghĩ rằng cần có những lý giải cụ thể, thỏa đáng để người đọc có thể hiểu và
chấp nhận .Dưới đây là một số suy nghĩ về những vấn đề mà chúng tôi chưa thống nhất với các
ý kiến của những nhà nghiên cứu.
* Về tư tưởng của Jack London:
về tư tưởng của Jack London, với cách nghĩ của mình, chúng tôi cho rằng có nhận xét
khắt khe và dường như chưa đầy đủ cơ sở để đánh giá là "bước lùi", là "thoái hóa". Bởi vì
trước khi ra khỏi Đảng Xã hội (The Socialist Party), Jack London cũng đã có lần rời khỏi Đảng
Lao động Xã hội (The Socialist Labor Party) ở Oakland cùng nhiều thành viên khác với những
lý do thực tế, chính đáng. Trước khi được mời gia nhập Đảng Lao động Xã hội, chính Jack
London đã tự mình tìm hiểu và đến với tư tưởng của chủ nghĩa xã hội. Trong "Jack Londotiy
American Rebel", Philip S. Foner khẳng định Jack London đã đọc "Tuyên ngôn Cộng sản"
(The Communist Maniíesto) của Marx và Engels từ một bản photo mượn ở thư viện và thấy ở
đó cũng đề cập đến những vấn đề vốn chồng chất trong trí nhớ của nhà văn suốt cuộc sống từ
thuở còn là một cậu bé bán báo (a newsboy), một công nhân trong nhà máy (a íactory hand),
một tên cướp biển (a pừate) và một kẻ sống lang thang (a hobo). Trong quyển sách về cách
mạng ấy, Jack London cũng tìm thấy lời giải đáp rõ ràng về những gì ữước kia ông còn mơ hồ
hoặc lầm tưởng.
Cũng theo nhà xã hội học Philip S. Foner, Jack London đã gạch dưới thật đậm đoạn cuối
cùng của "Tuyên ngôn Cộng sản":
"The Socialists disdain to conceal their aims and views. They openly declare their ends
can be attained only hy a jorcible overthrow of all existìng conditions. Let the ruling cỉass
52
tremble át the Socialistic revolution. The proletarians have nothing to lose bút their chains.
They have a world to gain. Working men of all countrie, unite !" [83, 25].
(Những người Cộng sản coi là điều đáng khinh bỉ nếu giấu giếm những quan điểm và
ý định của mình. Họ công khai tuyên bố rằng mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng
cách dùng bạo lực lật để toàn bộ trật tự xã hội hiện hành mặc cho các giai cấp thống trị run
sự trước một cuộc cách mạng Cộng sản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, những người
vô sản chẳng mất gì. Ngoài những xiềng xích trói buộc họ, họ sẽ giành được cả thê giới. Vô
sản tất cả các nước, đoàn kết lại !).
Từ đó, Jack London tin vào chủ nghĩa xã hội và theo chủ nghĩa xã hội. Jack London tham
gia vào các hoạt động, thảo luận về những vấn đề chính trị - kinh tế với các luật sư, bác sĩ và
sinh viên trẻ, tham gia Đảng Lao động Xã hội vì mục đích tốt đẹp của nó là tranh đấu và hướng
về chủ nghĩa Cộng sản (to hít upon Socialism). Jack London ưở thành một thành viên hoạt
động tích cực và từng tuyên bố tài sản đáng tự hào của ông là tấm thẻ Đảng. Như vậy, có thể
thấy Jack London dấn thân vào con đường tranh đấu, đi theo chủ nghĩa xã hội là xuất phát từ
cái nhìn sâu sắc đối với xã hội tư bản và từ tư tưởng tiến bộ của ông.
Jack London rời khỏi Đảng Lao động Xã hội và gia nhập Đảng Xã hội khi Đảng Lao
động Xã hội liên kết với Đảng Dân chủ Xã hội (The Social Democracy) dần dần bộc lộ những
đường lối độc tài, óc bè phái và khi Eugene V. Debs, người đầu tiên thành lập và lãnh đạo
Đảng Dân chủ Xã hội, người mà Jack London rất mực kính ữọng và ngưỡng mộ, trở thành lãnh
tụ của Đảng Xã hội Mỹ -một Đảng có mục tiêu đấu tranh tích cực cho người lao động.
Là nạn nhân của một chế độ xã hội tàn ác, bất công, quay cuồng những nghịch lý, "từng
qua cơn thử lửa" của cuộc sống nghèo đói và khắc nghiệt, Jack London đến với Đảng Lao động
Xã hội, rồi Đảng Xã hội bằng sự nhiệt thành và bằng niềm tin. Jack London tin rằng "giai cấp
công nhân có thể tự giải phóng mình bằng cách đấu tranh, không bao giờ để bị tan rã và
không bao giờ thỏa hiệp với kẻ thù" [83, 123 ]. Thế nhưng với nhà văn lúc ấy, Đảng lại "thiếu
nhiệt ánh, mất sức chiến đấu và không cồn chú trọng đến đấu tranh giai cấp" [83,123 ]. Jack
London nhận thấy "toàn bộ trào lưu XHCN ở Mỹ trong những năm gân đây có xu hướng
hòa hoãn và thỏa hiệp" [83,123 ]. Thực tế cho thấy trong những năm 1914 -1915, các lãnh tụ
Đảng đã công khai ủng hộ chính sách thỏa hiệp để chấp nhận trở thành "những nhà cải cách
53
đơn thuần chỉ với nguyện vọng thực hiện kinh tè quốc doanh và thuế hạ" [83, 123]. Phần lớn
các Đảng viên Đảng Xã hội không còn tin vào chủ nghĩa xã hội mạnh mẽ và cương quyết của
những ngày đầu.
Suốt một quãng thời gian dài (1901 - 1916), Jack London gắn bó với Đảng Xã hội, cho dù
sau này, ông đã trở thành một nhà văn nổi tiếng và giàu có. Jack London xin ra khỏi Đảng khi
niềm tin đã đổ vỡ và thất vọng ngập tràn. Do đó, không thể viện dẫn lý do vì Jack London giàu
sang, vì "ganh đua học đòi đóng vai tư bản"[6, 191] mà rời bỏ giai cấp của mình, bởi Jack
London đã trở nên giàu có, nổi tiếng và bắt đầu xây dinh cơ, mua du thuyền trước đó gần l0
năm. Cũng khó có thể cho rằng việc Jack London xin ra khỏi Đảng là hạn chế, là sai lầm.
Jack London không rút lui trong âm thầm. Ông cũng không bỏ ngang vô tổ chức. Jack
London đã tự mình làm đơn xin vào và cũng lại chính minh làm đơn xin ra. Jack London ra
khỏi Đảng nhằm tỏ thái độ phản ứng quyết liệt, không phải là một quyết định nhất thời và bồng
bột. Jack London rời khỏi Đảng là hợp lý, là hành động dũng cảm, là thái độ của một người có
trách nhiệm, là cử chỉ của một người có suy nghĩ sâu sắc: "Tự do và độc lập là những đặc
quyên, không thể được đem ban phát hoặc áp đặt cho bất kỳ một chảng tộc hoặc một giai
cấp nào. Nếu các chủng tộc và các giai cấp không biết vùng lên để giành lấy tự do và độc lập
của loài người bằng trí lực và thể lực của chính họ, họ sẽ không bao giờ có được những đặc
quyền này" [83,124 ].
* Về đánh giá tác phẩm:
Theo chúng tôi, việc đánh giá tác phẩm Jack London nên chăng có cách nói cụ thể hơn,
bởi vì sự "không đều nhau", "không nhất quán" và "thiếu cân bằng" của tác phẩm Jack
London nếu có thì cũng chỉ là ở những giai đoạn nhất thời.
Lấy "Martin Eden" - một tác phẩm tự truyện của Jack London - làm cơ sở để tìm hiểu về
quan niệm nghệ thuật và phong cách của nhà văn thì có thể thấy Jack London cũng đã từng viết
vội vã để kiếm tiền, cũng đã từng nhận ra những khiếm khuyết của mình khi viết những tác
phẩm đầu tay và cũng đã từng rền luyện, trau dồi, quyết tâm "đạt lý tưởng của mình về tính
chân thực trong tiểu thuyết". "Cái mà gã âm tòi là chủ nghĩa hiện thực sôi nổi, mãnh liệt,
chứa đựng tất cả những mong ước và niêm tin của nhân loại. Cái mà gã muốn là cuộc sống
đúng với thực chất của nó, với tất cả những ước mơ tình thân và những khát vọng lý tưởng
54
của nó" [51, 352 ]. Martin biết được điểm yếu của mình về viết câu và dùng từ, nên đã miệt
mài học "ngữ pháp" để nhận ra "ngữ pháp đã cho gã thấy những mắc mớ của ngôn ngữ", đã
từng thấy được sự hạn chế trong hiểu biết của mình nên tìm đọc "Thuyết tiến hóa luận của
Darwin", "Nguyên lý tâm lý học" và "Những nguyên lý cơ bản" của Spencer, cũng như đọc
những tác phẩm văn chương của các tác giả khác. Martin thấy được hạn chế của đồng nghiệp:
"Trong quá trình đọc, gã khảm phá thây có hai trường phái tiêu thuyết: Một coi con người
như là thân thánh và quên hẳn cái nguồn gốc trân tục của nó, một lại coi con người như
một cục đất, quên hẳn những giấc mơ bay bổng lên tận thiên đàng và những kha năng thân
thánh của nó" [51, 352 ]. Theo gã, cả hai trường phái "thần thánh" và "cục đất" đều lầm, lầm
chỉ vì cách nhìn thỏa hiệp. Martin cũng soi rọi lại mình và chưa hài lòng về những tác phẩm đã
viết: "Theo gã, những sáng tác đâu Hên của gã thật không có một chút giá trị gì ngoài cái
việc chúng đã mang lại cho gã một số đèn và những truyện rùng rợn. cả hai truyện mà gã
đã bấn được, gã không cho là những tác phẩm cố giá trị cao mà cũng không phải là những
tác phẩm hay nhất" [ 51, 353]. Và Martin đã cố gắng để có được những truyện mà anh đánh
giá là hay nhất, những truyện được các nhà xuất bản đón nhận mạnh nhất.
Do vậy, những hạn chế mà các nhà nghiên cứu nêu thể hiện sự đánh giá chung cho cả quá
trình sáng tác của Jack London là chưa xác đáng.
* Về nghệ thuật biểu hiện:
Các ý kiến nhận định nhìn chung thiếu nhất quán, không có tính chất hệ thống. Theo lý
luận tiếp nhận văn học, người đọc, đặc biệt là nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình, nhà dịch
thuật... ngoài tính chất nghề nghiệp và độ chuyên sâu, còn có yếu tố chủ quan khi tiếp nhận văn
học. Ở đây, ngoài những yếu tố trên, còn phải kể đến góc độ tiếp nhận. Có những ý kiến nhận
định chỉ dừng lại ở một số phát hiện nào đó, có nhận định chỉ dựa vào một vài tác phẩm mà
đánh giá chung cho cả sự nghiệp nên cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến những ý
kiến khác nhau. Do đó, nếu không nghiên cứu và giới thiệu quá trình sáng tác của nhà văn gắn
với những tác phẩm cụ thể thì khó mà phân định sự hợp lý hay không hợp lý của các nhận định.
Riêng về cốt truyện trong các tác phẩm của Jack London mà các ý kiến đều khẳng định
ưu điểm của nó thì chúng tôi lại có cách nghĩ khác.
55
Với cách nghĩ của mình, chúng tôi thấy hạn chế trong sáng tác của Jack London là ở cốt
truyện. Dường như Jack London đã xây dựng những cốt ữuyện quá hoàn chỉnh theo quá trình
diễn biến của nó (mở đầu, thắt nút, phát triển, vươn tới cao điểm rồi đi vào giải quyết cụ thể và
kết thúc) mà không có tác phẩm nào có sự "nới lỏng độ căng của cốt truyện" nên tưởng chừng
như nó quá rập khuôn, thiếu đi sự uyển chuyển trong phương thức thể hiện. Có lẽ chỉ trừ "Đám
người dưới vực thẳm" là xung đột thiếu kịch tính, còn lại các tác phẩm khác đều có cốt truyện
với những xung đột có kịch tính rõ ràng và đi tới một kết thúc cuối cùng mà cái thúc đẩy diễn
biến của cốt truyện chính là hành động của nhân vật. Do đó, nếu so với "Vụ án", "Lâu đài"
của Kafka, "Tuần lễ thánh" của Aragon và một số truyện của Hemingway thì nó thiếu đi cái
thôi thúc tính tích cực của người đọc trong việc suy diễn và tưởng tượng về nhiều cách kết
thúc.
Dĩ nhiên, cốt truyện tạo được sức thuyết phục cao nhất còn tùy thuộc vào nghệ thuật kết
cấu và kể chuyện của tác giả, nhưng ở một mức độ nhất định, nó là một yếu tố cần thiết và
khắng khít với các yếu tố khác ương toàn bộ tác phẩm.
2.3.2.Một số đề xuất về nhu cầu tiếp nhận Jack London:
Xuất phát từ thực tế giới thiệu và nghiên cứu Jack London ở Việt Nam, xuất phát từ góc
độ nghiên cứu và suy nghĩ của bản thân, chúng tôi đề xuất một số ý kiến mong muốn bổ sung
thêm cách tiếp cận nhà văn này:
* Khi nghiên cứu và nhận định về sáng tác của Jack London, nên chăng dựa vào quá trình
sáng tác của nhà văn để có thể thấy là có sự chuyển biến trong thế giới nghệ thuật của nhà văn
ở giai đoạn sau so với giai đoạn trước. Nếu xét quá trình sáng tác của Jack London thì tính từ
mốc thời gian năm 1903, khi Jack London bắt đầu giàu có và đầu tư công phu cho sáng tác
(hầu như mỗi tác phẩm được viết ương thời gian ngót nghét một năm) thì nhiều tác phẩm sáng
tác từ giai đoạn này được đánh giá cao về giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật: Tiếng gọi
nơi hoang dã (1903), Sói biển (1904), Nanh trắng (1905), Gọt sắt (1907), Martin Eden
(1908), Từ bỏ thế giới vàng (1909) ...
* Trong nhận định, đánh giá về hoạt động, tư tưởng của Jack London nên chăng có sự
nhìn lại, nhất là đối với hành động xin ra khỏi Đảng Xã hội của nhà văn. Theo chúng tôi, ngoài
việc nghiên cứu cả quá trình hoạt động lâu dài để có cái nhìn chung thì việc tìm hiểu những
56
nguyên nhân sâu xa dẫn tới hành động của nhà văn ở một giai đoạn nào đó là cần thiết. Nói
cách khác là nên chú ý tới tình hình xã hội cụ thể và hoàn cảnh của nhà văn, xem đó là cơ sở để
lý giải về hanh động, thái độ của nhà văn.
* Về nghệ thuật trong tác phẩm Jack London, chúng tôi cho rằng tiếp cận từ góc độ thi
pháp học thì nghiên cứu toàn diện hơn vì tính hệ thống và tính lý luận của nó, đòi hỏi nghiên
cứu hình thức nghệ thuật như những hiện tượng có quy luật. Trước sức hấp dẫn và mức độ phổ
cập của truyện Jack London, người đọc ngày càng có những nhu cầu cao hơn chứ không đơn
thuần là giải trí. Do vậy, nó đòi hỏi sự giới thiệu và nghiên cứu sâu, có hệ thống các nguyên tắc
nghệ thuật bên trong, các nguyên tắc phản ánh, biểu hiện để người đọc có thể nắm bắt tác phẩm
Jack London trong một chỉnh thể mà phát huy, nâng cao trình độ tiếp nhận của mình. Mặt khác,
chúng tôi cũng nghĩ rằng việc nghiên cứu về thi pháp có thể định hướng cho công việc dịch
thuật -xác định và đảm bảo được những giá trị nội dung và nghệ thuật của bản dịch tương
đương với nguyên tác.
Cụ thể là có thể nghiên cứu hệ thống đề tài để thấy "vùng đối tượng thẩm mỹ riêng" của
nhà văn, nghiên cứu hệ thống hình tượng (hình tượng nhânvật, hình tượng không gian, hình
tượng thời gian...) để có thể nhận ra quan niệm nghệ thuật của tác giả về con người và thế giới,
nghiên cứu về những phương thức nghệ thuật khác (nghệ thuật xây dựng cốt truyện, nghệ thuật
kể chuyện...) để thấy quan niệm của tác giả về nghệ thuật. Có thể kể sơ lược một số đặc điểm
sau:
Về hệ thống đề tài trong sáng tác của Jack London, chúng tôi đã bàn đến ương nội dung
"về quan hệ của cuộc sống và tư tưởng Jack London đối với sáng tác của ông" (trang 50 và 51)
.Khai thác đề tài ương sáng tác của Jack London cũng là để hiểu rõ hơn ý nghĩa của hệ thống
hình tượng trong tác phẩm Jack London.
Trong toàn bộ tác phẩm Jack London, có những hình tượng nghệ thuật được tạo nên từ
một hệ thống hình tượng phong phú, trở đi trở lại nhiều lần và là những yếu tố nghệ thuật rất
riêng của Jack London, được sáng tác theo quy luật tư duy nghệ thuật của tác giả - có thể thấy
rõ nhất là hình tượng nhân vật, hình tượng không gian và hình tượng thời gian.
Nhân vật trong thế giới tác phẩm của Jack London dù được giới thiệu bằng cách nào,
được quan tâm nhiều nhất ở mặt nào thì cuối cùng cũng được khắc họa đầy đặn và trọn vẹn với
57
những đặc điểm nổi bật và độc đáo, với sự vận động và phát triển trong những hoàn cảnh có
xung đột và bao giờ cũng có một kết thúc cuối cùng về số phận: chiến thắng hoặc thất bại, sống
hoặc chết. Bằng nhiều cách thể hiện, nhân vật của Jack London phản ánh cách nhìn của tác giả
về con người trong thời đại ông.
Không gian nghệ thuật trong tác phẩm Jack London vừa cụ thể vừa đa dạng: không gian
thiên nhiên của đời sống nguyên sinh và không gian xã hội của đời sống con người. Phản ánh
hành trình khai thác tài nguyên thiên nhiên của con người trong những mối xung đột với thiên
nhiên, với con người là không gian thiên nhiên rộng lớn, toàn cảnh với những vùng hoang địa
lạnh giá quanh năm tuyết phủ (Tình yêu cuộc sống, Cơn sốt vàng, Tiếng gọi nơi hoang dã,
Một nghìn tá trứng ...) hay những vùng biển quanh năm bão tố (Solomons, quần đảo khủng
khiếp, Ngôi nhà của Mapuhi ... ) và cả những thung lũng xinh đẹp (Khe núi toàn vàng, Người
đàn bà sinh ban đêm ... ). Phản ánh những vấn đề xã hội, kinh tế, chính trị trong những mối
quan hệ giữa các nhóm người, các giai cấp thường là không gian xã hội nói chung xen lẫn với
không gian nhỏ của một thành phố (Đám người dưới vực thẳm), một nhà máy (Gót sắt) hay
một căn phòng (Martin Eden, Văn phòng ám sát...).
Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm Jack London có lúc rất cụ thể rõ ràng (Gót sắt,
Hướng theo những mặt trời giả tạo, Như chàng Argus thời đại xa xưa ... ) nhưng nhiều khi
lại rất mơ hồ và chung chung (trong rất nhiều tác phẩm ), để người đọc tự hình dung trong sự
đoán định về cuộc đời và số phận của nhân vật giữa những hoàn cảnh khắc nghiệt. Trong
những xung đột một mất một còn, trong những biến cố dữ dội, trong những hoàn cảnh khắc
nghiệt, thời gian càng được khắc họa cụ thể và chi tiết đến từng giờ từng phút, làm tăng thêm
kịch tính của xung đột (cuộc giằng xé đầy khốc liệt giữa người đàn ông kéo lê thân xác rã rời
với một con sói ốm tập tà tập tễnh trong “Tình yêu cuộc sống”, cảnh gã đàn ông hồi hộp và
phập phồng khi sắp tìm thấy vàng nguyên chất trong “Thung lũng toàn vàng”, cảnh một người
đàn ông và một người đàn bà tìm thấy dấu vết của kẻ cần tìm và sắp sửa thực hiện việc giết
chết ông ta trong "Hướng theo những mặt trời giả tạo" ...).
Không gian và thời gian nghệ thuật trong tác phẩm Jack London vừa phong phú đa dạng,
vừa sống động, góp phần tạo nên cái tầm vóc của hiện thực cũng như của nhân vật, gắn với
cảm thụ cá nhân và mang tính chủ quan của tác giả.
58
Xây dựng những hình tượng nghệ thuật về nhân vật, về không gian, về thời gian, nhà văn
thể hiện quan niệm nghệ thuật của mình về con người (con người giàu khát vọng, con người
bạo lực, con người lý tưởng) và về thế giới (thế giới hoà trộn giữa nhiều xu hướng vận động và
nhiều mâu thuẫn lớn).
Một số ví dụ trên chỉ có ý nghĩa điểm qua để thấy tính hệ thống của hình tượng nghệ thuật
ương khả năng phản ánh đời sống và trong sự phát ưiển tư duy nghệ thuật của nhà văn, không
thể thuyết minh đầy đủ cho đề xuất của chúng tôi. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng cùng với
những yếu tố khác như hoàn cành xã hội và thời đại, cuộc sống, tư tưởng của nhà văn... , những
vấn đề cơ bản của thi pháp truyện Jack London góp phần làm sáng tỏ con người. Jack London
cũng như khẳng định vị trí và sự đóng góp của nhà văn cho nền văn học hiện thực Mỹ nói riêng
và văn học thế giới nói chung.
59
HƯƠNG 3: VẤN ĐỀ DỊCH TÁC PHẨM JACK LONDON
3.1.Dịch văn học ở Việt Nam
Theo các nhà nghiên cứu, văn học dịch ở Việt Nam vốn có truyền thống lâu dài và rất
đáng tự hào. Nó lộ diện từ thế kỷ thứ VI, khởi đầu là những bộ kinh Phật chữ Phạn. Theo thời
gian, độc giả Việt Nam được tiếp xúc với nhiều liền văn học các nước từ Á sang Âu : Văn học
Trung quốc, văn học Xô Viết và các nước XHCN, văn học Hy La cổ đại, văn học Anh - Mỹ -
Pháp và văn học nhiều nước Châu Âu - Châu Mỹ La Tinh - Châu Á - Châu Phi... Cho đến nay,
văn học dịch đã phát triển rộ lên mạnh mẽ và chiếm một vị trí không nhỏ trong đời sống tinh
thần và sinh hoạt nghệ thuật ở nước ta, là nhân tố có ý nghĩa trong quá trình xây dựng và phát
triển văn học nước nhà. Do đó, dịch văn học cũng trở thành một hoạt động cần thiết và quan
trọng, đã làm "cái cầu hữu nghị giữa các dân tộc", là "con ngựa thồ văn hóa nhân loại".
3.1.1.Quan niệm về nghệ thuật dịch
Từ những năm 50, trong bộ "Luyện văn", học giả - dịch giả Nguyễn Hiến Lê đã nói đến
lợi ích của sự dịch sách. Theo ông, "nhờ vào việc" dịch danh văn ngoại quốc", các dịch giả
kiếm được cách áp dụng văn phạm của ta mà làm cho Việt ngữ phong phú thêm, tế nhị
thêm". Ông cũng cho rằng "các dịch giả có thể giúp đồng bào biết thêm được văn hóa của
người cùng những học thuyết tư tưởng mới lạ rồi dung hòa để bồi bể cho văn hóa của mình
thêm sinh khí[35. 324 ]. Học giả - dịch giả có tên tuổi Phan Ngọc cũng cho rằng dịch thuật
đóng vai trồ quan trọng trong việc phát triển văn hóa - ngôn ngữ các dân tộc và khẳng
định:"Nếu không có dịch thuật thì không có được thứ tiếng Việt gần với các thứ tiếng khác
như hiện nay"[58, 240 ]. về mặt ngôn ngữ, dịch thuật làm cho các tiếng nói tiếp xúc được với
nhau và cân bằng với nhau.về mặt văn hóa, dịch thuật chuyển tải và nối liền những giá trị văn
hóa của các dân tộc. Tất nhiên, vai trò của dịch thuật chỉ được khẳng định và có ý nghĩa khi nó
đáp ứng được những yêu cầu của nghệ thuật dịch nói chung và dịch văn học nói riêng.
Không ai phủ nhận chất lượng văn học dịch của ta hiện nay chưa đáp ứng được những
yêu cầu cao của hoạt động sáng tạo này. Nó đang là vấn đề được nhiều người quan tâm bởi
"tình trạng xô bồ của văn học dịch" (Lại Nguyên Ân), bởi "sự xuất hiện loại văn chương
thương mại dung tục" (Nguyễn văn Dân), bởi "ít có những tác phẩm dịch đọng lại lâu vôi
60
người đọc" (Thúy Toàn). Dịch văn học đã đặt ra những vấn đề cấp thiết để nâng cao chất lượng
dịch sao cho nó có tác động tích cực đến người đọc, đến sự phát triển của nền văn học nước
nhà."Trên đường đi tới một lý thuyết về dịch", các dịch giả và các nhà nghiên cứu - phê bình
dịch Việt Nam đã có nhiều ý kiến gần nhau hoặc khác nhau về nghệ thuật dịch. Tuy cuộc tranh
luận thỉnh thoảng vẫn nổ ra, tuy các ý kiến, quan niệm chưa đi đến sự thống nhất tuyệt đối
nhưng trong giai đoạn hiện tại, chúng tôi theo số đông các ý kiến thống nhất nhau và xem đó
cũng là những định hướng cần thiết ương lĩnh vực dịch văn học.
Dịch gì ? Dịch cho ai đọc ? Dịch thế nào ? Đó là những vấn đề lý thuyết chính được đặt ra
trong dịch văn học. Nói cách khác, dịch văn học đòi hỏi dịch giả biết tuyển chọn sách để dịch,
biết đáp ứng nhu cầu nâng cao dân trí - văn hóa của công chúng và biết cách dịch văn học.
Theo nhà văn Vũ Ngọc Phan, "chọn được một truyện hay để dịch là một việc khó"[74,130].
Nó đòi hỏi trình độ thưởng thức và đánh giá của người dịch đối với nguyên tác. Tạp chí Nam
Phong từ những ngày mới ra đời (1917) đã nêu rõ tinh thần dịch thuật khi kén chọn những tiểu
thuyết Tây để dịch với ý thức "chọn những sách văn chương hay, nghĩa truyện cao, kết cấu
khéo, khá lấy làm mẫu cho cái lối tiểu thuyết của ta về sau này". Nhà nghiên cứu Trần
Khuyến cho rằng "người dịch cần phải biết chọn tác phẩm cua nhà văn nào mà mình dễ
đông cảm" [30, 219], vì có thể dịch giả này mạnh về dịch loại văn này, nhưng yếu loại văn
khác và ngược lại.
Tuy nhiên, điều vô cùng quan trọng đi theo việc tuyển lựa tác phẩm dịch chính là nghệ
thuật dịch. Dịch sát hay dịch thoát ? Hay kết hợp cả hai ? Quan niệm về nghệ thuật dịch được
đặt ra từ những vấn đề gây tranh cãi ban đầu ấy. Từ lâu, trên lĩnh vực này, ở Việt Nam có hai
quan điểm :
Trước hết, đó là quan điểm đồng nhất dịch thuật với sáng tác. Một mặt, nó khẳng định
tính sáng tạo của dịch thuật, nhưng mặt khác lại mở đường cho dịch giả tùy hứng sáng tạo,
phóng tác hay lược ý, phản ý của nguyên tác. Đó là trường hợp các cụ trong Đông Kinh nghĩa
thục vận động dịch văn học, nhưng cũng chủ trương "cần phải bỏ bớt những chỗ phiên phức
để cho mọi người dùng học dễ hiểu là được rồi", là trường hợp nhà thơ Xuân Diệu "Khi dịch,
kí cảm như ông sáng tác tân thứ hai", là trường hợp dịch giả Nguyễn Giang dịch thơ Pháp
61
nhưng thêm bớt quá nhiều, "cơ hồ như chỉ lấy trong mỗi câu một - hai chữ chính rồi làm
thành một bài thơ khác" [35, 330].
Quan điểm thứ hai xem dịch là nghệ thuật tái hiện nguyên tác bằng chất liệu của một
ngôn ngữ khác. Quan điểm này hướng dịch giả vào tính chất công việc là trên cơ sở nhận thức
sâu sắc về tác giả và tác phẩm mà tìm tòi sáng tạo, chuyển tải bằng ngôn ngữ dịch toàn bộ
nguyên tác trong thể thống nhất về nội dung và hình thức, sao cho đạt được hiệu quả thẩm mỹ
tương tự. Quan điểm này chống lại cả hai xu hướng hoặc máy móc hoặc tùy tiện nhào nắn
trong dịch thuật văn học. Nó khẳng định yếu tố sáng tạo là cần thiết và quan trọng, nhưng
không phải là sáng tạo tùy tiện theo ý thích và cách hiểu cá nhân. Nhà dịch thuật chuyên nghiệp
Jan Stolpe, người Thụy Điển, trong cuộc hội thảo tại Hà Nội vào tháng 12 năm 1993, khẳng
định : "Dịch thuật chứa 80 - 90% lao động chân tay vất vả, chỉ phân rất nhỏ là sáng tạo,
nhưng cái phân nhỏ mang giá trị sáng tạo ấy lại không thể học ở lớp nào được. Yếu tố sáng
tạo mà tôi nói đến tất nhiên là khả năng diễn đạt bằng tiếng mẹ đẻ. Nếu thiếu khả năng đố
thì chỉ là chuyên gùi am hiểu vê ngôn ngữ nước ngoài và vê đất nước nào đó, lịch sử - văn
học - văn hóa của nó cũng không cổ ích gì !" [66, 230 ].
Dịch thuật - một hoạt động sáng tạo - là vấn đề đang được quan tâm trong lĩnh vực dịch
văn học ở Việt Nam. Đặc biệt, trong nhiều số liên tiếp, tạp chí Văn học nước ngoài đã có nhiều
bài viết về vấn đề này trong sự thống nhất với quan niệm "dịch thuật là một quá trình sáng
tạo", xem tính sáng tạo là một yêu cầu cơ bản của công tác dịch thuật với điều kiện sáng tạo là
để đạt yêu cầu trung thành đến mức tối đa với tác phẩm.
Tác phẩm nghệ thuật chân chính là sự thống nhất giữa nội dung và hình thức. Do vậy,
nhiệm vụ chính của người dịch là tạo ra sự thống nhất giữa nội dung và hình thức ương văn bản
dịch tương đồng với sự thống nhất đó trong nguyên tắc mà điều này đòi hỏi cá tính sáng tạo
của dịch giả, "sáng tạo trên cơ sở vốn kiến thức ngôn ngữ và văn hóa uyên bác của người
dịch để diễn đạt câu chữ sao cho đạt tới mức trung thành tối đa với nguyên tác" [30, 220 ].
Trong bài viết "Dịch là một quá trình sáng tạo", Trần Khuyến suy nghĩ : "Muốn nói sáng tạo
gì gì đi nữa của người dịch thì cũng không nên quên một điêu cơ bản là phải tôn trọng sự
chính xác. Phân sáng tạo của người dịch chính là ở chỗ chuyển nội dung của nguyên tác
sang văn dịch như thế nào cho dễ hiểu và câu văn uyển chuyển. Cái khó cua sự sáng tạo
62
chính là ở chỗ đó" [30, 221 ]. Dịch giả Dương Tường cũng từng ý thức rõ : "Dịch văn học,
theo tôi là tái tạo nguyên tác và người dịch phải làm công việc tái tạo ấy như một nghệ sĩ
đầy cá tính"[74, 178]. Như vậy, trong cái nhìn chung, có thể thấy dịch văn học là một loại hình
sáng tạo văn học. Trong quá trình của nó, tác phẩm đã tồn tại ở một ngôn ngữ được tái tạo bằng
một ngôn ngữ khác. Từ quan niệm ưên, trong nhiều bài viết, các tác giả cũng đã bàn đến chất
lượng của một bản dịch.
3.1.2.Quan niệm về một bản dịch hay
Thực ra, việc xác định thế nào là một bản dịch tốt vẫn chưa đi đến sự thống nhất cuối
cùng, bởi có những lời phát biểu rất khác nhau. Tuy nhiên, trong tình hình thực tế dịch văn học
ở nước ta xảy ra nhiều vấn đề về dịch như nguyên tác bị đổi tên, bị cắt xén, bị dịch sai ý ... thì
những tiêu chí mà Hội đồng dịch văn học thuộc Hội nhà văn Việt Nam, báo Văn nghệ của Hội
và Nhà xuất bản Văn học đưa ra ương những lần tổ chức các cuộc thi dịch văn học được xem là
những định hướng có căn cứ và được nhiều người tán đồng.
Tựu trung lại thì việc đánh giá chất lượng của một bản dịch văn học dựa trên ba tiêu
chuẩn lý thuyết chủ chốt của công việc dịch thuật xuất phát từ Trung Hoa: Tín, đạt và nhã. Có
nghĩa là một bản dịch tốt phải vừa đảm bảo độ tin cậy, vừa diễn đạt đủ ý dễ hiểu, vừa trôi chảy
uyển chuyển. Đó cũng là công thức được những dịch giả có tiếng như Trương Chính, Hoàng
Túy khẳng định và một số nhà nghiên cứu - dịch thuật như Nguyễn văn Dân, Trần Khuyến,
Thúy Toàn ... đều có bài viết nói rõ hơn về ba tiêu chí này.
Trong ba tiêu chuẩn ấy, nhiều ý kiến thống nhất “tín” là quan trọng hơn cả, nhưng nếu
quan niệm " tín" theo đúng nghĩa khoa học của nó thì hầu như nó đã bao hàm cả quan niệm
"đạt" và "nhã". Mặt khác, có “tín” thì mới có "đạt" và "nhã". Vì vậy, "tín" cũng là tiêu chuẩn
được quan tâm bàn bạc nhiều nhất.
"Tín" ở đây được xác định trong ý nghĩa dịch trung thành với nguyên văn, có nghĩa là lĩnh
hội tinh thần của nguyên văn rồi dựa theo nguyên văn mà lựa lời để dịch cho lưu loát, bởi vì
nếu chỉ biết trung thành với nguyên văn một cách máy móc thì bản dịch nhiều khi trở nên ngô
nghê. Nếu chỉ xem nguyên văn như một chỗ dựa thì bản dịch nhiều lúc không còn thể hiện
phong cách của tác giả. "Tín" là trung thành với nguyên bản, nhưng trung thành có sáng tạo,
không máy móc. Có một nguyên tắc cơ bản của chữ "tín" là người dịch phải nắm vững các
63
nghĩa và khái niệm của ngôn ngữ được dịch để chuyển chúng sang các nghĩa và khái niệm
tương đương trong ngôn ngữ tiếp nhận. Có ý kiến cho rằng chữ tín là truyền đạt trung thành cả
ý đồ nội dung ngữ nghĩa lẫn ý đồ về hình thức nghệ thuật của tác giả nguyên tác. "Xa rời chữ
tín, dịch thuật sẽ tự đánh mất chính mình" [11, 225] "Tín không chỉ là sự chính xác về ngữ
nghĩa của từ mà chính xác trong sự truyền đạt nội dung... đông thời cũng phải truyền đạt
được chính xác những phẩm chất nghệ thuật của tác phẩm" [74,165 ]. Có nghĩa là dịch giả
phải truyền đạt được cái hay cái đẹp của tác phẩm trong sự thống nhất nội dung và hình thức
của nguyên tác của ngôn ngữ dịch một cách nhuần nhuyễn. Như vậy, trong "tín" đã bao hàm cả
quan niệm "đạt" và "nhã".
Nếu nói cụ thể hơn về "đạt", có thể thấy rằng văn dịch lưu loát đến mấy mà xa rời nguyên
tác thì không đạt và cố nhiên văn dịch bám sát nguyên văn, thành ra có vẻ buồn cười, ngớ ngẩn,
không phù hợp với văn cảnh hoặc khó hiểu thì lại càng không gọi là "đạt". Rõ ràng quan niệm
"đạt" không thể tách rời quan niệm "tín",
"Nhã" trong quan niệm của nhiều người thì đó là "lời văn đẹp" (Hoàng Túy), là "lời văn
linh động" (Nguyễn Hiến Lê), là "ngôn ngữ dịch nhuần nhuyễn" (Thúy Toàn) là"văn vẻ trôi
chảy" (Trần Khuyến) hoặc cũng có người quan niệm đó là sự trơn tru, chải chuốt của bản dịch.
Chúng tôi thống nhất với ý kiến cho "nhã" là ngôn ngữ dịch lưu loát, nhuần nhuyễn. Cụ thể là
ngôn ngữ dịch đương nhiên phải đáp ứng mọi chuẩn mực của tiếng mẹ đẻ về sự trong sáng
nhưng đồng thời cũng thể hiện trình độ thành thạo ở cách diễn đạt tự nhiên, trôi chảy. Tuy
nhiên, ngôn ngữ dịch dù lưu loát nhưng nếu không tái hiện nguyên tác chính xác, không ở
trong khuôn khổ của chữ "tín" thì cũng có nghĩa là nó không đảm bảo được việc chuyển đạt
trọn vẹn nội dung, ý nghĩa của nguyên tác. Và ngược lại, nếu bản dịch gần như chính xác đến
từng từ nhưng văn dịch không lưu thoát thì không thể cho là bản dịch thành công.
Như vậy, một bản dịch tốt là vừa phải trung thành với nguyên tác, vừa diễn đạt chính xác
và lời văn lưu loát, nhuần nhuyễn, đảm bảo được một sự cảm nhận thẩm mỹ tương đồng.
Tuy nhiên, theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu thì để có một bản dịch lý tưởng là cả
một vấn đề khó khăn "chỉ có thể dịch tương đương chứ không thể có sự trùng khít hoàn toàn
giữa bản dịch và nguyên bản. Khó có một bản dịch nào đạt được cả ba tiêu chí tín - đạt -
nhã một cách toàn vẹn" [30, 220 ]. "Hơn nữa, do hàng rào ngôn ngữ giữa các dân tộc, việc
64
dịch thuật khó có thể diễn đạt được trung thành tuyệt đối với nguyên tác" [11, 224]. Dẫu vậy,
nhiều người vẫn mong muốn và hy vọng có những bản dịch lý tưởng mà trong đó người dịch là
đồng tác giả, như trường hợp "Chinh phụ ngâm".
Ngoài những tiêu chí chính đã kể trên, một bản dịch hay và tốt còn phải xuất phát từ
những tác phẩm vốn thuộc loại "có giá trị" của nền văn học gốc và các tác phẩm này phải được
dịch từ nguyên bản, không qua ngôn ngữ trung gian để đảm bảo cao nhất về tính chính xác khi
truyền đạt cái đẹp trong sự thống nhất nội dung và hình thức của nguyên tác.
Như vậy, một bản dịch tốt đòi hỏi ở người dịch rất nhiều yếu tố: trình độ văn hóa, tài
năng, phẩm chất đạo đức ...
3.2.Dịch tác phẩm Jack London ở Việt Nam:
3.2.1.Thống kê các tác phẩm đã dịch:
Dưới đây là bảng thống kê các tác phẩm của Jack London đã được dịch từ 1955 đến đầu
năm 2000 . 1955 là thời gian sớm nhất mà chúng tôi tìm thấy bàn dịch tiếng việt tác phẩm Jack
London .
Về thể truyện (truyện ngắn, truyện vừa và tiểu thuyết), chúng tôi sắp xếp theo cách phân
chia của các nhà nghiên cứu văn học Mỹ. Ví dụ như dịch giả Việt Nam xếp "Tiếng gọi nơi
hoang dã" vào thể loại truyện ngắn ( short story) nhưng các nhà nghiên cứu Mỹ lại xếp tác
phẩm vào loại truyện vừa (novella).
65
66
67
68
Trong bảng thống kê trên, "Văn phòng ám sát" là tác phẩm cuối cùng trong sự nghiệp văn
học của Jack London và chưa được hoàn tất. Dựa trên các ghi chú chi tiết của Jack London, nhà
văn Robert L. Fish đã viết nốt phần kết của câu chuyện. 47 năm sau ngày ông tự vẫn, tác phẩm
69
này mới được ra mắt độc giả Mỹ. Chẳng bao lâu sau đó, nó đã được dựng thành phim và được
khán giả khắp nơi tán thưởng nhiệt liệt.
"Cơn sốt vàng" là trường hợp mặc dù khi dịch, dịch giả Thanh Việt Thanh có ghi tên
nguyên tác là "Smoke and shorty", nhưng trong tay chúng tôi không có tài liệu nào cho thấy
Jack London đã từng sáng tác "Smoke and shorty".
Cũng như thế, "Cậu thủy thủ thiếu niên" là tác phẩm không có tên trong "Toàn tập
truyện ngắn Jack London". Theo dịch giả, truyện này lần đầu tiên được in năm 1899 (khi Jack
London mới 23 tuổi). Sau đố, truyện bị thất lạc, không được đưa vào tập nào của Jack. Cho tới
tận thời gian gần đây, người ta mới tìm lại được truyện này trong khối tài liệu lưu trữ của ông.
Do dịch giả không ghi tên nguyên tác và cũng do trong "Toàn tập truyện ngắn Jack London"
mà chúng tôi có được không có tác phẩm này nên ở phần tên nguyên tác còn bỏ trống.
Qua bảng thống kê, có thể thấy có những tác phẩm của Jack London được nhiều dịch giả
chọn dịch, cụ thể là :
"Love of life" 4 lần (Lê Bá Rông và Võ Hà Lang, Đắc Lê, Dương Tường và Bùi Việt
Hồng).
"To build a fire" 4 lần ( Anh Liễn, Lê Bá Kông và Võ Hà Lang, Mạnh Chương, Bùi Việt
Hồng).
"A piece of steak" 4 lần (Anh Liễn, Lê Bá Kông và Võ Hà Lang,Đắc Lê, Văn An)
"The house of Mapuhi" 2 lần (Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê, Dương Tường).
"The wit of Porportuk" 2 lần (Lê Bá Kông và Võ Hà Lang, Hoàng Cường).
"The law of life" 2 lần (Lê Bá Kông và Võ Hà Lang, Ái Nguyệt và Cát Tiên).
"Allgold Canyon" 2 lần (Nguyễn Quốc Việt, Bùi Việt Hồng).
Từ bảng thống kê trên, chúng tôi phác họa biểu đồ quá trình dịch tác phẩm Jack London ở
Việt Nam như sau:
70
3.2.2.Nhận xét về quá trình dịch tác phẩm Jack London ở Việt Nam:
So với một số nhà văn Mỹ có nhiều tác phẩm được dịch mà chúng tôi đã thử điểm qua ở
thư mục của các thư viện, chọn mốc thời gian từ năm 1955 đến năm 2000 thì Jack London có
tác phẩm được dịch như vậy là tương đối nhiều (Hemingway : 42, Pearl Buck : 36, O. Henry :
12, Mark Twain : 7) và có quá trình lâu dài.
Những năm 60, đất nước phải bước vào cuộc kháng chiến cứu nước lần thứ hai, hoạt động
xuất bản nói chung và dịch văn học gặp nhiều khó khăn về cơ sở in ấn -giấy mực và định
hướng xuất bản phải tập trung phục vụ các nhiệm vụ trước mắt. Do vậy, ở miền Bắc, chủ yếu là
dịch những sách mang tính chất thời sự và những tác phẩm cổ điển xuất sắc của các nền văn
học lớn.
"Gót sắt" của Jack London là một trong những tác phẩm của nền văn học Mỹ được dịch
đầu tiên ở miền Bắc từ sau Cách mạng Tháng Tám với ý nghĩa đây là tác phẩm tiêu biểu nhất
của Jack London, "một trong ba nhà văn lớn nhất của nước Mỹ hồi đầu thế kỷ XX", mặc dù
nó được giới thiệu vì tính chất thời sự và mục đích chính trị nhiều hơn. "Giới thiệu "Gót sắt"
với các độc giả Việt Nam, chúng tôi hy vọng góp một phần nhỏ vào công cuộc phổ biến nền
văn học tiến bộ rất đáng chú ý của nhân dân Mỹ, đông thời vạch rõ chân tướng của đế quốc
Mỹ, kẻ thù chính của nhân dân thế giới, cũng là kẻ thù chính của nhân dân Việt Nam ta
hiện nay" [36, 4].
Ở miền Nam, tác phẩm Jack London được dịch giới thiệu từ những năm 50 ,tuy không
nhiều nhưng thể hiện thiện ý tốt đẹp của người dịch.Ngoài mục đích "chọn lọc những truyện
71
hay nhất của Jack London với sở nguyện cống hiến độc giả một chút gió lạ, hương xa của
văn đàn ngoại quốc"[37,12] ,có dịch giả kết luận:"Tác phẩm của Jack London đã được dịch
ra rất nhiêu thứ tiếng,và có người còn cho rằng sách cùa ông phải là những quyển gối đâu
giường của tuổi trẻ. Vì ông thiện nghệ về khoản mô tả những cảnh cực nhọc, gian lao, hiểm
nghèo, của những cuộc đời sóng gió, khiến cho thanh niên đọc ông gạt bỏ được một phân
nào những ánh cảm uy mị và ỷ lại, khiến cho thanh niên yêu đời và lĩnh hội được ý nghĩa
của sự tranh đấu"[37,14].
Những năm 60, văn học Mỹ được dịch giới thiệu khá xô bồ, chủ yếu là nhằm phục vụ cho
âm mưu văn hóa của chủ nghĩa thực dân mới. Tác phẩm Jack London được dịch ở giai đoạn
này còn vì những mục đích cụ thể : Giáo dục tình cảm và ý chí cho thanh niên để có hướng
phấn đấu ương cuộc sống ( "Ngôi nhà của Mapuhi" do Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê dịch),
giúp học sinh trau gioi tiếng Anh qua những trứ tác với thể văn giản dị có nguyên bản để đối
chiếu ("Mối thù thiên thu và 9 tuyệt tác khác" do Lê Bá Kông và Võ Hà Lang dịch).
Những năm 70, trước thời điểm 1975, một vài tác phẩm văn học Mỹ vẫn được dịch như
sách song ngữ Anh-Việt "Quà giáng sinh"(0. Henry), “Tình yêu và lý tưởng” (Thomas Mann)
và "Nụ cười dưới chân thang"(Henry Miller). Tuy nhiên, chúng tôi không tìm thấy tác phẩm
nào của Jack London được dịch ương giai đoạn này ở miền Nam. Và chúng tôi cũng chưa có
đủ cơ sở để giải thích về hiện tượng này.
Thời điểm này, ở miền Bắc,"chiến tranh ngày một ác liệt có ảnh hưởng đến công việc
xuất bản sách nói chung, cũng như việc thực hiện kế hoạch dịch và giới thiệu văn học
Mỹ"[74, 66].Tuy nhiên,trong những cố gắng nhất định của nhà xuất bản và dịch giả,một vài tác
phẩm văn học Mỹ vẫn ra mắt bạn đọc. Tập truyện ngắn Mỹ "Hoa dại" do Đắc Lê dịch ra đời
giữa lúc cuộc chiến tranh ở Việt Nam đang ở những thời điểm quyết liệt nhất và đế quốc Mỹ
đang điên cuồng gieo rắc tội ác ở khắp nơi trên đất nước ta càng chứng tỏ rằng "trong khi xông
lên tiêu diệt kẻ thù xâm lược, chúng ta vẫn biết trân trọng trong văn học Mỹ cái truyền
thống dân chủ và nhân đạo của nó, cái bộ phận tiến bộ và cách mạng mà nhân dân Mỹ đã
tạo ra trong kho tàng văn hóa của mình" [41, 4 ]. Jack London hiện diện ương "Hoa dại" với
lời nhận định : "Ông đúng là nhà văn hiện thực lớn của nước Mỹ ở đầu thế kỷ này" và với ba
tác phẩm : "Tình yêu cuộc sống" bộc lộ quan niệm của tác giả về chủ nghĩa anh hùng và chủ
72
nghĩa lạc quan, "Bị bắn rụng" và "Miếng bít tết" phơi bày một số khía cạnh trong hiện thực
nước Mỹ là nạn đói, nạn lang thang và nạn thất nghiệp.
Những năm sau ngày miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất được xem là “giai đoạn
khởi đâu chuyển biến đẹp của văn học dịch”[74,23]. Mặc dù vậy, văn học Mỹ nói chung và
Jack London nói riêng dường như vắng bóng ở thời điểm này. Phải chăng do "ở giai đoạn này,
văn học Liên Xô, trong đó có văn học Nga, vẫn được hâm mộ nhất"[74,24].
Những năm 80, tình hình dịch văn học bước sang một thời kỳ mới. Điều kiện đất nước đã
cho phép mở rộng công việc dịch sách văn học các nước và sách dịch được bạn đọc yêu thích.
Do đó, tác phẩm dịch ở thời kỳ này không chỉ bó hẹp trong văn học một số nước mà mở rộng
đến văn học Mỹ La Tinh, trở lại với văn học Châu Á - Châu Phi và chú ý đến các vấn đề của
hiện tại. Mặt khác, độc giả Việt Nam có cuộc sống vật chất ổn định, đời sống tinh thần phát
triển nên nhu cầu thưởng thức văn chương, nâng cao văn hóa tăng lên, đặc biệt là sự yêu thích
văn học nước ngoài. Mặt khác, ở giai đoạn này, cùng với sự quan tâm của các dịch giả và các
nhà nghiên cứu đến việc dịch văn học như một lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật là Hội nghị xuất
bản toàn quốc tháng 3/1984 và các nghị quyết Đại hội Đảng VI của Đảng về "cởi trói" trong
sáng tạo nghệ thuật và "mở cửa" trong giao lưu, tiếp nhận ... Tất cả đã góp phần thúc đẩy sự
phát triển của văn học dịch.
Riêng văn học Mỹ ở thời điểm này cũng đã có chỗ đứng thích hợp cùng với văn học các
nước khác. Trong bài nghiên cứu "Tình hình giới thiệu và nghiên cứu văn học Mỹ ở Việt
Nam", Mai Hương và Nguyễn Thị Huế đã "thử nhận định ánh hình sách văn học Mỹ được
dịch ở Việt Nam" từ các gốc độ chủ đề, nội dung sách đến góc độ thể loại và tiến trình văn học
Mỹ. Từ góc độ chủ đề và nội dung, các tác giả cho rằng những tác phẩm hiện thực tiến bộ xoay
quanh chủ đề cuộc chiến đấu cho sự tồn tại của con người và những tác phẩm thể hiện sâu đậm
chủ nghĩa nhân đạo là đối tượng được các dịch giả Việt Nam quan tâm và giới thiệu. "Có một
sự đồng cảm sâu sắc (không còn biên giới) giữa những con người ở những vùng bán cầu về
ánh yêu thương, về khát vọng tự do và bình đẳng"[ 81, 196 ]. Từ góc độ thể loại các tác giả
nhận diện rằng được dịch và giới thiệu nhiều nhất là tiểu thuyết và đứng thứ hai là truyện ngắn,
những tập truyện "đã để lại cho công chúng Việt Nam mối thiện cảm đặc biệt bởi chiều sâu
nhân bản và những vấn đê thiết yếu, gân gãi mà nó đặt ra" [81, 196]. Nhìn dọc theo tiến
73
trình văn học Mỹ, có thể thấy các tác phẩm được dịch và giới thiệu chủ yếu tập trung vào văn
học Mỹ ở thế kỷ XX và những tác phẩm hàng đầu của nền văn học hiện đại Mỹ. Và từ góc độ
nào thì Jack London cũng được xem là một trong những tác giả tiêu biểu có tác phẩm được
dịch và giới thiệu. "Trong số các nhà văn xuất sắc nhất, một số tác giả đã được giới thiệu
gần như toàn bộ các tác phẩm có giá trị: Jack London được dịch và giới thiệu từ tác phẩm
đâu tiên (mang lại tên tuổi cho nhà văn), "Tiếng gọi nơi hoang dã" (1983), tiếp theo là "Gót
sắt" (1960), "Martin Mon" (1985 - 1986), "Sói biển" (1992), "Nanh trắng" (1984), "Sóng
lớn Canaca" (1986), "Sự im lặng màu trắng" (1984), "Từ bỏ thế giới vàng" (1989) ... Đó
thực sự là những tác phẩm đã chiếm được thiện cảm của đông đảo quần chúng lao động trên
toàn thế giới bởi giá trị nhân văn sâu sắc: Bênh vực những người nghèo khổ bị áp bức, bóc lột
và chống lại xã hội tư bản.
Các nhà xuất bản và các dịch giả trong những năm 80 này phần lớn khi chọn dịch và xuất
bản tác phẩm của Jack London đều nói rõ lý do chọn dịch gắn với vị trí của nhà văn và giá trị
của tác phẩm: "London là một trong những bậc tiền bối của nền văn học hiện đại" (Bùi
Phụng và Bùi Ý), là "nhà văn vốn đã được bạn đọc nhiều nước và bạn đọc nước ta rất yêu
mến" (Nhà xuất bản Trẻ), là "nhà văn để lại nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến những thế hệ
nhà văn sau đó" (Đặng Quốc Thông và Nguyễn Mạnh Bùi Nghĩa) ... Và tác phẩm được chọn
dịch thường được đánh giá là "một trong những tác phẩm hay nhất của ông" (Martin Eden),
là những truyện thể hiện "mấy nét tiêu biểu trong sáng tác văn học của Jack London" (Tập
truyện "Tiếng gọi nơi hoang dã"), là những truyện mà độc giả nước ta "chưa được biết đến
nhiều" (Tập truyện "Sự im lặng màu trắng" và "Sóng lớn Canaca"). Mục đích giới thiệu các
tác phẩm tuy khác nhau, song không tách khỏi mong muốn cung cấp cho độc giả những hiểu
biết về tác giả và tác phẩm, phần nào hiểu được cá tính và con người Jack London, "hiểu được
phân nào xã hội Mỹ tư bản" (Mạnh Chương), biết thêm "một tác phẩm nữa trong sự nghiệp
văn học của Jack London" và "hiểu thêm các mâu thuẫn trong xã hội tư bản Mỹ vào đầu thế
kỷ XX" (Nhà xuất bản Trẻ), "biết thêm một bút pháp nữa của Jack London" (Đào Xuân
Dũng). Tuy chưa phải là tất cả, song những lý do - mục đích chọn dịch và giới thiệu tác phẩm
Jack London trên đã phần nào lý giải về hiện tượng tác phẩm Jack London ở giai đoạn này
được chọn dịch và được tái bản nhiều nhất trong quá trình dịch và giới thiệu tác phẩm Jack
London ở Việt Nam.
74
Những năm 90, trong tình hình chung của việc xóa bỏ cơ chế bao cấp, các nhà xuất bản
phải chuyển sang hạch toán kinh doanh, của việc độc giả đã có thái độ khác trước, không còn
vồ vập với văn học dịch nữa thì văn học dịch lại có những thay đổi theo thị hiếu người đọc. Giờ
đây, người ta ưa chuộng thể loại tiểu thuyết, thích những tác phẩm gay cấn, mạo hiểm, nhẹ
nhàng, tình cảm, có tính chất giải trí. Văn học dịch vì vậy chủ yếu hướng tới những tác phẩm
ăn khách của Anh - Pháp - Mỹ và hầu hết là những tác phẩm "best seller" của văn hóa đại
chúng tập trung vào một số tác giả.
Văn học Mỹ ở thời điểm này cũng trong tình trạng được giới thiệu phiến diện, chủ yếu là
để đáp ứng nhu cầu giải trí. Trong tương quan với các tác giả xuất sắc hay nổi bật của nền văn
học hiện đại Mỹ (Hemingway, Jack London, Pearl Buck ...), sách của những nhà văn thuộc loại
best seller vượt trội hẳn. Những tác phẩm giàu tưởng tượng, nửa thực nửa hư của Stephen
King; những sáng tác mang tính chất trinh thám và tình cảm của Danielle Steel, những truyện
trinh thám của J.H. Chase ... được dịch và Ị giới thiệu tràn lan. Điều đó cũng góp phần giải
thích vì sao ở giai đoạn này tác phẩm Jack London ít được dịch và nếu có thì cũng là những tác
phẩm có tính chất phiêu lưu (Cô gái băng tuyết, Sói biển) và những tác phẩm được tái bản
cũng là những truyện thuộc mảng truyện về đề tài biển phương Nam, đài nguyên phương Bắc
trong hai tập truyện "Sự im lặng màu trắng" và "Sóng lớn Canaca".
Trong phong trào học Anh ngữ của đông đảo tầng lớp nhân dân ở những năm này, tài liệu
bổ sung quan trọng để trau gioi Anh ngữ là những truyện ngắn nổi tiếng có văn phong hấp dẫn,
cấu trúc gọn, từ ngữ giản dị và nhiều hình ảnh. Tập truyện "Tiếng gọi nơi hoang dã" và các
truyện khác do Bùi Việt Hồng chọn dịch và những truyện của Jack London ương tập song ngữ
"Hai mươi truyện ngắn chọn lọc" do Ái Nguyệt và Cát Tiên chọn dịch là những tác phẩm
"phong phú về ngôn từ, súc tích và đa dạng về phong cách", "phù hợp với người học tiếng
Anh" (Bùi Việt Hồng).
Chưa thể khẳng định thị hiếu của độc giả Việt Nam trong những năm 2000 có gì thay đổi
nhưng việc tác phẩm Jack London (cụ thể là Martin Edetiy, Từ bỏ thế giới vàng, Tuyển tập
truyện ngắn Jack London) được tái bản cho thấy công chúng Việt Nam vẫn ưa chuộng sáng
tác của Jack London. Đặc biệt, mục đích giới thiệu của dịch giả Bùi Phụng-Bùi Ý trong
"Martin Eden"(sách tái bản) vẫn không cố gì thay đổi so với lần đầu xuất bản: "London là một
75
trong những bậc tiền bối của nền văn học tiến bộ hiện đại. Chúng tôi xin giới thiệu một
trong những tác phẩm hay nhất của ông Martin Iđơn với độc giả".
3.2.3.Về các bản dịch:
3.2.3.1.Nhận xét chung:
Tác phẩm Jack London được dịch ở Việt Nam có sự phong phú về thể loại (tiểu thuyết,
truyện vừa và truyện ngắn). Nếu dựa trên số lượng giữa các thể loại để so sánh thì truyện ngắn
được chọn dịch nhiều hơn (chiếm 35/44 tác phẩm được dịch). Nhưng nếu tính trên thể loại Jack
London sáng tác thì tiểu thuyết như vậy là được dịch nhiều (9/20) so với truyện ngắn (35/198).
Ở đây, chúng tôi dựa vào số lượng đâu sách được dịch để tìm hiểu về việc dịch truyện ngắn của
Jack London.
Trước hết, truyện ngắn là thể loại được Jack London yêu thích và chiếm một vị trí nổi bật
trong toàn bộ sáng tác của ông. Và như lời Nhà xuất bản Tác phẩm mới thì Jack London là một
trong những "cây bút truyện ngắn xuất sắc của thế giới ở thế kỷ XX". Mặt khác, do đề tài
phong phú, cốt truyện sinh động, lôi cuốn, hấp dẫn, văn phong giản dị mà truyện ngắn dễ gây
sự chú ý đối với dịch giả. Với tiểu thuyết của Jack London, người ta thường chú ý nhiều đến
giá ưị nội dung tư tưởng, ít có lời khen về thành công của nghệ thuật biểu hiện nên nó cũng chỉ
được chú ý dịch ở một giai đoạn nào đó thích hợp. Và hơn nữa, có lẽ dịch truyện ngắn không
đòi hỏi công phu và thời gian như tiểu thuyết.
Trong quá trình dịch tác phẩm Jack London, có hiện tượng một tác phẩm nhưng có trên
một bản dịch và hầu hết là ở thể loại truyện ngắn, có một truyện vừa (The call of the wild).
Phần nhiều đó là những tác phẩm được đánh giá cao về giá trị nội dung lẫn nghệ thuật. "Mối
thù thiên thu và chín tuyệt tác khác" do Lê Bá Kông và Võ Hà Lang chọn dịch từ "Best short
stories of Jack London" (Những truyện ngắn hay nhất của Jack London) do Nhà xuất bản
Fawett (Mỹ) in năm 1962, đã có năm tác phẩm được các dịch giả khác dịch lại. Trong đó, "The
love of life", một tuyệt tác của Jack London, được dịch cả thảy 4 lần. Ngoài ra, do quan điểm
dịch của mỗi thời đại khác nhau nên các dịch giả sau dịch lại cho phù hợp và để đáp ứng lối
đọc, lối viết, văn hóa của công chúng ở thời đại mình. Cả 8 tác phẩm được dịch lại thì khoảng
cách giữa bản dịch sau và bản dịch trước là trên 10 năm, có trường hợp là 20 nắm (To build a
fire: 1963 - 1983, The house of Mapuhi: 1963 - 1983, The wit of Porportuk: 1963 - 1984, The
76
call of the wild: 1961 - 1983 ...). Chẳng hạn những bản dịch của Lê Bá Kông và Võ Hà Lang
mà trong đó tên nhân vật, tên địa danh đều được chuyển sang tên Hán -Việt để dễ đọc, dễ nhớ
thì khó mà thích hợp với công chúng biết ngoại ngữ và cả những người muốn biết tên thật của
các địa danh, đặc điểm về chất liệu thực của truyện Jack London. Thực tế cho thấy những bản
dịch được in lại là của những dịch giả sau.
Cũng có khi truyện Jack London được dịch lại vì phục vụ nhu cầu rèn luyện ngoại ngữ
nhưng khi đó các văn bản tiếng Anh đã lược bỏ bớt câu, đoạn trong nguyên tác (Các bản dịch
của Bùi Việt Hồng, Ái Nguyệt và Cát Tiên).
Về các bản dịch, chúng tôi không làm nhiệm vụ của phê bình dịch mà chỉ nêu những nhận
xét của cá nhân về những cái biểu hiện trên bề mặt dễ nhận thấy ở các bản dịch. Dựa vào
những tiêu chí được định hướng, chúng tôi cho rằng những bản dịch Jack London vừa diễn đạt
đủ ý, dễ hiểu, vừa trôi chảy, uyển chuyển, đạt được mức “đạt” và "nhã". Ngoài ra, còn một số
yếu tố sau:
Ngoại trừ những tiểu thuyết và các truyện ương sách song ngữ được dịch là có tên nguyên
tác, còn lại các bản dịch ưuyện ngắn khác đều không đề tên nguyên tác. Do vậy, việc truy tìm
nguyên tác và đối chiếu là cả một vấn đề khó khăn, nhất là khi ở bản dịch, một số dịch giả lại
phiên âm tên nhân vật theo cách đọc của mình.
Tác phẩm Jack London được dịch chủ yếu từ nguyên bản tiếng Anh, nhưng cũng có
những bản dịch lại từ bản dịch trung gian khác qua ngôn ngữ Nga và Pháp. Chúng tôi không có
khả năng đánh giá các bản dịch tiếng Việt qua bản dịch ưung gian, nhưng đương cử một vài
trường hợp cụ thể về sự sai lệch của tên địa danh để thấy rằng dịch từ nguyên tác là cần thiết.
Cụ thể, tên nguyên tác của Jack London là "The jokers of New Gibbon", nhưng qua bản dịch
tiếng Nga, Đoàn Tử Huyên dịch thành "Những người thích đùa ở Niu Hibbon", có nghĩa là
"g" đổi thành "h", hoặc Thái Hà dịch địa danh "Barracks" trong nguyên tác "The league of the
old men" qua bản tiếng Nga thành "Kazar" ...
Nhiều bản dịch ngay từ tên tác phẩm, các dịch giả bám rất sát nguyên bản nên dù người
dịch không ghi tên nguyên tác, người tra cứu vẫn có thể nhận ra tên nguyên tác khi lục tìm, như
"Martin Idon" (Martin Eden), "Gót sắt" (The iron heel), "Nanh trắng" (Whitefang), "Miếng
bít tết" (A piece of steak), "Aloha Ôe!" (Aloha Oe), "Mất mặt" (Lost face) ... Nhưng cũng có
77
những bản dịch mà các dịch giả đã tự thêm bớt hoặc dịch thoát sang một nghĩa tượng trưng có
khi làm nghĩa rõ hơn, nhưng cũng có lúc lại thể hiện một ý nghĩa khác. Việc bỏ giới từ “of”
trong "Daughters of the snows" trong khi dịch khiến danh từ "the snows" trong nguyên tác hóa
thành tính từ trong bản dịch gây ngộ nhận về tính cách lạnh lùng của cô gái (Cô gái băng tuyết)
hoặc bỏ cụm từ "the story of" trong nguyên tác "The story of Keesh" để bản dịch chỉ còn là
"Cậu bé Kish" đã giảm bớt giá trị biểu cảm. Đặc biệt, có những tên tác phẩm đã được các dịch
giả dịch thoát với một nghĩa tượng trưng hoặc thay đổi nghĩa hoàn toàn. Đó là trường hợp của
"Burning daylight" (Từ bỏ thế giới vàng), "The sun-dog trail" (Hướng theo những mặt trời
giả tạo) và hầu hết là các tác phẩm dịch của Lê Bá Rông và Võ Hà Lang : "An Odyssey of the
North" (Mối thù thiên thu), "The wit of Porportuk" (Đánh trống bỏi), "To the man on trail"
(Ngoài dặm trường) ... Nhìn chung, việc thêm bớt hay đổi một tên khác đều xuất phát từ sự
cảm nhận và cách thể hiện chủ quan của bản thân dịch giả.
3.2.3.2.Một số ví dụ về độ lệch giữa nguyên tác và bản dịch
Những bản dịch tác phẩm Jack London về cơ bản đã đảm bảo được những giá trị nội dung
và giá trị nghệ thuật của nguyên bản. Tuy nhiên, đối chiếu bản dịch với nguyên tác và ngay cả
giữa các bản dịch của cùng một nguyên tác vẫn có những khác biệt. Chọn một đoạn ương tác
phẩm nổi tiếng nhất của Jack London để đối chiếu, chúng tôi thử tìm một số khác biệt trong
một đoạn nguyên tác với các bản dịch mà nhiều người gọi là độ lệch, cụ thể ở các mặt ngôn
ngữ, văn phong, văn hóa ...
Tên tác phẩm, thơ dẫn và đoạn mở đâu của nguyên tác:
LOVE OF LIFE
"This out of all will remain
They have lived and have tossed
So much of the game will be gain
Though the gold of the dice has been lost"
They limped painfully down the banh, and once the foremost of the two men staggred
among the rough, strewn rocks. They were tired and weak, and their face had the drawn
expressỉon of patience whỉch comes of hardship long endured. They were heavily burdened
78
wỉth blanket packs which were strapped to their shoulders. Head-straps, passing across the
ỷorehead, helped support these packs. Each man carried a rifle. They walked in a stooped
posture, the shoulders well forward, the head still farther forward, the eyes bent upon the
ground.
Đoạn văn dịch của Lê Bá Rông và Võ Hà Lang:
KHÁT SỐNG
"Họ tập tễnh lê gót xuống bờ sông và đã có lúc người đi trước trong hai người đó, loạng
choạng trên những hòn đá nằm ngổn ngang. Họ vừa mệt vừa kiệt sức. Vẻ mặt hiện rõ nét
phong trân, gian truân. Họ vác những bó chăn nặng trĩu có dây buộc quàng qua vai. Những bó
chăn này cũng được giữ chặt bằng dây vòng ngang trán. Mỗi người mang theo một cây súng.
Họ bước lom khom, vai đưa vê phía trước, đâu lại còn nhô xa hơn, mắt nhìn chúi xuống đất".
Đoạn văn dịch của Dương Tường:
TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
"Sẽ còn lại, trong tất cả, điều này
Họ đã sống và đã gieo mãn cuộc
Canh bạc đời chừng ấy, xem là được
Dù có mất đi vàng thoi sáu mặt thò lò
Họ hì hụi tập tễnh xuống bờ suối và có lân gã đi đâu trong số hai người loạng choạng
giữa lớp đá lởm chỏm. Họ mệt, yếu lử lả và mặt họ thuôn ra cái vẻ nhẫn nại do chịu đựng gian
khổ đã lâu. Họ mang những bó nặng bọc mèm có quai đeo vào vai. Những bọc này còn có
những đai đâu choàng qua trán cho đỡ nặng. Mỗi người mang một cây súng trường. Họ bước
đi trong tư thế lom khom, vai chúi hẳn vê đằng trước, đầu còn nhô xa hơn, mắt cúi gằm xuống
đất".
Đoạn văn dịch của Đắc Lê:
TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
"Điều này còn lại với đời
79
Những người đã sống, những người đấu tranh
Họ giành thắng lợi bao lần
Dù vàng đặt cuộc dần dần mất đi
Họ khập khiễng, nặng nhọc đi xuống bờ suối. Trong hai người đó, người đi trước cũng đã
có lần lảo đảo giữa các tảng đá nằm bừa bộn. Họ đều mệt mỏi và suy nhược, trên khuôn mặt
hiện rõ vẻ nhẫn nại sau những ngày gian khổ đằng đẵng. Họ mang những bó chăn nặng trĩu
trên vai. Những bố chăn này còn được mấy băng vải buộc ngang trán gánh bớt sức nặng. Mỗi
người mang một khẩu súng trường. Họ bước đi, dáng người khom xuống, hai vai đưa hẳn ra
phía trước, đầu nhô ra xa hơn, mắt nhìn xuống đất".
Để dễ nhận ra những điểm khác biệt, chúng tôi lập bảng đối chiếu, nhưng chỉ chọn những
điểm khác biệt dễ nhận ra nhất.
80
81
Từ việc đối chiếu trên, có thể thấy những đoạn văn dịch đã cố gắng chuyển tải nguyên tác
trong sự thống nhất nội dung và hình thức nghệ thuật sang ngôn ngữ Việt Nam, với cách diễn
đạt phong phú, trong sáng, dễ hiểu. Tuy nhiên, có những chỗ do đặc điểm ngôn ngữ, có những
chỗ do sự cảm nhận và khả năng diễn đạt nên các dịch giả đã thêm bớt, thay đổi từ và chuyển
vị trí từ một cách chủ quan tạo những độ lệch giữa bản dịch và nguyên tác, những khác biệt
giữa bản dịch này với bản dịch kia. Đoạn văn địch của Dương Tường có nhiều chỗ thêm từ
(đoạn thơ đề từ, câu 2, câu 3 và câu 4), có chỗ dùng từ chưa rõ nghĩa (câu 3) hoặc chưa thích
hợp (câu 6), nhưng nhìn chung giữ được văn phong của tác giả ương lối viết khi dàn trải, khi
súc tích. Dịch giả Lê Bá Kông và Võ Hà Lang dù bám sát vào nghĩa của từ, diễn đạt trong
sáng, dễ hiểu nhưng không dịch đoạn thơ đề từ, bỏ bớt từ (câu 2), tách câu làm biến đổi kết cấu
của đoạn (câu 2), nên ít nhiều làm thay đổi văn phong của tác giả. Bản dịch của Đắc Lê tuy
không ưánh khỏi việc chủ quan thêm từ (câu 4), bớt từ (câu 3) nhưng có thể xem là sự trung
hòa của hai bản dịch kia.
Một đoạn văn dịch chưa cố thể nói lên tất cả, nhưng khi chọn một tác phẩm từng gây
tiếng vang, một tác phẩm được nhiều người dịch và chọn đoạn văn mở đầu để đối chiếu, chúng
tôi nghĩ rằng ắt hẳn các dịch giả phải đầu tư rất nhiều để khẳng định nghệ thuật dịch của mình.
Hơn nữa, ở một tác phẩm được nhiều người quan tâm mà chỉ mới ở đoạn đầu đã có những độ
lệch giữa bản dịch với nguyên tác, những khác biệt giữa bản dịch với bản dịch thì có thể mạnh
dạn khẳng định điều này cũng dễ xảy ra ở những bản dịch khác của Jack London.
Đơn cử thêm một số ví dụ, sẽ thấy ở nhiều bản dịch có sự chênh lệch so với nguyên tác.
Trong "Koolau, the leper", có đoạn độc thoại của ông già Koolau : “But how ? Why ? Why
should the wholeness of that wild youth of his change to this ?”. Dịch giả đã đồng nhất "how"
với "what", bỏ quan hệ từ "but", thêm nhiều dấu phẩy và cả thành phần giải thích làm thay đổi
cấu trúc câu : "Vì sao ? Tại sao ? Làm sao ông, một người trẻ tuổi, khỏe mạnh, lại hóa ra thế
này?". Câu mở đầu trong "The league of the old men" ngắn gọn và ấn tượng : “At the
Barracks , a man was being tried for his life. He was an old man”, nhưng qua bản dịch trung
gian ngôn ngữ Nga, dịch giả dịch không đúng tên địa danh và đã diễn giải chủ quan theo nội
dung truyện với cấu trúc câu dài : "Ở quần đảo Kazar, có cuộc xét xử một người, người to
bàn tới cuộc sống và cái chết của người này. Đó là một lão già da đỏ”. Hay những cậu trong
đoạn cuối của "The son of the wolf " được dịch trong sự không tương đương về đại từ (they –
82
cô), nghĩa của từ (the gostly forest - rừng tuyết phủ huyền ảo xa xa), không đúng nghĩa của từ
(slip - ngôi - snowshoes - xe trong khi "slip" có nghĩa trượt, lướt nhẹ và "snowshoes" là giày đi
tuyết) và trong sự mất cân đối về cấu trúc câu (bỏ vế 1 ở câu 2) so với nguyên tác : "Mấy phút
sau, cô đã mất hút trong rừng tuyết phủ huyền ảo xa xa. Và chỉ bấy giờ, Mackênzi mới ngồi
lên xe lên đường đi theo". Trong khi đoạn văn nguyên bản là : "A few moments later, they
were swallowed úp by the gostly forest, till nowf Mackemie had waited, he slippeđ into his
snowshoes to follow".
Những đối chiếu trên phần nào cho thấy giữa các bản dịch với nguyên tác có những độ
chênh về ngôn ngữ và sự biến đổi về thi pháp và văn phong. Các lớp từ ngữ đã được chuyển
dịch sang môi trường văn hóa Việt Nam, nên “không chuyển tải được hoàn toàn cái quy
chiếu được tác giả gửi gắm trong nguyên tác”. Đó còn là điều mà nhiều người gọi là độ chênh
về văn hóa. Độ chênh về ngôn ngữ - văn hóa, sự biến đổi về thi pháp - văn phong có thể là do
đặc điểm khác nhau về ngôn ngữ - văn hóa của mỗi dân tộc, nhưng cũng còn do sự cảm nhận
nhất định của dịch giả về tác giả - tác phẩm, từ sự lựa chọn cách diễn đạt, từ trình độ và khả
năng của người dịch. Tuy nhiên, nhìn chung thì các bản dịch tác phẩm Jack London đã đảm
bảo được những giá trị cơ bản về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật qua ngôn ngữ Việt
trong sáng và phong phú.
3.2.3.3.Một số ví dụ về " đạt" và " nhã " trong các bản dịch:
Cho đến nay, việc đánh giá chất lượng dịch thuật những bản dịch hầu hết cũng chỉ được
tiến hành ở những cuộc thi dịch tác phẩm. Những bản dịch tác phẩm Jack London không nằm
trong danh sách các tác phẩm dịch được nghiên cứu, đánh giá ấy. Và do đó, không có cơ sở để
so sánh các ý kiến nhận xét, đánh giá để kết luận về các bản dịch. Tuy nhiên, từ mục đích tốt
đẹp của việc dịch tác phẩm Jack London mà các bài giới thiệu sách nêu rõ, từ những ấn tượng
tốt đẹp mà tác phẩm Jack London để lại trong lòng công chúng, từ những cốt truyện có sức hấp
dẫn, lôi cuốn thể hiện trong các bản dịch và cũng từ góc nhìn của riêng mình, chúng tôi cho
rằng cái được của những bản dịch tác phẩm Jack London là đều đã qua sự lựa chọn "nghiêm
túc" của các dịch giả, đã được dịch một cách nghiêm túc và là những bản dịch đạt được chuẩn
"đạt " và “nhã”.
83
Dịch tác phẩm Jack London đã có quá trình lâu dài và tính đến nay, các tác phẩm dịch đã
có đời sống khá lâu. Dầu rằng khó có thể đạt được yêu cầu trung thành tuyệt đối với nguyên
tác, nhưng các bản dịch cũng đã đạt đến mức độ đúng nghĩa, không làm mất vẻ đẹp của nguyên
văn, lời văn linh động và ngôn ngữ dịch nhuần nhuyễn toong sự thống nhất nội dung và hình
thức của nguyên tác. Đối với những tác phẩm có nhiều bản dịch (Tình yêu cuộc sống, Nhóm
lửa, Miếng bít tết), điều dễ nhận ra là mỗi bản dịch thể hiện bản lĩnh, sắc thái rất riêng của các
dịch giả, nhưng các bản dịch được dịch tương đối đều tay, đều truyền đạt được tinh thần của
nguyên tác, đem lại một tình cảm nhất quán cho người đọc.
Tác phẩm Jack London được chọn dịch là những tác phẩm thể hiện đậm nét tính nhân
văn: Yêu thương và ca ngợi con người, khát vọng tự do và bình đẳng. Và điều đó đã được thể
hiện lại trong sự linh động của các bản dịch.
Một số đoạn văn dịch dưới đây miêu tả sinh động không gian và con người - thể hiện một
vài khía cạnh nhỏ trong quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người của nhà văn - cho thấy
các bản dịch đã chuyển tải được ý tưởng và cái hồn của nguyên tác, đã tạo những ấn tượng
mạnh mẽ về cái dữ dội, nghiệt ngã của thiên nhiên, của hoàn cảnh và về khả năng đấu tranh của
con người cho sự tồn tại của mình bằng mọi cách, mọi giá.
Bối cảnh làm nền cho xung đột diễn ra ương "Sự im lặng màu trắng" là không gian hùng
vĩ nhưng cũng huyền bí, nặng nề và u ám như một sa mạc chết. Nó khiến con người luôn bị dày
vò vì một nỗi sợ - sợ cái chết, sợ Chúa, sợ tất cả thế giới xung quanh. Đoạn văn dịch đã lột tả
được cái không khí đầy đe dọa ấy:
“The afternoon wore on, and with the "Ngày đã ngả sang chiều và bị đè nặng
dưới sự hùng vĩ của sự im lặng Màu Trắng, awe, bom of the White Silence, the voiceless
cả ba người cùng lặng lẽ vạch đường đi tiếp. travelers bent to their work. Nature has many
Thiên nhiên có nhiều cái để nhắc nhỏ con tricks wherewith she convinces man of his
người về cái chết, thủy triều không ngừng finity, the ceaseless flow of the tides, the fury
lên rồi lại xuống, sự giận dữ của giông bão, of the storm, the shock of the earthquate, the
sự khủng khiếp của những trận động đất và long roll of heaven's artillery - but the most
những đợi sấm sét. Nhưng mạnh mẽ hơn và tremendous, the most stupefying of all, is the
84
passive phase of the White Silence. All khủng khiếp hơn tất cả là sự ỉm lặng Màu
movement ceases, the sky clears, the heavens Trắng trong cái thờ ơ, hiu quạnh của nó.
are as brass; the slightest whisper seems Không một tiếng động nào. Bầu trời sáng lóe
tấm đồng được mài bóng. Bất kỳ một tiếng sacrilege and man becomes timid, affrighted
thì thầm nào cũng trở thành thiêng liêng và at the sound ofhis own voice”
con người trở nên hoảng sợ với chính cả
tiếng nói của mình".
(Thái Bá Tân dịch)
Đoạn văn dịch miêu tả không gian trong "Kho tàng ngọc trai" tuy không bám sát từng
câu từng chữ, nhưng không xa rời nguyên tác, vừa sát nghĩa vừa thoát ý.Nó khắc họa không
gian ở một cửa đầm trên biển cả dữ dội, ghê rơn, chỉ chực nuôi chửng bất cứ ai, bất cứ cái gì
rơi vào vòng xoáy của nó, báo trước tai họa luôn rình rập và có thể giáng xuống.
"The water boiled and whirled and Nước biển réo lên sùng sục, xoáy tròn,
lượn quanh và lao vút ra khơi thành những swirled and drove cutxvard in a white foam
đạt sóng bạc đâu dũng mãnh nhấp nhô như of stiff, serrated waves. Each heave and blow
răng cưa. Mỗi khi một cơn sóng dựng đứng on her bows of the upstanding waves of the
đánh thốc vào phía mũi, chiếc Malahiri lại current swing the Malahiri off the straight
bị đẩy chệch hướng. Như những chiếc đục lead and wedged her as with wedges of steel
thép khổng lồ, từng đợt sóng dúi con tàu dạt toward the side of the passage. Part way in
sang qua một cửa đầm. Mới vào được một she was when her closeness to the coral edge
đoạn, vì bị ép quá gần vách san hô, nó lại compelled her to go abort. On the opposite
phải lượn quanh, xoay mình ngang với dòng tack, broadside to the current, she swept
thủy triều rồi bị cuốn mạnh ra khơi". seaward with the current’s speed".
(Lê Bá Rông và Võ Hà Lang dịch)
"Tình yêu cuộc sống" trở thành một kiệt tác vì vấn đề mà nó thể hiện (cuộc đọ sức quyết
liệt giữa con người và tự nhiên), vì ý nghĩa sâu xa của nó (khát vọng sống tạo cho con người
khả năng kỳ lạ để vươn lên và chiến thắng trong mọi hoàn cảnh) và còn vì nghệ thuật miêu
tả sinh động, lôi cuốn (môi trường thiên nhiên khắc nghiệt, cuộc tranh chấp sự sống quyết
85
liệt giữa người và vật). Cả bốn bản dịch của các dịch giả Việt Nam đều trung thành với những
gì nguyên tác thể hiện và cũng đạt được hiệu quả thẩm mỹ tương tự. Đặc biệt, đoạn gần cuối
miêu tả đỉnh điểm gay go nhất của cuộc đọ sức giữa con người và con sói cùng đói và kiệt sức.
Các bản dịch đều thể hiện sự tâm đắc, "hóa thân" của dịch giả. Ở đây, chúng tôi chỉ đưa một ví
dụ tiêu biểu :
"The fangs pressed softly, the pressure " Những cái nanh ép nhè nhẹ, rồi mạnh
đần, con sói nỗ lực dùng chút sức lực cuối increased, the wilf was exerting its last
cùng cắn răng vào tảng thức ăn mà nó đã strength in a effort to sink teeth ỉn the food
chờ đợi từ lâu. Nhưng con người cũng đã for which it had waỉted so long. Bút the man
đợi lâu rồi, bàn tay giập nát bốp lấy hàm nó. had waited long, and the lacerated hand
Trong khi con sói chống lại yếu ớt và một closed on the jaw. Sloxvly, while the wolf
bàn tay yếu ớt đang bóp lại thì bàn tay kia struggled feebly and the hand clutched
chậm rãi Vân theo để cùng bóp lại. Năm feebly, the other hand crept across to a grip.
phút sau, toàn bộ sức nặng của cơ thể con Five minutes later, the whole weight of the
người đã đè lên trên mình con sói. Hai bàn marìs hoáy was on top of the wolf. The hands
tay không đủ sức mạnh để làm con sói chết had not sufficient strength to choke the wolf,
bút the face of the man was pressed close to ngạt, nhưng mặt con người đã ép chặt vào
the throat of the wolf and the mouth of the cổ họng con sói, mồm con người đầy những
lông sói. Sau nửa giờ, con người cảm thấy man was full of hair. At the end of haif an
có một dòng âm ấm chảy qua cổ họng. hour, the man was aware of a warm trickle in
Không ngon lành gì. Thứ đó giống như chì hỉs throat. It was noi pleasant. It was ỉike
đã nung lỏng bị ép chảy vào dạ dày, chỉ cố ý molten lead being forced into his stomach
chí mới bắt buộc được cái dòng âm ấm đó and it was forced hy his will alone. Later, the
chảy vào dạ dày. Sau đó, con người lăn ngửa man rolled over on his back and slept".
ra nằm ngủ”.
(Đắc Lê dịch)
Đoạn văn dịch về cái kết cục của một con người bị suy nhược nghiêm trọng ương "Kẻ bỏ
đạo" đã chuyển dịch không chỉ ở nghĩa của nguyên tác mà còn truyền đạt cả tình cảm, tấm lòng
của tác giả khi thể hiện nhân vật. Đó là nỗi đau xót, đắng cay trước cảnh chàng thanh niên
86
Johnny vì sự tồn tại của gia đình và của chính bản thân mà phải làm ở nhà máy từ năm bảy
tuổi, chấp nhận một cuộc đời không bao giờ được nhìn thấy diễn biến của ban ngày, ban đêm
ngủ trong những giấc hoảng loạn, trở thành "con vật biết làm việc " với ý thức là ý thức của cái
máy và kết quả là rơi vào tình trạng suy sụp sức lực, rối loạn tinh thần trầm trọng.
"He did not walk like a man. He did not "Cậu không bước đi bình thường, con
look like a man. He was a travesty of the người cậu trông không bình thường, lê lết
như một con đười ươi ốm yếu, hai tay thõng human. It was a twisted and stunted and
xuống, hai vai xo vào, ngực lép trông đến kỳ nameless pỉece of life thát shambled like a
quái và đấng sợ. sickly ape, arms loose -hanging, stoop -
shouldered, narrow -chested, grotesque and Khi bống hoàng hôn đổ xuống trong
terrible. đêm đầu tiên, một con tàu hàng xinh xịch
vào ga. Khi đâu máy chuyển các toa vào con ...After twilight had gone, in the first
đường nhánh, Giôn bò dọc theo con tàu. Cậu darkness of the night, a freight train rumbled
đẩy được chiếc cửa của toa chỏ sức vật bỏ into the station. When the engine was
không, lúng túng và vất vả mãi mới leo được switehing cars on to the side - track, Johnny
crept aỉong the side of the train. He pulled lên. Cậu đóng cửa lại. Còi tàu huýt vang.
open the side - door of an empty box - car Giôn đang nằm nhoẻn miệng cười trong
and awkwardly and laboriously climbed in. bóng tối” .
He closed the door. The engine whistled,
Johnny was lying down, and ỉn the darkness (Mạnh Chương dịch) he smiled".
Đem lại cho công chúng Việt Nam những hiểu biết về đất nước, cuộc sống và con người
Mỹ, những cảm giác thú vị từ những truyện phiêu lưu về biển, về rừng và những cảm xúc yêu
thương, khâm phục con người, gây được ấn tượng mạnh bởi nội dung nhân văn sâu sắc,... từ
nguyên tác mà còn tạo ra hiệu quả nhất định của bản dịch, các dịch giả Việt Nam dịch tác phẩm
Jack London không chỉ bằng khả năng hiểu biết về ngôn ngữ mà còn bằng sự hiểu biết về lịch
sử, văn hóa Mỹ và hiểu biết về quan niệm nghệ thuật, con người của Jack London. Và do đó,
giữa lúc tác phẩm dịch của những nhà văn Mỹ khác được xuất bản liên tục (thậm chí có lúc xô
87
bồ) nhưng một số tác phẩm dịch từ truyện Jack London vẫn được tái bản (Tuyển tập truyện
ngắn Jack London, Martin Eden) là điều không gây ngạc nhiên cho mọi người.
3.2.3.4.Về đoạn văn dịch "Con Chó Bấc" trong chương trình văn lớp bảy
Giảng dạy văn học nước ngoài hiện nay trong trường phổ thông là giảng dạy thông qua
bản dịch. Do vậy, việc lựa chọn một bản dịch phù hợp và "đạt" theo những tiêu chuẩn chung là
yêu cầu cần thiết.
Bài "Con chó Bấc" trong chương trình Văn lớp 7 là một đoạn trích từ Chương VI
(Chương cuối) trong nguyên tác "The Call of the Wild" của Jack London. Tính đến nay ở Việt
Nam có hai bản dịch tác phẩm này - một của dịch giả cấn Huy Tăng (dịch 1961), một của
Nguyễn Công Ái và Vũ Tấn Phương (dịch 1983). Chúng tôi không so sánh hai bản dịch của hai
dịch giả, chỉ nêu một số cảm nhận về hai bản dịch.
Cả hai bản dịch đều cố gắng thể hiện giá trị nội dung và nghệ thuật của nguyên bản và
đều có những độ lệch nhất định so với nguyên tác. Bản dịch của cấn Huy Tăng dịch thoát ý,
lược bỏ nhiều câu so với nguyên tác, không dịch bài thơ mở đầu tác phẩm, không có các tiêu đề
ở mỗi chương như nguyên tác. Dịch từ 1961 nên văn phong bản dịch ít nhiều thể hiện dấu ấn
của thời kỳ ấy : tên nhân vật được chuyển sang âm Hán - Việt (John Thornton - Dương Thạc
Tôn, Buck - Bích), dùng nhiều từ mà nay ít có người dùng (cố chủ, trỗi dậy, tâm khảm, binh
lửa, cao hãnh, ...). Nhìn chung, bản dịch thiên về tả và kể chuyện đơn thuần, giảm bớt những
cảm xúc mà tác giả thể hiện ương nguyên tác. (Không dịch những câu trữ tình, gọi Thornton là
"hắn").
Bản dịch của Nguyễn Công Ái và Vũ Tấn Phương chuyển đạt một cách rành rẽ nguyên
tác, có sự cảm nhận gần gũi, đồng điệu với văn phong của tác giả. Do vậy, độ lệch giữa bản
dịch và nguyên tác không nhiều, chủ yếu là sự biến đổi về thi pháp, về văn hóa, phù hợp với
trình độ và thị hiếu của độc giả những năm 80 đến nay. Tuy nhiên, nhan đề tác phẩm "Tiếng
gọi nơi hoang dã" e rằng chưa thể hiện nổi bật ý nghĩa hàm ẩn của tác phẩm. Và nó có thể gây
nên cách hiểu khác : "Tiếng gọi nơi hoang dã" ("nơi" là danh từ chỉ phần không gian mà người
hay vật nào đó chiếm) có thể là tiếng gọi của con người chứ không riêng gì của thú hoang.
Theo chúng tôi, có lẽ chọn cách dịch "Tiếng gọi của hoang dã" ("của" là quan hệ từ biểu thị
quan hệ sở thuộc) thì thể hiện rõ và trọng tâm hơn chủ đề của tác phẩm. Đó là tiếng gọi của bầy
88
đàn, của sói hoang, của những con vật mang dòng máu hoang dã. Đó là bài ca của thế giới
hoang sơ, bài ca của bầy sói.
Đoạn văn dịch "Con chó Bấc" của dịch giả Nguyễn Công Ái và Vũ Tấn Phương được các
soạn giả sách Giáo khoa tuyển chọn có sức thuyết phục vì nó đã chuyển tải bằng ngôn ngữ dịch
lưu loát đoạn văn nguyên tác trong thể thống nhất về nội dung và hình thức, ương sự trung
thành với nguyên tác có sáng tạo, đặc biệt là truyền đến người đọc những cảm xúc của tác giả
khi viết về tình cảm yêu thương gắn bó, sôi nổi, nồng cháy của người và vật. Và tất nhiên trong
ý nghĩa của một bài văn thuộc chương trình, nó cho thấy những nhận xét tinh tế của nhà văn
khi viết về loài vật, nêu bật trí tưởng tượng tuyệt vời của nhà văn khi đi sâu vào "tâm hồn" của
con chó Bấc, bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu thương loài vật.
3.2.4.Ý nghĩa của vấn đề dịch và giới thiệu tác phẩm Jack London
Là người bắc cầu nối giữa tác phẩm và người đọc, các nhà dịch thuật Việt Nam đã giới
thiệu những bản dịch tác phẩm Jack London trong xu hướng chung của việc giới thiệu văn học
Mỹ. Ngưỡng tiếp nhận của các dịch giả tuy chịu sự chi phối của những điều kiện kinh tế,lịch
sử,chính trị...của xã hội nhưng vẫn có những khác biệt so với những loại độc giả khác. Việc
chọn dịch "những tác phẩm tiêu biểu của Jack London"(theo các dịch giả) thể hiện cái nhìn
riêng mang tính chất chủ quan của họ. Sự thành công hay hạn chế trong việc dịch tác phẩm của
các dịch giả thể hiện khả năng dịch nhưng cũng đồng thời thể hiện mức độ cảm nhận của người
dịch đối với tác phẩm. Và cũng cần nói thêm rằng ngưỡng tiếp nhận của dịch giả còn chịu sự
chi phối của nhu cầu,thị hiếu của công chúng nói chung.
Mục đích dịch tác phẩm Jack London mà các dịch giả và các nhà xuất bản nêu rõ trong
những bài giới thiệu sách cũng chính là những ý nghĩa mà họ mong muốn tác phẩm Jack
London đem đến cho người đọc Việt Nam. Ngay ở những năm 50- 60, khi tác phẩm Jack
London còn được dịch chưa nhiều thì người ta cũng đã nói đến ý nghĩa của những tác phẩm
dịch ấy: "Tác phẩm Jack London thúc đẩy con người tranh đấu, tranh đấu để tìm một lẽ
sống. Đọc Jack London, người ta thấy ham sống, ham đi xa, ham âm những cảnh lạ -
những nhân vật lạ - những hình ảnh khác xa cuộc đời bình dị hàng ngày" [ 70, 1148 ]. "Có
người còn cho rằng sách của ông phải là những quyển gối đầu giường của tuổi trẻ, vì ông
thiện nghệ vê khoản mô tả những cảnh cực nhọc, gian lao y hiểm nghèo, cua những cuộc
89
đời sóng gió, khiến cho thanh niên đọc ông gạt bỏ được một phần nào ánh cảm ủy mị và ỷ
lại, khiến cho thanh niên yêu đời và lĩnh hội được ý nghĩa của sự tranh đấu" [37, 14].
Là một trong số những "tác giả hàng đầu của nền văn học hiện đại Mỹ", là "bậc thầy
truyện ngắn", là một trong số những nhà văn được nhiều người biết đến, Jack London đến với
công chúng Việt Nam qua các bản dịch tác phẩm như là sự góp mặt của "hương xa hoa lạ" của
văn đàn ngoại quốc vào vườn hoa văn học Việt Nam.
Có thể nói, cùng với các tác phẩm được dịch của các nhà văn thuộc các nền văn học khác
ở Việt Nam, tác phẩm của Jack London đã góp phần phục vụ,đáp ứng nhu cầu "cần được tiếp
cận với nhiều tác giả xuất sắc của nhiều nền văn học khác nhau" rất tự nhiên của công
chúng Việt Nam.
Đối với công chúng bình thường, trong cái ngưỡng tiếp nhận bình thường, tác phẩm Jack
London-với sự phong phú về đề tài, với những giá trị nhất định về nội dung tư tưởng và nghệ
thuật biểu hiện -đã có sức hấp dẫn riêng, dễ tiếp thu và gần gủi. Mặt khác, khi tiếp nhận tác
phẩm Jack London, công chúng Việt Nam không bị áp đặt để phải "quá ngưỡng chịu đựng
tâm lý-ý thức". Điều này được chứng minh qua việc in lại nhiều lần những tác phẩm dịch của
ông.
Những bản dịch tác phẩm Jack London không chỉ cho người đọc hiểu được con người của
nhà văn mà còn cung cấp những kiến thức về xã hội Mỹ phức tạp, về người Mỹ trong cuộc
chiến đấu với các thế lực: thiên nhiên, giai cấp, cái xấu, cái ác và gợi nên những tình cảm nhất
định(yêu ghét rõ ràng) nơi người đọc.
Khó có thể khẳng định tác phẩm dịch của Jack London có ảnh hưởng đối với văn học
nước nhà. Cho đến nay vẫn chưa có những bài viết nghiên cứu về vấn đề này, cũng như qua
một số bản hồi ký của các nhà văn, chúng tôi chưa tìm thấy những ý đề cập đến việc chịu ảnh
hưởng của nhà văn này. Tuy nhiên, qua thu thập, chúng tôi có được tác phẩm "Chó săn chồn"
của Nguyễn Thành ghi là "theo" tác phẩm của Jack London, nhưng thực ra "Chó săn chồn" là
tác phẩm phóng tác từ "White fang", với sự thay đổi văn phong, tên nhân vật - địa danh rất
Việt Nam và sự thay đổi cũng như bỏ đi rất nhiều sự kiện, chi tiết cho phù hợp với loại sách
giải trí và giáo dục.
90
Nếu như trong bài giới thiệu tập "Hoa dại" năm 1972, Nguyễn Đức Nam bộc lộ sự ray rứt
cũng như mong muốn về việc dịch tác phẩm Jack London: "Rất tiếc rằng còn một số truyện
ngắn hay của Giắc Lăn-đơn chưa được giới thiệu ở đây và mong rằng bạn đọc Việt Nam sẽ
có dịp đọc nhiêu hơn những truyện ngắn tài hoa và sâu sắc của ông"[41,11] thì đến nay có lẽ
mong ước ấy đã được đáp ứng, bởi theo Mai Hương và Nguyễn thị Huế thì Jack London "đã
được giới thiệu gần như toàn bộ các tác phẩm có giá trị"[80,300], theo Đặng Anh Đào thì ở
Việt Nam, "độc giả rộng rãi đã biết đến hầu hết những tác phẩm lớn của Jack London" [14,
705].
Trong lĩnh vực nghiên cứu, tác phẩm dịch của Jack về cơ bản là cơ sở làm phong phú
thêm, rõ ràng thêm cho những nhận định, đánh giá, là một trong những đối tượng cụ thể nhất
và có ý nghĩa nhất khi giới thiệu tác giả với độc giả Việt Nam.
3.2.5.Một số đề xuất về việc dịch tác phẩm Jack London:
Dịch tác phẩm Jack London như vậy là đã có quá trình lâu dài ở Việt Nam. Với mục đích
ban đầu là "cống hiến độc giả một chút gió lạ, hương xa của văn đàn ngoại quốc" [ 37, 14 ]
đến nay, tác phẩm Jack London được dịch còn vì ý nghĩa, giá trị mà nó đạt được về nội dung
hiện thực cũng như phương thức biểu hiện.
Những bản dịch tác phẩm Jack London phong phú ở ngôn ngữ, cách dịch, văn phong,...
ngoài việc thể hiện dấu ấn của dịch giả còn mang những đặc điểm của thời đại mà nó ra đời.
Từ yêu cầu, trình độ của độc giả ngày càng cao và từ nhu cầu của cá nhân, chúng tôi đề
xuất một số ý kiến sau:
*Nếu tác phẩm Jack London được tiếp tục dịch hoặc những bản dịch cũ được in lại nên
chăng các dịch giả khi dịch thì ghi tên nguyên tác kèm theo, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tra
cứu. Bởi có những bản dịch đã có sự sửa đổi tên, rất khó xác định được tên nguyên tác.
*Nên dịch từ nguyên tác thay vì qua bản dịch trung gian của ngôn ngữ khác. Chúng tôi
không phê phán hay đánh giá bản dịch qua ngôn ngữ trung gian nhưng xuất phát từ thực tế là
có bản dịch mà nhiều chỗ khác so với nguyên tác, tên riêng thay đổi, chúng tôi cho rằng dịch từ
nguyên tác (không qua ngôn ngữ trung gian) đảm bảo độ chính xác và gần với nguyên tác hơn.
91
*Đối với độc giả bình dân, việc phiên âm danh từ riêng sang tiếng Việt (địa danh, tên
nhân vật) là phù hợp nhưng để đáp ứng yêu cầu đối với độc giả có trình độ cao hơn có lẽ cũng
nên ghi chú thêm tên đúng như nguyên tác.
*Về việc chọn tác phẩm dịch, đa số các nhà nghiên cứu khẳng định các tác phẩm có giá
trị của Jack London gần như đã được dịch ở Việt Nam. Riêng chúng tôi nghĩ rằng Jack London
có hai tác phẩm có cùng nhan đề "To build a fire" nhưng các dịch giả dịch nhiều "To build a
fire" (II), chưa ai dịch "To build a fire" (I). Mong rằng tác phẩm có thể được dịch để người đọc
có thể thưởng thức hai tác phẩm có cùng nhan đề nhưng được sáng tác ở những thời điểm khác
nhau (1901 và 1907). Ngoài ra, theo chúng tôi thì “The Death of Ligoun” và "The Game" là
hai tác phẩm hay nói về khả năng và ý thức đấu tranh sinh tồn của con người, nếu được dịch sẽ
làm phong phú thêm cho việc giới thiệu về nội dung đấu tranh sinh tồn trong tác phẩm Jack
London.
92
CHƯƠNG 4: JACK LONDON TRONG NHÀ TRƯỜNG
4.1.Jack London trong chương trình giảng dạy:
Là tài sản tinh thần của các dân tộc sống trên hành tinh, là chiếc cầu nối cho tình hữu nghị
và sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, văn học nước ngoài đã được đưa vào chương trình
giảng dạy ở nước ta từ lâu. So với sự phát triển của văn học nước ngoài trong đời sống tinh
thần công chúng Việt Nam, văn học nước ngoài trong chương trình giáo dục có những giới hạn
riêng của nó. Tuy nhiên, hiện nay vị trí của môn văn học nước ngoài đã được nâng cao và
chiếm tỷ lệ đáng kể trong chương trình môn văn bên cạnh văn học Việt Nam.
Văn học nước ngoài trong chương trình giảng dạy các cấp đủ đại diện cho văn học
phương Đông và phương Tây, có đủ các loại hình văn học từ cổ đến kim, từ sử thi, thơ, kịch
đến truyện ngắn và tiểu thuyết hiện đại.
Là một nền văn học trẻ, nhưng phát triển nhanh và mạnh, văn học Mỹ được giới thiệu
trong chương trình môn văn với những đại diện của nó (Hemingway, Jack London và O.
Henry), cùng với những nền văn học khác đã góp phần làm phong phú và hấp dẫn thêm cho
chương trình văn học nước ngoài, cho người dạy và cho người học. Jack London là một trong
số những nhà văn Mỹ hiếm hoi có mặt trong chương trình giảng dạy.
4.1.1.Jack London trong chương trình bậc Đại học và Cao đẳng:
Trong chương trình văn học nước ngoài ở bậc Đại học và Cao đẳng chuyên ngành, ngoài
văn học các nước như Trung Quốc, An Độ và Nhật Bản, văn học các nước phương Tây cũng
được chú trọng trong sự phong phú và đa dạng của nó, tiêu biểu là văn học cổ đại Hy Lạp, văn
học thời Phục Hưng và văn học hiện đại Pháp -Đức -Anh - Mỹ ... Tuy nhiên, không phải tác giả
và tác phẩm nào được chọn giảng ở trường phổ thông cũng được trang bị kiến thức đầy đủ
trong chương trình Đại học và Cao đẳng. Jack London là một trong sô" những nhà văn không
nằm trong chương trình qui định ở bậc học này.
Như vậy, dù Jack London được các nhà nghiên cứu ,dịch thuật quan tâm, nhưng trong
giới hạn của việc sắp xếp chương trình, của việc tuyển chọn các tác giả tiêu biểu nhất của nền
văn học các nước và của việc quy định thời gian thì Jack London không có mặt trong chương
trình qui định ở bậc Đại học và Cao đẳng.
93
4.1.2.Jack London trong chương trình phổ thông:
Phần văn học nước ngoài ở trường phổ thông được sắp xếp và giảng dạy song song với
văn học Việt Nam ỏ những thời kỳ văn học tương đương. Từ những tài liệu bồi dưỡng giáo
viên Văn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, có thể thấy những tác giả được chọn lọc "là những đỉnh
cao của văn học thế giới, gân gũi hoặc cố anh hưởng nhiêu đến văn học Việt Nam, đồng
thời thích hợp với độ tuổi học sinh" cả về tâm lý lứa tuổi cũng như về yêu cầu giáo dục tư
tưởng, tình cảm, đạo đức và thẩm mỹ.
Trong chương trình phổ thông, Jack London được đưa vào giảng dạy ở bậc Trung học cơ
sở. Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, học sinh Trung học cơ sở được học 26 bài văn
học nước ngoài từ lớp 6 đến lớp 9, phân loại như sau:
1.Trung Quốc: 5 bài (Thần thoại "Nữ Oa vá trời", truyện cổ "Cây bút thần", thơ Lý
Bạch "Xa ngắm thác núi Lư", "Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh" và "Khúc hát hái sen", thơ
Đỗ Phủ "Kể lại ở Thạch Hào", "Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu" và truyện ngắn "cố
hương" của Lỗ Tấn).
2.Nhật Bản: 1 bài (Truyền thuyết "Điệu múa của nàng tiên áo lông công")
3.Ấn Độ: 1 bài (Thơ "Mây và sóng" của Tagore)
4.Hy Lạp: 1 bài (Thần thoại "Hêraklex đi âm những quả táo vàng").
5.Pháp: 4 bài (Thơ ngụ ngôn của La Phông Ten "Thơ và rùa", "Lão nông và các con",
kịch của Môlie "Ông Juôc Đanh muốn trở thành bác học", truyện ngắn của Môpaxăng "Bố
của Ximông" và truyện ngắn của ĐôĐê "Đàn gia súc trở về").
6.Tây Ban Nha: 2 bài (Trích đoạn tiểu thuyết "Đôn Kihôtê" của Xocvantex và "Chùm
thơ" của Gacxia Lorca).
7.Nga: 5 bài (" Ông lão đánh cá và con cá vàng" của Puskin, các trích đoạn "Thời thơ
ấu" của Gorki, "Luyxecnơ" của L. Tônxtôi, "Lòng yêu nước" của Êrenbua và "Người thầy
đầu tiên" của Aimatôp).
8.Anh: 1 bài ("Rôbinsơn ngoài đảo hoang" của Điphô).
94
9.Mỹ: 2 bài ("Con chó Bấc" của Lơnđơn và "Chiếc lá cuối cùng" của O'Henry).
10.Các nước khác: 4 bài ("Cuộc thi tài kỳ lạ" - thần thoại Bắc Âu, "Cô bé bán diêm" -
truyện Anđecxen - Đan Mạch, "Chú bé tí hon" - truyện cổ Grim - Đức và truyện ngụ ngôn
Hungari "Hai chú gấu tham ăn").
So với 5 bài thuộc văn học Trung Quốc, 5 bài thuộc văn học Nga và 4 bài thuộc văn học
Pháp thì 2 bài của văn học Mỹ chưa nhiều bằng, nhưng trong tương quan chung thì văn học Mỹ
như vậy là có vị trí tương đối với hai nhà văn lớn của ữuyện ngắn hiện đại Mỹ.
Ở cấp Trung học cơ sở, phần văn học nước ngoài có những yêu cầu và mục đích riêng,
phù hợp với học sinh ở lứa tuổi này. Chúng tôi trích lại phát biểu của Vụ trưởng Vụ Trung học
Phổ thông - Bộ Giáo dục và Đào tạo (Vũ Quốc Anh) trong bài "Văn học nước ngoài trong
chương trình môn văn phô thòng Trung học" trên tạp chí Văn học nước ngoài (số 1/1996) về
chương trình văn học nước ngoài ở bậc Trung học cơ sở, xem như là những cơ sở của việc
tuyển chọn tác giả và tác phẩm : “Ở cấp Trung học cơ sở, chương trình văn học nước ngoài
không lấy việc cung cấp cho học sinh những tri thức về lịch sử phát triển, về trường phái
nghệ thuật, về thi pháp ... làm mục đích chả yếu mà qua từng tác phẩm của các nhà văn
quen thuộc và nổi tiếng trên thế giới, những tác phẩm vừa vôi trình độ nhận thức, hợp với
tâm lý lứa tuổi, có ích cho việc bôi dưỡng tư tưởng - tình cảm - nhận thức thẩm mỹ, giúp
học sinh thấy được và tiếp nhận được những giá trị lung linh của những tác phẩm văn học
vô giá trong kho tàng của văn học nhân loại (...).
Tầm hiểu biết của các em được mở rộng qua sự tiếp cận với những tác phẩm thấm
đẫm giá trị nhân văn, những tác phẩm đầy sức hấp dẫn, những hình tượng nghệ thuật độc
đáo và đặc sắc mang giá trị cổ điển, có tác dụng to lớn trong việc bôi dưỡng những ánh cảm
cao thượng, ánh yêu đối với đất nước - quê hương và con người, ý chí, nghị lực, niềm tin ...
của những nhà văn lớn thuộc nhiều nền văn học trên thế giới” [1,248-249].
Jack London được đưa vào giảng dạy với đoạn trích "Con chó Bấc" không ngoài những
yêu cầu và mục đích trên.
95
4.2.Jack London trong nội dung giảng dạy và học tập
4.2.1.Ở bậc Đại học và Cao đẳng
4.2.1.1.Nội dung giới thiệu Jack London:
Mặc dù trong chương trình chung ở bậc Đại học và Cao đẳng không qui định bài dạy về
Jack London, nhưng ông ít nhiều được nhắc đến khi giáo viên giới thiệu tiến trình chung của
văn học Mỹ hay nhà văn Hemingway, nhằm mục đích mở rộng, cung cấp kiến thức hay đối
chiếu, so sánh ...
Trong bộ sách "Văn học phương Tây" của Bộ Giáo dục và Đào tạo, bộ sách dùng chung
cho các trường Đại học Sư phạm, trong giáo trình "Văn học nước ngoài" dành cho các trường
Cao đẳng Sư phạm và trong một số giáo trình văn học phương Tây ở các trường chuyên ngành
Sư phạm thì Hemingway là nhà văn đại diện cho văn học Mỹ được giới thiệu đầy đủ và sâu sắc
nhất về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác, về các tác phẩm tiêu biểu, về những sáng tạo mới của
nghệ thuật truyện ngắn và tiểu thuyết (có bài giới thiệu riêng). Tuy nhiên, không phải vì thế mà
Jack London không được giới thiệu trong quá trình giảng dạy. Chương bốn của phần "Văn học
thế kỷ XX" trong bộ sách "Văn học phương Tây" (NXB. Giáo dục, 1997) là chương về nhà
văn Ernest Hemingway, trong đó có giới thiệu một số nét chung và chưa đầy đủ về nhà văn
Jack London.
Qua thực tế tìm hiểu, được biết một số trường, cụ thể là Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn TP.HCM, Đại học Sư phạm TP.HCM, Đại học Cần Thơ, Cao đẳng Sư phạm
TP.HCM, Cao đẳng Sư phạm Long An và Cao đẳng Sư phạm Cần Thơ, đều có nội dung giới
thiệu những nét cơ bản, hoặc về cuộc đời, hoặc sự nghiệp sáng tác của Jack London khi giảng
dạy về văn học Mỹ, hoặc về nhà văn Hemingway. Riêng hai trường Đại học Sư phạm TP.HCM
và Đại học Cần Thơ, dường như "mặn mòi" với nhà văn Jack London hơn cả khi có chuyên đề
riêng (Đại học Sư phạm TP.HCM) hoặc dành thời gian tương đối nhiều (Đại học Cần Thơ) cho
nhà văn này.
Có thể nói, Jack London có vị trí khá khiêm tốn trong các giáo trình cũng như ương nội
dung giảng dạy ở bậc Đại học và Cao đẳng. Song tùy theo quan điểm cũng như yêu cầu riêng
của một số trường, ông được đưa vào giảng dạy dưới hình thức chuyên đề hoặc giới thiệu
96
,khẳng định sự quan tâm đối với nhà văn hiện thực Mỹ này.Theo chúng tôi, sở dĩ có tình trạng
này là do nhiều yếu tố :Jack London là nhà văn hiện thực Mỹ nổi tiếng và có nhiều tác phẩm có
sức hấp dẫn, là nhà văn thuộc thế hệ đàn anh gần nhất với nhà văn Hemingway,là nhà văn được
giảng dạy trong chương trình phổ thông...và trên hết là do nhu cầu tiếp nhận Jack London của
các đối tượng giảng dạy và học tập trong nhà trường.
Chương "Ơnixt Hêminguây", phần "Văn học thế kỷ XX" trong bộ sách "Văn học
phương Tây" do Đặng Anh Đào viết, tuy Jack London được đề cập đến trong những hàng ngắn
ngủi, nhưng có ý nghĩa minh họa cho sự phát triển của nền văn học Mỹ với sự khẳng định vị trí
của Jack London và phong cách nghệ thuật của nhà văn mà chủ yếu là để làm nổi rõ sự đóng
góp trong quá trình đổi mới nghệ thuật của Hemingway - nhà văn tiếp nối, thuộc thế hệ sau của
Jack London. Do vậy, cuộc đời và sự nghiệp Jack London chưa được chú trọng giới thiệu.
Trường Đại học Sư phạm TP.HCM trong chuyên đề "Jack London", đã giới thiệu khá cụ
thể, đầy đủ về cuộc đời và sự nghiệp của Jack London trong ý nghĩa Jack London là nhà văn vô
sản Mỹ đầu tiên, chú ý phân tích vấn đề đấu tranh sinh tồn trong cuộc đời và trong một số tác
phẩm cụ thể của Jack London.
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM trong bài giảng về văn học Mỹ ở
thế kỷ XIX, có đề cập đến Jack London, xuất phát từ gốc độ xem Jack London là nhà văn tự
nhiên chủ nghĩa mà nổi lên xuyên suốt trong hệ thống tác phẩm của ông là chủ đề "khát vọng
sống".
Trường Đại học Cần Thơ giới thiệu Jack London trong ý nghĩa ông là một trong những xu
hướng văn học hiện thực Mỹ với một số nét bản chất: Jack London thể hiện tư tưởng con đẻ
của chế độ tư bản nhưng chống lại tư bản, là nhà văn XHCN nhưng không giống những nhà
văn XHCN khác, nổi tiếng với những truyện phiêu lưu và viết phiêu lưu cố tính chất triết lý.
Trong khi chưa có giáo trình và sách tham khảo của Bộ Giáo dục nghiên cứu toàn diện về
nhà văn này, những vấn đề mà các chuyên đề và các bài giảng đặt ra có ý nghĩa khơi gợi và bổ
sung kiến thức về văn học Mỹ nói chung và về nhà văn hiện thực Mỹ Jack London nói riêng.
Jack London được giảng dạy ở cấp Trung học cơ sở (lớp 7), nhưng giáo trình văn học
nước ngoài dùng trong chương trình Cao đẳng Sư phạm không có dòng nào nhắc đến Jack
97
London. Jack London vì vậy được giới thiệu theo cách nhìn và cảm hứng của người dạy. Nhìn
chung, một số trường Cao đẳng Sư phạm phía Nam có giới thiệu và liên hệ đến Jack London
khi giảng dạy văn học Mỹ hoặc Hemingway, nhưng sự chú trọng hay điểm qua vài nét về nhà
văn này ở các trường không như nhau.
Trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM điểm qua sự đóng góp của Jack London trong tiến
trình chung của văn học Mỹ. Trường Cao đẳng Sư phạm Tiền Giang giới thiệu những đặc điểm
tiêu biểu về phong cách theo bộ "Văn học phương Tây" ở bậc Đại học. Trường Cao đẳng Sư
phạm Cần Thơ giới thiệu Jack London theo như phần tư liệu bổ sung trong sách "Giáo viên -
Văn học 7". Đặc biệt, truyện ngắn "Tình yêu cuộc sống" của Jack London hầu như được quan
tâm giới thiệu, thậm chí cố trường giảng khá kỹ về tác phẩm này (Cao đẳng Sư phạm Cần
Thơ).
Do mục đích giới thiệu của các trường không trùng nhau, do nội dung giới thiệu ở các
trường khái quát, cụ thể hay tổng hợp, chi tiết khác nhau, giới thiệu toàn bộ hay một mặt nào
đó, nên yêu cầu đối với sinh viên cũng không giống nhau. Hầu hết các trường chỉ giới thiệu qua
mà không yêu cầu sinh viên đọc tác phẩm. Riêng trường Đại học Sư phạm TP.HCM có bài tập
"chọn phân tích một trong những tác phẩm của Jack London mà bạn yêu thích".
Jack London được nhắc đến không nhiều trong giáo trình. Vì không phải tác giả và tác
phẩm nào được dạy ở Phổ thông cũng được cung cấp kiến thức ở bậc Đại học và Cao đẳng, nên
có thể xem việc giới thiệu Jack London dù ở khía cạnh nào cũng là sự cung cấp kiến thức kịp
thời và cần thiết đối với sinh viên. Tuy nhiên, thực tế trên cũng ảnh hưởng đến hoạt động học
tập và tiếp nhận Jack London của sinh viên, có phần thiên về cảm tính hơn là nhu cầu cần thiết
tìm hiểu và nghiên cứu nhà văn này.
4.2.1.2.Điều tra thực tế:
Điều tra thực tế về tình hình giảng dạy và học tập tác giả Jack London, chúng tôi chọn đối
tượng là sinh viên mà khi ra trường là giáo viên cấp Trung học cơ sở có giảng dạy đoạn trích
"Con chó Bấc" trong chương trình Văn lớp 7: Trường Cao đẳng Sư phạm TP.HCM, Trường
Cao đẳng Sư phạm Tiền Giang và trường Cao đẳng Sư phạm Cần Thơ.
98
99
4.2.2.Ở Trường trung học cơ sở:
4.2.2.1.Nội dung giảng dạy và học tập:
Trong sách giáo khoa, "Con chó Bấc" là đoạn trích ngắn nhưng khá ấn tượng về mối
quan hệ gắn bó, khắng khít, nghĩa tình giữa người và vật trong tác phẩm "Tiếng gọi nơi hoang
dã" (do Nguyễn Công Ái và Vũ Tấn Phương dịch). Do vậy, hai tiết là thời gian mà học sinh có
thể tìm hiểu và phân tích sâu sắc những nội dung mà tác giả thể hiện. Phần hướng dẫn học bài
giúp học sinh chuẩn bị bằng những câu hỏi gợi ý xoay quanh những chi tiết cụ thể biểu hiện
tình cảm của người chủ Thoóc Tơn đối với con chó Bấc và tình cảm của con chó Bấc đối với
chủ, cũng như nghệ thuật miêu tả và tình yêu thương loài vật của tác giả:
100
1. Xác định bố cục của bài văn theo trật tự diễn biến:
- Mỏ đầu
- Tình cảm của Thoóc Tơn đối với con chó Bấc
- Tình cảm của con chó Bấc đối với chủ
2.Cách cư xử của Thoóc Tơn đối với con chó Bấc có gì đặc biệt ? Biểu hiện ra ở những
chi tiết nào ? Tại sao ữước khi diễn tả tình cảm của Bấc đối với chủ, nhà văn lại dành một đoạn
để nói về tình cảm của Thoóc Tơn đối với Bấc ?
3.Tình cảm của Bấc đối với chủ biểu hiện qua những khía cạnh khác nhau như thế nào ?
Chứng minh rằng nhà văn có tài quan sát khi viết đoạn văn này. Chứng minh trí tưởng tượng
tuyệt vời và lòng yêu thương loài vật của nhà văn khi ông đi sâu vào "tâm hồn" của Bấc.
Trong sách Giáo viên, bài "Con chó Bấc" cung cấp kiến thức và những gợi ý cụ thể về
yêu cầu bài giảng, hướng dẫn giảng dạy và phần tư liệu bổ sung. Yêu cầu của bài là nhận biết
sự cảm thụ của học sinh cũng như bồi dưỡng tình cảm cho học sinh. Từ văn bản đoạn trích
"Con chó Bấc", yêu cầu giáo viên dẫn dắt và gợi mở làm nổi rõ những nhận xét tinh tế của nhà
văn khi viết về loài vật, đồng thời cũng giúp cho học sinh nêu bật trí tưởng tượng tuyệt vời của
nhà văn khi đi sâu vào "tâm hôn" của con chó Bấc. Phần hướng dẫn giảng dạy gợi ý cụ thể về
tổ chức bài giảng, ngoài các phần mở đầu và tổng kết, có thành phần chính với các đề mục : Bố
cục bài văn và ý đồ của tác giả, tình cảm của Thoóc Tơn đối với con chó Bấc, những biểu hiện
tình cảm của con chó Bấc, "tâm hồn" của con chó Bấc và xác định hai phần sau là quan trọng.
Ngoài ra, còn có nhiều đầu sách tham khảo phục vụ cho việc học tập.
Về các sách tham khảo, có thể thây mục đích chung là bổ sung kiến thức và trả lời các câu
hỏi của sách giáo khoa hoặc gợi ý một số dàn bài làm văn. Do tất cả đều được biên soạn dựa
theo chương trình của sách giáo khoa, nên các bài viết về Jack London cũng nằm trong kết cấu
chung là giới thiệu về tác giả, xuất xứ, chủ đề, tóm tắt truyện, trả lời câu hỏi phần hướng dẫn
học bài và một số lời bình. Thông kê những đầu sách tham khảo có bài về Jack London, có thể
phân chia thành hai loại: Loại bổ sung kiến thức phục vụ cho giảng văn (6 quyển gồm sổ tay
Văn học lớp 7, Để học tót Văn học lớp 7 ...) và loại hướng dẫn tập làm văn (4 quyển bao gồm
dàn bài và bài văn mẫu, gồm Hướng dẫn tập làm văn và Những bài làm văn chọn lọc). Hầu hết
101
nội dung giới thiệu và nghiên cứu của các sách là tập trung chủ yếu vào đoạn trích giảng “Con
chó Bấc”. Tác giả nêu vài nét chính về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác với những nhận định
chung : "Jack London là nhà văn hiện thực Mỹ nổi tiếng đâu thế kỷ 20" (Tạ Đức Hiền - Sổ
tay Văn học lớp 7, Nguyễn Bích Thuận - Để học tốt Văn học lớp 7), Jack London được mệnh
danh là "Gorki của văn học Mỹ" (Nguyễn Xuân Lạc, Kiến thức cơ bản Văn - tiếng Việt tập 2),
"đã trải qua một thời kỳ thơ ấu rất vất vả, từng phải làm nhiều nghề để sinh sống" (Trần Văn
Sáu, Đặng Văn Khương - Giải bài Văn học, Chu Huy - Bình giảng tác phẩm văn học, Tạ Đức
Hiền - sổ tay Văn học lớp 7), "Lơnđơn sáng tác nhiêu truyện ngắn, truyện vừa và tiểu thuyết
với đê tài đa dạng, cốt truyện hấp dẫn, lời vấn rất cuốn hút, biểu hiện những vấn đề xã hội
có ý nghĩa sâu sắc" (Nguyễn Xuân Lạc, Kiến thức cơ bản Văn - tiếng Việt tập 2).
Các sách Tập làm văn nhằm gợi ý dàn bài và giới thiệu một số bài văn mẫu với kiểu bài
phát biểu cảm nghĩ nhân vật văn học : Tình cảm và hành động của " Con chó Bấc " gợi cho em
những cảm xúc và suy nghĩ gì ? Cảm nghĩ của em về nhân vật con chó Bấc ... Tuy nhiên, hầu
hết các dàn bài đều phát triển từ các ý ở bài giảng văn, thêm phần cảm nghĩ.
4.2.2.2.Điều tra thực tế:
Đối tượng điều ưa là một số giáo viên ở các trường như Colette, Bán công Tân Bình
(TP.HCM), Đoàn Thị Điểm, Bán công Phan Ngọc Hiển (TP. cần Thơ), Võ Thị Sáu và Bán
công Nguyễn Việt Khái (Thị xã Cà Mau).
102
Đối tượng điều tra là học sinh ở các trường tương ứng trên TP. Hồ Chí Minh: Colette và
Bán công Tân Bình, TP. Cần Thơ: Đoàn Thị Điểm và Bán công Phan Ngọc Hiển, Thị xã Cà
Mau : Trường Trung học cơ sở Võ Thị Sáu và trường Bán công Nguyễn Việt Khái.
103
4.3.Nhận xét chung về vấn đề giảng dạy và học tập Jack London trong nhà trường.
Nếu như độc giả công chúng ngoài xã hội là những đối tượng thuộc nhiều trình độ, lứa
tuổi, nghề nghiệp khác nhau thì độc giả trong nhà trường-một loại độc giả đặc biệt- lại có
104
những đặc điểm chung về lứa tuổi , tâm sinh lý, trình độ văn hóa và cả môi trường hoạt động.
Như những độc giả khác, tầm tiếp nhận văn học của những độc giả trong nhà trường cũng chịu
sự chi phối của các điều kiện sống, điều kiện xã hội,chính trị...nhưng đồng thời họ (cụ thể là
sinh viên,học sinh)còn chịu sự chi phối của mục đích,yêu cầu giáo dục-đào tạo và phát triển
trong nhà trường. Tầm tiếp nhận của sinh viên, học sinh vì vậy mang tính đồng đều tương đối,
tính hệ thống theo định hướng chung của bộ môn của chương trình, giáo trình, sách giáo khoa
và của thầy cô.
Về việc tiếp nhận Jack London,học sinh ở phổ thông được định hướng khi học bài "Con
chó Bấc", cụ thể là thông qua những mục đích yêu cầu cụ thể về kiến thức,về ý nghĩa giáo dục
và rèn luyệ kỹ năng của bài và thông qua việc định hướng,phân tích,địĩih lượng kiến thức của
giáo viên. Với sinh viên thì sự tiếp nhận tuy thuộc vào quan điểm của người dạy vì Jack
London không nằm trong chương ưình qui định. Nhưng rõ ràng tầm văn hoá của sinh viên là ở
mức độ cao hơn so với học sinh phổ thông nên yêu cầu tiếp nhận của họ cũng ở múc độ cao
hơn.
Là người bắc cầu nối giữa tác gỉả, tác phẩm và học sinh, sinh viên, người giáo viên có vai
trò quyết định trong việc mở rộng, nâng cao tầm đón nhận của sinh viên, học sinh, giúp họ
khắc phục khoảng cách với đối tượng được tiếp nhận. Dù là giáo viên ở trường phổ thông hay
trường Cao đẳng, Đại học thì yêu cầu chung trước hết vẫn phải là tiếp nhận những kiến thức cơ
bản nhất theo định hướng của chương trình, giáo trình, giáo khoa rồi sau đó là trau dồi trình độ
hiểu biết để không chỉ chuyển tải sự tiếp nhận của mình tới sinh viên, học sinh mà còn phải đưa
ra những kiến giải độc đáo, mới mẻ đầy sức thuyết phục. Với giáo viên phổ ứiông,nội dung và
mục đích giảng dạy Jack London đã được định hướng nhưng với giảng viên ở bậc Đại học và
Cao đẳng thì việc cung cấp kiến thức về Jack London cho sinh viên là tuy thuộc ở mỗi người
dạy. Và do vậy, họ có những nhu cầu tiếp nhận riêng.
Tuy nhiên, sự tiếp nhận của giáo viên, sinh viên và học sinh cũng còn tuy thuộc vào cá
tính, tâm lý, thị hiếu, hứng thú của mỗi cá nhân nên thực tế cho thấy không phải đối tượng nào
ở nhà trường khi tiếp nhận Jack London thì cũng đều có những suy nghĩ, tình cảm như nhau về
nhà văn và tác phẩm của ông.
* Về chương trình và nội dung giảng dạy:
105
Ở bậc Đai học và Cao đẳng:
Do chương trình văn học nước ngoài được xây dựng theo những qui định về thời gian, về
quan điểm tuyển chọn và giới thiệu, về nội dung truyền đạt ... nên có những nhà văn được
giảng dạy ở Phổ thông nhưng không có trong chương trình ở trường Đại học và Cao đẳng sư
phạm, trong đó có Jack London, . Tuy nhiên, ở một số trường Đại học và Cao đẳng mà chúng
tôi đã khảo sát ở trên, trong nội dung giảng dạy đều có giới thiệu Jack London, đều thể hiện sự
quan tâm ít nhiều về nhà văn này. Do đó, vài dòng nhận định trong bộ sách văn học phương
Tây về Jack London với mục đích so sánh để làm nổi rõ sự đóng góp của nhà văn Hemingway
như vậy là quá ít ỏi, chưa đầy đủ và thiếu toàn diện: "Jack London có thể được coi như thế hệ
trước Heminguây: Lối viết của ông cũng rất cổ điển. Ông thể hiện những nhân vật anh
hùng kiểu Mỹ, nhưng hãy còn cổ sơ và sống một cuộc đời sóng gió, ngang tàng, gần thiên
nhiên..."[77, 702]. Và cũng chính vì vậy mà nội dung giới thiệu ở các trường nhìn chung thiếu
nhất quán, không có định hướng chung.
Ở bậc Trung học cơ sở, trong tương quan chung với các tác giả của những nền văn học
khác, Jack London được đưa vào chương trình và quy định với thời gian giảng dạy hai tiết như
vậy là phù hợp, là thời gian mà học sinh có thể tìm hiểu và phân tích sâu sắc những nội dung
mà tác giả thể hiện.
Đoạn trích "Con chó Bấc" trong sách giáo khoa tuy ngắn nhưng khá ấn tượng về mối
quan hệ gắn bó, khắng khít, nghĩa tình giữa người và vật, phù hợp với đối tượng học sinh lớp 7.
Những kiến thức chung về tác giả, tác phẩm cũng như nội dung cụ thể hướng dẫn tìm hiểu bài
được trình bày tương quan với những bài văn học nước ngoài khác trong chương trình. Những
nội dung ấy được chọn lọc, sắp xếp và định hướng theo những quy định chung và đặc thù của
bộ môn, của chương tình phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi và trình độ của đối tượng
học sinh lớp 7 trong yêu cầu giáo dục, đào tạo và phát triển. Nó giúp học sinh tránh được việc
cảm thụ tản mạn, có khi lệch lạc hoặc không khái quát hóa được những nội dung - giá trị của
đoạn trích, sa vào những chi tiết vụn vặt và chủ quan trong cách đánh giá trước khi nghe giáo
viên giảng.
Với những bài văn trong chương trình nói chung, giáo viên bao giờ cũng hướng dẫn học
sinh phân tích theo một quan điểm đã được định hướng để giúp học sinh từng bước hiểu được
106
hệ thống giá trị có trong văn bản. "Quan điểm đã được định hướng" ấy được nêu rõ trong yêu
cầu và nội dung hướng dẫn giảng dạy ở sách giáo viên. Dù rằng sách giáo viên không phải là
pháp lệnh, nhưng là những gợi dẫn cần thiết với những mục đích thống nhất theo yêu cầu giáo
dục, đào tạo và phát triển.
Nếu như ở sách giáo khoa, bài "Con chó Bấc" yêu cầu học sinh chủ yếu là đọc và phát
hiện chi tiết theo nội dung gợi sẩn thì sách giáo viên nêu rõ những định hướng cụ thể về vai trò
của giáo viên trong việc phát huy khả năng cảm thụ và nhận biết của học sinh, cũng như bồi
dưỡng tình cảm cho học sinh. Tuy nhiên, phần hướng dẫn giảng dạy với những gợi ý về tổ
chức bài giảng, về những nội dung cần làm sáng tỏ cũng như những chi tiết cần minh họa còn
giới hạn ở mức độ khai triển và phân tích sâu hơn những câu hỏi ở phần hướng dẫn học bài. Do
đố, hầu như những nội dung chính mà giáo viên truyền đạt, học sinh đều đã có ý thức và chuẩn
bị trước. Nếu như giáo viên không chủ động sáng tạo trong cách đặt vấn đề cũng như bổ sung
thêm nội dung thì khó mà phát huy hết khả năng cảm thụ cũng như tư duy của học sinh đối với
bài văn này.
Riêng mục Tư liệu bổ sung đã cung cấp thêm những chi tiết tiêu biểu về cuộc đời nhà văn
từ thuở ấu thơ đến lúc ưưởng thành, tham gia hoạt động xã hội và viết văn. Một số tác phẩm mà
phần Tư liệu bổ sung nêu tuy chưa giới thiệu đầy đủ những tác phẩm tiêu biểu của Jack
London, nhưng có ý nghĩa nhất định đối với những giáo viên chưa được giới thiệu cũng như
không có tư liệu và tác phẩm của Jack London.
* Về thực tế điều tra:
Ở bậc Đại hoạ và Cao đẵng:
Có thể thấy sinh viên có nghe giới thiệu về Jack London, nhưng nhìn chung, Jack London
chưa gây ấn tượng mạnh đối với đa số sinh viên, thậm chí có ít nhiều sinh viên cho rằng chưa
được nghe giới thiệu về nhà văn này. Với câu hỏi về nhà văn được yêu thích nhất trong chương
trình văn học nước ngoài ở trường Cao đẳng Sư phạm, Jack London không nằm trong số những
nhà văn được sinh viên lựa chọn đầu tiên, nhưng luôn hiện diện trong danh sách những nhà văn
được yêu thích nhất (9,3%). Nhận định về Jack London, nhiều sinh viên cho rằng “Jack
London là một nhà văn Mỹ”, ít sinh viên khẳng định"Jack London là nhà văn hiện thực Mỹ"
và lại càng hiếm sinh viên biết Jack London là nhà văn vô sản Mỹ đầu tiên.
107
Có thể thấy, do chương trình và giáo trình quy định không có bài về Jack London và việc
giới thiệu Jack London chỉ nhằm liên hệ và mở rộng thêm về văn học Mỹ, hoặc một nhà văn
khác về một mặt nào đó nên số lượng sinh viên thật sự yêu thích và nghiên cứu tìm hiểu về tác
giả, cũng như có ý thức tìm đọc tác phẩm của Jack London chưa nhiều.
Trong thực tế, tác phẩm của Jack London được dịch tương đối nhiều, đặc biệt là tuyển tập
truyện ngắn Jack London liên tiếp được tái bản trong những năm gần đây, nhưng hầu như sinh
viên chỉ tập trung vào hai tác phẩm chính là "Tiếng gọi nơi hoang dã" và "Tình yêu cuộc
sống". Rất ít sinh viên đọc " Gót sắt", " Martin Eden" và những truyện ngắn khác. "Tiếng gọi
nơi hoang dã" được chú ý bởi đó là tác phẩm có đoạn trích được giảng dạy ở chương trình
Trung học cơ sở. "Tình yêu cuộc sống" được đọc nhiều vì là truyện ngắn được nhắc đến nhiều
nhất trong toàn bộ truyện ngắn của Jack London và còn vì như đã nói, "Tình yêu cuộc sống"
được quan tâm giới thiệu nhiều hơn những tác phẩm khác trong nội dung giảng dạy Jack
London.
Với câu hỏi "Đoạn trích Con chó Bấc trong chương trình lớp 7 có phù hợp không ?",
số đông sinh viên cho là phù hợp với đôi tượng học sinh lớp 7. Ở bậc Tiểu học, văn học nước
ngoài nhằm mục đích khêu gợi trí tưởng tượng và trí thông minh của học sinh, giáo dục cho các
em biết yêu cái đẹp, quý điều thiện, ghét cái ác, biết yêu đất nước và con người. Đoạn trích
"Con chó Bấc" với nội dung thể hiện tình cảm thắm thiết, gắn bó giữa người và vật, ở cấp lớp
còn gần với bậc Tiểu học, như vậy là phù hợp với đối tượng học sinh lớp 7.
Ở cấp Trung học cơ sở:
Với đối tượng điều tra là giáo viên, cho thấy Jack London không phải là nhà văn được
yêu thích nhất, cụ thể là ở những trường có nêu tên Jack London thì ông cũng nằm sau một số
nhà văn - nhà thơ các nước khác, kể cả nhà văn Mỹ 0'Henry. Thậm chí trong danh sách kể tên
tác giả được yêu thích nhất của các giáo viên trường Phan Ngọc Hiển (Cần Thơ) và trường Võ
Thị Sáu (Minh Hải) không có tên nhà văn Jack London (chiếm 14,5%).
Qua tìm hiểu, được biết dạ sô' giáo viên cho rằng đoạn trích "Con chó Bấc" trong "Tiếng
gọi nơi hoang dã" của Jack London đưa vào chương trình văn học lớp 7 là phù hợp với đôi
tượng học sinh. Nhưng đối với giáo viên, đoạn trích được lựa chọn để giảng dạy dù có thể hiện
trí tưởng tượng tuyệt vời, những nhận xét tinh tế và tài năng của nhà văn thì nó cũng là truyện
108
về loài vật thông qua sự tưởng tượng của nhà văn. về loài vật, giáo viên cũng đã từng giảng
"Hai chú gấu tham ăn", "Đàn gia súc trở về", “Thỏ và rùa” trong mảng văn học nước ngoài
và "Dế mèn phiêu lưu ký" của Tô Hoài trong mảng văn học Việt Nam. Do đó, giáo viên một
mặt cảm thấy đề tài của bài văn là quen thuộc, mặt khác lại thích những tác giả có những bài
được giảng dạy thể hiện những vấn đề về cuộc sống phức tạp, về số phận con người...
"Tiếng gọi nơi hoang dã", tác phẩm của đoạn trích "Con chó Bấc", là tác phẩm được đọc
nhiều nhưng rải rác ở các trường vẫn có những người chưa hề đọc qua. Do vậy, những tác
phẩm còn lại của Jack London càng ít được tiếp xúc.
Từ địa bàn điều tra, có thể thấy ở những trường thuộc các tỉnh xa TP. Hồ Chí Minh (Cần
Thơ, Minh Hải...), giáo viên dường như hài lòng với những định hướng gợi ý và tư liệu của
sách giáo viên. Rất ít người phát hiện hay sáng tạo thêm những ý mới khi soạn và giảng. Trong
khi đó, ở TP. Hồ Chí Minh thì ngược lại, chẳng hạn như thay đổi trình tự phân tích nội dung
bài văn, lý giải vì sao chỉ có G. Thoóc Tơn mới khơi dậy được tình cảm mới mẻ của Bấc hoặc
cho học sinh phát biểu suy nghĩ trước nỗi ám ảnh lo sợ của Bấc ...
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc giáo viên ít đọc tác phẩm của Jack London, lệ thuộc
vào sách giáo khoa và sách giáo viên: Thư viện trường không có hoặc không nhiều tác phẩm
của nhà văn này. Giáo viên không được trang bị hoặc chỉ nghe giới thiệu một số nét chung về
nhà văn, ngay giáo trình văn học nước ngoài ở trường Cao đẳng Sư phạm cũng chưa đề cập tới.
Bộ phận văn học nước ngoài nói chung là mảng khó dạy so với văn học Việt Nam, vì thiếu tư
liệu và vì trở ngại của hàng rào ngôn ngữ. Hơn nữa, bài "Con chó Bấc" trong chương trình
được giảng dạy vào những tiết cuối năm học nên tâm lý chung của giáo viên đầu tư cho việc ôn
tập và kiểm tra học kỳ 2.
Với đối tượng điều tra là học sinh, có thể thấy các em đã được nghe giới thiệu về Jack
London và thích học bài "Con chó Bấc". Tuy nhiên, đại đa số học sinh không đọc tác phẩm của
nhà văn này, đặc biệt ở cả ba trường (Phan Ngọc Hiển, Võ Thị Sáu và Nguyễn Việt Khái),
những học sinh được điều tra đều trả lời chưa đọc tác phẩm. Trong sự lựa chọn bài yêu thích
nhất (thuộc văn học nước ngoài), có sự trùng hợp ngẫu nhiên ở các trường được điều tra là "Cô
bé bán diêm", "Chú bé tí hon", "Bố của Xi Mông" và "Chiếc lá cuối cùng" là những bài
109
được kể đến hàng đầu. Bài "Con chó Bấc" ở mỗi trường đều có học sinh yêu thích, nhưng với
số lượng ít (9%).
Việc không đọc tác phẩm của Jack London đối với học sinh là rất bình thường, bởi lẽ qua
thực tế cho thấy, không riêng gì với đoạn trích "Con chó Bấc" mà với tất cả các đoạn trích
khác, học sinh cũng không đọc tác phẩm có đoạn trích ấy do không có tác phẩm hoặc do không
cố thói quen đọc tác phẩm dài, do giáo viên không yêu cầu đọc hoặc do học sinh tự thấy không
cần thiết phải đọc. Vì vậy, chỉ những học sinh thật sự yêu thích mới tìm đọc tác phẩm. Những
bài được học sinh thích nhất là những truyện mang màu sắc cổ tích và thần kỳ (Chú bé tí hon,
Cây bút thần, Cô bé bán diêm ...), hoặc là những câu chuyện cảm động về con người (Cô bé
bán diêm, Chiếc lá cuối cùng, Bố của Xi Mông ...), cho nên với đề tài về loài vật mà học sinh
đã từng học thì đoạn trích "Con chó Bấc" là hình ảnh của một con chó thật, nhưng được miêu
tả bằng trí tưởng tượng của nhà văn dường như khó tạo được ấn tượng mới lạ cũng như được
yêu thích nhất, dù rằng cách miêu tả - trí tưởng tượng của nhà văn phong phú và tinh tế. Mặc
dù vậy, vẫn có nhiều học sinh thích học “Con chó Bấc” cũng có nghĩa là việc đưa đoạn trích
này vào là hợp lý.
4.4.Một số đề xuất về vấn đề giảng dạy Jack London trong nhà trường
* Về giáo trình ở trường Cao đẳng sư phạm:
Cho đến nay, ở trường Cao đẳng Sư phạm chỉ có giáo trình "Văn học nước ngoài" dùng
trong các trường Cao đẳng Sư phạm - Đào tạo giáo viên Tiểu học do Lưu Đức Trung chủ biên
và giáo trình này không có dòng nào nhắc đến Jack London. Còn lại thì hầu như các trường sử
dụng bộ sách "Văn học phương Tây" dùng chung cho các trường Đại học Sư phạm làm tài liệu
chính, trong đó Jack London được đề cập qua nhận định của Đặng Anh Đào như đã nêu ở trên.
Theo chúng tôi, giáo trình cần có phần nghiên cứu cụ thể hơn về cuộc đời, sự nghiệp cũng như
giá trị tác phẩm của nhà văn vì những lý do sau:
- Trong chương trình văn học nước ngoài ở trường Đại học và Cao đẳng Sư phạm, việc
chọn nhà văn Hemingway mà không phải là Jack London, đưa vào chương trình giảng dạy với
ý nghĩa: Đó là nhà văn hiện thực Mỹ tiêu biểu, có những đóng góp vào việc đổi mới nghệ thuật
viết truyện, là nhà văn đã đoạt giải thưởng Nobel như vậy là hợp lý. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy ở nhiều trường, Jack London được giới thiệu nhưng không thống nhất về nội dung giới
110
thiệu, cũng như không theo một định hướng chung nào. Ngoài "Từ điển văn học" mà sinh viên
khó có được, giáo trình và bộ sách "Văn học phương Tây" là sách công cụ giúp sinh viên có tư
liệu để hiểu đầy đủ và xác đáng về nhà văn Jack London.
- Ở cấp Trung học cơ sở, theo phân bố chương trình, giáo viên dạy đoạn trích "Con chó
Bấc" trích từ "Tiếng gọi nơi hoang dã" của Jack London trong hai tiết, nhưng ở trường Cao
đẳng Sư phạm, họ gần như biết về nhà văn này rất ít và nhiều khi biết ở những khía cạnh khác
nhau. Ngay giáo trình văn học nước ngoài cũng chưa đề cập đến Jack London hoặc nếu có thì
cũng chưa khái quát. Sách giáo khoa và sách giáo viên chỉ có ý nghĩa hỗ trợ thêm những kiến
thức tối thiểu về nhà văn, tác phẩm và thường cũng chỉ giới hạn ở phạm vi của bài dạy. Một khi
đã có đủ tư liệu cũng như đã được trang bị, nhận thức cặn kẽ về nhà văn và tác phẩm của ông
ta, đã thấy nhà văn là quen rồi thì giáo viên mới không lúng túng, bị động khi soạn và giảng
bài.
*Về chương trình giảng dạy:
Văn học nước ngoài hiện đã chiếm một tỷ trọng đáng kể trong chương trình môn văn ở
các trường Đại học, Cao đẳng Sư phạm và bậc Phổ thông. Với nhu cầu hội nhập và giao lưu
văn hóa, khuynh hướng chung hiện tại là tăng nội dung cho mảng văn học nước ngoài. Jack
London là nhà văn đã được nghiên cứu và giới thiệu ở miền Nam từ rất lâu và là nhà văn hiện
thực Mỹ đầu tiên được dịch và giới thiệu ở miền Bắc. Công chúng Việt Nam vốn đã quen thuộc
với nhà văn. Đối tượng sinh viên - học sinh tuy không đặt Jack London lên vị trí hàng đầu của
những nhà văn được yêu thích nhất, nhưng vẫn có sự quan tâm đáng kể đến nhà văn. Đặc biệt,
một số trường Đại học và Cao đẳng Sư phạm đã giới thiệu ít nhiều về nhà văn ương nội dung
giảng dạy. Mặt khác, chương trình ở Đại học và Cao đẳng quy định giảng dạy Hemingway mà
"Jack London có thể được coi như thế hệ trước Hemingway", cũng được xem là một trong
những nhà văn cuối cùng theo nghệ thuật viết văn đã được định hình ở thế kỷ XIX trước khi
văn xuôi Mỹ và thế giới có sự bùng nổ của những cách tân mà đại diện là Hemingway. Có điều
rõ ràng hơn nữa là sự giống nhau của hai nhà văn, ngoài ý thích phiêu lưu, ngoài quan điểm về
sáng tác thì còn giông nhau về nhận thức cuộc sống, xã hội, khát vọng, niềm tin đối với con
người... dù rằng họ ở vào hai thời kỳ khác nhau. Với những lý do trên, chúng tôi thiết nghĩ đưa
Jack London vào chương trình giảng dạy ở bậc Phổ thông Trung học là cần thiết, hợp lý và có
111
những ý nghĩa nhất định. Bởi trên cơ sở vốn tri thức về Jack London ở lớp 7, học sinh cấp 3 có
khả năng tiếp nhận một cách sâu sắc và hệ thống hơn về nhà văn, giúp các em nâng cao trình
độ hiểu biết lên một bước mới về nhà văn, gắn với những yếu tố về cuộc đời, thời đại, tác phẩm
...
* Về nội dung ở sách Giáo viên:
Có thể nói, ương tình hình chung, giáo viên nhiều nơi chưa có đầy đủ sách công cụ và
sách tham khảo về văn học Mỹ, về nhà văn Jack London thì sách Giáo viên với những gợi dẫn
về giảng dạy bài "Con chó Bấc" có ý nghĩa lớn trong việc định hướng và cung cấp những nội
dung cụ thể, cần thiết tối thiểu giúp giáo viên có cơ sở để chủ động soạn giảng cùng với sự
sáng tạo của mình, tránh lúng túng, bị động và tránh thái độ "ngại" mảng văn học này.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, hai nội dung sau ữong phần phân tích (Những biểu hiện tình
cảm của con chó Bấc và "tâm hồn" của con chó Bấc) theo gợi ý của sách Giáo viên nên chăng
gom lại thành một đề mục “Tình cảm, tâm hồn của con chó Bấc”, vừa thể hiện sự tập trung
vào nhân vật con chó Bấc trong kết cấu của phần phân tích, vừa tránh trùng lặp ý, vừa cho thấy
sự tương ứng giữa việc phân tích các ý với cách chia bố cục. Việc phân ra tách bạch "ánh cảm"
và "tâm hồn" e rằng dẫn đến cách nghĩ đây là hai nội dung khác nhau mà có thể xem nội dung
này chính hơn nội dung kia. Thực ra, những biểu hiện về "tâm hồn" của con chó Bấc cũng
chính là những biểu hiện cụ thể về tình cảm của con chó Bấc đối với chủ.
Ngoài ra, từ thực tế là các đề mục phân phân tích tương ứng với các câu hỏi Hướng dẫn
học bài ở sách giáo khoa, chúng tôi nghĩ nên có thêm nội dung phân tích không nằm trong các
câu hỏi Hướng dẫn học bài nhằm tìm hiểu và phát huy suy nghĩ, liên tưởng bất ngờ của học
sinh (vốn không được chuẩn bị ở bài soạn). Chẳng hạn như: So sánh nhân vật con chó Bấc với
một số nhân vật loài vật có nghĩa có tình trong bài "Đàn gia súc trở về", “Ông lão đánh cá và
con cá vàng” hay cảm xúc và suy nghĩ của em về tình cảm và hành động của con chó Bấc ?
Hoặc nêu ý nghĩa mà học sinh tự rút ra từ bài học,...
* Về việc tuyển chọn tác phẩm:
Theo chúng tôi, đoạn trích "Con chó Bấc" được tuyển chọn giảng dạy ở cấp lớp 7 với ý
nghĩa là đoạn thể hiện tài năng quan sát - miêu tả, tâm hồn của nhà văn và với mục đích bồi
112
dưỡng cho học sinh lòng yêu thương loài vật như vậy là phù hợp. Cụ thể, đa số học sinh được
điều tra đều thích học bài "Con chó Bấc" (96,9%). Tuy nhiên, nếu như Jack London được đưa
vào chương trình giảng dạy ở bậc Phổ thông Trung học thì cần có tác phẩm khác phù hợp với
trình độ học sinh. Theo cách nghĩ của mình, chúng tôi đề xuất hai tác phẩm : "Tình yêu cuộc
sống" và "Gót sắt".
Là nhà văn hiện thực lớn của nước Mỹ đầu thế kỷ XX, Jack London cũng là "nhà văn có
tác phẩm được biết đến rộng rãi nhất trong thời đại của ông". Ngoài những tiểu thuyết nổi
tiếng như "Gót sắt" và "Martin Eden", về sáng tác truyện ngắn, Jack London cũng được xem
như một bậc thầy lớn với khoảng 200 truyện. Trong toàn bộ truyện ngắn của Jack London,
"Tình yêu cuộc sống" là tác phẩm một mặt thể hiện trọn vẹn nhất chủ đề chính trong sáng tác
của Jack London là khát vọng sống, mặt khác nó đã đưa ông vào hạng những nhà văn được
công chúng rộng rãi yêu mến. "Tình yêu cuộc sống" là "một truyện có dung lượng nhỏ nhưng
ý nghĩa lớn và được công chúng toàn thế giới ngưỡng mộ" (Những nền văn minh thế giới).
"Tình yêu cuộc sống" xứng đáng là một kiệt tác khỉ nổ đã bảo vệ được cái chất người trong
một hoàn cảnh đấu tranh sinh tồn dễ làm cho người ta lẫn lộn giữa nhân tính và thú tính"
[73, 50 ]. Trong "Tình yêu cuộc sống", "Trong cách miêu tả của nhà văn, chính tình yêu
cuộc sống đã tạo ra cho con người những khả năng kỳ lũy khiến nó vượt qua được những
thử thách gay go nhất, chịu đựng được những thiếu thốn nghiêm trọng nhất, bảo tồn được
sự sống và vươn lên thắng lợi" [41, 10].
Trong "Tình yêu cuộc sống", đoạn miêu tả cuộc vật lộn ghê gớm và cuộc tranh chấp kỳ
dị giữa người và sói “cả hai đều đói lả, kiệt sức, chỉ chực miếng mồi của mình gục xuống”,
với chiến thắng vẻ vang thuộc về con người là đoạn văn hay và gây ấn tượng mạnh nhất. Con
người đã vùng dậy đấu tranh trong những giây phút thập tử nhất sinh để được sống. Bản năng,
khả năng và ý chí của con người trước những thử thách gay go và quyết liệt được thể hiện tiêu
biểu nhất là ở đây.
"Gót sắt" là tiểu thuyết nổi tiếng của Jack London, thể hiện tư tưởng ước mơ xã hội của
ông. "Đối với thời đại mà nó ra đời, "Gót sắt" quả thật là một tác phẩm độc đáo, có tiếng
vang dội to lớn trên thế giới" (Lê Đình Cúc). "Tiểu thuyết Gót sắt đã được lưu hành rộng rãi
ở Cựu thế giới" (Bách khoa toàn thư Anh Cát Lợi). "Gót sắt đã thành một tác phẩm cổ điển,
113
không những của tiên văn học tiến bộ Mỹ mà còn của kho tàng vấn học thế giới" (Vũ Cận).
Ở Việt Nam, "Gót sắt" là tác phẩm của Jack London, của nền văn học Mỹ, được dịch đầu tiên ở
miền Bắc (1960) và chiếm một vị trí đặc biệt (được nhắc đến nhiều nhất và được chọn phân
tích riêng) trong những bài viết của các nhà nghiên cứu: Jack London và cuộc đấu tranh giai
cấp - đấu tranh dằn tộc (Lê Đình Cúc), Giấc mơ đâu thế kỷ của Jack London (Đỗ Đức Dục).
"Gót sắt" được viết trong thời kỳ đầu Jack London đến với chủ nghĩa xã hội. Tác phẩm đã phản
ánh cuộc đấu tranh giai cấp khốc liệt ở xã hội Mỹ đầu thế kỷ XX, nhằm tố cáo, lên án chủ
nghĩa tư bản Mỹ và vạch ra hướng đấu tranh tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai Gấp
vô sản. Tác phẩm viết về vấn đề chính trị xã hội, nhưng lại được thể hiện dưới hình thức độc
đáo - có tính chất tưởng tượng về một tương lai xa xôi: đặt sự kiện vào khung cảnh thế kỷ
XXVI, 4 thế kỷ sau khi thế giới đại đồng đã thoát khỏi "gót sắt" của bọn tư sản thống trị.
Trong "Gót sắt", chương XXII, "Đám dân của vực thẳm" miêu tả sự vùng dậy như thác
lũ của nhân dân lao động, cùng với những người Cộng sản và sự cuồng sát dã man của bọn lính
đánh thuê, nhằm đàn áp và đè bẹp cuộc biểu tình. Đó là chương phản ánh những sự kiện chính
ttị có thật của xã hội Mỹ những năm cuối thế kỷ XIX.
Từ việc hệ thống lại vấn đề giới thiệu và nghiên cứu Jack London cũng như vấn đề giảng
dạy nhà văn này trong nhà trường, có thể thấy là quá trình giới thiệu và nghiên cứu Jack
London đã có từ rất lâu và phong phú, còn việc đưa Jack London vào giảng dạy trong nhà
trường là từ cuối những năm 1980 với đề tài về loài vật, một đề tài nhỏ trong những đề tài mà
Jack London thể hiện. Do vậy, nên chăng điều chỉnh cho cân đối giữa lĩnh vực giới thiệu -
nghiên cứu với lĩnh vực giảng dạy Jack London và cho phù hợp hơn với tình hình công chúng,
đặc biệt là giáo viên - sinh viên - học sinh ở các trường có mối quan tâm đến Jack London, giúp
họ có cái nhìn toàn diện hơn đối với nhà văn.
114
PHẦN KẾT LUẬN
Mặc dù ở Mỹ, tên tuổi Jack London chìm dần trong thập niên 1920, khi một thế hệ nhà
văn mới xuất hiện sau thế chiến đã khiến các nhà vần trước đó trong mắt độc giả có vẻ thiếu
gọt giũa hơn, nhưng ông vẫn được ưa chuộng trên khắp thế giới, nhất là ở Nga, ở Pháp,... và ở
Việt Nam.
Từ việc xác định những tiền đề lịch sử-xã hội, tư tưởng-Văn hoa của việc tiếp nhận văn
học Mỹ nói chung và Jack London nói riêng ở Việt Nam , luận án đã nghiên cứu cụ thể việc
tiếp nhận của độc giả Việt Nam đối với nhà văn này.
Jack London là một hiện tượng ổn định, được tiếp nhận có quá trình lâu dài ở Việt Nam.
Tiếp cận với các tư liệu về Jack London (tác phẩm, các công trình nghiên cứu, tài liệu giảng
dạy,...), chúng tôi đã khảo sát về sự tiếp nhận của công chúng Việt Nam ưên ba phương diện:
nghiên cứu-giới thiệu , dịch thuật và giảng dạy-học tập. Công việc cụ thể là hệ thống, tìm hiểu
nguyên nhân, nhận xét và đánh giá về quá trình tiếp nhận Jack London ở Việt Nam, cũng như
đề xuất những ý kiến về nhu cầu tiếp nhận Jack London.
Thực tế khảo sát cho thấy việc tiếp nhận Jack London rất đa dạng . Jack London được tiếp
nhận qua những ý kiến nhận định, đánh giá của các nhà nghiên cứu, phê bình với những cách
nhìn vừa có sự tương đồng vừa có sự khác biệt ở các góc độ: cuộc đời, tư tưởng, quá trình sáng
tác, giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm... trong những thời điểm khác nhau. Jack
London được tiếp nhận qua những lời giới thiệu và qua việc chọn dịch tác phẩm với những
thiện ý tốt đẹp để đi đến cái đích "đạt" và "nhã" của các nhà dịch thuật. Jack London cũng
được tiếp nhận trong nhà trường qua nội dung giới thiệu (dù chưa đầy đủ) trong giáo trình, sách
giáo khoa, luận văn và cụ thể là qua thực tế giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh
trong nhà trường.
Thực tế nghiên cứu cũng cho thấy tầm đón nhận của độc giả Việt Nam khi tiếp nhận Jack
London do điều kiện lịch sử-xã hội và thời đại qui định nên có những điểm chung. Tuy nhiên, ở
mỗi loại độc giả (nhà nghiên cứu, phê bình, nhà dịch thuật, người dạy và người học.) có một
tầm đón nhận đặc thù. Tất cả đã góp phần phát hiện và khẳng định tầm cỡ của Jack London
trong nền văn học thế giới nói chung và vị trí của Jack London ở Việt Nam nói riêng.
115
Văn học Mỹ- trong đó có Jack London- được tiếp nhận ở Việt Nam xuất phát từ thực tế
của nhu cầu giao lưu văn hóa- văn học với tư tưởng chung là tiếp thu và hội nhập. Jack London
được quan tâm cả từ cuộc đời đến sự nghiệp sáng tác. Cuộc đời Jack London đầy sóng gió, đầy
biến động và là một tấm gương sáng về sự nỗ lục vượt khó. Tác phẩm Jack London phản ánh
xã hội Mỹ của thời kỳ khai phá, chinh phục và xây dựng; phản ánh lối sống Mỹ trong sự đa
dạng, phức tạp của vấn đề phân biệt chủng tộc, vấn đề đối xử bất công trong quan hệ con người
và cả vấn đề bạo lực; đồng thời, cũng thể hiện sâu đậm chủ nghĩa nhân đạo với mối quan tâm
sâu sắc đến con người và sự tồn tại của con người vì lý tưởng và lẽ phải.
Có thể nói, tình yêu thương con người, khát vọng tự do và bình đẳng ương tác phẩm Jack
London đã thực sự làm xúc động công chúng Việt Nam và để lại những ấn tượng khó quên.
Chiều sâu nhân bản của tác phẩm Jack London là sự gần gũi, tương ứng mà văn hóa, văn học
Việt Nam dễ dàng tiếp nhận với sự giao cảm lớn. Tuy nhiên, văn hóa, văn học Việt Nam với
bản sắc chung của tinh thần Đông Phương và với bản sắc riêng của dân tộc: nhạy cảm, giàu
tình thương, khoan dung, tế nhị, không hận thù, không tàn nhẫn,... nên cũng chỉ tiếp nhận
những giá trị nhân văn gần gũi với những giá trị của văn hóa, văn học Việt Nam. Do vậy, bạo
lực, sự hận thù, sự khát máu,... mà có lúc Jack London phản ánh trong tác phẩm của ông là
những dị biệt không thể chấp nhận, dung hòa với văn hóa, văn học Việt Nam.
Trong bài giới thiệu tập ừuyện "Một thiên ánh hận" của Jack London, dịch giả Anh Liễn
viết: "Có người cho rằng tác phẩm Jack London là những quyển gối đâu giường của tuổi trẻ
vì nó khiến cho thanh niên đọc ông gạt bỏ được một phân nào những ánh cảm ủy mị và ỷ
lại, khiến cho thanh niên yêu đời và lĩnh hội được ý nghĩa của sự tranh đấu". Thực tế cho
thấy ý nghĩa của tác phẩm Jack London không chỉ có thế và say mê tác phẩm Jack London
không chỉ có giới trẻ.
Ở luận văn này, chứng tôi cố gắng thực hiện, giải quyết những yêu cầu đã đặt ra. Tuy
nhiên, chúng tôi nhận thấy còn nhiều vấn đề khác liên quan đến nhà văn Jack London cũng như
đề tài: "Jack London ở Việt Nam". Chúng tôi hy vọng rằng trong những công trình nghiên cứu
tiếp theo, chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu, giải quyết và mặt khác cũng mong rằng các nhà
nghiên cứu khác sẽ quan tâm. Cụ thể là vấn đề nghệ thuật văn chương của Jack London, vấn đề
116
đánh giá chất lượng dịch thuật tác phẩm Jack London và cụ thể hơn nữa là về sự giao thoa giữa
tác phẩm của Jack London với tác phẩm của một số nhà văn đương đại Việt Nam.
117
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT:
1.Vũ Quốc Anh (1996), "Văn học nước ngoài trong chương trình môn Văn Trường
PTTH", Văn học nước ngoài, (1), trang 248 - 250.
2.M. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà
Nội.
3.Robert H. Bellah (1992), Văn hóa và tính cách cửa người Mỹ, NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
4.Bộ Giáo dục và đào tạo (1996), Văn học 7-SGK, Tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội.
5.Bộ Giáo dục và đào tạo (1999), Văn học 7- SGV, Tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội.
6.Van Wych Brooks (1966), Những năm trưởng thành, Tín Đức thư xã, Sài Gòn.
7.Lê Đình Cúc (1976), "Giắc Lơnđơn và cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc", Tạp
chí Văn học, (4), trang 116 - 126.
8.Lê Đình Cúc (1997), "Lịch sử văn học Mỹ - nhìn dưới góc độ thị trường và tiêu thụ",
Tạp chí Văn học, (2), trang 73 -76.
9.Đỗ Đức Dục (1966), "Giấc mơ đâu thế kỷ của Jack London", Tạp chí Văn học, (2),
trang 19 - 29.
10.Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học lý luận và ứng dụng, NXB Giáo dục,Hà
Nội.
11.Nguyễn Văn Dân (2000), "Lại bàn về ba chữ tín, đạt, nhã trong dịch thuật", Tạp chí
Văn học, (4), trang 223 - 230.
12.Trần Trọng Đăng Đàn (1998), Văn hóa văn nghệ phục vụ chủ nghĩa thực dẫn mới Mỹ
tại Nam Việt Nam 1954- 1975, NXB Thông tin, NXB Long An.
13.Nguyễn Đức Đàn (1996), Hành trình văn học Mỹ, NXB Văn Học, Hà Nội.
118
14.Đặng Anh Đào (1995), "Ơnixt Heminguây", Văn học phương Tây, NXB Giáo Dục,
Hà Nội,trang 701 - 722.
15.Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, NXB
Giáo Dục,Hà Nội.
16.Trần Độ, Hà Xuân Trường, Thế Nguyên (1979), Văn hóa văn nghệ miên Nam dưới
chế độ Mỹ Ngụy, NXB Văn Hóa, Hà Nội.
17.Phạm Duy Đức (1996), Giao lưu văn hóa đối với sự phát triển văn hóa nghệ thuật ở
Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18.Hà Minh Đức (chủ biên) (1995), Lý luận văn học, NXB Giáo Dục,Hà Nội.
19.Lê Minh Đức (1992), Thếkỷ XXI nước Mỹ nhìn lại, NXB TP. HCM.
20.Lê Minh Đức, Nguyễn Nghị, Lịch sử nước Mỹ, NXB Văn hóa Thông tin,Hà Nội.
21.Jean - Pierre Fichou (1998), Văn minh Hoa Kỳ, NXB Thế Giới, Hà Nội.
22.Nathan Glick (1970), "Năm mươi năm tiểu thuyết Mỹ", Đối thoại (6), trang 5 - 16.
23.C. Hugh Holman, William Van 0'Connor, Philip Young, Charles E. Shain, Ray B.
West (1965), Năm văn sĩ Hoa Kỳ, NXB Diên Hồng, Sài Gòn.
24.Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lý luận văn học - vấn đề và suy nghĩ,
NXB Giáo Dục.
25.Đỗ Đức Hiểu (1994), Đổi mới phê bình văn học, NXB Khoa học Xã hội, NXB Mũi Cà
Mau.
26.Thanh Huyền (1994), "Jack London : Những trang đời bị quên lãng", Kiến thức ngày
nay, (154), trang 22-25.
27.Hữu Khánh (chủ biên) (1993), Muôn mặt nước Mỹ, NXB TP. HCM.
28.Vũ Thế Khôi (1996), "Kiến thức văn hóa với dịch thuật và phê bình dịch", Văn học
nước ngoài, (2), trang 217-219.
29.Vũ Thế Khôi (2000), "Góp bàn về phê bình dịch", Văn học nước ngoài, (3), trang 201
- 206.
119
30.Trần Khuyến (1997), "Dịch là một quá trình sáng tạo", Văn học nước ngoài, (3), trang
219-222.
31.N. Konrat (1997), Phương Đông và phương Tây, NXB Giáo dụcHà Nội.
32.Đinh Xuân Lâm (chủ biên) (1998), Lịch sử 12, Tập 2, NXB Giáo dục,Hà Nội.
33.Annie Lennkh & Marie - France Toinet (1995), Thực trạng nước Mỹ, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
34.Nguyễn Hiến Lê (1998), "Hương sắc trong vườn văn", quyển nhì,NXB Tổng hợp
Đồng Tháp.
35.Nguyễn Hiến Lê (1998), Luyện văn, NXB Văn hóa,Tp.HCM.
36.Từ Trẩm Lệ (1965), "Một người phiêu bạt tên London", Thời nay, (135), trang 103 -
109.
37.Jack London (1955), Một thiên tình hận, NXB Chim đàn, Sài Gòn.
38.Jack London (1960), Gót sắt, NXB Văn hóa.
39.Jack London (1961), Tiêng gọi của rừng thẳm, sống mới, Sài Gòn.
40.Jack London (1962), Mối thù thiên thu và chín tuyệt tác khác, NXB Diên Hồng, Sài
Gòn.
41.Jack London (1972), "Tình yêu cuộc sống", "Bị bắn rụng", "Miếng bít-tết", "Hoa dại",
NXB Lao Động, Hà Nội.
42.Jack London (1983), Tiếng gọi nơi hoang dã, NXB Lao Động, Hà Nội.
43.Jack London (1984), Sự im lặng màu trắng, NXB Tác phẩm mới - Hội nhà văn Việt
Nam.
44.Jack London (1986), Sóng lớn Canaca, NXB Tác phẩm mới - Hội nhà văn Việt Nam.
45.Jack London (1987), Nanh trắng, NXB Long An.
46.Jack London (1987), Văn phòng ám sát, NXB Trẻ,Tp.HCM.
47.Jack London (1987), em sốt vàng, NXB Đồng Tháp
120
48.Jack London (1989), Từbẻ thế giới vàng, NXB Trẻ,Tp.HCM.
49.Jack London (1994), Cô gái băng tuyết, NXB Văn Học.
50.Jack London (1997), Tuyển tập truyện ngắn Jack London, NXB Hội nhà văn.
51.Jack London (1986), Martin Iđơn, NXB Văn học.
52.Phương Lựu (chủ biên) (1997), Lý luận văn học, NXB Giáo dục,Hà Nội.
53.Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn - tư tưởng và phong cách, NXB Văn học.
54.Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB
Giáo dục,Hà Nội.
55.Nguyễn Đức Nam (1968), "Văn học Mỹ và hiện thực nước Mỹ", Tạp chí Văn học, (3),
trang
56.Nguyễn Đức Nam (1969), "Văn học Mỹ vối khuynh hưởng bạo lực và đế quốc chủ
nghĩa", Tạp chí Văn học, (1), trang 83 - 89.
57.Hữu Ngọc (1995), Hồ sơ văn hóa Mỹ, NXB Thế Giới, Hà Nội.
58.Phan Ngọc (1996), "Dịch thuật đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển văn
hóa và ngôn ngữ của các dân tộc", Văn học nước ngoài, (4), trang 239 - 241.
59.Lữ Huy Nguyên (2000), Ấn tượng văn chương, NXB Văn hóa Thông tin,Hà Nội.
60.Vương Trí Nhàn (chủ biên) (1980), sổ tay người viết truyện ngắn, NXB Tác phẩm
mới, Hà Nội.
61.Hoàng Nhân (1989), Ba nhà văn hiện đại, NXB Trẻ, TP. HCM.
62.Trần Thế Quân (1992), "Những người đàn bà trong đời Jack London", Kiến thức ngày
nay, (76), trang 22-25.
63.Văn Quy (1957), "Vài nét về văn chương nước Mỹ", Bách khoa, (1), trang 59 - 62.
64.Phan Quý (1998), "Độ chênh về ngôn ngữ, văn hóa và truyền thông văn học ở một
đoạn văn dịch", Văn học nước ngoài, (4), trang 220 - 227.
65.Đắc Sơn (1996), Đại cương văn học sử Hoa Kỳ, NXB Trẻ, TP. HCM.
121
66.Jan Stolpe (1998), "Dịch thuật - một hoạt động sáng tạo", Văn học nước ngoài, (5),
trang 229 - 235.
67.Trần Đình Sử (1993), Giáo trình Thi pháp học, Trường Đại học Sư Phạm TP. HCM.
68.Trần Đình Sử (1995), Thi pháp thơ Tố Hữu, NXB Giáo dục,Hà Nội.
69.Trần Đình Sử (1996), Lý luận phê bình văn học, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
70.Thanh Tâm (1960), "Văn hào Jack London", Văn hóa nguyệt san, (52), trang 1142 -
1150.
71.Nguyễn Thành (1969), Chó săn chôn, NXB sống mới, Sài Gòn.
72.Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB TP. HCM.
73.Lê Ngọc Thúy (1995), Jack London và vấn đề đấu tranh sinh tồn của thời đại ông,
Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Sư Phạm TP.HCM.
74.Thúy Toàn (1999), Không phải cửa riêng ai, NXB Văn học, Trung tâm Văn hóa Ngôn
ngữ Đông Tây, Hà Nội.
75.Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận văn học, NXB Trẻ, TP. HCM.
76.Lương Duy Trung (1998), "Một số tác giả của thơ ca Mỹ thế kỷ 19", Tạp chí Văn học,
(4), trang 48 - 54.
77.Phùng Văn Tửu (1983), "Lơnđơn", Từ điển Văn học - Tập í, NXB Khoa học Xã hội.
78.Phùng Văn Tửu (1997), "Từ cuộc đời đến tác phẩm văn chương", Tạp chí Văn học,
(7), trang 3 - 10.
79.Hồ Sĩ Vịnh (1998), Văn hóa văn học - một hướng tiếp cận, NXB Văn học - Viện Văn
hóa, Hà Nội.
80.Viện Thông tin Khoa học Xã hội (1991), Văn học - nghệ thuật và sự tiếp nhận, Viện
Thông tin Khoa học Xã hội, Hà Nội.
81.Viện Thông tin Khoa học Xã hội (1997), Văn học Mỹ, quá khứ và hiện tại, Thông tin
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
122
TIẾNG ANH:
82.Sculley Bradky, Richnond Croom Beatly, E. Hudson Long (1962), The American
tradition in literature, W. W. Norton & Company, Inc, New York.
83.Philip S. Foner (1964), Jack London American rebel, The Citadel Press, New York.
84.Edward J. Gordon, Andrew J. Porter, Henry L. Terrie (1964), American literature,
Ginn and Company, Massachusetts.
85.Jack London (1960), The call ofthe wild, The Macmillan, New York.
86.Jack London (1962), Best short stories of Jack London, Fawcett Publication, Inc.
87.Jack London (1993), "Maouki", "To build a fire" (I), The complete short stories of
Jack London, Stanford University Press, California.
88.Charles N. Watson (1983), The novels of Jack London - a reappraisal, The Board of
Regents of the University of Wisconsin System.
123
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1:
BẢN GỐC BỨC THƯ JACK LONDON XIN RA KHỎI ĐẢNG XÃ HỘI VÀ THƯ TRẢ
LỜI CỦA ĐẢNG XÃ HỘI (BẢN DỊCH KÈM THEO)
1.Thư Jack London xin ra khỏi Đảng Xã hội
Honolulu, March 7, 1916
Glen Ellen
Sonoma County, California Dear Comrades,
I am resigning from the Socialist Party, because of its lack of fire and fight, and its loss of
emphasis upon the class struggle.
I was originally a member of the old revolutionary up-on-its-hind-legs, a fighting,
Socialist Labor Party. Since then, and the present time, I have been a fighting member of the
Socialist Party. My fighting record in ửie cause is not, even at this late date, already entirely
íorgotten. Trained in the class struggle, as taught and practised by the Socialist - Labor Party,
my own highest judgment concuưing, I believed that the working class, by fighting, by never
fusing, by never making terms with the enemy, could emancipate itself. Since the whole trend
of Socialism in the United States during recent years has been one of peaceableness and
compromise, I find that my mind refuses further sanction of my remaining a party member.
Hence, ray resignation.
Please include my comrade wife, Charmian K. London's resignation with mine. My final
word is that liberty, freedom and independence are royal things that cannot be presented to nor
thrust upon race or class. If races and classes cannot rise up and by their own strength of brain
and brawn, wrest from the world liberty, freedom and independence, they never in time can co
me to these ray ai possessions ... and if such royal things are kindly presented to thèm by
superior individuals, ôn silver platters, they will not know what to do with them, will fail to
make use of them, and will be what they have ahvays been in the past... inferior races and
inferior classes. Yours for the Revolution
124
Jack London
2.Đảng Xã hội trả lời bức thư xin ra khỏi Đảng của Jack London trong một bài báo
có giọng điệu gãy gắt với nhan đề "How you can get Socialism" (Làm thế nào bạn có thể
có chủ nghĩa xã hội ?) đăng trong tờ "Tiếng gọi New York" ngày 27.3.1916:
“The Socialist Party never spends much time in lamenting over those who occasionally
quit its ranks, nor will it do so now. Mr. London's letter, unfortunately, is couched in such
vague and general terms that no one can be sure what he means.
London is a fighter. Good. For some reasons nót stated, he realized his fighting record in
the cause is a closed chapter. He has of late found the party too peaceable for his taste. He quits
it and goes elsewhere to find a battlefield.
Doubtless this sounds old to us and to most party members. Yet doubtless London is
sincere. The reasons may be local or personal, or both. We don't know Glen Ellen, and we do
know Jack London. The name of the place does sound rather too idyllic to harmonize with the
author of The Sea Wolf and The Call of the Wild.
We can only assure him that, however, tediously peaceable membership in Glen Ellen
may be, the workingmen in mine and shop and factory who make up the rank and file of the
Socialist Party are fighting, not always the sort of fight that makes good copy for the magazines
or good films for the movies, bút the steady, unilinching, uncomplaining, unboasting, shoulder
to shoulder and inch-by-inch fight that uses the fighters up one by one and sends them to the
soon-forgotten graves, but that gains ground for those who fill up the ranks as they fall, that
undermines the enemy's defenses and wears him down and keeps on wearing him down until
the time comes for breaking his line and making the grand dash that shall end the war.
Live long, Friend London, and keep the pugnacious spirit, thát when the way to victory
has been prepared by the unheralded millions, you may be with us once thát dramatic day. We
shall go ôn doing our best to hasten it for you”.
3.Bản dịch thư Jack London xin ra khỏi Đảng Xã hội
Honolulu, ngày 7 tháng 3 năm 1916.
Glen Ellen
125
Sonoma County, California Thưa các đồng chí,
Nay tôi xin ra khỏi Đảng Xã hội vì Đảng thiếu nhiệt tình, mất sức chiến đấu và không còn
chú trọng đến đấu tranh giai cấp.
Tôi nguyên là một Đảng viên của Đảng Lao động Xã hội - một Đảng cách mạng vững
mạnh có truyền thống đấu tranh lâu đời. Từ trước đến nay, tôi vẫn luôn giữ vững tinh thần đấu
tranh của người Đảng viên Đảng Xã hội. Thậm chí đến tận hôm nay, hẳn các đồng chí vẫn chưa
quên những thành tích mà tôi đã lập được trong sự nghiệp đấu tranh cho chính nghĩa. Vì được
tỏi rèn trong phong trào đấu tranh giai cấp theo đúng lời dạy và sự rèn luyện của Đảng nên bản
thận tôi đã có được một nhận thức đúng đắn và tôi tin rằng giai cấp công nhân có thể tự giải
phóng mình bằng cách đấu tranh, không bao giờ để bị tan rã và không bao giờ thỏa hiệp với kẻ
thù. Vì toàn bộ trào lưu Xã hội Chủ nghĩa ở Mỹ trong những năm gần đây có xu hướng hòa
hoãn và thỏa hiệp nên tôi nhận thấy rằng tinh thần tôi không còn cho phép tôi tiếp tục đứng
trong hàng ngũ của Đảng. Vì thế, tôi xin ra khỏi Đảng.
Xin các đồng chí chấp thuận cho Charmian K. London - vợ tôi và là đồng chí của tôi -
được ra khỏi Đảng cùng với tôi.
Cuối cùng, tôi xin phát biểu rằng tự do và độc lập là những đặc quyền không thể được
đem ban phát hoặc áp đặt cho bất kỳ một chủng tộc hoặc một giai cấp nào. Nếu các chủng tộc
và các giai cấp không biết vùng lên để giành lấy tự do và độc lập của loài người bằng trí lực và
thể lực của chính họ, họ sẽ không bao giờ có được những đặc quyền này ... và nếu những đặc
quyền này lại được các cá nhân thuộc tầng lớp trên bày trên những chiếc đĩa bạc rồi đem ban
phát cho họ, họ sẽ không biết phải làm gì với chúng, sẽ không thể sử dụng chúng và sẽ mãi mãi
mang cái thân phận từ trước tới nay của họ: những chủng tộc thấp hèn và những giai cấp thấp
hèn. Trân trọng gửi đến các đồng chí lời chào cách mạng.
Jack London
4.Bản dịch thư trả lời của Đảng Xã hội
"Đảng Xã hội không bao giờ phí nhiều thời gian để thương tiếc những kẻ ngẫu nhiên rời
bỏ hàng ngũ của Đảng, và bây giờ Đảng cũng sẽ không làm việc đó. Bức thư của ông london,
126
rủi thay, được diễn đạt bằng những ngôn từ hết sức mơ hồ và khái quát nên không ai có thể
chắc chắn là hiểu được ý ông ta.
London là một người có tinh thần đấu tranh. Tốt. Vì một số lý do không tiện nói ra, ông ta
ý thức được rằng những thành tích mà ông ta đã lập được trong sự nghiệp đấu tranh cho chính
nghĩa là một chương khép kín. Gần đây, ông ta nhận thấy Đảng quá ôn hòa đối với thị hiếu của
ông ta. Ông ta bỏ Đảng đi nơi khác để tìm một bãi chiến trường. Chắc hẳn điều này nghe có vẻ
kỳ quặc đối với chúng ta và đối với phần lớn Đảng viên. Tuy nhiên, chắc hẳn London thành
thật. Những lý do có thể mang tính địa phương cục bộ hoặc cá nhân, hoặc cả hai. Chúng ta
không biết Glen Ellen, song chúng ta biết rất rõ Jack London. Địa danh đó nghe có vẻ hơi quá
quê mùa nên không thể hòa hợp với tác giả của Sói biển và Tiếng gọi nơi hoang dã.
Chúng ta chỉ có thể đảm bảo với ông ta rằng cho dù đội ngũ Đảng viên ở Glen Ellen có
thể ôn hòa một cách tẻ nhạt đến mấy chăng nữa thì các công nhân hầm mỏ, phân xưởng và nhà
máy vẫn đang tập họp trong hàng ngũ chiến sĩ của Đảng, vẫn đang tranh đấu, song không phải
theo cái kiểu đấu tranh để làm nên những bài báo hay cho các tạp chí hoặc những bộ phim hay
cho các rạp chiếu bóng, mà là một cuộc đấu tranh bền bỉ, không khoan nhượng, không than
van, không khoe khoang, vai kề vai, tiến từng bước một, sử dụng từng người chiến sĩ một và
đưa họ xuống những nấm mồ mau chóng bị lãng quên, song cuộc đấu tranh này lại là cơ sở cho
lớp người bổ sung vào hàng ngũ của Đảng khi lớp người trước ngã xuống; cuộc đấu tranh này
sẽ làm lung lay hàng phòng ngự của địch, làm tiêu hao dần lực lượng của địch cho tới khi thời
cơ đến sẽ chọc thủng phòng tuyến địch và lao thẳng vào chúng để chấm dứt cuộc chiến.
Chúc ông bạn London trường thọ và giữ vững tinh thần hiếu chiến của mình để sau khi
hàng triệu con người không được báo trước đã dọn xong con đường đi đến thắng lợi thì ông có
thể đến với chúng tôi ngay cái ngày đầy ấn tượng đó. Chúng tôi sẽ tiếp tục nỗ lực làm cho ngày
đó chóng đến với ông".
127
PHỤ LỤC 2:
128
129
130
PHỤ LỤC 3:
GIÁO ÁN BÀI "CON CHÓ BẤC" (CHƯƠNG TRÌNH VĂN HỌC LỚP 7)
Trích từ "bài soạn Văn 7/II"
Trường CĐSP Bình Trị Thiên
CON CHÓ BẤC
Ít có tác phẩm đạt đến nghệ thuật tuyệt vời trong việc miêu tả loài vật như London đã tả
con Buck trong "Tiếng gọi nơi hoang dã". Ông thực sự đã sáng tạo ra một tính cách loài vật
hiếm có trong văn học.
Một số tác phẩm có thể nhân cách hóa loài vật, tạo cho chúng nếp sống, hành động và suy
nghĩ như người. Nhưng đó là chuyện xã hội loài vật với nhau (Ví dụ: Dế mèn phiêu lưu ký)
hoặc thiên về tả hành động hơn là về tâm lý.
Ở "Tiếng gọi nơi hoang dã", tác giả đã đi sâu phân tích diễn biến tâm lý của con vật: Sâu
sắc, tỉ mỉ và sinh động như diễn biến tâm lý của một con người (thậm chí còn hơn những người
tầm thường và đơn giản).
London đã đặt Buck vào xã hội loài người và ứng xử như một con người thật sự. Khi chủ
nó đi mất, nó đã trở về với rừng xanh, vì không còn ai hiểu nó, nó không còn tri kỷ nữa. Do đó,
truyện có giá trị tư tưởng và nghệ thuật rất cao. Chúng ta cần quán triệt tinh thần này ở đoạn
trích sẽ được dạy học.
Giáo viên nên dành nhiều thời gian của hai tiết học để cho học sinh đọc kỹ, đọc tốt và để
cảm thụ được tác phẩm. Nên dùng biện pháp kể để giúp học sinh nắm được diễn biến của từng
phần trong đoạn trích.
Vào đầu bài học, giáo viên nên giới thiệu những nét chính trong cuộc đời của Buck để
học sinh có thể hiểu được vì sao đến tay Thornton thì tình yêu thương thật sự mới nảy sinh
trong lòng Buck.
Cuối bài học, nếu còn thì giờ, giáo viên nên kể tóm tắt chiến công thứ ba của Buck để học
sinh thấy được sự giao hòa tình cảm giữa con người với con vật đã đạt đến một độ cao lý
tưởng.
131
Gợi ý về nội dung và phương pháp:
Giáo viên giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm và những nét chính trong cuộc đời của
Buck (xem phần tham khảo).
A.HƯỚNG DẪN ĐỌC VÀ KỂ (xem sách giáo khoa)
B.HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU BÀI
1.Thornton cảm hóa Buck:
- Giáo viên và học sinh đọc đoạn trích từ đầu đến "lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ".
- Giáo viên dẫn truyện : Trước khi đến với Thornton, những người chủ cũ đã đối xử với
Buck như một. thứ nghĩa vụ. Con người nuôi sống nó thì nó phải làm việc để phục vụ con
người. Ngay cả thời kỳ đẹp đẽ trước đó ở nhà Thẩm phán Miller cũng chỉ là tình cảm những kẻ
làm ăn cùng hội cùng phường. Vậy mà đến với Thornton thi lại khác.
HỎI: Thornton đã chăm sóc Buck như thế nào? Buck đáp lại ra sao?
Thornton chăm sóc chó như thể chúng là con cái của anh. Anh bao giờ cũng chào chúng
bằng một cử chỉ thân ái hoặc bằng một lời hớn hở. Anh có thói quen túm chặt đầu Buck, vừa
lắc nó vừa khe khe thốt lên những tiếng rủa mà nó cảm nhận như những lời âu yếm. Đáp lại, ở
Buck là một tình thương yêu sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến mức tôn thờ và thương yêu
đến cuồng nhiệt. Đáp lại cái ôm ghì của chủ, Buck tưởng tim mình nhảy tung khỏi lồng ngực,
ngây ngất và rạo rực. Buck có lối nói tình cảm riêng của nó mà chỉ có Thornton mới hiểu được:
Nó bật đứng thẳng lên, miệng cười, mắt hùng hồn diễn cảm và họng rung lên những âm thanh.
Nó thường há miệng cắn lấy tay Thornton. Anh hiểu cái cắn vờ ấy là cử chỉ âu yếm và thương
yêu của Buck.
HỎI: Tìm chi tiết đặc sắc đã diễn tả được mối giao hòa tình cảm giữa người và vật hoặc
người và vật đã hiểu nhau qua chi tiết nghệ thuật nào ?
Jack London đã dựng một chi tiết đặc sắc: Con người Thornton và con chó Buck đã hiểu
nhau qua ánh mắt nhìn Buck, đôi mắt Thornton tỏa rạng tình cảm tự đáy lòng và tình cảm của
Buck cũng sáng ngời lên qua đôi mắt nó. Người và vật thân thiết như người với người. Bằng
132
tình thương chân thành và nồng đậm, Thornton đã thực sự cảm hóa Buck, gây nên ở nó những
tình cảm quý: Thân thiết và trung thành vô hạn. Giáo viên bình và chuyển tiếp:
Thông thường, người ta làm quen với vật, vật có phản xạ đối lại. "Tiếng gọi nơi hoang
dã" đã vượt cấp độ bình thường ấy. Người và vật hiểu nhau và cảm nhau qua ánh mắt, một mối
giao cảm của đôi bạn thân. Con vật còn sợ mất đi người chủ của mình, đến mức đang ngủ, nó
"vội vàng dậy ... trườn qua giá lạnh, đến tận mép chiếc lều rồi đứng đây lắng nghe tiếng thở
đều đều của chủ". Điều này sẽ lý giải những lần Buck xả thân cứu chủ và trả thù cho chủ sau
này.
2.Buck trả thù cho chủ:
Đọc đoạn từ " Tại thị trấn Xơccơn " đến " vùng Alaska".
Để tóm tắt mẫu chuyện Buck tấn công Burton "đen": Tại thị trấn Xơccơn, Thornton can
ngăn Burton "đen" đừng gây sự với một người mới đến, Burton đánh Thornton. Buck lao vào
tấn công Burton để trả thù cho Thornton. Mọi người phải hết sức mới can ngăn được Buck.
Buck được miễn tội vì có lý do chính đáng.
HỎI: Hãy đánh giá hành động tấn công Burton của Buck hoặc hành động của Buck đã
diễn ra như thế nào và hãy đánh giá hành động ấy.
Buck hành động mau lẹ, dũng mãnh và cả hung tợn nữa: " bỗng nghe .... một tiếng
gầm Buck từ nền nhà bay lên lao vút qua không trung, nhắm thẳng vào cổ họng Burton phóng
tới...". Mọi người phải xúm vào đánh đuổi mới có thể xua được Buck ra.
Buck đã tấn công kịp thời, bất ngờ và dữ dội để bảo vệ chủ. Bình ngắn: Thông thường,
con vật trở nên hung dữ vì hai lệ: Làm theo lệnh chủ và tự bảo vệ bản thân nó. Buck đã vì
Thornton, không cần một mệnh lệnh nào. Nó hành động theo trực giác mẫn cảm của nó, nhưng
trực giác ấy là sự phản ánh tình thương sâu sắc và lòng trung thành tuyệt vời của nó đối với
Thomton. Chúng ta sẽ còn gặp lại trực giác kỳ diệu ấy qua lần nó kéo cổ xe nặng 1.000 pao để
cứu danh dự cho chủ (khuyến khích học sinh đọc thêm đoạn này). Bây giờ chúng ta thử xem
Buck đã ứng xử như thế nào trên nhánh sông Bốn mươi dặm, trong một tình huống cực kỳ căng
thẳng.
3.Buck cứu chủ thoát chết đuối Cho học sinh:
133
- Đọc đoạn còn lại
- Kể tóm tắt "chiến công" của Buck :
Trên nhánh sông Bốn mươi dặm, Thornton bị nước cuốn .... Buck lao xuống cứu chủ.
Thornton nắm đuôi nó, cả hai vật lộn với dòng nước điên cuồng xoáy cuộn dữ dội. Biết không
thể bơi vào được, Thornton ra lệnh cho Buck vào bờ.
Phizty và Hendaye thòng dây cho Buck ra sông lần nữa, nhưng vì tung không đúng chỗ
cho nên Buck suýt chết đuối.
Lần thứ ba, Buck đã tính toán lao đúng vào chỗ Thornton. Anh ôm cổ nó. Cả hai bị va
dập dữ dội vào đá và gốc cây; cuối cùng được kéo lên bờ. Lần ấy, chủ và chó đều bị thương,
riêng Buck bị gẫy ba xương sườn.
HỎI: Hãy hình dung cảnh sông nước hôm ấy hoặc hôm ấy Thornton và Buck đã phải vật
lộn với một hoàn cảnh sông nước như thế nào ?
Tình huống gay cấn dữ dội. Nước chảy rất hỗn, đá ngầm, gốc cây và thác xoáy: " nước
cuộn dữ dội mà không có kẻ nào có thể thoát chết được".
HỎI: Miêu tả tỉ mỉ ba lần ra cứu chủ, nhà văn muốn nói lên điều gì về tình huống lúc ấy
và về con chó Buck ?
Tình huống hôm ấy là tình huống chết người, có thể không khắc phục được, có thể chịu
thất bại hoàn toàn. Cho học sinh đọc lại đoạn trích từ "Ngay lập tức đi đi" (để minh họa).
Nhưng Buck đã biết phát huy óc thông minh kết hợp với lòng dũng cảm, nó đã cứu được
Thornton.
Giáo viên bình (để tổng kết)
Lần trước, trong cuộc đánh trả Burton "đen", Buck đã dũng mãnh tự vệ thay cho chủ.
Lần này, trên nhánh sông Bốn mươi dặm, Buck đã tỏ ra dũng cảm tuyệt vời và thông
minh.
Nó đã thực sự xả thân vì chủ.
134
Trong lần kéo cổ xe thi thách, Buck đã hành động theo trực giác mẫn cảm và đã làm nên
chuyện phi thường.
Buck trở thành "hung thần hiện hình" (đối với người Yhét) và trở về với hoang dã vì
Thornton không còn nữa.
Jack London đã sáng tạo nên một tính cách thú tuyệt vời. Con thú có thể hiểu được con
người và sống chết vì con người.
Thế mà trên thế giới này, vẫn còn những kẻ mang danh là con người nhưng vẫn luôn luôn
lăm le tính cách tiêu diệt con người.
Chúng ta có thể rút ra nhiều bài học bổ ích trong việc chăm sóc và đối xử với những con
vật thân thuộc có ích quanh ta qua câu chuyện con chó Buck.(SĐD)
135