VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÝ THỊ NGỌC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT BẢO VỆ
AN NINH QUỐC GIA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
Hà Nội – 2020
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÝ THỊ NGỌC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT BẢO VỆ
AN NINH QUỐC GIA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Chính sách công
Mã số: 9.34.04.02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐỖ PHÚ HẢI
Hà Nội – 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các kết
quả nêu trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố trong
bất kỳ công trình khoa học nào khác.
TÁC GIẢ
LÝ THỊ NGỌC
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .................... 17
1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước ..................................................... 17
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về vấn đề, giải pháp và công cụ
chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia....................................... 17
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về các yếu tố tác động đến
chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia....................................... 23
1.1.3. Nhóm công trình nghiên cứu về thể chế chính sách pháp luật
bảo vệ an ninh quốc gia ........................................................................ 24
1.1.4. Nhóm công trình nghiên cứu về các hành vi xâm phạm an ninh
quốc gia .................................................................................................. 33
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ..................................................... 36
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án ........... 38
1.3.1. Về những ƣu điểm, những kết quả nghiên cứu mà Luận án sẽ
kế thừa, tiếp tục phát triển ..................................................................... 38
1.3.2 Về những vấn đề còn chƣa đƣợc giải quyết thấu đáo hoặc cần
phải tiếp tục nghiên cứu ........................................................................ 39
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH
PHÁP LUẬT BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA.......................................... 42
2.1. Chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia .................................... 42
2.2. Chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam ............... 50
2.3. Thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia .................. 61
2.4. Các lĩnh vực chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia .............. 66
Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁP
LUẬT BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ....... 69
3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ
an ninh quốc gia ............................................................................................ 69
3.2. Thực trạng thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ..... 74
3.2.1. Thực trạng thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh nội bộ ... 75
3.2.2. Thực trạng thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh xã hội .... 97
3.2.3. Thực trạng thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh
thông tin .............................................................................................. 102
3.2.4. Thực trạng thực hiện chính sách pháp luật trong lĩnh vực hợp
tác quốc tế bảo vệ an ninh quốc gia .................................................... 115
3.3. Những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong thực
hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ................................. 127
3.3.1. Ƣu điểm ..................................................................................... 127
3.3.2. Hạn chế ..................................................................................... 129
Chương 4: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT
BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................. 138
4.1. Định hướng hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc
gia ở Việt Nam hiện nay.............................................................................. 138
4.2. Giải pháp hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc
gia ở Việt Nam hiện nay.............................................................................. 141
4.2.1. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến về vai
trò của công tác tham mƣu, đề xuất hoạch định, xây dựng chính
sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia .............................................. 141
4.2.2. Đẩy mạnh công tác dân vận, tạo điều kiện để nhân dân thực
hiện trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi trong thực hiện chính sách
pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ...................................................... 144
4.2.3. Xác định các vấn đề trọng điểm về an ninh quốc gia cần ƣu
tiên đầu tƣ để hoàn thiện các chính sách pháp luật liên quan ............. 146
4.2.4. Khắc phục những điểm bất hợp lý trong các quy định của hệ
thống chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia .......................... 148
4.2.5. Nâng cao hiệu lực thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an
ninh quốc gia của các cơ quan nhà nƣớc ............................................ 151
4.2.6. Nâng cao chất lƣợng quan hệ phối hợp giữa các lực lƣợng
bảo vệ an ninh quốc gia ...................................................................... 153
KẾT LUẬN .................................................................................................. 157
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA
TÁC GIẢ ...................................................................................................... 159
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 160
PHỤ LỤC 1: Bảng thống kê xét xử sơ thẩm hình sự các tội xâm phạm
ANQG ........................................................................................................... 167
PHỤ LỤC 2: Diễn biến của tình hình các tội xâm phạm ANQG về số vụ
và số bị cáo .................................................................................................... 168
PHỤ LỤC 3: Hệ thống văn bản liên quan đến hoạch định và thực hiện
chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ............................................... 169
PHỤ LỤC 4: Tình hình lĩnh vực viễn thông ở Việt Nam từ năm 2011 đến
năm 2018 ....................................................................................................... 181
PHỤ LỤC 5: Tình hình xâm hại cơ sơ hạ tầng viễn thông từ năm 2011
đến năm 2018 ................................................................................................ 184
PHỤ LỤC 6: Phiếu điều tra khảo sát về thực trạng chính sách pháp luật
bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay ............................................. 185
PHỤ LỤC 7: Bảng câu hỏi phỏng vấn sâu .................................................. 191
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANQG: An ninh quốc gia
BMNN: Bí mật nhà nƣớc
CAND: Công an nhân dân
QPPL: Quy phạm pháp luật
TAND: Tòa án nhân dân
TTATXH Trật tự an toàn xã hội
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Bảng thống kê xét xử sơ thẩm hình sự các tội xâm phạm ANQG . 85
Bảng 3.2. Bảng diễn biến của tình hình các tội xâm phạm ANQG về số vụ
và số bị cáo .............................................................................................. 87
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ, BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu chính sách pháp luật bảo
vệ ANQG ................................................................................................ 74
Biểu đồ 3.2: Mục tiêu chính sách pháp luật bảo vệ ANQG thể hiện rõ
trong pháp luật hiện hành ........................................................................ 76
Biểu đồ 3.3. Giải pháp chính sách pháp luật bảo vệ ANQG đƣợc quy định
trong pháp luật......................................................................................... 77
Biểu đồ 3.4. Cơ cấu số vụ phạm tội xâm phạm ANQG trong tổng số
VAHS nói chung ..................................................................................... 86
Biểu đồ 3.5. Cơ cấu số bị cáo xâm phạm ANQG trong tổng số bị cáo
trong các VAHS nói chung ..................................................................... 86
Biểu đồ 3.6. Diễn biến số vụ xâm phạm ANQG ở Việt Nam ......................... 87
Biểu đồ 3.7. Diễn biến số bị cáo xâm phạm ANQG ở Việt Nam ................... 88
Biểu đồ 3.8. Cơ cấu theo tội danh ................................................................... 95
Biểu đồ 3.9. Cơ cấu theo số bị cáo phạm tội phạm cụ thể xâm phạm
ANQG ..................................................................................................... 96
Biểu đồ 3.10. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong thực hiện
chính sách .............................................................................................. 107
Đồ thị 3.1. Diễn biến THTP xâm phạm ANQG ở Việt Nam từ năm 2009
Biểu đồ 4.1. Đề xuất hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia 141
đến 2018 .................................................................................................. 89
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách pháp luật có vị trí quan trọng trong khoa học pháp lý và
khoa học chính sách công ở nƣớc ta hiện nay. Vị trí đó xuất phát từ vai trò của
chính sách pháp luật đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội. Với sự trợ giúp
của chính sách pháp luật, các chính sách chuyên ngành khác nhƣ: chính sách
kinh tế, chính sách xã hội, chính sách văn hoá, chính sách môi trƣờng, chính
sách khoa học và công nghệ đƣợc đƣa vào thực tiễn. Trong nhiều lĩnh vực của
chính sách pháp luật, chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia (ANQG)
là lĩnh vực quan trọng, thể hiện thái độ của Nhà nƣớc đối với một trong những
vấn đề hệ trọng nhất của đời sống xã hội: ANQG của đất nƣớc.
Từ năm 1986 đến nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nƣớc có
nhiều thay đổi to lớn, sâu sắc, diễn biến phức tạp, khó lƣờng đã tác động trực
tiếp đến ANQG của Việt Nam. Hòa bình, hợp tác, toàn cầu hóa vẫn là xu
hƣớng chung nhƣng xung đột sắc tộc, tranh chấp biên giới, lãnh thổ, khủng
hoảng chính trị, bạo loạn, lật đổ vẫn xảy ra tại một số quốc gia, khu vực. Các
yếu tố an ninh phi truyền thống nhƣ: khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, tội
phạm công nghệ cao, biến đổi khí hậu, an ninh lƣơng thực trở thành mối đe dọa mang tính toàn cầu.
Ở trong nƣớc, bên cạnh những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới,
chúng ta phải đối mặt với những nguy cơ đe dọa ANQG nhƣ dấu hiệu “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ bộc lộ ngày càng rõ nét và nghiêm
trọng hơn; tình trạng tham nhũng, tiêu cực, xuống cấp về đạo đức, lối sống
của một bộ phận cán bộ, đảng viên gây bức xúc trong nhân dân; tình trạng
khiếu kiện vƣợt cấp, đông ngƣời kéo dài, biểu tình, đình công, lãn công diễn
ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng gay gắt, nhiều địa phƣơng đã phát sinh
thành “điểm nóng” gây mất an ninh, trật tự.
Trƣớc bối cảnh quốc tế diễn biến theo chiều hƣớng bất lợi cho phong
1
trào cách mạng, lợi dụng chính sách đổi mới, mở cửa, hội nhập của Đảng,
Nhà nƣớc ta, các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nƣớc tăng cƣờng
các hoạt động chống phá, vừa công khai trắng trợn, vừa tinh vi, xảo quyệt
nhằm gây mất ổn định chính trị, xóa bỏ vai trò của Đảng Cộng sản và chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thực tiễn cho thấy một số quốc gia trên thế giới
chuyển từ chính sách bao vây cấm vận sang bình thƣờng hóa quan hệ, đẩy
mạnh hợp tác trên tất cả các lĩnh vực với Việt Nam nhƣng vẫn không từ bỏ
âm mƣu thực hiện chiến lƣợc “Diễn biến hòa bình”, tìm mọi cách thâm nhập
nội bộ ta, tác động, hƣớng lái đƣờng lối, chính sách kinh tế, pháp luật, thúc
đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Nhìn lại chính sách pháp luật bảo vệ ANQG của Nhà nƣớc ta những
năm qua cho thấy, yêu cầu bảo vệ ANQG đã làm cho chính sách pháp luật
của Nhà nƣớc ta trên lĩnh vực này có những đặc trƣng so với các lĩnh vực
khác. Sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa;
đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế đã dẫn đến yêu cầu “cởi mở”, “thông
thoáng” trong các quy định của Nhà nƣớc. Tuy nhiên, sự vận hành của nền
kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, quá trình mở cửa hội nhập
quốc tế ở nƣớc ta càng diễn ra nhanh, mạnh mẽ bao nhiêu cũng đồng nghĩa
với việc gia tăng những yếu tố đe dọa ANQG, trật tự, an toàn xã hội tƣơng
ứng; là một trong những nguyên nhân khách quan trực tiếp dẫn đến sự phức
tạp của tình hình an ninh, trật tự thời gian qua. Do đó, chính sách pháp luật
bảo vệ ANQG cần đƣợc xây dựng, củng cố theo hƣớng không cản trở mà phải
thống nhất, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình đổi mới, phát triển, hội nhập quốc
tế. Đồng thời, cần phải đƣợc xây dựng, hoàn thiện hƣớng tới mục tiêu loại bỏ
những tác động tiêu cực từ mặt trái của sự “cởi mở”, “thông thoáng” trong
chuyển đổi nền kinh tế, mở cửa, hội nhập quốc tế.
Trƣớc tình hình trên, hệ thống chính sách pháp luật bảo vệ ANQG của
Việt Nam không theo kịp diễn biến nhanh chóng của tình hình trong nƣớc và
tình hình thế giới. Vì vậy, trong thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ
2
ANQG, có lúc, có nơi, Việt Nam đang lúng túng, bị động đối phó với những
hành vi, những hoạt động xâm phạm ANQG. Đã đến lúc cần đánh giá khách
quan, sâu sắc, toàn diện việc thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG
nhằm phát hiện những thiếu hụt, bất cập để kịp thời bổ sung phù hợp với tình
hình mới. Nghiên cứu việc thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh
quốc gia trở thành một yêu cầu cấp thiết mà thực tiễn đặt ra. Do đó, nghiên
cứu sinh chọn đề tài: “Thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc
gia ở Việt Nam hiện nay” để thực hiện nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trƣớc yêu cầu cần thiết phải hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật
bảo vệ ANQG ở Việt Nam hiện nay, tác giả xác định mục đích nghiên cứu đề
tài “Thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam
hiện nay” là tập trung nghiên cứu việc thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG ở Việt Nam hiện nay. Những kết luận đƣa ra có dựa trên nghiên cứu
so sánh chính sách pháp luật bảo vệ ANQG với một số nƣớc trên thế giới, từ
đó làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn về chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG ở Việt Nam một cách có hệ thống và toàn diện. Trên cơ sở này và dựa
vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, đề tài đề xuất những giải pháp,
nội dung xây dựng, hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG ở Việt
Nam nhằm góp phần bảo vệ vững chắc ANQG.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích trên, tác giả xác định các nhiệm vụ nghiên cứu
cơ bản sau:
- Phân tích, luận giải vị trí, vai trò quan trọng của chính sách pháp luật bảo
vệ ANQG đối với sự nghiệp bảo vệ vững chắc ANQG của Việt Nam. Nghiên cứu
đánh giá chính sách pháp luật bảo vệ ANQG của một số quốc gia trên thế giới và
của Việt Nam.
- Phân tích làm rõ khái niệm ANQG, bảo vệ ANQG, chính sách pháp luật
3
bảo vệ ANQG, lịch sử và quá trình phát triển chính sách pháp luật bảo vệ ANQG.
So sánh khái niệm, quá trình phát triển chính sách pháp luật bảo vệ ANQG của
một số nƣớc trên thế giới. Xác định nội dung cơ bản của chính sách pháp luật
bảo vệ ANQG.
- Khảo sát, điều tra và phân tích thực trạng thực hiện chính sách pháp
luật bảo vệ ANQG ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất phƣơng hƣớng và các giải pháp hoàn thiện chính sách pháp
luật bảo vệ ANQG ở nƣớc ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Chính sách pháp luật bảo vệ ANQG của
Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Chính sách pháp luật về bảo vệ ANQG là một
vấn đề khá rộng và phức tạp. Vì vậy, đề tài không nghiên cứu tất cả các nội
dung về chính sách pháp luật bảo vệ ANQG mà chỉ tập trung luận giải khâu
thực hiện chính sách pháp luật về ANQG trên một số lĩnh vực chủ chốt, cụ thể
nhƣ sau: An ninh nội bộ, an ninh xã hội, an ninh thông tin, hợp tác quốc tế
trong bảo vệ ANQG.
- Phạm vi về không gian: Chính sách pháp luật về bảo vệ ANQG trên
phạm vi toàn quốc.
- Phạm vi về thời gian: từ năm 2005, là thời điểm Bộ Chính trị ban hành
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về “Chiến lƣợc xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật từ nay đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2020”.
4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý thuyết
4.1.1. Một số lý thuyết sử dụng
- Lý thuyết các giai đoạn của chu trình chính sách và các lý thuyết khác
4
của khoa học chính sách công
Chính sách trở thành vấn đề đƣợc nghiên cứu, xem xét có tính hệ thống
chỉ trong mấy chục năm gần đây. Khái niệm “khoa học chính sách” đƣợc
Lasswell đề cập lần đầu tiên từ năm 1951. Cuốn sách “The Policy Sciences:
Recent Trends in Scope and Method” (Lerner & Lasswell 1951) đƣợc xuất
bản, đã giới thiệu một phƣơng pháp tiếp cận mới, đƣa ra bởi Harold Lasswell
về “sự định hƣớng chính sách”, với khái niệm khoa học chính sách đƣợc xem
nhƣ là một phƣơng pháp giải quyết các vấn đề xã hội. Đến nay, khoa học
chính sách đã có những bƣớc phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những
nội dung trọng tâm của khoa học xã hội. Chính sách công đƣợc định nghĩa là
một tập hợp các quyết định có liên quan lựa chọn mục tiêu, giải pháp và công
cụ chính sách để giải quyết vấn đề chính sách theo mục tiêu tổng thể đã xác
định của đảng chính trị cầm quyền [19, tr.21].
Chu trình chính sách gồm 4 khâu (ibib):
Hoạch định chính sách
Xây dựng chính sách
Thực hiện chính sách
Đánh giá chính sách
Các nguyên tắc nghiên cứu chính sách đƣợc phát triển dựa trên phƣơng
pháp tiếp cận đa ngành. Bởi lẽ, hầu hết các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội là
phức tạp, liên quan, tác động lẫn nhau, đòi hỏi cần áp dụng những nguyên tắc
nghiên cứu khác nhau của khoa học xã hội mà không bị lệ thuộc duy nhất vào
một nguyên tắc cụ thể, riêng rẽ của một ngành, lĩnh vực. Để đánh giá đƣợc
toàn diện vấn đề, cần áp dụng nhiều phƣơng pháp nghiên cứu, phân tích
tƣơng thích, phù hợp của các phân ngành khoa học nhƣ kinh tế học, xã hội
học, tâm lý học… nhằm cung cấp những nguyên tắc quan trọng trong việc đề
xuất giải pháp cho các quyết sách của chính phủ, hay các hoạt động kinh tế xã
5
hội [50, tr.45]. Khoa học chính sách hƣớng việc nghiên cứu và phân tích vào
các vấn đề chính sách và đề ra các biện pháp chính sách nhằm giảm nhẹ hay
giải quyết các vấn đề đó. Nghiên cứu chính sách không phải chỉ để nghiên
cứu, mà gắn mục đích, bối cảnh và vấn đề cụ thể với phân tích đa chiều, toàn diện nhằm đƣa ra giải pháp tích cực cho vấn đề công [51, tr.34].
Hiện nay, không có một lý thuyết tổng quát về chính sách, mà tồn tại nhiều
lý thuyết khác nhau đƣợc các học giả nghiên cứu và áp dụng trong nghiên cứu
chính sách ở các nƣớc phƣơng Tây. Một số lý thuyết quan trọng là:
+ Lý thuyết các giai đoạn của chu trình chính sách: chu trình hoạch định
chính sách bao gồm các giai đoạn sắp xếp theo trình tự thời gian đƣợc áp
dụng từ những năm 1960, dựa trên các nghiên cứu của Harold Lasswell,
David Easton và đƣợc nhiều học giả phát triển sau này. Trong đó, các giai
đoạn tiêu biểu là: xác định vấn đề chính sách, lập chƣơng trình, hình thành
chính sách, thông qua chính sách, thực thi chính sách, đánh giá chính sách,
kết thúc chính sách (hoặc đánh giá và cải cách);
+ Lý thuyết khung liên minh vận động: tiêu biểu cho sự tìm kiếm lý
thuyết thay thế về quá trình chính sách là Sabatier với Lý thuyết về Khung
liên minh vận động (The Advocacy Coalition Framework – ACF), phát triển
từ những năm 1980, cung cấp các giả thuyết nhân quả cần thiết cho việc nghiên cứu lý thuyết và thực hành chính sách [54,tr.12]. ACF đặt vấn đề xem
xét quá trình thay đổi chính sách cần có thời gian hàng thập kỷ. Quá trình
chính sách thƣờng tập trung hay diễn ra ở những hệ thống chính sách nhỏ
(subsystems), với sự tƣơng tác giữa các chủ thể khác nhau có ảnh hƣởng đến
từng chủ đề, lĩnh vực chính sách cụ thể, trong mối liên hệ với những sự kiện
bên trong và bên ngoài hệ thống. Đề xuất chính sách cũng xuất hiện ở rất
nhiều thời điểm khác nhau và không phải tất cả những chủ thể làm chính sách
đều tham gia vào các hệ thống chính sách nhỏ này. Các chủ thể chính sách có
thể tạo thành những liên minh ngắn hạn, hoặc ổn định, dài hạn để chia sẻ
niềm tin, giá trị cũng nhƣ sự vận động, ảnh hƣởng đến từng lĩnh vực chính
6
sách, trong các ràng buộc thể chế nhất định;
+ Lý thuyết đa dòng chảy và cửa sổ cơ hội: lý thuyết tiếp cận đa dòng
chảy (The Multiple Streams Approach) về quá trình chính sách của
Kingdon đóng vai trò rất quan trọng trong việc giải thích sự “mơ hồ”, không
rõ ràng khi một đề xuất chính sách có thể trở thành chính sách, trong khi các
đề xuất khác thì không. Lý thuyết này có các giả thuyết nhƣ các nhà hoạch
định chính sách hoạt động dƣới sự ràng buộc khắt khe về thời gian, dẫn tới
những hạn chế về số lƣợng các đề xuất chính sách có thể đƣợc chú ý đến; hệ
thống hoạt động trong một thể chế bao gồm các dòng chảy tƣơng đối độc lập
với nhau, gồm dòng vấn đề, dòng chính sách và dòng chính trị. Trải qua việc
lập nghị trình với những tƣơng tác giữa các chủ thể tham gia, có thể xuất hiện
“cửa sổ cơ hội” khi các dòng chảy gặp gỡ, kết hợp với nhau tại một thời điểm,
để một số đề xuất chính sách đƣợc lựa chọn đƣa vào nghị trình, trong khi một
số khác thì rất lâu, hoặc không có cơ hội;
+ Lý thuyết phân tích thể chế và phát triển: khung phân tích thể chế và
phát triển (Institutional Analysis and Development (IAD) Framework) đƣợc
phát triển từ những năm 1970 bởi Vincent và Elinor Ostrom khi nghiên cứu
về các thỏa thuận thể chế, quản lý nguồn lực công và lựa chọn công. IAD xem
xét phân tích những vấn đề công trong một bối cảnh xã hội, phạm vi hành
động, điều kiện ràng buộc về thể chế – “luật chơi” chi phối các chủ thể chính
sách. Trong thể chế đó, các chủ thể này tƣơng tác lẫn nhau trong các tình
huống hành động nhằm xác lập các mô hình giải quyết vấn đề công. Khung
khổ này đã đề ra các mục tiêu dự kiến cần đạt đƣợc, cũng nhƣ các tiêu chí cụ
thể để đánh giá kết quả. Điểm lƣu ý là IAD đƣa ra những giả thuyết nghiên
cứu, có thể áp dụng nhiều lý thuyết khác nhau của kinh tế học, chính trị học
và chú trọng vào các thể chế công, trong đó đòi hỏi trách nhiệm giải trình cao
của các chủ thể, nhƣ chính trị gia hay công chức hành chính, trong nỗ lực đạt
đƣợc các cấp độ mục tiêu chính sách khác nhau, có thể nghiên cứu ứng dụng
7
cho nhiều nƣớc đang phát triển hiện nay.
Ngoài ra, còn một số lý thuyết đáng chú ý khác nhƣ: Khung phản hồi
chính sách, Tƣờng thuật chính sách. Việc nhiều học giả tìm kiếm sự thay thế
cho Lý thuyết các giai đoạn, dẫn đến hình thành nhiều lý thuyết mới về chính
sách công, và kéo theo những tranh luận về vai trò, vị trí của các lý thuyết
này. Tuy nhiên, trên thực tế, các lý thuyết không phủ định nhau, mà bổ sung
cho nhau để làm rõ hơn bức tranh đa chiều của quá trình chính sách. Mặc dù
có một số hạn chế và không phải lý thuyết tổng quát về quá trình chính sách,
các giai đoạn chính trong chu trình chính sách vẫn đƣợc coi là chuẩn tắc trong hoạch định, phân tích, nghiên cứu chính sách [27].
Chính vì vậy, việc nghiên cứu về chính sách pháp luật bảo vệ ANQG sẽ được
tiến hành dựa trên sự vận dụng các lý thuyết này về chính sách công, trong đó, lý
thuyết các giai đoạn của chu trình chính sách là lý thuyết quan trọng, cơ bản mà
nghiên cứu sinh sử dụng để tiếp cận và xây dựng khung nghiên cứu.
- Lý thuyết hệ thống xã hội
Lý thuyết hệ thống (system theory) đƣợc nhiều ngành khoa học khác
nhau vận dụng, trong đó có khoa học xã hội. Hệ thống là tổng hoà các thành
tố, các thành phần bộ phận và các mối quan hệ giữa chúng với nhau theo một
kiểu nào đó, tạo thành một cơ cấu toàn vẹn, hoàn chỉnh. Hệ thống xã hội có
đặc trƣng so với các hệ thống khác ở chỗ nó mang tính mở, vận động liên tục
dƣới tác động của môi trƣờng xung quanh.
Theo quan điểm tiếp cận hệ thống xã hội, mỗi sự kiện, quá trình xã hội
của chủ thể xã hội, phải đƣợc xem xét đa diện, nhiều chiều, biện chứng, thống
nhất, mọi thành phần của hệ thống đều có sự phụ thuộc lẫn nhau một cách
chặt chẽ và tƣơng tác với môi trƣờng xung quanh.
Theo lý thuyết hệ thống xã hội, khi nghiên cứu một hệ thống xã hội,
khoa học xã hội cần xem xét hai mặt cơ bản là: thăng bằng hay ổn định và
mất ổn định. Cần đi sâu phân tích các trạng thái ấy: Thăng bằng hay ổn định:
8
ổn định động, ổn định tĩnh là sự ổn định có sức ỳ cao không tạo điều kiện cho
sự phát triển; Mất ổn định: tích cực - báo hiệu sự thay đổi hệ thống bằng một
hệ thống mới tốt đẹp hơn, tiêu cực - dẫn đến suy yếu và đổ vỡ hệ thống, khi
các bộ phận hoạt động nhịp nhàng theo một mục tiêu thống nhất thì có sự
đồng bộ, sự phát triển quá sớm hay sự duy trì tình trạng lạc hậu quá độ ở một
bộ phận nào đó có nguy cơ dẫn đến lệch pha; Tích hợp (integration) và thích
nghi (adaptation): tích hợp là sự thống nhất nội bộ do những nội lực phát sinh
bên trong hệ thống, thích nghi là quá trình quan hệ thích ứng của hệ thống với
các hệ thống xung quanh. Để đảm bảo sự thích nghi cần thiết với môi trƣờng,
hệ thống xã hội phải là một hệ thống mở.
Chính sách pháp luật bảo vệ ANQG cần được tiếp cận nghiên cứu như
tiếp cận với một hệ thống xã hội để đánh giá mối quan hệ tác động của các
yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành và hiệu quả thực hiện của nó, để dự
đoán về sự thay đổi và đề ra các biện pháp điều chỉnh trong tương lai cho
phù hợp với tình hình mới.
4.1.2. Khung phân tích để làm rõ lý thuyết: Cụ thể:
Các câu hỏi nghiên cứu chung:
1) Lý luận chính sách pháp luật bảo vệ ANQG là gì?
2) Thực trạng chính sách pháp luật bảo vệ ANQG hiện nay nhƣ thế nào?
3) Giải pháp hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG ở Việt Nam
hiện nay là gì?
Các câu hỏi nghiên cứu cụ thể và giả thuyết nghiên cứu:
Chính sách trong đề tài này đƣợc hiểu là chính sách công. Có nhiều cách
tiếp cận để đƣa ra quan niệm về chính sách công, nhƣng theo quan điểm của
tác giả chúng cần có những nội hàm sau: là phƣơng thức/ hành động ứng xử
của Nhà nƣớc trƣớc các vấn đề chính sách, đƣợc đảm bảo thực hiện bởi tập
hợp các quyết định chính trị có liên quan với nhau, có mục tiêu, giải pháp và
công cụ rõ ràng. Chính sách công là một chu trình với nhiều giai đoạn, từ việc
9
hoạch định, xây dựng, ban hành, thực thi đến giám sát, đánh giá chính sách.
Chính sách pháp luật bảo vệ ANQG là kết quả ý chí chính trị của hệ
thống chính trị, cốt lõi là Đảng chính trị, đƣợc thực hiện bới quyền lực Nhà
nƣớc đƣợc thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau,
trong đó bao hàm mục tiêu bảo vệ ANQG và hệ thống các giải pháp, công cụ
chính sách ANQG để bảo đảm mục tiêu ANQG đề ra đƣợc hiện thực hoá.
Để làm rõ thực trạng xây dựng, ban hành thể chế chính sách pháp luật
bảo vệ ANQG ở Việt Nam
Giả thuyết nghiên cứu đƣợc xây dựng nhƣ sau: Chính sách pháp luật
bảo vệ ANQG đƣợc xây dựng, ban hành, sửa đổi, bổ sung tƣơng đối tích cực,
kịp thời, tạo cơ sở cho công tác bảo vệ ANQG. Hệ thống văn bản chính sách
khá đồng bộ đƣợc ban hành bởi các chủ thể là các cơ quan nhà nƣớc có thẩm
quyền. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế nhất định nhƣ việc nghiên cứu, đề
xuất các biện pháp chính sách mới còn thiếu kịp thời, một số nội dung chính
sách chậm đƣợc cụ thể hóa, hƣớng dẫn thi hành...
Để làm rõ nội dung hiện hành của chính sách pháp luật bảo vệ ANQG
ở Việt Nam
Giả thuyết nghiên cứu đƣợc xây dựng nhƣ sau: Nội dung hiện hành của
chính sách pháp luật bảo vệ ANQG đƣợc phân tích theo 3 trục nội dung: vấn
đề chính sách, mục tiêu chính sách, các giải pháp và công cụ chính sách pháp
luật bảo vệ ANQG ở Việt Nam. Trong đó: Vấn đề chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG là các đối tƣợng chống đối trong nƣớc và thế lực thù địch có âm mƣu,
hoạt động chống phá Việt Nam hòng xâm phạm sự ổn định, phát triển bền
vững của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; Mục tiêu của chính sách là đảm
bảo sự ổn định và an toàn tuyệt đối của toàn bộ hệ thống chính trị, kinh tế, xã
hội của Việt Nam; Các nhóm giải pháp hiện nay gồm: nhóm giải pháp phòng
ngừa, nhóm giải pháp phát hiện, đấu tranh hành vi xâm phạm ANQG; Các công
10
cụ chính sách pháp luật bảo vệ ANQG bao gồm: Pháp luật, cơ quan chuyên trách,
tuyên truyền giáo dục. Các nội dung của chính sách pháp luật bảo vệ ANQG hiện
nay khá toàn diện, phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế nhất
định nhƣ chƣa cập nhật đƣợc tình hình tội phạm, nhất là tội phạm phi truyền
thống, quy định cụ thể nhƣng thiếu, công cụ chƣa đủ quyết liệt.
Để làm rõ những yếu tố tác động đến chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG thời gian tiếp theo.
Giả thuyết nghiên cứu đƣợc xây dựng nhƣ sau:
Yếu tố tác động tích cực: Trên phạm vi quốc tế và khu vực, hòa bình,
hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Trong nƣớc, thành tựu 30 năm đổi mới
đã làm thế và lực nƣớc ta lớn mạnh lên nhiều so với trƣớc. Việc mở rộng quan
hệ hợp tác quốc tế, giữ vững môi trƣờng hòa bình tạo thêm nhiều thuận lợi
cho nhân dân ta đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ nhanh hơn.
Yếu tố khó khăn, thách thức: Các thế lực thù địch vẫn liên tục chống phá
Việt Nam với nhiều phƣơng thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hòng nhanh
chóng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhƣng cũng chứa đựng nhiều yếu
tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nƣớc
đang phát triển; xuất hiện nhiều tội phạm quốc tế đe dọa nghiêm trọng tới sự ổn
định của thế giới, khu vực và Việt Nam. Trong nƣớc, đất nƣớc ta đang đứng trƣớc
nhiều thách thức lớn, đan xen nhau nhƣ tệ tham nhũng, tội phạm có tổ chức, mâu
thuẫn trong nội bộ nhân dân, vấn đề tồn tại trong thực hiện chính sách dân tộc,
chính sách tôn giáo, yếu tố tự diễn biến, tự chuyển hóa...
Để làm rõ mục tiêu và giải pháp hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG ở Việt Nam hiện nay.
Giả thuyết nghiên cứu đƣợc xây nhƣ sau: Mục tiêu của chính sách pháp
luật bảo vệ ANQG ở Việt Nam hiện nay là đấu tranh bảo vệ ANQG nhằm
đảm bảo sự ổn định và an toàn của toàn bộ hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội.
11
Các giải pháp gồm: giải pháp cho khâu xây dựng và ban hành chính sách, giải
pháp hoàn thiện nội dung chính sách, giải pháp cho khâu thực hiện, giám sát,
đánh giá chính sách.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận án đƣợc nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng; chính sách, pháp luật của
Nhà nƣớc về xây dựng, hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG.
- Luận án đƣợc thực hiện bằng các phƣơng pháp cụ thể nhƣ sau:
+ Phƣơng pháp tổng kết kinh nghiệm: Tác giả tiến hành xem xét, nghiên
cứu hồ sơ, văn bản, tài liệu, báo cáo tổng kết, công trình khoa học…về chính
sách pháp luật bảo vệ ANQG để rút ra những nhận xét, đánh giá và kết luận
khoa học. Để có đánh giá mang tính khoa học, tác giả đã tìm tòi, lựa chọn
những tài liệu có tính pháp lý, tin cậy cao, đã đƣợc các cơ quan có thẩm
quyền thẩm định và công nhận.
+ Phƣơng pháp thống kê, so sánh: Tác giả thu thập, sắp xếp số liệu theo
những tiêu chí cụ thể về tình hình, thực trạng xây dựng, thực hiện chính sách
pháp luật bảo vệ ANQG để tạo dựng bảng số liệu, bản đồ. Từ đó, có thể so
sánh những sự kiện, con số với nhau; đồng thời cung cấp hình ảnh trực quan
mang tính định lƣợng phục vụ công tác nghiên cứu luận án.
+ Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: Dựa trên việc phân tích thực trạng
thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG ở Việt Nam (trên các lĩnh vực:
An ninh nội bộ, an ninh xã hội, an ninh thông tin, hợp tác quốc tế bảo vệ
ANQG) để tổng hợp, đánh giá ƣu điểm, hạn chế trong thực hiện chính sách
pháp luật bảo vệ ANQG.
+ Phƣơng pháp chuyên gia: Tác giả đã trực tiếp trao đổi với các nhà
khoa học và cán bộ trực tiếp xây dựng, thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG để tham khảo kinh nghiệm của họ trong công tác này, đồng thời để
12
kiểm chứng những nhận định hay giải pháp mà luận án đƣa ra.
+ Phƣơng pháp logic - lịch sử: Tác giả sử dụng phƣơng pháp logic để
phát hiện ra những đặc điểm mang tính riêng có của việc thực hiện chính sách
pháp luật bảo vệ ANQG, tránh tình trạng áp đặt những quy luật chung có sẵn
để làm khuôn mẫu cho việc nhận thức, đánh giá thực trạng thực hiện chính
sách pháp luật bảo vệ ANQG ở Việt Nam hiện nay.
Phƣơng pháp logic đƣợc gắn bó chặt chẽ, không tách rời khỏi lịch sử:
Việc nghiên cứu để tìm ra kết quả, hạn chế, nguyên nhân hạn chế của thực
trạng thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG phải đƣợc tiến hành trên
cơ sở khái quát hóa và rút ra từ hiện thực. Nghĩa là phải sử dụng phƣơng pháp
logic gắn liền với phƣơng pháp lịch sử. Sự gắn kết này giúp cho nghiên cứu
rút ra những kết luận có cơ sở, cụ thể và chính xác.
+ Phƣơng pháp nghiên cứu điển hình: Nghiên cứu sinh lựa chọn một số
trƣờng hợp đặc trƣng để phân tích, đánh giá đầy đủ tình huống, diễn biến, kết
quả của quá trình. Qua đó nhằm lý giải, sáng tỏ những kết luận về kết quả
cũng nhƣ hạn chế của việc thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG ở
Việt Nam, làm cơ sở xác định các vấn đề quan trọng cần đƣợc tiếp tục nghiên
cứu ở Chƣơng 4.
4.3. Thu thập số liệu
+ Dữ liệu thứ cấp: Các báo cáo của Chính phủ, Quốc hội, Tòa án, Viện
kiểm sát nhân dân, các bộ, ngành về thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an
ninh quốc gia. Các báo cáo sơ kết, tổng kết của Đảng về vấn đề an ninh quốc
gia trong 20 năm trở lại đây. Thống kê của các ngành Công an, Kiếm sát, Tòa
án, các địa phƣơng…
+ Dữ liệu sơ cấp:
Điều tra phiếu hỏi: Đối tƣợng là các cán bộ, công chức, viên chức lãnh
đạo trong lực lƣợng vũ trang. Phiếu phát ra là 300 phiếu, phiếu thu về là 245
13
phiếu. Số lƣợng phiếu sử dụng đƣợc 215 phiếu. Cơ cấu phiếu bảng dƣới:
Bảng: Cơ cấu phiếu điều tra khảo sát
Ghi chú
Stt Nhóm điều tra phiếu Số phiếu 87 Lực lƣợng Công an 1 Lực lƣợng Quân đội (Bộ đội biên phòng) 78 2 3 Cán bộ công chức 50
Phỏng vấn sâu: Tiến hành với 31 ngƣời. Thời gian phỏng vấn trung bình
mỗi ngƣời là 01 giờ, cá biệt thời gian phỏng vấn có ngƣời lên đến 2h (là lãnh
đạo ngành Công an). Cơ cấu đối tƣợng đã phỏng vấn theo bảng sau:
Bảng: Cơ cấu đối tượng phỏng vấn sâu
Stt Nhóm phỏng vấn Vị trí công tác
địa 1 2 3 4
Số lƣợng 8 Lãnh đạo Công an Lãnh đạo Quân đội 5 Lãnh đạo bộ, ngành 3 5 Lãnh đạo phƣơng
5 Khu vực xã hội 10 Các cục và đơn vị nghiệp vụ Các cục và đơn vị nghiệp vụ Bộ Ngoại giao,Nội vụ, Giáo dục Chủ tịch và Phó Chủ tịch tỉnh/thành phố; 01 giám đốc sở ngoại vụ Tổ chức nhân dân, cộng đồng
4.4. Phân tích số liệu
+ Phiếu điều tra đƣợc xử lý làm sạch; nhập phần mềm SPSS; phân tích
thống kê tần suất có kiểm định độ tin cậy Khi bình phƣơng.
+ Kết quả phỏng vấn sâu đƣợc ghi chép, tổng hợp những ý kiến chủ đạo,
đối chiếu các chủ thể chính sách bảo vệ ANQG và đối chiếu so sánh tam giác
với kết quả phiếu điều tra, số liệu thứ cấp là các báo cáo sơ kết, tổng kết và
các văn bản chính thức về chính sách pháp luật về bảo vệ ANQG.
+ Do tính chất của nghiên cứu, nên nguồn số liệu thứ cấp là nền tảng,
các số liệu thu thập sơ cấp làm bổ trợ, hoặc củng cố cho những dữ liệu thứ
cấp là các báo cáo. Bên cạnh đó, một số số liệu thống kê của ngành An ninh,
Tòa án, Viện kiểm sát đƣợc sử dụng nhƣ một minh chứng quan trọng đảm bảo
14
độ chính xác, tin cậy của nghiên cứu.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Dự kiến sau khi hoàn thành, luận án sẽ có những đóng góp mới nhƣ sau:
- Khái quát“bức tranh toàn cảnh”về những công trình nghiên cứu ở
Việt Nam và trên thế giới về chính sách pháp luật bảo vệ ANQG;
- Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG: Khái niệm chính sách pháp luật bảo vệ ANQG, chính sách pháp luật
bảo vệ ANQG ở Việt Nam; vấn đề, mục tiêu, giải pháp, công cụ chính sách
pháp luật bảo vệ ANQG ở Việt Nam; thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG; các lĩnh vực chính sách pháp luật bảo vệ ANQG;
- Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG ở
Việt Nam, chỉ ra ƣu điểm, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế;
- Phân tích những yếu tố ảnh hƣởng đến thực hiện chính sách pháp luật bảo
vệ ANQG ở Việt Nam; trình bày phƣơng hƣớng và đề xuất một số giải pháp
nhằm hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án
Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án làm rõ một số vấn đề lý
luận chung về chính sách pháp luật bảo vệ ANQG; đánh giá thực trạng thực
hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG ở Việt Nam, chỉ ra ƣu điểm, hạn chế
và nguyên nhân của hạn chế; phân tích những yếu tố ảnh hƣởng đến thực hiện
chính sách pháp luật bảo vệ ANQG ở Việt Nam; trình bày phƣơng hƣớng và
đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG
ở Việt Nam hiện nay.
Về mặt thực tiễn: Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu, giảng dạy; là tài liệu tham khảo cho cán bộ trong hoạt động thực
tiễn; là tài liệu góp phần để tham khảo trong quá trình xây dựng và hoàn thiện
15
hệ thống chính sách pháp luật bảo vệ ANQG.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm 4 chƣơng:
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Chương 2: Những vấn đề lý luận chung về chính sách pháp luật bảo vệ
an ninh quốc gia
Chương 3: Thực trạng thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh
quốc gia ở Việt Nam hiện nay
Chương 4: Giải pháp hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh
16
quốc gia ở Việt Nam hiện nay
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Ở trong nƣớc hiện nay có nhiều nghiên cứu lựa chọn chính sách pháp
luật bảo vệ ANQG là đối tƣợng nghiên cứu và đề cập dƣới các khía cạnh khác
nhau. Sắp xếp theo các góc độ khác nhau đó, có thể chỉ ra các nhóm công
trình khoa học dƣới đây:
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về vấn đề, giải pháp và công cụ
chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia
Vấn đề chính sách pháp luật bảo vệ ANQG đƣợc các tác giả nghiên cứu
dƣới các góc độ, quy mô, lĩnh vực, phạm vi, giai đoạn khác nhau:
Trong những năm gần đây, vấn đề an ninh phi truyền thống đƣợc nhiều
tác giả quan tâm nghiên cứu, nhƣ: “An ninh phi truyền thống trong thời kỳ hội
nhập quốc tế”, của Tô Lâm và các tác giả, năm 2017; “An ninh phi truyền
thống: nguy cơ, thách thức, chủ trƣơng và giải pháp đối phó ở Việt Nam” của
tác giả Nguyễn Văn Hƣởng, năm 2014; “Quan điểm và giải pháp bảo vệ an
ninh quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” của Lê Văn Cƣơng và
các tác giả, năm 2005; “Mối đe dọa đối với an ninh phi truyền thống và tác
động của nó đến quan hệ quốc tế hiện nay” của Hồ Châu và các tác giả, năm
2006; đề tài NCKH cấp Bộ “Các thách thức an ninh phi truyền thống ở Đông
Nam Á và tác động đến Việt Nam” của Nguyễn Quang Chiến và các tác giả,
năm 2007; Đề tài NCKH cấp Bộ “Mối đe dọa an ninh phi truyền thống và giải
pháp nâng cao hiệu quả công tác Công an trong bảo vệ an ninh quốc gia” của
Phạm Minh Chính và các tác giả, năm 2014... Tuy có nhiều quan điểm, cách
tiếp cận khác nhau, nhƣng các tác phẩm đều khẳng định những nguy cơ, thách
thức an ninh phi truyền thống đang đe dọa trực tiếp, nghiêm trọng đến sự tồn
17
tại và phát triển bền vững của Việt Nam, đến vấn đề đảm bảo an ninh quốc
gia và trật tự an toàn xã hội. Các vấn đề nhƣ tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia, khủng bố, an ninh mạng và tội phạm sử dụng công nghệ cao, biến đổi khí
hậu và thảm họa thiên tai, an ninh môi trƣờng, an ninh năng lƣợng, an ninh tài
chính, tiền tệ, an ninh lƣơng thực, an ninh thông tin...đều là các vấn đề “nóng”
cần tập trung giải quyết triệt để.
Nhiều tác giả đã nghiên cứu về bốn nguy cơ đe dọa đến sự tồn vong của
Đảng Cộng sản và Nhà nƣớc Việt Nam đƣợc nhắc đến trong các văn kiện của
Đảng. Các tác phẩm: “Phòng, chống “diễn biến hòa bình” ở Việt Nam, mệnh
lệnh của cuộc sống” của tác giả Nguyễn Bá Dƣơng, năm 2020; “Phê phán các
quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tƣ tƣởng, cƣơng lĩnh, đƣờng lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam” của Hội đồng Lý luận Trung ƣơng, năm 2015; “Hãy
cảnh giác với “diễn biến hòa bình” chống phá Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Đình Minh, năm 2016... đã vạch trần bản chất, âm mƣu, thủ đoạn xảo quyệt
và tác hại của chiến lƣợc “diễn biến hòa bình” chống phá Việt Nam do các thế
lực thù địch gây ra; chỉ rõ sự thật về cái gọi là “cuộc cách mạng lý luận” và
vấn đề “thay máu cho hệ tƣ tƣởng” ở Việt Nam, mà thực chất là sự phủ nhận
chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, xóa bỏ con đƣờng đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nƣớc ta, thay vào đó là hệ tƣ tƣởng tƣ sản.
Luận án tiến sĩ “Các tội xâm phạm ANQG trong luật hình sự Việt Nam”
của tác giả Bạch Thành Định, năm 2000 đã phân tích thực trạng, diễn biến, cơ
cấu, tính chất của tội phạm xâm phạm ANQG từ năm 1975 đến năm 1999, từ
đó đã chỉ rõ vấn đề chính sách pháp luật bảo vệ ANQG Việt Nam giai đoạn
này là tình hình tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia không ngừng tăng lên
về số lƣợng, nghiêm trọng hơn về tính chất, thủ đoạn của hành vi phạm tội.
Luận án Tiến sĩ Luật học: “Đấu tranh phòng, chống tội tuyên truyền
chống Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Thị Phƣơng Thảo, năm 2016 đã phân tích khá đầy đủ về thực trạng gia tăng
18
hoạt động tuyên truyền chống Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của các đối tƣợng phạm tội hiện nay. Tác giả khẳng định, các đối tƣợng đã
triệt để lợi dụng sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, công nghệ internet để tiến
hành hoạt động phạm tội; đồng thời tác giả cũng chỉ ra rằng đây là thủ đoạn
làm cho tính chất hành vi phạm tội trở nên nguy hiểm hơn, gây hậu quả, tác
hại nặng nề hơn. Từ đó, tác giả chỉ ra đây là vấn đề chính sách cần đƣợc đặc
biệt quan tâm.
Luận án Tiến sĩ Luật học: “Các tội phạm về khủng bố trong Luật Hình
sự Việt Nam” của tác giả Đỗ Khắc Hƣởng; “Hoàn thiện pháp luật về phòng,
chống khủng bố - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nguyễn Ngọc Anh;
“Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về phòng, chống khủng bố ở
Việt Nam hiện nay”, Thông tin chuyên đề, Viện nghiên cứu lập pháp, là nhóm
nghiên cứu về tội phạm khủng bố. Các nghiên cứu đều chỉ ra rằng, trong xu
thế toàn cầu hóa hiện nay, đây là tội phạm có chiều hƣớng gia tăng cả về số
lƣợng và mức độ nguy hiểm, không một quốc gia nào có thể tuyệt đối an toàn
trƣớc tội phạm khủng bố, trong đó có Việt Nam. Từ đó, các nghiên cứu chỉ ra
tính cấp thiết phải có các giải pháp để giải quyết vấn đề chính sách nói trên.
Về giải pháp chính sách pháp luật bảo vệ ANQG, nhiều tác giả đề cập tới
các giải pháp đa dạng để xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG nhƣ: hoàn thiện những quy định chung, các quy định về địa vị pháp lý,
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chuyên trách bảo vệ ANQG, về
trách nhiệm bảo vệ ANQG của các cơ quan, tổ chức xã hội, đơn vị lực lƣợng
vũ trang và công dân, về trách nhiệm pháp lý đối với những hành vi vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ ANQG, về tổ chức bảo vệ ANQG, về hợp tác
quốc tế bảo vệ ANQG; đổi mới cơ bản quy trình xây dựng pháp luật nói
chung và pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ ANQG nói riêng đảm bảo tăng tốc,
nâng cao chất lƣợng văn bản QPPL. Điển hình là các nghiên cứu của các tác
giả: Phạm Văn Dần: Lãnh đạo của Đảng trong cuộc bảo vệ An ninh quốc gia
19
và trật tự an toàn xã hội (1954-1975), Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội;
Nguyễn Trần Hiếu: Biện pháp kinh tế trong bảo vệ An ninh quốc gia của lực
lượng An ninh nhân dân, những lý luận và thực tiễn, Đề tài khoa học cấp Bộ,
Hà Nội, 2017; Phạm Hồng Quân: Cộng đồng người Việt Nam ở Mỹ trong
chiến lược bảo vệ An ninh quốc gia, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội; Trần
Thế Quân: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện một bước cơ sở pháp lý về
bảo vệ An ninh quốc gia trong thời kì mới, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội;
Hồ Sỹ Tuệ: Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong chiến lược bảo vệ
An ninh quốc gia, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội; Trần Thế Quân: Phương
hướng, giải pháp hoàn thiện một bước cơ sở pháp lý về bảo vệ An ninh quốc
gia trong thời kì mới, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội; Hồ Sỹ Tuệ: Cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài trong chiến lược bảo vệ An ninh quốc gia, Đề
tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội; Nguyễn Xuân Toản: Những vấn đề lí luận về
xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý bảo vệ An ninh quốc gia, Đề tài khoa
học cấp Bộ, Hà Nội; Vũ Hải Triều: Quan điểm và giải pháp bảo vệ An ninh
quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
Trong các nhóm giải pháp nói trên, nhấn mạnh giải pháp quá trình xây
dựng, hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG phải đặt dƣới sự lãnh
đạo chặt chẽ của Đảng, báo cáo tổng luận “Bổ sung và hoàn thiện một bƣớc
cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo vệ ANQG trong tình hình mới”, 2014,
Chƣơng trình khoa học cấp Nhà nƣớc của tác giả Trần Đình Nhã và đồng
nghiệp lý giải: các quan hệ xã hội mà pháp luật hƣớng đến bảo vệ trong lĩnh
vực ANQG là những quan hệ xã hội đặc thù, do đó trong lĩnh vực bảo vệ
ANQG có nhiều văn bản của Đảng chỉ đạo trực tiếp. Hơn thế nữa, các văn
bản chỉ đạo của Đảng và các văn bản QPPL về bảo vệ ANQG thƣờng có độ
mật cao, ít phổ biến toàn văn ra công chúng. Xuất phát từ cách nhìn nhận
ANQG và bảo vệ ANQG nhƣ là những vấn đề mang tính “nội bộ” của mỗi
quốc gia, nên sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này cũng hạn chế hơn sự hợp
20
tác trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác.
Cùng quan điểm với tác giả Trần Đình Nhã, tác giả Phùng Thế Vắc
(2015) tiếp tục đề xuất: Về giải pháp xây dựng pháp luật, Đảng cần tăng
cƣờng lãnh đạo Quốc hội trong việc hoạch định, xây dựng chiến lƣợc xây
dựng pháp luật bảo vệ ANQG. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập
Hiến và lập pháp, phải có chiến lƣợc về xây dựng, hoàn thiện pháp luật bảo vệ
ANQG. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính
Nhà nƣớc cao nhất của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cần ban
hành Nghị định xác định trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp trong việc thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Bên cạnh đó, tác giả cũng cho rằng
cần tăng cƣờng giải pháp về tuyên truyền và giáo dục pháp luật bảo vệ ANQG
nhằm hƣớng tới nâng cao trình độ pháp luật và ý thức pháp luật, bảo đảm hiệu
quả thực thi pháp luật về bảo vệ ANQG.
Trên các lĩnh vực cụ thể, tác giả Lê Văn Cƣơng có đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Nhà nƣớc “Quan điểm và giải pháp bảo vệ ANQG trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế”, đã chỉ ra một số giải pháp hoàn thiện chính
sách pháp luật bảo vệ an ninh tƣ tƣởng – văn hóa: Hoàn thiện chính sách pháp
luật gắn với bảo vệ giá trị, truyền thống văn hóa dân tộc trong quá trình hội
nhập; tiến hành trên cơ sở một hệ thống các giải pháp đồng bộ trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội; tiếp tục thực hiện công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng theo các nghị quyết Trung ƣơng đã đề ra; tăng cƣờng vai trò lãnh đạo
của Đảng và công tác quản lý nhà nƣớc trong hoạt động của các cơ quan khối
tƣ tƣởng, văn hóa, các cơ quan lý luận, báo chí...; tăng cƣờng công tác tổng
kết thực tiễn, hoàn thiện lý luận, phát triển một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong quá trình xây dựng đất nƣớc theo định
hƣớng xã hội chủ nghĩa....
Một số công trình khoa học nhƣ: “Chiến lƣợc bảo vệ an ninh quốc gia”
21
(Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nƣớc, mã số 95-1040054); “Cơ chế lãnh
đạo của Đảng, quản lý của Nhà nƣớc, chính sách, pháp luật bảo đảm cho việc
thực hiện nhiệm vụ chiến lƣợc an ninh quốc gia trong giai đoạn mới” (Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ, mã số KX09-14.02, tác giả: Phùng Thế Vắc);
“Tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của lực lƣợng Công
an nhân dân trên lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia ở nƣớc ta hiện nay” (Luận
án Phó tiến sĩ khoa học Luật học, mã số 5.05.01, tác giả: Nguyễn Phùng
Hồng); “Đấu tranh phòng, chống các hành vi đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an
ninh quốc gia với việc thực hiện các chức năng của Nhà nƣớc trong điều kiện
đổi mới ở nƣớc ta hiện nay” (Luận án Phó tiến sĩ khoa học Luật học, mã số:
50.50.1, tác giả: Dƣơng Thanh Biểu)... đã giới thiệu, kiến nghị những vấn đề
chung nhất về sự cần thiết phải xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách
pháp luật bảo vệ ANQG.
Có thể nhìn thấy một cách tƣơng đối rõ ràng, các nghiên cứu nói trên đã
tiếp cận vấn đề chính sách pháp luật bảo vệ ANQG dƣới nhiều góc độ và phạm
vi khác nhau. Do đó, bƣớc đầu đã giúp tác giả luận án nhìn nhận vấn đề chính
sách một cách tƣơng đối đa dạng và phong phú. Dù ở giai đoạn nào, lĩnh vực
nào, khía cạnh nào, có thể khẳng định hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia của
các thế lực thù địch và các đối tƣợng phản động luôn ráo riết, quyết liệt. Chúng
chƣa bao giờ từ bỏ âm mƣu xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và
con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội của nƣớc ta. Tuy nhiên, có thể khẳng định
chƣa có một nghiên cứu nào đề cập một cách khái quát, toàn diện về vấn đề
chính sách pháp luật bảo vệ ANQG.
Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu đã đề cập đến các giải pháp có tính khả
thi nhằm nâng cao hiệu quả việc xây dựng, hoàn thiện chính sách pháp luật
bảo vệ ANQG. Nhƣ đã phân tích ở trên, các tác giả mới chỉ dừng ở góc độ đề
xuất những giải pháp, công cụ cho vấn đề chính sách ở từng lĩnh vực, từng
giai đoạn cụ thể. Do đó, cần có một cái nhìn tổng quát cho vấn đề chính sách
22
pháp luật bảo vệ ANQG chung nhất hiện nay, cũng chính là vấn đề đang đƣợc
bỏ ngỏ trong các nghiên cứu chính sách pháp luật bảo vệ ANQG đến thời
điểm hiện tại.
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về các yếu tố tác động đến chính
sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia
Các văn kiện đại hội Đảng qua các thời kỳ đã đề cập đến một trong
những yếu tố có tác động mạnh mẽ nhất đến chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG, đó là quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc ta trong quan điểm về đối tƣợng
– đối tác trong chính sách đối ngoại. Từ quan điểm “Việt Nam muốn là bạn
với các nƣớc trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát
triển” (Văn kiện Đại hội VII), đƣợc kế thừa, phát triển thành: “Việt Nam sẵn
sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nƣớc trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu
vì hòa bình, độc lập và phát triển” (Đại hội IX) và nguyên tắc xác định đối
tƣợng- đối tác đƣợc đƣa ra tại Hội nghị Trung ƣơng 8 (khóa IX) là: “Những ai
tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp
tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể
lực lƣợng nào có âm mƣu và hành động chống phá mục tiêu của nƣớc ta trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tƣợng đấu tranh”. Quan
điểm này tiếp tục đƣợc Đảng ta khẳng định và phát triển tại Nghị quyết số 28-
NQ/TW, ngày 25/10/2013 về Chiến lƣợc bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới,
trong đó nhấn mạnh, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến mau lẹ và
phức tạp, cần có cách nhìn biện chứng về đối tác- đối tƣợng, cần nhận thức rõ
trong mỗi đối tƣợng vẫn có thể có mặt cần phải tranh thủ, hợp tác và trong
mỗi đối tác cũng có thể có mặt khắc biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta, cần
phải đấu tranh. Từ đó, chính sách pháp luật bảo vệ ANQG cần đƣợc xây
dựng, hoàn thiện kịp thời theo sự phát triển của quan điểm của Đảng, Nhà
nƣớc về vấn đề này.
Các yếu tố ảnh hƣởng đến pháp luật bảo vệ ANQG cũng đã đƣợc phân
23
tích khá sâu sắc trong công trình nghiên cứu: “Hội nhập kinh tế quốc tế,
những vấn đề đặt ra đối với công tác công an” của nhóm tác giả do Thiếu
tƣớng, Giáo sƣ, Tiến sĩ Phạm Ngọc Hiền làm chủ biên, Nhà xuất bản Công an
nhân dân ấn hành năm 2011. Công trình đã chỉ rõ những nhân tố cơ bản trong
quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế chi phối đến pháp luật bảo vệ
an ninh quốc gia gồm: sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghệ
cao; vấn đề an ninh của các quốc gia đã phụ thuộc lẫn nhau và phụ thuộc an
ninh toàn cầu và an ninh khu vực; vấn đề đảm bảo an ninh quốc gia đã và
đang có xu hƣớng mở rộng cả về không gian và nội dung của nó; các nguy cơ
đe dọa đến an ninh các nƣớc, đặc biệt là các nƣớc đang phát triển ngày càng
đa dạng và đến từ nhiều hƣớng, trên mọi phƣơng diện từ chính trị, kinh tế,
văn hóa, tôn giáo, dân tộc, xã hội, môi trƣờng..
Quan tâm đến ảnh hƣởng trực tiếp của chính sách các nƣớc lớn đến an
ninh quốc gia và chính sách pháp luật ANQG Việt Nam, tác giả Phạm Ngọc
Quảng có đề tài khoa học cấp Bộ: “Một số vấn đề chiến lƣợc của Mỹ có liên
quan đến An ninh quốc gia Việt Nam và kiến nghị một số giải pháp của Việt
Nam trong bảo vệ An ninh Quốc gia trong thời kì mới”. Tác giả khẳng định,
một số chiến lƣợc của Mỹ có những ảnh hƣởng liên quan trực tiếp đối với an
ninh quốc tế, trong đó có Việt Nam; do đó cần có một hệ thống các đối sách
phù hợp trên các phƣơng diện chính trị, kinh tế, xã hội.
Qua nghiên cứu tổng quan, tác giả luận án nhận thấy các yếu tố tác động
đến chính sách pháp luật bảo vệ ANQG ít nhiều đều đƣợc đề cập đến trong
phần nội dung của các nghiên cứu liên quan đến đề tài này. Tuy nhiên đƣợc
đề cập tới là đối tƣợng nghiên cứu chính của luận án nhƣ nghiên cứu của tác
giả Phạm Ngọc Hiền và Phạm Ngọc Quảng thì không nhiều.
1.1.3. Nhóm công trình nghiên cứu về thể chế chính sách pháp luật
bảo vệ an ninh quốc gia
Nghiên cứu các công trình, các tài liệu nghiên cứu ở nƣớc ngoài trực tiếp
nghiên cứu về thể chế chính sách pháp luật bảo vệ ANQG cho thấy một bức
24
tranh đa màu sắc tùy thuộc vào đặc điểm của từng quốc gia, điển hình:
- Liên bang Nga: Sau khi Liên Xô tan rã, Liên Bang Nga là chủ thể hợp
pháp kế thừa các quyền và nghĩa vụ của Liên Xô (cũ). Ngày 5.1.1994, Tổng
thống Liên bang Nga ký Sắc lệnh số 19 về việc phê chuẩn “Quy chế về Cơ
quan phản gián Liên bang của Liên bang Nga”. Trong sắc lệnh này có nội
dung tuyên bố Sắc lệnh số 42 ngày 24.4.1991 của Tổng thống Liên bang Nga
về việc thành lập Bộ An ninh Liên bang Nga cùng với những thay đổi sau đó
mất hiệu lực thi hành. Theo sắc lệnh số 19 nêu trên, Cơ quan phản gián Liên
bang của Liên bang Nga (viết tắt là FSB) là cơ quan trung ƣơng quyền lực của
Nhà nƣớc Liên bang, chỉ đạo hoạt động của các cơ quan phản gián trực thuộc
và xí nghiệp, tổ chức, đơn vị bộ đội, các cơ sở đào tạo thuộc ngành phản gián.
FSB tiến hành công tác phát hiện, phòng ngừa và ngăn chặn hoạt động gián
điệp phá hoại của các tổ chức và cơ quan đặc biệt nƣớc ngoài, sự xâm phạm
trái phép chế độ hiến pháp, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và khả năng quốc
phòng của Liên bang Nga.
Quy chế về Cơ quan phản gián Liên bang Nga ban hành kèm theo Sắc
lệnh nêu trên quy định hệ thống, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc hoạt
động của Cơ quan phản gián Liên bang của Liên bang Nga (FSB); quy định
Tổng thống Liên bang Nga là ngƣời thực hiện quyền giám sát hoạt động của
FSB; xác định FSB có tƣ cách pháp nhân, có tên chính thức và mật danh, có biểu
tƣợng, con dấu với hình quốc huy Liên bang Nga và tên gọi của mình, có tài
khoản ở các nhà băng, kể cả ngoại tệ.
Về nhiệm vụ của FSB: phát hiện, phòng ngừa và ngăn chặn hoạt động
gián điệp phá hoại của các tổ chức và cơ quan đặc biệt nƣớc ngoài chống Liên
bang Nga; thu thập tin tức tình báo và mối đe dọa an ninh của Nga; đảm bảo
việc cung cấp thông tin cho Tổng thống về mối đe dọa an ninh của Nga; đấu
tranh chống khủng bố, lƣu thông bất hợp pháp vũ khí và chất ma túy, chống
các đơn vị vũ trang bất hợp pháp, các hội đoàn bị cấm hoặc thành lập trái
25
phép đang xâm hại chế độ hợp tiến của Nga; đảm bảo việc giữ gìn bí mật
quốc gia của Liên bang Nga trong phạm vi thẩm quyền của mình; đảm bảo
bảo vệ biên giới quốc gia của Nga về mặt nghiệp vụ phản gián.
- Trung Quốc: Trung Quốc cho rằng, ban hành Luật ANQG là cần thiết,
có lợi cho cải thiện, mở cửa và xây dựng kinh tế, thúc đẩy công tác ANQG,
phục vụ đắc lực đƣờng lối cơ bản của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tăng cƣờng
đảm bảo an ninh, tăng cƣờng phát huy nền chuyên chính dân chủ nhân dân trên
trận tuyến bí mật.
Sau khi Bộ ANQG đƣợc thành lập năm 1983, Trung Quốc đã tổ chức
nghiên cứu vấn đề lập pháp về công tác ANQG. Năm 1987, Trung Quốc đã
bắt đầu soạn thảo Luật ANQG, qua điều tra nghiên cứu rộng rãi, lập luận
chứng, sửa đổi và học tập kinh nghiệm của nƣớc ngoài, dự án đƣợc tiến hành
sửa đổi nhiều lần. Tháng 4/1990, dự án luật đƣợc đƣa ra trƣng cầu ý kiến của
các cơ quan hữu quan đầu ngành trung ƣơng và một số chuyên gia về pháp
luật. Qua 15 lần sửa đổi lớn, tháng 12/1990, Quốc vụ viện Trung Quốc xem
xét và trƣng cầu ý kiến của các tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc và ngành
hữu quan, quân đội và các đảng phái dân chủ, rồi đƣợc sửa đổi tiếp. Ngày
8/12/1992, dự thảo luật đƣợc trình lên Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội, tại kỳ họp
thứ 30 của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội khóa 7, Luật ANQG nƣớc Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa chính thức đƣợc thông qua ngày 1/6/1994.
Theo quan niệm của nhà nƣớc Trung Quốc, hành vi xâm phạm ANQG,
về nghĩa rộng, còn bao gồm sự xâm nhập quân sự từ bên ngoài, phần tử thù
địch trong nƣớc và thế lực thù địch gây động loạn, phiến loạn... Tuy nhiên,
trong phạm vi của Luật ANQG, các hành vi xâm phạm ANQG sau đây thì
đƣợc coi là hành vi phạm pháp thuộc đối tƣợng của Luật này: Âm mƣu lật đổ
chính quyền, chia rẽ đất nƣớc, phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa; tham gia tổ
chức gián điệp hoặc nhận nhiệm vụ của tổ chức gián điệp và các phần tử
26
khác; lấy trộm, dò la, mua chuộc, cung cấp bí mật quốc gia trái phép; kích
động, móc nối mua chuộc nhân viên Nhà nƣớc tiến hành đảo chính; tiến hành
các hoạt động phá hoại, xâm phạm ANQG.
- Hàn Quốc: Ngày 31/5/1991, Hàn Quốc ban hành Luật ANQG – Bộ
luật số 4373 (đƣợc sửa đổi trên cơ sở của Bộ luật số 3318 ban hành ngày
31/12/1990). Luật này gồm 4 chƣơng với 25 điều, có phần phụ lục với 4 điều
và phụ lục bổ sung với 3 khoản. Điểm đặc biệt của Luật ANQG Hàn Quốc là
có quy định hình phạt đối với các hành vi phạm tội xâm phạm ANQG, đồng
thời quy định cả một số điều khoản đặc biệt về thủ tục tố tụng hình sự.
Mục đích của Luật này là nhằm kiểm soát các hoạt động chống lại Nhà
nƣớc, nguy hiểm đến ANQG để đảm bảo sự an toàn cho Nhà nƣớc và quyền
tự do cho nhân dân. Điều 2 của Luật này quy định “tổ chức chống Nhà nƣớc”
là các hội, nhóm có tổ chức trong hoặc ngoài nƣớc Hàn Quốc có ý định trở
thành chính phủ hoặc quấy rối, cản trở Nhà nƣớc.
Luật quy định các hành vi phạm tội xâm phạm ANQG, hình phạt tƣơng
ứng với các hành vi đó và một số quy định khác. Cụ thể, Luật định về: thành
lập tổ chức chống Nhà nƣớc; việc thực hiện các hành vi phạm tội; việc tự
nguyện giúp đỡ hoặc nhận tiền, vật chất; việc đào tẩu và xâm nhập; việc xúi
giục và khuyến khích; việc hội họp, giao thông, liên lạc; việc tạo điều kiện
thuận lợi; việc không chịu khai báo; việc thoái thác trách nhiệm; việc tố cáo
giả hoặc bịa đặt vu cáo; mức hình phạt đặc biệt; tạm hoãn thi hành án; tịch thu
và sung công quỹ; giảm án; phủ nhận hiệu lực của Bộ luật khác; việc xét xử và
giam giữ nhân chứng (trong trƣờng hợp nhân chứng có ít nhất 2 lần từ chối có
mặt khi đƣợc triệu tập với lý do không chính đáng); quy định về việc kéo dài
thời gian giam giữ (đối với những ngƣời đã bị giam giữ theo luật định) và quy
định về việc tạm hoãn khởi tố; về các phần thƣởng và ân xá.
- Australia: “Luật Tình báo An ninh Australia” đƣợc Quốc hội
Australia thông qua năm 1979 và đƣợc bổ sung, sửa đổi nhiều lần (lần sửa đổi
27
gần đây nhất vào ngày 24 tháng 5 năm 2001) và đang có hiệu lực. Luật này
quy định về cơ cấu, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, hoạt động
của Cơ quan Tình báo An ninh Australia và sự phối hợp hoạt động giữa cơ
quan phản gián và Tình báo Australia. Chức năng của Cơ quan tình báo gồm:
thu thập, xử lý, đánh giá tin tức tình báo liên quan đến ANQG, cung cấp tin
tình báo cho các cá nhân có trách nhiệm, tham mƣu cho Bộ trƣởng, Cơ quan
Liên bang những vấn đề trong phạm vi chức năng, cung cấp các đánh giá về tình
hình ANQG, về lệ phí phải trả cho việc tham vấn hoặc cung cấp thông tin của cơ
quan khi cung cấp thông tin; chỉ Tổng giám đốc hoặc cán bộ đƣợc ủy quyền thay
mặt Cơ quan đƣợc quyền trao đổi tin tức tình báo.
Xuất phát từ tính chất, đặc điểm quan trọng của ANQG, quy trình, thủ
tục ban hành Luật ANQG cũng nhƣ quy trình lập pháp của hầu hết các nƣớc
đều rất chặt chẽ. Tác giả đã nghiên cứu quy trình này của một số quốc gia sau
đây: Mỹ, Pháp, Nhật, Đức, Anh, Italia. Ở các nƣớc này, quy trình lập pháp
của các nghị viện đƣợc bắt đầu bằng sáng quyền lập pháp. Ngƣời có quyền
sáng lập pháp, tức là ngƣời có quyền trình bày trƣớc Quốc hội (Nghị viện)
những dự án luật. Chủ thể sáng quyền lập pháp này thƣờng đƣợc quy định
trong Hiến pháp, trong Luật về quy chế của Nghị viện và rất hẹp, chủ yếu là
dành cho các nghị sĩ. Nghị sĩ muốn đề xuất dự án luật phải có sự ủng hộ tối
thiểu của một số lƣợng nghị sĩ. Ví dụ: Nghị sĩ Nhật muốn đệ trình một dự án
luật thì phải tìm đƣợc sự ủng hộ bằng chữ ký của ít nhất 20 hạ nghị sĩ hoặc
của ít nhất 10 thƣợng nghị sĩ. Số ngƣời này sẽ tăng lên nếu dự án đề xuất là
dự án thuế, ngân sách, tài chính. Nhiều nƣớc còn quy định dự án luật trƣớc
khi đƣa và chƣơng trình của Nghị viện phải đƣa ra trƣng cầu ý kiến của cử tri
(Thụy Sĩ – dự án luật cần phải có 50.000 cử tri đồng ý).
Ở Mỹ, sáng quyền lập pháp là đặc quyền của nghị sĩ. Theo quan điểm
của nhiều nhà luật học Mỹ, việc quy định nhƣ vậy nhằm mục đích bảo đảm
quyền hạn lập pháp đích thực của Quốc hội. Nhƣng, bộ máy hành pháp do
28
Tổng thống Mỹ đứng đầu tác động rất mạnh đến việc trình dự án luật của nghị
sĩ bằng nhiều biện pháp và hình thức khác nhau. Khoảng gần một nửa số dự
án luật Quốc hội Mỹ do Tổng thống đề nghị, thông qua các thông điệp gửi
Quốc hội.
Việc thảo luận các dự án là bƣớc tiếp theo các qui trình lập pháp. Việc
thảo luận này thông thƣờng đƣợc chia ra làm ba giai đoạn, ứng với mỗi giai
đoạn là một lần đọc. Ở Anh lần đọc thứ nhất dự án luật chỉ cần chuyển cho
Thƣ ký Hạ viện. Thƣ ký đọc vắn tắt tên dự án, không cần phải thảo luận và ấn
định thời gian cho lần đọc thứ hai. Tại lần đọc thứ hai, dự án đƣợc thảo luận
trên nghị trƣờng. Mục đích của lần đọc này là thảo luận các nguyên tắc của
của dự án. Tại lần đọc này, Nghị viện có thể đình chỉ việc xem xét dự án,
hoặc nếu tiếp tục thì quyết định chuyển cho các ủy ban thƣờng trực, bao gồm
các thành viên do ủy ban chỉ định lựa chọn, xem xét. Sau đó, dự án lại đƣợc
chuyển về Hạ viện xem xét. Dƣới sự chủ tọa của Chủ tịch, Hạ viện kiểm tra
lại hoạt động của ủy ban và chỉnh lý lại dự án.
Sau đó, dự án chuyển sang lần đọc thứ 3, bắt đầu bằng việc nghe tóm tắt
các ý kiến chống đối, đồng ý với dự án, và biểu quyết thông qua. Khi có ý kiến
chống đối thì chủ tịch phải phân bố thời gian phát biểu đều cho hai bên. Nếu
Nghị viện có cơ cấu hai viện, dự án sau khi đƣợc một viện xem xét xong thì
chuyển cho viện thứ hai.
Ở Mỹ, một dự án có thể đƣợc chuyển cho Hạ viện bất cứ lúc nào. Ngƣời
ta làm một thùng riêng dành cho dự án. Ngƣợc lại, ở Thƣợng viện dự án chỉ
đƣợc bỏ vào thùng theo một thời gian nhất định. Sau đó, các dự án đƣợc chuyển
thẳng cho ủy ban. Tại đây các ủy ban phải xem xét cụ thể, chi tiết các dự án và
có toàn quyền quyết định số phận các dự án. Ủy ban có thể quyết định không
tiếp tục thẩm tra dự án, và trong trƣờng hợp này tiến trình thảo luận dự án bị
đình chỉ và kiến nghị luật phải hủy bỏ, kết thúc lần đọc thứ nhất.
Nếu đƣợc các ủy ban chấp thuận, dự án chuyển về cho Nghị viện xem
29
xét và biểu quyết từng điều. Đây là giai đoạn kết thúc lần đọc thứ hai dự án.
Lần đọc thứ ba, đƣợc bắt đầu và kết thúc bằng việc biểu quyết thông qua toàn
văn dự án. Dự án đƣợc thông qua sẽ chuyển cho thƣ viện thứ hai xem xét và
quyết định. Nếu giữa hai bên có ý kiến bất đồng thì phải thành lập ủy ban hòa
giải, bao gồm các thành viên đại diện cho hai viện giải quyết.
Ở Nhật Bản, dự án chuyển cho viện nào xem xét trƣớc cũng đƣợc.
Trong vòng 5 ngày, viện nhận đƣợc dự án phải xem xét và chuyển cho viện
kia cùng xem xét. Dự án có thể đƣợc chuyển cho ủy ban thƣờng trực xem xét,
ủy ban có toàn quyền bãi bỏ dự án mà không cần thuyết trình trƣớc viện, nếu
không có 20 nghị sĩ yêu cầu.
Ở Cộng hòa liên bang Đức, một dự án luật đƣợc đệ trình qua ba lần
đọc. Việc thẩm tra dự án của các ủy ban đƣợc tiến hành giữa hai lần đọc thứ
nhất và lần đọc thứ hai, hoặc cũng có thể dự án đƣợc gửi thẳng cho ủy ban
thảo luận trƣớc. Lần đọc thứ ba, dự án đƣợc thảo luận từng điều và Hạ viện
tiến hành biểu quyết toàn văn dự án.
Ở Pháp, dự án luật hoặc kiến nghị luật phải đƣợc chuyển trƣớc cho các
ủy ban của Nghị viện xem xét. Kết thúc việc xem xét, các ủy ban phải làm
báo cáo thẩm tra trình trƣớc Quốc hội. Nếu nhƣ sáng kiến luật là những kiến
nghị của nghị sĩ, ủy ban phải có dự án luật kèm theo nếu nhƣ ủng hộ kiến nghị
đó. Báo cáo thẩm tra là cơ sở cho việc thảo luận và thông qua dự án.
So với các nƣớc tƣ bản phát triển nêu trên, qui trình lập pháp của Italia
có nét đặc biệt hơn cả. Nét đặc biệt thể hiện ở chỗ, các ủy ban Nghị viện có
quyền thông qua các dự án luật. Theo quy định của pháp luật Italia, các ủy
ban của hai viện cũng có chức năng tƣ vấn, xét xử trƣớc các dự án để phục vụ
cho việc thông qua các dự án này tại nghị trƣờng nhƣ các nƣớc khác.
Nhƣng, nếu đƣợc sự cho phép của Chủ tịch viện, dự án có thể đƣợc ủy
ban tƣơng ứng của hai viện xem xét và thông qua không cần phải qua Nghị
viện. Trên các phiên họp này, các nghị sĩ không phải thành viên của ủy ban
30
cũng có quyền đến dự nhƣng không đƣợc biểu quyết. Dự án đƣợc 4/5 tổng số
thành viên của ủy ban bỏ phiếu thuận trở thành luật, nếu bỏ phiếu chống thì
dự án bị bác bỏ hoàn toàn. Quyết định của ủy ban có thể đƣa ra Nghị viện
xem xét lại yêu cầu của Chính phủ, của ít nhất 1/10 tổng số nghị sĩ hoặc 1/4
thành viên ủy ban. Từ năm 1958 đến 1976, ủy ban của Nghị viện Italia đã
thông qua đƣợc 5733 dự án luật. Trên thực tế, khoảng 80% dự án luật không
đƣa Nghị viện thông qua, mà đƣợc thông qua tại các phiên họp của các ủy ban.
Sau khi đƣợc Nghị viện thông qua, dự án luật đƣợc chuyển đến Nguyên
thủ quốc gia công bố. Một số nƣớc theo chính thể cộng hòa tổng thống quy
định: Tổng thống có quyền phủ quyết các đạo luật đã đƣợc Nghị viện thông
qua, yêu cầu nghị viện xem xét lại với lời phê bình của mình. Nếu nghị viện
với tổng số 2/3 nghị sĩ giữ nguyên đạo luật của mình, thì Tổng thống buộc
phải công bố. Ở Anh, theo quy định của pháp luật, Nữ hoàng cũng có quyền
phủ quyết, nhƣng tập tục cho thấy rằng chƣa bao giờ Nữ hoàng sử dụng đến
quyền hạn này.
Hiện nay, sự khủng hoảng của chế độ đại nghị gắn liền với việc giám
sát vai trò lập pháp của Nghị viện. Sự giảm sút này đƣợc thể hiện bằng những
dấu hiệu: Nghị sĩ bỏ rơi mất sáng quyền lập pháp, Nghị viện thƣờng thông
qua những dự án luật do Chính phủ đề xuất; sự tăng trƣởng của chức năng lập
pháp ủy quyền. Nhiều dự án luật, Nghị viện tự nguyện chuyển cho Chính phủ
ban hành; các nghị sĩ không đƣợc tự do biểu quyết, quyết định các dự án luật
khi đƣợc Nghị viện xem xét thông qua, mà phải biểu quyết theo sự chỉ thị của
đảng phái trực thuộc; các văn bản luật đƣợc Nghị viện thông qua bao gồm một
số quy định mang tính nguyên tắc, còn Chính phủ quy định chi tiết thì văn bản
luật đƣợc Nghị viện thông qua mới đƣợc thi hành. Việc không đƣợc chủ động
thực hiện tốt chức năng lập pháp của mình là một trong những nguyên nhân cơ
bản gây lên khủng hoảng chế độ nghị viện của các nƣớc tƣ sản.
Ở nƣớc ta, thể chế hoạch định chính sách pháp luật bảo vệ ANQG đƣợc
31
quy định trong các văn kiện đại hội Đảng và Nghị quyết Trung ƣơng. Văn
kiện các đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI và Đại hội XII đã luôn khẳng định
các luận điểm quan trọng: Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lƣợc của cách
mạng Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Xuất phát từ vai trò, vị trí quan trọng của ANQG, phù hợp thực tiễn
trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nƣớc ta ban hành các văn bản thể
hiện chính sách bảo vệ an ninh quốc gia nhƣ: Nghị quyết số 07-NQ/TW (năm
1987) về Nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội
trong tình hình mới; Nghị quyết Trung ƣơng 3, khóa VII (năm 1992) về
Nhiệm vụ quốc phòng và bảo đảm ANQG, chống “diễn biến hòa bình”; Nghị
quyết 08-NQ/TW (năm 1998) về Chiến lƣợc ANQG; Nghị quyết Trung ƣơng
8, khóa IX (năm 2003) về Chiến lƣợc bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới;
Nghị quyết số 40 NQ/TW (năm 2004) về Nâng cao chất lƣợng công tác công
an trong tình hình mới; Chỉ thị số 05-CT/TW (năm 2006) về Tăng cƣờng sự
lãnh đạo bảo đảm ANQG trong tình hình mới; Kết luận số 38-KL/TW, Kết
luận số 86-KL/TW về Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05; Nghị quyết số 28-
NQ/TW ngày 25/10/2013 về Chiến lƣợc bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới...
Đối với thể chế xây dựng và thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG, Hiến pháp năm 1992 khẳng định: “Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng
bất khả xâm phạm. Mọi âm mƣu và hành động chống lại độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chống lại sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đều bị nghiêm trị theo pháp luật”
(Điều 14); Hiến pháp 2013 quy định: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam là nhiệm vụ
của toàn dân. Nhà nƣớc củng cố và tăng cƣờng nền quốc phòng toàn dân và
an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực lƣợng vũ trang nhân dân; phát huy sức
mạnh tổng hợp của đất nƣớc để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ
hòa bình ở khu vực và thế giới. Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện”
(Điều 64), “Lực lƣợng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc,
32
với nhân dân, với Đảng và Nhà nƣớc, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự an toàn
xã hội; bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nƣớc và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng
toàn dân xây dựng đất nƣớc và thực hiện nghĩa vụ quốc tế” (Điều 65).
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành các luật:
Luật Công an nhân dân, Luật An ninh quốc gia, Luật Hình sự, Luật Tố tụng
hình sự, Luật Phòng chống tội phạm...trên cơ sở các luật nói trên, Chính phủ
ban hành các nghị định quy định chi tiết việc thực hiện các luật đó; Bộ Công
an và các bộ, ngành liên quan ban hành các thông tƣ hƣớng dẫn thực hiện
nghị định của Chính phủ.
Các quy định trong Hiến pháp, trong các luật, pháp lệnh của Quốc hội, của
Chính phủ, các thông tƣ của các bộ, ngành hữu quan tạo thành cơ sở pháp lý đầy đủ để ban hành các chính sách công trong lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia. [20].
1.1.4. Nhóm công trình nghiên cứu về các hành vi xâm phạm an ninh
quốc gia
Trên phƣơng diện nghiên cứu các hành vi xâm phạm an ninh quốc gia,
dƣới góc độ khoa học Luật Hình sự, nhiều công trình của các nhà nghiên cứu
đã phân tích làm rõ bản chất của các tội xâm phạm ANQG, cũng nhƣ chỉ ra
những dấu hiệu pháp lý đặc trƣng của nhóm tội phạm, của từng tội phạm cụ
thể. Từ đó, các tác giả chỉ ra những hạn chế, bất cập trong các quy định của
pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm ANQG đang gây khó khăn, vƣớng
mắc cho hoạt động áp dụng pháp luật hình sự trong thực tiễn, đồng thời đề
xuất một số phƣơng hƣớng khắc phục những hạn chế, bất cập. Điển hình là
các nghiên cứu: Luận án tiến sĩ Luật học: “Các tội xâm phạm an ninh quốc
gia trong Luật Hình sự Việt Nam” (2001) của tác giả Bạch Thành Định; Luận
án tiến sĩ Luật học: “Các tội xâm phạm an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện
nay: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” (2017) của tác giả
Nguyễn Thị Thanh Thùy; Luận án Tiến sĩ Luật học: “Đấu tranh phòng, chống
33
tội tuyên truyền chống Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
(2016) của tác giả Nguyễn Thị Phƣơng Thảo; Luận án Tiến sĩ Luật học: “Các
tội phạm về khủng bố trong Luật Hình sự Việt Nam” của tác giả Đỗ Khắc
Hƣởng; “Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống khủng bố - Những vấn đề lý
luận và thực tiễn”, Nguyễn Ngọc Anh, 2011; “Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn
thiện pháp luật về phòng, chống khủng bố ở Việt Nam hiện nay”, Thông tin
chuyên đề, Viện nghiên cứu lập pháp, 2013; Bài báo: “Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn của việc sửa đổi, bổ sung các tội xâm phạm an ninh quốc gia
trong Bộ luật Hình sự năm 1999”, Trần Quang Tiệp, Tạp chí kiểm sát, Số
4/2019; Bài báo “Hành vi khách quan của tội gián điệp trong Luật Hình sự
Việt Nam”, Nguyễn Duy Thuân, Tạp chí TAND, số 1/2013; Bài báo “Về thời
điểm hoàn thành tội gián điệp”, Lê Đăng Doanh, Tạp chí TAND, Số 7/2011;
“Các tội xâm phạm an ninh quốc gia trong Luật Hình sự Việt Nam - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn”, chuyên đề cao học, Học viện An ninh nhân dân,
năm 2008, tác giả Phùng Thế Vắc; “Phƣơng hƣớng hoàn thiện quy định của
Luật Hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm an ninh quốc gia”, đề tài cấp Bộ,
trƣờng Cao đẳng An ninh nhân dân I, năm 2013 do Phùng Văn Tài làm chủ
biên; Bài “Các tội xâm phạm ANQG, lịch sử, thực trạng và phƣơng hƣớng
hoàn thiện”, năm 1994, Thông tin khoa học pháp lý của tác giả Kiều Đình Thụ;
Bài báo “Một số ý kiến góp phần hoàn thiện quy định về các tội xâm phạm an
ninh quốc gia trong Bộ luật Hình sự năm 1999” của tác giả Nguyễn Thị Thanh
Thùy, Tạp chí Thanh tra số 7 năm 2013; “Tội tuyên truyền chống Nhà nƣớc
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Dƣới góc độ khoa học Luật Tố tụng hình sự, đề tài khoa học cấp Bộ
“Những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự trong
điều tra các vụ án xâm phạm ANQG- kiến nghị và giải pháp” (2014) do Tiến
sĩ Phạm Việt Trƣờng làm chủ biên đã luận giải vấn đề thực hiện pháp luật là
quá trình hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật đi vào
34
cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của mọi cơ quan Nhà
nƣớc, tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ có thẩm quyền và công dân. Thực hiện
pháp luật có bốn hình thức, đó là: Tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử
dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật,
sử dụng pháp luật là các hình thức trong đó mọi chủ thể pháp luật đều có thể
chủ động thực hiện. Riêng áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật
đòi hỏi phải có sự tham gia của Nhà nƣớc.
Tiếp tục đi sâu nghiên cứu về áp dụng pháp luật, đề tài “Giải pháp nâng
cao hiệu quả khởi tố hình sự đối với các vụ án xâm phạm ANQG” (2019) do
Thạc sĩ Lƣu Thanh Hùng làm chủ biên cho rằng, khởi tố hình sự là một trong
những vấn đề quan trọng của Luật Tố tụng hình sự và khoa học pháp lý tố
tụng lại là vấn đề phức tạp trong áp dụng pháp luật. Cũng là hoạt động trong
tố tụng hình sự nhƣng khởi tố hình sự đối với các vụ án xâm phạm ANQG có
nét đặc thù riêng xuất phát từ đặc điểm, tính chất của tội phạm và đặc điểm về
chỉ đạo, tổ chức hoạt động khởi tố. Cũng hƣớng tới hoàn thiện pháp luật bảo
vệ ANQG, đề tài “Phƣơng hƣớng hoàn thiện quy định của Luật Hình sự Việt
Nam về các tội xâm phạm ANQG”, 2013 do Thạc sĩ Phùng Văn Tài làm chủ
biên đã chỉ ra những hạn chế trong thiết kế mô hình cấu thành của một số tội
xâm phạm ANQG. Theo nhóm tác giả, đây là những hạn chế, bất cập về kỹ
thuật lập pháp. So với các tội phạm khác trong Bộ luật Hình sự, các tội xâm
phạm ANQG đƣợc mô tả khá chi tiết nhƣng thiên về liệt kê các hành vi phạm
tội hơn là khái quát hóa các hành vi đó, dẫn đến làm phức tạp hóa vấn đề và
khó chứng minh trên thực tế.
Nhiều nghiên cứu khác đã góp phần xây dựng, bổ sung, hoàn thiện lý
luận và quy định của Luật tố tụng hình sự về quá trình chứng minh trong tố tụng
hình sự nói chung và trong điều tra các tội xâm phạm ANQG nói riêng; về trình
tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia nhƣ:
“Lý luận chứng cứ và vận dụng nó trong quá trình chứng minh đối với vụ án
35
gián điệp ở giai đoạn điều tra theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận án Tiến
sĩ, Phùng Thế Vắc, 1997; “Chứng cứ trong điều tra các vụ án xâm phạm an ninh
quốc gia - những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận án Tiến sĩ, Nguyễn Duy
Thuân, 2015; “Quá trình chứng minh trong điều tra các vụ án xâm phạm an ninh
quốc gia”, Luận án tiến sĩ, Nguyễn Ngọc Hà, 2013; “Quá trình chứng minh các
vụ án hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân - những vấn đề đặt ra đối với
công tác an ninh”, Đề tài khoa học cấp bộ, Phạm Việt Trƣờng chủ biên, 2014;
“Giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng pháp luật trong khởi tố, điều tra các tội
xâm phạm an ninh quốc gia của Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh Gia Lai”,
Đề tài cấp cơ sở, Phạm Đắc Thiện chủ biên, 2014.
Có thể khẳng định, ở góc độ nghiên cứu hành vi xâm phạm ANQG, các
công trình nghiên cứu đã đề cập tƣơng đối đầy đủ các dấu hiệu pháp lý cũng
nhƣ áp dụng pháp luật tố tụng hình sự đối với nhóm tội xâm phạm ANQG nói
chung, từng tội danh thuộc nhóm tội nói riêng.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia là vấn đề đặc biệt quan
trọng của các quốc gia, do đó luôn đƣợc các nhà khoa học trên thế giới quan
tâm, nghiên cứu. Tuy nhiên, do an ninh quốc gia là vấn đề có tính chất tuyệt
mật của mỗi nƣớc, nên các công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực an
ninh quốc gia nói chung, chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia nói
riêng ít có sự hợp tác, trao đổi trên phạm vi quốc tế. Theo đó, nguồn tài liệu
nƣớc ngoài về vấn đề này không nhiều và tƣơng đối tản mạn.
Học giả ngƣời Anh Peter Mangold [52, tr. 1,2] đã chỉ ra rằng, về nguồn
gốc, từ ANQG là khái niệm của Mỹ, cho dù có thể tìm thấy tƣ tƣởng liên
quan trong trƣớc tác của Tổng thống đời thứ tƣ của Mỹ - J.Madison, nhƣng sự
xuất hiện của nó mới chỉ diễn ra mấy chục năm gần đây, xuất hiện sớm nhất
trong tác phẩm của nhà văn Oantơ Lipman năm 1943, trong chuyên mục báo
của Mỹ - “Chính sách ngoại giao của Mỹ” (US foreign Policy). Sau khi Chiến
36
tranh thế giới thứ hai kết thúc, cách đề cập đó mới trở thành một khái niệm
tiêu chuẩn thƣờng dùng trong chính trị quốc tế, và đã trở thành cách đề cập
mới thay thế từ vựng tƣơng đối cũ nhƣ công việc quân sự, chính sách ngoại
giao, công việc ngoại giao.
Có một số học giả nổi tiếng nhƣ: Barry Buzan, Daniel Frei, Robert
Jervis, đã phủ nhận an ninh có hàm nghĩa đƣợc xác định chính xác; họ cho rằng nó chẳng qua là một điều tƣợng trƣng mơ hồ [53, tr.3,4]. Quan điểm của
họ là: ở những nƣớc khác nhau, trong các trƣờng hợp khác nhau, thời đại khác
nhau, đứng trƣớc vấn đề khác nhau, mọi ngƣời buộc phải đƣa ra những giải
thích khác nhau về “an ninh quốc gia”. Vì thế, “an ninh quốc gia” là một khái
niệm hết sức phức tạp, bất kể định nghĩa, khái niệm thông thƣờng nào đều
không tránh khỏi thiên về khái quát. Họ cho rằng giải thích làm rõ hàm nghĩa
của an ninh chỉ có thể gắn với tình hình cụ thể.
Học giả ngƣời Mỹ Karl Doinch cũng cho rằng an ninh không có hàm ý
chuẩn xác. Ông chỉ ra rằng, an ninh có nghĩa là hòa bình và bảo vệ hòa bình,
nhƣng do an ninh là một loại giá trị, đồng thời cũng là phƣơng thức và điều
kiện để hƣởng thụ nhiều giá trị khác nữa, cho nên hàm ý của nó thƣờng là không rõ ràng [48, tr.183].
Khác với quan điểm nói trên, cũng có nhiều ngƣời cho rằng ANQG có
thể là một định nghĩa nói chung. Họ coi an ninh đồng nghĩa với việc không
tồn tại sự uy hiếp quân sự, hoặc định nghĩa nó là việc bảo vệ quốc gia tránh
khỏi sự lật đổ và tấn công của bên ngoài. Trong cuốn sách “Thinking about
national security” (Suy nghĩ về an ninh quốc gia), Harold Brown cho rằng
ANQG là một loại năng lực nhƣ thế này: bảo vệ thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của quốc gia, trong điều kiện hợp lý, duy trì liên hệ kinh tế giữa nó và bộ
phận còn lại của thế giới, ngăn chặn thế lực bên ngoài làm mất đi đặc trƣng,
chế độ và sự thống trị của nó, hơn nữa, còn là sự kiểm soát đƣợc biên giới của
37
mình. Bất luận đối với trạng thái an ninh hay biện pháp an ninh thì hàm nghĩa cơ bản của từ security đều nhƣ nhau [47, tr 4,11].
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án
Qua nghiên cứu các công trình nghiên cứu về chính sách pháp luật bảo
vệ ANQG ở cả hai cấp độ trong và ngoài nƣớc nhƣ đã đề cập ở trên, tác giả có
một số nhận xét, đánh giá về các kết quả nghiên cứu nhƣ sau:
1.3.1. Về những ưu điểm, những kết quả nghiên cứu mà Luận án sẽ kế
thừa, tiếp tục phát triển
Các nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nƣớc đã cung cấp cho tác
giả một cái nhìn toàn diện về khái niệm ANQG, bảo vệ ANQG, chính sách pháp
luật bảo vệ ANQG. Tổng quan các tài liệu này cho phép tác giả có cơ sở khái
quát khái niệm chính sách pháp luật bảo vệ ANQG một cách đa chiều và có tính
so sánh, đối chiếu.
Một trong những kết quả nghiên cứu có ý nghĩa đối với Luận án là tác
giả đã khái quát đƣợc thực trạng chính sách xây dựng pháp luật bảo vệ ANQG
của một số quốc gia trên thế giới, đặc biệt đã khẳng định đƣợc hầu hết các quốc
gia đã ban hành Luật bảo vệ ANQG nhƣ một phƣơng tiện cơ bản, chủ yếu của
chính sách pháp luật bảo vệ ANQG. Tuy luật này có tên gọi khác nhau ở mỗi
nƣớc nhƣng đều tập trung những QPPL về quản lý nhà nƣớc nhằm bảo vệ ANQG,
trong đó quy định về đối tƣợng đấu tranh, chủ thể tham gia bảo vệ ANQG, quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể đó, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ
quan bảo vệ ANQG và các quy định khác có liên quan. Từ đó, giúp tác giả có có
sở để nghiên cứu so sánh với thực trạng chính sách xây dựng pháp luật bảo vệ
ANQG ở Việt Nam và có thể luận giải đƣa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện
chính sách pháp luật bảo vệ ANQG Việt Nam.
Các nghiên cứu của nƣớc ngoài đã cho thấy một số kinh nghiệm của các
nƣớc trong xây dựng chính sách pháp luật bảo vệ ANQG nhƣ: nhấn mạnh vai
trò của công dân, các tổ chức khác trong bộ máy nhà nƣớc và xã hội trong
việc bảo vệ ANQG, quy định thành chƣơng riêng về quyền và nghĩa vụ của
38
các chủ thể này; những ràng buộc pháp lý nhằm đảm bảo cơ quan bảo vệ
ANQG không bị lạm quyền và vi phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân
và tổ chức, vi phạm dân chủ, nhân quyền hoặc có những hoạt động không kiểm
soát đƣợc. Nghiên cứu những kinh nghiệm lập pháp về bảo vệ ANQG của các
nƣớc cho phép tác giả luận án tham khảo, học tập nhằm đề xuất hoàn thiện chính
sách pháp luật bảo vệ ANQG của nƣớc ta trong tình hình mới.
Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam cũng đã bƣớc đầu tiếp cận và
phân tích chính sách pháp luật bảo vệ ANQG trên các lĩnh vực cụ thể. Các
phân tích này tiếp tục đƣợc tác giả luận án đánh giá, bình luận và từ đó đƣa ra
nhận định riêng của mình về khái niệm chính sách pháp luật bảo vệ ANQG
cũng nhƣ phân tích các chính sách pháp luật bảo vệ ANQG trên các lĩnh vực
khác nhau.
1.3.2 Về những vấn đề còn chưa được giải quyết thấu đáo hoặc cần
phải tiếp tục nghiên cứu
- Hiện nay nghiên cứu lý luận về chính sách pháp luật bảo vệ ANQG, từ
khái niệm, đặc điểm, nội dung, quá trình tổ chức thực hiện, các yếu tố ảnh
hƣởng còn bị bỏ ngỏ.
- Các nội dung: Vấn đề, giải pháp, công cụ, nhân tố ảnh hƣởng chính
sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia có đƣợc đề cập tới nhƣng trên các khía
cạnh, lĩnh vực riêng lẻ; chƣa có một nghiên cứu mang tính tổng quát và toàn
diện dƣới góc độ khoa học chính sách công. Riêng vấn đề chính sách ANQG,
mục tiêu chính sách ANQG, các giải pháp và công cụ chính sách ANQG và
phân tích chủ thể chính sách ANQG chỉ mới đƣợc nghiên cứu nhƣ một nội
dung trong các công trình, chƣa đƣợc đề cập tới nhƣ một đối tƣợng nghiên
cứu độc lập của các công trình khoa học. Đây là những khoảng trống tác giả
sẽ tập trung nghiên cứu trong luận án của mình.
- Các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG của các nghiên cứu trong và ngoài nƣớc chủ yếu ở giai đoạn xây dựng
chính sách. Tác giả sẽ đề xuất các giải pháp để hoàn thiện chính sách ở giai
39
đoạn thực hiện chính sách.
Tiểu kết chương 1
Chính sách pháp luật bảo vệ ANQG là vấn đề liên quan trực tiếp đến lĩnh
vực tối quan trọng của chế độ xã hội, đó là vấn đề chính trị, là sự tồn vong của
đất nƣớc, sự toàn vẹn của non sông, độc lập của dân tộc. Tuy nhiên, do đây là
một vấn đề hệ trọng, “nhạy cảm” nên đến nay vẫn chƣa có tổ chức, cá nhân
nào nghiên cứu một cách hệ thống, sâu sắc và toàn diện. Kết quả nghiên cứu
trong Chƣơng 1 của luận án đã xác định:
Thứ nhất, tác giả đã khái quát đƣợc thực trạng chính sách xây dựng pháp
luật bảo vệ ANQG của một số quốc gia trên thế giới, đặc biệt đã khẳng định
đƣợc hầu hết các quốc gia đã ban hành Luật bảo vệ ANQG nhƣ một phƣơng
tiện cơ bản, chủ yếu của chính sách pháp luật bảo vệ ANQG. Các nghiên cứu
của nƣớc ngoài đã cho thấy một số kinh nghiệm của các nƣớc trong xây dựng
chính sách pháp luật bảo vệ ANQG nhƣ: Nhấn mạnh vai trò của công dân, các
tổ chức khác trong bộ máy nhà nƣớc và xã hội trong việc bảo vệ ANQG, quy
định thành chƣơng riêng về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này; những
ràng buộc pháp lý nhằm đảm bảo cơ quan bảo vệ ANQG không bị lạm quyền
và vi phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức, vi phạm dân
chủ, nhân quyền hoặc có những hoạt động không kiểm soát đƣợc. Nghiên cứu
những kinh nghiệm lập pháp về bảo vệ ANQG của các nƣớc cho phép tác giả
luận án tham khảo, học tập nhằm đề xuất hoàn thiện chính sách pháp luật bảo
vệ ANQG của nƣớc ta trong tình hình mới.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu ở Việt Nam cũng đã bƣớc đầu tiếp
cận và phân tích chính sách pháp luật bảo vệ ANQG trên các nội dung cụ thể:
Các khái niệm cơ bản (chính sách, chính sách pháp luật, chính sách pháp luật
bảo vệ ANQG); vấn đề chính sách pháp luật bảo vệ ANQG; giải pháp, công
cụ chính sách pháp luật bảo vệ ANQG; các yếu tố tác động đến chính sách
pháp luật bảo vệ ANQG; thể chế chính sách pháp luật bảo vệ ANQG và các
40
hành vi xâm phạm ANQG. Tác giả cũng đã chỉ ra rằng các nội dung nói trên
đƣợc đề cập ở các khía cạnh, lĩnh vực riêng lẻ; chƣa có một nghiên cứu mang
tính tổng quát và toàn diện dƣới góc độ khoa học chính sách công. Riêng vấn
đề chính sách ANQG, mục tiêu chính sách ANQG, các giải pháp và công cụ
chính sách ANQG và phân tích chủ thể chính sách ANQG chỉ mới đƣợc
nghiên cứu nhƣ một nội dung trong các công trình, chƣa đƣợc đề cập tới nhƣ
41
một đối tƣợng nghiên cứu độc lập của các công trình khoa học.
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA
2.1. Chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia
Đối với khái niệm chính sách công, trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam,
các học giả đã đƣa ra nhiều khái niệm khác nhau, tùy thuộc vào mục đích, bối
cảnh nghiên cứu của họ. Mặc dù cho tới nay vẫn chƣa có một định nghĩa
thống nhất về chính sách công, nhƣng có thể điểm qua một số khái niệm đã
đƣợc đề cập trong các tài liệu đã đƣợc rà soát nhƣ dƣới đây:
Theo James Anderson (năm 1984): "Chính sách là đường lối hành động
có mục đích được ban hành bởi một hoặc một tập hợp các nhà hoạt động
chính trị để giải quyết một vấn đề phát sinh hoặc vấn đề cần quan tâm [43,
tr.6]. Theo Thomas R. Dye (năm 1972), "chính sách công là bất kỳ những gì nhà nước chọn làm hay không làm" [49, tr.7]. Wiliam Jenkins (năm 1978)
cho rằng "chính sách công là một tập hợp các quyết định liên quan với nhau
được ban hành mới một hoặc một nhóm các nhà hoạt động chính trị cùng
hướng đến lựa chọn mục tiêu và các phương thức để đạt mục tiêu trong một
tình huống xác định thuộc phạm vi thẩm quyền”[43, tr.4]. Chính sách công
đƣợc định nghĩa là một tập hợp các quyết định có liên quan về mục tiêu, giải
pháp và công cụ chính sách để giải quyết vấn đề chính sách theo mục tiêu
tổng thể đã xác định của đảng chính trị cầm quyền [19, tr.24]. Từ điển Bách
khoa Việt Nam đã đƣa ra khái niệm về chính sách nhƣ sau: "Chính sách là
những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được
thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó.
Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất
của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…".
Về khái niệm “an ninh quốc gia”, học giả ngƣời Anh Peter Mangold đã
42
chỉ ra rằng, về nguồn gốc, “an ninh quốc gia” là khái niệm của Mỹ, cho dù có
thể tìm thấy tƣ tƣởng liên quan trong trƣớc tác của Tổng thống đời thứ tƣ của
Mỹ - J.Madison, nhƣng sự xuất hiện của nó mới chỉ diễn ra mấy chục năm gần
đây, xuất hiện sớm nhất trong tác phẩm của nhà văn Oantơ Lipman năm 1943,
trong chuyên mục báo của Mỹ - “Chính sách ngoại giao của Mỹ” (US foreign
Policy). Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, cách đề cập đó mới trở
thành một khái niệm tiêu chuẩn thƣờng dùng trong chính trị quốc tế, và đã trở
thành cách đề cập mới thay thế từ vựng tƣơng đối cũ nhƣ công việc quân sự,
chính sách ngoại giao, công việc ngoại giao [51, tr.37].
Có một số học giả nổi tiếng nhƣ: Barry Buzan, Daniel Frei, Robert
Jervis, đã phủ nhận an ninh có hàm nghĩa đƣợc xác định chính xác; họ cho rằng nó chẳng qua là một điều tƣợng trƣng mơ hồ [53, tr.56]. Quan điểm của
họ là: ở những nƣớc khác nhau, trong các trƣờng hợp khác nhau, thời đại khác
nhau, đứng trƣớc vấn đề khác nhau, mọi ngƣời buộc phải đƣa ra những giải
thích khác nhau về “an ninh quốc gia”. Vì thế, “an ninh quốc gia” là một khái
niệm hết sức phức tạp, bất kể định nghĩa, khái niệm thông thƣờng nào đều
không tránh khỏi thiên về khái quát. Họ cho rằng giải thích làm rõ hàm nghĩa
của an ninh chỉ có thể gắn với tình hình cụ thể.
Học giả ngƣời Mỹ Karl Doinch cũng cho rằng an ninh không có hàm ý
chuẩn xác. Theo ông, an ninh có nghĩa là hòa bình và bảo vệ hòa bình, nhƣng
do an ninh là một loại giá trị, đồng thời cũng là phƣơng thức và điều kiện để
hƣởng thụ nhiều giá trị khác nữa, cho nên hàm ý của nó thƣờng là không rõ
ràng [48, tr.17].
Khác với quan điểm nói trên, cũng có nhiều ngƣời cho rằng ANQG có
thể là một định nghĩa nói chung. Họ coi an ninh đồng nghĩa với việc không
tồn tại sự uy hiếp quân sự, hoặc định nghĩa nó là việc bảo vệ quốc gia tránh
khỏi sự lật đổ và tấn công của bên ngoài. Harold Brown cho rằng ANQG là
bảo vệ thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia, trong điều kiện hợp lý,
43
duy trì liên hệ kinh tế giữa nó và bộ phận còn lại của thế giới, ngăn chặn thế lực
bên ngoài làm mất đi đặc trƣng, chế độ và sự thống trị của nó, hơn nữa, còn là sự
kiểm soát đƣợc biên giới của mình. Bất luận đối với trạng thái an ninh hay biện pháp an ninh thì hàm nghĩa cơ bản của từ security đều nhƣ nhau [47, tr.16].
Ở Việt Nam, thuật ngữ “an ninh quốc gia” mới chỉ xuất hiện từ những
năm 70 của thế kỷ XX, và chính thức đƣợc đƣa vào Bộ luật Hình sự năm
1985, theo đó “an ninh quốc gia” không chỉ là an ninh chính trị mà là khái
niệm bao hàm cả an ninh quân sự (khả năng ứng phó với nguy cơ đe dọa từ
bên ngoài bằng vũ lực), an ninh lãnh thổ (độc lập, thống nhất, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ). Trƣớc khi đƣợc Luật hoá, đây là khái niệm đƣợc rất nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm. Theo Trần Đại Quang (năm 1996): “An ninh quốc
gia là sự yên ổn về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo đảm vững vàng nền
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. An ninh quốc gia bao gồm an ninh
chính trị, an ninh kinh tế, an ninh văn hoá tƣ tƣởng và an ninh xã hội; trong đó an ninh chính trị là cốt lõi, xuyên suốt và an ninh kinh tế là nền tảng” [28,
tr.11]; tác giả Trần Thế Quân (năm 2003) cho rằng: “An ninh quốc gia là sự
ổn định và phát triển bền vững về mọi mặt của chế độ xã hội chủ nghĩa và
chính quyền nhân dân, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. An ninh
quốc gia bao gồm an ninh chính trị, an ninh quân sự, an ninh kinh tế, an ninh văn hoá, tƣ tƣởng, an ninh khoa học, kỹ thuật, công nghệ, an ninh xã hội” [32,
tr.16]; còn tác giả Nguyễn Văn Hƣởng (năm 2007) đƣa ra định nghĩa hay “An
ninh quốc gia là sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ
nghĩa và Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, của dân tộc Việt
Nam; là sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn mọi loại hình lãnh thổ của Tổ quốc” [24, tr.19].
Năm 2004, Luật An ninh quốc gia đƣợc ban hành, khái niệm an ninh
quốc gia đƣợc định nghĩa nhƣ sau: “An ninh quốc gia là sự ổn định và phát
44
triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, của dân tộc Việt Nam; là sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn mọi loại hình lãnh thổ của Tổ quốc” [34, tr.45].
Nhƣ vậy, ANQG đƣợc hiểu là vấn đề liên quan trực tiếp đến lĩnh vực tối quan
trọng của chế độ xã hội, đó là vấn đề chính trị, là sự tồn vong của đất nƣớc, sự
toàn vẹn của non sông, độc lập của dân tộc. ANQG cũng thể hiện lập trƣờng,
quan hệ chính trị của giai cấp công nhân đối với chế độ xã hội và Nhà nƣớc ta,
khẳng định nguyên tắc chính trị, lập trƣờng chính sách đối ngoại trong quan hệ
giữa Việt Nam và các quốc gia khác.
Trên cơ sở khái niệm An ninh quốc gia, Điều 3, Luật An ninh quốc gia
quy định về khái niệm bảo vệ an ninh quốc gia: “là phòng ngừa, phát hiện,
ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm an ninh quốc
gia”. Bảo vệ ANQG đƣợc xác định là một nhiệm vụ quan trọng của Nhà nƣớc
ta. Các nghị quyết của Đảng và Hiến pháp đều nhấn mạnh tầm quan trọng của
vấn đề này. Điều 1, Pháp lệnh về lực lƣợng An ninh nhân dân Việt Nam
khẳng định: “Bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ của Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và của toàn thể nhân dân Việt Nam. Các cơ quan
nhà nước, đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội và mỗi công dân Việt Nam đều
có nghĩa vụ bảo vệ an ninh của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Điều 8
Luật An ninh quốc gia quy định: “Bảo vệ an ninh quốc gia là sự nghiệp của
toàn dân. Cơ quan, tổ chức, công dân có trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ an
ninh quốc gia theo quy định của pháp luật”. Các nhiệm vụ bảo vệ ANQG bao
gồm: bảo vệ chế độ chính trị và Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo
vệ an ninh về tƣ tƣởng và văn hóa, khối đại đoàn kết dân tộc, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; bảo vệ an ninh trong lĩnh vực kinh tế, quốc
phòng, đối ngoại và các lợi ích khác của quốc gia; bảo vệ bí mật nhà nƣớc và các
mục tiêu quan trọng về ANQG; phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm
45
thất bại và loại trừ các hoạt động xâm phạm ANQG, nguy cơ đe dọa ANQG.
Tác giả Nguyễn Văn Hƣởng (năm 2010) cũng đã đƣa ra khái niệm nhằm
nhấn mạnh mục đích cuối cùng của bảo vệ an ninh chính là để phát triển, an ninh
chính là an sinh: “Bảo vệ an ninh quốc gia là các hoạt động bảo vệ sự toàn vẹn
về mặt lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên, con người, văn hóa, bản sắc, tri thức, các
hoạt động kinh tế của quốc gia và đại gia đình các dân tộc Việt Nam nhằm tạo
điều kiện để Việt Nam phát triển một cách nhanh, mạnh và bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa” [25, tr3].
Tuy nhiên, ANQG không phải là một khái niệm tĩnh mà là một khái
niệm động và trải qua nhiều thay đổi về cách hiểu, cũng nhƣ cách tiếp cận.
Ngày nay, nội dung cơ bản của an ninh quốc gia vẫn là bảo vệ lợi ích quốc gia
và loại bỏ các mối đe dọa tới lợi ích đó. Nhƣng, bên cạnh khái niệm an ninh
truyền thống, Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung đề cập nhiều tới khái
niệm an ninh phi truyền thống. Tùy thuộc vào bối cảnh, thời điểm khác nhau
mà những thách thức an ninh truyền thống hoặc an ninh phi truyền thống nổi
lên đe dọa tới ANQG.
Trong bối cảnh hiện nay, xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ cùng với
mặt trái của sự phát triển đã làm cho vấn đề ANQG không chỉ giới hạn trong
việc ngăn chặn, ứng phó với các nguy cơ chiến tranh mà còn bao hàm nhiều
vấn đề an ninh phi truyền thống nhƣ biến đổi khí hậu, ô nhiễm, suy thoái môi
trƣờng, cạn kiệt nguồn nƣớc, khủng bố, dịch bệnh, sử dụng các vũ khí sinh
thái, di cƣ tự do, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia… Không
cần bất kỳ một hoạt động quân sự nào, các thách thức an ninh phi truyền
thống vẫn có thể khiến một quốc gia, thể chế xã hội sụp đổ. Mặt khác, các
thách thức an ninh phi truyền thống, trong nhiều trƣờng hợp cũng có thể là
nguyên nhân dẫn đến các vấn đề an ninh truyền thống.
An ninh phi truyền thống ra đời phản ánh sự thay đổi nhận thức của con
ngƣời về an ninh và sự mở rộng nội hàm của khái niệm A0NQG. Theo đó, các
46
mối đe dọa an ninh ngày càng mang tính đa dạng và phức tạp hơn, không chỉ
bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà còn mang tính xuyên quốc gia, đòi hỏi
phải có sự nỗ lực chung để ứng phó của nhiều quốc gia. Chính vì vậy, trong bối
cảnh hiện nay, an ninh phi truyền thống đã trở thành chủ đề quan trọng, mối
quan tâm lớn của các quốc gia trên thế giới và đƣợc đề cập trong nhiều diễn đàn
cũng nhƣ chiến lƣợc quốc phòng, an ninh của nhiều quốc gia trên thế giới.
Có thể thấy, một số vấn đề an ninh phi truyền thống nổi cộm hiện nay
đƣợc nhiều học giả trên thế giới thống nhất, quan tâm nghiên cứu là vấn đề an
ninh môi trƣờng, tội phạm công nghệ cao, di cƣ bất hợp pháp... Việt Nam đã
đƣa khái niệm an ninh môi trƣờng vào Luật Bảo vệ môi trƣờng 2014: An ninh
môi trường là việc bảo đảm không có tác động lớn của môi trường đến sự ổn
định chính trị, xã hội và phát triển kinh tế của quốc gia. Đây là lần đầu tiên khái
niệm an ninh môi trƣờng chính thức đƣợc đƣa vào trong văn bản quy phạm pháp
luật ở Việt Nam. Điều này cho thấy tầm quan trọng và những thay đổi trong
nhận thức của Đảng và Nhà nƣớc ta về vấn đề an ninh môi trƣờng ở Việt Nam
hiện nay nói riêng, cũng nhƣ vấn đề an ninh phi truyền thống nói chung.
Từ các khái niệm nói trên, khi nghiên cứu chính sách pháp luật bảo vệ ANQG,
chúng tôi thấy có 2 hƣớng nghiên cứu nhƣ sau:
Thứ nhất, là chính sách để hình thành pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia.
Tức là từ hệ tƣ tƣởng, hình thành ý chí chính trị, nguyên tắc chính sách, mục tiêu
chính sách. Mục tiêu chính sách bảo vệ an ninh quốc gia đƣợc thực hiện bằng tập
hợp các giải pháp và công cụ chính sách bảo vệ an ninh quốc gia. Có nghĩa là,
chính sách bảo vệ an ninh quốc gia đƣợc coi là thể chế pháp luật, việc xây dựng
các quy phạm pháp luật dựa trên nền tảng thể chế chính là chính sách bảo vệ an
ninh quốc gia.
Thứ hai, chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia đƣợc hiểu là chính
sách đƣợc chứa đựng trong công cụ pháp luật, theo đó pháp luật bảo vệ an ninh
quốc gia là công cụ của chính sách bảo vệ an ninh quốc gia. Pháp luật bảo vệ an
47
ninh quốc gia là công cụ để giáo dục, răn đe, trừng trị thích đáng các hành vi gây
phƣơng hại đến an ninh quốc gia. Nhƣ vậy, pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia sinh
ra là để phục vụ thực hiện mục tiêu chính sách của chính sách bảo vệ an ninh quốc
gia; pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia thực hiện một số giải pháp kiểm soát hành
vi của tổ chức, cá nhân có thể gây phƣơng hại đến an ninh quốc gia. Theo đó,
chính sách bảo vệ an ninh quốc gia với mục tiêu, giải pháp và công cụ chính sách
bảo vệ an ninh quốc gia là linh hồn của pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia. Tức là,
chính sách bảo vệ an ninh quốc gia với nội hàm là vấn đề, mục tiêu, giải pháp
chính sách đƣợc chứa đựng trong pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia. Tất nhiên,
pháp luật với các quy phạm pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia chỉ nhằm đến
những hành vi gây hại đối với an ninh quốc gia.
Trong phạm vi luận án này, nghiên cứu sinh lựa chọn hƣớng nghiên cứu
thứ hai. Theo đó, có thể hiểu chính sách pháp luật bảo vệ ANQG là kết quả ý
chí chính trị của hệ thống chính trị, cốt lõi là Đảng chính trị cầm quyền, được
thực hiện bởi quyền lực Nhà nước, thể hiện bằng một tập hợp các quyết định
có liên quan với nhau, trong đó bao hàm mục tiêu bảo vệ ANQG và hệ thống
các giải pháp, công cụ chính sách ANQG để bảo đảm mục tiêu ANQG đề ra
được hiện thực hoá.
Để làm sáng tỏ nội hàm của khái niệm chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG, cần thiết phải phân biệt khái niệm này với các khái niệm: chính sách
bảo vệ ANQG, pháp luật bảo vệ ANQG; cũng nhƣ tìm hiểu sự khác nhau giữa
chủ thể thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG với chủ thể bảo vệ
ANQG, giữa chủ thể ban hành chính sách bảo vệ ANQG với chủ thể thực
hiện chính sách ANQG.
Chính sách bảo vệ ANQG là kết quả ý chí chính trị của hệ thống chính
trị, cốt lõi là Đảng chính trị cầm quyền trong việc xác định nội dung, nhiệm
vụ bảo vệ ANQG, các biện pháp cơ bản bảo vệ ANQG, chủ thể và quyền hạn,
trách nhiệm của chủ thể bảo vệ ANQG. Về cơ bản, chính sách bảo vệ ANQG
48
đƣợc thể chế hoá trong các văn bản quy phạm pháp luật; tuy nhiên, cũng có
nhiều chính sách chƣa đƣợc thể chế hoá, cụ thể hoá đầy đủ. Nhƣ vậy, có thể
thấy nội hàm của chính sách bảo vệ ANQG rộng hơn nội hàm chính sách
pháp luật bảo vệ ANQG. Chính sách bảo vệ ANQG chứa đựng nhiều nội
dung, trong đó bao gồm ý chí của Nhà nƣớc trong việc xây dựng, hoàn thiện,
thực hiện, đánh giá pháp luật bảo vệ ANQG, chính là nội dung của chính sách
pháp luật bảo vệ ANQG.
Về khái niệm pháp luật bảo vệ ANQG, tác giả Nguyễn Ngọc Anh (năm
2001) cho rằng: pháp luật bảo vệ ANQG là tổng hợp các quy phạm pháp luật
thuộc các ngành luật khác nhau, do các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban
hành, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ xã hội nảy sinh trong quá trình thực
hiện chức năng bảo vệ ANQG từ phía các cơ quan, tổ chức nhà nƣớc và nghĩa vụ bảo vệ ANQG của tổ chức và công dân đƣợc Nhà nƣớc đảm bảo thực hiện
[1, tr.3]. Điều đó có nghĩa là, pháp luật bảo vệ ANQG không phải là một
ngành luật độc lập với đối tƣợng điều chỉnh và phƣơng pháp điều chỉnh riêng,
mà các quy phạm pháp luật về bảo vệ ANQG nằm ở nhiều văn bản quy phạm
pháp luật thuộc các ngành luật khác nhau. Theo đó, đối tƣợng điều chỉnh của
pháp luật về bảo vệ ANQG tuy đƣợc ghi nhận ở những ngành luật khác nhau,
nhƣng đƣợc giới hạn chỉ trong phạm vi những đối tƣợng có liên quan đến
ANQG mà những ngành luật đó điều chỉnh. Quy phạm pháp luật về bảo vệ
ANQG thƣờng tập trung ở các ngành Luật: Luật Hiến pháp, Luật Hình sự,
Luật Tố tụng hình sự, Luật Hành chính...
Về chủ thể bảo vệ ANQG và chủ thể thực hiện chính sách bảo vệ ANQG:
Chủ thể bảo vệ ANQG là các cơ quan chuyên trách bảo vệ ANQG, cơ quan,
tổ chức, công dân theo nhiệm vụ, quyền hạn đƣợc quy định tại các văn bản có
liên quan. Còn chủ thể thực hiện chính sách bảo vệ ANQG có phạm vi hẹp
hơn, chủ yếu là các cơ quan chuyên trách bảo vệ ANQG.
Về chủ thể ban hành và chủ thể thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ
49
ANQG: Chủ thể ban hành chính sách pháp luật bảo vệ ANQG là Nhà nƣớc, có
sự tham gia của toàn bộ hệ thống chính trị và hệ thống xã hội; còn chủ thể
thực hiện chính sách bảo vệ ANQG là các cơ quan chuyên trách bảo vệ
ANQG nhƣ đã phân tích ở trên.
2.2. Chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam
Từ khái niệm chính sách pháp luật bảo vệ ANQG ở tiểu mục (2.1): “chính
sách pháp luật bảo vệ ANQG là kết quả ý chí chính trị của hệ thống chính trị,
cốt lõi là Đảng chính trị cầm quyền, được thực hiện bởi quyền lực Nhà nước, thể
hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, trong đó bao hàm
mục tiêu bảo vệ ANQG và hệ thống các giải pháp, công cụ chính sách ANQG để
bảo đảm mục tiêu ANQG đề ra được hiện thực hoá”, có thể đƣa ra khái niệm
chính sách pháp luật bảo vệ ANQG ở Việt Nam hiện nay là:
Chính sách pháp luật bảo vệ ANQG ở Việt Nam là kết quả ý chí chính trị
của hệ thống chính trị, cốt lõi là Đảng Cộng sản Việt Nam, được thực hiện
bởi quyền lực Nhà nước, thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên
quan với nhau, trong đó bao hàm mục tiêu bảo đảm sự ổn định, phát triển bền
vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc và hệ thống các giải pháp, công cụ để hiện thực hoá mục tiêu đề ra.
Trong khái niệm nói trên, yếu tố “quyền lực Nhà nƣớc” đối với thể chế
chính trị của Việt Nam, trƣớc hết khẳng định vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân,
Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh. Theo đó, các chính
sách, nhất là các chính sách liên quan an ninh chính trị, trƣớc hết đƣợc bảo
đảm và thể hiện trong các văn kiện chính trị, sau đó mới đƣợc thể chế hoá
bằng pháp luật. Hoạt động thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG phải
đảm bảo định hƣớng lãnh đạo của Đảng đƣợc thể chế hoá trong các văn bản
quy phạm pháp luật; đồng thời phải thƣờng xuyên báo cáo, xin ý kiến tổ chức
50
Đảng có thẩm quyền. Năm 2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-
NQ/TW về “Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật từ nay đến
năm 2010, định hƣớng đến năm 2020”. Qua các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc
của Đảng (Đại hội X, Đại hội XI), chủ trƣơng, đƣờng lối, quan điểm của
Đảng về hoạch định, thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia
từng bƣớc đƣợc bổ sung và hoàn thiện. Năm 2016, sau khi tổng kết 10 năm
thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, Bộ Chính trị đã có Kết luận số 01-
KL/TW, ngày 04/4/2016 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW. Kết
luận khẳng định: “Hoàn thiện pháp luật về quốc phòng và an ninh theo
hướng thể chế hóa sâu sắc hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội
với xây dựng tiềm lực, củng cố quốc phòng, an ninh; hoàn thiện cơ sở pháp lý
nâng cao năng lực bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, phòng, chống
hiệu quả các loại tội phạm và tệ nạn xã hội. Tăng cường kỷ cương, kỷ luật và
hiệu quả quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực”. Bên cạnh đó, Ban Chấp
hành Trung ƣơng, Bộ Chính trị đã ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề về
lĩnh vực an ninh, quốc phòng.
Về nội hàm khái niệm, chính sách pháp luật bảo vệ ANQG ở Việt Nam bao
gồm vấn đề, mục tiêu, giải pháp, công cụ và chủ thể chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG.
- Vấn đề chính sách pháp luật bảo vệ ANQG: Vấn đề chính sách
pháp luật ANQG trƣớc hết là đảm bảo mục tiêu giữ ổn định và phát triển
bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn mọi loại hình lãnh thổ của Tổ quốc. Hơn nữa, vấn đề chính sách
ANQG còn phải giải quyết là mâu thuẫn giữa một bên là nhu cầu bảo đảm
sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nƣớc
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ
51
quyền, thống nhất, toàn vẹn mọi loại hình lãnh thổ của Tổ quốc với một bên
là hoạt động chống phá của các thế lực và bọn tội phạm khác. Mâu thuẫn này
cần thiết phải đƣợc giải quyết bằng chính sách của Nhà nƣớc với mục tiêu
chính sách cụ thể, giải pháp chính sách ANQG đồng bộ và công cụ chính sách
ANQG có hiệu quả.
Những vấn đề chính sách an ninh truyền thống là giữ vững ổn định
chính trị, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội và hội nhập quốc tế,
phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm
phạm ANQG, thất bại mọi âm mƣu, hoạt động chống phá của các thế lực thù
địch, phản động; bảo đảm an ninh nội bộ, an ninh kinh tế, an ninh thông tin,
an ninh xã hội, bảo đảm an ninh các vùng chiến lƣợc; nâng cao hiệu quả quản
lý nhà nƣớc trên các lĩnh vực liên quan ANQG; đồng thời, mở rộng hợp tác
quốc tế để nâng cao năng lực, hiệu quả công tác bảo đảm ANQG trong tình
hình mới, góp phần giữ vững sự ổn định chính trị, tạo môi trƣờng hòa bình,
hợp tác để thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài; phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện
thắng lợi công cuộc đổi mới đất nƣớc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Những vấn đề chính sách an ninh phi truyền thống mới nổi nhƣ: khủng
bố, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao, biến đổi khí hậu, an
ninh lƣơng thực...
- Mục tiêu chính sách pháp luật bảo vệ ANQG: Giải quyết vấn đề chính
sách pháp luật bảo vệ ANQG nhằm bảo đảm “sự ổn định, phát triển bền vững của
chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất
khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”
[51]. Đặc biệt, mục tiêu chính sách pháp luật bảo vệ ANQG phải giải quyết đƣợc
nhu cầu vừa bảo đảm sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ
nghĩa và Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vừa chống lại hoạt
động chống phá của các thế lực và bọn tội phạm khác sự bất khả xâm phạm
52
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn mọi loại hình lãnh thổ của Tổ quốc.
- Giải pháp chính sách pháp luật bảo vệ ANQG:
Một là, xây dựng lực lượng bảo vệ ANQG, đây là giải pháp chính sách
tổ chức quan trọng: (1) Nhà nƣớc xây dựng lực lƣợng chuyên trách bảo vệ
ANQG cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bƣớc hiện đại làm nòng cốt
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANQG. (2) Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm xây dựng lực lƣợng công an xã, dân
quân tự vệ, bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp, bảo vệ dân phố, dân phòng tham
gia hoạt động bảo vệ ANQG theo quy định của pháp luật.
Hai là, bảo đảm điều kiện cho hoạt động bảo vệ ANQG: Nhà nƣớc bảo
đảm ngân sách và cơ sở vật chất cho các hoạt động bảo vệ ANQG trong mọi
tình huống, ƣu tiên các địa bàn chiến lƣợc, xung yếu, quan trọng về ANQG;
có chính sách huy động thành tựu khoa học và công nghệ phục vụ hoạt động
bảo vệ ANQG.
Ba là, thực hiện chế độ, đãi ngộ đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
hoạt động bảo vệ ANQG: Cán bộ, chiến sĩ cơ quan chuyên trách bảo vệ
ANQG đƣợc tuyển chọn, bồi dƣỡng, đào tạo, đƣợc phong, thăng hàm, cấp lực
lƣợng vũ trang nhân dân và hƣởng chế độ, chính sách ƣu đãi theo quy định
của pháp luật.
Bốn là, tiến hành tuyên truyền, giáo dục bảo vệ ANQG: Đây là giải pháp
chính sách quan trọng bảo đảm toàn dân tham gia bảo vệ ANQG. Giáo dục pháp
luật là hoạt động định hƣớng có tổ chức của chủ thể giáo dục pháp luật, tác động
lên đối tƣợng giáo dục nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình
cảm pháp luật và hành vi phù hợp với đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành
[55, tr148]. Theo đó, nội dung tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về bảo
vệ ANQG là toàn bộ thông tin về lý luận pháp luật, về các văn bản quy phạm
pháp luật, về tình hình vi phạm pháp luật, về thực hiện pháp luật, về điều tra xét
xử các hành vi vi phạm pháp luật trên lĩnh vực ANQG.
53
Các hình thức giáo dục pháp luật bảo vệ ANQG có thể là các hình thức
giáo dục pháp luật mang tính phổ biến (giảng dạy và học tập pháp luật trong
các trƣờng học; tuyên truyền phổ biến qua các phƣơng tiện thông tin đại
chúng; thành lập các câu lạc bộ pháp lý, thi tìm hiểu pháp luật; phổ biến, nói
chuyện pháp luật tại các cơ quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội, các địa bàn dân
cƣ, mở các cuộc hội nghị, hội thảo pháp luật), hình thức đặc thù hay còn gọi
là hình thức giáo dục pháp luật định hƣớng (thông qua hoạt động của của các
cơ quan Nhà nƣớc nhƣ Quốc hội, Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân, Toà án
nhân dân, các cơ quan quản lý chuyên ngành).
Năm là, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ ANQG: Nhà nƣớc Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách hợp tác quốc tế đa
phƣơng, song phƣơng với các nƣớc, các tổ chức quốc tế trong hoạt động bảo
vệ ANQG phù hợp với pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế; thực hiện
các điều ƣớc quốc tế liên quan đến lĩnh vực bảo vệ ANQG mà Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập.
Sáu là, xử lý nghiêm minh các hành vi xâm phạm ANQG: (1). Mọi hành
vi xâm phạm ANQG đều phải bị xử lý nghiêm minh, kịp thời theo đúng quy
định của pháp luật. Ngƣời chủ mƣu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối thì
bị nghiêm trị. (2). Ngƣời bị ép buộc, lừa gạt, lôi kéo nhận làm việc cho tổ
chức, cá nhân để hoạt động xâm phạm ANQG mà tự thú, thành khẩn khai báo
thì đƣợc khoan hồng; nếu lập công thì đƣợc khen thƣởng. (3). Ngƣời nƣớc
ngoài có hành vi xâm phạm ANQG của Việt Nam ở ngoài lãnh thổ Việt Nam
có thể bị xử lý theo pháp luật của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong trƣờng hợp điều ƣớc quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ký kết hoặc gia nhập có quy định.
- Công cụ pháp luật thực hiện giải pháp chính sách pháp luật bảo
vệ ANQG:
Về bản chất, công cụ pháp luật thực hiện giải pháp chính sách pháp luật
54
bảo vệ ANQG cũng nhƣ công cụ pháp luật nói chung xuất hiện do nhu cầu
của xã hội cần có sự điều chỉnh. Chính từ yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã
hội, bảo đảm trật tự xã hội mà pháp luật thể hiện vai trò của mình. Theo đó,
để bảo vệ ANQG, giữ vững sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ xã
hội chủ nghĩa và Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn mọi loại hình lãnh thổ của
Tổ quốc, Nhà nƣớc phải sử dụng một loạt các công cụ khác nhau, trong đó có
pháp luật bảo vệ ANQG mà trong đó chứa đựng chính sách ANQG, cụ thể hơn là
thể chế hóa mục tiêu chính sách ANQG, bảo đảm thực hiện các giải pháp chính
sách ANQG.
Về chức năng, pháp luật bảo vệ ANQG có ba chức năng cơ bản sau đây:
chức năng điều chỉnh, chức năng bảo vệ và chức năng giáo dục [Phùng Thế
Vắc, 2010]:
Chức năng điều chỉnh của pháp luật bảo vệ ANQG đƣợc hiểu là chức
năng xác lập, ổn định, trật tự hoá các quan hệ xã hội theo đƣờng lối của nhà
nƣớc, phù hợp với sự vận động, phát triển của đời sống xã hội. [Hoàng Thị
Kim Quế, 2008].
Nội dung chức năng điều chỉnh của pháp luật bảo vệ ANQG thể hiện ở
chỗ: “Một mặt, pháp luật ghi nhận các quan hệ chủ yếu trong xã hội; mặt
khác, pháp luật phải bảo đảm cho sự phát triển của các quan hệ xã hội. Nói
cách khác, pháp luật vừa làm nhiệm vụ trật tự hoá các quan hệ xã hội, đƣa
chúng vào những phạm vi, khuôn mẫu nhất định, vừa tạo điều kiện cho các quan
hệ xã hội phát triển theo chiều hƣớng mong muốn” [Nguyễn Cửu Việt, 2007].
Thực hiện chức năng điều chỉnh của pháp luật, khi ban hành văn bản quy
phạm pháp luật luôn phải xác định rõ quyền, nghĩa vụ của chủ thể quan hệ
pháp luật thuộc phạm vi điều chỉnh của văn bản pháp luật đƣợc ban hành.
Chẳng hạn, Điều 1 Luật ANQG quy định rõ: “Luật này quy định về chính
sách ANQG; nguyên tắc, nhiệm vụ, biện pháp bảo vệ ANQG; quyền, nghĩa
55
vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, công dân trong bảo vệ ANQG”.
Chức năng điều chỉnh của pháp luật bảo vệ ANQG đƣợc thực hiện bằng nhiều hình thức cụ thể khác nhau, từ ngăn cấm cho phép, khuyến khích đến
việc quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên [16].
Chức năng bảo vệ của pháp luật bảo vệ ANQG thể hiện qua hoạt động
đấu tranh phòng, chống hành vi xâm phạm ANQG. Pháp luật bảo vệ ANQG
thực hiện chức năng bảo vệ qua hoạt động chức năng của các cơ quan nhà nƣớc
có thẩm quyền. Chức năng bảo vệ của pháp luật bảo vệ ANQG có những nội
dung cụ thể sau đây:
Một là, thực hiện giải pháp chính sách tổ chức, thiết lập nên tổ chức bộ
máy, xác lập chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chuyên trách bảo vệ
ANQG. Điều 22 Luật ANQG quy định về các cơ quan chuyên trách bảo vệ
ANQG: (1) Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy và các đơn vị an ninh, tình báo, cảnh vệ
Công an nhân dân; (2) Cơ quan chỉ đạo, chỉ huy và các đơn vị bảo vệ an ninh
quân đội, tình báo Quân đội nhân dân; (3) Bộ đội biên phòng, cảnh sát biển là cơ
quan chuyên trách bảo vệ ANQG ở khu vực biên giới trên đất liền và khu vực
biên giới trên biển.
Hai là, mô hình hoá những hành vi bị cấm trong các văn bản quy phạm
pháp luật làm cơ sở pháp lý để đấu tranh chống hành vi đó. Việc mô hình hoá
hành vi vi phạm pháp luật này đòi hỏi: (1) Kịp thời mô tả chính xác hành vi bị
cấm thực hiện. (2) Đƣa ra biện pháp xử lý phù hợp với tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi. (3) Xác định trình tự, thủ tục pháp lý giải quyết, xử lý hành
vi vi phạm pháp luật.
Trong Luật ANQG hiện hành, Điều 13 quy định các hành vi bị nghiêm
cấm. Tuy nhiên, việc mô tả những hành vi này không bao quát hết tất cả
những hành vi xâm phạm ANQG mà phải viện dẫn đến Bộ Luật Hình sự; các
biện pháp xử lý thì viện dẫn đến Bộ Luật tố tụng hình sự hiện hành. Nhƣ vậy,
56
mặc dù đã có Luật ANQG, nhƣng các quy định thuộc pháp luật bảo vệ ANQG
lại chứa đựng ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Đây cũng là
vấn đề cần đƣợc tiếp tục hoàn thiện trong thời gian tới.
Về vai trò, pháp luật bảo vệ ANQG có các vai trò cơ bản sau đây:
Pháp luật bảo vệ ANQG quy định rõ nhiệm vụ bảo vệ ANQG (Điều 14,
Luật ANQG); các biện pháp cơ bản bảo vệ ANQG (Điều 15, Luật ANQG);
quyền và nghĩa vụ của công dân trong bảo vệ ANQG (Điều 17, Luật ANQG);
trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong bảo vệ ANQG (Điều 18, Luật
ANQG); cơ quan chuyên trách bảo vệ ANQG (Điều 22, Luật ANQG); nhiệm
vụ của cơ quan chuyên trách bảo vệ ANQG (Điều 23, Luật ANQG); quyền
hạn, trách nhiệm của cơ quan chuyên trách bảo vệ ANQG (Điều 24, Luật
ANQG); quyền hạn, trách nhiệm của cán bộ chuyên trách bảo vệ ANQG
(Điều 25, Luật ANQG); chế độ, chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ cơ quan
chuyên trách bảo vệ ANQG (Điều 28, Luật ANQG); quản lý nhà nƣớc về
ANQG (Chƣơng IV, Luật ANQG); các tội xâm phạm ANQG (Chƣơng XIII,
Bộ luật Tố tụng hình sự).
Về đặc điểm, pháp luật bảo vệ ANQG có những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, đảm bảo mục tiêu chính sách ANQ :
Pháp luật bảo vệ ANQG chứa đựng mục tiêu chính sách ANQG cụ thể là
chứa đựng mục tiêu chính sách bảo vệ ANQG là bảo đảm sự ổn định và phát
triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, của dân tộc Việt Nam; bảo đảm sự bất khả xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn mọi loại hình lãnh thổ của Tổ quốc.
Pháp luật bảo vệ ANQG, bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội trên lĩnh vực ANQG hƣớng đến mục tiêu chính sách nói trên.
Hai là, pháp luật bảo vệ ANQ hình thành và nằm trong hệ thống pháp luật:
Hiện nay khái niệm về hệ thống pháp luật có nhiều cách tiếp cận khác
nhau, trong đó quan điểm truyền thống cho rằng: Hệ thống pháp luật đƣợc
57
hiểu là cấu trúc bên trong của pháp luật, đƣợc hình thành và phát triển phù
hợp với cơ cấu quan hệ xã hội. Điều này cũng cần phân biệt khái niệm hệ
thống pháp luật với khái niệm pháp luật thực định (hay còn gọi là hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật) là biểu hiện bề ngoài, cụ thể của pháp luật.
Hệ thống pháp luật thực định đƣợc hình thành trong quá trình ban hành
các bộ luật, sắp xếp, tập hợp hoá các văn bản quy phạm khác nhau. Còn hệ
thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có tính thống nhất nội tại
bền vững, đồng thời có tính độc lập tƣơng đối đƣợc phân chia thành các chế
định luật và các ngành luật.
Quan điểm khác lại cho rằng, chỉ có một khái niệm hệ thống pháp luật.
Theo quan niệm này hệ thống pháp luật có nội dung rất rộng, bao gồm những
qui phạm pháp luật hiện hành và những nguồn khác của pháp luật tồn tại
trong thực tế mà dựa trên cơ sở đó, tính hiện thực của pháp luật đƣợc bảo đảm
và pháp luật phát huy hiệu lực. Ví dụ: hệ thống pháp luật bao gồm các nguồn,
các trào lƣu khuynh hƣớng pháp lý, kỹ thuật lập pháp, triết học cũng nhƣ hoạt
động thực tiễn (án lệ...) v.v...
Nhƣ vậy, với cách tiếp cận tổng thể, cần hiểu hệ thống pháp luật là tổng
thể các qui phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau đƣợc
phân định thành các chế định pháp luật, các ngành luật và đƣợc thể hiện trong
các văn bản do Nhà nƣớc ban hành theo những trình tự và thủ tục nhất định.
Theo cách hiểu này, pháp luật bảo vệ ANQG đƣợc hình thành và nằm
trong hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, bao gồm các quy phạm pháp
luật có đặc tính chung để điều chỉnh các mối quan hệ về ANQG.
Ba là, tính bắt buộc thực hiện:
Để thực hiện nguyên tắc cơ bản của chính sách công là nguyên tắc bắt
buộc thực hiện, do đó mục tiêu và giải pháp chính sách ANQG phải đƣợc luật
hóa đảm bảo tính bắt buộc thực hiện. Đặc điểm này thể hiện ở nhiều quy
phạm pháp luật bảo vệ ANQG. Điều 13, Luật ANQG quy định về các hành vi
58
bị nghiêm cấm, gồm (1). Tổ chức, hoạt động, câu kết, xúi giục, khống
chế, kích động, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo ngƣời khác nhằm chống chính
quyền nhân dân, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chia
cắt đất nƣớc, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc (2). Nhận nhiệm vụ của
tổ chức, cá nhân để hoạt động xâm phạm ANQG hoặc tham gia, giúp sức,
cung cấp tài chính, vũ khí, phƣơng tiện cho các tổ chức, cá nhân hoạt động
xâm phạm ANQG.(3). Thu thập, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng, tiết
lộ, cung cấp, tán phát trái phép tin tức, tài liệu, vật phẩm thuộc bí mật nhà
nƣớc.(4). Xâm phạm mục tiêu quan trọng về ANQG. (5). Chống lại hoặc cản
trở cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANQG. (6). Lợi
dụng việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANQG để xâm phạm lợi ích của Nhà
nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. (7). Hành vi khác xâm
phạm ANQG đƣợc quy định tại Bộ luật hình sự và các văn bản pháp luật có
liên quan.
- Chủ thể chính sách pháp luật bảo vệ ANQG:
Chính sách pháp luật bảo vệ ANQG là một bộ phận của chính sách công, do
đó nó cũng có các chủ thể chính sách. Tƣơng tự nhƣ hệ thống chính sách công,
chủ thể chính sách pháp luật bảo vệ ANQG cũng bao gồm các chủ thể tham gia
vào quá trình hoạch định, thực hiện, đánh giá chính sách pháp luật bảo vệ ANQG.
Theo đó, chủ thể chính sách pháp luật bảo vệ ANQG gồm hệ thống chính trị và hệ
thống xã hội, cụ thể hóa hơn là: Đảng Cộng sản Việt Nam; Nhà nƣớc; Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; ngƣời dân; doanh nghiệp; báo chí; các tổ
chức nhân dân, quần chúng.
Gắn với phạm vi nghiên cứu đã đƣợc xác định của luận án tiến sĩ, tác giả
nghiên cứu chủ thể chính, chủ thể nòng cốt trong thực hiện chính sách pháp
luật bảo vệ ANQG gồm:
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nƣớc và xã hội thực hiện các quá
trình phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có hoạt động thực hiện chính sách
59
pháp luật bảo vệ ANQG. Chủ thể thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG đƣợc giao cho Chính phủ đảm nhận theo quy định của pháp luật, trong
đó Bộ Công an giữ vai trò chủ thể nòng cốt trong tham mƣu và tổ chức thực
hiện chính sách.
Các cơ quan chuyên trách bảo vệ ANQG gồm: (1) Cơ quan chỉ đạo, chỉ
huy và các đơn vị an ninh, tình báo, cảnh vệ Công an nhân dân; (2) Cơ quan
chỉ đạo, chỉ huy và các đơn vị bảo vệ an ninh quân đội, tình báo Quân đội
nhân dân; (3) Bộ đội biên phòng, cảnh sát biển là cơ quan chuyên trách bảo vệ
ANQG ở khu vực biên giới trên đất liền và khu vực biên giới trên biển [16].
Bộ Công an chịu trách nhiệm trƣớc Chính phủ, phối hợp với các bộ, cơ
quan ngang bộ thực hiện quản lý nhà nƣớc về bảo vệ ANQG. Bộ Quốc phòng
trong phạm vi nhiệm vụ của mình, chịu trách nhiệm trƣớc Chính phủ phối
hợp với Bộ Công an thực hiện quản lý nhà nƣớc về bảo vệ ANQG, chỉ đạo
các lực lƣợng thuộc quyền phối hợp chặt chẽ với lực lƣợng CAND và chính
quyền địa phƣơng để bảo vệ ANQG theo quy định của pháp luật. Các lực
lƣợng Tình báo quân đội, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển là các cơ quan
chuyên trách bảo vệ ANQG ở khu vực biên giới trên đất liền, trên biển, đảo.
Giữa các chủ thể thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG có quan
hệ phối hợp, hiệp đồng đan xen, gắn kết, hỗ trợ lẫn nhau theo phân công,
phân cấp quản lý.
Trong tổng thể các mối quan hệ trên, Bộ Công an giữ vai trò trọng tâm,
trực tiếp thực hiện quyền hành pháp mà Chính phủ giao trong lĩnh vực quản
lý nhà nƣớc về ANQG; tham mƣu, hƣớng dẫn và trực tiếp tổ chức lực lƣợng,
phƣơng tiện, áp dụng các biện pháp để bảo vệ ANQG. Với cƣơng vị là cơ
quan chủ trì quản lý nhà nƣớc về ANQG, Bộ Công an có trách nhiệm tham
mƣu đề xuất Bộ Chính trị, Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng, Quốc hội, Chính
phủ lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác bảo vệ ANQG.
Về phía mình, theo chức năng, Bộ Công an chỉ đạo Công an các đơn vị,
60
địa phƣơng, nhất là lực lƣợng An ninh nhân dân sử dụng các lực lƣợng,
phƣơng tiện, các biện pháp để tổ chức tốt công tác nắm tình hình, phát hiện,
đấu tranh, điều tra, xử lý những hoạt động xâm phạm ANQG của mọi đối
tƣợng, đảm bảo các yêu cầu về chính trị, nghiệp vụ, pháp luật và đối ngoại,
giữ vững ổn định chính trị, không để đột xuất, bất ngờ; không để xảy ra
khủng bố, phá hoại, biểu tình, bạo loạn, không để tập trung lực lƣợng, tạo
dựng “ngọn cờ” hình thành tổ chức chính trị đối lập trên lãnh thổ Việt Nam
dƣới bất cứ hình thức gì, bảo vệ vững chắc ANQG, phục vụ đất nƣớc hội
nhập và phát triển bền vững.
2.3. Thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia
Chu trình chính sách pháp luật bảo vệ ANQG thuộc chu trình chính sách
công, là quá trình luân chuyển các bƣớc từ khi khởi sự chính sách đến khi xác
định đƣợc hiệu quả của chính sách trong đời sống xã hội. Chu trình chính
sách pháp luật bảo vệ ANQG bao gồm các bƣớc sau: Hoạch định chính sách,
thực hiện chính sách, đánh giá chính sách. Trong phạm vi nghiên cứu đã đƣợc
xác định ở Phần mở đầu, đề tài tập trung nghiên cứu bƣớc thực hiện chính
sách pháp luật bảo vệ ANQG.
Thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG là toàn bộ quá trình hoạt
động của các chủ thể theo các cách thức khác nhau nhằm hiện thực hoá nội
dung chính sách pháp luật bảo vệ ANQG một cách hiệu quả.
Tƣơng tự tổ chức thực hiện chính sách công nói chung, thực hiện chính
sách pháp luật bảo vệ ANQG cũng chịu ảnh hƣởng của các yếu tố khách quan
và chủ quan: Tính chất của vấn đề chính sách công; môi trƣờng thực thi chính
sách công; mối quan hệ giữa các đối tƣợng thực thi chính sách công; năng lực
của các nhóm đối tƣợng chính sách công; đặc tính của đối tƣợng chính sách
công; năng lực thực hiện chính sách công của cán bộ, công chức; mức độ tuân
thủ các bƣớc trong quy trình tổ chức thực hiện chính sách công; các điều kiện
vật chất để thực hiện chính sách công; sự đồng tình, ủng hộ của ngƣời dân.
61
Với đặc thù là chính sách công trên lĩnh vực pháp luật bảo vệ ANQG, quá
trình thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG có một số đặc điểm riêng
sau đây:
Sự phân công, phối hợp thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG ƣu
tiên đƣợc thực hiện bởi các cơ quan chuyên trách thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
ANQG dù mọi tổ chức mọi cá nhân đều có nghĩa vụ bảo vệ ANQG. Tuỳ mỗi
quốc gia khác nhau mà các cơ quan này đƣợc quy định khác nhau. Đối với
Việt Nam, cơ quan chuyên trách thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANQG gồm: Cơ
quan chỉ đạo, chỉ huy và các đơn vị an ninh, tình báo, cảnh vệ Công an nhân
dân; cơ quan chỉ đạo, chỉ huy và các đơn vị bảo vệ an ninh Quân đội, tình báo
Quân đội nhân dân; Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển là cơ quan chuyên trách bảo vệ ANQG ở khu vực biên giới trên đất liền và khu vực biên giới trên biển
[34]. Trên thế giới, cơ quan chuyên trách thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANQG
của Liên bang Nga là Cơ quan phản gián Liên bang (viết tắt là FSB), đây là
cơ quan trung ƣơng quyền lực của Nhà nƣớc Liên bang, chỉ đạo hoạt động
của các cơ quan phản gián trực thuộc và xí nghiệp, tổ chức, đơn vị bộ đội, các
cơ sở đào tạo thuộc ngành phản gián. FSB tiến hành công tác phát hiện,
phòng ngừa và ngăn chặn hoạt động gián điệp phá hoại của các tổ chức và cơ
quan đặc biệt nƣớc ngoài, sự xâm phạm trái phép chế độ hiến pháp, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và khả năng quốc phòng của Liên bang Nga. Cơ
quan chuyên trách thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANQG của Trung Quốc là Bộ
ANQG; của Australia là cơ quan phản gián, cơ quan tình báo an ninh
Australia…
Quá trình thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG chịu ảnh hƣởng
trực tiếp của môi trƣờng thể chế, tình trạng tuân thủ pháp luật của quốc gia
đó. Pháp luật bảo vệ ANQG đƣợc coi nhƣ một loại công cụ đặc biệt quan
trọng của quản lý nhà nƣớc về ANQG, đảm bảo trật tự an toàn xã hội
(TTATXH) để đảm bảo mục tiêu chính sách bảo vệ ANQG đƣợc hiện thực
62
hoá. Do đó, môi trƣờng pháp luật, tình trạng pháp luật ảnh hƣởng trực tiếp
đến chất lƣợng, hiệu quả của quá trình này. Tình trạng pháp luật đƣợc hiểu là
thực trạng về số lƣợng, chất lƣợng của hệ thống pháp luật hiện có so với yêu
cầu phát triển xã hội và ý thức tuân thủ pháp luật của tổ chức, công dân. Nếu
tình hình pháp luật, pháp chế của xã hội tốt thì mục tiêu của chính sách pháp
luật bảo vệ ANQG có thể đƣợc thực hiện một cách hiệu quả nhất.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam, hoạt
động thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG phải đáp ứng các yêu cầu
cơ bản sau:
Một là: Hoạt động thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG nằm
trong thể chế chính trị, thể chế nhà nƣớc, phải nghiêm chỉnh tuân thủ pháp
luật, trong khuôn khổ pháp luật, chịu sự giám sát của pháp luật. Cụ thể là phải
tuân thủ, thi hành, sử dụng và áp dụng đúng đắn Hiến pháp, Luật ANQG,
Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên
quan. Trong bối cảnh yêu cầu ngày càng cao của dân chủ xã hội, hoạt động thực
hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG càng phải biết dựa vào pháp luật, vận
dụng sáng tạo các quy định pháp luật để tiến hành; mặt khác phải đề xuất kịp
thời việc hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ ANQG.
Hai là: Hoạt động thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG phải
đáp ứng yêu cầu bảo đảm dân chủ xã hội chủ nghĩa, tuân thủ các thiết chế dân
chủ; tôn trọng các giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền tự do dân chủ hợp
pháp trong xã hội.
Ba là: Hoạt động thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG phải đảm
bảo yêu cầu không để lọt tội phạm và các vi phạm pháp luật khác xâm hại đến
ANQG. Để đảm bảo yêu cầu này, các lực lƣợng áp dụng pháp luật bảo vệ
ANQG phải không ngừng nâng cao cảnh giác, trình độ năng lực, sáng tạo, đổi
mới phƣơng pháp làm việc.
Trong phạm vi luận án tiến sĩ đã xác định, tác giả tiến hành khảo sát việc
63
thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG trên một số lĩnh vực sau đây: An
ninh chính trị; an ninh kinh tế; an ninh tƣ tƣởng – văn hoá; an ninh biên giới; an
ninh thông tin; an ninh dân tộc, tôn giáo; hợp tác quốc tế trong bảo vệ ANQG.
Để tổ chức, điều hành có hiệu quả công tác thực hiện chính sách pháp
luật bảo vệ ANQG, các chủ thể liên quan cần phải thực hiện nhiều nội dung
quản lý khác nhau, nhƣng trƣớc tiên phải tuân thủ các bƣớc tổ chức thực hiện
cơ bản sau đây: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách; phổ biến,
tuyên truyền chính sách; phân công, phối hợp thực hiện chính sách; đôn đốc
thực hiện chính sách; đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm [17].
Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG gồm:
Kế hoạch tổ chức, điều hành; kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực; kế hoạch
thời gian triển khai thực hiện; kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách;
dự kiến những nội quy, quy chế [17].
Phổ biến, tuyên truyền chính sách pháp luật bảo vệ ANQG: Đây là hoạt
động giúp mọi ngƣời dân tham gia thực hiện hiểu rõ về mục đích, yêu cầu
của chính sách pháp luật bảo vệ ANQG…để họ tự giác thực hiện theo yêu
cầu quản lý của Nhà nƣớc. Nhận thức của ngƣời dân về chính sách pháp luật
pháp luật bảo vệ ANQG có ý nghĩa quan trọng trong việc phòng ngừa chung,
giảm thiểu tỷ lệ phạm tội xâm phạm ANQG. Đồng thời, còn giúp cho các tập
thể, cá nhân có trách nhiệm tổ chức thực hiện nhận thức đƣợc đầy đủ tính chất,
trình độ, quy mô của chính sách đối với đời sống xã hội để chủ động, tích cực
tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho việc thực hiện mục tiêu chính sách và triển
khai thực hiện có hiệu quả kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách đã đề ra. Là
chính sách mang tính đặc thù, ảnh hƣởng bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, nên việc tuyên truyền chính sách pháp luật bảo vệ ANQG thƣờng
đƣợc tiến hành với quy mô rộng với nhiều hình thức nhƣ tuyên truyền trực tiếp
qua các báo cáo viên, các phƣơng tiện thông tin đại chúng, tổ chức các cuộc thi
tìm hiểu trong nhiều nhóm đối tƣợng (học sinh, sinh viên, công chức)…
64
Phân công, phối hợp thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG là
bƣớc tiếp sau bƣớc tuyên truyền, phổ biến. Muốn tổ chức thực hiện chính sách
pháp luật bảo vệ ANQG có hiệu quả cần phải tiến hành phân công, phối hợp
giữa các cơ quan quản lý ngành, các cấp chính quyền địa phƣơng, các yếu tố
tham gia thực hiện chính sách và các quá trình ảnh hƣởng đến thực hiện mục
tiêu chính sách. Quan hệ phối hợp giữa các lực lƣợng bảo vệ ANQG chủ yếu
thể hiện qua mối quan hệ giữa hai lực lƣợng nòng cốt bảo vệ an ninh quốc gia,
đó là Công an nhân dân và Quân đội nhân dân. Trong từng lực lƣợng lại có
quy định phân công, phân cấp về chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn để
thống nhất thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật bảo vệ ANQG.
Đôn đốc thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG: Là hoạt động của
cơ quan, cán bộ, công chức có thẩm quyền thực hiện nhằm làm cho các chủ
thể thực thi nêu cao ý thức trách nhiệm trong thực hiện các biện pháp theo
định hƣớng chính sách thông qua các công cụ hữu ích. Trên thực tế, khi triển
khai thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG, không phải bộ phận nào
cũng thực hiện có hiệu quả nhƣ nhau, vì thế cần có hoạt động đôn đốc để vừa
thúc đẩy các chủ thể nỗ lực nhiều hơn để hoàn thành nhiệm vụ, vừa phòng,
chống những hành vi vi phạm quy định trong thực hiện chính sách.
Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm: Tổ chức thực hiện chính sách pháp
luật bảo vệ ANQG đƣợc tiến hành liên tục trong thời gian duy trì chính sách.
Trong quá trình đó ngƣời ta có thể đánh giá từng phần hay toàn bộ kết quả
thực thi chính sách. Đối tƣợng đƣợc xem xét, đánh giá tổng kết về chỉ đạo
điều hành thực hiện chính sách là các cơ quan nhà nƣớc từ Trung ƣơng đến
cơ sở. Ngoài ra, còn xem xét cả vai trò, chức năng của các tổ chức chính trị -
xã hội và xã hội trong việc tham gia thực hiện chính sách. Bên cạnh đó, còn
xem xét, đánh giá việc thực hiện chính sách của các đối tƣợng tham gia thực
hiện chính sách bao gồm các đối tƣợng thụ hƣởng lợi ích trực tiếp và gián
tiếp từ chính sách, nghĩa là tất cả các thành viên với tƣ cách là công dân.
65
Về hình thức thực hiện chính sách pháp luật, hiện nay phổ biến quan niệm
chính sách pháp luật đƣợc thực hiện bằng các hình thức cơ bản sau: hình thức
học thuyết, hình thức xây dựng pháp luật, hình thức thực hiện pháp luật, hình
thức giải thích pháp luật, hình thức giáo dục và đào tạo pháp luật [45, tr.9].
2.4. Các lĩnh vực chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia
An ninh quốc gia là phạm trù bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống xã
hội. Qua nghiên cứu tổng hợp cho thấy trong sự đa dạng của các lĩnh vực liên
quan đến an ninh quốc gia, căn cứ phạm vi nghiên cứu, đề tài tập trung nghiên
cứu một số lĩnh vực gồm: An ninh nội bộ (an ninh chính trị nội bộ, an ninh
kinh tế, an ninh văn hoá - tƣ tƣởng); an ninh xã hội (an ninh dân tộc, tôn giáo);
an ninh thông tin; hợp tác quốc tế trong bảo vệ ANQG.
An ninh nội bộ bao gồm an ninh chính trị nội bộ, an ninh kinh tế, an ninh
văn hoá - tƣ tƣởng. An ninh chính trị nội bộ là sự ổn định và phát triển vững
chắc của chế độ chính trị trong một quốc gia, bao gồm sự ổn định chính trị,
nền tảng tƣ tƣởng, thể chế chính trị, quyền lãnh đạo của Đảng, sự an toàn nội
bộ, việc thực hiện đƣờng lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc
đƣợc bảo đảm. An ninh kinh tế là sự ổn định, phát triển đúng định hƣớng xã
hội chủ nghĩa và vững mạnh của nền kinh tế nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. An ninh văn hoá - tư tưởng là sự ổn định và phát triển của văn hóa -
tƣ tƣởng đúng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, dựa trên nền tảng là chủ nghĩa
Mác-Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
An ninh xã hội bao gồm an ninh dân tộc và an ninh tôn giáo. An ninh
dân tộc là bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc, đảm bảo cho tất cả các
thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam cùng phát triển theo đúng
Hiến pháp, pháp luật của Nhà nƣớc; ngăn ngừa, phát hiện, đấu tranh với các hoạt
động lợi dụng dân tộc ít ngƣời để làm việc trái pháp luật, kích động gây chia rẽ
giữa các dân tộc, xâm hại đến ANQG, trật tự, an toàn xã hội. An ninh tôn giáo là
bảo đảm chính sách tự do tín ngƣỡng của Đảng và Nhà nƣớc đối với nhân dân
66
nhƣng đồng thời cũng kiên quyết đấu tranh với các đối tƣợng, thế lực lợi dụng
vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng. Thực hiện đoàn kết, bình đẳng giúp đỡ
nhau cùng phát triển giữa các tôn giáo, giữa cộng đồng dân cƣ theo tôn giáo với
những ngƣời không theo tôn giáo, đảm bảo tốt đời đẹp đạo, phụng sự Tổ quốc.
An ninh thông tin là sự an toàn, nhanh chóng, chính xác và bí mật của thông
tin trong quá trình xác lập, chuyển tải, thu nhận, xử lí và lƣu giữ tin; sự bảo đảm
hoạt động báo chí, xuất bản đúng sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nƣớc;
không để thế lực, phản động lợi dụng kích động, chống phá; sự bảo đảm hoạt
động trên không gian mạng không gây phƣơng hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Hợp tác quốc tế trong bảo vệ ANQG là quan hệ hợp tác quốc tế giữa
Việt Nam với các đối tác nƣớc ngoài, góp phần thực hiện có hiệu quả đƣờng
lối đối ngoại của Đảng, Nhà nƣớc và nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ
gìn trật tự an toàn xã hội.
Tiểu kết Chương 2
Chính sách pháp luật bảo vệ ANQG là chính sách quan trọng, thể hiện
thái độ của nhà nƣớc đối với ANQG, một trong những vấn đề hệ trọng nhất
của đời sống xã hội. Với mong muốn làm dày thêm hệ thống lý luận về chính
sách pháp luật bảo vệ ANQG hiện nay, trong Chƣơng 2 của luận án tiến sĩ,
nghiên cứu sinh đã lựa chọn một số vấn đề lý luận chung về chính sách pháp
luật bảo vệ ANQG để thực hiện nghiên cứu.
Từ việc nghiên cứu khái niệm chính sách công, chính sách bảo vệ ANQG, chính sách pháp luật, tác giả đi đến khái niệm (1)Chính sách pháp luật
bảo vệ ANQG là kết quả ý chí chính trị của Đảng cầm quyền và Nhà nƣớc
đƣợc thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, trong
đó bao hàm mục tiêu bảo vệ ANQG và hệ thống giải pháp, công cụ để bảo đảm mục tiêu đề ra đƣợc hiện thực hoá; (2) Chính sách pháp luật bảo vệ
67
ANQG ở Việt Nam là kết quả ý chí chính trị của hệ thống chính trị, cốt lõi là
Đảng Cộng sản Việt Nam, đƣợc thực hiện bởi quyền lực Nhà nƣớc, thể hiện
bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, trong đó bao hàm
mục tiêu bảo đảm sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và
Nhà nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và hệ thống các giải pháp, công cụ để hiện thực hoá mục tiêu đề ra; (3) Thực hiện chính sách pháp luật
bảo vệ ANQG là toàn bộ quá trình hoạt động của các chủ thể và bao gồm cả
sự tuân thủ theo các cách thức khác nhau nhằm hiện thực hoá nội dung chính
sách pháp luật bảo vệ ANQG một cách hiệu quả.
Trên cơ sở khái niệm chính sách pháp luật bảo vệ ANQG, tác giả đi sâu
nghiên cứu về nội dung chính sách pháp luật bảo vệ ANQG ở Việt Nam; về lý
luận thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG trong chu trình chính sách và
các lĩnh vực chính sách pháp luật bảo vệ ANQG.
Những vấn đề nói trên sẽ là cơ sở để nghiên cứu sinh tiếp tục đánh giá thực
trạng thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG ở Việt Nam hiện nay và đề
xuất các giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ
68
ANQG của nƣớc ta trong tình hình mới trong các chƣơng sau của luận án.
Chương 3
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT BẢO VỆ
AN NINH QUỐC GIA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ
an ninh quốc gia
Thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG là một khâu quan trọng
trong chu trình chính sách, có sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau. Cũng
nhƣ các khâu trong chu trình chính sách nói chung, thực hiện chính sách pháp
luật bảo vệ ANQG chịu sự ảnh hƣởng của nhiều yếu tố khách quan và chủ
quan, đặc biệt là các yếu tố sau đây:
Một là, yếu tố chính trị, bao gồm môi trường chính trị và ý thức chính trị
Môi trƣờng chính trị ổn định, bền vững sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động quản lý xã hội của Nhà nƣớc dƣới sự lãnh đạo của Đảng; tạo niềm
tin của các cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên và ngƣời dân đối với
Đảng, Nhà nƣớc, từ đó quán triệt, tin tƣởng và nghiêm chỉnh thực hiện các
chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc.
Môi trƣờng chính trị ổn định còn góp phần bảo đảm mọi quan điểm, chủ
trƣơng, đƣờng lối của Đảng đối với chiến lƣợc xây dựng chính sách pháp luật
nói chung, chính sách pháp luật bảo vệ ANQG nói riêng đƣợc đề ra kịp thời,
phù hợp yêu cầu khách quan, đáp ứng đòi hỏi từ thực tiễn quản lý của Nhà
nƣớc, bởi đây là cơ sở để Nhà nƣớc thể chế hóa thành các quy định pháp luật.
Quá trình xây dựng hệ thống chính sách pháp luật của Nhà nƣớc đòi hỏi sự
chung tay tham gia góp ý kiến, kiểm tra, giám sát của toàn Đảng, toàn dân.
Bên cạnh môi trƣờng chính trị, ý thức chính trị là yếu tố quan trọng thể
hiện ở mức độ quán triệt, thấm nhuần của các cơ quan nhà nƣớc, cá nhân có
thẩm quyền thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG trong quá trình tiến
hành nhiệm vụ chính trị của mình; mức độ thƣờng xuyên, sâu sát của các cấp,
69
các ngành trong lãnh đạo, chỉ đạo từng giai đoạn trong quy trình thực hiện
chính sách pháp luật. Ý thức chính trị của các chủ thể này sẽ giúp cho hoạt
động thực hiện chính sách pháp luật đạt chất lƣợng, hiệu quả cao, góp phần
tạo niềm tin, ý thức, trách nhiệm chính trị của các chủ thể khác trong quá trình
thực hiện chính sách pháp luật.
Ý thức chính trị còn thể hiện ở ý thức của ngƣời dân đƣợc tiếp cận thông
tin đa dạng, nhiều chiều, công khai, chủ động tham gia góp ý kiến trong các
giai đoạn thực hiện chính sách pháp luật; đồng thời, các cơ quan nhà nƣớc, cá
nhân có thẩm quyền thực hiện pháp luật phải lắng nghe, tiếp thu ý kiến, phản
hồi ý kiến của ngƣời dân một cách công khai, minh bạch; trƣờng hợp tiếp thu
ý kiến thì cụ thể ý kiến về nội dung gì, nếu không tiếp thu thì phải giải trình rõ
tại sao không tiếp thu. Qua đó, một mặt bảo đảm quyền dân chủ của ngƣời
dân trong thực hiện chính sách pháp luật, mặt khác, những ý kiến góp ý từ
ngƣời dân, từ cộng đồng sẽ giúp các cơ quan nhà nƣớc, cá nhân có thẩm
quyền xây dựng, hoàn thiện chính sách pháp luật bảo đảm đáp ứng yêu cầu
thực tiễn, phản ảnh đƣợc ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Hai là, yếu tố ý thức dân tộc
Ý thức dân tộc là tổng hòa những tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí của các
cộng đồng dân tộc về lợi ích quốc gia dân tộc, về bản sắc văn hóa, về truyền
thống lịch sử dân tộc tạo nên sức mạnh chính trị, tinh thần trong quá trình lịch sử
tồn tại và phát triển. Ý thức dân tộc là một trong những động lực cơ bản bảo đảm
sự ổn định và phát triển bền vững của quốc gia dân tộc. Ý thức dân tộc đƣợc
biểu hiện ở nhiều phƣơng diện, nhiều lĩnh vực, một trong những nội dung đƣợc
đặc biệt quan tâm là chính sách pháp luật bảo vệ ANQG.
Yếu tố ý thức dân tộc sẽ ảnh hƣởng trực tiếp đến thực hiện chính sách
pháp luật bảo vệ ANQG. Các quốc gia có ý thức dân tộc càng cao sẽ càng quan
tâm đến chính sách pháp luật bảo vệ ANQG, xuất phát từ vai trò, vị trí quan
trọng của ANQG. ANQG là vấn đề liên quan trực tiếp đến lĩnh vực tối quan
trọng của chế độ xã hội, đó là vấn đề chính trị, là sự tồn vong của đất nƣớc, sự
70
toàn vẹn của non sông, độc lập của dân tộc. ANQG cũng thể hiện lập trƣờng,
quan hệ chính trị của giai cấp công nhân đối với chế độ xã hội và Nhà nƣớc ta,
khẳng định nguyên tắc chính trị, lập trƣờng chính sách đối ngoại trong quan hệ
giữa Việt Nam và các quốc gia khác.
Ý thức dân tộc càng cao, càng sâu sắc thì chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG càng đƣợc quan tâm hoàn thiện, thực hiện đầy đủ và hiệu quả. Tuy
nhiên, cũng không đƣợc hiểu một cách máy móc, chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG chƣa đƣợc hoàn thiện, chƣa thực hiện hiệu quả thì ý thức dân tộc chƣa
cao. Bởi vì, nhƣ tiêu đề của mục 3.1, thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG chịu ảnh hƣởng đồng thời bởi nhiều yếu tố khác nhau.
Ba là, yếu tố nhà nước pháp quyền và đề cao quyền con người
Có rất nhiều khái niệm về nhà nƣớc pháp quyền. Một cách chung nhất, nhà
nƣớc pháp quyền đƣợc hiểu là phƣơng thức xây dựng và vận hành bộ máy nhà
nƣớc nói chung thông qua hệ thống pháp luật nhƣ hiến pháp, luật và các văn bản
pháp quy khác. Nói cách khác, nhà nƣớc pháp quyền là nhà nƣớc đƣợc xem xét
dƣới góc độ pháp luật, trong đó tính tối cao của pháp luật đƣợc tôn trọng, các tƣ
tƣởng và hành vi chính trị, tôn giáo, bất cứ chủ thể nào cũng đƣợc giới hạn bởi
khuôn khổ của pháp luật và chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Nhà nƣớc pháp
quyền có hai đặc trƣng cơ bản: một là nhà nƣớc thƣợng tôn pháp luật; hai là nhà
nƣớc và pháp luật tôn trọng và bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân.
Theo đó, nhà nƣớc pháp quyền đòi hỏi một hệ thống chính sách pháp
luật, trong đó có chính sách pháp luật bảo vệ ANQG đồng bộ, đầy đủ, hoàn
thiện; đặt ra yêu cầu cho quá trình thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG phải hiệu quả, đảm bảo đúng pháp luật, bảo đảm quyền, lợi ích cơ bản
của công dân. Theo chiều ngƣợc lại, xây dựng và thực hiện chính sách pháp
luật có ảnh hƣởng mạnh mẽ đến nhà nƣớc pháp quyền. Hệ thống chính sách
pháp luật và hệ thống pháp luật đồng bộ giữ vai trò điều chỉnh cơ bản đối với
toàn bộ hoạt động của nhà nƣớc và hoạt động xã hội, quyết định tính hợp hiến
và hợp pháp của mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc. Tùy theo mức
71
độ tiến bộ, hiệu quả, nó có tác dụng thúc đẩy nhiều hay ít đến việc hiến pháp và
pháp luật luôn đƣợc tôn trọng đề cao và tuân thủ nghiêm minh; cũng nhƣ việc
thực thi một nền dân chủ, đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân.
Bốn là, yếu tố nguồn nhân lực
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, con ngƣời vừa là thực thể tự nhiên, vừa
là thực thể xã hội, đồng thời là chủ thể cải tạo hoàn cảnh. Nói tới hiệu quả đội
ngũ cán bộ thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG là nói tới số lƣợng và
chất lƣợng cán bộ hợp lý đƣợc căn cứ trên chức năng, nhiệm vụ, thể lực, trí lực,
tay nghề, năng lực quản lý, mức độ thành thạo trong công việc, phẩm chất đạo
đức...Trong các yếu tố về chất lƣợng cán bộ thì phẩm chất đạo đức và trình độ
chuyên môn là quan trọng nhất vì nó quy định mức độ chuyên nghiệp, phƣơng
pháp tƣ duy, nhân cách của cán bộ.
Nguồn nhân lực trong thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG là các
chủ thể tham gia vào quá trình thực hiện chính sách, gồm: Các cán bộ, công chức
có thẩm quyền thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG theo quy định.
Chất lƣợng, số lƣợng nguồn nhân lực bảo đảm thực hiện chính sách pháp
luật bảo vệ ANQG phụ thuộc vào việc thực hiện đồng bộ, hiệu quả các biện
pháp sau: Rà soát, đề xuất biên chế hợp lý cho đội ngũ cán bộ làm công tác
thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG; xây dựng nội dung, chƣơng
trình đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ làm công tác thực hiện chính sách pháp luật
bảo vệ ANQG một cách thƣờng xuyên, liên tục; đầu tƣ xây dựng, phát triển,
hiện đại hoá các học viện, viện nghiên cứu, nhà trƣờng và các cơ sở nghiên
cứu, đào tạo khác thuộc cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia; tăng
cƣờng xây dựng tƣ cách đạo đức của cán bộ làm công tác thực hiện chính sách
pháp luật bảo vệ ANQG gắn với quán triệt và thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số
05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tƣ
tƣởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; lựa chọn những cán bộ có năng lực
và kinh nghiệm, phẩm chất đạo đức tốt bố trí đảm nhận những công việc quan
trọng; có những chính sách, chế độ hỗ trợ về tinh thần, vật chất cho đội ngũ
72
làm công tác thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG.
Năm là, yếu tố hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế là quá trình tham gia để trở thành một bộ phận cấu
thành có vị trí, vai trò nhất định trong các lĩnh vực hoạt động của cộng đồng
quốc tế. Hội nhập quốc tế có nhiều tầng nấc (tiểu khu vực, khu vực, liên khu
vực, châu lục, thế giới) và mức độ (nông, sâu, rộng, hẹp). Mức thấp nhất là
mở rộng quan hệ với bên ngoài, tức là tham gia vào hệ thống quan hệ quốc tế.
Mức cao nhất là trở thành một bộ phận cấu thành của nền chính trị thế giới,
nền kinh tế toàn cầu và nền văn minh nhân loại; một thành viên có trách
nhiệm, có vị trí và vai trò xứng đáng trong cộng đồng quốc tế. Mục tiêu của
hội nhập quốc tế là thực hiện lợi ích quốc gia dân tộc thông qua việc phát triển
các mối quan hệ nhiều mặt, đa dạng, song phƣơng, đa phƣơng với các chủ thể
khác nhau trong cộng đồng quốc tế (nhƣ: quốc gia, chính đảng, tổ chức nhân
dân, tổ chức phi chính phủ, tổ chức quốc tế, tổ chức tiểu khu vực, khu vực và
liên khu vực, tập đoàn công ty, hiệp hội doanh nghiệp...).
Hội nhập quốc tế là xu thế phát triển khách quan của xã hội loài ngƣời.
Từ góc độ hoạch định chính sách, hội nhập quốc tế chính là sự ứng xử chủ
quan của các quốc gia – dân tộc đối với xu thế khách quan đó. Hội nhập quốc
tế và thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG có cùng mục đích là đều
góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hội nhập quốc tế có
ảnh hƣởng sâu sắc tới chính sách pháp luật bảo vệ ANQG, vì nếu không có
chính sách đúng, nếu thực hiện chính sách không hiệu quả thì hội nhập sẽ vừa
gia tăng thách thức vừa làm suy giảm khả năng đối phó với các thách thức đối
với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Sáu là, các yếu tố chi phí lợi ích và cơ sở vật chất
Trong mọi hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nƣớc đều cần có
kinh phí và cơ sở vật chất để tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đƣợc
giao. Các yếu tố này ảnh hƣởng lớn tới hiệu lực, hiệu quả hoạt động của từng
73
cơ quan. Đối với thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG, yếu tố kinh
phí và cơ sở vật chất có tác động lớn tới chất lƣợng thực hiện chính sách của
các cơ quan nhà nƣớc, cá nhân có thẩm quyền bởi nếu kinh phí, cơ sở vật chất
không đủ, không phù hợp thì các chủ thể có thẩm quyền khó có thể bảo đảm
tiến độ triển khai nhiệm vụ.
3.2. Thực trạng thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia
Nhƣ đã trình bày ở Chƣơng 2, với đặc thù lĩnh vực chính sách pháp luật
bảo vệ ANQG, luận án đi vào phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính
sách pháp luật bảo vệ ANQG trên các lĩnh vực: An ninh nội bộ (an ninh chính
trị nội bộ, an ninh kinh tế, an ninh văn hoá - tƣ tƣởng); an ninh xã hội (an ninh
dân tộc, tôn giáo); an ninh thông tin; hợp tác quốc tế trong bảo vệ ANQG.
Kết quả thực hiện mục tiêu chính sách pháp luật bảo vệ ANQG đƣợc thể
hiện Biểu dƣới, đa số ngƣời đƣợc hỏi cho biết là ở mức bình thƣờng, cũng có
đến trên 20% ngƣời đƣợc hỏi cho rằng việc thực hiện mục tiêu chính sách
pháp luật bảo vệ ANQG còn hạn chế, yếu kém. Qua phỏng vấn, có nhiều ý
Rất tốt
Tốt
Bình thường
Đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu chính sách ANQG
Kém
Rất kém
0
20
40
60
kiến cho rằng mục tiêu chƣa đƣợc thực hiện tốt nhất có thể.
Biểu đồ 3.1. Đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu
chính sách pháp luật bảo vệ ANQG
74
(Nguồn: Điều tra khảo sát mẫu năm 2019)
3.2.1. Thực trạng thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh nội bộ
Đến nay, các văn bản quy phạm pháp luật điển hình của Việt Nam trên lĩnh
vực bảo vệ an ninh nội bộ gồm:
Hiến pháp năm 2013 đƣợc thông qua ngày 28/11/2013, tại kỳ họp thứ 6
Quốc hội khoá XIII, đã kế thừa và phát triển các bản Hiến pháp trƣớc đây về
mọi mặt, trong đó có lĩnh vực bảo vệ an ninh chính trị. Điều 11 quy định: "Tổ
quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Mọi hành vi chống lại độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị". Đây là quy định rất quan trọng, cơ bản về
ANQG và việc bảo vệ ANQG. Về trách nhiệm, quyền hạn của Chính phủ trong
quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANQG, Điều 96 quy định: "Chính
phủ thống nhất quản lý về kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công
nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, ANQG...".
Luật An ninh quốc gia đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004. Luật
gồm 5 chƣơng với 36 điều quy định về chính sách ANQG, các nguyên tắc,
nhiệm vụ, biện pháp bảo vệ ANQG, quy định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm
của các cơ quan, tổ chức, công dân trong bảo vệ ANQG.
Bộ luật Hình sự 2015 đƣợc ban hành ngày 27/11/2015, trong đó, Chƣơng
XIII của Bộ luật này quy định về các tội xâm phạm ANQG, gồm 14 tội: Tội
phản bội Tổ quốc (Điều 108); Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân
dân (Điều 109); Tội gián điệp (Điều 110); Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ
(Điều 111); Tội bạo loạn (Điều 112); Tội khủng bố nhằm chống chính quyền
nhân dân (Điều 113); Tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nƣớc Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 114); Tội phá hoại việc thực hiện các
chính sách kinh tế - xã hội (Điều 115); Tội phá hoại chính sách đoàn kết
(Điều 116); Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu,
vật phẩm nhằm chống Nhà nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều
117); Tội phá rối an ninh (Điều 118); Tội chống phá cơ sở giam giữ (Điều
75
119); Tội tổ chức, cƣỡng ép, xúi giục ngƣời khác trốn đi nƣớc ngoài hoặc trốn ở
lại nƣớc ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 120); Tội trốn đi nƣớc
ngoài hoặc trốn ở lại nƣớc ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 121).
Các tội nêu trên đều thuộc nhóm tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm ANQG với
dấu hiệu định tội bắt buộc là mục đích chống chính quyền nhân dân.
Bộ luật Tố tụng hình sự đƣợc ban hành ngày 27/11/2015. Trong Bộ luật
này có quy định về thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử đối với tội xâm phạm
ANQG tại Điều 173.
Nhìn tổng thể, hệ thống pháp luật bảo vệ an ninh chính trị ở nƣớc ta còn
thiếu và chƣa đồng bộ, chƣa kịp thời thể chế hóa đƣờng lối của Đảng, chính
sách của Nhà nƣớc về bảo vệ an ninh chính trị, gây nên những khó khăn, vƣớng
mắc, làm giảm hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh các tội xâm phạm ANQG.
Xem Biểu dƣới đây cho thấy qua điều tra còn khá hạn chế về đảm bảo
mục tiêu chính sách pháp luật bảo vệ ANQG đƣợc thể hiện bao hàm đối với
pháp luật ANQG hiện hành. Kết quả phỏng vấn sâu cho thấy đa số nhất trí là
mục tiêu chính sách pháp luật bảo vệ ANQG là rất quan trọng nhƣng chƣa đƣợc
40
35
30
25
20
15
Mục tiêu chính sách ANQG thể hiện rõ trong pháp luật
10
5
0
Rõ
Rất rõ
Không rõ
Rất không rõ
Bình thường
bao hàm chứa đựng đầy đủ trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật.
Biểu đồ 3.2: Mục tiêu chính sách pháp luật bảo vệ ANQG
thể hiện rõ trong pháp luật hiện hành
76
(Nguồn: Điều tra khảo sát mẫu năm 2019)
Kết quả phân tích phiếu điều tra cho thấy các giải pháp chính sách pháp
luật bảo vệ ANQG chƣa đƣợc quy định rõ trong các văn bản quy phạm pháp
luật, có đến trên 41% cho rằng các giải pháp chính sách còn chƣa đƣợc quy
định rõ. Qua phỏng vấn, các biện pháp bảo đảm ANQG đôi khi thông qua điều
35
30
25
20
15
10
Giải pháp chính sách ANQG được quy định rõ trong pháp luật
5
0
Rõ
Rất rõ
Không rõ
Bình thường
Rất không rõ
hành, hành chính mà chƣa đƣợc hệ thống hóa quy phạm pháp luật.
Biểu đồ 3.3. Giải pháp chính sách pháp luật bảo vệ ANQG
được quy định trong pháp luật
(Nguồn: Điều tra khảo sát mẫu năm 2019)
Trƣớc hết là những vƣớng mắc, bất cập trong BLHS năm 1999, cụ thể:
+ Khách thể trực tiếp của tội phạm là một trong những căn cứ để xác
định tội danh và để phân biệt tội này với tội khác. Tuy nhiên, trong nhiều điều
luật, khách thể trực tiếp của tội phạm đƣợc phản ánh còn khái quát, chung
chung, làm cho việc đánh giá tính chất nguy hiểm cho xã hội và phân biệt tội
phạm này với tội phạm khác gặp khó khăn. Trong một số tội, điều luật thể
hiện khách thể nhƣ: Gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ, lực lƣợng quốc phòng, chế độ XHCN và Nhà nƣớc Cộng hòa
XHCN Việt Nam (Điều 78); cơ sở vật chất - kỹ thuật (Điều 85); gây nguy hại
cho an ninh lãnh thổ (Điều 81). Tình trạng này đã làm cho điều tra viên lúng
77
túng trong quá trình chứng minh, xác định khách thể. Ngay cả các cơ quan có
thẩm quyền giải thích luật cũng gặp khó khăn, vƣớng mắc khi hƣớng dẫn các
điều luật này.
Ví dụ, giải thích về tội phản bội Tổ quốc, Hội đồng thẩm phán TAND tối
cao hƣớng dẫn rằng: Một ngƣời đƣợc tổ chức phản động cử ra nƣớc ngoài để câu
kết nhằm gây nguy hại cho độc lập của Tổ quốc nhƣng trƣớc khi ra nƣớc ngoài thì
bị bắt, trong trƣờng hợp này sẽ bị xử về tội trốn đi nƣớc ngoài nhằm chống chính
quyền. Tuy nhiên, nếu định tội theo hƣớng dẫn trên thì sẽ không phù hợp với bản
chất của hành vi và khách thể mà đối tƣợng phạm tội nhằm xâm hại.
+ Về Tội Phản bội Tổ quốc (Điều 78 BLHS) và Tội Gián điệp (Điều 80
BLHS) cũng có nhiều điểm chồng chéo, chƣa rõ:
Điều 78 BLHS quy định về hành vi của Tội phản bội Tổ quốc: “Công dân
Việt Nam nào câu kết với nƣớc ngoài nhằm gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lực lƣợng quốc phòng, chế độ xã hội
chủ nghĩa và Nhà nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” thì bị xử lý về Tội
phản bội Tổ quốc.
Điều 80 BLHS quy định về hành vi của Tội gián điệp gồm: Gây cơ sở để
hoạt động tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo của nƣớc ngoài; hoạt động thám
báo, chỉ điểm, chứa chấp, dẫn đƣờng hoặc thực hiện hành vi khác giúp ngƣời
nƣớc ngoài hoạt động tình báo, phá hoại; cung cấp hoặc thu thập nhằm cung cấp
bí mật Nhà nƣớc cho nƣớc ngoài; thu thập, cung cấp tin tức, tài liệu khác nhằm
mục đích để nƣớc ngoài sử dụng chống nƣớc Cộng hoà XHCN Việt Nam.
Có thể thấy chủ thể thực hiện các hành vi trong Tội Gián điệp là công dân
Việt Nam. Đối với chủ thể là công dân Việt Nam thì hành vi phạm tội chỉ cấu
thành tội gián điệp nếu xuất hiện “yếu tố nƣớc ngoài”, đƣợc thể hiện qua các
cụm từ “theo sự chỉ đạo của nƣớc ngoài”, “giúp ngƣời nƣớc ngoài”, “cho nƣớc
ngoài”, “để nƣớc ngoài sử dụng”. Trong khi đó, Tội Phản bội Tổ quốc (Điều 78)
cũng có đặc trƣng yếu tố chủ thể (công dân Việt Nam) và hành vi khách quan
78
gắn với “yếu tố nƣớc ngoài”, cụ thể là hành vi “câu kết với nƣớc ngoài”.
Xung quanh vấn đề này, đã có nhiều nhà nghiên cứu đã đƣa ra những
giải thích để chứng minh “yếu tố nƣớc ngoài” trong hai tội là khác nhau. Song
thực tế cho thấy, việc phân biệt “yếu tố nƣớc ngoài” giữa hai tội danh đến nay
vẫn chƣa rõ ràng. Công dân Việt Nam bằng một trong những hành vi đƣợc
quy định ở Điều 80 để thực hiện tội phạm thì không thể nói là không có sự liên
hệ chặt chẽ (câu kết) với nƣớc ngoài, chính là nội dung quy định ở Điều 78.
+ Về Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 79 BLHS):
Điều 79 BLHS quy định hành vi khách quan của tội phạm là “hoạt động thành
lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Từ quy định
này có thể thấy chỉ phạm tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân nếu
ngƣời phạm tội đã có một trong hai hành vi: Hành vi thành lập tổ chức nhằm
lật đổ chính quyền nhân dân và hành vi tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính
quyền nhân dân.
Hành vi thành lập tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân là hành vi
của những ngƣời đề xƣớng chủ trƣơng, đƣờng lối, vạch kế hoạch hoạt động
của tổ chức hoặc viết cƣơng lĩnh, điều lệ, hiệu triệu, tuyên truyền, lôi kéo
ngƣời khác vào tổ chức nhằm lật đổ chính quyền.
Hành vi tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân là hành vi gia
nhập tổ chức khi biết rõ tổ chức có mục đích lật đổ chính quyền, xoá bỏ chế độ
XHCN, tán thành và tích cực hoạt động theo mục tiêu, kế hoạch của tổ chức đó.
Nhƣ vậy, nếu dùng tên của điều luật là “Tội hoạt động nhằm lật đổ chính
quyền nhân dân” thì với chỉ hai hành vi trên chƣa bao quát hết các hành vi
khách quan của “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, còn nhiều
hành vi khác nhằm thực hiện mục đích cuối cùng là lật đổ chính quyền nhân
dân nằm trong nhóm này. Điều đó có nghĩa là nội dung và tên gọi của Điều 79
đã có sự mâu thuẫn.
+ Về Tội phá hoại chính sách đoàn kết (Điều 87 BLHS năm 1999) và
Tội tuyên truyền chống Nhà nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều
79
88 BLHS năm 1999).
Theo Điều 87 BLHS, hành vi khách quan của Tội phá hoại chính sách
đoàn kết gồm bốn hành vi: (1) Gây chia rẽ giữa các tầng lớp nhân dân, giữa
nhân dân với lực lƣợng vũ trang, với chính quyền nhân dân, với các tổ chức
xã hội; (2) gây hằn thù, kỳ thị, chia rẽ dân tộc, xâm phạm quyền bình đẳng
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; (3) gây chia rẽ ngƣời theo tôn giáo
với ngƣời không theo tôn giáo, chia rẽ các tín đồ tôn giáo với chính quyền
nhân dân, với các tổ chức xã hội; (4) phá hoại việc thực hiện chính sách đoàn
kết quốc tế.
Theo quy định tại Điều 88 BLHS, hành vi khách quan của tội tuyên
truyền chống Nhà nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm ba hành vi:
(1) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân; (2) tuyên truyền
những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong
nhân dân; (3) làm ra, tàng trữ, lƣu hành các tài liệu văn hoá phẩm có nội dung
chống Nhà nƣớc Cộng hoà XHCN Việt Nam.
Thực tế đấu tranh phòng, chống tội phạm cho thấy: để phá hoại chính
sách đoàn kết (thông qua việc thực hiện một trong các hành vi nói trên), ngƣời
phạm tội phải sử dụng các thủ đoạn tuyên truyền chống Nhà nƣớc Cộng hoà
XHCN Việt Nam giống nhƣ những biểu hiện về hành vi trong tội tuyên
truyền chống Nhà nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam. Nghĩa là: nếu thực hiện
hành vi tuyên truyền chống nhà nƣớc để phá hoại chính sách đoàn kết thì xử
lý về tội phá hoại chính sách đoàn kết (Điều 87 BLHS), nếu không xác định
đƣợc mục đích này thì xử lý về tội tuyên truyền chống Nhà nƣớc Cộng hoà
XHCN Việt Nam (Điều 88 BLHS). Điều này sẽ tất yếu dẫn đến tình trạng,
nhiều trƣờng hợp phạm tội tại Điều 87 nhƣng phải xử theo Điều 88 do không
chứng minh đƣợc mục đích phá hoại chính sách đoàn kết.
+ Nhiều khái niệm trong BLHS chƣa đƣợc hƣớng dẫn một cách rõ ràng
80
khiến cho có nhiều cách hiểu khác nhau, nhƣ khái niệm “cơ sở vật chất - kỹ thuật
của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, chế định đồng phạm, quy định
về tổ chức phạm tội…
+ Việc chia khung hình phạt và xây dựng các cấu thành tội phạm (cấu
thành cơ bản, cấu thành tăng nặng, cấu thành giảm nhẹ) trong một số tội xâm
phạm ANQG chƣa hợp lý. Để quán triệt nguyên tắc phân hóa tội phạm, Điều
8 BLHS năm 1999 đã chia tội phạm thành 4 loại. Trên cơ sở phân loại tội
phạm trong Điều 8 BLHS và mức độ nguy hiểm của hành vi, nhìn chung các
tội phạm trong BLHS đƣợc chia thành 4 cấu thành tƣơng ứng với 4 loại tội
phạm quy định trong Điều 8. Quy định về các tội xâm phạm ANQG trong
Chƣơng XI BLHS năm 1999 gồm 14 điều trong đó có 12 điều đƣợc chia làm
2 khung, 2 điều chia làm 3 khung. Vấn đề là, căn cứ đƣợc nhà làm luật dựa
vào để xây dựng các cấu thành tội phạm, chia khung hình phạt trong các tội
xâm phạm ANQG là các căn cứ khác nhau: Trƣờng hợp phạm tội, vai trò
đồng phạm, khách thể của tội phạm. Cách phân chia khung hình phạt nêu trên
một mặt thể hiện sự không thống nhất trong xây dựng luật; mặt khác làm cho
việc áp dụng luật, điều tra, xử lý gặp khó khăn.
So sánh với quy định này của Chƣơng các tội phạm xâm phạm ANQG
với các chƣơng khác của BLHS, điển hình là Chƣơng XII BLHS năm 1999,
có thể thấy rằng: Hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể
trong Chƣơng 110 XII đƣợc quy định trong 11 điều luật (Điều 93, Điều 94,
Điều 95, Điều 96, Điều 97, Điều 100, Điều 103, Điều 104, Điều 105, Điều
106, Điều 107). Riêng trong tội giết ngƣời, tình tiết định khung quy định tại
khoản 1 Điều 93 BLHS đƣợc quy định từ điểm a đến q, gồm 15 tình tiết cụ
thể. Nguyên tắc phân hóa tội phạm đƣợc quán triệt tốt nên trong điều tra các
vụ án quy định tại Chƣơng XII việc chứng minh các tình tiết làm cơ sở cho
việc cá thể hóa TNHS và hình phạt rất thuận lợi.
BLHS năm 2015 đã phân chia lại khung hình phạt của tội khủng bố
81
nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 113 BLHS năm 2015) theo cách
phân chia tƣơng tự Chƣơng XII của BLHS năm 1999. So với những bất cập
còn tồn tại thì những khắc phục này chƣa toàn diện, triệt để.
+ Tình tiết định khung hình phạt và mức hình phạt trong cấu thành tội
phạm giảm nhẹ của một số tội chƣa hợp lý. Trong các tội quy định tại các
Điều 80, Điều 86, Điều 87, Điều 90 BLHS năm 1999 tình tiết định khung là
“phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng”. Trong BLHS “tội phạm ít
nghiêm trọng” đã đƣợc định nghĩa cụ thể (là tội phạm gây nguy hại không lớn
cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 3 năm
tù), còn phạm tội trong trƣờng hợp ít nghiêm trọng thì không có văn bản giải
thích chính thức. Trong khi đó, về hình phạt, phạm tội trong trƣờng hợp ít
nghiêm trọng có thể bị phạt tù đến 10 năm (Điều 90), thậm chí đến 15 năm
(Điều 80). Đến BLHS năm 2015, vấn đề này vẫn chƣa đƣợc khắc phục khi
quy định về các tội xâm phạm ANQG. Do quy định của luật chƣa đầy đủ nên
làm cho công tác điều tra, xử lý tội phạm gặp khó khăn, nhất là những trƣờng
hợp cần thực hiện chính sách khoan hồng hoặc trƣờng hợp cần xử lý theo yêu
cầu chính trị.
+ Quy định về căn cứ miễn TNHS trong BLHS còn khái quát, khó chứng
minh điều kiện (căn cứ) để đƣợc miễn TNHS: “Do sự chuyển biến của tình
hình mà hành vi phạm tội hoặc ngƣời phạm tội không còn nguy hiểm nữa”
(theo quy định tại khoản 1 Điều 25 BLHS năm 1999). Về lý luận, nhƣ thế nào
là chuyển biến của tình hình chƣa có sự giải thích cụ thể. Về thực tế, đối với
hành vi xâm phạm ANQG, do chuyển biến của tình hình mà tội phạm không
còn nguy hiểm rất ít khi xảy ra. Vì vậy, quy định nói trên là không sát thực tế.
+ Bên cạnh những nội dung trên, một trong những vấn đề chúng tôi cho
rằng quan trọng nhất, chính là quy định về các tội xâm phạm ANQG trong
BLHS còn thiếu vắng, chưa bao quát đầy đủ hành vi và chưa đáp ứng đầy đủ
yêu cầu đấu tranh, xử lý những người có hành vi gây phương hại cho ANQG.
82
Từ thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, có thể thấy một số hành vi
chống chế độ, gây phƣơng hại cho ANQG cần phải quy định trong luật để răn
đe, trừng trị nhƣng chƣa đƣợc quy định là: Hành vi công khai phản đối, đòi
xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; hành vi khôi phục, hoặc lập
ra các tổ chức tôn giáo trái phép, hành vi phát triển đạo bất hợp pháp, hành vi
hoạt động tình báo theo sự chỉ đạo của nƣớc ngoài do công dân Việt Nam
thực hiện. Do thiếu quy định và hƣớng dẫn nên trong quá trình điều tra, khi
gặp những trƣờng hợp này rất dễ lúng túng trong việc xác định đối tƣợng
chứng minh, dẫn tới định tội không đúng hoặc bỏ lọt tội phạm.
Về thực tiễn công tác bảo vệ ANQG, có thể nói tình hình an ninh chính
trị ở Việt Nam trong những năm qua luôn luôn đƣợc giữ vững. Song, đi liền
với những thuận lợi cũng xuất hiện nhiều vấn đề phức tạp về an ninh chính trị.
Các yếu tố chống đối chính trị của các thế lực thù địch bằng chiến lƣợc "diễn
biến hòa bình" thể hiện bằng các hoạt động chống phá trên nhiều mặt, nhiều
lĩnh vực với những phƣơng thức, thủ đoạn tinh vi xảo quyệt và nguy hiểm
hơn. Việt Nam vẫn luôn luôn là địa bàn trọng điểm chống phá trong chiến
lƣợc "diễn biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế.
Vì vậy, đổi mới, mở cửa là cần thiết nhƣng cũng đặt ra đòi hỏi khách quan
trong việc bảo vệ ANQG của đất nƣớc.
Quá trình thực hiện chính sách pháp luật của lực lƣợng Công an nhân
dân trong những năm qua về cơ bản đã bảo đảm tính hiệu quả. Công tác điều
tra đã phục vụ kịp thời việc tấn công, trấn áp các loại tội phạm, đặc biệt là các
loại tội phạm xâm phạm ANQG. Hoạt động điều tra, xử lý án của lực lƣợng
Công an nhân dân nhìn chung đã có nhiều cố gắng bảo đảm chất lƣợng điều
tra, tuân thủ nghiêm túc các chủ trƣơng, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nƣớc, bảo đảm thời hạn điều tra theo luật định.
Thực hiện quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và
Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự, các đơn vị nghiệp vụ thuộc Bộ và Công
83
an cấp tỉnh đã tổ chức thực hiện tốt việc tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố
giác tội phạm. Nhìn chung, việc tiếp nhận và giải quyết tin báo và tố giác tội
phạm đã đƣợc thực hiện đúng theo quy định của pháp luật và hƣớng dẫn của
liên ngành, phục vụ tốt cho hoạt động bảo vệ ANQG. Những tin báo, tố giác
tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra đã đƣợc giải quyết, xử lý nhanh chóng,
kịp thời; những tin báo, tố giác tội phạm không thuộc thẩm quyền đã đƣợc
tiếp nhận, chuyển cho cơ quan có thẩm quyền.
Qua hơn 10 năm thực hiện, lực lƣợng An ninh nhân dân đã thụ lý số lƣợng
án xâm phạm ANQG không lớn so với toàn bộ án mà lực lƣợng An ninh nhân dân
đã thụ lý và so với số lƣợng tội phạm các loại, nhƣng đó là những vụ án quan
trọng, phức tạp, trực tiếp xâm hại đến an ninh chính trị của đất nƣớc.
Để làm rõ mối tƣơng quan, sự ảnh hƣởng của sự chƣa hoàn thiện, sự
thiếu vắng quy định pháp luật đối với diễn biến tội phạm, việc định tội danh
đối với các hành vi xâm phạm ANQG, chúng tôi đã tiến hành khảo sát các
thông số liên quan trong thực tiễn áp dụng chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG. Do số liệu liên quan đến các vụ án xâm phạm ANQG nằm trong danh
mục tài liệu mật nên trong phần phân tích các thông số của tình hình các tội xâm
phạm ANQG ở Việt Nam hiện nay, chúng tôi sẽ sử dụng con số tƣơng đối thay vì
sử dụng con số tuyệt đối để liệt kê số vụ, số bị cáo, bị can đã phạm các tội xâm
phạm ANQG (nghĩa là trên cơ sở số liệu liên quan đến các vụ án xâm phạm
ANQG đã thu thập đƣợc để tính toán chuyển sang tỉ lệ phần trăm so với tổng số
vụ án hình sự, tổng số bị cáo, bị can của tất cả các tội phạm trên phạm vi toàn
quốc). Chúng tôi khẳng định cách tính toán này không ảnh hƣởng đến kết quả
đánh giá các thông số của tình hình các tội xâm phạm ANQG ở Việt Nam hiện
nay.
Theo số liệu thống kê của TAND tối cao, số vụ phạm tội xâm phạm
ANQG từ năm 2009 đến năm 2018 trên toàn quốc đã đƣa ra xét xử chiếm
0,04% tổng số vụ án hình sự trên phạm vi toàn quốc. Số bị cáo xâm phạm
84
ANQG chiếm 0,05% số bị cáo bị đƣa ra xét xử đối với tất cả các loại tội. Nếu
tính theo tỉ lệ số vụ phạm tội và số bị cáo xâm phạm ANQG so với tỉ lệ số vụ
án hình sự và số bị cáo của tất cả các loại tội trên địa bàn cả nƣớc từ năm
2008 đến năm 2018 cho ta các số liệu sau: Năm 2009 chiếm 0,07% số vụ với
0,09% số bị cáo; năm 2010 chiếm 0,08% số vụ với 0,08% số bị cáo; năm
2011 chiếm 0,04% số vụ với 0,05% số bị cáo; năm 2012 chiếm 0,03% số vụ
với 0,04% số bị cáo; năm 2013 chiếm 0,02% số vụ với 0,02% số bị cáo; năm
2014 chiếm 0,04% số vụ với 0,05% số bị cáo; năm 2015 chiếm 0,04% số vụ với
0,05% số bị cáo; năm 2016 chiếm 0,03% số vụ với 0,06% số bị cáo; năm 2017
chiếm 0,02% số vụ với 0,04% số bị cáo; năm 2018 chiếm 0,01% số vụ với 0,01%
số bị cáo. Nhƣ vậy, trong 10 năm (từ năm 2009 đến năm 2018), trung bình mỗi
năm số vụ xâm phạm ANQG chiếm 0,04% tổng số VAHS của cả nƣớc và số bị
cáo xâm phạm ANQG chiếm 0,05% tổng số bị cáo trong các VAHS của cả nƣớc.
Bảng 3.1. Bảng thống kê xét xử sơ thẩm hình sự các tội xâm phạm ANQG
Số bị cáo (% so với tổng số bị cáo trong các VAHS) 0,09 0,08 0,05 0,04 0,02 0,04 0,05 0,06 0,04 0,01 0,05 Số vụ (% so với tổng số các VAHS) 0,07 0,08 0,04 0,03 0,02 0,04 0,04 0,03 0,02 0,01 0,04
Năm 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Trung bình (Nguồn: Tác giả thống kê dựa vào số liệu xét xử sơ thẩm VAHS của TAND tối cao)
Từ bảng thống kê xét xử sơ thẩm hình sự các tội xâm phạm ANQG trong
thời gian từ năm 2009 đến năm 2018 trên, có thể thấy rõ hơn tình hình các tội
xâm phạm ANQG qua biểu đồ cơ cấu số vụ và số bị cáo xâm phạm ANQG ở
Việt Nam trong tổng số VAHS và tổng số bị cáo trong các VAHS nói chung ở
85
Việt Nam nhƣ sau:
Số vụ xâm phạm ANQG
Số VAHS khác
Biểu đồ 3.4. Cơ cấu số vụ phạm tội xâm phạm
ANQG trong tổng số VAHS nói chung
(Nguồn: Tác giả thống kê dựa vào số liệu xét xử sơ thẩm VAHS của TAND tối cao)
Số bị cáo phạm tội xâm phạm ANQG Bị cáo trong các VAHS khác
2
Biểu đồ 3.5. Cơ cấu số bị cáo xâm phạm ANQG trong tổng số bị cáo
trong các VAHS nói chung
(Nguồn: Tác giả thống kê dựa trên số liệu xét xử sơ thẩm VAHS của TAND tối cao)
Nhƣ vậy, có thể thấy, so với tổng số VAHS cũng nhƣ tổng số bị cáo
trong các VAHS nói chung ở Việt Nam trong 10 năm (từ năm 2009 đến năm
2018) thì số vụ cũng nhƣ số bị cáo phạm các tội xâm phạm ANQG chiếm tỷ lệ
rất ít. Tuy nhiên, tính chất nghiêm trọng cũng nhƣ những ảnh hƣởng tiêu cực
của những vụ án này rất phức tạp cùng những phƣơng thức, thủ đoạn phạm tội
ngày một tinh vi, xảo quyệt và khó phát hiện hơn.
Về diễn biến của tình hình các tội xâm phạm an ninh quốc gia: Nếu lấy mức
86
độ tăng, giảm về số vụ, số ngƣời phạm tội xâm phạm ANQG xảy ra trên phạm vi
toàn quốc của năm 2009 là 100% thì mức độ tăng, giảm hàng năm của các năm
tiếp theo nhƣ sau:
Bảng 3.2. Bảng diễn biến của tình hình các tội xâm phạm ANQG về số vụ và số bị cáo
Năm 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Số vụ 100% 87,5% (giảm 12,5%) 70% (giảm 30%) 50% (giảm 50%) 27,5% (giảm 72,5%) 52,5% (giảm 47,5%) 65% (giảm 35%) 52,5% (giảm 47,5%) 40% (giảm 60%) 20% (giảm 80%)
Số bị cáo 100% 92,6% (giảm 7,4%) 57,9% (giảm 42,1%) 50,5% (giảm 49,5%) 22,1% (giảm 77,9%) 45,3% (giảm 54,7%) 67,4% (giảm 32,6%) 76,8% (giảm 23,2%) 58,9% (giảm 41,1%) 13,7% (giảm 86,3%) (Nguồn: Tác giả thống kê dựa trên số liệu của TAND tối cao)
Quy mô về số lƣợng các vụ án xâm phạm ANQG bị đƣa ra xét xử sơ
70
60
50
40
30
20
10
0
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
thẩm qua các năm 2009 đến hết năm 2018 có thể thấy rõ hơn qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 3.6. Diễn biến số vụ xâm phạm ANQG ở Việt Nam
(Nguồn: Tác giả thống kê dựa trên số liệu của TAND tối cao)
Số liệu trên cho thấy từ năm 2009 đến năm 2018, số vụ xâm phạm
87
ANQG trong phạm vi cả nƣớc bị đƣa ra xét xử sở thẩm có xu hƣớng tăng,
giảm không đều. Nếu lấy năm 2009 làm mốc và số vụ phạm tội xâm phạm
ANQG ở Việt Nam năm 2009 là 100% thì số vụ phạm tội xâm phạm ANQG
năm 2010 so với năm 2009 giảm 12,5%; năm 2011 so với năm 2009 giảm
30%; năm 2012 so với năm 2009 giảm 50%, năm 2013 so với năm 2009 giảm
72,5%; năm 2014 so với năm 2009 giảm 47,5%; năm 2015 so với năm 2009
giảm 35%; năm 2016 so với năm 2009 giảm 47,5%; năm 2017 so với năm
2009 giảm 60%; năm 2018 so với năm 2009 giảm 20%. Bên cạnh đó, có thể
thấy rõ hơn diễn biến của tình hình các tội xâm phạm ANQG ở Việt Nam qua
số lƣợng bị cáo bị đƣa ra xét xử sơ thẩm qua các năm từ 2009 đến năm 2018
80
70
60
50
40
30
20
10
0
2013
2014
2015
2016
2017
2018
100
qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 3.7. Diễn biến số bị cáo xâm phạm ANQG ở Việt Nam
(Nguồn: Tác giả thống kê dựa trên số liệu của TAND tối cao)
Nhƣ vậy, số bị cáo phạm các tội xâm phạm ANQG cũng có sự tăng, giảm
theo từng năm, không theo quy luật. Nếu lấy năm 2009 làm mốc và số bị cáo
phạm các tội xâm phạm ANQG bị đƣa ra xét xử sơ thẩm năm 2009 ở Việt
88
Nam là 100% thì: Năm 2010 giảm 7,4% so với năm 2009; năm 2011 giảm
42,1% so với năm 2009; năm 2012 giảm 49,5% so với năm 2009; năm 2013
giảm 77,9% so với năm 2009; năm 2014 giảm 54,7% so với năm 2009; năm
2015 giảm 32,6% so với năm 2009; năm 2016 giảm 23,2% so với năm 2009;
năm 2017 giảm 41,1% so với năm 2009 và năm 2018 giảm 86,3% so với năm
2009. Có thể thấy rõ hơn diễn biến của THTP xâm phạm ANQG ở Việt Nam
120
100
80
60
40
20
0
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
Số vụ
Số bị cáo
từ năm 2006 đến 2015 qua đồ thị sau:
Đồ thị 3.1. Diễn biến THTP xâm phạm ANQG ở
Việt Nam từ năm 2009 đến 2018
(Nguồn: Tác giả thống kê dựa trên số liệu của TAND tối cao)
Nhƣ vậy, diễn biến của tình hình các tội xâm phạm ANQG ở Việt Nam
đƣợc thể hiện rõ nét qua số vụ án xâm phạm ANQG từ năm 2009 đến năm
2018 nhƣ sau: Từ năm 2009 đến năm 2013, số vụ và số bị cáo xâm phạm
ANQG có sự giảm dần đều. Từ năm 2013 đến năm 2016 có xu hƣớng tăng
nhanh rồi lại giảm một cách đột ngột trong hai năm 2017 và 2018. Nhìn chung
số vụ và số bị cáo phạm các tội xâm phạm ANQG ở Việt Nam từ năm 2009
đến năm 2018 có sự tăng, giảm không theo quy luật nào ở những thời điểm
89
nhất định, tuy nhiên có thể thấy xu hƣớng nói chung là giảm. Trong khoảng
thời gian 10 năm qua, năm có vụ, số bị cáo cao nhất là năm 2009 và năm có số
vụ, số bị cáo thấp nhất là năm 2018.
Nếu nhƣ các thông số về lƣợng phản ánh những đặc điểm bên ngoài của
tình hình các tội xâm phạm ANQG, thì nội dung về chất của tình hình các tội
xâm phạm ANQG đƣợc phản ánh qua thông số về cơ cấu, tính chất của nó.
Về cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm an ninh quốc gia, phân tích số
liệu thống kê của TAND tối cao, số vụ phạm tội và số bị cáo bị đƣa ra xét xử
sơ thẩm từ năm 2009 đến năm 2018 cho thấy ở vào thời kỳ này, trên phạm vi
toàn quốc đã đƣa ra xét xử số vụ án xâm phạm ANQG chiếm 0,04% tổng số
VAHS, số bị cáo phạm các tội xâm phạm ANQG chiếm 0,05% tổng số bị cáo
trong các VAHS. Từ đó, có thể khẳng định số vụ phạm tội và số ngƣời phạm
tội xâm phạm ANQG chiếm tỷ lệ rất thấp so với tổng số vụ phạm tội và số
ngƣời phạm tội bị đƣa ra xét xử vào thời kỳ này. So sánh số liệu này với số
liệu các thời kỳ trƣớc có thể thấy rõ tỷ lệ trên rất thấp. Ví dụ, chỉ trong hai
năm 1978 và 1979, trên phạm vi toàn quốc đã đƣa ra xét xử sơ thẩm các vụ
phạm tội phản cách mạng (nay là các tội xâm phạm ANQG) chiếm tỷ lệ 6% số
vụ phạm tội nói chung; trong hai năm 1980 và 1989 số vụ phạm tội xâm phạm
ANQG chiếm 0,33%. Nhƣ vậy, thời kỳ từ năm 2009 đến năm 2018 số vụ
phạm tội xâm phạm ANQG bị đƣa ra xét xử sơ thẩm thấp hơn nhiều so với các
thời kỳ trƣớc. Điều đó phản ánh công tác phòng ngừa các tội xâm phạm
ANQG ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay đã đạt đƣợc những kết quả nhất
định. Kết quả đó có đƣợc do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chế
tài các điều luật quy định tội xâm phạm an ninh quốc gia đã cơ bản đảm bảo
tính răn đe, phòng ngừa chung.
Về cơ cấu theo tội danh, phân tích số vụ và số ngƣời phạm tội theo từng
tội danh trong nhóm các tội xâm phạm ANQG bị đƣa ra xét xử sơ thẩm từ
90
năm 2009 đến năm 2018 cho thấy:
- Tội phản bội Tổ quốc (Điều 78 BLHS năm 1999) chiếm 3,57% số vụ và
1,88% số bị cáo. Các đối tƣợng phạm tội này là công dân Việt Nam đã câu kết
với các đối tƣợng nƣớc ngoài nhằm lật đổ chính quyền nhân dân thông qua các
hành vi chủ yếu là: (1) bàn bạc với nƣớc ngoài về mƣu đồ chống Nhà nƣớc
Cộng hòa XHCN Việt Nam, (2) nhận sự giúp đỡ từ phía nƣớc ngoài hay hoạt
động dựa vào thế lực nƣớc ngoài nhằm thực hiện mƣu đồ chống phá Nhà nƣớc
Việt Nam. Về tính chất của tội phạm này, Điều 44 Hiến pháp nƣớc Cộng hòa
XHCN Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất”.
Do vậy, mặc dù chiếm tỷ lệ thấp song tính nguy hiểm cho xã hội của loại tội
phạm này là đặc biệt lớn.
- Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 79 BLHS năm
1999) chiếm 5,57% số vụ và 10,38% số bị cáo.
Tội phạm hoạt động nhằm lật đổ chính quyền xảy ra tập trung nhiều ở
các năm 1990 - 1993. Một trong các nguyên nhân dẫn đến xảy ra nhiều vụ
hoạt động nhằm lật đổ chính quyền trong thời gian này là do tác động của tình
hình trên thế giới; Liên Xô cũ và các nƣớc xã hội chủ nghĩa Đông Âu bị sụp
đổ, bọn phản động cũ trong các tổ chức phản động đã bị phá trƣớc đây còn lẩn
trốn hoặc đã bị bắt, tha ra và bọn phản động trong số ngƣời Việt lƣu vong đã
móc nối, liên kết với nhau nhằm phục hồi các đảng phái phản động cũ với các
danh xƣng khác nhau. Nhiều vụ án lớn, phức tạp đã xảy ra nhƣ các vụ "Đảng
nhân dân hành động" của Nguyễn Sĩ Bình; "Thanh niên dân chủ Việt Nam"
của Hoàng Duy Hùng; vụ Lý Tống; vụ Trần Mạnh Quỳnh; Nguyễn Đình Huy;
Peter Trần ...
Trong những năm gần đây, đƣợc sự hậu thuẫn, khích lệ của các thế lực
thù địch, các tổ chức phản động lƣu vong và các nhen nhóm tổ chức, đảng
phái phản động trong nƣớc đã tiếp tục đẩy mạnh hoạt động móc nối trong
ngoài, liên kết với nhau nhằm chống chính quyền nhân dân. Chúng hoạt động
91
ngày càng trắng trợn, công khai thách thức chính quyền, tìm mọi cách phát
triển “phong trào dân chủ”, hình thành các “nhóm”, “khối”, “liên minh” quyết
tâm công khai hoá, cho ra đời các tổ chức chính trị đối lập, soạn thảo, tán phát
nhiều tài liệu phản động, trả lời phỏng vấn đài, báo nƣớc ngoài xuyên tạc, vu
cáo Việt Nam; lôi kéo tập hợp lực lƣợng trong nhiều thành phần, ở nhiều địa
phƣơng, tham gia kích động thành lập nhiều hội nhóm với danh xƣng phản
động. Chúng cử ngƣời về nƣớc móc nối, lôi kéo, tuyển lựa phát triển lực
lƣợng đƣa đi nƣớc ngoài dự các khóa huấn luyện chống đối rồi tung về nƣớc
hoạt động. Đối tƣợng chúng chú ý tập trung lôi kéo là số trí thức, văn nghệ sĩ,
luật sƣ, học sinh, sinh viên, số bất mãn, đầu đơn khiếu kiện nhƣ các đối tƣợng
Trần Anh Kim, Trần Huỳnh Duy Thức, Phạm Minh Hoàng, Hồ Đức Hòa...
Đáng chú ý thời gian qua là hoạt động chống phá của tổ chức “Việt Tân”, đối
tƣợng phạm tội triệt để lợi dụng công nghệ thông tin để hoạt động. Chúng tiến
hành lôi kéo ngƣời tham gia tổ chức, bàn bạc xây dựng cƣơng lĩnh, điều lệ, thông
tin liên lạc với nhau chủ yếu thông qua mạng internet; các đối tƣợng ít gặp trực
tiếp, thậm chí không biết mặt nhau (trao đổi, liên lạc qua blog, email). Đây là thủ
đoạn phạm tội mới, rất đáng lƣu ý trong việc phát hiện, thu thập củng cố chứng
cứ để chứng minh tội phạm cũng nhƣ trong nhận định, đánh giá tội phạm.
- Tội gián điệp (Điều 80 BLHS năm 1999) chiếm 15,93% số vụ và
12,97% số bị cáo. Những năm gần đây, lợi dụng chính sách đổi mới, mở cửa
của Đảng và Nhà nƣớc ta, các cơ quan đặc biệt nƣớc ngoài tăng cƣờng hoạt
động cài cắm, tuyển lựa gián điệp bằng nhiều con đƣờng khác nhau nhƣ trà
trộn trong số Việt kiều về thăm quê, khách du lịch, ngƣời nƣớc ngoài đến Việt
Nam hợp tác, đầu tƣ hoặc sử dụng vật chất để mua chuộc, khống chế, lôi kéo
cán bộ làm việc cho chúng. Đối tƣợng bị chúng tập trung móc nối, lôi kéo là
cán bộ, công chức nắm nhiều bí mật trong bộ máy Nhà nƣớc. Lợi dụng sự phát
triển của khoa học kỹ thuật, thời gian gần đây, chúng tăng cƣờng phƣơng thức
hoạt động tình báo kỹ thuật, tìm cách cài các phần mềm gián điệp và mạng
92
máy tính của ta để thu thập thông tin.
- Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ (Điều 81 BLHS năm 1999) có 0 vụ với
0 bị cáo, chiếm 0% số vụ và 0% số bị cáo;
- Tội bạo loạn (Điều 82 BLHS năm 1999) chiếm 0,88% số vụ và 0,56%
số bị cáo. Tội bạo loạn luôn gắn liền với hành vi tụ tập động ngƣời hoạt động
vũ trang hoặc dùng bạo lực có tổ chức nhằm chống chính quyền nhân dân.
Điển hình là vụ bạo loạn tại Tây Nguyên năm 2001, 2004. Mặc dù bọn phản
động chƣa đạt đƣợc mục tiêu, ý đồ chính trị, nhƣng các vụ bạo loạn nói trên đã
gây phƣơng hại, ảnh hƣởng lớn đến an ninh chính trị tại địa bàn Tây Nguyên.
Áp lực đối với chính quyền từ các cuộc bạo loạn là rất lớn, đƣợc các đối tƣợng
cầm đầu chuẩn bị chu đáo, thƣờng có sự phân công vai trò cụ thể đối với từng
ngƣời, nhóm ngƣời trong quá trình thực hiện tội phạm. Trong quá trình điều
tra, truy tố, xét xử, các đối tƣợng đƣợc phân loại theo vai trò, vị trí để áp dụng
các chính sách hình sự phù hợp.
- Tội hoạt động phỉ (Điều 83 BLHS năm 1999) chiếm 0,88% số vụ và
5,64% số bị cáo. So với các tội phạm khác, đây là loại tội phạm có tính chất
đặc biệt về địa điểm phạm tội bởi nó chỉ cấu thành tội phạm khi xuất hiện
hành vi nhƣ giết ngƣời, cƣớp tài sản đƣợc thực hiện ở những nơi hiểm yếu
(đầm lầy, bƣng biền, hải đảo, miền núi…).
- Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 84 BLHS năm
1999) chiếm 1,77% số vụ và 2,26% số bị cáo. Trong những năm qua, bọn
phản động lƣu vong và các thế lực thù địch khác đã tăng cƣờng hoạt động
khủng bố chống Nhà nƣớc Việt Nam ở cả địa bàn trong và ngoài nƣớc, chủ
yếu do các đối tƣợng trong tổ chức phản động "Chính phủ Việt Nam tự do"
của Nguyễn Hữu Chánh và tổ chức phản động Việt Tân từ bên ngoài về nƣớc
thực hiện. Về mặt tổng thể, chúng có sự điều chỉnh về phƣơng thức từ hoạt
động vũ trang chuyển sang “bất bạo động”, tuy nhiên những hoạt động mang
tính chất vũ trang có xu hƣớng tàn bạo, trắng trợn hơn, điển hình là hành vi
93
đốt kho tạm giữ xe vi phạm giao thông của Công an thành phố Biên Hoà bằng
bom xăng ngày 08/4/2017, hành vi đặt 2 quả bom xăng ở nhà ga Sân bay quốc
tế Tân Sơn Nhất của các đối tƣợng là thành viên của tổ chức “Chính phủ quốc
gia Việt Nam lâm thời”.
- Tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nƣớc Cộng hòa XHCN Việt
Nam (Điều 85 BLHS năm 1999) có 0 vụ với 0 bị cáo, chiếm 0% số vụ và 0%
số bị cáo.
- Tội phá hoại việc thực hiện chính sách kinh tế - xã hội (Điều 86 BLHS năm
1999) có 0 vụ với 0 bị cáo, chiếm 0% số vụ và 0% số bị cáo do thay đổi của tình
hình kinh tế, xã hội. Tƣơng tự Tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nƣớc Cộng
hòa XHCN Việt Nam, đây cũng là thông số để nghiên cứu, điều chỉnh điều luật.
- Tội phá hoại chính sách đoàn kết (Điều 87 BLHS năm 1999) chiếm
45,58% số vụ và 43,23% số bị cáo. Tội phá hoại chính sách đoàn kết chủ yếu
xảy ra ở Tây Nguyên, Tây Bắc, là địa bàn có đông ngƣời dân tộc thiểu số sinh
sống. Số đối tƣợng phản động trong các dân tộc thiểu số kích động, lôi kéo
ngƣời dân tộc thiểu số tham gia các hoạt động chống chính quyền nhân dân
trong thời gian dài nhằm mục tiêu phát triển lực lƣợng tiến tới hình thành “nhà
nƣớc” riêng nhƣ cái gọi là “Nhà nƣớc Đề ga”, “Vƣơng quốc Mông”… Hoạt
động của chúng đƣợc các thế lực thù địch ở nƣớc ngoài hậu thuẫn, chỉ đạo, tài
trợ tiền, phƣơng tiện hoạt động.
- Tội tuyên truyền chống Nhà nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam (Điều 88
BLHS năm 1999) chiếm 19,03% số vụ và 15,79% số bị cáo. Đối tƣợng phạm
tội phần lớn là trí thức trẻ, số cơ hội chính trị, cán bộ thoái hóa, có tƣ tƣởng
cực đoan, đó triệt để lợi dụng các vấn đề nhạy cảm hoặc thời điểm diễn ra các
sự kiện chính trị lớn để tuyên truyền, kích động chống Nhà nƣớc, đòi đa
nguyên, đa đảng, kích động biểu tình, bạo loạn lật đổ. Điển hình nhƣ các vụ:
Trần Khải Thanh Thuỷ, Cù Huy Hà Vũ (ở Hà Nội), Nguyễn Xuân Nghĩa,
94
Phạm Thanh Nghiên (ở Hải Phòng), Vi Đức Hồi (ở Lạng Sơn), Hồ Bích
Khƣơng (ở Nghệ An), Nguyễn Văn Hải và nhóm "CLB nhà báo tự do" (ở
Thành phố Hồ Chí Minh).
- Tội phá rối an ninh (Điều 89 BLHS năm 1999) chiếm 3,54% số vụ và
5,08% số bị cáo. Loại tội phạm này xảy ra chủ yếu ở các tỉnh Tây Nguyên, Tây
Bắc, đối tƣợng phạm tội là ngƣời dân tộc thiểu số hoặc tham gia tôn giáo, có hành
vi kích động tụ tập đông ngƣời hoặc tạo nên biểu tình, bạo loạn, đòi ly khai lập
“Nhà nƣớc Đê Ga”, “Vƣơng quốc Mông”, đƣợc sự móc nối, chỉ đạo từ các đối
tƣợng phản động bên ngoài.
- Tội chống phá trại giam (Điều 90 BLHS năm 1999) chiếm 0,88% số vụ
và 0,33% số bị cáo;
- Tội trốn đi nƣớc ngoài hoặc trốn ở lại nƣớc ngoài nhằm chống chính quyền
50 45 40 35 30 25 20 15 10 5 0
Tội bạo loạn
Tội hoạt động phỉ
Tội phá rối an ninh
Tội chống phá trại giam
Tội khủng bố nhằm chống CQND
Tội phá hoại chính sách đoàn kết
Tội tuyên truyền chống NN CHXHCN VN
nhân dân (Điều 91 BLHS năm 1999) chiếm 2,22% số vụ và 1,88% số bị cáo.
Biểu đồ 3.8. Cơ cấu theo tội danh
(Nguồn: Tác giả phân tích tỉ lệ dựa trên số liệu của TAND tối cao)
Từ các chỉ số thống kê nêu trên, có thể rút ra nhận xét sau:
- Trong tổng số các vụ và ngƣời phạm tội xâm phạm ANQG thì các tội
95
chiếm tỷ lệ cao nhất cả về số vụ và số ngƣời phạm tội xếp theo thứ tự từ cao
xuống thấp là: tội phá hoại chính sách đoàn kết (Điều 87 BLHS năm 1999,
chiếm gần ½ tổng số tội phạm xâm phạm ANQG); tội tuyên truyền chống Nhà
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 88 BLHS năm 1999), tội
gián điệp (Điều 80 BLHS năm 1999), tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền
nhân dân (Điều 79 BLHS năm 1999).
- Các tội bị đƣa ra xét xử chiếm tỷ trọng thấp trong tổng số các tội xâm
phạm ANQG lần lƣợt là: tội phản bội Tổ quốc, tội bạo loạn, tội hoạt động phỉ, tội
chống phá trại giam. Thấp nhất là vụ phạm tội chống phá trại giam (Điều 90
BLHS năm 1999).
- Đặc biệt, các tội không đƣa ra xét xử vụ nào trong thời kỳ này là tội
xâm phạm an ninh lãnh thổ (Điều 81 BLHS năm 1999), tội phá hoại cơ sở kỹ
thuật của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 85 BLHS năm
45 40 35 30 25 20 15 10 5 0
Tội bạo loạn
Tội hoạt động phỉ
Tội phá rối an ninh
Tội chống phá trại giam
Tội khủng bố nhằm chống CQND
Tội phá hoại chính sách đoàn kết
Tội tuyên truyền chống NN CHXHCN VN
1999) và tội phá hoại chính sách kinh tế - xã hội (Điều 86 BLHS năm 1999).
Biểu đồ 3.9. Cơ cấu theo số bị cáo phạm tội phạm cụ thể xâm phạm ANQG
(Nguồn: Tác giả phân tích tỉ lệ trên cơ sở số liệu của TAND tối cao)
Dựa vào số liệu phân tích trên có thể thấy rõ, số vụ phạm tội phá hoại
96
chính sách đoàn kết (Điều 87 BLHS năm 1999) chiếm tỷ trọng cao nhất
(45,58%) tƣơng ứng với số bị cáo phạm loại tội này cũng chiếm tỷ trọng cao
nhất (43,23%). Thấp nhất là số bị cáo phạm tội chống phá trại giam (Điều 90
BLHS năm 1999). Đặc biệt, không bị cáo nào phạm các tội: Tội xâm phạm an
ninh lãnh thổ (Điều 81 BLHS năm 1999), Tội phá hoại cơ sở kỹ thuật của
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 85 BLHS năm 1999) và Tội
phá hoại chính sách kinh tế - xã hội (Điều 86 BLHS năm 1999).
3.2.2. Thực trạng thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh xã hội
Các quy định của pháp luật liên quan đến an ninh xã hội, bao gồm an
ninh dân tộc, an ninh tôn giáo vẫn còn những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
xây dựng và hoàn thiện. Đối với lĩnh vực dân tộc, sau nhiều năm thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nƣớc, tình hình miền núi và các vùng
đồng bào dân tộc thiểu số có những bƣớc chuyển biến quan trọng. Tuy nhiên,
so với mặt bằng cả nƣớc, trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, các
vùng có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống còn thấp, nhiều nơi còn lúng túng
trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập quán, tiêu thụ rất khó khăn. Tình trạng
du canh, du cƣ, di cƣ tự do vẫn còn diễn biến phức tạp, một số hộ còn thiếu
đất sản xuất, hạ tầng cở sở còn rất thấp kém… Tình hình đó, cùng với trình độ
dân trí của đồng bào ở vùng dân tộc thiểu số còn thấp và những sai sót của các
cấp, các ngành trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nƣớc
ta.. đã bị các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng để kích động, chống phá,
chia rẽ các dân tộc nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn
định chính trị; kích động, dụ dỗ, mua chuộc đồng bào vùng dân tộc thiểu số ở
nƣớc ta thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật nói chung, xâm phạm ANQG nói riêng.
Hiến pháp 2013 đã bổ sung nhiều quy định cụ thể về lĩnh vực dân tộc.
Trong đó, Điều 5 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Nƣớc Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống
97
trên đất nƣớc Việt Nam. 2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. 3. Ngôn
ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ
gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt
đẹp của mình. 4. Nhà nƣớc thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo
điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất
nƣớc” [36].
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chƣa có một văn bản quy phạm pháp luật nào
ở tầm luật thể chế một cách đầy đủ, toàn diện, thống nhất các chủ trƣơng của
Đảng và các quy định của Hiến pháp về lĩnh vực dân tộc. Các quy định về vấn
đề dân tộc thiểu số nằm rải rác trong gần 200 luật, pháp lệnh hiện hành, chiếm
hơn ¼ trong tổng số văn bản luật, pháp lệnh hiện nay. Ở tầm dƣới luật, chính
sách dân tộc đƣợc thể hiện qua 251 văn bản tại 96 Nghị định, Nghị quyết của
Chính phủ và 134 quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ (theo kết quả Hội thảo
hoàn thiện hồ sơ đề xuất xây dựng Luật Dân tộc ngày 31/3/2016 của Ủy ban Dân
tộc). Chính vì vậy, bản thân chính sách dân tộc còn thể hiện ở nhiều quy định
chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu sự gắn kết, thiếu tính khả thi, tính dự báo thấp…
Hiện ở Việt Nam có 5 nhóm yếu thế dễ bị tổn thƣơng đó là ngƣời cao tuổi, phụ
nữ, trẻ em, ngƣời khuyết tật và ngƣời dân tộc thiểu số. Trong đó, chỉ có riêng
ngƣời dân tộc thiểu số chƣa có luật cho riêng mình.
Đối với lĩnh vực tôn giáo, đến thời điểm hiện nay có các văn bản cơ bản là:
- Pháp lệnh tín ngƣỡng, tôn giáo ngày 18/6/2004;
- Nghị định số 22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005 của Chính phủ hƣớng
dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngƣỡng, tôn giáo (đã hết hiệu lực);
- Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg ngày 04/02/2005 của Thủ tƣớng Chính phủ
về một số công tác đối với đạo Tin lành;
- Chỉ thị số 1940/CT-TTg ngày 31/12/2008 của Thủ tƣớng Chính phủ về
98
nhà, đất liên quan đến tôn giáo;
- Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 của Chính phủ quy định
chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngƣỡng, tôn giáo;
- Thông tƣ số 01/2013/TT-BNV ngày 25/3/2013 của Bộ Nội vụ ban hành
và hƣớng dẫn sử dụng biểu mẫu về thủ tục hành chính trong lĩnh vực tín
ngƣỡng, tôn giáo;
- Thông tƣ liên tịch số 04/2014/TTLT-BVHTTDL-BNV ngày 30/5/2014
giữa Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch và Bộ Nội vụ hƣớng dẫn việc thực hiện
nếp sống văn minh tại các cơ sở tín ngƣỡng, cơ sở tôn giáo.
- Luật Tín ngƣỡng, tôn giáo năm 2016.
Các quy định nói trên đã tạo hành lang pháp lý cho hoạt động tôn giáo và
quản lý các hoạt động tôn giáo; giúp các cấp, các ngành có cơ sở để quản lý,
thực hiện nghiêm túc, cơ bản đảm bảo và tôn trọng quyền tự do tín ngƣỡng,
tôn giáo của nhân dân, hạn chế các hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật; là
công cụ sắc bén đấu tranh với mọi âm mƣu, hoạt động lợi dụng tôn giáo chống
lại Đảng, Nhà nƣớc ta.
Từ 16 tổ chức tôn giáo thuộc 6 tôn giáo đƣợc Nhà nƣớc công nhận tƣ
cách pháp nhân, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nƣớc (trƣớc
năm 2006), đến nay đã có 38 tổ chức tôn giáo đƣợc đăng ký hoạt động hoặc
công nhận về tổ chức. Do đó, về số lƣợng tín đồ, chức sắc, số lƣợng các tổ
chức tôn giáo và đời sống sinh hoạt tín ngƣỡng, tôn giáo đã phong phú, sôi
động hơn thời kỳ trƣớc rất đáng kể. Về mặt tổ chức, ngoài các tổ chức tôn giáo
đã đƣợc công nhận từ trƣớc nhƣ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Giáo hội Công
giáo Việt Nam, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), Nhà nƣớc đã lần
lƣợt xem xét và công nhận về tổ chức cho một số tổ chức tôn giáo đủ điều
kiện theo quy định pháp luật. Điều đó minh chứng Nhà nƣớc ta chủ trƣơng tạo
điều kiện cho các hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng của tín đồ, vì lợi ích
chung của toàn xã hội trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập và
99
giao lƣu quốc tế.
Tuy nhiên, mặc dù Luật Tín ngƣỡng đã đƣợc ban hành song vẫn còn
nhiều điểm chƣa phù hợp với tình hình mới, dẫn đến các thế lực thù địch vẫn
đang lợi dụng những bất cập, sơ hở để kích động đồng bào theo tôn giáo thực
hiện các hành vi vi phạm pháp luật nói chung, xâm phạm ANQG nói riêng.
Bên cạnh đó, việc quản lý nhà nƣớc về tín ngƣỡng, tôn giáo vẫn còn rƣờm rà
về thủ tục. Tình trạng lợi dụng hoạt động tôn giáo để kỳ thị, chống phá lại
chƣa đƣợc lƣu ý quan tâm đúng mức, chƣa thể hiện đƣợc yêu cầu đối phó với
những tiêu cực trong lĩnh vực tín ngƣỡng, tôn giáo. Gần đây ở một số địa
phƣơng trên phạm vi cả nƣớc đã xuất hiện một số tổ chức, cá nhân trong nƣớc
và nƣớc ngoài lợi dụng hoạt động tín ngƣỡng, hoạt động tôn giáo, cơ sở tín
ngƣỡng, tôn giáo để kích động tập trung đông ngƣời, tuyên truyền chống phá
chính quyền, gây rối an ninh, trật tự. Điển hình là hoạt động sai trái của một số
tổ chức nhƣ “Hội thánh Đức Chúa trời mẹ”, “Pháp luân công”, “Hà Mòn”, tổ
chức bất hợp pháp Dƣơng Văn Mình.
Trong tình hình đó, cần thiết phải ban hành Nghị định của Chính phủ để
xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực này nhằm làm ổn định tình hình an
ninh chính trị, hoạt động tín ngƣỡng, hoạt động tôn giáo. Thực tế, thời gian
qua Chính phủ đã giao, chỉ đạo các cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng,
trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực tín ngƣỡng, tôn giáo. Tuy nhiên, xung quanh vấn đề này còn có
nhiều ý kiến khác nhau. Một số chức sắc đại diện các tổ chức tôn giáo băn
khoăn các hành vi xử phạt, thậm chí có chức sắc đại diện các tổ chức đề nghị
không nên ban hành Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực tín ngƣỡng, tôn giáo. Một số bộ, ngành cho rằng đây là Nghị định rất “nhạy
cảm”, vì vậy, đề nghị trƣớc khi Chính phủ ban hành cần lấy ý kiến của các tổ
chức, chức sắc tôn giáo; tính toán thời điểm ban hành Nghị định, không để các
100
thế lực xấu lợi dụng việc ban hành Nghị định để kích động chống phá.
Chúng tôi cho rằng, việc ban hành Nghị định của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tín ngƣỡng, tôn giáo là hết sức cần thiết.
Đây là căn cứ để tiếp tục triển khai Luật tín ngƣỡng, tôn giáo có hiệu lực, hiệu
quả và góp phần ổn định xã hội. Tuy nhiên, trƣớc khi ban hành cần lấy ý kiến
rộng rãi của các cơ quan chức năng, các chuyên gia và các chủ thể liên quan để
Nghị định đƣợc ban hành đảm bảo tính khoa học, chặt chẽ và khả thi.
Thực tiễn thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh dân tộc, tôn giáo
thời gian qua bƣớc đầu đạt kết quả, làm cho dƣ luận thế giới hiểu rõ hơn thực
tế tình hình dân tộc, tôn giáo và chính sách tôn trọng tự do tín ngƣỡng, tôn
giáo của Đảng và Nhà nƣớc ta, góp phần đấu tranh có hiệu quả với âm mƣu
lợi dụng tôn giáo, dân tộc của các thế lực thù địch, đồng thời tăng cƣờng sự
ủng hộ của bạn bè quốc tế đối với công cuộc đổi mới của Đảng và nhân dân
ta. Từ đó góp phần quan trọng trong việc củng cố sự đoàn kết, phát huy sức
mạnh nội lực của toàn dân tộc trong phát triển kinh tế và giữ vững ổn định
chính trị - xã hội. Kết quả này tiếp tục khẳng định chính sách pháp luật bảo vệ
an ninh dân tộc, tôn giáo đúng đắn của Nhà nƣớc Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đã đạt đƣợc nhƣ trên, quá trình thực hiện
chính sách pháp luật bảo vệ an ninh dân tộc, tôn giáo ở nƣớc ta còn một số tồn tại.
Một là, một số chủ trƣơng, chính sách dân tộc, tôn giáo còn chậm đƣợc
thể chế hóa, gây lúng túng trong xử lý vi phạm trong các lĩnh vực này. Điển
hình là sự chậm trễ trong ban hành Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực tín ngƣỡng, tôn giáo nhƣ chúng tôi đã phân tích ở mục
(1.3). Do đó, đến nay pháp luật về tín ngƣỡng, tôn giáo còn thiếu các biện
pháp chế tài. Chế tài là một biện pháp cần thiết để các cơ quan nhà nƣớc có
thẩm quyền áp dụng khi có vi phạm pháp luật. Hiện nay, nếu các tổ chức, tín
đồ các tôn giáo, các cơ quan thực thi quản lý nhà nƣớc về tôn giáo cũng nhƣ
101
mọi tổ chức, cá nhân có vi phạm, cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền còn lúng
túng trong việc áp dụng biện pháp răn đe, xử lý, trừng trị do các văn bản trực
tiếp điều chỉnh lĩnh vực tôn giáo chƣa có các biện pháp này.
Hai là, các quy định chƣa rõ ràng nên có sự vận dụng khác nhau ở các
địa phƣơng khi xem xét việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy
cử trong tôn giáo, ví dụ: Có nơi yêu cầu tổ chức tôn giáo phải đăng ký với cơ
quan nhà nƣớc có thẩm quyền trƣớc khi thực hiện, có nơi không quy định rõ nội
dung này; có địa phƣơng yêu cầu cá nhân đƣợc phong chức phải qua trƣờng đào
tạo của tôn giáo, trong khi nhiều địa phƣơng không có yêu cầu này…
3.2.3. Thực trạng thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh thông tin
Chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng về an ninh thông tin đã đƣợc nêu tại một
số văn bản nhƣ: Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/01/2012 của Hội nghị
TW4 khóa XI; Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị TW VIII khóa XI; Chỉ
thị số 46-CT/TW của Bộ Chính trị; Chỉ thị số 28-CT/TW của Ban Bí thƣ
Trung ƣơng Đảng, Chỉ thị số 15-CT/TTg của Thủ tƣớng Chính phủ; Chỉ thị số
30-CT/TW của Bộ Chính trị; Nghị định 101/2016/NĐ-CP; Nghị định
66/2017/NĐ-CP.
An ninh thông tin có vị trí rất quan trọng, là công cụ góp phần bảo đảm
vai trò lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cƣờng hiệu lực quản lý của Nhà
nƣớc trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Thông qua hoạt động thông tin,
truyền thông để tuyên truyền, phổ biến các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp
luật của Nhà nƣớc; nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của ngƣời dân, phục
vụ công tác quản lý nhà nƣớc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đƣợc tốt
hơn; góp phần quan trọng trong việc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Thông tin, truyền thông góp phần giữ gìn, xây dựng, phát
triển nền văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, hƣớng tới hoàn
thiện con ngƣời, đƣa con ngƣời đến chân, thiện, mỹ. Thông tin, truyền thông
là vũ khí đấu tranh giai cấp sắc bén chống lại các thế lực thù địch, góp phần
102
bảo vệ ANQG, giữ vững ổn định và phát triển đất nƣớc. Đặc biệt, trong cuộc
đấu tranh chống “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, hoạt động
thông tin, truyền thông còn là vũ khí rất hiệu quả trong tuyên truyền phản bác
các luận điệu sai trái, thù địch. Lĩnh vực thông tin, truyền thông có vai trò
quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và là một ngành kinh tế quan trọng
của Nhà nƣớc, nhƣ bƣu chính, viễn thông nằm trong mối liên kết với tin học
truyền thông tạo thành cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia, là một ngành mũi
nhọn phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng mọi nhu cầu thông tin phục vụ phát
triển kinh tê – xã hội, quốc phòng, an ninh. Phạm vi của thông tin, truyền
thông bao gồm các lĩnh vực: Báo chí, xuất bản, bƣu chính và chuyển phát;
viễn thông và internet; truyền dẫn và phát sóng, tần số vô tuyến điện, công
nghệ thông tin, điện tử, phát thanh, truyền hình và cơ sở hạ tầng thông tin,
truyền thông quốc gia, các dịch vụ công trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm
vi thông tin, truyền thông.
Quán triệt quan điểm “An ninh chủ động”, lực lƣợng Công an đã tích
cực, chủ động tham mƣu cho Đảng, Nhà nƣớc trong việc ban hành chủ trƣơng,
chính sách pháp luật trên lĩnh vực an ninh thông tin, truyền thông, nhƣ: Chỉ thị
số 28-CT/TW ngày 16/9/2013 của Ban Bí thƣ về “Tăng cƣờng công tác đảm
bảo an ninh, an toàn thông tin mạng trong tình hình mới”; Luật Xuất bản năm
2012 và Thông tƣ hƣớng dẫn thực hiện; Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 15/7/2014
của Thủ tƣớng Chính phủ về “Tăng cƣờng công tác đảm bảo an ninh và an
toàn thông tin mạng trong tình hình hiện nay”; Nghị định số 72/2013/NĐ-CP
ngày 15/7/2013 của Chính phủ quy định về “Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch
vụ Internet và thông tin trên mạng”.
Năm 2018, Luật An ninh mạng đƣợc ban hành gồm 07 chƣơng, 43 điều,
quy định những nội dung cơ bản về bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống
thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; phòng ngừa, xử lý hành vi xâm
phạm an ninh mạng; triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng và quy định
103
trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh
quốc gia là một trong những nội dung đặc biệt quan trọng của Luật An ninh
mạng. Quy định đầy đủ các biện pháp, hoạt động bảo vệ tƣơng xứng với mức
độ quan trọng của hệ thống thông tin này, trong đó nêu ra tiêu chí xác định,
lĩnh vực liên quan, quy định các biện pháp nhƣ thẩm định an ninh mạng, đánh
giá điều kiện, kiểm tra, giám sát an ninh và ứng phó, khắc phục sự cố an ninh
mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.
Để bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, Luật
An ninh mạng đã dành 01 chƣơng (Chƣơng III) quy định đầy đủ các biện
pháp phòng ngừa, đấu tranh, xử lý nhằm loại bỏ các nguy cơ đe dọa, phát hiện
và xử lý hành vi vi phạm pháp luật, bao gồm: phòng ngừa, xử lý thông tin trên
không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam; kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự
công cộng; làm nhục, vu khống; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; phòng,
chống gián điệp mạng, bảo vệ thông tin bí mật nhà nƣớc, bí mật công tác,
thông tin cá nhân trên không gian mạng; phòng ngừa, xử lý hành vi sử dụng
không gian mạng, công nghệ thông tin, phƣơng tiện điện tử để vi phạm pháp
luật về an ninh, trật tự; phòng, chống tấn công mạng; phòng, chống khủng bố
mạng; phòng, chống chiến tranh mạng; phòng ngừa, xử lý tình huống nguy
hiểm về an ninh mạng; đấu tranh bảo vệ an ninh mạng. Đây là hành lang pháp
lý vững chắc để ngƣời dân có thể yên tâm buôn bán, kinh doanh hay hoạt
động trên không gian mạng.
Chƣơng IV của Luật An ninh mạng tập trung quy định về triển khai
hoạt động bảo vệ an ninh mạng một cách đồng bộ, thống nhất từ Trung ƣơng
tới địa phƣơng, trọng tâm là các cơ quan nhà nƣớc và tổ chức chính trị, quy
định rõ các nội dung triển khai, hoạt động kiểm tra an ninh mạng đối với hệ
thống thông tin của các cơ quan, tổ chức này. Cơ sở hạ tầng không gian mạng
104
quốc gia, cổng kết nối mạng quốc tế cũng là một trong những đối tƣợng đƣợc
bảo vệ trọng điểm. Với các quy định chặt chẽ, sự tham gia đồng bộ của cơ
quan nhà nƣớc, doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân, việc sử dụng thông tin để
vu khống, làm nhục, xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của ngƣời khác sẽ
đƣợc xử lý nghiêm minh. Các hoạt động nghiên cứu, phát triển an ninh mạng,
phát triển công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, ứng dụng nhằm bảo vệ an ninh
mạng, nâng cao năng lực tự chủ về an ninh mạng và bảo vệ trẻ em trên không
gian mạng cũng đƣợc quy định chi tiết trong Chƣơng này.
Hiện nay, dữ liệu của nƣớc ta trên không gian mạng đã và đang bị sử
dụng tràn lan với mục đích lợi nhuận mà Nhà nƣớc chƣa có đủ hành lang
pháp lý để quản lý, thậm chí là bị sử dụng vào các âm mƣu chính trị hoặc vi
phạm pháp luật. Để quản lý chặt chẽ, bảo vệ nghiêm ngặt dữ liệu của nƣớc ta
trên không gian mạng, Luật An ninh mạng đã quy định doanh nghiệp trong và
ngoài nƣớc cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng internet và các dịch
vụ giá trị gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam có hoạt động thu thập,
khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan
hệ của ngƣời sử dụng dịch vụ, dữ liệu do ngƣời sử dụng dịch vụ tại Việt Nam
tạo ra phải lƣu trữ dữ liệu này tại Việt Nam trong thời gian theo quy định của
Chính phủ.
Nguồn nhân lực bảo vệ an ninh mạng là một trong những yếu tố quyết
định sự thành bại của công tác bảo vệ an ninh mạng. Chƣơng V Luật An ninh
mạng đã quy định đầy đủ các nội dung bảo đảm triển khai hoạt động bảo vệ
an ninh mạng, xác định lực lƣợng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng, ƣu tiên
đào tạo nguồn nhân lực an ninh mạng chất lƣợng cao, chú trọng giáo dục, bồi
dƣỡng, phổ biến kiến thức về an ninh mạng.
Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân cũng đƣợc quy định rõ
trong Luật an ninh mạng, tập trung vào trách nhiệm của lực lƣợng chuyên
trách bảo vệ an ninh mạng đƣợc bố trí tại Bộ Công an, Bộ Quốc phòng. Theo
105
chức năng, nhiệm vụ đƣợc giao, các bộ, ngành chức năng, ủy ban nhân dân
cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện đồng bộ các biện pháp đƣợc phân công để
hƣớng tới một không gian mạng ít nguy cơ, hạn chế tối đa các hành vi vi
phạm pháp luật trên không gian mạng.
Sự ra đời của Luật An ninh mạng có ý nghĩa vô cùng quan trọng:
Thứ nhất, là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ an ninh quốc gia; xử lý
đối với các hành vi vi phạm pháp luật, nhƣ: (1) Chống Nhà nƣớc Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm sử dụng không gian mạng tổ chức, hoạt
động, cấu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện ngƣời
chống Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ví dụ nhƣ thông tin
kích động lôi kéo tụ tập đông ngƣời, gây rối an ninh trật tự, chống ngƣời thi
hành công vụ, cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức, gây mất ổn định về an
ninh trật tự... (2) Các hành vi xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách
mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt
đối xử về giới, phân biệt chủng tộc; (3) Các hành vi phát tán thông tin gây hại
cho tổ chức, cá nhân, gồm: thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân
dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động
của cơ quan nhà nƣớc hoặc ngƣời thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; (4) Các hành vi xâm phạm
trật tự an toàn xã hội nhƣ sử dụng không gian mạng để hoạt động mại dâm, tệ
nạn xã hội, mua bán ngƣời; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại
thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng, xúi
giục, lôi kéo, kích động ngƣời khác phạm tội (những hành vi này đã đƣợc quy
định rải rác, cụ thể trong 29 Điều của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi năm
2017). (5) Các hành vi tấn công mạng, gián điệp mạng, khủng bố mạng và
liên quan nhƣ sản xuất, đƣa vào sử dụng công cụ, phƣơng tiện, phần mềm
hoặc có hành vi cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng viễn thông, mạng
internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển
106
thông tin, phƣơng tiện điện tử...
Rất tốt
Tốt
Bình thường
Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong thực hiện chính sách
Không tốt
Rất không tốt
0
20
40
60
Biểu đồ 3.10. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong
thực hiện chính sách
(Nguồn: Điều tra khảo sát mẫu năm 2019)
Thứ hai, nhằm bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc
gia. Hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia đƣợc quy định trong
Luật an ninh mạng là hệ thống thông tin khi bị sự cố, xâm nhập, chiếm quyền
điều khiển, làm sai lệch, gián đoạn, ngƣng trệ, tê liệt, tấn công hoặc phá hoại
sẽ xâm phạm nghiêm trọng an ninh mạng. Với tiêu chí nhƣ trên, hệ thống
thông tin quan trọng về an ninh quốc gia đƣợc xác định trong các lĩnh vực
quan trọng đặc biệt đối với quốc gia nhƣ quân sự, an ninh, ngoại giao, cơ yếu;
trong lĩnh vực đặc thù nhƣ lƣu trữ, xử lý thông tin thuộc bí mật nhà nƣớc;
phục vụ hoạt động của các công trình quan trọng liên quan tới an ninh quốc
gia, mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia hoặc những hệ thống thông tin
quan trọng trong các lĩnh vực năng lƣợng, tài chính, ngân hàng, viễn thông,
giao thông vận tải, tài nguyên và môi trƣờng, hóa chất, y tế, văn hóa, báo chí.
Chính phủ sẽ quy định cụ thể những hệ thống thông tin nào trong các lĩnh vực
nêu trên thuộc Danh mục hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.
Bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh
107
quốc gia đƣợc giao cho lực lƣợng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng, trực tiếp
là lực lƣợng An ninh mạng thuộc Bộ Công an, lực lƣợng Tác chiến Không
gian mạng thuộc Bộ Quốc phòng. Để bảo đảm phù hợp với hệ thống pháp luật
trong nƣớc, Luật An ninh mạng cũng giao Chính phủ quy định cụ thể việc
phối hợp giữa Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Thông tin và Truyền thông,
Ban Cơ yếu Chính phủ, các bộ, ngành chức năng trong việc thẩm định, đánh
giá, kiểm tra, giám sát, ứng phó, khắc phục sự cố đối với hệ thống thông tin
quan trọng về an ninh quốc gia. Tuy nhiên kết quả điều tra phiếu cho thấy
việc phối hợp còn khá hạn chế, còn đến 26.5 % ngƣời đƣợc hỏi cho rằng việc
phối hợp còn hạn chế (Xem Biểu trên). Qua phỏng vấn cho thấy, năng lực
phối hợp trong hoạch định, xây dựng và thực hiện chính sách bảo vệ ANQG
còn yếu kém. Một đồng chí lãnh đạo một Bộ cho rằng “sự phối hợp trong
công tác này còn biểu hiện chậm trễ và chƣa đƣợc phối hợp đầy đủ”.
Thứ ba, nhằm phòng, chống tấn công mạng. Luật an ninh mạng là văn
bản Luật đầu tiên quy định khái niệm của hoạt động “tấn công mạng”. Theo
đó “Tấn công mạng là hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin
hoặc phƣơng tiện điện tử để phá hoại, gây gián đoạn hoạt động của mạng viễn
thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và
điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu, phƣơng tiện điện tử”. Đồng thời, quy định
các nhóm hành vi cụ thể liên quan tới tấn công mạng tại Điều 17, 18, 19, 20
và Điều 21; quy định cụ thể các nhóm giải pháp cụ thể để phòng, chống tấn
công mạng, quy định trách nhiệm cụ thể của cơ quan chức năng, chủ quản hệ
thống thông tin.
Tuy nhiên, do các loại hình thông tin, truyền thông đang phát triển nhanh,
đa dạng với nhiều diễn biến mới, phức tạp, khó lƣờng, đang đòi hỏi hành lang
pháp lý trên lĩnh vực an ninh thông tin, truyền thông cần phải đƣợc tiếp tục
hoàn thiện trong thời gian tới. Việc nhận thức về khái niệm, đặc điểm, vị trí,
vai trò, nội dung của lĩnh vực thông tin, truyền thông ở từng thời điểm có sự
108
khác nhau, lý luận về công tác bảo vệ an ninh thông tin, truyền thông chƣa đầy
đủ đã ảnh hƣởng đến việc xác định mô hình tổ chức lực lƣợng bảo vệ thông
tin, truyền thông cũng nhƣ biện pháp công tác bảo đảm an ninh trên lĩnh vực
này. Hiện nay, chƣa có khái niệm chính thức về an ninh thông tin, truyền
thông và công tác bảo vệ an ninh truyền thông; dấu hiệu “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá” trên lĩnh vực thông tin, truyền thông chƣa đƣợc nhận diện đầy
đủ; các yếu tố đe doạ an ninh phi truyền thống và các giải pháp ứng phó, giải
quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống trên lĩnh vực thông tin, truyền thông
chƣa đƣợc định hình rõ, chƣa đƣợc tổng kết, đánh giá một cách toàn diện. Trong
khi đó, các mối đe doạ an ninh phi truyền thống trên lĩnh vực thông tin, truyền
thông có sự giao thoa, đan xen, pha trộn, chuyển hoá với các yếu tố an ninh
truyền thống trên lĩnh vực này, nếu không có sự nhận thức thống nhất, đầy đủ sẽ
làm hạn chế đến hiệu quả công tác bảo vệ an ninh thông tin, truyền thông.
Do đó, rất cần thiết phải tập trung nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện, bổ sung,
hoàn thiện lý luận quản lý nhà nƣớc về ANQG và hoàn thiện hành lang pháp lý
trên lĩnh vực an ninh thông tin, truyền thông; nâng cao hiệu quả phòng ngừa, đấu
tranh với hoạt động lợi dụng thông tin, truyền thông xâm phạm ANQG.
Những năm gần đây, sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
làm cho khoa học và công nghệ phát triển quá nhanh, trong khi cơ sở hạ tầng
trong nƣớc chƣa đáp ứng kịp yêu cầu, nhiệm vụ bảo đảm an ninh trong tình
hình mới. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách quản lý vấn đề này thiếu
đồng bộ, nhất là việc kiểm soát, xử lý các thông tin trên mạng internet chƣa
chặt chẽ, kịp thời, hiệu quả, nên còn để các thế lực thù địch lợi dụng tuyên
truyền, kích động, nói xấu chế độ, hạ thấp vai trò của lực lƣợng vũ trang, chia
rẽ mối đoàn kết giữa lực lƣợng vũ trang với Đảng và Nhân dân... Điều này ảnh
hƣởng nghiêm trọng đến mục tiêu, nhiệm vụ chính trị, an ninh của quốc gia:
Nhiều loại tội phạm sử dụng công nghệ cao, nhất là các loại tội phạm rửa tiền,
tội phạm đánh bạc xuyên quốc gia... gây mất trật tự, an toàn xã hội; sự tấn
109
công mạnh mẽ vào hệ thống mạng quốc gia nói chung, mạng an ninh nói riêng
bằng mã độc. Thống kê của các cơ quan chức na ng thuộc Bộ Công an cho
thấy, từ na m 2010 đến tháng 12/2018, các thế lực thù địch, phần tử xấu đã,
đang sử dụng 8.784 web, blog có tên miền nƣớc ngoài; 381 web, blog có tên
miền trong nƣớc thƣờng xuyên đa ng tải thông tin xấu, độc hại. Cơ quan Công
an các cấp đã phát hiện 279 vụ sử dụng Internet xâm phạm an ninh quốc gia,
đấu tranh với hơn 200 đối tƣợng, bắt, xử lý 140 đối tƣợng. Đáng chú ý, trong
đó có 219 vụ kích động biểu tình trên không gian mạng; 138 hội, nhóm trá
hình hoạt động trên không gian mạng; 45.498 lƣợt cổng thông tin, trang tin
điện tử có tên miền .vn bị tấn công, trong đó có 2.113 lƣợt tấn công các cổng
thông tin, trang tin điện tử của cơ quan Đảng, Nhà nƣớc, gây ra những hậu quả
nghiêm trọng [5].
Theo số liệu thống kê của Cục An toàn thông tin, Bộ Thông tin và
Truyền thông, trong 6 tháng đầu na m 2019, Việt Nam đã xảy ra 3.159 vụ tấn
công mạng vào các hệ thống thông tin, trong đó có tới 968 cuộc tấn công thay
đổi giao diện (deface), 635 cuộc tấn công cài cắm mã độc (malware), 1.556
cuộc tấn công lừa đảo (phishing)... Hệ thống giám sát của Bộ Thông tin và
Truyền thông cũng đã ghi nhận đƣợc 203 triệu sự kiện an toàn mạng trong 6
tháng đầu na m 2019, ta ng 9% so với cùng kỳ na m 2018. Trong đó, các cuộc
tấn công nguy hiểm liên quan đến mã độc trong hệ thống phục vụ Chính phủ
điện tử đƣợc phát hiện ta ng gấp 2 lần [6]. Bên cạnh sự tiến bộ công nghệ trong
cách mạng công nghiệp 4.0, thời gian qua cũng phát sinh những thách thức và
lỗ hổng mới đối với an ninh quốc gia: Các quốc gia ngày càng dựa vào các hệ
thống kỹ thuật số kết nối với nhau sẽ tạo ra sự tùy thuộc lẫn nhau mới. Các hệ
thống lớn hơn và kết nối nhiều hơn sẽ làm ta ng nguy cơ dễ bị tấn công có thể
phát triển với quy mô, tốc độ lớn và gây thiệt hại trên toàn bộ hệ thống.
Thực tế hiện nay ở Việt Nam, hầu hết linh kiện điện tử, thiết bị công
110
nghệ thông tin, đặc biệt là thiết bị thông minh giá rẻ đều có nguồn gốc từ nƣớc
ngoài, chứa nhiều lỗ hổng bảo mật hoặc cài sẵn các tài khoản truy cập "cửa
hậu" (backdoor), khiến Việt Nam luôn nằm trong danh sách các quốc gia bị
ảnh hƣởng bởi các "mạng máy tính ma" (botnet) lớn nhất thế giới. Qua khảo
sát cho thấy, các trạm thu phát sóng của Huawei, ZTE chiếm tất cả các khu
vực đồng bằng, thành phố, thị xã (80% diện tích và dân số) khắp cả nƣớc,
trong đó có 5.891/19.312 trạm BTS 2G (chiếm 30%); 4.249/11.411 trạm Node
B 3G (chiếm 38%); lƣu lƣợng viễn thông quốc tế của Việt Nam qua 02 tuyến
cáp biển SMW3, AAG (chiếm 80%) tiềm ẩn nhiều nguy cơ đe dọa an ninh
thông tin [6].
Bên cạnh đó là nguy cơ mất chủ quyền nội dung số, tài nguyên thông tin
quốc gia về các công ty công nghệ nƣớc ngoài. Nội dung số trải rộng trên các
lĩnh vực, từ ba ng tần viễn thông số đến truyền thông số, tƣ liệu và thƣ viện số,
nền kinh tế tri thức, kinh tế số (thƣơng mại điện tử, dịch vụ giải trí...). Hiện
nay, Việt Nam chƣa tự chủ hoàn toàn về công nghệ, nhiều công ty cung cấp
dịch vụ ngƣời dùng hoặc vận hành công nghệ cho Việt Nam đều do phía nƣớc
ngoài nắm giữ cổ phân chi phối, tiềm ẩn những nguy cơ gây mất chủ quyền an
ninh thông tin của Việt Nam. Mặt khác, việc ứng dụng các sản phẩm của cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0 trong hoạt động an ninh ở góc độ nào đó có thể tạo
ra hệ luỵ nguy hiểm. Các nƣớc, nhất là nƣớc lớn, có thể sử dụng thành tựu
khoa học công nghệ quân sự vào mục đích không chính nghĩa, sử dụng "sức
mạnh mềm", can dự, chi phối về chính trị, chính sách đối nội, đối ngoại của
các nƣớc khác, trong đó có Việt Nam; thực hiện "điều khiển" từ xa, từ bên
ngoài, buộc các nƣớc đang phát triển, chậm phát triển phải phụ thuộc, mất độc
lập, tự chủ, khó nhận thấy hoặc nhận thấy nhƣng khó cƣỡng lại. Nhu cầu đầu
tƣ vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự công nghệ cao có thể dẫn đến cuộc chạy
đua vũ trang rất tốn kém và càng phải phụ thuộc vào nguồn cung cấp từ các
nƣớc phát triển. Trong khi đó, thế giới chƣa có cơ chế để quản lý, giám sát
111
việc ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ quân sự mới để hạn chế tác
động từ mặt trái của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Những bất cập trong thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh thông
tin bộc lộ trên các nội dung cơ bản sau đây:
Một là, các thế lực thù địch gia tăng các hoạt động lợi dụng các phƣơng
tiện truyền thông bên ngoài, các loại hình dịch vụ viễn thông, công nghệ thông
tin, diễn đàn trên mạng xã hội, các blog… để kêu gọi, hậu thuẫn, kích động
chống phá Việt Nam. Sự phát triển công nghệ truyền thông không dây (3G,
4G, wifi…) để truy cập mạng trên điện thoại thông minh, máy tính bảng, máy
tính xách tay… là môi trƣờng thuận lợi để tin tặc tấn công, xâm nhập, đánh
cắp dữ liệu, thông tin của tổ chức, cá nhân; trong khi hệ thống mạng thông tin
truyền thông quốc gia luôn tiềm ẩn lỗi, lỗ hổng bảo mật, làm tăng nguy cơ mất
an ninh, an toàn thông tin. Gần đây, xuất hiện nhiều mã độc mới lây nhiễm
vào hệ thống máy tính, thiết bị di động để lấy cắp thông tin, dữ liệu, nghe
lén, theo dõi vị trí ngƣời sử dụng, kích hoạt camera, microphone để ghi âm,
ghi hình các cuộc họp, hội nghị quan trọng; tội phạm tin học có tổ chức,
xuyên quốc gia xuất hiện ngày càng nhiều, khó phát hiện, điều tra, xử lý.
Trong 6 tháng đầu năm 2019: Đã phát hiện 05 trang mạng blog, gần 30 tài
khoản Facebook, 20 nhóm Facebook, 07 kênh Youtube có nội dung công kích
lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc, kích động biểu tình gây rối; hiện có tới 70% ngƣời
dùng Internet tại Việt Nam thƣờng xuyên tiếp xúc với tin giả, trong đó 40%
tiếp xúc hằng ngày; phát hiện và xử lý 42 vụ lộ lọt bí mật nhà nƣớc trên
internet [4].
Hai là, do sự tác động của hoạt động tuyên truyền phá hoại tƣ tƣởng lợi
dụng những vấn đề bức xúc trong xã hội và một số chủ trƣơng, quyết sách
trong quản lý kinh tế, xã hội chƣa đƣợc sự đồng thuận của dƣ luận nên tình
hình an ninh chính trị nội bộ các cơ quan thuộc lĩnh vực thông tin, truyền
thông vẫn tiềm ẩn phức tạp: Một bộ phận cán bộ, đảng viên tỏ thái độ thờ ơ,
112
thiếu tin tƣởng vào hiệu quả cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng; dấu hiệu
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ biểu hiện ở những mức độ khác
nhau, trƣớc hết là việc xuất hiện nhiều ý kiến không đồng thuận, trái chiều, phê
phán sự lãnh đạo của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc; tình trạng mâu thuẫn, mất
đoàn kết nội bộ diễn ra tại một số cơ quan, doanh nghiệp.
Ba là, mặc dù hầu hết các bộ, ban, ngành và địa phƣơng đã xây dựng,
triển khai kế hoạch quán triệt thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 05/CT-TTg ngày
21/2/2012 của Thủ tƣớng Chính phủ về “Nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công
tác bảo vệ bí mật nhà nƣớc (BMNN) trong tình hình mới”, nhằm chấn chỉnh
và nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ BMNN, nhƣng tình trạng lộ, lọt BMNN
vẫn tiếp tục xảy ra, do việc chấp hành các quy định pháp luật về bảo vệ
BMNN còn bị buông lỏng ở nhiều đơn vị, địa phƣơng, dẫn đến tình trạng
nhiều đơn vị, cá nhân vẫn vi phạm các quy định pháp luật về bảo vệ BMNN.
Bốn là, báo chí cách mạng đã phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị, đối nội, đối
ngoại của Đảng, Nhà nƣớc, nhƣng vẫn thiếu những bài viết sắc bén để bảo vệ
quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc; thông tin về hiệu quả các chủ trƣơng, chính
sách mới, giải pháp tháo gỡ khó khăn còn hạn chế; trong khi nhiều tin, bài bình
luận quá mức về vấn đề “nóng”, vi phạm định hƣớng tuyên truyền, tác động xấu
đến dƣ luận và việc thực hiện chủ trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc; hoạt
động xã hội hoá lĩnh vực truyền hình tiềm ẩn nhiều phức tạp…Công tác quản lý
nhà nƣớc trên lĩnh vực báo chí còn bộc lộ nhiều sơ hở, buông lỏng khâu kiểm
duyệt để lọt tin, bài có nội dung nhạy cảm chính trị, hoạt động trái tôn chỉ, mục
đích, trái định hƣớng thông tin, truyền thông.
Năm là, hoạt động xuất bản đã bám sát nhiệm vụ chính trị, phục vụ
công tác tuyên truyền của Đảng, Nhà nƣớc, triển khai Hiến pháp 2013 và Luật
Xuất bản năm 2012, nhƣng còn để lọt nhiều xuất bản phẩm (chủ yếu là liên
kết tƣ nhân), có nội dung phức tạp, nhƣ: Đề cao tính ƣu việt của chế độ tƣ bản
phƣơng Tây, đề cao mô hình Hiến pháp các nƣớc phƣơng Tây, phê phán chế
113
độ xã hội chủ nghĩa… Bên cạnh đó, hoạt động sáng tác, dịch tài liệu, bản thảo
có nội dung phê phán sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nƣớc, phủ nhận chủ nghĩa
Mác – Lênin… vẫn xảy ra, diễn biến phức tạp; xu hƣớng “Internet hóa hoạt
động xuất bản” phát triển mạnh, nhƣng đang bị lợi dụng vào hoạt động chống
đối, cơ quan chức năng chƣa có giải pháp kiểm soát triệt để; tình trạng vi
phạm bản quyền dƣới dạng ấn phẩm điện tử diễn ra công khai, thách thức cơ
quan chức năng; một số tổ chức, cá nhân nƣớc ngoài thông qua hoạt động
nhập khẩu văn hóa phẩm hoặc nhập lậu để chuyển vào trong nƣớc những ấn
phẩm có nội dung phức tạp.
Sáu là, hoạt động của tin tặc tấn công hệ thống máy tính, trang thông
tin điện tử của các cơ quan Đảng, Nhà nƣớc, bộ, ban, ngành, địa phƣơng đang
diễn ra rất phức tạp, khó kiểm soát. Thủ phạm của những cuộc tấn công này
có thể là những “đội quân mạng” của các quốc gia, có thể là những “nhóm”
tin tặc chuyên sản xuất và phát tán “virus” độc hại. Phƣơng thức, thủ đoạn tấn
công của chúng chủ yếu vẫn là sử dụng hàng loạt các dòng “virus” độc hại để
đột nhập mạng máy tính, sử dụng các kỹ thuật tinh vi để điều khiển, tiến hành
các hoạt động phá hoại trên mạng máy tính, nhƣ: chiếm quyền điều khiển
trang mạng, hệ thống máy tính bằng các thủ đoạn lợi dụng lỗ hổng bảo mật
của các trang mạng, hệ thống máy tính để đột nhập cổng hậu (backdoor) hoặc
bẻ khóa, đánh cắp mật khẩu (pasword) để đột nhập các trang mạng; từ chối
dịch vụ (tấn công DDOS) bằng cách gửi một số lƣợng lớn thƣ rác, trong một
thời gian ngắn vào hệ thống máy tính, làm nghẽn mạng dẫn đến làm “treo” hệ
thống; thay đổi tên miền để tách tên miền và cơ sở dữ liệu; sử dụng phần mềm
gián điệp để gửi thƣ điện tử có chứa virus gián điệp (mã độc) trong tập đính
kèm vào hộp thƣ điện tử của ngƣời dùng, khi mở thƣ điện tử, hệ thống máy
tính sẽ bị nhiễm virus… Mục đích nhằm chiếm đoạt thông tin bí mật, chiếm
quyền điều khiển, thay đổi giao diện, giả mạo chủ nhân, tung tin xấu, lừa đảo
và cao hơn là phá sập, làm tê liệt hệ thống mạng máy tính.
Bảy là, tội phạm thiết lập hệ thống viễn thông để chuyển trái phép lƣu
114
lƣợng điện thoại quốc tế chiều về Việt Nam (trộm cắp cƣớc viễn thông) tiếp tục
gia tăng với phƣơng thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp. Các loại tội
phạm hình sự, tội phạm viễn thông tiếp tục lợi dụng tình trạng lỏng lẻo trong
quản lý thuê bao trả trƣớc thay đổi số máy, thuê ngƣời khác đứng tên, thuê sim,
sử dụng hồ sơ giả đăng kí sim trả sau; sử dụng thiết bị, phần mềm bắn “tin rác”,
giả số di động để nhắn tin lừa đảo, tạo cuộc gọi nhỡ, sử dụng tin nhắn trúng
thƣởng… để quảng cáo, cung cấp nội dung sex, mê tín dị đoan… phục vụ hoạt
động lừa đảo, cờ bạc, khống chế tống tiền, đe dọa, quấy rối…
3.2.4. Thực trạng thực hiện chính sách pháp luật trong lĩnh vực hợp
tác quốc tế bảo vệ an ninh quốc gia
Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế bảo vệ ANQG, thực hiện chủ trƣơng đổi
mới, Đảng và Nhà nƣớc ta luôn quan tâm phát triển quan hệ đối ngoại trên nhiều
lĩnh vực với các nƣớc trong khu vực và trên thế giới. Để có cơ sở pháp lý giải
quyết những vấn đề nảy sinh, phục vụ có hiệu quả cuộc đấu tranh bảo vệ chủ
quyền, ANQG nhƣng không ảnh hƣởng đến quá trình hợp tác và hội nhập quốc
tế, chúng ta đã tăng cƣờng đàm phán, ký kết và gia nhập nhiều điều ƣớc quốc tế
đa phƣơng và song phƣơng.
Tính đến tháng 3/2019, các đơn vị chức năng thuộc Bộ Công an đã tham
mƣu Lãnh đạo Bộ Công an, lãnh đạo Nhà nƣớc tham gia đàm phán, ký kết, gia
nhập 07 điều ƣớc quốc tế đa phƣơng, 50 điều ƣớc quốc tế song phƣơng, 100
thoả thuận quốc tế về các lĩnh vực phòng, chống tội phạm có tổ chức xuyên
quốc gia, tội phạm ma tuý, mua bán ngƣời, tội phạm sử dụng công nghệ cao,
di cƣ bất hợp pháp, tội phạm khủng bố và tài trợ khủng bố, tƣơng trợ tƣ pháp
về hình sự, dẫn độ tội phạm, chuyển giao ngƣời bị kết án phạt tù…với các cơ
quan an ninh, cảnh sát, tình báo, nội vụ và cơ quan thực thi pháp luật của
khoảng 60 nƣớc trên thế giới.
Trong các loại điều ƣớc quốc tế, đáng chú ý là các hiệp định tƣơng trợ tƣ
pháp và hiệp định về dẫn độ là loại điều ƣớc quốc tế đƣợc ký kết với danh
115
nghĩa cao nhất - danh nghĩa Nhà nƣớc, nhằm điều chỉnh quan hệ giữa nƣớc ta
và nƣớc ngoài về tƣơng trợ tƣ pháp hình sự. Cho đến nay, Nhà nƣớc ta đã ký
kết 14 hiệp định mà trong nội dung của nó có điều chỉnh vấn đề tƣơng trợ tƣ
pháp hình sự và một hiệp định về dẫn độ với các nƣớc. Ngoại trừ Hiệp định về
dẫn độ mà Nhà nƣớc ta vừa ký với Hàn Quốc là một Hiệp định điều chỉnh
riêng về dẫn độ; còn trƣớc đây vấn để dẫn độ là một trong những nội dung của
các hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp về hình sự (trừ hiệp định với Trung Quốc). Có
thể tạm thời chia ra ba nhóm dƣới đây:
Một là, các Hiệp định đƣợc ký kết thời kỳ trƣớc năm 1992, khi còn tồn
tại Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa, Nhà nƣớc ta đã ký Hiệp định tƣơng
trợ tƣ pháp về hình sự với các nƣớc xã hội chủ nghĩa anh em, đó là:
Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp và pháp lý về dân sự, gia đình và hình sự
giữa CHXHCN Việt Nam và Cộng hoà dân chủ Đức, ký ngày 15/12/1980,
gồm 98 điều và đã hết hiệu lực từ ngày 16/4/1994;
Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp và pháp lý về dân sự, gia đình và hình sự
giữa CHXHCN Việt Nam và Liên bang CHXHCN Xô Viết, ký ngày
10/12/1981, gồm 75 điều. Sau khi Liên Xô tan rã, Liên bang Nga đã kế thừa từ
năm 1992 đến nay;
Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp và pháp lý về dân sự và hình sự, giữa
CHXHCN Việt Nam và CHXHCN Tiệp Khắc, ký ngày 12/10/1982, gồm 81
điều. Khi Tiệp Khắc đƣợc phân chia thành hai nƣớc là Cộng hoà Sec và
Slovakia vào đầu những năm 90 thì cả hai nƣớc đều kế thừa Hiệp định này;
Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp về các vấn đề dân sự, gia đình, lao động và
hình sự giữa CHXHCN Việt Nam và Cộng hoà Cu Ba, ký ngày 30/11/1984,
gồm 79 điều;
Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự
giữa CHXHCN Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Hungari, ký ngày
116
18/01/1985, gồm 98 điều;
Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự
giữa CHXHCN Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Bungari, ký ngày
03/10/1986, gồm 79 điều.
Nhìn chung, các hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp nêu trên là những hiệp định
đƣợc ký giữa các nƣớc có cùng chế độ kinh tế, xã hội thuộc hệ thống xã hội
chủ nghĩa. Các hoạt động tƣơng trợ tƣ pháp cũng nhƣ các hình thức trợ giúp
khác đều đƣợc thực hiện trên những nguyên tắc quốc tế xã hội chủ nghĩa. Các
Hiệp định này có nội dung cơ bản tƣơng đối giống nhau; và do các bên ký kết
là cùng một thể chế chính trị nên hệ thống pháp luật quốc gia và những quan
niệm pháp lý cơ bản khá giống nhau; quá trình đàm phán, ký kết, phê chuẩn ít
gặp khó khăn; quan điểm giữa các bên đều thống nhất. Tuy nhiên, một trong
những tồn tại của các hiệp định này là do thực tiễn đã có nhiều thay đổi, nên
nhiều nội dung của nó đã không còn phù hợp, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung;
nhất là một số hiệp định đƣợc ký từ nhiều năm trƣớc đây.
Hai là, thời kỳ từ sau năm 1992 khi không còn hệ thống các nƣớc xã hội
chủ nghĩa và Việt Nam đã có bản Hiến pháp mới năm 1992. Giai đoạn này,
Nhà nƣớc ta đã ký 7 hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp về hình sự, đó là:
Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa
CHXHCN Việt Nam và Cộng hoà Ba Lan, ký ngày 22/3/1993, gồm 87 điều;
Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp về dân sự và hình sự giữa CHXHCN Việt
Nam và Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, ký ngày 06/7/1998, gồm 77 điều;
Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự
giữa CHXHCN Việt Nam và Liên bang Nga, ký ngày 25/8/1998, gồm 88 điều;
Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp về các vấn đề dân sự và hình sự giữa
CHXHCN Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, ký ngày 19/10/1998,
gồm 34 điều;
Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự
117
giữa CHXHCN Việt Nam và Ucraina, ký ngày 06/4/2000, gồm 70 điều;
Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự
giữa CHXHCN Việt Nam và Mông Cổ, ký ngày 17/4/2000, gồm 77 điều;
Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình,
lao động và hình sự giữa CHXHCN Việt Nam và Cộng hoà Belarut, ký ngày
14/9/2000, gồm 95 điều.
Các hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp đƣợc ký ở giai đoạn này nằm trong bối
cảnh quốc tế có nhiều thay đổi cơ bản; đa số các nƣớc ký với nƣớc ta là những
nƣớc có nền kinh tế đang chuyển đổi theo cơ chế thị trƣờng và có chế độ chính
trị xã hội khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản những nƣớc này vẫn thuộc khối các
nƣớc xã hội chủ nghĩa trƣớc đây; nên các Hiệp định này vẫn kế thừa đƣợc
nhiều nội dung của những hiệp định đã ký giai đoạn trƣớc 1992. Pháp luật
nƣớc ta và pháp luật các nƣớc đã có nhiều thay đổi và hoàn thiện hơn, tạo cơ
sở cho việc đàm phán, ký kết các Hiệp định này cũng nhƣ đề ra các biện pháp
bảo đảm cho việc thực hiện các Hiệp định đó trên thực tế.
Ba là, các hiệp định trong lĩnh vực tƣơng trợ tƣ pháp về hình sự mà Nhà
nƣớc ta ký kết với các nƣớc có liên quan đến bảo vệ ANQG nhƣ Hiệp định
cấm thử hạt nhân toàn diện (CTBT), Công ƣớc cấm vũ khí hóa học (Chemical
Weapons Convention)...
Về hợp tác chống khủng bố, Việt Nam đã và đang nghiên cứu tham gia
các điều ƣớc quốc tế về hợp tác chống khủng bố - vấn đề đang đƣợc quan tâm
trên phạm vi toàn cầu. Đến tháng 8/2002, trong số 12 điều ƣớc quốc tế về
chống khủng bố, Việt Nam đã gia nhập 8 điều ƣớc, bao gồm: Công ƣớc năm
1963 về các tội phạm và một số hành vi khác thực hiện trên tàu bay; Công ƣớc
năm 1970 về trừng trị việc chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay; Công ƣớc năm
1971 về trừng trị những hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không
dân dụng; Công ƣớc năm 1973 về ngăn ngừa và trừng trị các tội phạm chống
lại những ngƣời đƣợc hƣởng bảo hộ quốc tế, bao gồm viên chức ngoại giao;
118
Nghị định thƣ năm 1988 về trừng trị các hành vi bạo lực bất hợp pháp tại các
cảng hàng không phục vụ hàng không dân dụng quốc tế; Công ƣớc năm 1988
về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hành trình hàng hải;
Công ƣớc năm 1988 về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn
của những công trình cố định trên thềm lục địa và Công ƣớc quốc tế năm 1999
về trừng trị việc tài trợ cho khủng bố. Hiện nay, chúng ta đang tích cực nghiên
cứu khả năng gia nhập 4 điều ƣớc quốc tế còn lại về chống khủng bố, đó là:
Công ƣớc năm 1979 về bảo vệ an toàn hạt nhân; Công ƣớc năm 1991 về việc
đánh dấu vật liệu nổ dẻo để nhận biết; Công ƣớc năm 1979 về chống bắt cóc
con tin và Công ƣớc năm 1997 về trừng trị việc khủng bố bằng bom.
Việc ký kết các điều ƣớc quốc tế về chống khủng bố nêu trên sẽ tạo cơ sở
pháp lý để đấu tranh chống các hoạt động khủng bố nhằm vào Việt Nam ở
trong và ngoài nƣớc; đồng thời, sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn quan điểm chống
khủng bố của Việt Nam, nâng cao uy tín và vị thế của nƣớc ta trong khu vực
và trên thế giới.
Ở cấp Chính phủ: Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã ký kết nhiều điều ƣớc quốc tế với Chính phủ các nƣớc nhƣ:
Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ
nƣớc Cộng hoà Philippines về hợp tác phòng và chống các hoạt động tội phạm;
Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính
phủ Cộng hoà Hungary về hợp tác đấu tranh chống buôn bán ma tuý bất hợp
pháp, tội phạm có tổ chức và khủng bố quốc tế;
Hiệp định giữa Chính phủ nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Chính phủ nƣớc Cộng hoà nhân dân Trung hoa về hợp tác phòng, chống tội
phạm và giữ gìn trật tự an toàn xã hội ngày 26/7/2001;
Các hiệp định và thoả thuận hợp tác về biên giới giữa Việt Nam và các
nƣớc láng giềng nhƣ Trung Quốc, Lào, Campuchia;
Hiệp định hợp tác giữa Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) nƣớc Cộng hoà xã
119
hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Nội vụ Liên bang Nga ngày 21/7/1993;
Hiệp định hợp tác hữu nghị giữa Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) nƣớc
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Công an nƣớc Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa ngày 19/10/1993;
Hiệp định hợp tác giữa Bộ Công an nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và Bộ Nội vụ nƣớc Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào thời kỳ 2001-2005, ngày
11/5/2001;
Hiệp định về hợp tác và phối hợp hoạt động giữa Bộ Công an nƣớc Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cơ quan an ninh Liên bang Nga;
Hiệp định hợp tác giữa Bộ Công an nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và Bộ Nội vụ nƣớc Cộng hoà Belarut ngày 23/10/2000;
Nghị định thƣ về việc thực hiện Hiệp định hợp tác giữa Bộ Công an nƣớc
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Bộ Nội vụ Ucraina giai đoạn 1999 - 2000;
Kế hoạch hợp tác giữa Bộ Công an nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và Bộ Nội vụ Vƣơng quốc Campuchia năm 2001;
Nghị định thƣ về hợp tác phòng, chống tội phạm giữa Bộ Nội vụ Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Bộ Nội vụ Cộng hoà Liên bang Đức...
Nhìn chung, các điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập liên
quan đến bảo vệ ANQG đều tuân thủ theo các nguyên tắc của điều ƣớc quốc tế nói
chung, nhƣ: Nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi; nguyên
tắc điều ƣớc quốc tế phù hợp với nhũng nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế;
nguyên tắc phù hợp với các quy định của Hiến pháp nƣớc Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; nguyên tắc thống nhất theo thứ bậc danh nghĩa, từ danh nghĩa
Nhà nƣớc, danh nghĩa Chính phủ, danh nghĩa Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao và danh nghĩa bộ, ngành.
Qua nghiên cứu nói trên có thể thấy, hiện nay chúng ta còn rất thiếu các
hiệp định song phƣơng và đa phƣơng giữa Việt Nam và các nƣớc, làm cơ sở pháp
120
lý cho công tác đấu tranh bảo vệ ANQG. Các hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp (trong
đó có nội dung về tƣơng trợ tƣ pháp hình sự) đã ký chủ yếu là giữa Việt Nam với
các nƣớc xã hội chủ nghĩa trƣớc đây và một số nƣớc láng giềng; nhƣng Việt Nam
hầu nhƣ chƣa ký Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp với các nƣớc tƣ bản, các nƣớc ở
châu Mỹ và Tây Âu. Trong khi quan hệ ngoại giao với các nƣớc mà ta chƣa ký
hiệp định lại đóng vai trò rất quan trọng về đối ngoại hiện nay, nhất là trong lĩnh
vực hợp tác về kinh tế - thƣơng mại; và với những nƣớc này (nhƣ Mỹ, Canada,
Anh, Pháp, Nhật Bản...) thì vấn đề bảo vệ quyền lợi của công dân nƣớc mình luôn
đƣợc hết sức coi trọng. Do chƣa có Hiệp định hợp tác với những nƣớc này, nên khi
xảy ra trƣờng hợp công dân nƣớc đó bị bắt, giam giữ, việc giải quyết gặp nhiều
khó khăn, thời gian phối hợp xử lý thƣờng kéo dài.
Cùng với đó, chúng ta chƣa có chính sách hiệu quả trong việc nội luật
hoá quy định của điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập. Hiện
nay có thể nói, trong nhận thức và thói quen của nhà làm luật Việt Nam là chủ
yếu xuất phát từ thực tiễn ở trong nƣớc mà chƣa quan tâm thỏa đáng đến các
quy định của pháp luật quốc tế, đặc biệt là những điều ƣớc quốc tế mà Việt
Nam là thành viên. Nói chung, chúng ta chƣa thực hiện đƣợc một yêu cầu quan
trọng nhất của điều ƣớc quốc tế là chuyển những quy định của điều ƣớc quốc tế
thành những quy định của nội luật; sau khi Nhà nƣớc ta ký kết hoặc gia nhập một
điều ƣớc quốc tế nào đó thì chƣa có văn bản pháp luật của Việt Nam quy định
riêng về việc thực hiện các điều ƣớc quốc tế này.
Hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam gồm nhiều loại văn bản quy phạm
pháp luật do nhiều cấp ban hành; trong đó, các luật (do Quốc hội ban hành)
chiếm tỷ lệ rất ít; và chủ yếu là các văn bản dƣới luật do Chính phủ hoặc các
bộ, ngành ban hành nên hiệu lực không cao. Trong khi đó, quan niệm của
quốc tế lại rất coi trọng các luật nên trong nhiều trƣờng hợp các nƣớc cho rằng
Nhà nƣớc Việt Nam thực hiện không nghiêm túc các nghĩa vụ đã cam kết
trong các điều ƣớc quốc tế mà chúng ta đã ký kết hoặc gia nhập, vì ta không
121
đƣa ra đƣợc các luật cụ thể nhằm thực hiện các điều ƣớc đó; trong khi nhiều
nƣớc sau khi ký kết hoặc tham gia một điều ƣớc quốc tế thì nhà nƣớc sẽ ban
hành một văn bản luật để thực hiện điều ƣớc đó. Trong quy định của các điều
ƣớc quốc tế, một trong những biện pháp quốc gia chủ yếu để bảo đảm thực
hiện các nghĩa vụ đã cam kết là biện pháp pháp lý; và đây là vấn đề mà cộng
đồng quốc tế rất quan tâm khi đánh giá thái độ của các quốc gia thành viên
trong việc thực hiện điều ƣớc quốc tế; có thể nói vấn đề này là một điểm yếu
trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Trong các văn bản pháp luật của Việt
Nam thƣờng có một câu mang tính nguyên tắc là “trong trƣờng hợp các điều
ƣớc quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập có quy định khác thì áp
dụng các điều ƣớc quốc tế đó”; đây là quy định không sai nhƣng rất khó xác
định cụ thể trong thực tiễn áp dụng.
Hiện nay chúng ta đã có Luật Điều ƣớc quốc tế (ban hành ngày 09 tháng 4
năm 2016) khắc phục đƣợc những tồn tại của Pháp lệnh ngày 20/8/1998 về ký kết
và thực hiện điều ƣớc quốc tế. Pháp lệnh trƣớc đây chỉ là những quy định rất khái
quát, không nhằm thực hiện một điều ƣớc quốc tế cụ thể nào và trong nội dung của
Pháp lệnh này hầu hết chỉ mới tập trung quy định về việc ký kết, gia nhập điều ƣớc
quốc tế mà chƣa quan tâm nhiều đến việc thực hiện điều ƣớc quốc tế, trong đó có
yêu cầu nội luật hóa nội dung của điều ƣớc vào hệ thống pháp luật quốc gia.
Những hạn chế và bất cập nêu trên của hệ thống pháp luật về bảo vệ
ANQG đã làm giảm hiệu lực và hiệu quả của pháp luật trong đấu tranh phòng,
chống các tội xâm phạm ANQG. Pháp luật vẫn còn những khiếm khuyết, kẽ hở
vô tình tạo ra “mảnh đất” cho THTP nói chung, các tội xâm phạm ANQG nói
riêng nảy sinh. Do vậy, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về đấu tranh
phòng, chống tội phạm bảo vệ ANQG là công việc quan trọng và cấp thiết.
Có thể khẳng định, chính sách pháp luật hiện hành của Nhà nƣớc ta trong
lĩnh vực hợp tác quốc tế bảo vệ ANQG là cơ sở pháp lý quan trọng để thiết
lập, thúc đẩy và mở rộng mối quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế về mọi mặt
122
với lực lƣợng an ninh, tình báo, cảnh sát, nội vụ và thực thi pháp luật các
nƣớc. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chính sách pháp luật trong lĩnh vực
hợp tác quốc tế bảo vệ an ninh quốc gia bộc lộ một số bất cập sau đây:
Một là, về chủ thể ký kết thoả thuận quốc tế (TTQT) theo quy định của
Pháp lệnh Thoả thuận quốc tế năm 2007 là cơ quan cấp bộ, cơ quan cấp tỉnh,
cơ quan trung ƣơng của tổ chức nên việc đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về
hợp tác, ký kết TTQT của các đơn vị trực thuộc (An ninh mạng, Phòng cháy
chữa cháy, Y tế, Tổng cục Cảnh sát, An ninh…) gặp rất nhiều khó khăn, nhất
là việc đảm bảo tính đối đẳng khi ký kết văn bản hợp tác (trƣờng hợp ký các
Bản ghi nhớ với Cục Điều tra Liên bang Hoa Kỳ FBI; Cơ quan phòng, chống
ma tuý Hoa Kỳ DEA; Cơ quan phòng, chống tội phạm quốc gia Anh…).
Ngoài ra, sau khi Luật Điều ƣớc quốc tế năm 2016 có hiệu lực, một số
văn kiện đƣợc ký với danh nghĩa Nhà nƣớc hay Chính phủ không còn đƣợc
coi là điều ƣớc quốc tế do không đáp ứng các điều kiện Luật đề ra (ví dụ các
Tuyên bố chung, Chƣơng trình hành động, Kế hoạch hành động,…không tạo
ra quyền và nghĩa vụ theo pháp luật quốc tế) nhƣng do mang danh nghĩa Nhà
nƣớc hay Chính phủ nên các văn kiện này cũng không thuộc phạm vi điều
chỉnh của Pháp lệnh, vốn chỉ giới hạn ở các thoả thuận quốc tế cấp bộ, ngành,
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng.
Hai là, về trình tự, thủ tục xây dựng dự thảo, đàm phán, ký kết các điều
ƣớc quốc tế: Văn bản điều ƣớc quốc tế hay thoả thuận quốc tế sẽ tiến hành
đàm phán, ký kết thƣờng do một trong hai bên soạn thảo và chuyển cho bên
kia xem xét khả năng đàm phán trên cơ sở bản dự thảo đó. Thực tiễn đàm
phán, ký kết các điều ƣớc song phƣơng về phòng, chống tội phạm, về dẫn độ,
về chuyển giao ngƣời bị kết án phạt tù và Hiệp định về cùng trao đổi và bảo vệ
tin mật của Bộ Công an cũng đang đƣợc thực hiện theo xu hƣớng đó. Khi có
một văn bản do phía nƣớc ngoài soạn thảo, cơ quan đƣợc giao chủ trì đề xuất
đàm phán, ký kết phải tiến hành nghiên cứu, so sánh với pháp luật Việt Nam
123
có liên quan, xin ý kiến các bộ, ngành, đơn vị liên quan, xây dựng dự thảo của
phía Việt Nam để từ đó, đề xuất cơ quan có thẩm quyền cho phép đàm phán,
ký kết. Thông thƣờng, do sự xung đột pháp luật nên không phải lúc nào bản
dự thảo do phía nƣớc ngoài xây dựng cũng hoàn toàn phù hợp với pháp luật
Việt Nam. Từ thực tiễn đó, không nên coi bản dự thảo mà các bộ, ngành, đơn
vị trình cấp có thẩm quyền cho phép đàm phán là bản cuối cùng để đƣa ra
đánh giá là chƣa đƣợc quy định hoặc không phù hợp với pháp luật Việt Nam
nhằm tránh các thủ tục không cần thiết và có thể không bảo đảm yêu cầu đối
ngoại và hợp tác quốc tế.
Ba là, việc Nhà nƣớc ta chƣa ký kết hoặc tham gia rộng rãi các điều ƣớc
quốc tế về dẫn độ và chuyển giao tội phạm, mặc dù một mặt là xuất phát từ
những lý do liên quan đến tình hình phạm tội của ngƣời Việt Nam đang định cƣ
ở nƣớc ngoài và cân nhắc lợi ích quốc gia về mặt an ninh trật tự khi buộc phải
nhận trở lại những ngƣời này về nƣớc nếu những hiệp định dẫn độ tội phạm đƣợc
ký kết; nhƣng mặt khác, tình trạng này đã gây khó khăn cho công tác đấu tranh
chống tội phạm. Trong nhiều trƣờng hợp, việc yêu cầu dẫn độ, chuyển giao tội
phạm từ nƣớc ngoài về Việt Nam để điều tra, xử lý hoặc các yêu cầu phối hợp xác
minh, thu thập tài liệu, chứng cứ với phía nƣớc ngoài đã không thực hiện đƣợc.
Bốn là, sự khác nhau giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật các nƣớc
phần nào gây trở ngại nhất định cho công tác đấu tranh chống tội phạm xâm
phạm ANQG. Một trong những dẫn chứng điển hình là về tội phạm khủng bố,
pháp luật nƣớc ta quy định Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân
(Điều 113) là tội phạm xâm phạm ANQG, gồm những hành vi nhằm chống
chính quyền nhân dân mà xâm phạm tính mạng, tự do thân thể, sức khoẻ, đe
doạ xâm phạm tính mạng hoặc có những hành vi khác uy hiếp tinh thần của
cán bộ, công chức hoặc công dân Việt Nam hoặc khủng bố ngƣời nƣớc ngoài
nhằm gây khó khăn cho quan hệ quốc tế của Việt Nam. Nhƣng pháp luật
nhiều nƣớc lại quy định tội phạm khủng bố bao gồm cả những hành vi nhƣ
124
trên nhƣng không gắn với mục đích chống chính quyền; hoặc cả những hành
vi phá hoại tài sản với quy mô lớn nhằm gây áp lực về chính trị... (những hành
vi này, pháp luật hình sự của Việt Nam quy định trong các tội phạm khác, nhƣ
giết ngƣời, huỷ hoại tài sản...).
Pháp luật nhiều nƣớc và một số văn bản pháp lý của Liên hợp quốc quy
định tội phạm chính trị, tội phạm sẽ bị xét xử với mức hình phạt tử hình là
những loại tội phạm bị từ chối dẫn độ sang nƣớc khác để điều tra, xét xử.
Theo quy định tại Điều 3 của Hiệp định mẫu của Liên hợp quốc về dẫn độ tội
phạm thì việc dẫn độ sẽ không đƣợc chấp nhận trong các trƣờng hợp sau:
Nếu tội phạm yêu cầu dẫn độ bị nƣớc đƣợc yêu cầu coi là tội phạm mang
tính chính trị, nƣớc đƣợc yêu cầu có đủ thông tin để khẳng định yêu cầu dẫn
độ đó là nhằm mục đích truy tố hoặc trừng phạt một ngƣời vì lý do chủng tộc,
tôn giáo, quốc tịch, dân tộc gốc, quan điểm chính trị... (cần lƣu ý, giữa quan
niệm của Việt Nam và các nƣớc về những vấn đề "chủng tộc", "tôn giáo", "quốc
tịch", "quan điểm chính trị"... là rất khác nhau; và đây sẽ là cái cớ để phía nƣớc
ngoài dựa vào, tuyên truyền xuyên tạc phục vụ ý đồ của họ). Cũng theo quy định
tại Điều 4 của Hiệp định nêu trên thì việc dẫn độ có thể bị từ chối trong một số
trƣờng hợp, trong đó có trƣờng hợp "nếu tội phạm bị yêu cầu dẫn độ đó sẽ bị xử
tử hình theo luật của nước yêu cầu...".
Hiện nay, trong khi quan điểm của Nhà nƣớc ta là không thừa nhận Việt
Nam có "tội phạm chính trị" hoặc "tù nhân chính trị" thì hầu hết các nƣớc,
nhất là các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa lại coi các tội xâm phạm ANQG trong Bộ
luật Hình sự của Việt Nam là các tội phạm "mang tính chính trị" có mức hình
phạt cao nhất là tử hình, là những tội sẽ không đƣợc chấp nhận dẫn độ hoặc có
thể bị từ chối dẫn độ sang Việt Nam để điều tra, xét xử. Do đó, nhiều yêu cầu
của Chính phủ Việt Nam với các nƣớc về việc dẫn độ, chuyển giao tội phạm
xâm phạm ANQG về Việt Nam để xét xử đã không đƣợc phía nƣớc ngoài
chấp nhận. Thực tế này đã gây khó khăn cho công tác đấu tranh chống tội
125
phạm của ta; mặt khác đã bao che, nuôi dƣỡng bọn tội phạm ở nƣớc ngoài
hoạt động chống lại Việt Nam. Sự khác nhau về quan niệm và quy định của
pháp luật đối với các tội phạm xâm phạm ANQG là một trong những nguyên
nhân làm chậm quá trình nƣớc ta ký kết hoặc tham gia các điều ƣớc quốc tế về
dẫn độ tội phạm; và tình trạng đó đã lại trở thành khó khăn cho chính chúng ta
khi cần giải quyết các yêu cầu đối ngoại trong đấu tranh chống tội phạm có
yếu tố nƣớc ngoài.
Trong thực tế, một số quy định của chính sách pháp luật nƣớc ta điều
chỉnh những vấn đề nhạy cảm, nên khi áp dụng trong thực tế đã gây phản ứng
trong dƣ luận một số chính giới quốc tế; các thế lực thù địch đã lợi dụng
xuyên tạc, can thiệp. Nhƣ quy định về hình phạt tử hình trong Bộ luật Hình sự,
hiện nay nhiều tổ chức quốc tế, nhất là Tổ chức Ân xá quốc tế liên tục có kiến
nghị gây sức ép với Nhà nƣớc ta, yêu cầu bỏ loại hình phạt này. Trong tình
hình nƣớc ta hiện nay và những năm tới, có thể khẳng định rằng chƣa thể loại
bỏ hình phạt tử hình ra khỏi hệ thống hình phạt. Tuy nhiên, cùng với sự phát
triển chung của thế giới là thu hẹp dần phạm vi áp dụng và tiến tới loại bỏ
hình phạt tử hình, Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung đó. Từ thực
tiễn lập pháp hình sự và quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng nêu trong
Nghị quyết số Q8/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tƣ pháp trong thời gian tới đòi hỏi phải nghiên cứu để
từng bƣớc hạn chế phạm vi áp dụng hình phạt tử hình, giảm tối đa quy định
hình phạt tử hình trong Bộ luật Hình sự. Bên cạnh việc nghiên cứu hạn chế
các tội có quy định hình phạt tử hình trong Bộ luật Hình sự, cần xem xét mở
rộng các trƣờng hợp mặc dù điều luật có quy định hình phạt tử hình nhƣng
không cần thiết áp dụng hình phạt tử hình hoặc không thi hành hình phạt này mà
giảm xuống tù chung thân nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ đặc biệt. Đây là những
vấn đề không chỉ nhằm giải quyết những vƣớng mắc nảy sinh trong thực tiễn thi
hành pháp luật, mà còn là những bƣớc đi cần thiết nằm trong tiến trình hội nhập
126
quốc tế trên phƣơng diện pháp lý.
3.3. Những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong
thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia
3.3.1. Ưu điểm
Những kết quả trong thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG đã
góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ ANQG, giữ vững ổn
định chính trị, phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới, tạo thuận lợi đƣa đất nƣớc
ta chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tính đúng
đắn thể hiện trong thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG, chúng ta đã
coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với
nhiệm vụ an ninh, quốc phòng, đối ngoại; xây dựng cơ chế kết hợp từ bên
trong, bảo đảm kết hợp chặt chẽ, có hiệu quả chiến lƣợc kinh tế, văn hoá - xã
hội với chiến lƣợc ANQG. Chính sách pháp luật bảo vệ ANQG đã thực sự trở
thành yếu tố quan trọng góp phần quan trọng giữ vững độc lập, chủ quyền quốc
gia, tạo tiền đề chính trị ổn định cho sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nƣớc.
Thành tựu to lớn đó đã đƣợc khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII của Đảng: "…quốc phòng, an ninh được tăng cường;
kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hoà bình, ổn định để phát triển
đất nước” [16, tr.58,59].
Chất lƣợng và hiệu quả thi hành chính sách pháp luật đã tăng lên rõ rệt; đặc
biệt là trong công tác bắt, giam giữ, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm nói chung
và tội phạm xâm phạm ANQG nói riêng. Trong những năm vừa qua, tiến độ và
tỷ lệ điều tra khám phá các vụ án, nhất là các vụ trọng án đã đƣợc nâng lên rõ rệt.
Đã hạn chế đáng kể tình trạng oan, sai, bức cung, dùng nhục hình, vi phạm pháp
luật; kiên quyết thanh loại số cán bộ tƣ pháp thoái hoá biến chất, yếu kém về tinh
thần trách nhiệm.
Các cơ quan chức năng đã làm tốt các mặt công tác quản lý nhà nƣớc về
127
an ninh quốc gia, phục vụ quản lý xã hội và phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội và đối ngoại của đất nƣớc.
Trong công tác thực hiện chính sách pháp luật về bảo vệ ANQG đã có
những đổi mới về nhận thức và hoạt động. Bộ Công an là cơ quan đƣợc giao
nhiệm vụ chủ trì đã có mối quan hệ phối hợp hiệu quả với các bộ, ban, ngành
trong công tác bảo vệ ANQG, trong việc rà soát những văn bản chính sách
pháp luật liên quan đến ANQG để đề nghị sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với
yêu cầu từng giai đoạn cách mạng mới. Trên cơ sở các quy định pháp luật, lực
lƣợng Công an phối hợp với các lực lƣợng trong và ngoài ngành, phát huy vai
trò quần chúng, kết hợp với hoạt động của các đơn vị nghiệp vụ, đã tạo nên
sức mạnh tổng hợp đấu tranh có hiệu quả với các đối tƣợng có hoạt động xâm
phạm ANQG. Đặc biệt, đã đánh mạnh bọn chủ mƣu, cầm đầu, chỉ huy, bọn
xúi giục hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, thu hẹp diện đối tƣợng chống đối,
hạn chế khả năng hoạt động của chúng.
Công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế về thi hành pháp luật trên các lĩnh
vực đã đƣợc quan tâm hơn trƣớc và có nhiều tiến bộ rõ rệt, nhất là trong
phòng, chống tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm về ma
tuý, khủng bố, “rửa tiền”... Các cơ quan, lực lƣợng chức năng đã và đang xây
dựng và thực hiện kế hoạch đấu tranh chống tội phạm khủng bố quốc tế trong
tình hình mới; triển khai thực hiện có hiệu quả các hiệp định song phƣơng về
hợp tác phòng, chống tội phạm, phòng, chống ma túy đã ký với các nƣớc, đặc
biệt là sự hợp tác với các nƣớc láng giềng Lào - Trung Quốc - Campuchia, với
các nƣớc trong khu vực và các nƣớc có quan hệ truyền thống. Đã tiến hành
đàm phán và ký kết các hiệp định hợp tác phòng, chống tội phạm với một số
nƣớc, góp phần nâng cao hiệu quả công tác hợp tác phòng, chống tội phạm với
Cảnh sát các nƣớc và tổ chức quốc tế; đồng thời, có kế hoạch để triển khai có
hiệu quả các điều ƣớc quốc tế đa phƣơng về phòng, chống tội phạm mà Việt
128
Nam đã ký kết hoặc tham gia.
3.3.2. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc nêu trên, kết quả nghiên cứu chỉ ra việc
thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG thời gian qua còn bộc lộ một số
hạn chế cụ thể sau:
Một là, nhận thức về công tác tham mưu đề xuất, xây dựng chính sách
pháp luật bảo vệ ANQG còn chưa đúng.
Xây dựng chính sách là chức năng của Nhà nƣớc, đặc biệt chính sách
dƣới dạng văn bản luật đƣợc Hiến pháp quy định do Quốc hội ban hành, các
cơ quan của Quốc hội đóng vai trò quan trọng trong việc đề ra chƣơng trình
xây dựng pháp luật và trực tiếp xây dựng các dự án luật, pháp lệnh. Tuy nhiên,
tuyệt đối hoá vai trò của Nhà nƣớc, Quốc hội mà xem nhẹ vai trò của các bộ,
ban, ngành là một cách hiểu phiến diện, chƣa đầy đủ. Hiện nay, các dự án luật,
pháp lệnh về cơ bản vẫn do các bộ, ngành, trực tiếp chủ trì việc soạn thảo. Các cơ
quan của Quốc hội chủ yếu chỉ tham gia trong quá trình xây dựng và tiến hành
thẩm tra dự án luật khi đã tƣơng đối hoàn thiện. Hiện nay, khi các đại biểu Quốc
hội chủ yếu là kiêm nhiệm và Quốc hội một năm chỉ họp hai kỳ thì việc giao cho
các bộ, ngành chủ trì soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh là phù hợp.
Trong thực tế, còn nhiều cán bộ An ninh coi việc xây dựng chính sách
pháp luật bảo vệ ANQG là chức năng riêng có của Nhà nƣớc mà không coi
trọng vai trò tham mƣu, đề xuất của bộ chủ quản; do đó ngoài lực lƣợng pháp
chế, chƣa phát huy đƣợc vai trò nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn bảo vệ
ANQG của các đơn vị chiến đấu thuộc Bộ Công an để tham mƣu ban hành
chính sách pháp luật. Điều này dẫn đến tình trạng nhiều vấn đề “nóng”, “bức
xúc” nảy sinh trong thực tiễn công tác bảo vệ ANQG không đƣợc kịp thời đề
xuất giải quyết bằng chính sách; chính sách không kịp thời đƣợc xây dựng để
góp phần giải quyết những khó khăn, vƣớng mắc do thực tiễn đặt ra.
Bên cạnh đó, nhận thức của một bộ phận lãnh đạo và cán bộ, nhân viên
129
các cơ quan, tổ chức liên quan đến công tác bảo vệ ANQG trên các lĩnh vực
còn hạn chế, chƣa đầy đủ. Trách nhiệm bảo vệ ANQG không chỉ thuộc về các
cơ quan chuyên trách, mà còn là của các ban, ngành, tổ chức có liên quan.
Trƣớc khi đƣợc ban hành, chính sách pháp luật bảo vệ ANQG đƣợc lấy ý kiến
rộng rãi trong quần chúng nhân dân; sau khi đƣợc ban hành, một lần nữa,
chính sách lại đi vào thực tiễn cuộc sống, trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Tuy nhiên, trong thực tế, một bộ phận khá nhiều ngƣời dân còn chƣa quan
tâm đến chính sách pháp luật bảo vệ ANQG, chƣa kịp thời góp ý để điều
chỉnh, hoàn thiện chính sách, mặc dù nhiều chính sách pháp luật khi đƣợc ban
hành đã ảnh hƣởng trực tiếp đến cuộc sống của ngƣời dân.
Hai là, công tác tham mưu xây dựng, ban hành, hoàn thiện chính sách
pháp luật bảo vệ ANQG còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Cũng nhƣ nhiều quốc gia, hiện Việt Nam đang phải đối mặt với những
hiểm hoạ từ thiên tai, sự cố, biến đổi khí hậu, nƣớc biển dâng, dịch bệnh cùng
với những vấn đề toàn cầu, nhƣ: buôn lậu, buôn bán ngƣời, vận chuyển trái
phép vũ khí, ma tuý, cƣớp biển, khủng bố quốc tế, nhất là tội phạm công nghệ
cao.. Những thách thức này đã tác động, đe doạ nghiêm trọng, trực tiếp đến
ANQG, nhất là vấn đề an toàn thông tin, an ninh mạng, kinh tế, chính trị, văn
hoá... với tính chất ngày càng gay gắt, phức tạp, lâu dài; quy mô, phạm vi
ngày càng toàn diện, rộng lớn, xuyên quốc gia, khu vực và toàn cầu.
Trong tình hình đó, công tác tham mƣu xây dựng, ban hành, hoàn thiện
chính sách pháp luật bảo vệ ANQG còn chậm, chƣa đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn. Điển hình, đối với lĩnh vực phát triển nóng nhƣ an ninh thông tin, hiện
mới có 03 va n bản luật (Luật Viễn thông, Luật An toàn thông tin mạng, Luật
An ninh mạng) trực tiếp điều chỉnh hoạt động của các tổ chức, cá nhân đƣợc
xây dựng; Bộ luật Tố tụng hình sự chƣa đƣợc hoàn thiện, chƣa có quy định cụ
thể về việc thu thập, bảo quản, sử dụng tính pháp lí của chứng cứ điện tử,
chứng cứ từ nguồn dữ liệu điện tử; có 05 hiệp định và thỏa thuận song phƣơng
130
giữa Việt Nam với nƣớc ngoài; hệ thống các va n bản hƣớng dẫn, quy định chi
tiết thi hành luạ t còn thiếu và chậm đƣợc điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với
thực tiễn. Các quy định pháp lí về công tác bảo vệ ANQG trên lĩnh vực viễn
thông của nƣớc ta còn phân tán ở nhiều văn bản pháp lý. Nội dung các quy
định còn chung chung, chƣa xác định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ
quan, ban, ngành trong bảo vệ ANQG trên lĩnh vực viễn thông và chế tài xử lí.
Nhiều vấn đề mới phát sinh trong thực tế nhƣ hoạt động gián điệp mạng, chiến
tranh mạng, quản lí hoạt động của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên
biên giới tại Việt Nam, cung cấp các dịch vụ giải trí trực tuyến (game onlines,
live stream) ... chƣa đƣợc quy định cụ thể. Việc xây dựng danh mục công trình
quan trọng liên quan ANQG trên lĩnh vực viễn thông, danh mục hệ thống
thông tin quan trọng về ANQG còn chạ m.
Ba là, còn nhiều thiếu sót trong các chính sách pháp luật bảo vệ ANQG,
kéo theo nhiều khó khăn, bất cập trong quá trình thực hiện chính sách.
Các chính sách pháp luật bảo vệ ANQG có nhiều nội dung còn thiếu,
chƣa hoàn thiện. Điển hình là Bộ luật Hình sự năm 1999, một trong những văn
bản pháp lý quan trọng nhất của chính sách pháp luật bảo vệ ANQG còn tồn
tại nhiều vƣớng mắc, bất cập, cụ thể: Trong nhiều điều luật, khách thể trực
tiếp của tội phạm đƣợc phản ánh còn khái quát, chung chung, làm cho việc
đánh giá tính chất nguy hiểm cho xã hội và phân biệt tội phạm này với tội
phạm khác gặp khó khăn; gây lúng túng cho điều tra viên trong quá trình
chứng minh, xác định khách thể; các cơ quan có thẩm quyền giải thích luật
cũng gặp khó khăn, vƣớng mắc khi hƣớng dẫn các điều luật này (gây nguy hại
cho độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, lực lƣợng quốc
phòng, chế độ XHCN và Nhà nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam (Điều 78); cơ
sở vật chất - kỹ thuật (Điều 85); gây nguy hại cho an ninh lãnh thổ (Điều
81))… “Yếu tố nƣớc ngoài” trong Tội Phản bội Tổ quốc (Điều 78 BLHS) và
Tội Gián điệp (Điều 80 BLHS) cũng có nhiều điểm chồng chéo, chƣa rõ. Tội
131
hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 79 BLHS): tên của điều
luật chƣa bao quát hết các hành vi khách quan của “hoạt động nhằm lật đổ
chính quyền nhân dân”. Tội phá hoại chính sách đoàn kết (Điều 87 BLHS năm
1999) và Tội tuyên truyền chống Nhà nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (Điều 88 BLHS năm 1999). Nhiều khái niệm trong BLHS chƣa đƣợc
hƣớng dẫn một cách rõ ràng khiến cho có nhiều cách hiểu khác nhau, nhƣ khái
niệm “cơ sở vật chất - kỹ thuật của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”, chế định đồng phạm, quy định về tổ chức phạm tội… Việc chia khung
hình phạt và xây dựng các cấu thành tội phạm (cấu thành cơ bản, cấu thành
tăng nặng, cấu thành giảm nhẹ) trong một số tội xâm phạm ANQG chƣa hợp
lý. Tình tiết định khung hình phạt và mức hình phạt trong cấu thành tội phạm
giảm nhẹ của một số tội chƣa hợp lý. Quy định về căn cứ miễn TNHS trong
BLHS còn khái quát, khó chứng minh điều kiện (căn cứ) để đƣợc miễn TNHS.
Bên cạnh những nội dung trên, một số hành vi chống chế độ, gây phƣơng hại
cho ANQG cần phải quy định trong luật để răn đe, trừng trị nhƣng chƣa đƣợc
quy định là: Hành vi công khai phản đối, đòi xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam; hành vi khôi phục, hoặc lập ra các tổ chức tôn giáo trái
phép, hành vi phát triển đạo bất hợp pháp, hành vi hoạt động tình báo theo sự
chỉ đạo của nƣớc ngoài do công dân Việt Nam thực hiện. Do thiếu quy định và
hƣớng dẫn nên trong quá trình điều tra, khi gặp những trƣờng hợp này rất dễ
lúng túng trong việc xác định đối tƣợng chứng minh, dẫn tới định tội không
đúng hoặc bỏ lọt tội phạm.
Bốn là, quá trình tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật để phòng
ngừa và xử lý hoạt động xâm phạm ANQ trên một số lĩnh vực còn bộc lộ
những hạn chế, thiếu sót dẫn tới hiệu lực, hiệu quả chưa cao.
Trong nhiều lĩnh vực bảo vệ ANQG, mặc dù đã có quy định pháp luật
tƣơng đối đầy đủ nhƣng quá trình tổ chức thực hiện các quy định này để
phòng ngừa và xử lý hoạt động xâm phạm ANQG còn nhiều hạn chế. Điển
132
hình, trong lĩnh vực an ninh thông tin, cơ chế để lực lƣợng An ninh tham gia
thẩm định các thiết bị hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin trƣớc khi đƣa
vào sử dụng; thẩm định nội dung các dịch vụ giải trí trực tuyến trƣớc khi phát
hành rộng rãi còn thiếu và chƣa rõ. Việc phối hợp thanh tra, kiểm tra, nhất là
thanh tra, kiểm tra trong công tác đảm bảo an ninh, an toàn thông tin, quản lí
hoạt động của thuê bao điện thoại di động trả trƣớc còn chƣa thƣờng xuyên,
chƣa quyết liệt trong xử lí sai phạm. Tổ chức thực hiện các quy định của pháp
luật để điều tra, xử lí hành vi xâm phạm ANQG trên lĩnh vực viễn thông mặc
dù đã đƣợc triển khai nhƣng chƣa nhiều (trong tổng số 485 đối tƣợng/254 vụ
việc, xử lí bằng pháp luật 272 đối tƣợng/254 vụ việc liên quan đến ANQG
trên lĩnh vực viễn thông, trong đó có 83 bị can bị điều tra, truy tố về tội tuyên
truyền chống Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), hình thức xử lí
còn nhẹ, chƣa đủ sức ra n đe đối với đối tƣợng và những ngƣời khác (trong số
367 vụ lộ, mất bí mật nhà nƣớc qua mạng viễn thông, chỉ xử lí hình sự 17 đối
tƣợng, xử phạt hành chính 21 trƣờng hợp, còn lại khoảng 439 trƣờng hợp
kiểm điểm rút kinh nghiệm và xử lí kỉ luật).
Năm là, việc phối hợp giữa các lực lượng trong thực hiện chính sách
bảo vệ ANQG còn bộc lộ nhiều khó kha n, vướng mắc.
Có nhiều lực lƣợng cùng tham gia bảo vệ ANQG trên một số lĩnh vực
(thông tin, biên giới…) dẫn tới sự chồng chéo, chƣa thống nhất trong phân
công và phối hợp lực lƣợng. Việc phối hợp trao đổi thông tin, giải quyết các
vụ việc phức tạp phát sinh còn chƣa kịp thời, thậm chí còn có sự không thống
nhất trong quan điểm giải quyết giữa các lực lƣợng, nhất là trong việc áp dụng
các quy định cụ thể của chính sách pháp luật trong bảo vệ ANQG, xử lí các
đối tƣợng có hoạt động xâm phạm ANQG.
Xung quanh vấn đề phân công lực lƣợng chủ trì công tác quản lý về an
ninh các cửa khẩu đƣờng bộ, đƣờng sắt, đƣờng thuỷ hiện đang có nhiều ý kiến
khác nhau. Một thực tế là hiện nay, các cửa khẩu do Bộ đội biên phòng trực
133
tiếp quản lý hầu hết nằm ở khu vực biên giới xa xôi hẻo lánh, vùng rừng núi,
hải đảo... là những nơi mà lực lƣợng Công an ở cơ sở còn mỏng; lực lƣợng Bộ
đội biên phòng đã có quá trình trực tiếp thực hiện công tác này trong nhiều
năm nên có bề dày kinh nghiệm và có đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất, phƣơng
tiện phù hợp với chức năng hoạt động ở khu vực biên giới. Trong khi đó, Bộ
Công an hiện không có lực lƣợng nào có thể đảm trách đƣợc toàn bộ công việc
này, nếu Nhà nƣớc chuyển giao nhiệm vụ này sang cho Bộ Công an thực hiện.
Do đó, nên chăng tính đến một phƣơng án giải quyết triệt để vấn đề này, đó là
tập trung các đơn vị quản lý an ninh biên giới về một đầu mối chỉ đạo; và hợp
lý hơn cả là chuyển lực lƣợng Bộ đội biên phòng hiện đang trực tiếp quản lý các
cửa khẩu biên giới sang trục thuộc Bộ Công an. Với tổ chức bộ máy và bố trí lực
lƣợng hiện tại của Bộ Công an, chúng tôi cho rằng nên giữ nguyên việc phân
công quản lý các cửa khẩu nhƣ hiện nay là hợp lý. Trong quá trình lấy ý kiến các
đơn vị của Bộ Công an về dự thảo Luật Biên giới quốc gia (đã đƣợc Quốc hội
thông qua ngày 17/6/2003) và các Nghị định của Chính phủ hƣớng dẫn thi hành
Luật Biên giới quốc gia, Nghị định của Chính phủ về Quy chế khu vực biên giới
biển; một số đơn vị thuộc Bộ cũng có ý kiến tƣơng tự (giữ nguyên nhƣ hiện nay),
vì ngành Công an không có lực lƣợng nào đảm đƣơng đƣợc việc quản lý an ninh
trật tự tại tất cả các cửa khẩu biên giới trên đất liền và trên biển.
3.3.3. Nguyên nhân của hạn chế
Những hạn chế nêu trên còn tồn tại do các nguyên nhân cơ bản sau đây:
Một là, hệ thống pháp luật và chính sách còn chậm trễ, sơ hở, chồng
chéo, nhiều nội dung không cụ thể, rõ ràng, không theo kịp yêu cầu của thực
tiễn. Trong đó, điều dễ nhận thấy là đối với một số nội dung quan trọng, mang
tính phổ biến, đƣợc nhắc lại trong nhiều văn bản pháp luật, pháp lệnh nhƣ một
nguyên tắc, nhƣng chƣa đƣợc cụ thể hóa, hoặc cụ thể hóa nhƣng lại thiếu cụ
thể, thiếu chi tiết. Chẳng hạn nhƣ các nội dung sau: (1) QĐND, CAND đặt
dƣới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt
Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nƣớc, sự thống nhất quản lý nhà nƣớc của
134
Chính phủ và sự chỉ huy, quản lý trực tiếp của Bộ trƣởng Bộ Quốc phòng, Bộ
trƣởng Bộ Công an; (2) Kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh, quốc phòng
an ninh với kinh tế; (3) Hoạt động của Hội đồng quốc phòng an ninh; (4) Hợp
tác quốc tế về quốc phòng an ninh; nội luật hóa các điều ƣớc quốc tế về quốc
phòng an ninh để không phải áp dụng trực tiếp, tránh gây bất lợi, làm phƣơng
hại đến ANQG... Có một số nhiệm vụ quốc phòng an ninh thƣờng xuyên,
nhƣng việc ban hành luật, pháp lệnh để điều chỉnh là quá chậm, nhƣ lĩnh vực
xử lý vi phạm hành chính đã có pháp lệnh điều chỉnh từ năm 1995, nhƣng mãi
đến năm 2012 mới ban hành luật để điều chỉnh. Đặc biệt, có một số lĩnh vực
cụ thể chƣa có văn bản luật, pháp lệnh chuyên ngành điều chỉnh nhƣ an ninh
kinh tế, an ninh chính trị, an ninh văn hóa – tƣ tƣởng, an ninh đối ngoại, an
ninh thông tin, an ninh môi trƣờng, an ninh xã hội và phòng, chống các loại tội
phạm cụ thể khác, nhất là tội phạm nghiêm trọng nhƣ các tội xâm phạm ANQG.
Những nội dung này chỉ mới đƣợc đề cập mang tính nguyên tắc trong các đạo
luật gốc là Luật Quốc phòng, Luật ANQG, Luật CAND, Bộ luật Hình sự.
Hai là, quá trình chỉ đạo thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG
thiếu tập trung thống nhất, không rõ vai trò của cấp ủy – chính quyền, công
tác phối hợp giữa các lực lượng, giữa trung ương và địa phương chưa thật
chặt chẽ, nhịp nhàng.
Qúa trình chỉ đạo thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG phải tập
trung thống nhất, ở Trung ƣơng là trách nhiệm của Bộ Chính trị, Ban Bí thƣ
và Thủ tƣớng Chính phủ trong việc đôn đốc, kiểm tra, giám sát. Ở địa
phƣơng, trách nhiệm chủ yếu thuộc thƣờng vụ cấp ủy và thƣờng trực ủy ban,
trong đó Bí thƣ tỉnh ủy và Chủ tịch UBND tỉnh có vai trò quyết định trong
việc hoàn thiện và tổ chức thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG. Bí
thƣ tỉnh ủy và Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì việc phối hợp các lực lƣợng trong
việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANQG. Tuy nhiên, trong thực tế quá trình
triển khai thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG còn thể hiện thiếu tập
trung thống nhất và chƣa rõ vai trò của từng chủ thể. Còn tồn tại tình trạng có
135
nơi chỉ cấp ủy hoặc có nơi chỉ chính quyền chịu trách nhiệm chỉ đạo, lãnh đạo
việc thực hiện chính sách; sự phối hợp giữa các lực lƣợng liên quan nhƣ Công
an, Quân đội, Ngoại giao...có lúc, có nơi còn chƣa chặt chẽ, nhịp nhàng.
Ba là, thiếu kiểm tra, giám sát, không quan tâm đến tổng kết thực tiễn
trong thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG.
Kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG có
vị trí rất quan trọng, là một tất yếu khách quan. Quá trình thực hiện chính sách
có sự tác động của các yếu tố khách quan, đồng thời không tránh khỏi yếu tố
chủ quan, nên đòi hỏi phải tiến hành việc kiểm tra, giám sát. Tuy nhiên, trong
thực tế, kiểm tra giám sát ở nhiều lúc nhiều nơi còn bị buông lỏng, chƣa đƣợc
quan tâm, thực hiện hiệu quả, dẫn tới những sai sót trong một hoặc một số
khâu của quá trình thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG.
Mặt khác, trong quá trình thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG,
các chủ thể có thẩm quyền chƣa quan tâm đầy đủ tới công tác nghiên cứu
khoa học, đánh giá, tổng kết thực tiễn. Vì thế, chƣa có một định hƣớng chiến
lƣợc, một phƣơng án tổng thể ở tầm vĩ mô xác định rõ yêu cầu về nội dung,
đối tƣợng, phạm vi điều chỉnh, thứ tự ƣu tiên, bƣớc đi phù hợp và điều kiện
để thực hiện. Tiểu kết Chương 3
Chƣơng 3 đã nghiên cứu và thể hiện thực trạng thực hiện chính sách
pháp luật bảo vệ ANQG ở Việt Nam hiện nay qua nghiên cứu các lĩnh vực cụ
thể của an ninh quốc gia nhƣ: An ninh nội bộ, an ninh xã hội, an ninh thông
tin, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia.
Từ đó, đã chỉ ra những kết quả đạt đƣợc trong quá trình thực hiện chính
sách pháp luật bảo vệ ANQG, nổi bật là đã góp phần thu đƣợc những thắng lợi
quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ ANQG, giữ vững ổn định chính trị, phục vụ
đắc lực công cuộc đổi mới, tạo thuận lợi đƣa đất nƣớc ta chuyển sang thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thành tựu to lớn đó đã đƣợc khẳng
136
định trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng: "Cùng với
phát triển kinh tế - xã hội, tiềm lực quốc phòng và an ninh của đất nước đã được
tăng cường... Thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân ngày
càng được củng cố và phát triển, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm".
Bên cạnh những kết quả, Chƣơng 3 đã chỉ ra một số hạn chế của quá
trình thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG ở Việt Nam. Đó là: Nhận
thức về công tác tham mƣu đề xuất, xây dựng chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG còn chƣa đúng; công tác tham mƣu xây dựng, ban hành, hoàn thiện
chính sách pháp luật bảo vệ ANQG còn chậm, chƣa đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn; còn nhiều thiếu sót trong các chính sách pháp luật bảo vệ ANQG, kéo
theo nhiều khó khăn, bất cập trong quá trình thực hiện chính sách; quá trình tổ
chức thực hiện các quy định của pháp luật để phòng ngừa và xử lý hoạt động
xâm phạm ANQG trên một số lĩnh vực còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót
dẫn tới hiệu lực, hiệu quả chƣa cao; việc phối hợp giữa các lực lƣợng trong
thực hiện chính sách bảo vệ ANQG còn bộc lộ nhiều khó kha n, vƣớng mắc.
Từ việc nhận diện hạn chế, luận án chỉ ra những nguyên nhân của hạn
chế. Đây sẽ là cơ sở để chúng tôi đề ra các biện pháp hoàn thiện chính sách
137
pháp luật bảo vệ ANQG ở Việt Nam trong chƣơng sau của luận án tiến sĩ.
Chương 4
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT
BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Định hướng hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh
quốc gia ở Việt Nam hiện nay
Ngày 24 tháng 5 năm 2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 48-
NQ/TW về Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2020. Đây là Nghị quyết thể hiện tập
trung nhất chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng đối với công tác xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam giai đoạn 2005 – 2020.
Qua gần 15 năm thực hiện Nghị quyết số 48, ngày 27/7/2019, Ban Chỉ
đạo xây dựng Đề án Tổng kết Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm
2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2020 đã ban hành Kế
hoạch số 1373-KH/BCĐ về việc tổng kết Đề án. Việc tổng kết đƣợc tiến hành
nhằm đánh giá tình hình thực hiện Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam giai đoạn 2005 – 2020. Trên cơ sở đó, đề xuất ban
hành Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ƣơng về xây dựng, hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam, tổ chức thi hành pháp luật và cải cách tƣ pháp giai
đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045; phục vụ việc xây dựng các Văn
kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Dự thảo Báo cáo của Ban cán sự Đảng Chính phủ tổng kết Nghị quyết
48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2020
đã chỉ ra rằng: Sau gần 15 năm, việc thực hiện Chiến lƣợc xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật nói chung của các cơ quan hành chính nhà nƣớc từ
138
trung ƣơng đến địa phƣơng đã đạt đƣợc nhiều thành công quan trọng, ở cả
khía cạnh xây dựng thể chế và tổ chức thi hành pháp luật. Trong giai đoạn
2005 – 2019, hệ thống pháp luật của nƣớc ta không ngừng đƣợc hoàn thiện.
Công tác xây dựng và hoàn thiện trên các lĩnh vực cơ bản đƣợc thể chế hóa
kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng, đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nƣớc. Hệ thống pháp
luật, chính sách kinh tế đã đƣợc xây dựng cơ bản phù hợp với cơ chế thị
trƣờng định hƣớng XHCN. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật chƣa thực sự đồng
bộ, thống nhất, vẫn còn cồng kềnh với nhiều hình thức văn bản, với nhiều cơ
quan có thẩm quyền ban hành, còn có dự án luật chồng chéo, mâu thuẫn. Tính
thích ứng của hệ thống pháp luật chƣa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội. Công tác tổ chức thi hành pháp luật vẫn là khâu yếu, chƣa kịp thời
đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền
XHCN; chế tài pháp lý chƣa thực sự nghiêm khắc, vẫn còn hiện tƣợng “nhờn”
luật trên một số lĩnh vực. Công tác phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật
hiệu quả chƣa cao..
Trƣớc tình hình đó, nội dung xây dựng và hoàn thiện pháp luật giai đoạn
tiếp theo cần tập trung về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ
thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN
Việt Nam. Trong đó, chú trọng các vấn đề nhƣ: đổi mới phƣơng thức lãnh đạo
của Đảng đối với xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; hoàn thiện pháp
luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị nhƣ:
Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, Viện Kiểm sát, Mặt trận Tổ quốc, chính quyền
địa phƣơng; hoàn thiện pháp luật về công chức, công vụ [21].
Từ kết quả nghiên cứu tại Chƣơng 1, Chƣơng 2, Chƣơng 3 của Luận án
Tiến sĩ, chúng tôi đề xuất một số nội dung định hƣớng hoàn thiện chính sách
pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay nhƣ sau:
Một là, trong hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG phải quán
triệt sâu sắc định hƣớng mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng
139
đã đề ra: "Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị,
trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thƣờng xuyên của Đảng, Nhà
nƣớc, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và
Công an nhân dân là nòng cốt" [16, tr.148]. Trong đó, mục tiêu nhất quán bảo
vệ an ninh, trật tự của Tổ quốc đƣợc Đảng xác định là: "Kiên quyết, kiên trì
đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ
vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời
giữ vững môi trƣờng hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nƣớc. Giải
quyết những bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở tôn
trọng luật pháp quốc tế" [16, tr.148].
Hai là, chủ động rà soát, kiến nghị, đề xuất hoàn thiện hẹ thống chính
sách pháp luật bảo vệ ANQG, đặc biệt chú trọng khắc phục những thiếu hụt
(xem Trang 124), điểm bất hợp lý trong các quy định của hệ thống chính sách
pháp luật bảo vệ ANQG hiện hành; bổ sung chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG trên những lĩnh vực “an ninh phi truyền thống”, các lĩnh vực mới do
tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mà còn thiếu quy
phạm pháp luật điều chỉnh.
Ba là, tổ chức Công an nhân dân phải là lực lƣợng nòng cốt có đủ
năng lực, phối hợp với các bộ, ban, ngành, đoàn thể trong tham mƣu, đề
xuất hoàn thiện và thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG, bảo đảm
vững chắc ANQG, tạo sự chuyển biến rõ nét về trật tự, an toàn xã hội, bảo
đảm an toàn cho cuộc sống của Nhân dân, góp phần tích cực bảo vệ độc
lập, chủ quyền lãnh thổ, giữ vững ổn định chính trị, môi trƣờng hòa bình,
an ninh, an toàn để đất nƣớc phát triển nhanh và bền vững.
Bốn là, nâng cao chất lƣợng công tác dự báo, phân tích tình hình; phát
hiện từ sớm, từ xa các mối đe dọa đến lợi ích, an ninh quốc gia để chủ động
tham mƣu, đề xuất hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG; khắc phục
triệt để tình trạng có vi phạm mà không có chế tài ngăn chặn, xử lý; từ đó triển
khai các biện pháp bảo vệ vững chắc ANQG theo tinh thần "giữ nƣớc từ xa",
140
"giữ nƣớc từ khi nƣớc chƣa nguy".
4.2. Giải pháp hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc
gia ở Việt Nam hiện nay
Dựa trên kết quả nghiên cứu ở Chƣơng 2, Chƣơng 3, kết quả khảo sát
(Xem Biểu dƣới) và phỏng vấn sâu, tác giả đề xuất tiến hành đồng bộ một số
giải pháp sau đây nhằm nâng cao hiệu quả công tác thực hiện chính sách pháp
luật bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay:
4.2.1. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến về vai trò
của công tác tham mưu, đề xuất hoạch định, xây dựng chính sách pháp luật
57.8
56.7
Bảo đảm ngân sách và cơ sở vật chất cho các hoạt động hoàn thiện chính sách Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách ANQG
90.5
Bảo đảm nguồn nhân lực xây dựng và thực hiện chính sách ANQG
67.3
Nâng cao hiệu lực thực hiện chính sách pháp luật ANQG
67.8
Xây dựng và vận hành trên thực tế cơ chế đánh giá chính sách PLBVANQG
76.5
Tăng cường vai trò của các cơ quan, tổ chức nghiên cứu chuyên ngành
80.8
Đổi mới cơ bản quy trình xây dựng chính sách pháp luật BV ANQG
98.5
Xác định các vấn đề trọng điểm về an ninh quốc gia cần ưu tiên đầu tư
0
20
40
60
80
100
120
Đề xuất hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia
bảo vệ an ninh quốc gia
Biểu đồ 4.1. Đề xuất hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ
an ninh quốc gia
141
(Nguồn: Điều tra khảo sát mẫu năm 2019)
Xuất phát từ thực trạng nhận thức về công tác tham mƣu, đề xuất hoạch
định, xây dựng chính sách pháp luật bảo vệ ANQG còn chƣa đúng, cần đẩy
mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến về vai trò của công tác tham
mƣu, đề xuất xây dựng chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia. Đối
tƣợng hƣớng đến của công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách là
cán bộ, công chức trong các cơ quan chuyên trách bảo vệ ANQG và cán bộ,
công chức của các bộ, ban, ngành liên quan. Đồng thời, cần đẩy mạnh công
tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến đến quần chúng nhân dân nhằm nâng cao
ý thức pháp luật và tăng cƣờng khả năng tiếp cận của nhân dân đối với chính
sách pháp luật trên lĩnh vực này.
Để tiến hành giải pháp này, cần thực hiện một số nội dung sau:
Một là, phải tuyên truyền, phổ biến để đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên
trách về lĩnh vực pháp luật, pháp chế trong cơ quan chuyên trách bảo vệ ANQG,
trƣớc hết là trong Bộ Công an nêu cao tinh thần, trách nhiệm; thƣờng xuyên học
tập, bồi dƣỡng nâng cao phẩm chất đạo đức và nhất là năng lực công tác, hoàn
thành tốt chức năng, nhiệm vụ công tác tham mƣu, đề xuất hoạch định, xây
dựng chính sách pháp luật bảo vệ ANQG. Đặc biệt tham mƣu cho Đảng những
vấn đề an ninh cấp bách và dự báo an ninh quốc gia trong từng giai đoạn. Trong
tình hình hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên làm công tác chuyên trách phải quán
triệt thực hiện nghiêm Nghị quyết Trung ƣơng 4, khóa XII và Chỉ thị 05 của Ban
Bí thƣ Trung ƣơng Đảng về học tập và làm theo tƣ tƣởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh, gắn với yêu cầu thực hiện đạo đức nghề nghiệp của ngành, lĩnh vực.
Bên cạnh đó, cần xác lập cơ chế thu hút các chuyên gia giỏi trong lực lƣợng
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân và các cơ quan liên quan vào tất cả các
giai đoạn từ nghiên cứu, đánh giá nhu cầu, soạn thảo đến thẩm định, thẩm tra các
dự thảo văn bản chính sách; nghiên cứu thực hiện chế độ hợp đồng của Nhà nƣớc
đối với các viện nghiên cứu, học viện, các trƣờng đại học Công an nhân dân,
142
Quân đội nhân dân trong hoạt động hoạch định, xây dựng chính sách pháp luật
bảo vệ ANQG. Nghiên cứu khả năng hình thành tổ chức chuyên nghiên cứu,
thăm dò dƣ luận xã hội về nhu cầu chính sách pháp luật bảo vệ ANQG, về tính
phù hợp, khả thi, hiệu lực và hiệu quả của chính sách trong lĩnh vực này trong
quá trình thực hiện.
Hai là, đổi mới tƣ duy của ngƣời đứng đầu về tầm quan trọng và trách
nhiệm trong hoạch định, xây dựng chính sách pháp luật bảo vệ ANQG. Tại
phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 3-2019, Chính phủ đã yêu
cầu các Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ phải trực tiếp chỉ đạo, tập
trung các nguồn lực, nâng cao chất lƣợng, bảo đảm tiến độ chƣơng trình xây
dựng luật, pháp luật, cũng nhƣ các văn bản quy định chi tiết, theo đó, ngƣời
đứng đầu các bộ, ngành, địa phƣơng cần xác định xây dựng pháp luật là
nhiệm vụ trọng tâm, thƣờng xuyên bên cạnh các nhiệm vụ chính trị khác.
Ba là, có chƣơng trình, kế hoạch hằng năm để các đơn vị và cá nhân
chuyên trách bảo vệ ANQG, căn cứ chức năng, nhiệm vụ đƣợc giao trên lĩnh
vực công tác, phát hiện ra những bất cập trong chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG cần điều chỉnh; hoặc những lỗ hổng trong chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG cần bổ sung quy định mới; từ đó tham mƣu, đề xuất cấp có thẩm
quyền điều chỉnh hoặc xây dựng chính sách. Đây là việc làm thƣờng xuyên và
cần thiết trong chu trình chính sách. Chính sách sau khi đƣợc ban hành, thực
hiện sẽ thƣờng xuyên đƣợc phân tích, đánh giá để bổ sung và điều chỉnh trong
trƣờng hợp cần thiết. Tuy nhiên, trong thực tế, cơ quan ban hành chính sách
và thực hiện chính sách lại có sự độc lập tƣơng đối. Do đó, trong quá trình
thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG, nếu cơ quan và cá nhân chuyên
trách không có sự phản hồi, tham mƣu, đề xuất quay lại đối với chính sách
pháp luật đã đƣợc ban hành thì quá trình hoàn thiện chính sách pháp luật bảo
vệ ANQG sẽ chậm và kém hiệu quả. Ví dụ, trong thực tế công tác bảo vệ an
ninh thông tin, nhiều vấn đề mới phát sinh nhƣ hoạt động gián điệp mạng,
143
chiến tranh mạng, quản lý hoạt động của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
xuyên biên giới tại Việt Nam, cung cấp các dịch vụ giải trí trực tuyến chƣa
đƣợc quy định cụ thể. Các đơn vị chuyên trách nhiệm vụ bảo đảm an ninh
thông tin cần chủ động trong công tác tham mƣu, đề xuất cấp có thẩm quyền
ban hành các chính sách pháp luật liên quan các vấn đề nói trên.
Bốn là, cần đầu tƣ nhiều hơn cho lực lƣợng tuyên truyền chính sách
pháp luật bảo vệ ANQG, đƣợc đào tạo chuyên ngành chính sách công,
chuyên ngành luật, và kỹ năng tuyên truyền chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG. Một thực tế là bên cạnh đội ngũ báo cáo viên của Đảng đƣợc các cấp
công nhận, đào tạo và có chƣơng trình thực hiện nhiệm vụ thƣờng xuyên (báo
cáo viên của Ban Tuyên giáo, báo cáo viên cấp Bộ) thì chƣa có một hệ thống
tuyên truyền viên về chính sách pháp luật nói chung, chính sách pháp luật bảo
vệ ANQG nói riêng, mà chủ yếu do đội ngũ lãnh đạo, cán bộ làm công tác pháp
chế chuyên trách đảm nhận. Do vậy, cần phải có kế hoạch đào tạo lực lƣợng
tuyên truyền chính sách pháp luật chuyên nghiệp và dài hạn.
Năm là, tăng cƣờng phối hợp trƣớc hết giữa các cơ quan nhà nƣớc:
Chính phủ - Quốc hội, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Tòa án,
Viện Kiểm sát nhân dân trong hoạch định chính sách bảo vệ ANQG. Tăng
cƣờng mối quan hệ Đảng - Nhà nƣớc và Nhân dân trong hoạch định chính sách
bảo vệ ANQG. Tham mƣu đúng đắn, kịp thời tình hình quốc tế, an ninh quốc tế
cho Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tham gia vào hoạch
định chính sách bảo vệ ANQG, bảo đảm Đảng có quyết sách (nghị quyết, chỉ
thị, kế hoạch) trúng, đúng, kịp thời với mọi khía cạnh của vấn đề ANQG.
4.2.2. Đẩy mạnh công tác dân vận, tạo điều kiện để nhân dân thực hiện
trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi trong thực hiện chính sách pháp luật bảo
vệ an ninh quốc gia
Lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc Việt Nam đã chứng minh:
mọi thắng lợi dù to hay nhỏ đều nhờ vào sức mạnh nhân dân. Dù trong thời
144
kỳ nào, Đảng và Nhà nƣớc ta luôn khẳng định bảo vệ an ninh quốc gia là một
trong hai nhiệm vụ chiến lƣợc của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc chỉ có thể thành công nếu có sự tham gia nhiệt tình, tích cực, tự
nguyện của quần chúng nhân dân.
Trong tình hình hiện nay, trƣớc tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế
thị trƣờng, một bộ phận nhân dân có biểu hiện thờ ơ, trốn tránh, tìm cách
thoái thác tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự. Vì vậy, cần
thiết phải đẩy mạnh công tác dân vận, tạo điều kiện để nhân dân thực hiện
trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ an
ninh Tổ quốc.
Để đáp ứng yêu cầu phát huy tối đa sức mạnh toàn dân vào thực hiện
chính sách pháp luật bảo vệ ANQG, cần thực hiện một số nội dung sau:
Một là, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc cần quán triệt và thực
hiện tốt việc phát huy truyền thống yêu nƣớc, nâng cao cảnh giác cách mạng của
nhân dân trƣớc âm mƣu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù
địch, vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ nhân dân; vận động
toàn dân bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ lợi ích
của Nhà nƣớc, tài sản, lợi ích hợp pháp của tập thể, cá nhân.
Hai là, bên cạnh chú trọng nội dung công tác dân vận, cần chú trọng đổi
mới hình thức phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc theo hƣớng xã hội
hóa ngày càng cao, nhân rộng kinh nghiệm, mô hình hoạt động hiệu quả, tìm
chọn xây dựng những mô hình mới cho phù hợp, đa dạng hóa các hình thức
phù hợp với điều kiện kinh tế -xã hội ở địa phƣơng; chú trọng xây dựng, phát
triển các hình thức tự quản, tự phòng, tự bảo vệ đến từng gia đình, cộng đồng
dân cƣ, các tổ chức quần chúng, các cơ quan, đơn vị cơ sở. Hình thức phải
bảo đảm phù hợp với đặc điểm tâm lý, phong tục tập quán, điều kiện, hoàn
cảnh của từng địa bàn, từng vùng đặc trƣng, từng lĩnh vực. Có nhiều hình
thức để tổ chức phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc nhƣ:
145
vận động rộng rãi, vận động tập trung, vận động cá biệt...
Ba là, trong công tác dân vận cần đặc biệt chú ý tạo điều kiện để khích
lệ nhân dân thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi trong sự nghiệp bảo
vệ an ninh quốc gia. Cần quan tâm cả hai hình thức vận động, trong đó hết
sức chú ý hình thức vận động phổ biến thông qua mở đợt vận động tập trung
để giải quyết các vấn đề bức xúc, nổi cộm, phức tạp về an ninh trật tự. Thông
qua vận động cá biệt để tranh thủ những ngƣời có uy tín, đƣợc quần chúng tin
cậy trong đồng bào dân tộc thiểu số, già làng, trƣởng bản, trƣởng tộc, đứng
đầu các dòng họ, cán bộ hƣu trí, lão thành cách mạng...
Bốn là, để tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ
và quyền lợi của mình trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc, các cơ quan
chức năng cần phải có những biện pháp động viên ngƣời dân nêu cao ý thức
trách nhiệm, thực hiện tốt quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với sự nghiệp
bảo vệ an ninh Tổ quốc, góp phần xây dựng quê hƣơng giàu mạnh, giữ vững
ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ các tổ chức đảng, tổ chức chính trị - xã hội
và nhân dân nơi cƣ trú và làm việc. Qua phong trào, làm cho quần chúng
nhân dân tin tƣởng, tích cực tham gia phòng, chống tội phạm; giáo dục, cảm
hóa ngƣời lầm lỗi tại cộng đồng, tạo thế trận phòng ngừa xã hội và tạo điều
kiện cho lực lƣợng chuyên trách tập trung triển khai sâu rộng nghiệp vụ đấu
tranh phòng, chống tội phạm.
4.2.3. Xác định các vấn đề trọng điểm về an ninh quốc gia cần ưu tiên
đầu tư để hoàn thiện các chính sách pháp luật liên quan
Kết qua nghiên cứu cho thấy xuất phát từ hạn chế công tác tham mƣu
xây dựng, ban hành, hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG còn chậm,
chƣa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, cần thiết phải xác định các vấn đề trọng
điểm về an ninh quốc gia cần ƣu tiên đầu tƣ để hoàn thiện các chính sách pháp
luật liên quan.
Để tiến hành giải pháp này, cần thực hiện một số nội dung, giải pháp sau:
146
Một là, căn cứ vào mục tiêu chính sách bảo vệ ANQG và thực tiễn công
tác bảo vệ ANQG để xác định các nhiệm vụ quan trọng nhất, có ý nghĩa nhất,
cấp bách nhất, đƣợc gọi là các định hƣớng ƣu tiên để hoạch định, xây dựng
chính sách pháp luật bảo vệ ANQG. Mục tiêu lâu dài, cơ bản của chính sách
pháp luật bảo vệ ANQG là sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ xã
hội chủ nghĩa và Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, của dân tộc
Việt Nam; sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn mọi
loại hình lãnh thổ của Tổ quốc. Chính sách pháp luật xác định các định hƣớng
ƣu tiên phát triển pháp luật của xã hội, soạn thảo các phƣơng thức và phƣơng
tiện tối ƣu để đạt đƣợc mục tiêu đó, bảo đảm cho hoạt động có kế hoạch và đƣợc
phối hợp của các cơ quan xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật, định hƣớng
cho hoạt động giáo dục pháp luật của các cơ quan nhà nƣớc và các tổ chức xã
hội, cũng nhƣ việc hình thành ý thức tuân thủ pháp luật ở công dân.
Hai là, xác định các ƣu tiên sau đây của chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG ở Việt Nam hiện nay:
Ƣu tiên hoàn thiện các chính sách pháp luật về xây dựng, củng cố, tăng
cƣờng tiềm lực ANQG, vì đây là cơ sở, nền tảng để bảo đảm vững chắc
ANQG, bao gồm: Xây dựng hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh
và gắn bó mật thiết với nhân dân; xây dựng nền kinh tế tự chủ theo định
hƣớng xã hội chủ nghĩa; phát triển kinh tế nhanh, bền vững làm nền tảng
vững chắc trong sự nghiệp bảo vệ ANQG; bảo tồn, phát triển nền văn hoá
Việt Nam mang đậm bản sắc dân tộc, hiện đại, nhân văn; thực hiện chính sách
đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân, giữa nhân dân với lực lƣợng vũ trang,
với chính quyền, với các tổ chức xã hội, giữa ngƣời theo tôn giáo và ngƣời
không theo tôn giáo, giữa các tín đồ tôn giáo với chính quyền, với các tổ chức
xã hội; bảo đảm đại đoàn kết dân tộc và quyền bình đẳng trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam; ƣu tiên đầu tƣ xây dựng, củng cố các cơ sở công nghiệp
quốc phòng, an ninh; tổ chức và bố trí lực lƣợng chuyên trách bảo vệ ANQG;
147
xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc gắn với công tác
nghiệp vụ của cơ quan chuyên trách bảo vệ ANQG; xây dựng, phát triển hệ
thống thông tin liên lạc hiện đại đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội;
hiện đại hoá hệ thống thông tin liên lạc của lực lƣợng chuyên trách bảo vệ
ANQG để đáp ứng yêu cầu ANQG trong mọi tình huống; bảo đảm ngân sách,
cơ sở vật chất cho việc xây dựng, củng cố, tăng cƣờng tiềm lực ANQG và bảo
vệ ANQG.
Ƣu tiên xây dựng, hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG trên
những lĩnh vực an ninh tuy đã có chính sách pháp luật nhƣng còn thiếu nhƣ an
ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh văn hoá – tƣ tƣởng, an ninh biên giới,
an ninh thông tin, an ninh dân tộc, tôn giáo, hợp tác quốc tế về ANQG; hoặc
những lĩnh vực “an ninh phi truyền thống” mới xuất hiện do sự tác động
mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, do sự thay đổi hết sức nhanh
chóng, phức tạp, khó lƣờng của bối cảnh, cục diện quốc tế, khu vực nhƣ chủ
nghĩa khủng bố, an ninh kinh tế và tài chính – tiền tệ, an ninh năng lƣợng, an
ninh nguồn nƣớc, an ninh lƣơng thực, an ninh khí hậu, an ninh sức khoẻ, tệ
nạn buôn ngƣời, ma tuý, an ninh kỹ thuật số... Đây là những lĩnh vực mới, cần
bổ sung, xây dựng các chính sách pháp luật để quản lý cũng nhƣ chế tài để xử
lý vi phạm.
4.2.4. Khắc phục những điểm bất hợp lý trong các quy định của hệ
thống chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia
Đây là giải pháp cấp thiết nhằm khắc phục những thiếu sót trong các
chính sách pháp luật hiện hành trên lĩnh vực bảo vệ ANQG nhƣ kết quả
nghiên cứu tại Chƣơng 2 đã chỉ ra. Trong giai đoạn hiện nay, hệ thống chính
sách pháp luật về bảo vệ ANQG còn đang trong quá trình hoàn thiện để phục
vụ đƣờng lối đổi mới, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nƣớc. Vì vậy, bên cạnh những mặt tích cực, hệ thống chính sách pháp luật về
bảo vệ ANQG vẫn bộc lộ những điểm bất cập; cũng là kẽ hở mà các đối
148
tƣợng phạm tội lợi dụng để hoạt động gây phƣơng hại cho ANQG.
Vì vậy, ƣu tiên trƣớc hết chúng ta cần khắc phục những điểm bất hợp lý
này, đồng thời tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ,
hoàn chỉnh, phù hợp, tạo hành lang pháp lý an toàn cho các hoạt động quản lý
nhà nƣớc để chúng thực sự là công cụ hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống
tội phạm nói chung, các tội xâm phạm ANQG nói riêng.
Để đạt đƣợc mục tiêu này, thời gian tới phải khẩn trƣơng thể chế hóa các
chủ trƣơng của Đảng, chính sách của Nhà nƣớc về xây dựng nền quốc phòng
toàn dân và ANND thành những văn bản pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ
ANQG, đúng nhƣ Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng đã chỉ ra: “Hoàn thiện hệ thống luật pháp về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc về quốc phòng và an ninh trên phạm vi cả nƣớc
và từng địa phƣơng, cơ sở, đƣa nhiệm vụ đó vào chƣơng trình chính khóa đào
tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức. Thể chế hóa các chủ trƣơng, chính sách của
Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân” [16, tr.67].
Một thực tế là, ở nƣớc ta mặc dù đã có Luật An ninh quốc gia nhƣng hệ thống
văn bản pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ ANQG vẫn chƣa thực sự hoàn
chỉnh. Do vậy, ở bình diện này, trƣớc hết cần khắc phục những điểm bất hợp
lý và bổ sung các nội dung còn thiếu trong các quy định của hệ thống chính
sách pháp luật bảo vệ ANQG, cụ thể là:
- Khắc phục sự thiếu hụt, sự chồng chéo giữa một số điều luật quy định
về các tội xâm phạm ANQG trong Chƣơng XI theo hƣớng:
+ Về Tội phản bội Tổ quốc, mở rộng phạm vi cấu thành tội phạm Tội
phản bội Tổ quốc theo hƣớng: Bất kỳ hành vi nào của công dân Việt Nam có
sự liên hệ với nƣớc ngoài nhằm gây phƣơng hại cho nền an ninh quốc gia đều
bị xử lý về Tội phản bội Tổ quốc. Theo đó, hành vi khách quan của Tội phản
bội Tổ quốc bao gồm hành vi gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại theo
sự chỉ đạo của nƣớc ngoài; hoạt động thám báo, chỉ điểm, chứa chấp, dẫn
149
đƣờng hoặc thực hiện hành vi khác giúp ngƣời nƣớc ngoài hoạt động tình
báo, phá hoại, cung cấp hoặc thu thập nhằm cung cấp bí mật Nhà nƣớc cho
nƣớc ngoài, thu thập, cung cấp tin tức, tài liệu khác nhằm mục đích để nƣớc
ngoài sử dụng chống nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Do đó, chủ
thể của Tội gián điệp chỉ có thể là ngƣời nƣớc ngoài với các hành vi đặc trƣng
của Tội gián điệp là: điều tra, thu thập tin tức tình báo chống lại nƣớc Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thiếu hụt trong kiểm soát hành vi này dẫn
đến hậu quả không thực hiện tốt mục tiêu chính sách bảo vệ ANQG.
+ Về Tội phá hoại chính sách đoàn kết (Điều 87 BLHS): nên xoá Tội này,
bởi vì tội này chỉ là một trong những hình thức biểu hiện của Tội tuyên truyền
chống nhà nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 88 BLHS).
+ Đổi tên Điều 79 BLHS năm 1999 thành “Tội thành lập hoặc tham gia
tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” để tên điều luật phù hợp với nội
dung của điều luật, do điều luật này quy định hai hành vi khách quan của tội
phạm là hoạt động thành lập tổ chức và hoạt động tham gia tổ chức nhằm lật
đổ chính quyền nhân dân.
- Cần thiết phải ban hành Luật Dân tộc, nhằm thể chế hóa một cách đầy
đủ, toàn diện, kịp thời đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và các quy định của
Hiến pháp về công tác dân tộc, chính sách dân tộc; tạo cơ sở pháp lý để đồng
bào các dân tộc thiểu số thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Đồng
thời, sẽ tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực để phát triển,
thông qua việc tăng cƣờng sự tham gia của ngƣời dân tộc thiểu số trong hoạch
định và thực hiện chính sách phát triển nói chung và cho ngƣời dân tộc thiểu
số nói riêng.
- Luật Tín ngƣỡng, tôn giáo phải thể hiện tinh thần cởi mở, thông thoáng
của Nhà nƣớc trong cách ứng xử với các tôn giáo. Đó là minh chứng sống
động, thuyết phục, phản bác các quan điểm sai trái vu cáo Nhà nƣớc ta “o ép”
hoạt động tín ngƣỡng, tôn giáo, cho rằng ra luật để “siết” quyền tự do tôn
150
giáo. Cần sớm ban hành Nghị định của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực tín ngƣỡng, tôn giáo. Đây sẽ là cơ sở pháp lý quan
trọng để bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của công dân, tránh những
thiếu sót, chƣa hợp lý khiến các thế lực thù địch có thể lợi dụng kích động các
tín đồ tôn giáo thực hiện các hành vi xâm phạm ANQG.
4.2.5. Nâng cao hiệu lực thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an
ninh quốc gia của các cơ quan nhà nước
Xuất phát từ những hạn chế còn tồn tại trên một số lĩnh vực trong quá
trình tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật để phòng ngừa và xử lý
hoạt động xâm phạm ANQG, cần thiết phải nâng cao hiệu lực thực hiện chính
sách pháp luật bảo vệ ANQG của các cơ quan nhà nƣớc.
Nâng cao hiệu lực thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG của các
cơ quan nhà nƣớc cần thực hiện đồng bộ trên bốn nội dung: cải cách thể chế;
cải cách tổ chức bộ máy hành chính; cải cách đội ngũ cán bộ, công chức; cải
cách tài chính công. Trong đó tập trung rà soát, hệ thống hoá và pháp điển hoá
các quy định về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng, Bộ Ngoại giao và các bộ, ngành có liên quan công tác quản lý nhà
nƣớc về bảo vệ ANQG để xây dựng cơ sở pháp lý cần thiết cho việc ổn định
tổ chức và hoạt động bảo vệ ANQG đƣợc thông suốt, hiệu lực, hiệu quả cao
của từng cơ quan hữu quan cũng của cả bộ máy nhà nƣớc ta.
Để thực hiện đƣợc giải pháp này, cần tiến hành một số biện pháp sau đây:
Một là, phải xác định rõ, cụ thể trách nhiệm của ngƣời đứng đầu cơ quan,
tổ chức đối với việc thực hiện chính sách bảo vệ ANQG: ở Trung ƣơng là
trách nhiệm của Bộ Chính trị, Ban Bí thƣ và Thủ tƣớng Chính phủ trong việc
đôn đốc, kiểm tra, giám sát. Ở địa phƣơng, trách nhiệm chủ yếu thuộc thƣờng
vụ cấp ủy và thƣờng trực ủy ban, trong đó Bí thƣ tỉnh ủy và Chủ tịch UBND
tỉnh có vai trò quyết định trong việc hoàn thiện và tổ chức thực hiện chính
sách pháp luật bảo vệ ANQG. Bí thƣ tỉnh ủy và Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì
151
việc phối hợp các lực lƣợng trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANQG.
Hai là, các cơ quan chuyên trách bảo vệ ANQG thực hiện đúng thẩm
quyền trong quá trình thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia.
Các cơ quan chuyên trách bảo vệ ANQG gồm: cơ quan chỉ đạo, chỉ huy và
các đơn vị an ninh, tình báo, cảnh vệ Công an nhân dân; cơ quan chỉ đạo, chỉ
huy và các đơn vị bảo vệ an ninh quân đội, tình báo Quân đội nhân dân; Bộ
đội biên phòng, cảnh sát biển là cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia
ở khu vực biên giới trên đất liền và khu vực biên giới trên biển [34].
Các cơ quan này có thẩm quyền: (1)Tổ chức thu thập thông tin, phân
tích, đánh giá, dự báo tình hình và đề xuất các chủ trƣơng, giải pháp, phƣơng
án bảo vệ ANQG; (2) Hƣớng dẫn, kiểm tra các cơ quan, tổ chức và công dân
thực hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm bảo vệ ANQG, bảo vệ bí mật nhà
nƣớc, xây dựng cơ quan, đơn vị an toàn, xây dựng phong trào bảo vệ ANTQ;
(3) Tổ chức, chỉ đạo công tác phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh với
các hoạt động xâm phạm ANQG; (4) Nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công
nghệ vào công tác bảo vệ ANQG; (5) Thực hiện hợp tác với các nƣớc, các tổ
chức quốc tế theo điều ƣớc quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ký kết hoặc gia nhập trong phòng, chống hoạt động xâm phạm ANQG [34].
Bên cạnh đó, cần hoàn thiện cơ sở pháp lý về tiêu chuẩn chức danh cán
bộ, chiến sĩ trong các cơ quan chuyên trách bảo vệ ANQG, các cơ quan khác
đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động bảo vệ ANQG theo hƣớng
đảm bảo yêu cầu chuẩn về kiến thức pháp luật và kỹ năng áp dụng pháp luật
chuyên ngành trong hoạt động công vụ, đáp ứng các tiêu chuẩn đạo đức nghề
nghiệp. Xây dựng và thực hiện nghiêm cơ chế trách nhiệm của các cơ quan
nhà nƣớc có liên quan công tác bảo vệ ANQG, đặc biệt là trách nhiệm của thủ
trƣởng cơ quan, tổ chức trong quá trình thực hiện pháp luật trong lĩnh vực
này. Bảo đảm hiệu lực thực tế của các kết luận, đề xuất của cơ quan nhà nƣớc
hữu quan đối với các hành vi trái pháp luật về bảo vệ ANQG. Xử lý nghiêm
minh đối với mọi cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này ở
152
bất cứ cƣơng vị lãnh đạo nào của Đảng, Nhà nƣớc hay tổ chức khác.
Ba là, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong thực hiện
chính sách pháp luật bảo vệ ANQG: (1) Thực hiện các biện pháp bảo vệ an
ninh chính trị nội bộ, huy động sức mạnh của cơ quan, tổ chức để thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia; đƣa nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia vào
chƣơng trình, kế hoạch và các hoạt động chuyên môn của cơ quan, tổ chức.
(2) Giáo dục, động viên mọi thành viên của cơ quan, tổ chức mình và nhân
dân tham gia bảo vệ an ninh quốc gia. (3) Phát hiện, cung cấp kịp thời thông
tin, tài liệu liên quan đến hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia cho cơ quan
chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia hoặc chính quyền nơi gần nhất. (4)
Thực hiện yêu cầu của cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia theo quy
định của pháp luật [34].
4.2.6. Nâng cao chất lượng quan hệ phối hợp giữa các lực lượng bảo
vệ an ninh quốc gia
Trong thực tiễn, việc phối hợp giữa các lực lƣợng trong thực hiện chính
sách bảo vệ ANQG còn bộc lộ nhiều khó khăn, vƣớng mắc. Do đó, cần nâng
cao chất lƣợng quan hệ phối hợp giữa các lực lƣợng bảo vệ ANQG.
Sự phối hợp giữa các lực lƣợng bảo vệ an ninh quốc gia diễn ra rất đa
dạng và phong phú. Tuy nhiên, để nâng cao chất lƣợng quan hệ phối hợp cần làm tốt các nội dung sau đây:(1) Xây dựng các văn bản liên tịch làm cơ sở cho
các hoạt động phối hợp; chủ yếu là các nghị quyết, thông tƣ, quy chế phối hợp
do lãnh đạo các đơn vị, các ngành có liên quan cùng ký và triển khai thực
hiện. Đây là hình thức phối hợp quan trọng nhất, vì nó đƣợc nghiên cứu, tính
toán kỹ lƣỡng, dựa trên các quy định của pháp luật có liên quan và quá trình
tổng kết thực tiễn hoạt động, đƣợc thể hiện khá toàn diện, đầy đủ, chặt chẽ các nội dung, cơ chế, hình thức, biện pháp, lực lƣợng... phối hợp. (2)Phối hợp trực tiếp giữa các cơ quan, đơn vị chức năng của từng ngành: Tổ chức các cuộc
giao ban lãnh đạo các đơn vị, các ngành có liên quan; giao ban giữa các cơ
153
quan thƣờng trực của các ngành; phối hợp trong khi giải quyết từng vụ, việc
cụ thể, hợp đồng chiến đấu trong các tình huống xảy ra trong thực tiễn đấu
tranh bảo vệ an ninh quốc gia; tiến hành trao đổi kinh nghiệm, thông tin có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của phía đối tác; hỗ trợ phƣơng tiện, lực
lƣợng, biện pháp để tiến hành các hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia; tổ chức
đào tạo, bồi dƣỡng, tập huấn về pháp luật, nghiệp vụ giữa các lực lƣợng (chủ
yếu là giữa Công an và Quân đội); xây dựng và tổ chức thực hiện, diễn tập các
kế hoạch, phƣơng án chiến đấu, giải quyết các tình huống phức tạp xảy ra, đe
doạ đến an ninh quốc gia (nhƣ bạo loạn, biểu tình trái phép, xâm nhập, khủng bố...); tổ chức các đoàn công tác liên ngành, cùng tiến hành thanh tra, kiểm tra
những lĩnh vực công tác liên quan đến chức năng của các bên; tổ chức các hội
nghị tổng kết kinh nghiệm thực tiễn về một lĩnh vực công tác cụ thể mà các bên cùng quan tâm.
Quan hệ phối hợp giữa các lực lƣợng bảo vệ ANQG chủ yếu thể hiện qua
mối quan hệ giữa hai lực lƣợng nòng cốt bảo vệ an ninh quốc gia, đó là Công
an nhân dân và Quân đội nhân dân. Đây là mối quan hệ rất quan trọng và cơ
bản, nhằm thống nhất hành động, huy động sức mạnh tổng hợp của các lực
lƣợng để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; bảo đảm kết hợp chặt
chẽ giữa an ninh với quốc phòng, giữa nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội với nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội.
Ngoài ra, trong từng lực lƣợng (Công an nhân dân, Quân đội nhân dân)
lại cần có mối quan hệ phối hợp, hỗ trợ để giải quyết yêu cầu, nhiệm vụ bảo
đảm an ninh quốc gia. Do quy định bảo vệ bí mật Nhà nƣớc đối với nội dung
154
này, chúng tôi xin đƣợc đề cập đến ở một phạm vi khác.
Tiểu kết Chương 4
Từ kết quả nghiên cứu tại Chƣơng 1, Chƣơng 2, Chƣơng 3 của Luận án
Tiến sĩ, chúng tôi đề xuất một số nội dung định hƣớng hoàn thiện chính sách
pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay nhƣ sau: Một là, trong
hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG phải quán triệt sâu sắc định
hƣớng mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra: "Củng cố
quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã
hội là nhiệm vụ trọng yếu, thƣờng xuyên của Đảng, Nhà nƣớc, của cả hệ
thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân
là nòng cốt" [16, tr.148]. Hai là, chủ động rà soát, kiến nghị, đề xuất hoàn
thiện hệ thống chính sách pháp luật bảo vệ ANQG, đặc biệt chú trọng khắc
phục những thiếu hụt, điểm bất hợp lý trong các quy định của hệ thống chính
sách pháp luật bảo vệ ANQG hiện hành; bổ sung chính sách pháp luật bảo vệ
ANQG trên những lĩnh vực “an ninh phi truyền thống”, các lĩnh vực mới do
tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mà còn thiếu quy
phạm pháp luật điều chỉnh. Ba là, tổ chức Công an nhân dân phải là lực
lƣợng nòng cốt có đủ năng lực, phối hợp với các bộ, ban, ngành, đoàn thể
trong tham mƣu, đề xuất hoàn thiện và thực hiện chính sách pháp luật bảo
vệ ANQG, bảo đảm vững chắc ANQG, tạo sự chuyển biến rõ nét về trật tự,
an toàn xã hội, bảo đảm an toàn cho cuộc sống của Nhân dân, góp phần
tích cực bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ, giữ vững ổn định chính trị,
môi trƣờng hòa bình, an ninh, an toàn để đất nƣớc phát triển nhanh và bền
vững. Bốn là, nâng cao chất lƣợng công tác dự báo, phân tích tình hình; phát
hiện từ sớm, từ xa các mối đe dọa đến lợi ích, an ninh quốc gia để chủ động
tham mƣu, đề xuất hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ ANQG; khắc phục
triệt để tình trạng có vi phạm mà không có chế tài ngăn chặn, xử lý; từ đó triển
khai các biện pháp bảo vệ vững chắc ANQG theo tinh thần "giữ nƣớc từ xa",
155
"giữ nƣớc từ khi nƣớc chƣa nguy".
Đồng thời, Chƣơng 4 đã đề xuất các giải pháp cơ bản hoàn thiện chính sách
pháp luật bảo vệ ANQG ở Việt Nam hiện nay: Đẩy mạnh công tác thông tin,
tuyên truyền, phổ biến về vai trò của công tác tham mƣu, đề xuất xây dựng
chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia; đẩy mạnh công tác dân vận, tạo
điều kiện để nhân dân thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi trong thực
hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia; xác định các vấn đề trọng
điểm về an ninh quốc gia cần ƣu tiên đầu tƣ để hoàn thiện các chính sách pháp
luật liên quan; khắc phục những điểm bất hợp lý trong các quy định của hệ
thống chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia; nâng cao hiệu lực thực
hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia của các cơ quan nhà nƣớc
đảm bảo sự tuân thủ chính sách pháp luật bảo vệ ANQG; nâng cao chất lƣợng
156
quan hệ phối hợp giữa các lực lƣợng bảo vệ ANQG.
KẾT LUẬN
Chính sách pháp luật bảo vệ ANQG có vị trí quan trọng trong khoa học
chính sách công ở nƣớc ta hiện nay, thể hiện thái độ của Đảng, Nhà nƣớc đối
với an ninh quốc gia, một trong những vấn đề quan trọng nhất của đời sống xã
hội. Kết quả nghiên cứu ở Chƣơng 3 cho thấy, thực hiện chính sách pháp luật
bảo vệ ANQG ở nƣớc ta hiện nay còn nhiều bất cập nhƣ: Nhận thức về công
tác tham mƣu đề xuất, xây dựng chính sách pháp luật bảo vệ ANQG còn chƣa
đúng; công tác tham mƣu xây dựng, ban hành, hoàn thiện chính sách pháp luật
bảo vệ ANQG còn chậm, chƣa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; còn nhiều thiếu
sót trong các chính sách pháp luật bảo vệ ANQG, kéo theo nhiều khó khăn,
bất cập trong quá trình thực hiện chính sách; quá trình tổ chức thực hiện các
quy định của pháp luật để phòng ngừa và xử lý hoạt động xâm phạm ANQG
trên một số lĩnh vực còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót dẫn tới hiệu lực, hiệu
quả chƣa cao; việc phối hợp giữa các lực lƣợng trong thực hiện chính sách bảo
vệ ANQG còn bộc lộ nhiều khó kha n, vƣớng mắc.
Sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa;
đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế đã dẫn đến yêu cầu “cởi mở”, “thông
thoáng” trong các quy định của Nhà nƣớc, sự phức tạp ngày càng tăng của các
mối quan hệ trong hệ thống xã hội, và quan hệ quốc tế, đồng nghĩa với việc
gia tăng những yếu tố đe dọa ANQG, trật tự, an toàn xã hội tƣơng ứng; là một
trong những nguyên nhân khách quan trực tiếp dẫn đến sự phức tạp của tình
hình an ninh, trật tự thời gian qua. Do đó, chính sách pháp luật bảo vệ ANQG
cần đƣợc hoạch định, xây dựng tiếp tục mục tiêu giữ ổn định và phát triển bền
vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn mọi
loại hình lãnh thổ của Tổ quốc, đồng thời củng cố theo hƣớng không cản trở
mà phải thống nhất, tạo điều kiện cho quá trình đổi mới, phát triển, hội nhập
157
quốc tế. Đồng thời, cần phải đƣợc xây dựng, hoàn thiện hƣớng tới mục tiêu
loại bỏ những tác động tiêu cực từ mặt trái của sự “cởi mở”, “thông thoáng”
trong chuyển đổi nền kinh tế, mở cửa, hội nhập quốc tế.
Nghiên cứu sinh đã hoàn thành công trình nghiên cứu với đề tài luận án
tiến sĩ ngành chính sách công “Thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh
quốc gia ở Việt Nam hiện nay”. Luận án đã hoàn thành mục tiêu nghiên cứu,
giải quyết thành công các nhiệm vụ nghiên cứu:
Một là, tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc có
liên quan đến chính sách pháp luật bảo vệ ANQG. Tác giả không trình bày
các công trình bằng cách liệt kê mà tiếp cận theo những chuẩn tắc của khoa
học chính sách công từ các nội hàm cơ bản của chính sách công nhƣ vấn đề
chính sách, mục tiêu chính sách, giải pháp và công cụ chính sách.
Hai là, hệ thống hóa những vấn đề lý luận về chính sách pháp luật bảo vệ ANQG để thực hiện nghiên cứu nhƣ: Chính sách pháp luật bảo vệ ANQG,
chính sách pháp luật bảo vệ ANQG ở Việt Nam; thực hiện chính sách pháp
luật bảo vệ ANQG; các lĩnh vực chính sách pháp luật bảo vệ ANQG.
Ba là, nghiên cứu đánh giá thực trạng thực hiện chính sách pháp luật
bảo vệ ANQG ở Việt Nam hiện nay qua nghiên cứu các lĩnh vực cụ thể của
an ninh quốc gia nhƣ: an ninh nội bộ, an ninh xã hội, an ninh thông tin, hợp
tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia.
Bốn là, trên cơ sở khoa học những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện
chính sách pháp luật bảo vệ ANQG ở Việt Nam thời gian qua, luận án đã làm rõ
phƣơng hƣớng và đề xuất giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách pháp luật bảo vệ ANQG ở Việt Nam hiện nay.
Trong phạm vi luận án, tác giả đã thực hiện đƣợc những nhiệm vụ
nghiên cứu đã đề ra, tuy nhiên các giải pháp đề xuất trong luận án mới chỉ
dừng lại ở các biện pháp chung mà chƣa làm rõ đƣợc giải pháp chuyên biệt
thành đề xuất cụ thể cho các cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia.
Đây chính là những định hƣớng về nội dung cần tiếp tục thực hiện nghiên cứu
158
và hoàn thiện sau luận án./.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Lý Thị Ngọc (2019), Một số vấn đề lý luận về chính sách pháp luật
bảo vệ an ninh quốc gia, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội số 06.
2. Lý Thị Ngọc (2019), iải pháp hoàn thiện chính sách pháp luật bảo
159
vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Giáo dục lý luận số 291.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Lê Ngọc An. 2007. Điều tra vụ án hoạt động nhằm lật đổ chính quyền
nhân dân trong tình hình hiện nay ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Học viện
An ninh nhân dân.
2. Nguyễn Ngọc Anh. 2001. Vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kì mới, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ
Công an.
3. Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII. 1992.
Nghị quyết số 03-NQ/HNTW Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá VII về nhiệm vụ quốc phòng và bảo vệ an ninh quốc gia,
chống diễn biến hòa bình của địch, ban hành ngày 29/6/1992, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị Trung ƣơng Đảng khoá VI. 1987. Nghị quyết 07/NQ-TW về
nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong tình
hình mới, ban hành ngày 30/11/1987, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị Khoá VIII. 1998. Nghị quyết số 08/NQ-TW về Chiến lược an
ninh quốc gia trong tình hình mới, ban hành ngày 17/12/1998, Hà Nội.
6. Bộ Chính trị. 2010. Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 về ta ng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
7. Bộ Chính trị. 2010. Kết luận số 86-KL/T về tiếp tục thực hiện Chỉ thị
05-CT/TW của Bộ Chính trị “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác đảm bảo an ninh quốc gia trong tình hình mới”.
8. Bộ Công an. 2005. Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
9. Bộ Công an - Ban chỉ đạo tập huấn Luật ANQG. 2006. Tập huấn chuyên
sâu Luật An ninh quốc gia, Hà Nội.
10. Bộ Công an. 2011. Kỷ yếu hội thảo khoa học về công tác an ninh điều tra
160
phục vụ bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới.
11. Bộ Công an. 2012. Báo cáo tổng kết 7 na m thực hiện Pháp lệnh Tổ chức
điều tra hình sự năm 2004 của lực lượng An ninh và Cơ quan điều tra
toàn quốc.
12. Bộ Công an. 2019. Báo cáo 6 tháng đầu na m 2019 về hành vi xâm phạm an
ninh quốc gia trên lĩnh vực viễn thông, ban hành ngày 12/6/2019, Hà Nội
13. Bộ Công an. 2019. Báo cáo thống kê số liệu vi phạm pháp luật 6 tháng
đầu năm 2019, ban hành ngày 20/6/2019, Hà Nội.
14. Bộ Công an. 2019. Báo cáo tình hình công tác An ninh điều tra từ na m
2015 đến na m 2019.
15. Bộ Thông tin và Truyền thông. 2019. Báo cáo 6 tháng đầu na m 2019, ban
hành ngày 15/6/2019, Hà Nội.
16. Lê Va n Cảm (chủ biên). 2008. Bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh quốc tế
và các quyền con người bằng pháp luật hình sự trong giai đoạn xây dựng
Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
17. Lê Văn Cảm. 2008. Chính sách phòng ngừa tội phạm trong giai đoạn xây
dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp, Tạp chí Toà án nhân dân.
18. Chính phủ. 2007. Nghị định số 74/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật An ninh quốc gia.
19. Chính phủ. 2005. Nghị định số 151/2005/NĐ-CP quy định về quyền hạn
trách nhiệm của cơ quan và cán bộ chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia.
20. Lê Văn Cƣơng. 2000. Quan điểm và giải pháp bảo vệ an ninh quốc gia trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội, Bộ
Công an.
21. Lê Văn Cƣơng. 2007. Quan điểm và giải pháp bảo vệ an ninh quốc gia
trong điều kiện Việt Nam là thành viên của WTO, Đề tài khoa học cấp Bộ,
Bộ Công an.
22. Phạm Văn Dần. 2004. Lãnh đạo của Đảng trong cuộc bảo vệ an ninh quốc gia
161
và trật tự an toàn xã hội (1954-1975), Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Công an.
23. Nguyễn Đăng Dung, Bùi Xuân Đức. 1994. Luật Hiến pháp của các nước
tư bản, Trƣờng Đại học Tổng hợp Hà Nội, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam. 1962. Nghị quyết số 39 của Bộ Chính trị ngày
20/1/1962 về việc ta ng c ờng đấu tranh chống các bọn phản cách mạng
để phục vụ tốt công cu c xây dựng CN H ở miền Bắc và đấu tranh nhằm
thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam. 1996. Văn kiện Đại hội lần thứ VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2001. Văn kiện Đại hội lần thứ IX, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2006. Văn kiện Đại hội lần thứ X, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2011. Văn kiện Đại hội lần thứ XI, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2016. Văn kiện Đại hội lần thứ XII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Bạch Thành Định. 2001. Các tội xâm phạm an ninh quốc gia trong Luật
Hình sự Việt Nam”, Luận án Tiến sỹ, Học viện An ninh nhân dân.
31. Phạm Hồng Hải (chủ biên). 2002. Tội phạm học Việt Nam – một số vấn đề
lý luận và thực tiễn, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
32. Nguyễn Hữu Hải. 2013. Chính sách công - Một số vấn đề cơ bản, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đỗ Phú Hải. 2014. Những vấn đề cơ bản về chính sách công, Học viện Khoa
học xã hội, Hà Nội.
34. Đỗ Phú Hải. 2017. Tổng quan về chính sách công, Nxb Chính trị Quốc
gia – Sự thật, Hà Nội.
35. Đỗ Phú Hải. 2017. Thể chế chính sách công tại Việt Nam, Bài viết Hội
162
thảo, Học viện Khoa học xã hội.
36. Thu Hằng. 2019. “Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội”. thong-phap-luat-dap-ung-yeu-cau-phat-trien-kinh-te--xa-hoi-538167.html. (10/12/2019). 37. Nguyễn Trần Hiếu. 2007. Biện pháp kinh tế trong bảo vệ an ninh quốc gia của lực lượng An ninh nhân dân, những lý luận và thực tiễn, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Công an. 38. Nguyễn Ngọc Hoà. 2007. Phòng ngừa tội phạm học trong tội phạm học, Tạp chí Luật học (Số 6), Hà Nội. 39. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 2015. Giáo trình Nhà nƣớc và pháp luật. 40. Nguyễn Thị Lan Hồng. 2012. Áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án xâm phạm an ninh quốc gia, Luận án Tiến sỹ, Học viện An ninh nhân dân. 41. Nguyễn Phùng Hồng (Chủ biên). 2001. Phòng chống tội phạm trong giai đoạn mới, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. 42. Lê Minh Hùng. 2001. Điều tra các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia trong tình hình hiện nay ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ, Học viện An ninh nhân dân. 43. Bùi Quốc Huy. 1997. Hoàn thiện chính sách hình sự đối với các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia ở Vi t Nam hiện nay, Luận án phó tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 44. Nguyễn Văn Hƣởng. 2007. Một số vấn đề về an ninh quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 45. Nguyễn Văn Hƣởng. 2010. Hội nhập quốc tế và những vấn đề đặt ra cho công tác bảo vệ an ninh quốc gia, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 46. Nguyễn Quý Khoát. 2004. Điều tra vụ án gián điệp trong tình hình hiện 163 nay ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Học viện An ninh nhân dân. 47. Vũ Trọng Khƣơng. 2006. Quan hệ phối hợp giữa các chủ thể trong phòng ngừa tội phạm, Tạp chí Kiểm sát (Số 7) 48. Uông Chu Lƣu (chủ biên). 2003. Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam na m 1999 (Tập 2), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 49. Dƣơng Tuyết Miên. 2007. Bàn về tình hình tội phạm, Tòa án nhân dân, (Số 24). 50. Dƣơng Tuyết Miên. 2008. Phòng ngừa tình hình tội phạm, Tạp chí Toà án nhân dân (Số 5). 51. Trần Đình Nhã. 2007. Bổ sung và hoàn thiện một bước cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kỳ mới, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Công an. 52. Nguyễn Anh Phƣơng. 2016. “Một số vấn đề của nghiên cứu chính sách và ứng dụng lập pháp ở Việt Nam”. ach_va_ung_dung_lap_phap_o_Viet_Namall.html >(10/12/2019) 53. Trần Đại Quang. 1996. Tăng cường quản lý nhà nước về an ninh quốc gia ở nước ta hiện nay, Luận án Phó tiến sĩ, Học viện An ninh nhân dân. 54. Phạm Ngọc Quảng. 2005. Một số vấn đề chiến lược của Mỹ có liên quan đến an ninh quốc gia Việt Nam và kiến nghị một số giải pháp của Việt Nam trong bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kì mới, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Công an. 55. Phạm Hồng Quân. 2000. Cộng đồng người Việt Nam ở Mỹ trong chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Công an. 56. Phạm Hồng Quân. 2001. Cộng đồng người Việt Nam ở Úc trong chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Công an. 57. Trần Thế Quân. 2003. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện một bước cơ sở pháp lý về bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kì mới, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Công an. 58. Trần Thế Quân. 2003. ây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ an 164 ninh quốc gia, Luận án Tiến sĩ, Học viện An ninh nhân dân. 59. Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2004. Luật An ninh quốc gia, ban hành ngày 03/12/2004, Hà Nội. 60. Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2005. Luật Công an nhân dân, ban hành ngày 20/11/2018, Hà Nội. 61. Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2013. Hiến pháp 2013, ban hành ngày 28/11/2013, Hà Nội. 62. Nguyễn Thị Phƣơng Thảo. 2015. Đấu tranh phòng, chống tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Học viện Khoa học xã hội. 63. Kiều Đình Thụ. 1995.“Về các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia", Khoa học Công an, (Số 3), Hà Nội. 64. Lê Thế Tiệm. 2002. Thực hiện chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. 65. Phạm Va n Tỉnh. 1993. Tình hình tội phạm – Những tiêu chí phản ánh và quan điểm đánh giá, Kỷ yếu hội thảo khoa học đề tài KX04.14, Bộ Nội vụ, Hà Nội. 66. Nguyễn Xuân Toản. 2007. Những vấn đề lí luận về xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý bảo vệ an ninh quốc gia, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Công an. 67. Vũ Hải Triều. 2005. Quan điểm và giải pháp bảo vệ an ninh quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Công an. 68. Hồ Sỹ Tuệ. 2005. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Công an. 69. Phùng Thế Vắc. 2007. Cấu trúc, nội dung cơ bản của các ngành luật và khoa học pháp lý trực tiếp phục vụ cho công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong thời kì hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Công an. 70. Võ Khánh Vinh. 2015. “Đời sống pháp luật- khách thể của chính sách 165 pháp luật”, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, Số 10/2015, tr.3-16. 71. Võ Khánh Vinh. 2015. “Chính sách pháp luật: khái niệm và các dấu hiệu”, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, Số 11/2015, tr.3-11. 72. Võ Khánh Vinh. 2015. “Các mục tiêu, các ƣu tiên và các nguyên tắc của chính sách pháp luật Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, Số 12/2015, tr 3-17. 73. Võ Khánh Vinh. 2016. “Các phƣơng tiện của chính sách pháp luật”, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, Số 3/2016, tr 3-15; Số 4/2016, tr 9-16. 74. Võ Khánh Vinh. 2016. “Chính sách xây dựng pháp luật - một loại chính sách pháp luật và một hình thức thực hiện chính sách pháp luật”, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, Số 7/2016, tr3-11. 75. Vƣơng Dật Châu. 2004. An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tài liệu nước ngoài 76. Harold Brown. 1993. Thinkinng about National Security, Westview Press. 77. Karl Doinch. 1992. Phân tích quan hệ quốc tế, Nxb Tri thức thế giới, Hà Nội. 78. Michael Howlett and M.Ramesh. 1995. Studying Public Policy: Policy Cycles and Policy Subsystems, Oxford University Press. 79. Muth, Rodney. 1990. Harold Dwight Lasswell: A Biographical Profile, in Harold D. Lasswell: An Annotated Bibliography, ed. Rodney Muth, Mary Finley & Marcia F. Muth, New Haven Press. 80. Peter Deleon. 2006. The historical roots of the field, in The Oxford handbooks of public policy, eds by Michael Moran, Martin Rein & Robert Good, Oxford University Press. 81. Peter Mangold. 1990. National security and International Relation, Routledge, London and NewYork. 82. Raymond Aron. 1996. Peace and War: A Theory of International Relations, Garden City, New York, Doubleday. 166 83. Sabatier, P. 2007. Theories of the Policy process, Westview Press. PHỤ LỤC 1 Bảng thống kê xét xử sơ thẩm hình sự các tội xâm phạm ANQG Năm Số vụ (% so với tổng số các Số bị cáo (% so với tổng số VAHS) bị cáo trong các VAHS) 0,09 2009 0,07 0,08 2010 0,08 0,05 2011 0,04 0,04 2012 0,03 0,02 2013 0,02 0,04 2014 0,04 0,05 2015 0,04 0,06 2016 0,03 0,04 2017 0,02 0,01 2018 0,01 0,05 Trung bình 0,04 167 (Nguồn: Tác giả thống kê dựa vào số liệu xét xử sơ thẩm VAHS của TAND tối cao) PHỤ LỤC 2 Diễn biến của tình hình các tội xâm phạm ANQG về số vụ và số bị cáo Số vụ Số bị cáo Năm 100% 100% 2009 87,5% (giảm 12,5%) 92,6% (giảm 7,4%) 2010 70% (giảm 30%) 57,9% (giảm 42,1%) 2011 50% (giảm 50%) 50,5% (giảm 49,5%) 2012 27,5% (giảm 72,5%) 22,1% (giảm 77,9%) 2013 52,5% (giảm 47,5%) 45,3% (giảm 54,7%) 2014 65% (giảm 35%) 67,4% (giảm 32,6%) 2015 52,5% (giảm 47,5%) 76,8% (giảm 23,2%) 2016 40% (giảm 60%) 58,9% (giảm 41,1%) 2017 20% (giảm 80%) 13,7% (giảm 86,3%) 2018 168 (Nguồn: Tác giả thống kê dựa trên số liệu của TAND tối cao) PHỤ LỤC 3 Hệ thống văn bản liên quan đến hoạch định và thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia I Văn bản liên quan đến hoạch định và thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia 1. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 17 tháng 12 năm 1998 của Bộ Chính trị về“Chiến lƣợc an ninh quốc gia” 2. Nghị quyết Hội nghị Trung ƣơng 8 (khoá IX) ngày 12 tháng 8 năm 2003 về“Chiến lƣợc bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” 3. Nghị quyết số 40-NQ/TW ngày 08 tháng 11 năm 2004 của Bộ Chính trị về“Nâng cao chất lƣợng và hiệu quả công tác Công an trong tình hình mới” 4. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2020 5. Kết luận số 64-KL/TW về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ƣơng đến cơ sở 6. Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 14 tháng 10 năm 2006 của Bộ Chính trị về“Tăng cƣờng công tác lãnh đạo đảm bảo an ninh quốc gia trong tình hình mới” 7. Nghị quyết số 28-NQ/TW (khoá XI) về “Chiến lƣợc bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” Luật Biên giới quốc gia năm 2003 8. Luật An ninh quốc gia năm 2004 9. 10. Luật Công an nhân dân năm 2005 (sửa đổi năm 2014) 169 11. Luật Tƣơng trợ tƣ pháp năm 2007 12. Luật Phòng chống mua, bán ngƣời năm 2011 13. Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh năm 2013 14. Luật Phòng, chống khủng bố năm 2013 15. Luật Phòng, chống thiên tai năm 2013 16. Luật Xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, cƣ trú của ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam năm 2014 17. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) 18. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 19. Luật Điều ƣớc quốc tế 2016 20. Luật Bảo vệ bí mật nhà nƣớc năm 2018 21. Luật An ninh mạng năm 2018 22. Pháp lệnh Tình báo năm 1996 23. Pháp lệnh Bảo vệ bí mật Nhà nƣớc năm 2000 24. Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 25. Pháp lệnh Cảnh vệ năm 2005 26. Pháp lệnh Bảo vệ công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia năm 2007 27. Pháp lệnh An ninh nhân dân năm 1987 (sửa đổi năm 1991) 28. Pháp lệnh Cảnh sát nhân dân năm 1989 29. Pháp lệnh Cảnh sát môi trƣờng năm 2014 30. Pháp lệnh Lực lƣợng Cảnh sát biển Việt Nam năm 2008 31. Pháp lệnh Thi hành án phạt tù năm 1993 (sửa đổi năm 2007) 32. Pháp lệnh Xuất nhập cảnh năm 2000 33. Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 34. Pháp lệnh Thoả thuận quốc tế năm 2007 35. Nghị định số 140/2002/NĐ-CP ngày 25/6/2004 của Chính phủ quy 170 định chi tiết về bảo vệ an ninh quốc gia 36. Nghị định số 35/2011/NĐ-CP ngày 18/5/2011 của Chính phủ quy định về biện pháp pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia 37. Nghị định số 01/NĐ-CP ngày 06/8/2018 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy lực lƣợng Công an nhân dân II Văn bản pháp luật về bảo vệ an ninh thông tin 1. Nghị định số 126/2008/NĐ-CP, ngày 11/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh bảo vệ công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia 2. Nghị định số 06/2013/NĐ-CP, ngày 09/01/2013 của Chính phủ quy định bảo vệ cơ quan doanh nghiệp 3. Nghị định số 25/2014/NĐ-CP, ngày 07/4/2014 của Chính phủ quy định về phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao 4. Nghị định số 96/2016/NĐ-CP, ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề kinh doanh có điều kiện 5. Nghị định số 101/2016/NĐ-CP, ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định chi tiết về trách nhiệm và các biện pháp ngăn chặn hoạt động sử dụng mạng để khủng bố 6. Nghị định 66/2017/NĐ-CP, ngày 19/5/2017 của Chính phủ quy định điều kiện kinh doanh thiết bị, phần mềm ngụy trang dùng để ghi âm, ghi hình, định vị 7. Chỉ thị số 16/2005/CT-TTg, ngày 11/5/2005 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc tổ chức triển khai Luật An ninh quốc gia 8. Quyết định 182/2006/QĐ-TTG, ngày 09/08/2006 của Thủ tƣớng 171 Chính phủ về danh mục bí mật nhà nƣớc độ Tối mật trong ngành Bƣu chính, Viễn thông và Công nghệ thông tin 9. Quyết định số 42/2009/QĐ-TTg, ngày 09/01/2009 của Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Quy định về kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật có nội dung thuộc bí mật nhà nƣớc 10. Quyết định số 45/2012/QĐ-TTg, ngày 09/01/2012 của Thủ tƣớng Chính phủ về tiêu chí xác định công trình viễn thông quan trọng có liên quan đến an ninh quốc gia 11. Chỉ thị số 15/CT-TTg, ngày 17/6/2014 của Thủ tƣớng Chính phủ về tăng cƣờng công tác bảo đảm an ninh và an toàn thông tin mạng trong tình hình mới 12. Quyết định số 961/QĐ-BCA(A11), ngày 22/8/2006 của Bộ trƣởng Bộ thông tin và truyền thông về danh mục bí mật nhà nƣớc độ Mật trong ngành Bƣu chính, Viễn thông và Công nghệ thông tin III Văn bản pháp luật về phối hợp các cơ quan, đơn vị ngoài ngành Công an trong bảo vệ an ninh thông tin 1. Quyết định 136/QĐ-TTg, ngày 26/10/2015 của Thủ tƣớng Chính phủ về Quy chế phối hợp giữa Bộ thông tin và truyền thông, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng trong hoạt động bảo đảm an toàn, an ninh thông tin trên mạng 2. Thông tƣ liên tịch số 06/2008/TTLT-BCA-BTTTT, ngày 28/11/2008 giữa Bộ Công an – Bộ Thông tin và truyền thông về bảo đảm an toàn cơ sở hạ tầng và an ninh thông tin trong hoạt động bƣu chính, viễn thông và công nghệ thông tin 3. Thông tƣ liên tịch số 06/2008/TTLT-BCA-BQP-BTTTT, ngày 28/11/2008 giữa Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Thông tin và truyền thông về hƣớng dẫn cơ chế xử lý nhiễu có hại giữa các đài 172 vô tuyến phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh và mục đích kinh tế - xã hội 4. Thông tƣ liên tịch số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTTTT- VKSNDTC-TANDTC, ngày 10/9/2012 giữa Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tƣ pháp, Bộ Thông tin và truyền thông, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao hƣớng dẫn áp dụng quy định Bộ luật Hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông 5. Quy chế phối hợp số 01/QCPH-VNPT-TCANII, ngày 14/9/2011 giữa Tổng cục An ninh II với Tập đoàn Bƣu chính Viễn thông Việt Nam 6. Quy chế phối hợp số 01/QCPH-BCA-VPCP, ngày 01/12/2011 giữa Bộ Công an với Văn phòng Chính phủ về tăng cƣờng bảo đảm an toàn, an ninh thông tin của Văn phòng chính phủ 7. Quy chế phối hợp số 01/TTPH-KTNVII-VNPT, ngày 21/02/2012 giữa Cục Kỹ thuật nghiệp vụ II với VNPT 8. Quy chế phối hợp số 01/QCPH-BCA-BGTVT, ngày 06/3/2012 giữa Bộ Công an với Bộ Giao thông vận tải về tăng cƣờng bảo đảm an ninh, an toàn thông tin 9. Quy chế phối hợp số 02/QCPH-BCA-BTC, ngày 21/11/2012 giữa Bộ Công an với Bộ Tài chính về tăng cƣờng bảo đảm an ninh, an toàn thông tin của Bộ Tài chính trên môi trƣờng mạng máy tính 10. Quy chế phối hợp số 01/QCPH-TCANI-TCHQ, ngày 08/01/2013 giữa Tổng cục An ninh I với Tổng cục Hải quan về tăng cƣờng bảo đảm an ninh, an toàn thông tin cho hệ thống hải quan điện tử 11. Quy chế phối hợp số 03/QCPH-BCA-BYT, ngày 26/12/2014 giữa Cục An ninh mạng với Bộ Y tế về phối hợp bảo đảm an ninh, an 173 toàn thông tin trong lĩnh vực y tế 12. Quy chế phối hợp số 01/QCPH-BCA-BNG, ngày 07/9/2015 giữa Bộ Công an với Bộ Ngoại giao về tăng cƣờng bảo đảm an ninh, an toàn thông tin của Bộ ngoại giao 13. Quy chế phối hợp số 01/QCPH-A68-TCTHKVN, ngày 13/6/2017 giữa Cục An ninh mạng với Tổng công ty Hàng không Việt Nam về bảo đảm an ninh, an toàn thông tin 14. Quy chế phối hợp số 02/QCPH-A68-TCTQLB, ngày 27/6/2017 giữa Cục An ninh mạng với Tổng công ty Quản lý bay về bảo đảm an ninh, an toàn thông tin IV Văn bản pháp luật về hợp tác quốc tế trong bảo vệ an ninh thông tin 1. Hiệp định liên chính phủ song phƣơng về hợp tác trong lĩnh vực an ninh thông tin quốc tế giữa Việt Nam và Liên Bang Nga (kí ngày 06/9/2018) 2. Biên bản ghi nhớ về tăng cƣờng hợp tác đấu tranh với tội phạm lừa đảo qua mạng viễn thông giữa Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm công nghệ cao với Cục Bảo vệ an ninh mạng Bộ Công an Trung Quốc (kí ngày 16/4/2015) 3. Biên bản ghi nhớ hợp tác trên lĩnh vực an ninh mạng giữa Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm công nghệ cao với Trung tâm ứng cứu máy tính khẩn cấp, Bộ Công nghệ thông tin và điện tử Ấn Độ (CERT-INDIA) 4. Biên bản ghi nhớ hợp tác trên lĩnh vực an ninh mạng giữa Bộ Công an với Tập đoàn Microsoft 5. Biên bản ghi nhớ về tăng cƣờng hợp tác đấu tranh với tội phạm lừa đảo qua mạng viễn thông với Cục An ninh mạng và phòng, 174 chống tội pham công nghệ cao với Cục Điều tra hình sự Bộ Công an Trung Quốc (kí ngày 25/9/2016) V Văn bản pháp luật do lực lượng An ninh tham gia ý kiến, lồng ghép đưa yêu cầu bảo vệ an ninh thông tin 1. Luật Giao dịch điện tử số 51/2005/QH12, ngày 29/11/2005 của Quốc hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam 2. Luật Công nghệ thông tin số 67/2006/QH11, ngày 09/6/2006 của Quốc hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam 3. Luật số Viễn thông số 41/2009/QH12, ngày 09/6/2009 của Quốc hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam 4. Luật Tần số Vô tuyến điện số 42/2009/QH12, ngày 09/6/2009 của Quốc hội nƣớc Cộng Hòa XHCN Việt Nam 5. Luật An toàn thông tin mạng số 104/2015/QH12, ngày 19/11/2015 của Quốc hội nƣớc Cộng Hòa XHCN Việt Nam 6. Luật Tiếp cận thông tin số 104/2016/QH12, ngày 06/4/2016 của Quốc hội nƣớc Cộng Hòa XHCN Việt Nam 7. Pháp lệnh số 32/2007/PL-UBTVQH, ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội quy định Bảo vệ công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia 8. Nghị định số 26/2007/NĐ-CP, ngày 05/02/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật giao dịch điện tử về chữ kí số và dịch vụ chứng thực chữ kí số 9. Nghị định số 63/2007/NĐ-CP, ngày 10/4/2007 của Chính phủ nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công nghệ thông tin 10. Nghị định số 90/2008/NĐ-CP, ngày 13/8/2008 của Chính phủ về chống thƣ rác 175 11. Nghị định số 97/2008/NĐ-CP, ngày 28/8/2008 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin điện tử trên internet 12. Nghị định số 28/2009/NĐ-CP, ngày 20/3/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin điện tử trên internet 13. Nghị định số 55/2010/NĐ-CP, ngày 24/5/2010 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2004/NĐ-CP ngày 08/7/2004 quy định xử phạt vi phạm hành chính về bƣu chính, viễn thông và tần số vô tuyến điện 14. Nghị định số 25/2011/NĐ-CP, ngày 06/4/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật Viễn thông 15. Nghị định số 106/2011/NĐ-CP, ngày 23/11/2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 26/NĐ-CP ngày 05/02/2007 16. Nghị định số 77/2012/NĐ-CP, ngày 05/10/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 90/NĐ-CP ngày 13/8/2008 về chống thƣ rác 17. Nghị định số 72/2013/NĐ-CP, ngày 15/7/2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng 18. Nghị định số 170/2013/NĐ-CP, ngày 13/11/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 26/2007/NĐ-CP, ngày 05/02/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật giao dịch điện tử về chữ kí số và dịch vụ chứng thực chữ kí số và Nghị định số 106/2011/NĐ-CP, ngày 23/11/2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 26/NĐ-CP ngày 176 05/02/2007 19. Nghị định số 174/2013/NĐ-CP, ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bƣu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện 20. Nghị định số 58/2016/NĐ-CP, ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định chi tiết về kinh doanh sản phẩm, dịch vụ mật mã dân sự và xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm mật mã dân sự 21. Nghị định số 85/2016/NĐ-CP, ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về đảm bảo an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ 22. Nghị định số 108/2016/NĐ-CP, ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định chi tiết điều kiện kinh doanh sản phẩm, dịch vụ an toàn thông tin mạng 23. Nghị định số 142/2016/NĐ-CP, ngày 20/3/2009 của Chính phủ về ngăn chặn xung đột thông tin trên mạng 24. Nghị định số 49/2017/NĐ-CP, ngày 24/4/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Điều 15 của Nghị định số 25/2011/NĐ-CP, ngày 06/4/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật viễn thông và Điều 30 của Nghị định số 174/2013/NĐ-CP, ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bƣu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và vô tuyến điện 25. Nghị định số 13/2018/NĐ-CP, ngày 23/11/2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Tiếp cận thông tin 26. Nghị định số 53/2018/NĐ-CP, ngày 16/4/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 58/2016/NĐ-CP, ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định chi tiết về kinh doanh sản phẩm, dịch vụ mật mã dân sự và xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm mật mã dân sự 177 27. Nghị định số 130/2018/NĐ-CP, ngày 27/9/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ kí số và dịch vụ chứng thực chữ kí số 28. Quyết định số 245/2005/QĐ-TTg, ngày 16/10/2005 của Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt chiến lƣợc công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và định hƣớng đến năm 2020 29. Quyết định số 257/2006/QĐ-TTg, ngày 09/01/2006 của Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Quy định phân bổ băng tần phục vụ mục đích kinh tế - xã hội, quốc phòng và an ninh 30. Chỉ thị số 30/CT-TTg, ngày 13/12/2007 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc tăng cƣờng bảo vệ tuyến cáp viễn thông ngầm trên biển và đảm bảo an toàn viễn thông quốc tế 31. Chỉ thị số 05/CT-TTg, ngày 21/02/2012 của Thủ tƣớng Chính phủ về nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác bảo vệ bí mật nhà nƣớc trong tình hình mới 32. Quyết định số 45/2012/QĐ-TTg, ngày 23/10/2012 của Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Quy định về tiêu chí xác định công trình viễn thông quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia 33. Chỉ thị số 31/CT-TTg, ngày 24/10/2014 của Thủ tƣớng Chính phủ về đảm bảo an toàn cơ sở hạ tầng viễn thông trong đấu thầu mua sắm thiết bị mạng viễn thông 34. Quyết định số 05/2017/QĐ-TTg, ngày 16/3/2017 của Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Quy định hệ thống phƣơng án ứng cứu khẩn cấp bảo đảm an toàn thông tin mạng quốc gia 35. Quyết định số 632/QĐ-TTg, ngày 10/5/2017 của Thủ tƣớng Chính phủ ban hành danh mục lĩnh vực quan trọng cần ƣu tiên bảo đảm 178 an toàn thông tin mạng và hệ thống thông tin quan trọng quốc gia 36. Chỉ thị số 14/CT-TTg, ngày 25/5/2018 của Thủ tƣớng Chính phủ về nâng cao năng lực phòng chống phần mềm độc hại 37. Quyết định số 09/2006/QĐ-BBCVT, ngày 10/4/2006 của Bộ Bƣu chính, Viễn thông quy định điều kiện kĩ thuật và khai thác đối với thiết bị thu – phát sóng vô tuyến điện đƣợc sử dụng có điều kiện đặt trên phƣơng tiện nghề cá 38. Quyết định số 44/2006/QĐ-BBCVT, ngày 03/11/2006 của Bộ Bƣu chính, Viễn thông quy định chứng nhận và công bố phù hợp tiêu chuẩn đối với sản phẩm thuộc quản lí chuyên ngành của Bộ Bƣu chính, viễn thông 39. Thông tƣ số 03/2012/TT-BTTTT, ngày 20/3/2012 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định về danh mục thiết bị vô tuyến điện đƣợc miễn giấy phép sử dụng tần số vô tuyến điện, điều kiện kĩ thuật và khai thác kèm theo 40. Thông tƣ số 04/2012/TT-BTTTT, ngày 13/4/2012 của Bộ Thông tin và truyền thông quy định về quản lí thuê bao di động trả trƣớc 41. Thông tƣ số 09/2014/TT-BTTTT, ngày 19/8/2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định chi tiết về hoạt động quản lí, cung cấp, sử dụng thông tin trên trang thông tin điện tử và mạng xã hội 42. Thông tƣ số 24/2014/TT-BTTTT, ngày 29/12/2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định chi tiết về hoạt động quản lí, cung cấp và sử dụng dịch vụ trò chơi điện tử trên mạng 43. Thông tƣ số 38/2016/TT-BTTTT, ngày 26/12/2016 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định chi tiết về việc cung cấp thông tin công cộng qua biên giới 44. Thông tƣ số 03/2017/TT-BTTTT, ngày 24/4/2017 của Bộ Thông 179 tin và Truyền thông quy định chi tiết và hƣớng dẫn một số điều của Nghị định số 85/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ 45. Thông tƣ số 20/2017/TT-BTTTT, ngày 12/9/2017 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định hoạt động giám sát an toàn hệ thống thông tin 46. Thông tƣ số 31/2017/TT-BTTTT, ngày 15/11/2017 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định hoạt động giám sát an toàn hệ thống thông tin 47. Thông tƣ số 13/2018/TT-BTTTT, ngày 15/10/2018 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định danh mục sản phẩm an toàn thông tin mạng nhập khẩu theo giấy phép và trình tự, thủ tục, hồ sơ cấp giấy phép nhập khẩu sản phẩm an toàn thông tin mạng 48. Dự thảo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bƣu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và an toàn thông tin mạng (Nghị định thay thế Nghị định 174/2013/NĐ-CP) 49. Dự thảo Thông tƣ sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tƣ số 04/2012/TT-BTTTT, ngày 13/4/2012 của Bộ Thông tin và Truyền 180 thông quy định về quản lí thuê bao di động trả trƣớc PHỤ LỤC 4 Tình hình lĩnh vực viễn thông ở Việt Nam từ năm 2011 đến năm 2018 Stt Nội dung Năm 2018 Năm
2011 Năm
2012 Năm
2013 Năm
2014 Năm
2015 Năm
2016 Năm
2017 01 Số thuê bao điện thoại cố định 9.556.089 6.725.329 - 5.437.741 5.598.017 4.385.427 4.302.552 10.174.84
9 02 Số thuê bao điện thoại di động 125.312.794 127.318.04
5 131.673.72
4 123.735.55
7 136.148.12
4 126.499.49
9 128.996.17
9 120.016.18
1 phát sinh lƣu lƣợng thoại, tin
nhắn và dữ liệu (2G và 3G) 67.316.427 111.303.05
4 115.976.89
8 104.050.38
1 107.417.42
3 94.552.93
4 92.807.76
2 72.265.52
4 03 Số thuê bao điện thoại di
động phát sinh lƣu lƣợng
thoại, tin nhắn (2G) - - - 13.634 13.160 16.487 16.598 - 04 Số thuê bao di động hàng hải
05 Số ngƣời sử dụng internet 64.375.116 - 30.552.41
7 31.304.21
1 33.191.16
6 49.288.22
3 50.231.47
4 55.852.99
1 06 Số ngƣời sử dụng 35,07 35,26 37 54 54,19 66,67 66,73 - Internet/100 dân (%) 181 07 Số thuê bao truy nhập 3.828.388 4.775.368 5.152.576 6.000.527 7.657.619 9.098.288 12.607.832 internet băng rộng cố định 11.269.93
6 261.116 232.749 266.028 348.514 386.751 430.400 550.137 - 08 Số tên miền “.vn” đã đăng kí 548.728 872.755 951.613 962.241 994.161 190.060 197.413 - - 10 12 - 87 104 104 104 09 Số tên miền tiếng Việt đã đăng kí
10 Số doanh nghiệp đƣợc cấp
phép cung cấp dịch vụ cố
định mặt đất - 09 11 - 80 74 73 73 11 Số doanh nghiệp đang cung
cấp dịch vụ cố định mặt đất - - - - 02 02 02 02 12 Số doanh nghiệp đƣợc cấp phép
cung cấp dịch vụ cố định vệ tinh - - - - 01 01 02 02 13 Số doanh nghiệp đang cung
cấp dịch vụ cố định vệ tinh - 06 06 - 05 05 06 06 14 Số doanh nghiệp đƣợc cấp
phép và đang cung cấp dịch
vụ cố định mặt đất - - - - 01 03 03 03 15 Số doanh nghiệp đƣợc cấp
phép và đang cung cấp dịch
vụ cố định vệ tinh - - - - 01 01 01 01 182 16 Số doanh nghiệp đƣợc cấp
phép và đang cung cấp dịch
vụ di động hàng hải 17 Số doanh nghiệp đƣợc cấp - - 01 02 02 02 - - phép cung cấp dịch vụ di
động hàng không - - 0 0 - - - - 18 Số doanh nghiệp đang cung
cấp dịch vụ di động hàng
không 85 56 57 65 71 74 - - 19 Số doanh nghiệp đƣợc cấp
phép cung cấp dịch vụ
Internet - 6.991,84 8.468,81 7.373,99 6.062,23 6.158,08 5.158,08 6.912,45 Tổng doanh thu dịch vụ
viễn thông (triệu USD),
trong đó: 20 - 361,82 394,19 451,92 1.176,78 1.142,52 1.337,59 1.352,17 Doanh thu dịch vụ viễn thông
cố định mặt đất (triệu USD) - 5.417,66 6.472,30 5.091,11 4.882,4 5.013 4.539,34 5.560,33 Doanh thu dịch vụ viễn thông
di động mặt đất (triệu USD) Ghi chú: “-” là không có số liệu thống kê 183 Nguồn: Tổng hợp từ Sách trắng công nghệ thông tin và truyền thông qua các năm PHỤ LỤC 5 Tình hình xâm hại cơ sơ hạ tầng viễn thông từ năm 2011 đến năm 2018 Stt Năm Mất các thiết bị khác Tổng
số vụ Mất cáp
đồng
(m) Mất cáp
quang
(m) Mất
cột treo
cáp
(cái) Mất
ắc
qui
(cái) Mất
tủ
cáp
(cái) Bắt,
xử lý
(đối
tượng)
134 1.906 112 25 16 01 2011 2.062 119.160 32 779 1.595.437 7.774 64 11 27 02 2012 74 923 38.264 36.062 140 102 25 03 2013 858 37.229 40.749 267 44 64 04 2014 57
80 512 35.732 41.544 130 336 15 05 2015 510
350 31.072
26.132 79.934
25.437 386
34 15
16 09
19 06 2016
07 2017 9
12
09 300 27.047 23.076 70 21 17 08 2018 08 trạm phát sóng di động (BTS), 12 thiết bị vô tuyến
2G (CTV2), 45 Card CTV; 02 lần đứt cáp quang biển
quốc tế không rõ nguyên nhân
85m dây nguồn AC; 03 lần đứt cáp quang biển quốc
tế không rõ nguyên nhân
945m dây tiếp đất chống sét, 1.383m dây nguồn AC,
02 máy phát điện
1.130m dây tiếp đất chống sét, 02 máy phát điện
168m dây tiếp đất chống sét, 434m dây điện AC; 02
vụ đứt cáp quang biển AAG không rõ nguyên nhân
03 máy phát điện
459m dây tiếp đất chống sét
785m dây nguồn AC; 01 lần đứt cáp quan biển quốc
tế không rõ nguyên nhân Tổng 6.294 1.910.073 256.482 1.203 570 192 407 184 Nguồn: A03 – Bộ Công an PHỤ LỤC 6 Phiếu điều tra khảo sát về thực trạng chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay (Nghiên cứu đề tài luận án tiến sĩ ngành chính sách công “Chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay) ĐỊA BÀN ĐIỀU TRA Tỉnh, Thành phố…………………………………………………. ………………, ngày ……. tháng……..năm 2019 XÁC NHẬN CỦA Điều tra viên NGƢỜI ĐƢỢC PHỎNG VẤN (ký và ghi rõ họ tên) GIỚI THIỆU Khảo sát này nhằm thu thập ý kiến của cá nhân để nghiên cứu chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia. Ý kiến của ông/bà sẽ đƣợc xử lý cùng với các ý kiến khác, và đƣợc ẩn danh. Thông tin từ khảo sát nhằm giúp xác định thực trạng chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia, qua đó đóng góp vào hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay. I. THÔNG TIN CHUNG 1. Giới tính: Nam Nữ 2. Tuổi 20-30 30-45 185 45-60 > 60 3. Văn bằng chứng chỉ 3a. Xin cho biết chuyên ngành học…………………………………………… 3b. Cấp trình độ Đại học Thạc sĩ Tiến sĩ Khác: 4. Nơi làm việc:……………………………………………………………...... 5. Chức danh :………………………………………………………………… Câu 6. Ông/bà đang công tác trên lĩnh vực liên quan chủ yếu đến chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia nào sau đây: Bảo vệ an ninh chính trị Bảo vệ an ninh kinh tế Bảo vệ an ninh văn hoá – tƣ tƣởng Bảo vệ an ninh biên giới Bảo vệ an ninh mạng Bảo vệ an ninh xuất nhập cảnh Lĩnh vực khác…………………………………… II. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA Câu 7. Theo ông/bà, mục tiêu chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia đã được thể hiện rõ trong pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia chưa? Rất không rõ Không rõ Bình thƣờng Rõ 186 Rất rõ Câu 8. Theo ông/bà, giải pháp chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia đã được thể hiện rõ trong pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia chưa? Rất không rõ Không rõ Bình thƣờng Rõ Rất rõ Câu 9. Theo ông/bà, mục tiêu chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia của Việt Nam được thực hiện ở mức độ nào: Rất kém Kém Bình thƣờng Tốt Rất tốt Câu 10. Chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia của Việt Nam hiện nay đã góp phần bảo vệ và xây dựng đất nước ở mức độ: Rất kém Kém Bình thƣờng Tốt Rất tốt Câu 11. Theo ông/bà việc xây dựng chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia của Việt Nam đã được quan tâm chưa? Chƣa quan tâm Ít quan tâm Bình thƣờng 187 Quan tâm Rất quan tâm Câu 12. Theo ông/bà, chủ thể nào sau đây chưa tham gia trong thực tiễn quá trình hoạch định, xây dựng, thực hiện, đánh giá chính sách bảo vệ an ninh quốc gia của Việt Nam Nhà nƣớc Các tổ chức chính trị - xã hội Đảng Cộng sản Việt Nam Ngƣời dân Doanh nghiệp Báo chí Câu 13. Theo ông/bà, yếu tố ảnh hưởng chính sách bảo vệ an ninh của Việt Nam là gì? (có thể chọn nhiều hơn một phương án) Tình hình thế giới và trong nƣớc Âm mƣu, hoạt động của thế lực thù địch và các loại tội phạm chống cách mạng Việt Nam Các yếu tố thuộc về cơ quan lập chính sách Khác……………………………………………………………………………. Câu 14. Ông/bà hãy đánh giá tính khả thi của các chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia đã được ban hành của Việt Nam ở mức độ nào sau đây: Rất kém Kém Bình thƣờng Tốt Rất tốt Câu 15. Tính hội nhập quốc tế của hệ thống chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia của Việt Nam: 188 Rất thấp Thấp Bình thƣờng Cao Rất cao Câu 16. Đánh giá chung về hiệu quả thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay là gì? Rất không tốt Không tốt Bình thƣờng Tốt Rất tốt Câu 17. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay: Rất không tốt Không tốt Bình thƣờng Tốt Rất tốt Câu 18. Ông /bà hãy đánh giá tình hình oan sai trong thi hành chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia hiện nay: Rất nghiêm trọng Nghiêm trọng Bình thƣờng Ít Không có Câu 19. Ông bà đánh giá tình trạng lỗ lọt bí mật nhà nước trong thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia hiện nay: 189 Rất nghiêm trọng Nghiêm trọng Bình thƣờng Ít Không có Câu 20. Ông/bà có những đề xuất gì để hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay? (có thể chọn nhiều hơn một phương án) Xác định các vấn đề trọng điểm về an ninh quốc gia cần ƣu tiên đầu tƣ để hoàn thiện các chính sách pháp luật liên quan Đổi mới cơ bản quy trình xây dựng chính sách pháp luật nói chung và chính sách pháp luật bảo vệ ANQG nói riêng bảo đảm nâng cao chất lƣợng chính sách pháp luật. Tăng cƣờng vai trò của các cơ quan, tổ chức nghiên cứu chuyên ngành trong hoạt động xây dựng chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia. Xây dựng và vận hành trên thực tế cơ chế đánh giá chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia do Nhà nƣớc ban hành. Nâng cao hiệu lực thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia của các cơ quan nhà nƣớc Bảo đảm nguồn nhân lực cán bộ xây dựng và thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia đƣợc đào tạo đủ về số lƣợng và có chất lƣợng Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia. Bảo đảm ngân sách và cơ sở vật chất cho các hoạt động hoàn thiện và thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia. Khác.................................................................................................................... ............................................................................................................................. 190 CHÂN THÀNH CẢM ƠN SỰ HỢP TÁC CỦA ÔNG/BÀ! PHỤ LỤC 7 BẢNG CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU (Về chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay) 1. Xin cho biết đánh giá của đồng chí về vai trò của chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia đối với mục tiêu giữ ổn định và phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn mọi loại hình lãnh thổ của Tổ quốc. 2. Xin đồng chí cho biết mục tiêu chính sách pháp luật bảo vệ ANQG đã đƣợc thể hiện rõ trong pháp luật bảo vệ ANQG chƣa? 3. Trong quá trình công tác, đồng chí đã tham gia vào chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia nào chƣa? Nếu có thì cụ thể là chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia trên lĩnh vực nào sau đây: Chính sách pháp luật bảo vệ an ninh chính trị? chính sách pháp luật bảo vệ an ninh kinh tế? chính sách pháp luật bảo vệ an ninh văn hoá tƣ tƣởng? chính sách pháp luật bảo vệ an ninh biên giới?... 4. Xin cho biết đánh giá của đồng chí về mức độ hoàn thiện của chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay? Giải pháp nào nhằm hoàn thiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia? 5. Có nhận định là: Chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia của Việt Nam hiện nay chƣa đƣợc hoạch định và xây dựng một cách toàn diện, đồng bộ, lâu dài và ổn định. Xin đồng chí cho biết nguyên nhân và giải pháp nào cho vấn đề này? 6. Xin đồng chí cho biết giải pháp nào để nâng cao tính hội nhập quốc tế của 191 hệ thống chính sách pháp luật bảo vệ ANQG của Việt Nam? 7. Xin cho biết đánh giá của đồng chí về hiệu quả thực hiện chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay? Giải pháp nào nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách pháp luật trên lĩnh vực này? 8. Xin cho biết đánh giá của đồng chí về tác dụng của chính sách pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia đối với việc kiềm chế tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia trên lĩnh vực đồng chí công tác? 9. Theo đồng chí, công cụ pháp luật của chính sách bảo vệ an ninh quốc gia đã đủ quyết liệt trong phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia hay chƣa? Giải pháp nào để nâng cao hiệu quả 192 những công cụ này?