VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐINH VIỆT HÀ
HÂM MỘ THẦN TƯỢNG TRONG ĐỜI SỐNG GIỚI TRẺ VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: Văn hóa học Mã số: 9 22 90 40
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. PHẠM QUỲNH PHƯƠNG
HÀ NỘI - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
- Luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Phạm Quỳnh Phương. Các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu của ai khác.
- Luận án đã được thực hiện một cách nghiêm túc, cầu thị và đảm bảo
các nguyên tắc đạo đức trong việc trích dẫn tài liệu.
Tác giả luận án
Đinh Việt Hà
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ
LUẬN............................................................................................................................ 12
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................ 12 1.1.1. Những nghiên cứu về văn hóa giới trẻ ............................................................... 12
1.1.2. Những nghiên cứu về hâm mộ thần tượng ..............................................................
1.2. Cơ sở lí luận và các khái niệm liên quan ............................................................ 31 1.2.1. Các khái niệm được sử dụng trong luận án ........................................................ 31
1.2.2. Cơ sở lí luận của luận án .................................................................................... 34
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................ 39
CHƯƠNG 2: BỨC TRANH CHUNG VỀ HÂM MỘ THẦN TƯỢNG
Ở VIỆT NAM .............................................................................................................. 40
2.1. Những mẫu hình thần tượng trong lịch sử ........................................................ 40
2.2. Bối cảnh của hiện tượng hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam hiện nay .. 44 2.2.1. Chính sách mở cửa, kinh tế thị trường, quá trình hiện đại hoá và đô thị hoá
ở Việt Nam ..................................................................................................................... 44
2.2.2. Toàn cầu hoá và các dòng chảy văn hoá nước ngoài ......................................... 45
2.2.3. Sự phát triển của truyền thông đại chúng ........................................................... 48
2.3. Sự thịnh hành của các ngôi sao giải trí trong đời sống giới trẻ ....................... 52 2.3.1. Những ngôi sao giải trí nước ngoài .................................................................... 52
2.3.2. Các ngôi sao giải trí trong nước ......................................................................... 55
2.4. Hâm mộ thần tượng qua sự phản ánh của báo chí ........................................... 56
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................ 60
CHƯƠNG 3: NHỮNG THỰC HÀNH HÂM MỘ THẦN TƯỢNG CỦA GIỚI
TRẺ HIỆN NAY .......................................................................................................... 61 3.1. Like, view, share, vote, support: những thực hành hàng ngày ........................ 62 3.1.1.Theo dõi, cổ vũ, bênh vực thần tượng .................................................................. 63 3.1.2. Quảng bá cho thần tượng.................................................................................... 67
3.2. Câu lạc bộ người hâm mộ (Fanclub) .................................................................. 69 3.2.1. Mục đích và bối cảnh thành lập fanclub ............................................................. 70 3.2.2. Hoạt động của các fanclub ................................................................................. 73 3.2.3. Vai trò của các admin (ban quản trị FC) ............................................................ 78
3.3. Các hoạt động tiêu dùng có liên quan đến thần tượng ..................................... 80
3.3.1. Tiêu thụ sản phẩm trực tiếp ................................................................................ 81 3.3.2. Các hình thức tiêu thụ trên không gian mạng ..................................................... 86
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................ 90
CHƯƠNG 4: HÂM MỘ THẦN TƯỢNG: MỘT PHƯƠNG THỨC KIẾN TẠO
BẢN SẮC Ở GIỚI TRẺ .............................................................................................. 91 4.1. Hâm mộ thần tượng trong quá trình định vị căn tính của giới trẻ ................. 91 4.1.1. Nhu cầu định vị căn tính của những người trẻ ................................................... 91
Vai trò của thần tượng trong quá trình định vị căn tính ở giới trẻ ............................... 93
4.2. Những phương thức kiến tạo căn tính của người hâm mộ trẻ ........................ 99 4.2.1. Giải mã thần tượng: sự phản chiếu cá nhân ....................................................... 99
4.2.2. Chia sẻ ý nghĩa biểu trưng: sự kiến tạo căn tính nhóm .................................... 107
Tiểu kết chương 4 ...................................................................................................... 115
CHƯƠNG 5: HÂM MỘ THẦN TƯỢNG Ở GIỚI TRẺ TRONG NHỮNG
ĐỘNG NĂNG CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI .................................... 116
5.1. Đời sống giới trẻ trong bối cảnh nền công nghiệp giải trí ở Việt Nam hiện
nay ............................................................................................................................... 116 5.1.1. Sự phát triển công nghiệp giải trí ở Việt Nam hiện nay ................................... 116
5.1.2. Tác động của nền công nghiệp giải trí đến đời sống giới trẻ ........................... 119
5.2. Truyền thông, thần tượng và giới trẻ như một nhóm công chúng đặc biệt .. 122 5.2.1. Ảnh hưởng của truyền thông tới các hình thức giải trí và tương tác của giới
trẻ ................................................................................................................................ 122
5.2.2. Sự tiêu thụ truyền thông mạnh mẽ ở giới trẻ..................................................... 124
5.3. Chủ nghĩa tiêu dùng và giới trẻ như một thị trường tiềm năng .................... 127 5.3.1. Giới trẻ - một thế hệ người tiêu dùng mới ........................................................ 127
5.3.2. Sự thẩm thấu ý thức hệ thị trường ..................................................................... 133
5.4. Định vị bản thân và khao khát toàn cầu: giới trẻ và những giá trị mới ....... 137 5.4.1. Định vị bản thân ................................................................................................ 137 5.4.2. Khao khát toàn cầu ........................................................................................... 144
Tiểu kết chương 5 ...................................................................................................... 146 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 148 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 152
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, hâm mộ thần tượng trở thành một hiện tượng nổi
bật, phổ biến của giới trẻ trên phạm vi toàn cầu. Từ phương diện học thuật, hâm mộ
thần tượng là một khía cạnh nghiên cứu quan trọng về văn hóa giới trẻ. Từ khi
Ngành Nghiên cứu văn hóa ra đời và phát triển vào những năm 1960 ở phương Tây,
văn hóa giới trẻ đã được tiếp cận bằng nhiều khung lí thuyết nhằm khám phá các
chiều kích khác nhau như tiểu văn hóa, bản sắc, sự phản kháng, mạng lưới xã hội,
văn hóa tiêu dùng... Ở trong nước, hai thập kỉ trở lại đây chứng kiến giới trẻ và văn
hóa giới trẻ trở thành đối tượng nghiên cứu của một số ngành như xã hội học, tâm lí
học, giáo dục học, văn hóa học. Đặc biệt, với sự phát triển của ngành nghiên cứu
văn hóa ở Việt Nam, các chiều cạnh của văn hóa giới trẻ ngày càng được nghiên
cứu đa chiều hơn. Ban đầu, các nhà nghiên cứu hầu như chỉ chú ý đến lối sống, hệ
giá trị, quan niệm sống hay nhận thức của giới trẻ, sau đó những đặc trưng cũng như
biến đổi của văn hóa giới trẻ trong bối cảnh đặc thù mà họ sống được quan tâm
nhiều hơn chẳng hạn hiện tượng sống thử, sự thay đổi thị hiếu, phong cách, sự thể
hiện bản sắc... trước những tác động của toàn cầu hóa, đặc biệt với vai trò của
internet. Văn hóa giới trẻ và những biểu hiện ngày càng đa dạng, phức tạp của nó
cần được nhìn nhận và có thể soi chiếu bằng những lăng kính đa chiều hơn mà hâm
mộ thần tượng là một hiện tượng nổi bật. Nghiên cứu về hâm mộ thần tượng sẽ giúp
nhận diện những chiều kích mới của văn hóa giới trẻ với những động năng của xã
hội Việt Nam đương đại.
Hâm mộ thần tượng không phải là hiện tượng hoàn toàn mới ở Việt Nam.
Khi đất nước còn chìm đắm trong khói lửa chiến tranh, những lãnh tụ cách mạng,
những người lính anh dũng không tiếc tuổi xuân cho sự nghiệp giải phóng dân tộc
được xem là hình mẫu của lớp lớp thanh niên. Sau khi đất nước giải phóng và bước
vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, những người được ngưỡng mộ và
được coi là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ chính là những anh hùng lao động. Trong
bối cảnh hiện nay, các ngôi sao giải trí, những người nổi tiếng lại là những thần
tượng có sức thu hút mạnh mẽ đối với số đông giới trẻ.
1
Việc giới trẻ hiện nay trở nên say mê với những ca sĩ, diễn viên, cầu thủ và
tham gia vào những cộng đồng người hâm mộ cuồng nhiệt chờ chực ở sân bay,
khóc lóc, ngất xỉu vì thần tượng, sẵn sàng bỏ ra những số tiền lớn so với khả năng
chi tiêu ở độ tuổi của họ để mua album, gậy cổ vũ, mua vé dự concert... đã khiến
không ít phụ huynh lo ngại và tỏ ra hoang mang vì không hiểu nổi con em họ đã
nghĩ gì và tại sao các ngôi sao giải trí kia lại có thể khiến con em họ “phát cuồng”
như thế. Đối lập với lo ngại của các thế hệ lớn hơn, giới trẻ vẫn hàng ngày, hàng giờ
theo dõi, chia sẻ, thậm chí “chạy theo” các thần tượng của mình. Điều này gợi ra
những câu hỏi nghiên cứu có tính then chốt để hiểu về giới trẻ Việt Nam trong bối
cảnh văn hoá tiêu dùng phát triển mạnh mẽ và sự khủng hoảng về căn tính của
những người trẻ còn loay hoay tìm giá trị bản thân.
Từ góc nhìn nghiên cứu văn hóa, quan điểm của chính những người trẻ - như
là “tiếng nói người trong cuộc” - cần phải được “lên tiếng”. Những câu chuyện,
những thực hành văn hóa thường ngày nhỏ nhặt, riêng tư, “cái tôi”, “cái khác biệt”
của giới trẻ cần được phân tích. Khác với các ngành khác, nghiên cứu văn hóa nhìn
ra được những ý nghĩa của các thực hành bị gạt ra ngoài lề, nhìn hâm mộ thần tượng
không phải là một thực hành phi lí, nông nổi, điên rồ mà có vai trò quan trọng trong
quá trình tạo dựng ý nghĩa và căn tính giới trẻ. Trong quá trình biến đổi liên tục,
phức tạp của bối cảnh trong nước và thế giới, khi những khoảng cách thế hệ và định
kiến về giới trẻ vẫn luôn tồn tại, khi giới trẻ vẫn luôn loay hoay với những câu hỏi
trong việc xác định “họ là ai”, luôn không ngừng tìm kiếm những cách thức để phản
kháng lại những áp đặt, định kiến và khẳng định bản thân thì nghiên cứu cơ bản về
giới trẻ và văn hóa giới trẻ vẫn luôn là một việc làm quan trọng. Tìm hiểu việc hâm
mộ thần tượng của giới trẻ có thể góp phần làm lộ ra các chiều kích phong phú, đa
chiều của văn hoá giới trẻ ngày nay. Vì vậy, chúng tôi tin rằng việc nghiên cứu
“Hâm mộ thần tượng trong đời sống giới trẻ Việt Nam hiện nay” có tính cấp thiết
cao trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của đề tài là khám phá thực hành hâm mộ thần tượng
và chỉ ra phương thức kiến tạo bản sắc của giới trẻ trong những động năng của xã
hội Việt Nam đương đại.
Các câu hỏi nghiên cứu cơ bản:
2
1- Thực hành hâm mộ thần tượng của giới trẻ được thể hiện như thế nào?
2- Vai trò của những thực hành ấy trong việc kiến tạo nên bản sắc của giới trẻ?
3- Những động năng của xã hội Việt Nam đương đại đã góp phần định dạng
hiện tượng hâm mộ thần tượng của giới trẻ hiện nay như thế nào?
Để trả lời câu hỏi này, luận án đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản sau:
Cung cấp một cái nhìn tổng quan những khía cạnh lí thuyết quan trọng trong
nghiên cứu về văn hóa giới trẻ và hâm mộ thần tượng.
Nhận diện các thực hành hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam (qua
nghiên cứu trường hợp cụ thể một số cá nhân người hâm mộ và các câu lạc bộ
người hâm mộ).
Tìm hiểu phương thức kiến tạo bản sắc của giới trẻ thông qua việc hâm mộ
thần tượng trong bối cảnh hiện nay.
Phân tích những yếu tố tác động đến thực hành hâm mộ thần tượng của giới
trẻ Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng, khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: các thực hành hâm mộ thần tượng của giới trẻ Việt
Nam hiện nay, cụ thể là các thần tượng giải trí trong nền văn hoá đại chúng, tập
trung chủ yếu vào các thần tượng âm nhạc. Sở dĩ tôi lựa chọn các thần tượng âm
nhạc là vì các hoạt động của họ và người hâm mộ của họ diễn ra phong phú, nổi bật
và đều đặn trên truyền thông (truyền hình, youtube, báo điện tử...), dễ nhận thấy sự
ảnh hưởng của họ trong việc định hình và khiến cho đời sống giải trí của giới trẻ trở
nên sôi động như hiện nay. Thêm vào đó, vì đây là những ngôi sao biểu diễn, gắn
với một loại hình văn hóa đại chúng có tính chất phổ biến và sôi động nhất hiện nay
(nhạc Pop) nên đã tạo ra những đặc trưng riêng nhưng đồng thời cũng mang tính
bao quát khá đầy đủ cho những cộng đồng người hâm mộ (có tên gọi và lightstick
riêng của fandom, có những hoạt động đặc trưng: tham gia các show diễn cổ vũ
thần tượng - hoạt động này không có ở fan của ngôi sao điện ảnh, mua các sản
phẩm đa dạng gắn với thần tượng như album, nhạc số và các sản phẩm của thần
tượng hay do thần tượng làm đại diện quảng cáo)...
3
Trong những trường hợp nhất định, tôi vẫn sử dụng tư liệu về người hâm mộ
của những ngôi sao điện ảnh hay ngôi sao thể thao khác làm minh chứng để bổ sung
cho các kết luận của mình.
- Khách thể nghiên cứu: những người hâm mộ trẻ (fan), các câu lạc bộ người
hâm mộ (FC - fanclub) ở Việt Nam hiện nay. Trong luận án này, thuật ngữ “giới
trẻ” không hoàn toàn trùng khít với thuật ngữ “thanh niên” (theo định nghĩa của
Luật Thanh niên là độ tuổi từ 16 đến 30 tuổi), bởi “giới trẻ” còn chỉ tất cả những
người có “tính trẻ”, khao khát tìm kiếm định vị bản thân, thử nghiệm những điều
mới mẻ, liều lĩnh, năng động, sáng tạo. Tuy nhiên, người hâm mộ đối với các thần
tượng trong giới nghệ sĩ giải trí, mà cụ thể là thần tượng âm nhạc, chủ yếu là những
người trẻ là học sinh, sinh viên, người mới đi làm. Vì vậy, nghiên cứu này chủ yếu
tiếp cận và phân tích người hâm mộ ở độ tuổi 16 - 30 này.
Để có thể tìm hiểu thấu đáo và cụ thể về người hâm mộ trẻ, đề tài luận án lựa
chọn nghiên cứu trường hợp người hâm mộ của ca sĩ nổi tiếng Sơn Tùng M-TP.
Sơn Tùng M-TP tên thật là Nguyễn Thanh Tùng, sinh ngày 5/7/1994, quê Thái
Bình, là một trong những ca sĩ “hot” nhất trong làng nhạc trẻ hiện nay ở Việt Nam.
Là một ca sĩ thành danh từ giới underground, Sơn Tùng hoạt động nghệ thuật từ khi
còn là học sinh cấp 3, nhưng chính thức được biết đến rộng rãi từ năm 2013 sau khi
xuất hiện trên chương trình Vietnam Idol với ca khúc “Cơn mưa ngang qua”. Sáng
tác tầm 20 bài hát, ca sĩ này đã từng giành nhiều giải trên các sân khấu âm nhạc,
không ít bài đã trở thành “hit”, có lượt xem cao kỉ lục so với các ca sĩ Việt Nam:
“Em của ngày hôm qua”, “Không phải dạng vừa đâu”, “Chúng ta không thuộc về
nhau”, “Lạc trôi”, “Nơi này có anh”, “Chạy ngay đi”, “Hãy trao cho anh”... Trong
danh sách Top 10 tìm kiếm nhiều nhất trên Google Việt Nam năm 2015 có đến 4 từ
khóa liên quan đến nam ca sĩ này. Tháng 10/2017, ca sĩ này còn ra mắt tự truyện
Chạm tới giấc mơ với 17.000 bản in. Tháng 7/2019, sau khi MV Hãy trao cho anh
được phát hành, với sự góp mặt của những nghệ sĩ nước ngoài và đặc biệt là sự góp
giọng của huyền thoại nhạc Rap Snoop Dog của Mỹ thì tên tuổi Sơn Tùng đã vượt
xa hơn nữa khỏi lãnh thổ Việt Nam. Sự kiện này được nhắc đến trong một thời gian
dài trên các phương tiện truyền thông ở Việt Nam năm 2019. Sơn Tùng cũng trở
thành gương mặt thương hiệu, đại diện cho hàng chục nhãn hàng lớn nhỏ, là cái tên
xuất hiện liên tục trên báo chí, mạng xã hội, các chương trình truyền hình. Dù mới
4
chỉ tham gia lĩnh vực giải trí được 7 năm nhưng Sơn Tùng đã có một sự nghiệp
đáng kể, có lượng người hâm mộ trẻ đông đảo bậc nhất ở Việt Nam hiện nay. Có
một điều đặc biệt là không chỉ Sơn Tùng mà cộng đồng người hâm mộ của ca sĩ này
cũng luôn là đối tượng, chủ đề bàn luận của báo chí, cộng đồng mạng trong suốt
thời gian vừa qua. Các câu lạc bộ người hâm mộ (fanclub - FC) của ca sĩ này dù
hoạt động tự phát nhưng khá đông đảo và chuyên nghiệp, thu hút ngày càng nhiều
thành viên tham gia. Nghiên cứu trường hợp người hâm mộ Sơn Tùng M-TP sẽ
giúp nhận diện các chiều kích của vấn đề người hâm mộ trẻ hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về khía cạnh nghiên cứu, luận án không bao quát mọi khía cạnh của hiện
tượng hâm mộ thần tượng (nghiên cứu thần tượng, người hâm mộ, các công ty giải
trí, mạng lưới kinh doanh và quản lý thần tượng, mối quan hệ xuyên quốc gia trong
ngành công nghiệp kinh doanh thần tượng...) mà tập trung nghiên cứu những thực
hành hâm mộ thần tượng của người hâm mộ - những người đã kiến tạo nên thần
tượng và tiêu thụ thần tượng theo cách riêng của họ, mặc dù bị chi phối trong mạng
lưới về “nghĩa” của thế giới tiêu dùng và ngành công nghiệp giải trí. Luận án chú ý
tới các khía cạnh cảm xúc, hành vi tiêu dùng, đặt chúng trong mối quan hệ với việc
kiến tạo căn tính của người hâm mộ trẻ. Ngành công nghiệp giải trí có ảnh hưởng
không nhỏ trong việc định hướng thẩm mỹ, định hướng thị trường, được công
nghiệp hóa trở thành một ngành công nghiệp. Chính trong bối cảnh của ngành công
nghiệp này mới khiến xuất hiện nhiều những người nổi tiếng, những thần tượng
như hiện nay. Đồng thời, công nghiệp văn hóa cũng tạo nên cả một hệ thống nghĩa
mới đối với công chúng nói chung và giới trẻ nói riêng.
Về thời gian nghiên cứu: quá trình nghiên cứu được thực hiện từ giữa năm
2017 đến cuối năm 2019.
Về không gian nghiên cứu: chủ yếu tại nội thành Hà Nội vì đây là nơi thường
xuyên diễn ra những chương trình, sự kiện văn hóa văn nghệ và thể thao có sự tham
gia của các ngôi sao âm nhạc, thể thao trẻ tuổi và các fan hâm mộ của họ. Không
chỉ thế, đô thị Hà Nội còn là nơi có cơ sở hạ tầng phù hợp cho những sự kiện giải trí
thu hút một số lượng người đông đảo (các sân vận động, nhà văn hoá, trung tâm
phát hành vé, trung tâm thương mại - nơi thường được các ekip tổ chức sự kiện thực
hiện các chương trình quảng bá, giao lưu, fan meeting...).
5
Ngoài phạm vi nghiên cứu là không gian thực tế, chúng tôi cũng tiến hành
nghiên cứu hiện tượng hâm mộ thần tượng và các cá nhân, hội nhóm những người
hâm mộ ở không gian trực tuyến (mạng xã hội Facebook, các diễn đàn của fan và
anti-fan, ví dụ diễn đàn về Sơn Tùng trên VOZ...). Việc này giúp chúng tôi có thêm
cơ sở dữ liệu để chỉ ra được những thứ mà giới trẻ muốn thể hiện cũng như những
yếu tố tác động đến quan niệm, thị hiếu, nhu cầu của họ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đây là một nghiên cứu định tính với mục tiêu khám phá diện mạo và ý nghĩa
của thực hành hâm mộ thần tượng của giới trẻ Việt Nam trong xã hội đương đại.
Trước khi lựa chọn các phương pháp nghiên cứu định tính, tôi đã tiến hành khảo sát
sơ bộ một số nhóm bạn trẻ hâm mộ thần tượng Việt Nam và K-Pop thông qua phiếu
hỏi ý kiến để có được cái nhìn khái quát và những nhận định chung về người hâm
mộ và các thực hành hâm mộ của họ (xin xem Phụ lục 1). Sự nhất quán tương đối
trong những câu trả lời của các đối tượng được khảo sát này đã giúp tôi có cơ sở để
quyết định lựa chọn nghiên cứu định tính đối với một số người hâm mộ trẻ nhằm
tìm hiểu sâu hơn về ý nghĩa của hâm mộ thần tượng trong đời sống giới trẻ Việt
Nam hiện nay. Các phương pháp định tính bao gồm quan sát tham dự, phỏng vấn
sâu, thảo luận nhóm. Ngoài ra, luận án cũng sử dụng phương pháp phân tích, tổng
hợp các tư liệu thứ cấp.
Trước hết là phương pháp quan sát tham dự. Do có một thời gian dài tìm hiểu
trên các mạng xã hội, tham gia vào các diễn đàn, hội nhóm người hâm mộ, tôi nhận
thấy các thực hành hâm mộ thần tượng của giới trẻ đa dạng và đa chiều hơn nhiều
so với những gì báo chí phản ánh. Vì vậy, tôi đã đề nghị được trở thành “member”
(thành viên) của một số fanclub (FC) như 4 FC của những người hâm mộ Sơn Tùng
M-TP, 1 FC của ca sĩ Đức Phúc, 1 FC của những người hâm mộ nhóm nhạc nữ Hàn
Quốc T-ara, 1 FC của nhóm EXO, 1 FC của nhóm BTS, ngoài ra tôi còn theo dõi
một số FC của các ca sĩ, diễn viên, cầu thủ bóng đá Việt Nam và nước ngoài.
Để được chấp nhận là “member” (thành viên), tôi phải trả lời 3-5 câu hỏi của
“admin” (ban quản trị FC) để chứng minh được rằng tôi là fan thật sự, tôi phải có
những hiểu biết nhất định về thần tượng của cả nhóm và nếu muốn tham gia với tư
cách là thành viên chính thức, tôi phải nộp phí định kì và tham gia các hoạt động
offline với FC. Quỹ của FC sẽ do một thành viên trong dàn admin giữ để chi tiêu
6
vào những việc chung của FC như mua áo đồng phục, mua bảng đèn cổ vũ, in
banner và poster để tổ chức “đu show” cho các thành viên trong nhóm; thuê loa đài
để tổ chức các sự kiện offline của FC (kỉ niệm ngày thành lập FC, kỉ niệm ngày
thần tượng phát hành album hay bài hát nào đó đáng nhớ, sinh nhật của thần
tượng...); làm từ thiện khi có sự kiện như kỉ niệm ngày sinh của thần tượng hoặc khi
có những hoàn cảnh cần trợ giúp. Tôi đã tham gia đóng quỹ và trở thành một thành
viên chính thức trong một FC của những người hâm mộ Sơn Tùng M-TP tại Hà Nội.
Để tăng cường các mối quan hệ và duy trì tư cách thành viên, tôi đã mua
“vương miện” đội đầu để cổ vũ khi đi xem show, đi dự offline tại phố đi bộ và tại
các quán trà sữa, cà phê cùng với cả FC. Nhờ quá trình này, tôi nhanh chóng làm
quen với khá nhiều bạn trẻ cả nam và nữ. Tôi cùng xếp hàng với họ để đợi được vào
miễn phí trong một vài show tại phố đi bộ theo quyền lợi của các thành viên chính
thức trong FC, cùng họ kêu gọi những người hâm mộ khác mua vương miện cổ vũ
Sơn Tùng, cùng hồi hộp săn vé trên hệ thống VinID và xếp hàng tại cửa hàng Circle
K để đổi 3 thùng Pepsi lấy vé Vvip. Tôi cũng từng tụ tập từ 7 rưỡi sáng đến 12 giờ
đêm để tham dự Skytour (một liveshow có bán vé của Sơn Tùng năm 2019) cùng
FC. Nhờ vậy, dù hơn tuổi khá nhiều nhưng các bạn trẻ này coi tôi như “người trong
cùng gia đình Sky” của họ. Tôi đã cùng họ có những trải nghiệm tuyệt vời trong
suốt quãng thời gian từ 2017 đến nay. Ngoài quan sát tham dự những hoạt động
thực tế của FC này, tôi còn tham gia bình luận trên facebook của các FC khác, để có
những thông tin, những trải nghiệm khác của một thành viên online. Phương pháp
này đã giúp tôi thu được những tư liệu quan trọng, những cảm nhận sinh động, thực
tế, vừa bao quát vừa cụ thể từ góc độ của người trong cuộc.
Phương pháp phỏng vấn sâu được triển khai dựa trên những hiểu biết và mối
quan hệ tôi có được từ quá trình quan sát tham dự dài ngày. Từ một vài thông tín
viên thân thiết, phương pháp “quả cầu tuyết” (snowball) đã giúp tôi mở rộng mạng
lưới những người có thể phỏng vấn. Tôi đã tiến hành các cuộc phỏng vấn với 45
bạn trẻ là những người hâm mộ của các ca sĩ, diễn viên, cầu thủ bóng đá của Việt
Nam và nước ngoài, trong đó 30 bạn là người hâm mộ của ca sĩ Sơn Tùng M-TP.
Họ là những người thể hiện tình cảm nồng nhiệt với thần tượng (like, share và
comment liên tục tại các fanpage, các diễn đàn về thần tượng, nhiệt tình trong các
sự kiện của FC). Các bạn trẻ được lựa chọn phỏng vấn khá đa dạng về độ tuổi, nghề
7
nghiệp, trình độ, quê quán. Họ là sinh viên (26 bạn), học sinh (6 bạn), người đã đi
làm (13 bạn, trong đó có 5 bạn làm các công việc văn phòng như y tá, giáo viên,
luật sư, nhân viên truyền thông; 6 bạn còn lại kinh doanh tự do hoặc là nhân viên
bán hàng); 14/45 bạn được phỏng vấn là người Hà Nội, còn lại là các bạn đến từ
nhiều tỉnh thành miền Bắc, miền Trung và cả miền Nam. Đây là những bạn trẻ
trong độ tuổi từ 16 - 30 (cũng có một số ít bạn ngoài 30 tuổi - 4 bạn). Những bạn là
fan của ca sĩ Sơn Tùng M-TP chủ yếu sinh sống tại nội thành Hà Nội (13/30 bạn).
Ngoài ra cũng có một vài trường hợp ngoại lệ (là người sống ở Sài Gòn hoặc tỉnh
ngoài nhưng đến Hà Nội để “off” - họp fan với những người hâm mộ khác). Với
một số fan sống ở Sài Gòn, qua thông tín viên của mình - cũng là thành viên của
một FC, tôi đã liên hệ được với 2 admin của FC này. Khi họ ra Hà Nội công tác, tôi
có dịp cùng gặp gỡ, đi ăn, đi uống nước cùng họ và các admin đầu cầu Hà Nội. Nhờ
có những hiểu biết nhất định về Sơn Tùng M-TP, tôi bắt chuyện và hòa nhập khá
nhanh với họ.
Trong các cuộc phỏng vấn bán cấu trúc được thực hiện trong khoảng từ 60 -
120 phút, những người tham gia cùng tôi trao đổi và chia sẻ về một số chủ đề: Cách
họ được giới thiệu/ biết tới thần tượng, tại sao hâm mộ thần tượng này; Những khía
cạnh của thần tượng mà họ thích hoặc không thích; Cách mà họ thể hiện sự hâm mộ
của mình và Tại sao họ lại hâm mộ như vậy? Cách hâm mộ của họ có ảnh hưởng từ
đâu?; Những sự thay đổi về cảm xúc, suy nghĩ, quan điểm, thị hiếu, thẩm mỹ từ khi
hâm mộ ca sĩ này? Họ muốn cho người khác thấy họ là những người hâm mộ như
thế nào? Cách họ sử dụng phương tiện truyền thông xã hội cho các hoạt động của
người hâm mộ... Tất cả các cuộc phỏng vấn đều bắt đầu bằng câu chuyện về các
ngôi sao thần tượng, cấu trúc của cuộc phỏng vấn được phát triển linh hoạt theo các
chủ đề nổi lên trong suốt quá trình phỏng vấn. Nội dung các cuộc phỏng vấn được
ghi âm hoặc được ghi chép lại dưới dạng nhật kí, kết hợp với quá trình quan sát
tham dự, có những đối tượng được phỏng vấn nhiều lần nhằm đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và phong phú của thông tin.
Phương pháp phỏng vấn sâu với nguyên tắc ẩn danh cho phép người được
phỏng vấn bộc lộ một cách thành thật, tự nhiên những thị hiếu, sở thích của họ,
thậm chí cả sự điên rồ, cuồng nhiệt của họ đối với thần tượng một cách không ngại
ngùng. Phương pháp này đã giúp tôi có được sự hiểu biết sâu và đa chiều hơn về
8
những cảm xúc, hành vi của các cá nhân và nhóm người hâm mộ. Những hiểu biết
này một mặt bổ sung tư liệu, một mặt là sự phản biện với những gì mà báo chí phản
ánh về hiện tượng hâm mộ thần tượng của giới trẻ Việt Nam trong những năm vừa
qua vì thực sự, trước khi tiếp cận những người hâm mộ cụ thể, tôi cũng từng có cái
nhìn đầy định kiến về họ.
Bên cạnh việc phỏng vấn những bạn trẻ là fan của ca sĩ Sơn Tùng M-TP, tôi
cũng tiến hành phỏng vấn một số fan của các ca sĩ, nhóm nhạc, cầu thủ nổi tiếng và
một số nhà báo, người làm truyền thông về các vấn đề như: các yếu tố làm nên sự
nổi tiếng và thành công của một ngôi sao, những yếu tố tác động đến việc hâm mộ
thần tượng ở giới trẻ hiện nay, mối quan hệ giữa các ngôi sao với truyền thông và
các thương hiệu, giữa thần tượng với người hâm mộ...
Ngoài phương pháp phỏng vấn sâu, tôi còn tiến hành 4 cuộc thảo luận nhóm
(mỗi nhóm từ 3-5 người) với mục đích tăng tính tương tác, tranh luận giữa các cá
nhân người hâm mộ để tìm hiểu những suy nghĩ, góc nhìn đa chiều về thần tượng và
những thực hành hâm mộ cụ thể của các bạn trẻ hiện nay, cũng như để tìm những
điểm chung mang tính bối cảnh mà những người trẻ cùng trang lứa như họ từng trải
qua, chẳng hạn các kênh truyền hình, các trang web họ thường xem, các ứng dụng
internet và các trang mạng xã hội họ từng sử dụng, các dấu mốc thời gian và các sự
kiện văn hóa có liên quan tới quá trình hâm mộ thần tượng của họ.
Nghiên cứu người hâm mộ trẻ cũng gặp một số khó khăn nhất định. Các bạn
trẻ tuy khá cởi mở, sôi nổi trong khi nói chuyện, tuy nhiên cũng không dễ để sắp
xếp một buổi hẹn bởi họ thường xuyên phải học theo giờ giấc không ổn định (học
tín chỉ), hoặc đi thi, đi làm thêm... Do vậy, ngoài gặp gỡ ở quán cà phê, tôi đã tham
gia với các bạn trẻ một số sự kiện có thần tượng của họ biểu diễn, tham gia các buổi
họp fan của họ (đi ăn, đến trường mà họ học...) và thường xuyên trò chuyện với họ
qua mạng xã hội trực tuyến để tìm hiểu những thông tin từ họ.
Do đặc trưng về giao tiếp và tương tác của lứa tuổi trong bối cảnh truyền
thông và mạng xã hội hiện nay, để khắc phục những hạn chế của việc phỏng vấn
trực tiếp, tôi còn sử dụng phương pháp phân tích văn bản, coi những nội dung,
thông tin trên các trang fanpage của các nhóm fandom, các fanclub và các tài khoản
facebook của các cá nhân người hâm mộ trẻ như là một văn bản để phân tích, đánh giá.
9
Ngoài ra, để hỗ trợ cho những bàn luận và diễn giải của mình, chúng tôi cũng
sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp các tư liệu thứ cấp. Nguồn tài liệu mà
chúng tôi tiếp cận và xử lí bao gồm: các tài liệu nghiên cứu về giới trẻ và văn hóa
giới trẻ, các tài liệu về thần tượng, người nổi tiếng và hâm mộ thần tượng trên thế
giới và ở Việt Nam, các tài liệu về bối cảnh đương đại ở Việt Nam nói riêng và thế
giới nói chung bao gồm toàn cầu hóa, truyền thông, văn hóa đại chúng, văn hóa tiêu
dùng đặt trong mối quan hệ với văn hóa giới trẻ. Mặc dù hâm mộ thần tượng là một
hiện tượng văn hóa nổi bật ở giới trẻ Việt Nam trong khoảng 20 năm trở lại đây, tuy
nhiên, các tài liệu nghiên cứu của Việt Nam về hiện tượng này hầu như rất ít, chủ
yếu là các tư liệu báo chí truyền thông, trong khi tư liệu nước ngoài lại khá đồ sộ.
Do vậy, để thu thập các tư liệu này, tôi chủ yếu phải sử dụng các công cụ tìm kiếm
như: Google, Google Scholar, ResearchGate, Academia.edu,... và khai thác tối đa
các nguồn tài liệu hỗ trợ từ phía các thầy cô và các chuyên gia. Đây là nền tảng
quan trọng để chúng tôi có được cái nhìn tổng thể về đối tượng nghiên cứu, trường
hợp nghiên cứu, từ đó có thể lên kế hoạch cho việc quan sát tham dự, lập câu hỏi
phỏng vấn và lựa chọn đối tượng để phỏng vấn. Đồng thời, khi đối chiếu với các tư
liệu điền dã, nguồn tư liệu thứ cấp này còn giúp cho việc phân tích, lí giải vấn đề
nghiên cứu trở nên rõ ràng hơn, từ đó có thể đưa ra được những hướng tiếp cận mới,
những kết quả nghiên cứu mới cho đề tài.
Không chỉ khai thác các tư liệu mang tính học thuật nghiên cứu về văn hóa
giới trẻ và hâm mộ thần tượng, luận án còn tìm kiếm những tư liệu trên báo chí về
đối tượng nghiên cứu qua một số tờ báo dành riêng cho thanh thiếu niên, tiêu biểu
nhất là Hoa Học trò. Chúng tôi đã khảo sát tờ báo này trong 29 năm liên tục từ số
báo đầu tiên năm 1991 đến 2019 để có thể lịch sử hóa hiện tượng hâm mộ thần
tượng cũng như thấy được những biến đổi trong đời sống văn hóa giới trẻ Việt Nam
trong quãng thời gian này.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là một trong những công trình đầu tiên khám phá những chiều kích
văn hóa của hiện tượng hâm mộ thần tượng ở Việt Nam trong thời đại hiện nay
cũng như các tác nhân tác động đến nó.
Luận án khám phá cách thức giới trẻ kiến tạo nên căn tính của mình thông
qua cách họ hâm mộ thần tượng và gán nghĩa cho các thực hành văn hoá.
10
Luận án cung cấp những luận giải về căn nguyên và động lực của việc hâm
mộ thần tượng, từ đó chỉ ra những động năng của xã hội Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lí luận
Ý nghĩa lý luận của luận án được thể hiện trên hai phương diện:
Thứ nhất, từ việc lí giải sâu sắc về hiện tượng hâm mộ ở giới trẻ và lập luận
rằng những thực hành hâm mộ thần tượng (tiêu dùng, giải mã thần tượng và kiến
tạo văn hoá người hâm mộ) là một cách thức hữu hiệu để giới trẻ tạo dựng bản sắc
cá nhân và bản sắc nhóm, luận án đóng góp một quan điểm học thuật về phương
thức kiến tạo bản sắc của giới trẻ trong bối cảnh đương đại.
Thứ hai, cũng thông qua việc tranh luận rằng hâm mộ thần tượng không chỉ
đơn thuần là một hình thức giải trí mà còn là phương thức để những người hâm mộ
trẻ kiến tạo căn tính cá nhân và tập thể, khẳng định “quyền lực” của nhóm tuổi
trước những định kiến của các nhóm tuổi lớn hơn, thậm chí có sức hấp dẫn ngược
trở lại đối với các nhóm tuổi lớn hơn, luận án đóng góp vào lý thuyết về tiểu văn
hoá giới trẻ.
- Ý nghĩa thực tiễn
Qua việc nghiên cứu những ý nghĩa, giá trị, quan điểm, thị hiếu mà những
người hâm mộ trẻ cùng chia sẻ, luận án chỉ ra những cách thức mà những người
hâm mộ trẻ định danh về mình qua cách hâm mộ thần tượng của họ trong bối cảnh
xã hội đương đại. Với ý nghĩa đó, luận án là tư liệu tham khảo cho các nhà nghiên
cứu văn hóa, những người làm chính sách về thanh niên cũng như những người
quan tâm đến vấn đề bản sắc văn hoá và văn hoá giới trẻ.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận án gồm 5 chương sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận;
Chương 2: Bức tranh chung về hâm mộ thần tượng ở Việt Nam;
Chương 3: Những thực hành hâm mộ thần tượng của giới trẻ hiện nay;
Chương 4: Hâm mộ thần tượng: một phương thức kiến tạo căn tính ở giới trẻ;
Chương 5: Hâm mộ thần tượng ở giới trẻ trong những động năng của xã hội
Việt Nam đương đại.
11
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Những nghiên cứu về giới trẻ và văn hóa giới trẻ
1.1.1.1. Những nghiên cứu về văn hóa của các nhóm giới trẻ
Có rất nhiều khuynh hướng lí thuyết trong nghiên cứu về văn hóa của các
nhóm giới trẻ khác nhau, trong đó tiểu văn hóa là một khuynh hướng nổi bật. Tiểu
văn hóa (subculture) là một khái niệm để chỉ văn hóa của một nhóm người trong
một nền văn hóa, có những đặc trưng riêng so với nền văn hóa chung mà nó thuộc
về mặc dù vẫn duy trì những nguyên tắc nền tảng của nền văn hóa đó. “Tiểu văn
hóa giới trẻ” được xem là một tiểu văn hóa dựa trên giới trẻ với phong cách, hành vi
và sở thích riêng biệt. Các tiểu văn hóa giới trẻ được nhận dạng dựa trên các yếu tố
có thể phân biệt về mặt xã hội như gia đình, công việc, nhà ở và trường học (Brake 1985) [79].
“Tiểu văn hóa” (sub-culture) được hiểu là văn hóa “con”, văn hóa “phụ”,
văn hóa “nhóm” được sản sinh trong chính nền văn hóa chính thống (nền văn hóa
“cha mẹ”). Lí thuyết này được phát triển bởi Trung tâm Nghiên cứu văn hóa đương
đại Birmingham (CCCS) (1964) với các công trình quan trọng của Dick Hebdige
(1979) [116], Stuart Hall & Tony Jefferson (1993) [114]... Các nhà nghiên cứu cho
rằng một trong những đặc trưng của các tiểu văn hóa giới trẻ là thường thể hiện sự
đối lập có hệ thống với nền văn hóa chính thống. Dick Hebdige [116] mô tả tiểu văn
hoá như là một phản ứng của các nhóm ít quyền lực thách thức quyền bá chủ của
văn hóa thống trị/chi phối. Stuart Hall và Tony Jefferson [114] thì mô tả các tiểu
văn hóa giới trẻ là những nỗ lực phản kháng lại quyền lực thống trị thông qua việc
áp dụng có ý thức các hành vi mang tính biểu tượng hay nghi lễ có ý nghĩa đe dọa
đến việc thiết lập sự thống trị đó. Vì giới trẻ được xem như một nhóm phụ thuộc và
ít quyền lực trong mối quan hệ với sự chi phối của xã hội người lớn, nên tiểu văn
hoá giới trẻ có thể được xem như một hệ thống văn hoá thách thức sự thống trị của
xã hội người lớn.
Các tiểu văn hóa giới trẻ có thể được định nghĩa là các hệ thống biểu đạt ý
nghĩa (systems of meaning), phương thức biểu hiện (modes of expression) hoặc lối
sống (lifestyle) được phát triển bởi các nhóm yếu thế để đối phó với các hệ thống
12
chiếm vai trò chủ đạo trong xã hội và nó phản ánh nỗ lực của họ để giải quyết các
mâu thuẫn có tính cấu trúc phát sinh từ bối cảnh xã hội rộng lớn hơn (Brake) [79].
Do vậy, các nghiên cứu về các tiểu văn hóa thường bao gồm nghiên cứu về biểu
tượng gắn liền với trang phục, âm nhạc, những cảm xúc của các thành viên trong
nhóm cũng như cách thức mà các biểu tượng này được các thành viên của nền văn
hóa thống trị hiểu. Nhiều tiểu văn hóa giới trẻ trên thế giới có liên quan đến các thể
loại âm nhạc, chẳng hạn: punks, emos, ravers, juggalos, metalheads và goths trong
nghiên cứu của Brake [79] hay nhạc pop trong nghiên cứu của Huq [123] sau này.
Sau tiểu văn hoá là một số khuynh hướng mới chẳng hạn: “hậu tiểu văn hóa”
(post-subculture) tập trung vào văn hóa giới trẻ đương đại phù du và được tổ chức
xoay quanh lối sống cá nhân và các lựa chọn tiêu dùng, khả năng biến đổi với một
loạt các phong cách khác nhau ở giới trẻ. Văn hóa giới trẻ ngày càng được khai thác
ở khía cạnh “sự khác biệt” (Barker) [74]. “Nền “tiểu” văn hóa có nghĩa là những
khái niệm về tính đặc biệt và điểm khác biệt so với xã hội thống trị và chủ đạo” [74,
tr. 561]. Cũng theo Barker, tuổi trẻ như một sự trì hoãn, như một sự phân loại văn hóa và đầy mơ hồ; tuổi trẻ là một kết cấu diễn ngôn1 - “những diễn ngôn về phong
cách, hình ảnh, điểm khác biệt và bản sắc đóng vai trò đặc biệt quan trọng” [74, tr.
559]. Theo đó, đặc điểm của tuổi trẻ là “sự kháng cự”, “sự bác bỏ và đảo ngược”, là
“việc diễn và nhấn mạnh những giá trị ngầm...” [74, tr. 562].
Ở Việt Nam, “tiểu văn hóa” không phải là một thuật ngữ được sử dụng
thường xuyên trong các nghiên cứu về giới trẻ. Có một số nhà nghiên cứu sử dụng
khái niệm “tiểu văn hóa thanh niên” (Từ Thị Loan [37], Đặng Cảnh Khanh [35],
Phạm Quỳnh Phương [45]). Đặng Cảnh Khanh [35, tr. 255] cho rằng “bên cạnh cái
1 “Diễn ngôn” (discourse) là một thuật ngữ được dùng khá phổ biến, đặc biệt trong các nghiên cứu gần đây và được dùng sớm nhất trong ngôn ngữ học, nhằm ám chỉ phương thức hoạt động của ngôn từ, vượt ra ngoài văn bản và có thể xem xét sự vận hành của ngôn từ để khám phá các quan hệ quyền lực chi phối sự tạo thành và vận hành của chúng trong thực tiễn đời sống (Dẫn theo Phạm Quỳnh Phương, Hoàng Cầm 2012: 50). Diễn ngôn được hiểu là một quá trình hiểu và tạo nghĩa mang tính xã hội (thay vì mang tính ngôn ngữ thuần túy). Vì vậy, mặc dù khả năng tạo nghĩa của ngôn ngữ là vô hạn, nhưng trong mỗi giai đoạn lịch sử, việc nghĩa nào được chấp nhận và nghĩa nào trở nên phổ biến lại phụ thuộc vào các mối quan hệ xã hội, chính trị chứ không phải một quá trình mang tính ngôn ngữ học thuần túy. Việc thương thỏa để tạo nghĩa này (cùng với kết quả của nó) chính là các diễn ngôn đặc trưng của từng thời đại. Việc nhìn nhận người nổi tiếng như một diễn ngôn, đồng nghĩa với việc nhìn nhận họ như một văn bản, và đọc “nghĩa” của văn bản đó trên điều kiện lịch sử, xã hội của Việt Nam, thay vì hiểu chữ “người nổi tiếng” như là ý nghĩa ghi trong từ điển (Nguyễn Thu Giang 2011: 152).
dòng văn hóa chính thống của xã hội còn có một dòng chảy văn hóa khác. Dòng
13
chảy ấy có thể là ít khuôn phép, ít bài bản và không hàn lâm nhưng lại rất mạnh mẽ
và sáng tạo”. Bên cạnh đó, một số ý kiến hoặc còn ngập ngừng hoặc không tán
thành do cho rằng khái niệm này ra đời và phù hợp với bối cảnh Âu Mỹ nhưng có
vẻ chưa thật chính xác đối với giới trẻ Việt Nam (Phạm Hồng Tung [60]). Theo
Phạm Hồng Tung, “tiểu văn hóa thanh niên” thường để chỉ những trào lưu “phá
cách” của thanh niên phương Tây như hippies, punks... còn ở Việt Nam, sẽ không
hợp lí khi cho rằng có một tiểu văn hóa như vậy vì những biểu hiện của tiểu văn hóa
như thế không tiêu biểu và đại diện cho số đông thanh niên nước ta. Mặc dù tồn tại
một “văn hóa nhóm thanh niên” và theo đặc trưng của lứa tuổi nên văn hóa nhóm
của thanh niên thường chứa những nhóm không đồng nhất, thậm chí trái ngược với
hệ giá trị được xã hội chấp thuận, tuy nhiên theo tác giả này, văn hóa thanh niên là
một bộ phận không tách rời của văn hóa dân tộc xét theo tất cả các chiều cạnh [60, tr. 75].
Các nghiên cứu khác (Nguyễn Ánh Hồng [27], Đinh Thị Vân Chi [6],
Nguyễn Thị Phương Châm [4], [5]...) tuy không khẳng định rõ việc tồn tại một “tiểu
văn hóa giới trẻ” nhưng phần đa đều cho rằng giới trẻ là một “nhóm dân số”, “nhóm
xã hội”, “nhóm văn hóa” đặc thù. Đây là nhóm có nhiều lí tưởng, nhiều cống hiến,
nhưng cũng là nhóm có nhiều nổi loạn so với nền văn hóa chính thống. Cách tiếp
cận giới trẻ dựa trên lí thuyết văn hóa nhóm giới trẻ giúp lí giải sâu sắc hơn những
vấn đề liên quan đến lứa tuổi hết sức “nhạy cảm” này.
1.1.1.2. Những nghiên cứu về nhu cầu, thị hiếu, quan niệm, lối sống của giới trẻ
Có thể nói, dù được nhìn nhận thuộc về một tiểu văn hóa (subculture) hay là
một nhóm (group), giới trẻ luôn được đánh giá là những người có nhu cầu, thị hiếu,
quan niệm, lối sống khác biệt rõ ràng với các thế hệ trước.
Trong những công trình nghiên cứu của nước ngoài, lối sống (lifestyle) của
giới trẻ đã được chú ý từ rất lâu, gắn với các tiểu văn hóa cụ thể, riêng biệt, theo đó
mỗi tiểu văn hóa sẽ có những phong cách sống, lối sống khác nhau (Bennett [75],
Brake [79], Huq [123]). Từ khóa của những nghiên cứu này là bản sắc (identity), sự
phản kháng (resistance), những băng nhóm (gangs).
Ở Việt Nam, các nghiên cứu quan tâm tới việc chỉ ra và phân tích những
khuynh hướng, xu hướng, trào lưu thuộc về văn hoá giới trẻ như nhu cầu, thị hiếu,
quan niệm, lối sống… Một số bài viết của các tác giả Bùi Thị Tỉnh [57], Nguyễn
Thị Phương Hoa [26], Lê Thị Thanh Hương [30],... mặc dù nhấn mạnh những biến
14
đổi và thích ứng của thanh niên Việt Nam trong bối cảnh hiện đại (chẳng hạn như
sự năng động, sáng tạo và cập nhật) nhưng vẫn chủ yếu xoay quanh các chủ đề
“truyền thống” về thanh niên như đạo đức, thái độ chính trị, lối sống. Tác giả
Nguyễn Thị Phương Hoa [26] trong bài viết “Bàn về đạo đức lối sống của thanh
niên trí thức nước ta hiện nay” cho rằng giới trẻ hiện nay sống thực tế hơn, có ý
thức phấn đấu trong nghề nghiệp song ít có hoài bão lớn lao đối với xã hội, đất
nước, ít bày tỏ chính kiến của mình, mặc dù vậy nhưng vì có trình độ học vấn cao,
khả năng nhận thức tốt nên sự biến đổi theo chiều hướng tiêu cực về đạo đức và lối
sống của thanh niên trí thức không quá lệch lạc.
Đặng Cảnh Khanh [35], Phạm Hồng Tung [60] cũng nhấn mạnh lối sống của
giới trẻ, đặc biệt giới trẻ Việt Nam, bao hàm cả những biểu hiện tích cực và tiêu
cực. Theo Phạm Hồng Tung, do quan niệm văn hóa thanh niên không tách rời nền
văn hóa dân tộc, nên một số xu hướng tích cực của văn hóa thanh niên được tác giả
này chỉ ra là: 1. Trân trọng và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, 2. Yêu nước, quan tâm đến tình hình đất nước và tin tưởng vào tương
lai của đất nước; 3. Thực tế, thực dụng; 4. Năng động, sáng tạo, luôn hướng tới cái
mới, cái khác biệt; 5. Tích cực hội nhập quốc tế, tiếp thu thành tựu văn minh và tinh
hoa văn hóa thế giới; 6. Có khát vọng, lạc quan, có tính tích cực chính trị - xã hội
cao. Bên cạnh đó, tác giả chỉ ra một số xu hướng tiêu cực là: 1. Lối sống buông thả
bản thân; 2. Hành xử hung bạo, bất chấp pháp luật; 3. Thờ ơ, vô cảm, thiếu trách
nhiệm; 4. Tiếp thu thiếu chọn lọc ảnh hưởng văn hóa từ bên ngoài. Có thể thấy các
nghiên cứu này tiếp cận từ góc độ xã hội học, khái quát hoá toàn bộ những biểu
hiện và xu hướng biến đổi của văn hóa giới trẻ Việt Nam, chứ không đi sâu vào các
thực hành văn hóa cụ thể cũng như không tiếp cận từ phía chủ thể của nền văn hóa
này [60]. Còn theo Đặng Cảnh Khanh [35, tr. 258], các hành vi lối sống, quan niệm,
cảm thụ và sáng tạo văn hóa đặc thù của thanh niên không phải lúc nào cũng lọt qua
được tầm mắt của các cư dân xã hội khác, đặc biệt các biểu hiện của lối sống thanh
niên thường bị phán xét và đánh giá về phương diện “đạo lí”.
Một số nghiên cứu khác đã chú ý đến những chủ đề gần gũi và mới hơn về
giới trẻ chẳng hạn giải trí, kết nối và tiêu dùng. Giới trẻ là những người có nhu cầu
cao về giải trí và giải trí được coi là một trong những phương tiện giúp thanh niên
phát triển toàn diện. Dù là giải trí trong nhà hay ngoài trời, các hình thức giải trí cũ
15
(băng đĩa, ti vi) (Đinh Thị Vân Chi [6], Đỗ Nam Liên [36]) hay mới (internet, game,
chat...) (Bùi Hoài Sơn [51], Trần Thị Minh Đức [14], Nguyễn Thị Phương Châm
[5], Tô Thúy Hạnh [20]) đều cho thấy giới trẻ là những người nhanh chóng bị thu
hút và dễ dàng tiếp cận các hình thức giải trí mới lạ, độc đáo. Qua các nghiên cứu
này, có thể thấy, trong khoảng 20 năm trở lại đây, sự thay đổi của công nghệ đã có
những tác động to lớn đến giải trí nói riêng và văn hóa giới trẻ Việt Nam nói chung.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa với sự phát triển của truyền thông, văn hóa đại
chúng và văn hóa tiêu dùng, các nghiên cứu đều chỉ ra văn hóa giới trẻ Việt Nam có
những biến đổi sâu sắc từ học tập, đến giải trí và tiêu dùng, từ quan niệm đến định
hướng và lối sống (Nilan [149], Phan Thanh Thanh [171], Bùi Hoài Sơn [51], Phạm
Hồng Tung [60], Nguyễn Thị Phương Châm cb [5], Nguyễn Thị Hậu cb [67],
Huong Nguyen [122], Lê Thị Thanh Hương [31], Đặng Thiếu Ngân [41], Nhat
Nguyen Nguyen và cộng sự [148]...). Huong Nguyen [122] trong bài viết
“Globalization, consumerism, and the emergence of teens in contemporary
vietnam” [Toàn cầu hoá, chủ nghĩa tiêu dùng và sự xuất hiện của lứa tuổi thanh
thiếu niên ở Việt Nam đương đại] đã lịch sử hóa sự xuất hiện và phổ biến của thuật
ngữ “tuổi teen” ở Việt Nam đồng thời chỉ ra những yếu tố khiến “tuổi teen” trở
thành một thuật ngữ quen thuộc với giới trẻ Việt Nam đó là: sự nới lỏng của chính
phủ, việc gia nhập các tổ chức quốc tế của Việt Nam (ASEAN, WTO), sự tấn công
của các nhãn hàng và các tập đoàn kinh tế đối với các “cơ quan” truyền thông có tác
động mạnh và trực tiếp tới thanh thiếu niên Việt Nam như các tờ báo tuổi teen
(Thiếu niên tiền phong, Hoa Học trò), sự lan truyền của văn hóa tiêu dùng...
Một số nghiên cứu đã phân tích những ảnh hưởng của truyền thông tới giới
trẻ khi cho rằng trong một “thế giới phẳng” (từ dùng của Friedman [15]), công nghệ
thông tin phổ biến rộng rãi với những tiện ích không giới hạn. Chính vì vậy, nó có
sức thu hút mạnh mẽ với thanh niên, sinh viên - nhóm dân số trẻ và năng động
(Nguyễn Quý Thanh [53]). Đặc biệt internet là một phương tiện truyền thông kiểu
mới đã góp phần hình thành nên một số giá trị xã hội mới ở giới trẻ (Bùi Hoài Sơn
[51]), “internet làm cho lối sống của sinh viên trở nên năng động hơn, hướng ngoại
nhiều hơn, định hướng giá trị mang tính tự do hơn so với các thế hệ sinh viên trước
kia” [53, tr. 239], góp phần “định hướng thẩm mỹ cho giới trẻ hiện nay” [67], đặc biệt
internet còn là phương tiện để giới trẻ kiến tạo bản sắc và kết nối đa chiều [5].
16
1.1.1.3. Những nghiên cứu về bản sắc và kiến tạo bản sắc ở giới trẻ
Bản sắc là một khái niệm được nhắc đến thường xuyên và là một trong các
“từ khoá” quan trọng trong các nghiên cứu về tiểu văn hóa giới trẻ, giúp phân chia
một tiểu văn hóa với văn hóa chính thống bao trùm và tạo nên một nhận dạng đặc
trưng của tiểu văn hóa đó. Nó được hình thành trong tương tác xã hội với những
người khác ở các tiểu văn hóa khác (Brake [79]) và xét cho cùng thì bản sắc và tạo
dựng được một bản sắc riêng biệt có thể được công nhận bởi văn hóa dòng chính
(mainstream) là mục đích chung cho sự phản kháng của các tiểu văn hóa. Cũng theo
các nghiên cứu về các tiểu văn hóa giới trẻ, cách thức tạo dựng bản sắc riêng của
các trào lưu văn hóa là thông qua các nghi lễ, các biểu tượng, ngôn ngữ và các thực
hành văn hóa (trang phục, âm nhạc, việc tụ tập...) của nhóm giới trẻ trong những bối
cảnh xã hội nhất định.
Thay vì tập trung vào những vấn đề như phản kháng, lật đổ nền văn hóa
chính thống của lí thuyết tiểu văn hóa thời kì trước những năm 1980, xu hướng tiếp
cận hậu tiểu văn hóa (post-subculture) sau này lại tập trung nhiều hơn vào sự khác
biệt. Những câu hỏi về sự khác biệt, về bản sắc của giới trẻ liên quan chặt chẽ với
sự phát triển cá nhân trong tiến trình đi tìm kiếm căn cước của chính mình. Giới trẻ
hiện nay có rất nhiều cách thức để kiến tạo và thể hiện căn tính, và như nhiều tác giả
đã chỉ ra, không có hoạt động nào của con người đạt được tiềm năng bộc lộ bản sắc
cá nhân rõ hơn giải trí (Chris Rojek [160], Henderson và cộng sự [117]). Hoạt động
giải trí giúp một người bộc lộ bản thân mình rõ nhất so với các hoạt động khác, con
người cởi bỏ được mọi âu lo, ràng buộc, khuôn khổ để làm những gì bản thân họ
thực sự muốn và yêu thích, để làm thỏa mãn chính họ, là một trong những không
gian sống trong đó, con người tự định nghĩa và trình bày chúng trước người khác
như một bản sắc (Dẫn theo Henderson và cộng sự [117, tr. 3]. “Thực hành giải trí có
thể mở đường cho việc khám phá bản thân và thể hiện bản thân” (Rojek) [160, tr.
6], giải trí có liên quan đến những vấn đề về chủ thể, đến sự lựa chọn, sự tự do và tự
xác định mục tiêu cá nhân, cũng như ý nghĩa của sự nhân ái (Rojek) [160, tr. 8].
Trong bối cảnh xã hội hiện đại ngày nay, các hình thức thời trang, âm nhạc,
phim ảnh, sử dụng mạng internet và các thiết bị công nghệ... đặc biệt là các hình
thức giải trí và tiêu dùng cũng là các phương tiện để giới trẻ kiến tạo và thể hiện bản
sắc một cách rõ ràng nhất.
17
Trang phục là một trong những cách góp phần quan trọng vào việc định danh
căn tính của cá nhân. Theo Carter (1967), quần áo là vỏ xã hội, là hệ thống các tín
hiệu mà qua đó chúng ta truyền bá ý định của mình, là sự tưởng tượng về bản thân,
là vũ khí, những thách thức, những vết thương có thể nhìn thấy... Chúng ta có thể sử
dụng quần áo để thách thức các định đề thống trị, nhưng chúng ta cũng dùng nó đưa
ra các tuyên bố về môi trường. “Chúng ta nghĩ trang phục thể hiện bản thân, nhưng
trên thực tế nó thể hiện môi trường của chúng ta, và như quảng cáo, nhạc pop, tiểu
thuyết... (Dẫn theo Brake [ 7 9 , t r . 13-14]. Nghiên cứu về thời trang và giới trẻ
hiện nay ở Việt Nam, Lương Thị Minh Hoa (2015) chỉ ra rằng nhiều bạn trẻ yêu
thích thời trang đã tìm ra cách thức thể hiện dấu ấn và tính cách cá nhân, diễn tả
cảm xúc, cái tôi của mình qua trang phục với mục đích khẳng định sự tồn tại của
mình trong xã hội và trở thành các “fashionista” (tín đồ thời trang). Sự ra đời của
fashionista đánh dấu cho sự ra đời của các sáng tạo văn hóa mới góp phần làm đa
dạng và phong phú, đây cũng là cơ hội, cũng là sân chơi để các bạn trẻ thể hiện cá
tính riêng và con người thật của chính mình, đó là những cá thể vượt trội, góp phần
tạo nên sự độc đáo và đặc biệt cho sự ra đời những con người mới trong xã hội [25].
Thời trang, âm nhạc và phim ảnh... không chỉ là những hình thức giải trí tiêu
biểu ở thanh niên, mà còn thúc đẩy sự xuất hiện và phát triển các bản sắc, các tiểu
văn hóa thanh niên (Bennett [75]). Chẳng hạn, trước những năm 1950, thanh thiếu
niên Anh được nhìn nhận chỉ là những phiên bản trẻ hơn của cha mẹ. Ý tưởng về
một nền văn hoá thiếu niên riêng biệt, hoặc bản sắc riêng biệt của giới trẻ không tồn
tại. Quá trình chuyển đổi giữa trẻ em và người lớn không được đánh dấu bởi bất kỳ
điều gì đặc biệt. Họ không phải là một nhóm riêng biệt với các giá trị và phong tục
riêng của mình cho đến khi chịu ảnh hưởng của văn hóa nhạc Rock’n Roll từ Mỹ
với biểu tượng của Elvis Presley. Đến 1960, tất cả đã thay đổi khi nhạc Pop và Rock
của Anh đứng nhất nhì thế giới, ngang hàng hoặc chỉ sau Mỹ. Văn hoá thanh thiếu niên ở Anh như vậy được xem là chỉ ra đời từ nửa cuối những năm 1950 trở về sau2.
Trong nghiên cứu về tiểu văn hoá nhạc Pop, Rupa Huq [123] cho rằng Pop
có khả năng cung cấp những cách thức để thoát khỏi hoàn cảnh của một người và
phát minh lại căn tính nhưng cũng có khả năng đóng vai trò trong việc nêu rõ hoặc
2 Theo “How It All Began- A Cultural Revolution”, nguồn: http://www.gpwu.ac.jp/~biddle/youth.htm.
thậm chí củng cố giới tính, dân tộc và tầng lớp của giới trẻ. Trước đó, mối quan hệ
18
giữa văn hoá thanh thiếu niên và nhạc Pop cũng từng là chủ đề nghiên cứu của
nhiều công trình (Brake [79], Bennett [75]).
Những nghiên cứu về âm nhạc và giới trẻ ở Việt Nam cũng đã chỉ ra mối
quan hệ giữa các thể loại, phong cách âm nhạc và việc kiến tạo bản sắc của giới trẻ,
dù là qua Hip Hop (Nguyễn Mai Kiên [34]) hay qua việc gắn bó với cây đàn ghita
(Vũ Thị Thanh Trà [63]). Theo Vũ Thị Thanh Trà, việc giới trẻ lựa chọn ghi ta để
chơi không đơn thuần là vì mục đích giải trí hay để đáp ứng nhu cầu “thị hiếu thẩm
mỹ” mà là để tạo ra “thị hiếu khác biệt”, để “khu biệt họ với các nhóm người khác,
hình thành nên một nhóm xã hội có bản sắc riêng, có vị thế xã hội” [63, tr. 145].
Ở thời đại hiện nay, người ta không thể xem xét căn tính các cá nhân và
nhóm xã hội mà không đặt nó trong bối cảnh truyền thông mới. Truyền thông đã
thay đổi bối cảnh kiến tạo căn tính, đồng thời cung cấp những khía cạnh căn tính
mới. Việc tiêu thụ các chương trình giải trí, các sản phẩm công nghệ như điện thoại
di động, máy tính bảng, internet... giúp giới trẻ đạt được cảm giác “cool” (ngầu) của
“những người dẫn đầu xu hướng” và gia tăng sự kết nối (Wang [177], D’heer,
Courtois, Paulussen [95]; Goggin [109]). Từ việc khảo sát thói quen dùng Facebook
qua các thiết bị di động như một cách để giải trí, Purnama [155] đã tìm hiểu bản sắc
của giới trẻ đã thể hiện qua cách mà họ thực hành như thế nào trên facebook của
mình: giao tiếp, chơi các trò chơi trực tuyến... và chỉ ra rằng bản sắc của họ (những
người trẻ ưa thích và cập nhật nhanh các thiết bị công nghệ, những người tôn thờ
nền văn hóa đại chúng và truyền hình) là do chính họ tạo ra trước tác động của
truyền thông và từ chính những thực hành truyền thông của họ (sử dụng facebook,
chơi game...). Thậm chí lựa chọn trở thành một hacker cũng là một cách để giới trẻ
định vị căn tính của mình (Nguyễn Trung Hiếu [22]).
Nhìn chung, các nghiên cứu về giới trẻ nói trên đã chỉ ra rằng văn hóa giới trẻ
là một tiểu văn hóa, một nhóm tuổi với những đặc trưng riêng. Qua những tư liệu
nghiên cứu đi trước, có thể thấy một bức tranh đa dạng, phong phú về đời sống giới
trẻ Việt Nam hiện nay: có những nhóm giới trẻ mê game online (Trần Thị Minh Đức
2007), có nhóm mê hip hop (Nguyễn Mạnh Kiên 2014), có nhóm thích ghita (Vũ Thị
Thanh Trà 2017), có nhóm hâm mộ thần tượng… Các nghiên cứu trên đã cho thấy
giới trẻ không phải là một nhóm thuần nhất mà khá đa dạng về cả tâm lí, sở thích, thị
hiếu, trình độ, lối sống… do đó, những ảnh hưởng của toàn cầu hóa, truyền thông,
19
văn hóa đại chúng và tiêu dùng đối với giới trẻ cũng không đồng nhất mà theo những
mức độ khác nhau. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển như vũ bão
của truyền thông - nơi mà thế giới ngày càng “phẳng”, hơn ai hết, giới trẻ luôn là
những người nỗ lực định hình căn tính cá nhân một cách mạnh mẽ nhất.
1.1.2. Những nghiên cứu về hâm mộ thần tượng
1.1.2.1. Nghiên cứu về người nổi tiếng/ thần tượng
Những nghiên cứu về thần tượng - đối tượng được hâm mộ, chủ yếu xoay
quanh chức năng, ý nghĩa của thần tượng đối với người hâm mộ nói riêng và với
nền văn hoá đại chúng nói chung.
Thần tượng được coi là người “có tài năng, thành tích, địa vị, hoặc sự xuất
hiện hình ảnh được đặc biệt công nhận hoặc đánh giá bởi người hâm mộ của mình”
(Yue & Cheung) [181, tr. 91]. Thần tượng, ngôi sao, người nổi tiếng được tiếp cận
như là một sản phẩm của truyền thông và văn hóa đại chúng (Dyer [96]; Turner
[176]; Duffett [95]; Marshall [143]), một thương hiệu con người (human brand)
(Thomson [172])... Rojek [161] coi người nổi tiếng là những người thu hút “vốn chú
ý” của công chúng. Sự phóng đại của truyền thông về văn hoá người nổi tiếng đã
tạo ra một xu hướng mới mẻ cho khán giả để mô phỏng lại sự chú ý này.
Các ngôi sao còn được coi là sản phẩm của chủ nghĩa cá nhân (Dyer [96],
Marshall [143]). Trong cuốn sách Stars (1979 [1998]), dựa trên việc phân tích các
nhân vật ngôi sao cụ thể, Dyer đã chỉ ra ý nghĩa xã hội của họ, đồng thời tập trung
vào mối quan hệ giữa hình ảnh ngôi sao và diễn ngôn của chủ nghĩa cá nhân. Ngôi
sao là một “hiện tượng của sản xuất”, đồng thời là một “hiện tượng của tiêu thụ”
với hàm ý rằng chính khán giả cũng là một lực lượng để sản xuất ra các ngôi sao
[96, tr. 10-17]. Còn Marshall [143] trong công trình Celebrity and Power: Fame in
Contemporary Culture [Người nổi tiếng và quyền lực: danh tiếng trong văn hoá
đương đại] đã đặt ra và giải quyết những câu hỏi cốt lõi như: Sự nổi tiếng trong văn
hóa đương đại là gì, ý nghĩa của người nổi tiếng là gì và họ có ảnh hưởng như thế
nào đến công chúng cũng như đến việc thay đổi diễn ngôn công cộng? cách người
nổi tiếng hoạt động trong thế giới ngày nay ra sao và họ thể hiện quyền lực, sức
mạnh gì?. Cũng giống như Dyer (1979), Marshall cho rằng hiện tượng người nổi
tiếng trong bối cảnh phương Tây bắt nguồn từ những ý tưởng triết học của chủ
nghĩa cá nhân, là một sản phẩm của chủ nghĩa tư bản. Do đó, diễn ngôn về người
20
nổi tiếng và quyền lực của họ trở nên phổ biến và có tác động không nhỏ trong một
nền văn hóa dân chủ, tiêu dùng, trong đó khán giả đại chúng trở thành đối tượng
trung tâm của việc xác định giá trị của một cá nhân.
Các ngôi sao, người nổi tiếng, thần tượng được phân loại theo các cách khác
nhau. Marshall chia ngôi sao thành 3 loại: ngôi sao phim ảnh, ngôi sao truyền hình
và ngôi sao âm nhạc. Trái ngược với ngôi sao phim ảnh (hào quang và sự hấp dẫn
của ngôi sao được xây dựng xung quanh khoảng cách của họ với khán giả và sự bí
ẩn bao quanh cuộc sống của họ), người nổi tiếng trên truyền hình lại thu hút khán
giả bởi sự quen thuộc, được mọi người chấp nhận bởi sự hiện diện liên tục trên các
chương trình mà họ xem ở nhà (Marshall [143]). Các công cụ để phân tích người
nổi tiếng như một dạng sức mạnh văn hóa, đã khám phá những cách mà chúng ta có
thể giải nén bản chất của quyền lực của người nổi tiếng. Trong mô hình tư bản của
người tiêu dùng, người nổi tiếng thấm vào thế giới xã hội của chúng ta ở một mức
độ cao, đến mức mọi thứ chúng ta trải nghiệm đều được lọc qua lăng kính của
người nổi tiếng.
Một số nghiên cứu lại chia các ngôi sao thành 3 loại: ngôi sao điện ảnh, ngôi
sao ca nhạc và ngôi sao thể thao (hay còn gọi là mô hình ‘tôn thờ ba ngôi sao’)
(Cheung & Yue [87]; Yue, Wong & Cheung [182]). Chiếm đa số trong các thần
tượng của giới trẻ là các ngôi sao âm nhạc. Lí giải về việc một phần lớn các thần
tượng của giới trẻ hiện nay là các ca sĩ nhạc Pop, Chan [85] cho rằng nghe nhạc Pop
là một hình thức giải trí quan trọng cho giới trẻ và các ca sĩ nhạc Pop thường được
giới trẻ tôn sùng bởi nó mang lại cho họ cảm giác về sự trẻ trung và đại chúng.
Thêm vào đó, những người hâm mộ trẻ tuổi dễ dàng bị thu hút bởi những ngôi sao
điện ảnh và ca sĩ nhạc Pop có vẻ ngoài đẹp đẽ, tính tình tốt và những màn trình diễn
xuất sắc (Leung [136]; Cheung & Yue [86], [87]).
Một số nghiên cứu phân loại người nổi tiếng dựa theo cách hiểu, cách định
nghĩa về người nổi tiếng trong bối cảnh văn hóa đại chúng và truyền thông.
Hefzallah (1987) cho rằng: “Anh hùng là người trở nên nổi tiếng vì những thành
tích anh ấy hoặc cô ấy phấn đấu và đạt được. Còn người nổi tiếng là người được
biết đến rộng khắp trong xã hội” (Dẫn theo Nguyễn Thu Giang [16]). Trước đó,
Broostin (1982: 61) quan niệm: “Người anh hùng tự tạo ra chính mình, còn người
nổi tiếng do truyền thông tạo ra” (Dẫn theo Nguyễn Thu Giang [16]). Broostin cho
21
rằng chính các phương tiện truyền thông đã tạo ra hệ thống kí hiệu riêng cho người
nổi tiếng bằng ngôn ngữ và hình ảnh đặc biệt, và bất cứ người bình thường nào
được đưa vào hệ thống này đều sẽ trở thành người nổi tiếng ngay lập tức.
Với sự phát triển của truyền thông, việc hâm mộ người nổi tiếng dường như
là tất yếu, thậm chí, theo Hills [118], việc tôn thờ người nổi tiếng tràn ngập, thấm
đẫm xã hội đương đại. Bất cứ ai cũng có thể trở thành người nổi tiếng và bất cứ sự
kiện nào cũng có thể trở thành sự kiện nổi tiếng. Tuy nhiên, với những nhân vật nổi
tiếng với thời gian như Elvis Presley, công nương Diana... thì ngoài những phẩm
chất độc đáo, sự nổi tiếng của họ còn được thúc đẩy bởi truyền thông. Theo Rojek
[160], người nổi tiếng được chia thành ba loại: người nổi tiếng do nhân thân của họ
(chẳng hạn như các thành viên trong gia đình hoàng gia), người nổi tiếng do tài
năng thực sự của họ (nổi tiếng do tự họ đạt được, chẳng hạn các ngôi sao phim ảnh)
và người nổi tiếng do thu hút truyền thông và được truyền thông gán cho sự nổi
tiếng (chẳng hạn những người nổi lên nhờ các scandal hoặc được truyền thông chú ý đến).
Thần tượng hay người nổi tiếng cũng được xem xét với những chức năng xã hội
đặc thù. Bài viết của Nguyễn Thu Giang [16] về “Hiện tượng người nổi tiếng và chức
năng xã hội của nó” đã chỉ ra rằng người nổi tiếng như một diễn ngôn, bao chứa quyền
lực và được kiến tạo nên, như là hàng hóa. Tác giả cho rằng việc nhìn nhận người nổi
tiếng như một diễn ngôn dẫn đến việc có thể nhìn nhận họ như một văn bản (text) để từ
đó có thể “đọc” và tìm ra những ý nghĩa của văn bản đó trong điều kiện lịch sử, xã hội
nhất định. Bài viết cũng chỉ ra ba chức năng chính của người nổi tiếng: chức năng cân
bằng nhu cầu giao tiếp liên cá nhân của con người đô thị, chức năng cung cấp những
căn tính mới đa dạng và chức năng củng cố ý thức hệ.
Ngoài ra, người nổi tiếng có chức năng thúc đẩy tiêu dùng, “danh tiếng của
họ là một tài sản thương mại là nền tảng cho sự nghiệp của họ và phải được duy trì
và có chiến lược nếu họ tiếp tục hưởng lợi từ nó”, và nghiên cứu về người nổi tiếng
là cần thiết “để tìm ra cách lập bản đồ và hiểu được tầm quan trọng cấu trúc ngày
càng tăng của việc sản xuất và tiêu thụ danh tiếng đối với ngành công nghiệp truyền
thông và giải trí” (Turner) [173, tr. 16-18]. Trong bài viết của mình, Turner cũng
bàn thêm về truyền thông, văn hóa đại chúng, giải trí và tiêu dùng trong mối quan
hệ với chức năng xã hội và chức năng văn hóa của người nổi tiếng: “Chưa có dấu
hiệu nào cho thấy sự lan rộng của văn hoá người nổi tiếng đã đạt đến giới hạn của
22
nó. Thay vào đó, nội dung người nổi tiếng đã trở thành nền tảng cho các phương
tiện truyền thông trong thế kỷ XXI. Từ tạp chí thị trường đại chúng đến các chương
trình truyền hình hàng đêm cho đến các ấn bản trực tuyến, tin tức về người nổi tiếng
đã chứng tỏ khả năng thu hút sự chú ý và thúc đẩy tiêu dùng” [176, tr. 11].
1.1.2.2. Những khuynh hướng nghiên cứu về người hâm mộ
Hâm mộ thần tượng trở thành một hiện tượng nổi bật của giới trẻ thời đại
hiện nay với 70% giới trẻ có ít nhất một thần tượng (Chan) [85]. Cứ trong ba
người thì có ít nhất một người tham gia vào việc hâm mộ người nổi tiếng (Maltby,
Houran, McCutcheon [141]). Người hâm mộ chủ yếu được nghiên cứu từ góc độ là
một nhóm/ cộng đồng, một tiểu văn hóa dựa trên sự chia sẻ những nhu cầu, mục
đích và ý nghĩa chung (Kozinets [135]; Stever [169]; Click & Holladay [91]; Deen
[92]; Phan Thanh Thanh [171]; Duong Nguyen Hoai Phuong [157]).
Có một số lí do để nghiên cứu về người hâm mộ. Trước hết, sự hâm mộ là
một sự phản chiếu về chính chúng ta, bao gồm thị hiếu và giá trị của chúng ta (Deen
[92]; Jia, Hung và Zhang [131]). Theo Deen, các fan hâm mộ như một người tiêu
dùng đặc biệt đã trở thành trung tâm của các chiến lược tiếp thị truyền thông, người
hâm mộ thực sự có một vai trò quyết định trong việc tuyên truyền các sản phẩm văn
hóa thông qua sự tiêu dùng của họ; fandom mở ra diễn ngôn về quyền lực, thần
tượng được miêu tả là một dạng năng lượng mềm nơi mà những thị hiếu, khoan
dung văn hóa thay đổi bị ảnh hưởng thông qua các phương tiện truyền thông đại
chúng và các thành phần của nó. Nghiên cứu về người hâm mộ có thể cung cấp câu
trả lời cho các vấn đề hiện đại toàn cầu [92]. Jia, Hung và Zhang [131] thì lí giải
rằng bởi vì nó quan trọng đối với người hâm mộ, đặc biệt là cảm xúc của họ.
Nghiên cứu về fandom cho chúng ta sự hiểu biết sâu sắc hơn về cách mọi người kết
nối với những người khác, cũng như cách họ đọc các văn bản thông qua trung gian
(các idol) để tạo nên thế giới, cung cấp cái nhìn sâu sắc về mối quan hệ giữa hiện
tượng fandom và các biến đổi xã hội và văn hóa bao trùm trên thế giới. Fandom
đang trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại của chúng ta và
nó ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến các mô hình tiêu dùng, giao tiếp, nhận
dạng và sáng tạo toàn cầu. Hay nói khác đi, nghiên cứu về nhóm người hâm mộ có
thể mang lại hiểu biết sâu sắc về mối quan hệ giữa công chúng với truyền thông đại
chúng và cách thức mà truyền thông đang kiến tạo nên căn tính của mỗi cá nhân.
23
Một số nghiên cứu chỉ ra các vai trò của người hâm mộ. Galuszka [105]
trong bài viết “New Economy of Fandom” [Nền kinh tế mới của người hâm mộ]
đã thảo luận về năm vai trò mới mà người hâm mộ có thể đóng: nhà tài trợ,
người đồng sáng tạo giá trị, các bên liên quan, nhà đầu tư và người kiểm duyệt
(bộ lọc). Những vai trò này là các yếu tố của các loại mối quan hệ mới giữa
người hâm mộ và nghệ sĩ, đó là biểu hiện của sự xuất hiện của cái có thể gọi là
nền kinh tế mới của fandom. Sự xuất hiện của nền kinh tế mới của fandom có thể
dẫn đến việc xác định lại ý nghĩa của việc trở thành một người hâm mộ và đòi
hỏi người hâm mộ phải được nghiên cứu.
Người hâm mộ còn được nghiên cứu như một mạng lưới hùng mạnh có vai
trò như người mua, người tiêu dùng và người quảng bá nhiệt tình cho người nổi
tiếng. Những người hâm mộ được kết nối bởi truyền thông xã hội để tạo thành một
cộng đồng ảo. Họ là những người quảng bá công khai cho các thần tượng của mình
thông qua các hoạt động cụ thể: tham dự show diễn, xem phim, mua các sản phẩm
của thần tượng hoặc do thần tượng làm đại diện quảng cáo. Họ còn là người tạo ra
các văn bản, hình ảnh, video để quảng bá cho thần tượng (Marshall [143]). Người
hâm mộ đã tận dụng các nền tảng truyền thông để thiết lập nên cộng đồng của mình.
Deen trong bài “Formation, Purpose and Gains: An Exploratory Study of Hallyu
Fanclubs in the Philippines” [Sự hình thành, mục đích và lợi ích: một nghiên cứu về
các câu lạc bộ Hallyu ở Philippines] đã chỉ ra rằng các FC Hallyu được thành lập ở
đất nước này bởi những người hâm mộ với mục đích chính là hỗ trợ nghệ sĩ, thống
nhất người hâm mộ Phillipines và tiếp thị cho nghệ sĩ [92].
Các nghiên cứu về người hâm mộ lập luận rằng người hâm mộ luôn đi đầu
trong các biến đổi của ngành truyền thông, đặt ra vấn đề xác định lại mối quan
hệ giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng trong nền kinh tế kỹ thuật số (Hills
[118], Scott [164]). Các hoạt động của người hâm mộ ít nhất đã gián tiếp mang
lại lợi ích cho các tập đoàn hùng mạnh. Người hâm mộ cũng không phải là một
khối thụ động mà họ có khả năng giải mã sáng tạo những ý nghĩa đa dạng từ
hình ảnh ngôi sao, do đó họ là những khán giả năng suất, những khán giả khác
biệt và những người đọc các văn bản và hình ảnh truyền thông một cách tích cực,
sáng tạo (Fiske [101]). Do vậy, fandom truyền thông đang nhanh chóng được
24
xây dựng như một chiến địa màu mỡ - nơi các nền kinh tế quà tặng trực tuyến và
văn hóa hàng hóa sẽ được đàm phán (Scott [164]).
Nhiều nghiên cứu chỉ ra nguyên nhân khiến các cá nhân bị thu hút và hâm
mộ thần tượng của mình. Theo Yue & Cheung [181, tr. 91], sự tôn thờ thần tượng ở
vị thành niên được hình thành từ sự lôi cuốn bởi những nhân vật nổi tiếng mà họ
yêu thích. Thanh thiếu niên thường xây dựng những mối quan hệ tưởng tượng giữa
họ và những con người xa xôi, như ngôi sao nhạc Pop và những người nổi tiếng
trong các bộ phim và điều này có thể được hiểu như là một sự chuyển đổi mối quan
tâm, tình cảm đối với người nuôi nấng và những mối quan hệ thân tình sang những
mối quan hệ lãng mạn hơn ở thanh thiếu niên.
Với nhiều cá nhân, thần tượng là người đầu tiên mang đến cho họ những
ham muốn về tình dục ở thời niên thiếu dù chỉ bằng cách chiêm ngưỡng các poster
(tranh ảnh). Đến thời trung niên, thần tượng giúp họ “quay trở lại thời thanh niên”
(Anderson [72]). Đây có lẽ là sự lí giải cho việc nhiều người trung tuổi vẫn hâm mộ
một cách trung thành với thần tượng từ thời trẻ của mình (Kotarba [132], Anderson
[72]). Một số nghiên cứu khác đã chỉ ra bản chất hướng nội và sự thiếu vắng các
mối quan hệ xã hội trong thực tế khiến người hâm mộ trẻ mải mê tập trung sự chú ý
vào thần tượng (Green & Adam-Price [113]; McCutcheon, Lange và Houran [140]).
Sự tôn thờ thần tượng ở thanh thiếu niên được xem là một hoạt động bền
vững được duy trì bởi ngành công nghiệp giải trí và báo chí (Yue, Wong và Cheung
[182]; Turner [174]). Người nổi tiếng do đó cũng cần phải được hiểu và nghiên cứu
như là “một ngành công nghiệp” và như “một loại hàng hóa” [175, tr. 16-18]. Nó là
một sản phẩm của chủ nghĩa tư bản, tạo ra lợi nhuận bằng cách nuôi dưỡng chủ
nghĩa tiêu dùng thông qua việc tôn thờ các ngôi sao (Dyer) [96]. Những người nổi
tiếng được sử dụng trên truyền thông như người phát ngôn cho các sản phẩm và
dịch vụ nhắm đến những người trẻ tuổi. “Tôn thờ thần tượng có thể trở nên phổ
biến hơn như hiện nay là do thu nhập ngày càng tăng của người dân để duy trì việc
mua các sản phẩm liên quan đến hâm mộ thần tượng (Hall 1964, Jenson 1992)”
(Dẫn theo Cheung & Yue) [87, tr. 251].
Một số nghiên cứu cũng chỉ ra rằng bối cảnh xã hội và đặc thù địa phương là
một yếu tố chi phối đến việc lựa chọn ai là thần tượng của giới trẻ (Liu [136]; Yue,
Cheung & Wong [182]). Nếu như thanh thiếu niên Hồng Kông thể hiện sự hâm mộ
25
tới chủ yếu là các ngôi sao liên quan đến giải trí thì thanh thiếu niên ở Trung Quốc
đại lục lại quan tâm nhiều hơn đến các thần tượng về chính trị. Điều này được Yue,
Cheung, và Wong [182] giải thích là có liên quan đến sự theo đuổi chủ nghĩa duy
tâm và chủ nghĩa duy lí ở thanh thiếu niên ở hai địa phương này. Theo đó, thanh
thiếu niên Hồng Kông thường chú ý tới các tính năng tình dục và lãng mạn của thần
tượng trong khi thanh thiếu niên Trung Quốc đại lục lại theo lại tập trung vào các
tính năng ý thức hệ và ý thức của thần tượng của họ. Nghiên cứu này cũng chỉ ra
rằng có một mối tương quan nhất định giữa sự tự ý thức của các cá nhân với hâm
mộ thần tượng, nữ giới có thái độ tôn thờ thần tượng cao hơn nam giới trong khi đó
nam giới có mức độ yêu bản thân cao hơn nữ giới.
Các xu hướng và các cấp độ hâm mộ thần tượng cũng là chủ đề của một số
nghiên cứu. Có hai xu hướng hâm mộ thần tượng ở giới trẻ đó là: học tập, bắt chước
những hình mẫu thần tượng trên truyền thông (mô hình vai trò học tập), và phê
phán những biểu hiện xấu của thần tượng trên truyền thông (mô hình vai trò phủ
định) (Chan [85]). McCutcheon, Lange và Houran (2002) đã khái niệm hóa sự tôn
thờ thần tượng (celebrity worship) và phát triển một thang đo thái độ thần tượng
(celebrity attitude scale) với 3 cấp độ:
Cấp độ đầu tiên đó là mức “giải trí - xã hội”. Ở mức này, người hâm mộ chỉ
đơn giản là thích và thảo luận về những điều thần tượng làm.
Cấp độ thứ hai, người hâm mộ thường xuyên nghĩ về thần tượng, có thể là
hàng ngày, hàng giờ, được gọi là cấp độ “mãnh liệt - cá nhân”. Những người
ở mức này thường tham gia vào các fan club, có tính hướng nội và hành
động cảm tính.
Cuối cùng là mức “ranh giới - bệnh lý”, ám chỉ những người hâm mộ sẵn
sàng làm mọi việc phạm pháp nếu được thần tượng yêu cầu. Người ở mức
này có biểu hiện cực đoan như ảo tưởng thần tượng yêu mình (erotomania),
chủ động theo dõi thần tượng, thậm chí viết thư từ với nội dung không phù
hợp cho thần tượng [140].
North và Hargreaves [151] còn thêm vào thang đo trên một mức độ hâm mộ
nữa, gọi là “bắt chước tai hại”. Người hâm mộ ở mức độ này sẵn sàng bắt chước
mọi hành vi của thần tượng, dù là nhỏ nhất. Bất cứ ai rơi vào hai mức độ cuối cùng
trong thang này có thể được gọi là một “fan cuồng”. Tình trạng fan cuồng diễn ra
26
đặc biệt nhiều ở lứa tuổi vị thành niên, khi nhân cách chưa phát triển hoàn chỉnh và
dễ chịu tác động của bạn bè cùng trang lứa. Khi trở thành fan cuồng, con người bắt
đầu có những hành động quá khích. Động cơ hành động của họ có nguyên tắc khá
giống các chất gây nghiện. Họ có xu hướng xây dựng bản thân theo hình mẫu của
thần tượng, thậm chí tưởng tượng thần tượng yêu mình và phụ thuộc vào mình…
Một số nghiên cứu quan tâm đến mối quan hệ và tác động qua lại giữa thần
tượng và người hâm mộ. Mối quan hệ xã hội cộng sinh giữa fan và thần tượng đã
được Stever chỉ ra như sau: 1. Các tiểu văn hóa người hâm mộ đã tạo cơ hội để phát
triển các kĩ năng quý giá cho nghề nghiệp sau này ở người hâm mộ; 2. Người hâm
mộ có nhiều cơ hội để tạo dựng mạng lưới xã hội của mình (thậm chí là mạng lưới
quan hệ xuyên quốc gia); 3. Người hâm mộ được tham gia vào các hoạt động cộng
đồng có sự hợp tác giữa fan và nghệ sĩ, chẳng hạn như các hoạt động từ thiện; 4. Sự
tương tác giữa người hâm mộ và thần tượng mang lại cho người hâm mộ cảm giác
được đóng góp vào sự nghiệp và thành công của nghệ sĩ; 5. Việc trở thành người
hâm mộ của ai đó mang lại nhiều hứng thú cho cuộc sống thường ngày nhàm chán
của họ [169, tr. 2]. Các “quyền lợi” của fan hâm mộ mà Stever chỉ ra qua ý 4 và 5
cho thấy rằng qua những thực hành hâm mộ thần tượng, người hâm mộ có thể có
được cảm giác quyền lực và cảm giác được lấp đầy cảm xúc. Đây là những “quyền
lợi” vô hình nhưng lại có vai trò lớn trong việc gắn bó của fan với thần tượng.
Do tồn tại một mối quan hệ hữu cơ giữa thần tượng và người hâm mộ nên
những tác động về mặt hiệu quả của việc quảng cáo khi các thương hiệu sử dụng
hình ảnh người nổi tiếng và sự xác nhận của họ (celebrity endorsement) về một
hàng hóa, một sản phẩm trong quảng cáo đối với giới trẻ là rất lớn (Chan và cộng
sự) [86]. Sự ảnh hưởng của người nổi tiếng đến giới trẻ/ người tiêu dùng phụ thuộc
ba yếu tố: mức độ nổi tiếng (quen thuộc, quen mặt) của người nổi tiếng, hình ảnh
tích cực của người nổi tiếng, và sự tương đồng giữa người nổi tiếng và các nhãn
hàng mà họ đại diện/ quảng cáo.
Bên cạnh đó, cũng có những nghiên cứu chỉ ra tác động tiêu cực của việc
hâm mộ thần tượng một cách cuồng tín. Jenson [130] cho rằng, hâm mộ thần tượng
làm suy giảm thành tích học tập của thanh thiếu niên. Việc đam mê quá mức một
thần tượng nào đó cũng làm tăng chứng loạn thần kinh, bạo lực, tự tử, sex, sử dụng
ma túy và nói tục ở giới trẻ (Lynxwiler & Gay) [139]. Ngoài ra sự hâm mộ quá mức
27
thần tượng cũng liên quan đến sự suy giảm sức khỏe (Maltby và cộng sự) [141].
Một số nghiên cứu cũng phản ánh sự liên quan giữa sự kém yêu mến chính mình
với bệnh tâm thần, bởi hâm mộ thần tượng liên quan đến sự lo lắng, phiền muộn và
triệu chứng rối loạn chức năng xã hội (North và cộng sự) [152].
1.1.2.3. Những nghiên cứu về hâm mộ thần tượng và kiến tạo bản sắc ở giới trẻ
Hâm mộ thần tượng còn được soi chiếu dưới góc độ kiến tạo bản sắc. Giới
trẻ chịu ảnh hưởng rất nhiều từ thần tượng của mình, chẳng hạn về vai trò giới
(Chan [85], Anderson [72], Parker [155]) hay tự nhận thức về bản thân (Ka Ki
Cheung [89], Cheung và Yue [87]).
Thần tượng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình tự nhận thức và phát
triển bản sắc của giới trẻ. Những người hâm mộ trẻ tuổi xem xét một thần tượng nổi
tiếng như là hình ảnh tự tưởng tượng của họ (Chan [85]). Trong nghiên cứu về việc
những cô gái trẻ (10-12 tuổi) học được gì về vai trò giới từ những người nổi tiếng,
Chan [85] cho rằng các cô gái này lấy cảm hứng từ những người nổi tiếng và nhân
vật truyền thông để theo đuổi một nhận dạng đó là thông minh, thành đạt, độc lập,
tự tin và biểu cảm. Kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu về giới trẻ ở Hong
Kong, những người thường xuyên tiêu thụ tạp chí phụ nữ để xây dựng một hình ảnh
lí tưởng về sự hiện đại và vẻ đẹp nổi bật (Fung) [102]. Sự khác biệt là nếu như các
cô gái trẻ (10-12 tuổi) tập trung hơn vào tài năng, năng lực của những người nổi
tiếng và các nhân vật truyền thông thì những người được phỏng vấn trong nghiên
cứu của Fung [102] (về độc giả của tạp chí phụ nữ) nhấn mạnh nhiều đến trang
phục của người nổi tiếng và các mô hình nổi bật trên các tạp chí. Người nổi tiếng
đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định vai trò giới của các cô gái trẻ theo
hướng xác định rõ ràng các mô hình giới tích cực và tiêu cực.
Kozinets [135] qua nghiên cứu về người hâm mộ Star Trek cho rằng các sản
phẩm tiêu dùng giải trí (văn hóa đại chúng thương mại) đã góp phần vào việc xây
dựng bản sắc và ý thức về những gì quan trọng trong cuộc sống, khám phá lí do tại
sao một số hành vi và sản phẩm nhất định được văn hóa coi là thiêng liêng hay thế
tục. Kozinets đã chỉ ra cách thức căn tính của người hâm mộ đã được kiến tạo nên
để kết nối với các ý tưởng có tính lý tưởng và được tích hợp vào trong truyền thông
như thế nào. Theo ông, Star Trek bao hàm những ý nghĩa liên quan đến chủ nghĩa
quân bình, hi vọng và chủ nghĩa không tưởng. Mỗi người hâm mộ - người tiêu dùng
28
sẽ có cách giải mã khác nhau về seri phim này và sự giải mã của họ sẽ phản ánh về
hình ảnh thế giới mà họ mong muốn. Còn Ka Ki Cheung [89] đã tập trung phân tích
các khía cạnh của việc tiêu thụ thần tượng (idol consumption) và kiến tạo bản sắc
(identity construction) ở người hâm mộ trẻ Hồng Kông và nhận định rằng việc tiêu
thụ các ý nghĩa từ hâm mộ thần tượng có vai trò quan trọng trong việc tự nhận thức
và phản kháng của giới trẻ.
Cách tiêu thụ thần tượng của giới trẻ còn cho thấy nhiều điều về bối cảnh
kinh tế, văn hoá, xã hội mà họ sống. Tiêu thụ thần tượng ở fandom Jay Chou (một
ca sĩ thần tượng của Hồng Kông) được Anthony Y.H. Fung (2009) giải thích có liên
quan đến sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng XHCN của đất nước này.
Trong nghiên cứu này, tác giả đã chỉ ra cách mà Jay Chou đã bán hình ảnh “cool”
của mình cho khán giả của anh ấy. Người hâm mộ tiêu thụ thần tượng là tiêu thụ ý
nghĩa về chủ nghĩa cá nhân, sự độc lập, bướng bỉnh, những giá trị của văn hóa giới
trẻ trong các xã hội phương Tây tự do. Việc tiêu thụ thần tượng này được phân tích
trong mối liên hệ với sự trỗi dậy của văn hóa đại chúng và chủ nghĩa tiêu dùng ở
Trung Quốc - như một dấu hiệu biểu đạt cho tự do, khi công chúng tự lựa chọn thị
trường và theo đuổi những ham muốn và thú vui cá nhân - điều mà dưới chế độ độc
tài trước đây không thể có, đồng thời phản ánh những va chạm về chuẩn mực và giá
trị xã hội trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường XHCN. Cách tiêu
thụ thần tượng ở giới trẻ Trung Quốc được chỉ ra là cách mà thế hệ mới này đối phó
với nền văn hóa tiêu dùng toàn cầu và cách họ hiểu những hình ảnh trong văn hóa
đại chúng trong quá trình tìm kiếm bản sắc và khám phá những giá trị giới tính của
họ [103].
Các thần tượng không chỉ là cầu nối giữa giới trẻ với thế giới, với các nền
văn hóa khác, gia tăng cơ hội học hỏi mà còn là phương tiện để người hâm mộ tìm
kiếm và nhận ra những căn tính phù hợp với bản thân mình (Phan Thanh Thanh
[171]).
Việc lấy thần tượng ngôi sao và người nổi tiếng làm hình mẫu góp phần tích
cực cho việc củng cố sự tự tin ở giới trẻ. Theo Cheung và Yue (2003), “tôn thờ thần
tượng không phải luôn luôn gây bất lợi cho sự phát triển của thanh niên. Nó có thể
đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của thanh niên ở Hồng Kông” [88]. Từ đó,
các tác giả cho rằng những người hâm mộ trẻ tuổi cần phải đóng vai trò tiên phong
29
trong việc lựa chọn hình mẫu từ các thần tượng mà họ hâm mộ, tránh trở thành nô
lệ cho các thần tượng, bởi điều đó có thể làm suy yếu sự tự tin, tiềm năng và phẩm
giá của họ. Quay lưng lại với các ngôi sao được thúc đẩy bởi ngành công nghiệp
(sao nhất thời) và di chuyển về phía những ngôi sao tỏa sáng qua thời gian (ngôi sao
nổi tiếng bởi thực lực) sẽ là đường đi đúng đắn cho việc hâm mộ thần tượng
(Cheung & Yue) [88].
Ở Việt Nam, hâm mộ thần tượng được nhắc đến chủ yếu trong các bài báo
mô tả về các fan cuồng của K-Pop, hoặc được nhắc đến một cách ngắn gọn, sơ lược
như một hệ quả của sự ảnh hưởng của truyền thông đến thị hiếu, lối sống, văn hoá
tiêu dùng của giới trẻ (Phan Thị Oanh [44], Đặng Thiếu Ngân [41]) và việc hình
thành hệ giá trị cho giới trẻ Việt Nam (Đặng Thị Thu Hương [31], Lê Thị Phước
Thảo [54]), chưa có một nghiên cứu chuyên sâu nào về hiện tượng văn hóa này ở
giới trẻ từ góc nhìn chủ thể, góc nhìn kiến tạo bản sắc. Có thể nói, đây chính là
khoảng trống để đề tài luận án của tôi quan tâm bổ sung, làm rõ.
Như vậy, hiện tượng hâm mộ thần tượng ở giới trẻ đã được nghiên cứu từ
nhiều góc nhìn, khía cạnh khác nhau trong các nghiên cứu nước ngoài, chủ yếu tập
trung vào chức năng của thần tượng (người nổi tiếng) và vai trò, ảnh hưởng của
thần tượng đến giới trẻ; mối quan hệ giữa fan hâm mộ và thần tượng; sự thúc đẩy
giải trí và tiêu dùng dựa trên hâm mộ thần tượng. Từ những nghiên cứu trên có thể
thấy hâm mộ thần tượng là thực hành văn hóa xuất phát từ cả nhu cầu tâm lí và nhu
cầu xã hội của mỗi cá nhân. Yếu tố tâm lí khiến cá nhân yêu thích thần tượng nào
đó mà có thể hoặc đôi khi chính họ không thể lí giải được. Yếu tố xã hội là những
bối cảnh tác động, chi phối khiến cá nhân lựa chọn yêu thích người nào đó. Sự lựa
chọn hâm mộ và cách hâm mộ một ai đó sẽ cho thấy cá tính, bản sắc của mỗi người.
Dù còn ít khai thác đến những thực hành hâm mộ thần tượng cụ thể cũng như ý
nghĩa của việc hâm mộ thần tượng trong việc xây dựng căn tính cá nhân, tuy vậy,
các nghiên cứu này là những gợi ý quan trọng để chúng tôi kế thừa và phát triển
trong luận án của mình.
30
1.2. Cơ sở lý luận và các khái niệm liên quan
1.2.1. Các khái niệm được sử dụng trong luận án
Giới trẻ
Khái niệm “giới trẻ” (youth) là chủ đề còn nhiều tranh luận của các học giả ở
Việt Nam cũng như trên thế giới. Có nhiều thuật ngữ khác nhau được sử dụng để
nói về những người trẻ như: tuổi trẻ, giới trẻ, thanh niên, thanh thiếu niên... tuy
nhiên vẫn chưa có một định nghĩa khoa học nào cho khái niệm này được giới
nghiên cứu chấp nhận rộng rãi.
Trong ngôn ngữ đời thường, giới trẻ hay thanh niên (youth) được hiểu là
“Người còn trẻ, đang ở độ tuổi trưởng thành” (Từ điển tiếng Việt 2003) [66, tr. 913];
hoặc “Là người trẻ tuổi, trong giai đoạn giữa tuổi thơ ấu và tuổi người lớn, hăng hái,
nhiệt tình hoặc thiếu kinh nghiệm hoặc chỉ những đặc trưng khác của độ tuổi này.
Khi được dùng ở dạng số nhiều thì từ này chỉ tập hợp những người trẻ tuổi” (Từ
điển Oxford 1994, tr. 877, Dẫn theo Phạm Hồng Tung) [60, tr. 39]. Xét về độ tuổi,
Mizuko Ito và cộng sự [124, tr. 9] sử dụng thuật ngữ “trẻ em” (kids) đối với những
người 13 trở xuống, “thiếu niên” (teens) đối với những người tuổi từ 13 đến 18, và
“người trẻ” (young people) cho thiếu niên và người lớn trẻ tuổi từ 13 đến 30. Đặng
Cảnh Khanh cho rằng thanh niên là những người từ 15 - 34 tuổi, chiếm 1/3 dân số
cả nước [35, tr. 76]. Theo Mary Bucholtz [80], tùy theo cấu trúc và đặc trưng xã
hội, về tâm sinh lí (của tộc người hay chủng tộc) hay ở từng hoàn cảnh, đặc biệt ở
xã hội hiện đại, tuổi thanh niên có thể giãn biên độ ngoài tuổi 40 và trước tuổi 15.
Như vậy, giới trẻ được hiểu là những người trẻ tuổi, có thể trùng với độ tuổi
quy định trong Luật Thanh niên (16-30 tuổi) nhưng không nhất thiết bị giới hạn
chính xác trong khung tuổi đó mà có thể chênh lệch một vài tuổi so với độ tuổi được
quy định. Trong luận án này, giới trẻ được nhắc đến chủ yếu trong độ tuổi 16-30.
Giới trẻ là một khái niệm không đồng nhất (về độ tuổi, nơi sinh sống, trình
độ, nghề nghiệp...), các đặc điểm tâm lí, xã hội của họ khá đa dạng, họ là những
người trẻ trung, năng động, ưa mới mẻ và khác biệt, ưa thử nghiệm, thích lựa chọn
và ướm thử các vai trò xã hội, ngay cả khi họ còn chưa được chuẩn bị đủ tốt cho
những thử nghiệm đó, nhiều hoài nghi, dễ xung đột với thế hệ đi trước, thậm chí cố
tình phủ nhận, làm khác, coi đó như một phương thức để khẳng định mình. Họ cũng
31
là những người năng động, chủ động, tích cực trong việc chuẩn bị hành trang cho
tương lai của bản thân mình và quốc gia, dân tộc.
Khác với giới trẻ phương Tây, giới trẻ Việt Nam giữ mối liên hệ khá chặt
chẽ với gia đình, họ cũng là một lực lượng sản xuất chiếm số đông trong xã hội, là
thế hệ tiếp thu văn hóa đại chúng mạnh mẽ (Đặng Thiếu Ngân) [41, tr. 9]. Vì vậy,
bên cạnh những gì họ bị ảnh hưởng do tiếp nhận những sự trao truyền, giáo dục của
thế hệ đi trước, thì họ luôn có lựa chọn của riêng mình và thế hệ mình. Trong thời
đại toàn cầu hóa, họ còn chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố văn hóa, tri thức, kinh
nghiệm, giá trị và lựa chọn của các cộng đồng và cá nhân khác trên thế giới. Bên
cạnh việc chia sẻ đặc điểm chung về độ tuổi, tính cách và xu hướng lối sống, giới
trẻ còn được hiểu là những người cùng chia sẻ những hệ thống giá trị, ý nghĩa biểu
trưng của riêng họ.
Đời sống giới trẻ
Đời sống giới trẻ bao gồm tất cả những yếu tố liên quan đến đời sống vật
chất và đời sống tinh thần của giới trẻ, từ thói quen, thị hiếu, sở thích đến hành vi
của các cá nhân và các nhóm giới trẻ, chẳng hạn về thời trang, âm nhạc, việc học
tập, tiêu dùng, hoạt động vui chơi giải trí... Đời sống giới trẻ là những biểu hiện ra
bên ngoài của văn hóa giới trẻ, chịu sự chi phối của văn hóa giới trẻ với cách hiểu
văn hóa giới trẻ là một hệ thống các ý nghĩa biểu trưng, các giá trị được giới trẻ
cùng chia sẻ và kiến tạo. Ở luận án này, tôi quan tâm nhiều hơn đến các khía cạnh
đời sống tinh thần của giới trẻ, chẳng hạn nhu cầu và đòi hỏi riêng biệt về sáng tạo
và cảm thụ văn hóa, những đặc điểm riêng về tâm sinh lí, về tình cảm và nhận thức,
về việc xử lí các mối quan hệ xã hội... Bất cứ thực hành văn hóa nào của giới trẻ
như giải trí, tiêu dùng cũng đều là một trong những con đường kiếm tìm và thể hiện
căn tính khác biệt của giới trẻ, là một cách thức giúp cho họ nhận diện được họ là ai
trong cuộc sống này.
Thần tượng
Thần tượng (idol) là cách gọi đối với những người được đánh giá cao, được
yêu thích, say mê, ngưỡng mộ, thậm chí sùng bái bởi sự vượt trội về ngoại hình, tài
năng, phẩm chất hay thành tựu. Thần tượng có thể là các ngôi sao, người nổi tiếng
nhưng cũng có thể là những người đạt được thành tựu ở các lĩnh vực khác như khoa
học, cách mạng, chính trị... Trong luận án này, chúng tôi chú ý tới các thần tượng là
32
các ngôi sao giải trí bao gồm: diễn viên điện ảnh, các ca sĩ, cầu thủ bóng đá, những
người nổi tiếng về phương diện nghệ thuật trên truyền thông.
Người hâm mộ
Người hâm mộ hay còn được gọi với cái tên ngắn gọn là fan, chỉ chung cho
một người hoặc một nhóm đông người yêu thích, nhiệt tình ủng hộ, bênh vực, thậm
chí tôn thờ thần tượng của anh/cô ta. Trong luận án này, đó là những người có
những cảm xúc và hành vi thể hiện tình cảm mãnh liệt và tự định danh mình là một
người hâm mộ của một thần tượng cụ thể.
Tiêu thụ thần tượng
Tiêu thụ thần tượng (idol consumption) là một khái niệm được dùng tương
đối phổ biến trong lĩnh vực nghiên cứu về hâm mộ thần tượng. Nó được hiểu không
chỉ là “mua” những sản phẩm của thần tượng hoặc có liên quan đến thần tượng mà
còn là sử dụng những ý nghĩa từ hình ảnh của thần tượng cho quá trình tìm kiếm
các giá trị, ý nghĩa cho bản thân mình (Cheung Ka Ki) [89]. Việc tiêu thụ các ý
nghĩa biểu trưng và phong cách trong hình ảnh về thần tượng “giúp giới trẻ cảm
thấy cuộc sống ổn định và có ý nghĩa hơn” (Milles) [146]. Với cách hiểu này, các
thần tượng được coi là những sản phẩm hàng hóa đặc biệt (Turner) [174], một sản
phẩm của quá trình “hàng hóa hóa văn hóa” (Horkheimer & Adorno) [119].
Bản sắc
Bản sắc (identity) về mặt từ nguyên có nghĩa là sự “giống nhau” hay “tương
tự (identitas). Nó còn được hiểu là sự “nhận dạng”, “căn tính”. Bản sắc chủ yếu nói
đến sự tự ý thức hoặc một cảm nhận rõ ràng về cái cá nhân, gần tương tự như
cách cá nhân được người khác quan sát và nhận diện (Erikson 1950) [98]. Về cơ
bản, bản sắc chính là cách một người nhận biết về bản thân, cho phép những người
khác biết chúng ta là ai. Bản sắc như là một đặc điểm nhận biết thuộc về mỗi cá
nhân cụ thể, có thể là thứ được chia sẻ giữa các cá nhân trong một nhóm hoặc một
tầng lớp xã hội nhất định (Đoàn Thị Tuyến) [62, tr. 6].
Bản sắc văn hóa từng được quan tâm, tranh cãi bởi hai góc độ tiếp cận: bản
thể luận và kiến tạo luận hay phản - bản thể luận. Các nhà bản thể luận cho rằng
bản sắc là thuộc về bản chất, cái vốn có từ khi sinh ra của mỗi người và bản sắc này
sẽ theo họ suốt cuộc đời, là bất biến. Ngược lại, các nhà kiến tạo luận chủ trương
rằng bản sắc không có sẵn, nó không “tĩnh”, và được kiến tạo theo những bối cảnh
33
xã hội khác nhau nên nó luôn “động”. Mỗi cá nhân, mỗi nhóm hay cộng đồng đều
có những phương thức khác nhau trong việc bộc lộ và tạo dựng bản sắc của mình,
thông qua các phương thức tự sự (Vũ Hoàng Hiếu) [23] hay thông qua các thực
hành và sáng tạo văn hóa (Rojek [159], Brake [79], Huq [122])... Bản sắc được
phân loại thành bản sắc cá nhân, bản sắc nhóm, bản sắc văn hóa. Trong luận án này,
chúng tôi chú ý tới bản sắc cá nhân và bản sắc nhóm, trong đó chúng tôi quan tâm
nhiều hơn đến căn tính cá nhân của những người hâm mộ trẻ. Có chỗ chúng tôi sử
dụng thuật ngữ “căn tính” hay “sự nhận diện”, “sự định danh”, “sự nhận dạng” như
những từ tương đương để thay thế cho thuật ngữ “bản sắc”.
1.2.2. Cơ sở lí luận của luận án
Với mục tiêu nghiên cứu chính là khám phá các chiều kích và ý nghĩa của
các thực hành hâm mộ thần tượng và chỉ ra rằng hâm mộ thần tượng có liên quan
đến sự kiến tạo căn tính của những người hâm mộ trẻ, luận án đã tìm kiếm những
cơ sở lí luận từ những quan điểm lí thuyết khác nhau có liên quan và có thể làm
sáng rõ mục tiêu này. Sử dụng cách tiếp cận của ngành nghiên cứu văn hóa, luận án
tiếp cận vấn đề từ quan niệm về văn hoá như là một quá trình tạo nghĩa và cách thức
các thực hành văn hoá có thể kiến tạo nên căn tính cá nhân và nhóm. Từ góc nhìn
này, hiện tượng hâm mộ thần tượng không phải chỉ là biểu hiện của văn hoá giải trí
đơn thuần, mà nó còn là một quá trình tìm kiếm ý nghĩa. Nói cách khác, hâm mộ
thần tượng là một thực hành tạo nghĩa và kiến tạo bản sắc cá nhân. Điều này cần
được đặt trong bối cảnh văn hoá xã hội đương đại, nơi tiêu dùng và truyền thông
đóng vai trò xương sống trong đời sống con người.
Thực hành văn hoá như một quá trình tạo nghĩa
Theo Clifford Geertz (1973), “con người là một động vật treo trên một mạng
lưới những ý nghĩa do chính mình tự dệt nên”, và “văn hóa là những mạng lưới đó,
phân tích văn hóa, vì vậy, không phải là một khoa học tìm kiếm quy luật mà là một
ngành diễn giải đi tìm ý nghĩa” [106]. Từ cách hiểu văn hóa giới trẻ là một hệ thống
các ý nghĩa biểu trưng, các giá trị được giới trẻ cùng chia sẻ và kiến tạo, mà thông
qua đó giúp giới trẻ hiểu và nhận biết về thế giới theo cách riêng của họ, chúng tôi
coi thực hành hâm mộ thần tượng là một tiến trình tạo nghĩa, mà qua đó giới trẻ
định danh về mình, về thế hệ của mình.
34
“Nghĩa” trở thành vấn đề then chốt của phân tích văn hoá. “Nghĩa” được gán
cho một sự vật, hiện tượng dựa trên cách hiểu, nhận thức, quan niệm của một cá
nhân, một nhóm người hay một cộng đồng trong những điều kiện và bối cảnh nhất
định. “Nghĩa” không cố định mà luôn luôn biến đổi. Nó được sinh ra từ đời sống
hàng ngày, và chính nhờ những “nghĩa” được sinh ra, được chia sẻ, mà diện mạo
của một đời sống văn hoá được hình thành (Phạm Quỳnh Phương) [45], [48]. Theo
Phạm Quỳnh Phương, “văn hóa không phải được tạo ra từ những thực thể xã hội
riêng biệt, ổn định, bền vững, cố định mà là một hệ thống các hành vi và thực hành
liên tục thay đổi và có sự tương tác của con người. “Cốt lõi”, “bản chất”, “bản
sắc” hay “giá trị” cũng chỉ là những sản phẩm được tạo ra và liên tục được kiến
tạo trong những bối cảnh chính trị và xã hội nhất định. Thế giới và văn hóa của con
người đều là sự kiến tạo hàng ngày, trong đời thường. Vì vậy, không phải văn hóa
bác học (văn hóa gắn với tầng lớp thống trị) mà chính văn hóa đại chúng của số
đông dân chung với những thực hành hàng ngày đầy ý nghĩa của họ, đã tạo nên
diện mạo của một đời sống văn hóa” [48, tr. 98-99].
Từ góc tiếp cận về “nghĩa” trong nghiên cứu văn hoá, hiện tượng hâm mộ
thần tượng không thể chỉ nhìn đơn thuần như một thực hành trong văn hoá giải trí
của giới trẻ. Quá trình “cấp nghĩa” cho thần tượng cũng như cấp nghĩa cho các thực
hành của cá nhân và nhóm hâm mộ đã khiến cho những người hâm mộ trẻ tham gia
vào quá trình kiến tạo văn hoá giới trẻ.
Bản sắc - một kiến tạo văn hóa, xã hội
Như đã viết ở trên, một số nghiên cứu đã chỉ ra có hai cách tiếp cận bản sắc,
hoặc theo hướng bản thể luận (essentialism), hoặc theo hướng kiến tạo luận
(constructivism), trong đó nghiên cứu văn hoá theo hướng thứ hai: bản sắc là một
sản phẩm được kiến tạo (Đoàn Thị Tuyến [62], Phạm Quỳnh Phương [48]). Nếu
như cách tiếp cận bản chất luận coi bản sắc là cái có tính tự nhiên, thuộc về bản
chất, có tính cốt lõi, thì cách tiếp cận kiến tạo luận chỉ ra bản sắc là cái có thể đạt
được, được sinh ra từ một quá trình kiến tạo và vận động không ngừng, tự định
danh và được định danh. Bản sắc của một cá nhân là cách thức định danh để cá
nhân được biết đến như một thực thể riêng biệt có những phẩm chất và nét riêng.
Bản sắc là những đặc điểm riêng, được kiến tạo bởi những điều kiện văn hóa,
xã hội nhất định. Mỗi người, mỗi nhóm người sẽ có những cách thức khác nhau để
35
tạo dựng nên bản sắc của mình tùy theo nhu cầu và nền tảng của bản thân những bối
cảnh lịch sử, xã hội khác nhau. Do là sản phẩm của sự kiến tạo nên bản sắc không
bất biến mà luôn thay đổi. Do vậy, từ sự kiến tạo bản sắc có thể nhìn ra các chiều
cạnh của nó trong những tương tác, những vận động của bối cảnh xã hội và
những động năng của chính chủ thể văn hóa. Đây là luận điểm chính mà chúng
tôi sử dụng xuyên suốt luận án này.
Tuổi trẻ được xem như là một giai đoạn hình thành bản sắc quan trọng, trong
đó cá nhân vượt qua sự không chắc chắn, trở nên tự nhận thức được điểm mạnh và
điểm yếu của họ và tự tin hơn vào các phẩm chất độc đáo của riêng họ (Erikson
1968). Để tiếp tục trưởng thành, họ phải trải qua một cuộc “khủng hoảng” trong đó
giải quyết các câu hỏi quan trọng về giá trị và lí tưởng, sự nghiệp hay nghề nghiệp
tương lai và cả bản dạng tính dục của họ. “Thông qua quá trình tự phản ánh và tự
định nghĩa, giới trẻ sẽ đạt được một ý thức tích hợp, mạch lạc về danh tính của họ
như một cái gì đó bền vững theo thời gian” (Buckingham) [81]. Tuy nhiên, theo
Hall và Jefferson [113], bản sắc hoàn toàn không có tính cố định, mà chuyển đổi
liên tục tuỳ thuộc vào quá trình tương tác với “bất cứ thứ gì có tính lịch sử” (Dẫn
theo Đoàn Thị Tuyến) [62]. Vì liên quan đến lịch sử nên bản sắc luôn là sản phẩm
được tạo dựng, là sản phẩm của giao tiếp và tương tác xã hội.
Bản sắc được chú ý ở cả khía cạnh cá nhân và nhóm. Ở góc độ cá nhân,
bản sắc có thể được kiến tạo từ sự phản xạ tự nhận dạng bản thân và tính tự thân,
trong đó các cá nhân có thể tự xây dựng một câu chuyện cá nhân cho chính họ,
cho phép họ hiểu bản thân cũng như kiểm soát cuộc sống và tương lai của họ
(Giddens) [107]. Ở góc độ nhóm, những sự tương tác là cách thức giúp cá nhân
và tập thể khám phá ra bản sắc của họ (Jenkins) [126]. Vấn đề của bản sắc là trả
lời những câu hỏi: Tôi là ai? Làm thế nào để chúng ta biết chúng ta là ai và làm
thế nào để người khác nhận ra chúng ta? (Jenkins) [126]. Bản sắc có thể tham
gia vào quá trình cố kết và vận động xã hội, trở thành động lực và cơ hội cho các
cá nhân trong xã hội. Việc gắn bó chặt chẽ với một nhóm cụ thể sẽ giúp các cá
nhân trong nhóm đó có cảm giác thuộc về và thường điều này đưa lại cho họ cảm
giác an toàn (Đoàn Thị Tuyến) [62]. Từ các nền tảng lí thuyết này, một số cách
thức giúp con người, đặc biệt giới trẻ tìm kiếm và tạo dựng những khía cạnh
36
giúp người khác có thể nhận diện và phân biệt họ đã được khám phá, chẳng hạn
qua Hip hop, Graffity, nhạc Pop...
Bản sắc của các cá nhân hiện nay chịu sự chi phối rất lớn của bối cảnh văn
hóa tiêu dùng - nơi mà hầu như mọi hành vi của các cá nhân đều có liên quan đến
việc tiêu thụ các sản phẩm. Tiêu dùng không chỉ phản ánh trật tự đẳng cấp của giai
tầng xã hội (Bourdieu) [78] mà còn là một trong những cách thức giúp con người
đối phó với sự lo lắng được tạo ra bởi những thay đổi cấu trúc xã hội (Miles) [147]
và như một nguồn để giới trẻ xây dựng và duy trì danh tính của họ. Đặc biệt, khi
ngành quảng cáo đã nắm được những cách thức để có thể bán cho mọi người nhiều
hơn và đắt hơn, bằng cách bán cho khách hàng một “bản sắc”: một cái nhìn mới,
một cách trang điểm khác, một meme khác. “Bản sắc” đã trở thành một “hàng hóa”
bán chạy. Bản sắc của người tiêu dùng khiến cho giới trẻ cảm thấy cuộc sống hàng
ngày của họ ổn định hơn (Nhat Nguyen Nguyen và cộng sự) [148]. Tham gia vào
các thực hành tiêu dùng cũng là một cách thức giúp giới trẻ hình thành các nhóm
của họ (nhóm ngang hàng, nhóm theo sở thích hay giới tính) và phân biệt với các
nhóm khác. Những thần tượng - những hình mẫu mang đậm tính thời đại cũng được
coi một loại hàng hóa được chủ nghĩa tiêu dùng tạo ra nhằm thỏa mãn nhu cầu về
những căn tính mới của người tiêu dùng thời hiện đại. Dựa trên các chức năng xã
hội của thần tượng: cung cấp căn tính mới đa dạng, lấp đầy giao tiếp liên cá nhân,
củng cố ý thức hệ (Nguyễn Thu Giang) [16], luận án sẽ chỉ ra cách thức mà các thần
tượng can thiệp vào quá trình kiến tạo căn tính của những người hâm mộ trẻ.
Luận án cũng dựa trên quan điểm của Fiske [101] khi cho rằng người hâm
mộ biến hình ảnh ngôi sao yêu thích của họ thành ý nghĩa riêng của họ và tìm niềm
vui trong việc sử dụng những hình ảnh này để tạo ra ý nghĩa riêng cho bản sắc xã
hội và quan hệ xã hội của họ, và quan điểm của Cheung Ka Ki [89] khi chỉ ra hâm
mộ thần tượng là một sự tiêu thụ những ý nghĩa liên quan đến bản sắc. Cheung
Ka Ki đã khám phá những cách thức mà những người trẻ tuổi có thể sử dụng những
hình ảnh của thần tượng để phục vụ cho việc xây dựng bản sắc của chính họ và bản
sắc nhóm. Thông qua việc tiêu thụ những ý nghĩa có liên quan đến thần tượng,
người hâm mộ gia tăng việc tự suy nghĩ, nhập vai và định đoạt các giá trị và niềm
tin hiện có của họ tạo nên sự tự nhận thức (self-awareness). Qua cách tiêu thụ hình
ảnh ngôi sao của người hâm mộ nào đó có thể thấy được sự khác biệt về danh tính
37
của họ với những người hâm mộ khác. Tất cả tạo thành một bản sắc tập thể và chia
sẻ ý nghĩa về sự trẻ trung và những mối quan hệ nổi loạn tương tự nhau chống lại sự
áp đặt của người lớn.
Vì xuất phát điểm của việc hâm mộ thần tượng là những cảm xúc cá nhân
của một/nhóm người đối với thần tượng của họ, và cảm xúc này sẽ chi phối cách mà
họ “giải mã” về thần tượng cũng như những sở thích, thị hiếu, thói quen và cả hành
vi của họ nên trong luận án này, chúng tôi cũng quan tâm tới những cảm xúc của
các cá nhân người hâm mộ đối với thần tượng của họ. Theo Sara Ahmed [70], cảm
xúc là yếu tố có khả năng “quản trị” cuộc sống của con người và đó là cơ sở để nền
kinh tế cảm xúc (affective economy) thúc đẩy việc tiêu thụ các sản phẩm để đạt
được sự cân bằng và thỏa mãn của cảm xúc. Do vậy, trong luận án này, chúng tôi
cho rằng bên cạnh những cách thức “truyền thống” mà giới trẻ bộc lộ và kiến tạo
bản sắc như đã từng được các nhà nghiên cứu trước đây chỉ ra, chẳng hạn qua thời
trang, âm nhạc, phim ảnh... thì những thực hành hâm mộ thần tượng, đặc biệt là
những cách thức tiêu thụ thần tượng liên quan đến cảm xúc ở các cá nhân và nhóm
người hâm mộ trẻ cũng là những là chất liệu quan trọng để tạo dựng căn tính cá
nhân cũng như bản sắc nhóm của giới trẻ.
Như Deen [92] đã chỉ ra “hâm mộ ai đó là sự phản chiếu về chính chúng ta”,
những người hâm mộ trẻ tuổi xem xét một thần tượng nổi tiếng như là “hình ảnh tự
tưởng tượng của họ” (Boon & Lomore 2001, Caughey 1994, Dẫn theo Chan) [85,
tr. 80], và dần hình thành sự gắn bó (attachment) với các nhân vật thần tượng -
những người lạ nằm ngoài mối quan hệ gia đình và bạn bè. Sự gắn bó này lại được
tạo ra và thúc đẩy bởi truyền thông và tiêu dùng.
Kế thừa những quan điểm lí thuyết trên trong nghiên cứu về bản sắc và kiến
tạo bản sắc của giới trẻ trong bối cảnh văn hóa tiêu dùng và truyền thông, bằng việc
chỉ ra những cảm xúc, những thực hành đặc biệt là thực hành tiêu dùng có liên quan
đến thần tượng, luận án lập luận rằng hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam diễn
ra theo cách mà chúng ta thấy hiện nay là một phương thức kiến tạo bản của những
người trẻ trong bối cảnh xã hội mà văn hóa tiêu dùng, công nghiệp văn hóa và
truyền thông đóng vai trò nổi bật. Đồng thời, quan điểm kiến tạo bản sắc cá nhân và
nhóm người hâm mộ cũng là cơ sở để luận án có thể nhìn ra những chiều kích của
xã hội Việt Nam đương đại qua nghiên cứu về hiện tượng này.
38
Tiểu kết chương 1
Hâm mộ thần tượng là một hiện tượng nổi bật trong văn hóa giới trẻ. Ở
chương này, chúng tôi đã khái quát những hướng nghiên cứu về văn hoá giới trẻ và
hiện tượng hâm mộ thần tượng ở giới trẻ. Theo đó, giới trẻ là những người trẻ trung,
ưa sự mới mẻ, sôi động; có nhu cầu, thị hiếu, quan niệm, lối sống khác với các thế
hệ khác; là nhóm có nhiều lí tưởng nhưng cũng là nhóm có nhiều nổi loạn, dám thử
nghiệm, luôn hướng tới cái mới, cái khác biệt, luôn ý thức cao trong việc kiếm tìm
và xây dựng bản sắc cá nhân. Văn hóa giới trẻ được coi là một tiểu văn hóa nổi bật
vì những đặc trưng và những thực hành văn hóa của nó.
Những nghiên cứu về người nổi tiếng/ thần tượng cung cấp những vấn đề
liên quan đến khái niệm, chức năng và vai trò của thần tượng trong đời sống của
người hâm mộ. Đặc biệt, đối với những người hâm mộ trẻ, hâm mộ thần tượng là
một hiện tượng có liên quan đến đặc trưng lứa tuổi cũng như các đặc trưng của tiểu
văn hóa giới trẻ. Các nghiên cứu về hâm mộ thần tượng ở giới trẻ chủ yếu xoay
quanh một số vấn đề như: những nguyên nhân dẫn đến việc hâm mộ thần tượng, các
mức độ hâm mộ thần tượng ở giới trẻ, mối quan hệ giữa thần tượng và người hâm
mộ trẻ, việc tiêu thụ thần tượng và kiến tạo bản sắc ở những người hâm mộ cũng
như ý nghĩa của việc nghiên cứu về người hâm mộ... trong bối cảnh văn hóa - xã hội
mà truyền thông và văn hóa tiêu dùng ngày càng có sức ảnh hưởng sâu sắc.
Chương viết cũng đã đưa ra các khái niệm và quan điểm tiếp cận như một
điểm tựa xuyên suốt cho quá trình triển khai các ý tưởng và nội dung của luận án.
Dựa trên cách tiếp cận của ngành nghiên cứu văn hoá coi thực hành văn hóa như
một quá trình tạo nghĩa và bản sắc là một kiến tạo văn hóa, xã hội, chúng tôi lập
luận rằng hiện tượng hâm mộ thần tượng hiện nay cần phải được nhìn nhận như một
thực hành tạo nghĩa, một cách thức kiến tạo nên bản sắc giới trẻ từ góc độ cá nhân
và nhóm, và đặt trong bối cảnh xã hội có nhiều biến đổi so với trước đây. Hâm mộ
thần tượng, do vậy là một hiện tượng có thể giúp nhận diện về văn hóa giới trẻ
trong thời đại hiện nay.
39
Chương 2
BỨC TRANH CHUNG VỀ HÂM MỘ THẦN TƯỢNG Ở
GIỚI TRẺ VIỆT NAM
2.1. Những mẫu hình thần tượng trong lịch sử
Mỗi thời đại đều có những người được coi là hình mẫu của số đông xã hội -
những người được người khác ngưỡng mộ dựa trên sự nổi trội về ngoại hình, phẩm
chất hay tài năng của họ. Từ “Thần tượng” được dùng phổ biến hiện nay thực ra là
cách gọi của thời hiện đại, dịch từ thuật ngữ “idol” trong các nghiên cứu về văn hoá
đại chúng và truyền thông phương Tây để nói về những mẫu hình lí tưởng, được
yêu thích bởi số đông xã hội hiện nay. Mặc dù phương thức “hâm mộ” ở mỗi thời
có thể rất khác nhau, nhưng việc ngưỡng mộ cá nhân không phải là hiện tượng hoàn
toàn mới trong lịch sử.
Ở Việt Nam, qua khảo sát tư liệu có thể thấy “mẫu hình con người lí tưởng”
là thuật ngữ quen thuộc để nói về những nhân vật lịch sử, những mẫu hình nhân
cách cao thượng, các bậc “chí nhân”, “thánh nhân”, “dị nhân” có nét phi thường, kì
vĩ trong những bối cảnh văn hóa xã hội trước đây ở Việt Nam (Trần Ngọc Vương
[68], Trần Nho Thìn [55], Đỗ Lai Thúy [56]). Đặc trưng của các mẫu hình này phản
ánh những đặc trưng về chính trị và tôn giáo, tư tưởng, truyền thống và các chuẩn
mực xã hội. Các mẫu hình lí tưởng ở các thời kì là khác nhau, phụ thuộc vào những
biến đổi của bối cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội đặc thù. Những người có vẻ đẹp hình
thức, tài năng và vẻ đẹp phẩm chất luôn là mẫu hình lí tưởng mà con người các thời
đại muốn hướng đến, mặc dù vậy, vẻ đẹp về phẩm chất, đạo đức có phần được
người Việt Nam đề cao hơn cả “Cái nết đánh chết cái đẹp”, “Tốt gỗ hơn tốt nước
sơn”... Trước kia, quan niệm về cái đẹp, về hình mẫu con người lí tưởng ở Việt
Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi những chuẩn mực của Nho giáo. Lấy đạo đức,
phẩm chất và tài năng làm cốt lõi để xây dựng các hình mẫu lí tưởng, có thể thấy
những người được ngưỡng mộ, tôn thờ khá thống nhất trong quan điểm của người
Việt Nam từ trước đến nay. Các triều đại phong kiến thường phong tước cho những
người có công. Điều này như một phần thưởng, sự khen ngợi cho những đóng góp,
40
cống hiến, xả thân của họ cho đất nước, dân tộc, đồng thời cũng như một sự khuyến
khích, nêu gương đối với xã hội. Những danh hiệu đính kèm với từng nhân vật lịch
sử phản ánh thái độ tôn trọng, ngưỡng mộ, sự đánh giá tích cực của cộng đồng dành
cho những phẩm chất hoặc thành tựu của họ.
Trải qua 1000 năm Bắc thuộc, các triều đại phong kiến luôn phải đề cao mục
đích bảo vệ vương triều, bảo vệ đất nước khỏi âm mưu bành trướng của giặc ngoại
xâm. Gắn liền với lịch sử này, những tấm gương, mẫu hình lí tưởng của con người
thời trung đại là các vị vua anh minh (Lê Lợi, Lê Thánh Tông, Trần Nhân Tông,
Quang Trung...), các anh hùng chiến trận, anh hùng vệ quốc (Ngô Quyền, Lý
Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo…), anh hùng văn hoá (Nguyễn Trãi), các trung thần,
các liệt nữ (Trưng Trắc, Trưng Nhị, Bà Triệu, Vũ Nương)... Bên cạnh đó, do ảnh
hưởng mạnh mẽ từ khuôn thước Nho giáo, các nhà nho luôn là các hình mẫu được
ngưỡng vọng không chỉ bởi học thức mà còn bởi phẩm chất đạo đức. Nhà nho hành
đạo (nhà nho nhập thế) là mẫu hình nhà nho được ca tụng (Nguyễn Du, Nguyễn
Đình Chiểu, Đào Tấn...) bởi họ là những người sẵn sàng thực hành những nguyên
tắc đạo lý của Nho gia, sẵn sàng dấn thân nhập cuộc, suốt đời nguyện thực hiện lý
tưởng “Thượng trí quân, hạ trạch dân” (trên thì giúp vua, dưới thì chăm dân), đề cao
đạo và chí, chú trọng đến vấn đề tu thân, nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Theo Đỗ Lai Thúy
[56], đỉnh cao nhất của mẫu hình lí tưởng của Nho gia là con người quân tử - người
không chỉ có học vấn mà còn luôn tuân thủ các quy tắc đạo đức cộng đồng, luôn
tích cực thực hành cái đạo của người quân tử tức lí tưởng đạo Nho “tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ”. Trong cuộc sống, họ là những tấm gương mẫu mực, có tấm lòng bao
dung, nhân nghĩa, trung hiếu. Khi đất nước có nguy cơ bị xâm lược thì họ chính là
những người đầu tiên dám xả thân vì tổ quốc. Trong thời đại Nho giáo độc tôn (thời
Lê sơ, thời nhà Nguyễn và phong trào kháng Pháp Cần Vương) thì người quân tử
nổi lên như một nhân vật chính, trở thành một giá trị mà ánh hào quang của nó tỏa
sáng đến tất cả mọi người từ ông vua cho đến thứ dân (Lê Thánh Tông, Nguyễn
Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm...).
Theo đó, những phẩm chất khiến các nhân vật này trở thành người được đề
cao, ngưỡng mộ là tinh thần trung quân ái quốc, quả cảm, vì nước vì dân, luôn đặt
41
lợi ích chung của quốc gia dân tộc lên trên hết, là những người có nhân cách đạo
đức tốt đẹp... Mặt khác, sự tôn vinh những nhân vật như vậy đồng nghĩa với sự tôn
vinh chủ nghĩa tập thể thời phong kiến cũng góp phần củng cố quyền lực của các
triều đại thông qua những “chuẩn mực” đạo đức để qua đó quản trị đất nước, con
người. Việc tôn vinh họ là của thời đại sau này (vì các mục đích khác nhau) chứ
không phải của người đương thời. Trong xã hội truyền thống, con người làng xã là
con người cộng đồng. Con người tồn tại không phải với tư cách cá nhân mà trong
quan hệ với gia đình, dòng họ, làng xóm... Hầu như toàn bộ các thiết chế xã hội (thờ
thành hoàng làng, phe, giáp, hội, hương ước, lệ làng, lũy tre, sự phân biệt chính cư
ngụ cư...) đều nhằm củng cố và nâng cao tính cộng đồng trong mỗi con người (Đỗ
Lai Thúy) [56].
Về sau này, ngoài con người làng xã - con người cộng đồng và con người tài
tử, còn có xuất hiện con người vô ngã, con người tài tử. Đó có thể là các nhà nho ẩn
dật, nhà nho tài tử như Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú
Xương, Tản Đà... (Trần Ngọc Vương) [68]. Sự xuất hiện của các mẫu hình này cho
thấy “sự phát triển của ý thức cá nhân” (Đỗ Lai Thúy) [56, tr. 449]. Ngoài sự ca
ngợi trung, hiếu, tiết, nghĩa, xã hội cũng chú ý tới cái “tài” và “tình” - những biểu
hiện của con người cá nhân. Điều này là kết quả của những biến chuyển mạnh mẽ
thuộc bối cảnh xã hội, thời đại. Con người tài tử, theo Đỗ Lai Thúy, là nhân vật
trung tâm của thời đại mà Nho giáo chính thống không còn là hệ tư tưởng độc tôn,
các nhà Nho chịu nhiều ảnh hưởng của Phật giáo, Lão giáo. Tư tưởng của các nhà
Nho (Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều thời Lê - Trịnh; Nguyễn Công Trứ, Dương
Khuê, Chu Mạnh Trinh... sau này) được hòa loãng trong tư tưởng bình dân, là sản
phẩm của sự lệch chuẩn Nho giáo, của tư tưởng thị dân và văn hóa đô thị. Các nhà
nho này được công chúng yêu quý bởi họ đã chạm đến được những tâm tư, tình
cảm, nỗi lòng của những người bình dân, phản ánh những mâu thuẫn giữa ý thức về
con người cá nhân và con người cộng đồng. Đầu thế kỉ XX, con người tài tử còn tồn
tại cho đến Tản Đà và hồi quang của nó còn ánh lên lần cuối ở Nguyễn Tuân khi mà
con người cá nhân cá thể đã xuất hiện và khẳng định [56, tr. 278-304].
42
Đến thời chiến tranh chống Pháp và Mỹ, những hình mẫu được đề cao, trân
trọng là những tấm gương của không chỉ giới trẻ mà của toàn dân: Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các anh hùng Trần Thị Lý, Kim Đồng, Võ Thị
Sáu,… hầu hết là các anh hùng cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, sau
này là các tấm gương - anh hùng trong lao động sản xuất thời kì mới (như anh Hồ
Giáo, chị Hai năm tấn...). Những mẫu hình được tôn vinh, ca ngợi này bị chi phối
bởi chính trị, tuy nhiên, do yêu cầu của bối cảnh lịch sử, có một sự đồng thuận cao
giữa nhà nước và nhân dân trong việc tôn vinh các anh hùng, danh nhân này. Họ
được ngưỡng mộ và tạo động lực cho một thế hệ thanh niên hừng hực khí thế, tự
nguyện viết đơn bằng máu xin ra trận.
Sau năm 1975, những mẫu người được vinh danh là những anh hùng lao
động. Lúc này chủ nghĩa tập thể vẫn được đề cao: một người làm việc gấp đôi để
kiến thiết đất nước. Tình riêng vẫn được đặt sau lợi ích chung. Trong Lặng lẽ Sa Pa,
Nguyễn Thành Trung đã khắc họa những tấm gương miệt mài, say mê lao động:
anh kĩ sư trẻ, anh thanh niên nghiên cứu về sét, cô họa sĩ... Những hình mẫu này
hầu hết đều là những tấm gương về lao động, truyền tải ý thức hệ cộng sản rất rõ
ràng bởi cách sống, cách cống hiến lặng thầm của họ cho thấy lí tưởng sống và
niềm tin trong họ. Như vậy, đến thời hiện đại, mặc dù con người cá nhân đã định
hình rõ nét hơn thời trung đại nhưng vẫn chịu chi phối rất lớn bởi tính cộng đồng,
bởi quan niệm của tập thể.
Trong các giai đoạn sau này, các ca sĩ, diễn viên như Chánh Tín, Trà Giang,
Thương Tín, hay sau này là Lý Hùng, Việt Trinh, Diễm Hương... từng cũng được
mến mộ bởi đông đảo khán giả của họ, thậm chí cũng có người đi theo họ khắp nơi.
Trường hợp này khá giống với việc khán giả “tự mê” như bây giờ, chỉ có điều đó
chỉ là một vài trường hợp riêng lẻ, ít thấy, không khiến cho việc hâm mộ này trở
thành một hiện tượng nổi bật như chúng ta thấy ở giới trẻ hiện nay. Một phần là bởi
các nhân vật thần tượng này chưa trở thành mối quan tâm chung của số đông giới
trẻ, còn phần lớn là do sự chi phối của bối cảnh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội tới
thị hiếu, sở thích và thói quen các thế hệ trước đây.
43
Như vậy, theo quan niệm trước đây, thần tượng phải là một người tài năng,
xuất chúng, có phông văn hóa lớn, có nền tảng kiến thức sâu rộng, có đạo đức, tư
cách tốt, sống chuẩn mực và có nhiều đóng góp cho cộng đồng... và do đó, để đánh
giá ai đó là hình mẫu, là thần tượng trong xã hội không phải dễ (Nguyên Trang)
[185]. Tuy nhiên, cách hiểu về thần tượng ở mỗi thời đại có một biên độ nghĩa khác
nhau, bị chi phối rất nhiều bởi bối cảnh xã hội. Theo cách hiểu thông thường hiện
nay, thần tượng là cách gọi đối với những người nổi tiếng được giới trẻ yêu thích,
say mê, hâm mộ thậm chí sùng bái. Có một thực tế là nếu như thần tượng của các
thế hệ tuổi trẻ trước đây (thời kì cách mạng giải phóng dân tộc, thời kì xây dựng xã
hội chủ nghĩa) chủ yếu là các lãnh tụ, các anh hùng cách mạng, anh hùng lao động,
nhà bác học, nhà khoa học... thì rất nhiều nhân vật được coi là thần tượng của một
bộ phận không nhỏ giới trẻ hiện nay (20 năm trở lại đây) chủ yếu là các diễn viên
điện ảnh, các ca sĩ, cầu thủ bóng đá... hay nói khác đi là những người nổi tiếng. Vì
sao có sự thay đổi mẫu hình được ưa thích ở giới trẻ Việt Nam? Hâm mộ thần tượng
ở giới trẻ Việt Nam hiện nay đã nổi lên như một hiện tượng trong bối cảnh văn hoá,
xã hội nào?
2.2. Bối cảnh của hiện tượng hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam hiện nay
2.2.1. Chính sách mở cửa, kinh tế thị trường, quá trình hiện đại hóa và đô thị
hóa ở Việt Nam
Từ sau Đổi mới, sự cởi mở về chính trị đã mở đường cho kinh tế phát
triển và khiến cho xã hội Việt Nam có những thay đổi toàn diện. Với chính sách
mở cửa của nhà nước, kinh tế thị trường xuất hiện và phát triển ở Việt Nam như
một quy luật tất yếu. Thoát khỏi sự cấm vận, sự chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch
hóa tập trung sang kinh tế thị trường đã giúp Việt Nam từ một trong những quốc
gia nghèo nhất thế giới thành nước có thu nhập trung bình thấp. Mức sống được
cải thiện, đời sống văn hóa của người Việt Nam có nhiều khởi sắc theo hướng
dân chủ hóa, năng động và mở rộng giao lưu với thế giới. Khác với chủ trương
xóa bỏ kinh tế tư nhân và không theo quy luật thị trường trước đây, sau mở cửa,
việc đề cao thị trường đã mở đường cho sự du nhập, sản xuất và tiêu thụ hàng
44
hóa ở Việt Nam. Quá trình mở cửa này cũng đã tạo điều kiện cho toàn cầu hóa
và các dòng chảy văn hóa du nhập vào Việt Nam.
Với chủ trương đổi mới toàn diện và mở cửa với bên ngoài, kinh tế thị
trường có cơ hội phát triển, một khối lượng hàng hóa lớn được nhập về Việt Nam
làm thay đổi thói quen và lối sống của các thành phần dân cư, đặc biệt là ở các đô
thị. Lúc này, tốc độ đô thị hóa ở Việt Nam cũng diễn ra ngày càng mạnh hơn. Đô thị
hóa kéo theo các dòng di cư, nhập cư dẫn đến sự xáo trộn dân cư liên tục, cùng với
đó là sự đứt gãy các mối quan hệ giao tiếp liên cá nhân khiến cho vai trò của mối
quan hệ làng xóm, khu vực cư trú trở nên ít quan trọng hơn. Sự tách rời công việc
và sinh kế khỏi nơi cư trú đã khiến cha mẹ ngày càng phải tập trung nhiều thời gian
hơn cho công việc và quá trình di chuyển đến nơi làm việc của mình. Đó cũng là
một nguyên nhân khiến thời gian giao tiếp giữa các thành viên trong gia đình hạt
nhân bị rút ngắn hơn trước đây. Con người ngày càng suy giảm các liên hệ trực tiếp
của mình với các cá nhân khác, họ trở nên cô đơn hơn. Những mối quan hệ thân
tình thời niên thiếu trở nên xa cách và mờ nhạt dần. Bối cảnh này là điều kiện để
các thần tượng trở thành mối quan tâm chung của những người trẻ.
2.2.2. Toàn cầu hóa và các dòng chảy văn hóa nước ngoài
Toàn cầu hóa là một sự liên thông ngày càng tăng giữa các xã hội và các yếu
tố của nó do quá trình đan xen văn hóa kết hợp với sự gia tăng bùng nổ của giao
thông và các công nghệ truyền thông góp phần thúc đẩy kinh tế quốc tế và giao lưu
văn hóa; là quá trình “quốc tế hóa” mọi giá trị nhân loại, là sự phụ thuộc qua lại
không ngừng giữa các quốc gia và các cá nhân. Toàn cầu hóa về văn hóa diễn ra
song song và có mối quan hệ qua lại với toàn cầu hóa về kinh tế. Do vậy, quá trình
toàn cầu hóa đã ảnh hưởng sâu sắc đến mọi phương diện đời sống văn hóa các quốc
gia, Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Đặc biệt, từ 1997, internet xuất hiện và
được sử dụng ngày càng phổ biến ở Việt Nam đã khiến quá trình hội nhập càng diễn
ra sâu, rộng, nhanh hơn. Năm 2006, Việt Nam gia nhập WTO, mở ra cơ hội lớn cho
hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam với thị trường rộng lớn.
45
Trong khi đó, các chính sách về giới trẻ3, về văn hóa, văn nghệ4 ở Việt Nam
từ sau Đổi mới ngày càng có những thay đổi theo hướng cởi mở hơn. Những loại
hình văn hóa, nghệ thuật, thể thao cũng được nới lỏng chứ không bị siết chặt như
trước và ngày càng được chú trọng như là một trong những yếu tố quan trọng tạo
nên sức mạnh mềm văn hóa (soft power) (Nye) [153] của quốc gia. Mối quan hệ
ngoại giao văn hóa cũng được thiết lập và vun đắp để phát triển bằng sự mở đường
về giao lưu văn hóa giữa các nước trong khu vực và trên thế giới5. Đây cũng là điều
kiện thuận lợi để các ngôi sao nước ngoài, âm nhạc và phim ảnh đại chúng du nhập
vào Việt Nam cũng như làm cho bản thân nền văn hóa giải trí trong nước phát triển
phong phú, đa dạng.
Toàn cầu hóa kéo theo sự lớn mạnh, phủ rộng của các làn sóng văn hóa mới
bắt nguồn từ việc xuất khẩu văn hóa đại chúng của phương Tây đến những nơi khác
trên thế giới. Văn hoá đại chúng (popular culture) được coi là tương phản với văn
hóa tinh hoa bởi các sản phẩm của nó bao gồm các hàng hóa được sản xuất đại trà
với nguyên liệu tiêu chuẩn hóa (truyền hình, băng đĩa, radio, quảng cáo, thể thao,
nghệ thuật, phong cách sống, ý tưởng, thị hiếu, thời trang và các giá trị...) hướng tới
số đông dân chúng. Văn hóa đại chúng là “sản phẩm” do các quốc gia công nghiệp
tiên tiến nhất tạo ra. Nó gắn bó chặt chẽ với truyền thông đại chúng. Các thần tượng
3 Mục 2. Điều 26 của Luật Thanh niên sửa đổi (16/6/2020) có đề cập đến việc các cáp, ngành, chính quyền và các thiết chế xã hội cần “Ưu tiên, tạo điều kiện tham gia hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, vui chơi, giải trí phù hợp với khả năng và lứa tuổi để phát triển toàn diện”. 4 Gần đây nhất, ngày 16 - 6 - 2008, Đảng đã ban hành Nghị quyết 23 - NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới. Đây là nghị quyết đầu tiên của Đảng dành riêng cho văn học nghệ thuật, một lĩnh vực cụ thể của văn hoá, như là sự cụ thể hoá Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về xây dựng nền văn hoá Việt Nam. Quyền tự do sáng tác khi nói đến thành tựu của văn học nghệ thuật thời gian qua: được khẳng định: “Tự do trong sáng tạo nghệ thuật và sự đa dạng về nội dung, phong cách sáng tác, phương thức biểu hiện được tôn trọng; dấu ấn cá nhân, cá tính sáng tạo được khẳng định” (tr. 5 – 6). Và trong phần “Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo...”, Đảng chủ trương: “Tiếp tục đổi mới, tạo điều kiện thuật lợi cho sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của văn học, nghệ thuật về đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp sáng tác, sự tìm tòi, thể nghiệm, nâng cao chất lượng toàn diện nền văn học, nghệ thuật nước nhà”. Đời sống văn hoá của người dân Việt Nam đã được tạo điều kiện thuận lợi, trở nên đa dạng và phong phú hơn. Các loại hình văn hoá - nghệ thuật cũ được phát huy. Đồng thời, các loại hình văn hoá - nghệ thuật mới của thế giới cũng được tiếp thu rộng rãi. 5 Nghị định số 88/2002/NĐCP về xuất - nhập khẩu văn hoá; Quyết định số 23/2008 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Chỉ thị số 4252/2008/CT-BNG ngày 23-12-2008 cho thấy nhà nước đã quan tâm và tạo điều kiện cho việc mở rộng giao lưu văn hoá, đồng thời quy định rõ các loại hình văn hoá được xuất, nhập khẩu.
(ngôi sao, người nổi tiếng) ở Việt Nam không phải bây giờ mới có, tuy nhiên nó chỉ
46
trở thành một hiện tượng và ngày càng phổ biến với bệ đỡ của văn hoá đại chúng
trên phạm vi toàn cầu.
Văn hóa đại chúng bao gồm những sản phẩm như nhạc Pop, truyền hình,
phim ảnh, video, tiểu thuyết “dễ đọc”, truyện tranh, quảng cáo, thời trang, thiết kế
nhà và thức ăn sản xuất đại trà. Toàn cầu hóa có ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc tới
văn hóa giới trẻ ở các quốc gia, đặc biệt văn hóa giải trí bởi giải trí gắn liền với văn
hóa tiêu dùng và văn hóa đại chúng, với các hình thức, các sản phẩm giải trí đa
dạng, âm nhạc và phim ảnh nước ngoài với những phong cách mới, những sắc màu
văn hóa mới mẻ.... Theo chân các ấn phẩm văn hoá, các ngôi sao thuộc các lĩnh vực
giải trí đã phát triển rực rỡ ở các nước Âu Mỹ (phim ảnh, âm nhạc, thể thao) liên tục
được giới thiệu ở Việt Nam, thu hút sự chú ý, quan tâm, tò mò của các thế hệ công
chúng người Việt.
Cuối những năm 1990, âm nhạc toàn cầu, hiện đại (US / UK-pop được gọi là
nhạc Pop Mỹ do phương Tây dẫn đầu) với những cái tên nổi tiếng như N’Sync,
Boyzone, The Backstreet Boys, Madona và Britney Spears... được giới trẻ Việt
Nam tích cực đón nhận thông qua các kênh phát thanh, kênh Truyền hình quốc gia
(chương trình MTV most wanted nổi tiếng một thời với 2 MC Diễm Quỳnh và Anh
Tuấn) và thông qua đĩa CD và DVD giá rẻ. Cùng với đó, dòng chảy văn hóa Hàn
Quốc trở nên phổ biến ở Việt Nam vào khoảng cuối những năm 1990 (với phim
truyền hình Hàn Quốc) trên truyền hình Việt Nam và vào đầu những năm 2000 (với
nhạc Pop Hàn Quốc) cùng với sự xuất hiện của internet. Sức hấp dẫn của những
người nổi tiếng nước ngoài và các biểu tượng nhạc Pop đối với giới trẻ Việt Nam đã
gia tăng mạnh mẽ.
Với sức lan tỏa mạnh mẽ và gần như tuyệt đối của nền văn hóa Mỹ, toàn cầu
hóa có lúc còn được gọi là “Mỹ hóa”. Tuy vậy, đến giai đoạn đầu những năm 2000
trở lại đây, dòng chảy văn hóa nước ngoài có tác động lớn tới văn hóa giới trẻ Việt
Nam tiêu biểu nhất có lẽ phải kể đến làn sóng Hallyu là bởi nó đã kéo theo việc một
loạt các tên tuổi ngôi sao ca nhạc, truyền hình Hàn Quốc được nhớ mặt nhớ tên rộng
khắp trong giới trẻ Việt Nam, hơn nữa, sự gần gũi về văn hóa Á Đông trên nền tảng
Nho giáo, đặc biệt sự có mặt thường xuyên của một số ngôi sao Hàn Quốc trong các
47
sự kiện giải trí ở nước ta những năm gần đây càng khiến cho xu hướng Hàn hóa
diễn ra mạnh mẽ song song, có lúc còn lấn át làn sóng Âu Mỹ. Việc đặt mối quan hệ
chính thức giữa hai nước Việt - Hàn năm 1992 là một động thái chính trị có tính
bước ngoặt đối với sự ảnh hưởng của Hallyu ở Việt Nam như hiện nay.
Có thể nói, toàn cầu hoá và các làn sóng văn hoá nước ngoài đã không chỉ
mang các thần tượng đến với giới trẻ Việt Nam mà còn giới thiệu những cách thức,
thực hành hâm mộ ở giới trẻ. Đây chính là “điều kiện” cơ bản để văn hóa giới trẻ
nói chung và hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam nói riêng diễn ra như hiện nay.
2.2.3. Sự phát triển của truyền thông đại chúng
Không chỉ kéo theo sự du nhập văn hoá đại chúng, toàn cầu hoá còn mở
đường cho các phương tiện truyền thông mới, công nghiệp văn hoá, công nghiệp
giải trí trở nên phổ biến rộng rãi ở Việt Nam. Trước khi có internet, văn hóa đại
chúng ở Việt Nam trở nên dần phổ biến thông qua hệ thống truyền hình và báo in.
Trên thế giới, sự phổ biến của báo in đầu thế kỉ XIX là điều kiện để văn hóa người
nổi tiếng, văn hóa fan hâm mộ ra đời và phát triển với việc đăng tin giới thiệu về
những buổi biểu diễn. Thuật ngữ “fan” xuất hiện lần đầu tiên ở nước Anh cuối thế
kỷ XVII, trong đó nó là tên viết tắt phổ biến của ‘fanatic’ (chỉ một người cuồng tín).
Thuật ngữ này trở nên quan trọng ở Mỹ một thế kỷ sau đó, nơi nó được các nhà báo
sử dụng để mô tả niềm đam mê của khán giả bóng chày. Sau này nó được dùng để
mô tả khán giả dành riêng cho phim và ghi âm nhạc (Duffett) [95, tr. 28]. Có thể
nói, sẽ không có người nổi tiếng nếu không có người hâm mộ, và sẽ không có người
hâm mộ nếu không có phương tiện truyền thông, dù là in ấn hay điện tử [95, tr. 30].
Đặc biệt ở những quốc gia có nền công nghiệp phim ảnh hay âm nhạc phát triển như
Anh, Mỹ… có hẳn một hệ thống báo chí chuyên khai thác những thông tin cá nhân,
đời tư của người nổi tiếng và những tờ báo này lúc nào cũng đắt khách (ví dụ: Elle,
Cosmopolitian, Bazaar, Look, Vogue, Glamour, People, Time…). Ở Việt Nam từ
những năm 1990 trở lại đây, người nổi tiếng và sự quan tâm đến những người nổi
tiếng ngày càng là một nội dung nổi bật, thu hút độc giả của nhiều tờ báo: Báo Đất
mũi, Báo Hoa Học trò, Tạp chí Sân khấu điện ảnh, Thế giới điện ảnh… Thông qua
các tờ báo có nhiều nội dung dành riêng cho lứa tuổi “teen” (học sinh, sinh viên)
48
này, giới trẻ Việt Nam không chỉ được biết đến các thói quen, thị hiếu, trào lưu của
giới trẻ ở khắp nơi trên thế giới, mà còn được biết đến những ngôi sao, người nổi
tiếng, thần tượng, các nhóm nhạc, các ca sĩ, diễn viên, cầu thủ trong nước cũng như
nước ngoài. Hiện nay vẫn có tới hàng chục các tờ báo, tạp chí như vậy (các báo về
điện ảnh, thời trang, mỹ phẩm, thị trường) tồn tại song song với sự đa dạng, tiện lợi
và lớn mạnh của báo điện tử. Chính báo chí in và báo mạng (hay còn gọi là báo điện
tử)6 sau này là những nhân tố kích thích nhu cầu tìm hiểu thông tin về đời tư người
nổi tiếng tới khán giả.
Từ năm 1970 đến 1987, ở Việt Nam mới chỉ có đài phát thanh rồi đài truyền
hình phát trên vô tuyến đen trắng, số lượng vô tuyến cũng hiếm hoi, nội dung phát
sóng nghèo nàn, thời lượng ngắn (VTV2 phát sóng lần đầu năm 1990, VTV1 năm
1991, VTV3 năm 1995). Chỉ đến các chương trình giải trí như Trò chơi liên tỉnh, SV
96, MTV most wanted…, giới trẻ mới thực sự bị thu hút bởi những chương trình
dành riêng cho lứa tuổi của mình trên truyền hình. Bên cạnh đó, các bộ phim truyền
hình nước ngoài được phát sóng ở Việt Nam trên những kênh chính thống đã mang
những gương mặt nghệ sĩ, ngôi sao đại chúng tới gần hơn với khán giả trong nước.
Khán giả luôn “khát” thông tin về những cầu thủ, diễn viên, ca sĩ nổi tiếng này do
kênh truyền thông chính để họ biết tới những người nổi tiếng lúc bấy giờ chủ yếu là
ti vi7. Đương nhiên khán giả lúc đó cũng chưa quan tâm đến đời tư, những thông tin
ngoài lề về những người nổi tiếng.
Những năm 1990, khi phim truyền hình được phát sóng, nó đã “xâm chiếm”
trái tim và thậm chí làm thay đổi cách nghĩ, nề nếp sinh hoạt của người dân khi các
6 Thống kê của cơ quan chức năng cho thấy trong khoảng 5 năm trở lại đây, sự phát triển của dòng báo chí điện tử (gồm báo và tạp chí điện tử) có xu hướng tăng tốc. Vào cuối năm 2013, cả nước có 92 cơ quan báo chí điện tử thì đến giữa năm 2018 đã lên tới 159 cơ quan báo và tạp chí điện tử. Nguyên nhân của việc phát triển nhanh chóng dòng báo chí điện tử được cho là vì cước phí các gói dữ liệu Internet của Việt Nam thuộc hàng rẻ nhất thế giới, tốc độ 4G đứng thứ 2 khu vực Đông Nam Á cùng với việc wifi miễn phí có ở khắp nơi. Các thống kê gần đây cho thấy với dân số khoảng 96 triệu người, Việt Nam có hơn 64 triệu người dùng Internet (chiếm 67% dân số), trong đó có hơn 55 triệu người có tài khoản mạng xã hội (chiếm 85% người dùng Internet và 57% tổng dân số). nguồn: https://thoibaonganhang.vn/bao-dien-tu- va-cuoc-dua-vi-ban-doc-89143.html (Truy cập: 21/6/2019). 7 Ở Việt Nam, trước khi chương trình truyền hình đầu tiên được phát sóng năm 1970, hệ thống truyền tin trong nước chủ yếu qua đài phát thanh và các rạp chiếu bóng lưu động, phục vụ cho công cuộc kháng chiến chống Mỹ.
bộ phim đầu tiên được chiếu ở Việt Nam như: Người giàu cũng khóc, Đơn giản tôi
49
là Maria, Tây Du kí, O sin…; chưa kể sau này là một loạt các bộ phim truyền hình
Hàn Quốc đánh dấu cho sự bành trướng ngày càng mạnh của làn sóng Hallyu ở Việt
Nam như: Mối tình đầu, Người mẫu, Cảm xúc, Trái tim mùa thu, Bản tình ca mùa
đông… Có thể nói, việc xuất hiện những tờ báo in dành riêng cho giới trẻ và một
loạt các bộ phim truyền hình (đặc biệt phim Hàn Quốc) đã góp phần lớn trong việc
chuyển sự quan tâm, thích thú của giới trẻ Việt Nam từ các nhà cách mạng, các lãnh
tụ chính trị, nhà khoa học sang những ngôi sao giải trí với ngoại hình sáng sủa, nổi
bật. Các bộ phim truyền hình nước ngoài được phát sóng ở Việt Nam trên những
kênh chính thống đã mang những gương mặt nghệ sĩ, ngôi sao đại chúng tới gần
hơn với khán giả trong nước. Ban đầu là các phim từ các nước Đông Âu, Mỹ, Úc,
Canada, Mexico, sau đó có thêm các dòng phim điện ảnh, phim chưởng, phim bộ
của Hồng Kông, Đài Loan, Hong Kong, Nhật Bản và đặc biệt từ cuối những năm
1990 thì không thể không kể đến các bộ phim truyền hình Hàn với một loạt diễn
viên có ngoại hình đẹp nổi bật, trở thành thần tượng của đông đảo khán giả.
Nhờ các tờ báo in, ti vi hoặc đài cassette, giới trẻ Việt Nam được tiếp xúc với
âm nhạc, phim ảnh của nước ngoài. Sự tiếp xúc với văn hóa nước ngoài cùng với sự
phát triển về kinh tế trong nước đã làm xuất hiện nhóm giới trẻ trung lưu thành thị -
những người sống ở những trung tâm tiêu dùng, giải trí, trong khi đó, các sản phẩm
trong nước lúc đó còn nghèo nàn nên nhu cầu của họ về văn hóa đại chúng nước
ngoài ngày càng cao.
Sau thời của báo in và truyền hình, sự phát triển của các phương tiện truyền
thông mới với sự bùng nổ của internet, mạng xã hội được coi là một trong những
điều kiện khả thể cho sự xuất hiện diễn ngôn về người nổi tiếng, về thần tượng.
“Mạng internet chính là một trong những điều kiện hậu hiện đại của diễn ngôn về
người nổi tiếng, bởi “khả năng dung chứa thông tin vô hạn, sự phi tuyến tính, phi
định kì, nặc danh hóa và cá nhân hóa gần như tuyệt đối trong hành vi đọc” (Nguyễn
Thu Giang) [16, tr. 154]. Năm 1996-1997, internet xuất hiện ở Việt Nam nhưng lúc
đó, cả nước mới chỉ có hơn 3000 người sử dụng8 (trên tổng số gần 76 triệu người,
8 https://internetvietnam.net/bang-thong-ke-nguoi-dung-internet-viet-nam.html
chiếm gần 0,004% dân số cả nước). Đến 2018, đã có hơn 55 triệu người sử dụng
50
internet9 (trên tổng số 95,6 triệu người, chiếm 57,5% dân số cả nước). Có thể thấy
tốc độ phổ biến, lan rộng của internet tăng nhanh chóng mặt trong hơn 20 năm qua.
Internet là công cụ thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa diễn ra nhanh và mạnh hơn, đặc
biệt nhờ internet mà các dòng chảy hàng hóa, văn hóa toàn cầu có thể tỏa đi mọi
ngóc ngách trên thế giới. Internet cũng như một công cụ để giới trẻ tiếp cận và biết
đến các thần tượng nhiều hơn, đồng thời là môi trường để những thực hành hâm mộ
thần tượng diễn ra và trở nên phổ biến, trở thành một hiện tượng trong đời sống văn
hoá giới trẻ Việt Nam như hiện nay.
Theo dòng chảy của toàn cầu hóa, công nghiệp văn hóa của các nước Âu Mỹ
có điều kiện để lan tỏa sức ảnh hưởng của nó tới các quốc gia khác, góp phần hình
thành nền công nghiệp văn hóa, trong đó có công nghiệp giải trí ở các nước này. Từ
máy ghi âm, đến máy quay đĩa nhựa, rồi đến băng từ, đĩa Compact Disc (CD),
VCD, sau này là MP3 cùng sự phát triển của internet đang dần thay đổi bộ mặt của
ngành công nghiệp âm nhạc, hướng tới một nền công nghiệp âm nhạc điện tử E-
music. Nhờ những bước phát triển vượt trội về mặt công nghệ, các sản phẩm âm
nhạc được phát hành rộng rãi. Những ngôi sao âm nhạc, ca sĩ trở nên nổi tiếng với
lượng phát hành đĩa, album khổng lồ, theo đó, lượng người hâm mộ của họ cũng
ngày càng gia tăng không chỉ giới hạn ở phạm vi của một quốc gia mà vươn ra cả
thế giới. Đây là những điều kiện dẫn đến sự bùng nổ của hiện tượng hâm mộ thần
tượng ở giới trẻ Việt Nam đương đại.
Có thể nói, bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội từ sau Đổi mới với
những biến chuyển sâu sắc đã có tác động không nhỏ tới đời sống giới trẻ Việt
Nam. Mức sống và chất lượng cuộc sống của toàn dân được cải thiện, đời sống của
các tầng lớp nhân dân phong phú và có nhiều biến đổi nhanh chóng so với trước đây
theo xu hướng gia tăng các hình thức giải trí và tiêu dùng do điều kiện kinh tế phát
triển, thị trường tự do và ngày càng cởi mở. Làn sóng văn hóa Âu Mỹ, Hàn Quốc và
sự nổi lên của các phương tiện truyền thông đã làm thay đổi toàn bộ đời sống tinh
9 https://internetvietnam.net/bang-thong-ke-nguoi-dung-internet-viet-nam.html
thần, văn hóa của giới trẻ. Đây chính là những điều kiện khả thể khiến để các ngôi
51
sao giải trí xuất hiện ngày càng nhiều và trở nên quen thuộc trong đời sống giới trẻ
Việt Nam hiện nay.
2.3. Sự thịnh hành của các ngôi sao giải trí ở giới trẻ Việt Nam
2.3.1. Những ngôi sao giải trí nước ngoài
Những ngôi sao giải trí đã trở nên thịnh hành trên báo chí ở Việt Nam trong
khoảng 30 năm trở lại đây. Sau thời kì mới du nhập với những tên tuổi mở đầu như
ABBA, Modern Talking, Boney M,..., những năm 1990 là thời kì nhạc Âu Mỹ cực
thịnh ở Việt Nam. Cuối những năm 1990, âm nhạc toàn cầu, hiện đại (US / UK-pop
được gọi là nhạc pop phương Tây do Mỹ dẫn đầu) với những cái tên nổi tiếng như
Michael Jackson, Madona, Britney, Christina Aguilera, Justin Timberlake, Ricky
Martin, Boyzone, The Backstreet Boys,... được giới trẻ Việt Nam tích cực đón nhận
thông qua các kênh phát thanh, kênh Truyền hình quốc gia (chương trình MTV
most wanted nổi tiếng một thời với 2 MC Diễm Quỳnh và Anh Tuấn) và thông qua
đĩa CD và DVD giá rẻ. Giai đoạn cuối 1990 đầu những năm 2000, các ngôi sao
châu Á dần được giới thiệu trên báo ngày càng nhiều hơn, cũng là lúc phim Hàn,
Trung Quốc, Đài Loan được chiếu liên tục trên ti vi. Ti vi chiếu phim gì thì trên
Hoa học trò sẽ có những bài viết, giới thiệu thông tin về diễn viên phim ấy. Chính
các tờ báo in dành riêng cho lứa tuổi thanh thiếu niên (teenagers) như: Báo Hoa
Học trò, Mực tím, Sinh viên Việt Nam… đã “huấn luyện” cho độc giả, khán giả trẻ
dần hình thành thói quen và sở thích đọc, xem những nội dung giải trí, những
chương trình giải trí. Ban đầu trên Hoa Học trò chỉ có các mục như Cùng tuổi chúng
mình, Gương mặt Hoa học trò, Thử tài của bạn, Những người bạn muốn biết
chuyên giới thiệu thông tin về các diễn viên, ca sĩ, nhóm nhạc nước ngoài. Cũng
nhờ các thông tin trên báo này, giới trẻ 7x, 8x lúc đó mới có thể cùng nhau chia sẻ
những hiểu biết chung về các ngôi sao trong và ngoài nước. Sức hấp dẫn của những
người nổi tiếng nước ngoài và các biểu tượng nhạc pop đối với giới trẻ Việt Nam đã
gia tăng mạnh mẽ.
Trong suốt hai thập niên 2000 và 2010, các dòng nhạc C-Pop, K-Pop và J-
Pop đã bắt đầu lan tỏa sang các nước phương Tây và khu vực châu Á. Thời điểm
đầu những năm 2000, khi trào lưu nhạc trẻ ở trong nước có xu hướng lắng xuống so
52
với thời của Làn sóng xanh, lúc này làn sóng Hallyu (tiêu biểu là phim Hàn và nhạc
Hàn) với chiến lược bành trướng bài bản của nó đã bắt đầu lan tới và có ảnh hưởng
ngày càng mạnh mẽ đặc biệt đối với ngành công nghiệp giải trí ở các nước châu Á
trong đó có Việt Nam. Những người hâm mộ diễn viên, ca sĩ Hàn Quốc chiếm một
tỉ lệ không nhỏ trong giới trẻ. Trong khảo sát của Đặng Thiếu Ngân (2017) về ảnh
hưởng của Hallyu đến giới trẻ Việt Nam, có 51% giới trẻ được hỏi trả lời hâm mộ
các thần tượng Hàn Quốc (chủ yếu là các diễn viên, ca sĩ, nhóm nhạc thần tượng nổi
tiếng) và 39,9% trả lời không hâm mộ [41, tr. 84]. Thông qua các bộ phim lãng
mạn, với số tập ngắn dần dễ theo dõi, các diễn viên thuộc làn sóng Hallyu10 thế hệ
đầu (Bae Yoong Joon, Won Bin, Song Seung Hun, Song Hye Kyo, Son Ye Jin...)
đến các diễn viên trẻ hiện nay (Lee Min Ho, Kim Soo Huyn...) được nhiều bạn
trẻ Việt Nam ưa thích. Tuy nhiên, để nói về những ảnh hưởng của làn sóng
Hayllyu ở Việt Nam, không thể không kể đến mức độ phủ sóng và được yêu
thích của các nhóm nhạc thần tượng. Từ những nhóm nhạc thần tượng gen 1 (hay
còn gọi là thế hệ đầu) (H.O.T, Shinhwa, Sechskies), gen 2 (Big Bang, SNSD, T-
ara, 2EN1, Shinee, DBSK...) đến các nhóm thuộc gen 3 mới đây (như EXO,
BTS, Blackpink, Mamamoo, iKON, Winner...) đều thu hút lượng fan đông đảo
người Việt. Lí do khiến nhiều ngôi sao Hàn Quốc trở thành thần tượng của giới
trẻ Việt Nam là bởi những ngôi sao này đã vượt ra khỏi sáng tạo nghệ thuật,
khán giả tiếp nhận họ ở cả hai chiều cạnh: con người thực (real) và con người
hình dung (imagined) và quan trọng là bởi họ không những xinh đẹp, dễ thương
(hoặc nam tính), hát hay, vũ đạo, diễn xuất tốt, đa tài, mà còn bởi những phẩm
chất con người xã hội của họ như: có ý chí, nghị lực, hoàn thành nghĩa vụ quân
sự và nhiệm vụ học tập, đời tư sạch, nhân cách tốt, có tinh thần dân tộc, tính
cách vui vẻ, thân thiện... (Đặng Thiếu Ngân) [41, tr. 84].
10 Làn sóng Hallyu hay còn gọi là Làn sóng Hàn Quốc là tên gọi cho sự phát triển mạnh mẽ của nền văn hóa đại chúng Hàn Quốc (bao gồm phim ảnh, âm nhạc…) trên khắp thế giới trong thế kỷ 21. Làn sóng Hàn bắt đầu với việc xuất khẩu các sản phẩm phim truyền hình như Trái tim mùa thu, Bản tình ca mùa đông và Nàng Dae Jang Geum khắp Đông và Đông Nam Á. Sự thành công nhanh chóng của phim truyền hình Hàn Quốc kéo theo sự nổi tiếng của phim nhựa, âm nhạc đại chúng Hàn Quốc (gọi tắt K-pop), ẩm thực Triều Tiên và tiếng Hàn Quốc. Từ "Hàn lưu" giờ cũng ám chỉ nền kinh tế đang lên của Hàn Quốc và sự nổi lên của các tập đoàn đa quốc gia đến từ đất nước này như Samsung, LG, Lotte và Hyundai.
53
K-Pop phổ biến nhất ở những giới trẻ Việt Nam từ 15-27 tuổi, gần đây, đối
tượng này ngày càng trở nên trẻ hóa khi những học sinh cấp 1, cấp 2 đã không ngần
ngại tự “định danh” mình là fan của một/một số thần tượng nhạc K-Pop. Những
cộng đồng người hâm mộ trẻ này đã tự thiết lập những nhóm, những diễn đàn để
trao đổi thông tin và thể hiện tình cảm, sự yêu thích đối với các thần tượng Hàn
Quốc, tạo nên một cộng đồng rộng lớn được gọi chung là fan K-Pop - những người
thậm chí còn bị gắn mác “fan cuồng” bởi những biểu hiện cuồng nhiệt của họ đối
với các thần tượng. Chỉ riêng năm 2012 đã có tới 6 sự kiện âm nhạc được tổ chức
nhân kỉ niệm 20 năm thiết lập quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc, với sự tham gia của
nhiều ngôi sao Hàn Quốc được mời sang Việt Nam biểu diễn. Điều này đã tạo nên
cơn sốt trong cộng đồng fan của họ, gây nên hiệu ứng “cuồng thần tượng” với hình
ảnh đám đông fan vây kín sân bay đón thần tượng, gào khóc khi nhìn thấy thần
tượng, thậm chí ngất xỉu do chen lấn trong các show diễn của thần tượng... K-Pop
Việt Nam từ một nền văn hóa nhóm ít được chú ý trở thành một hiện tượng bùng nổ
của truyền thông trong nước gọi là “văn hóa thần tượng” với nhiều hoạt động đa
dạng: âm nhạc, nhảy flashmob, thi nhảy cover, tìm kiếm giọng hát và ngôi sao để
đào tạo theo chuẩn K-Pop... Điều đáng chú ý hơn nữa là nhạc Pop Việt Nam nổi lên
như một sự bắt chước của mô hình K-Pop, thậm chí có nhiều ý kiến cho rằng đó là
sự sao chép phong cách và âm nhạc của các ngôi sao thần tượng K-Pop, đặc biệt
trong giai đoạn 2014-2015 (Duong Nguyen Hoai Phuong) [157]. Theo khảo sát của
Trần Thị Hường và Cao Thị Hải Bắc, ở Việt Nam, hiện tượng fan cuồng cũng đã
xuất hiện nhưng không đáng quan ngại như tại Nhật Bản hay Trung Quốc, với chỉ
10,6% số người trả lời rằng rất muốn thay đổi theo diễn viên Hàn Quốc và 37,3% số
người trả lời muốn bắt chước theo thần tượng11.
Như vậy, các ngôi sao giải trí nước ngoài đã thu hút sự chú ý và từng bước
11 Trần Thị Hường, Cao Thị Hải Bắc (2015), “Hàn lưu trong đời sống văn hóa người Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 4, tr. 66-74.
trở thành thần tượng của không ít giới trẻ Việt Nam trong 20 năm trở lại đây.
54
2.3.2. Các ngôi sao giải trí trong nước
Ngoài sự thịnh hành của các ngôi sao quốc tế, các ngôi sao giải trí trong
nước cũng thu hút một lượng lớn công chúng trẻ tuổi. Từ những ảnh hưởng của
nhạc Pop phương Tây, nhạc trẻ ở Việt Nam bắt đầu phát triển với các chương trình
như Làn sóng xanh, nơi các nghệ sĩ Việt Nam có thể thể hiện sự sáng tạo của mình
trong việc phát triển các chủ đề mới, từ chủ đề dân tộc và yêu nước cũ (dựa trên các
bài hát chiến tranh và tuyên truyền), đến một nền văn hóa Pop vật chất mới
(Thomas) [172]. Nhắc đến giai đoạn cuối những năm 1990, đầu 2000, rất nhiều bạn
thuộc thế hệ 8x chỉ nhớ được những mốc thời gian gắn liền với sự xuất hiện hay nổi
tiếng của các ca sĩ, diễn viên mà họ yêu thích. Chẳng hạn, năm 1997-1998, ca sĩ
Lam Trường, Đan Trường bắt đầu nổi tiếng, trước đó có Mỹ Linh, Hồng Nhung,
Thanh Lam, rồi Bằng Kiều, Phương Thanh, Hồng Ngọc… Tên tuổi những ca sĩ này
mở ra trào lưu nhạc trẻ, chương trình Làn sóng xanh đình đám một thời. Những kỉ
niệm của thế hệ 8x được họ nhớ lại đều gắn với các ca khúc mà một thời họ hay sưu
tầm, hát theo, những mốt quần áo, đầu tóc gắn liền với hình mẫu của các ca sĩ nổi
tiếng, chẳng hạn đầu bổ của Đan Trường, đầu “chôm chôm” của Lam Trường, tóc
tém Mỹ Linh, “tóc nâu môi trầm” Mỹ Tâm. Từ việc bê nguyên xi nhạc Hoa, đặt lời
Việt cho đến việc tự sáng tác của các nhạc sĩ trẻ đã tạo nên một nền nhạc trẻ Việt
Nam thời kì đầu, rồi dần dần là nền “công nghiệp giải trí”12.
Sau giai đoạn thoái trào, nhạc trẻ Việt Nam lại xuất hiện một loạt các ca sĩ
thu hút sự chú ý và yêu thích của giới trẻ gắn liền với dòng nhạc thị trường: Noo
Phước Thịnh, Đông Nhi, Tóc Tiên, Thủy Tiên, Bích Phương, Sơn Tùng M-TP và
một vài năm gần đây là Đức Phúc, Erik, Hòa Minzy, Hương Giang Idol... Đây là
những ca sĩ liên tục có những sản phẩm lọt top trending trên youtube trong nước,
cũng đồng thời là những ca sĩ có những câu lạc bộ người hâm mộ đông đảo nhất
hiện nay ở Việt Nam.
Sau các diễn viên của dòng phim “mì ăn liền” như Lý Hùng, Diễm Hương,
12 Cụm từ “Công nghiệp giải trí” được Báo Hoa Học trò sử dụng lần đầu trên số 234 phát hành ngày 4/6/1998 khi nói về các hoạt động của nhạc trẻ Việt Nam.
Việt Trinh vào những năm 1990, đến nay, thế hệ diễn viên trẻ cũng thu hút sự chú
55
ý, yêu mến của công chúng, đặc biệt các diễn viên hài vì độ phủ sóng trên các
chương trình truyền hình (chẳng hạn như Trấn Thành từ 2019 đến nay là nhân vật
có sức ảnh hưởng lớn nhất trên mạng xã hội). Ngoài ra, với sự hưng thịnh trở lại của
bóng đá nước nhà mấy năm gần đây, các cầu thủ đạt nhiều thành tích cho đội bóng
đá quốc gia cũng trở thành thần tượng được nhiều bạn trẻ yêu thích (chẳng hạn
Quang Hải, Duy Mạnh, Công Phượng, Xuân Trường, Đoàn Văn Hậu...).
Có thể nói, các ngôi sao giải trí trong và ngoài nước ngày càng trở thành thần
tượng của một bộ phận không nhỏ giới trẻ Việt Nam từ cuối những năm 1990 đến
nay. Ngoài ra, do các hình thức giải trí của giới trẻ càng ngày càng phong phú, các
ngôi sao giải trí mà họ yêu thích cũng ngày càng nhiều. Đồng thời với sự phát triển
của các phương tiện truyền thông và sự đa dạng của các chương trình truyền thông
đại chúng, có thể thấy các thần tượng của giới trẻ đương đại không chỉ có xu hướng
thiên về các ngôi sao giải trí mà còn chủ yếu là những ngôi sao trên truyền thông.
Không chỉ là ca sĩ, diễn viên, cầu thủ mà còn có thể là các youtuber, streamer,
vlogger... Vì vậy, cũng có thể nói những người hâm mộ thực chất là những nhóm
công chúng truyền thông và thần tượng của họ thực chất là những sản phẩm của
truyền thông.
2.4. Hâm mộ thần tượng qua sự phản ánh của báo chí
Trong 30 năm trở lại đây, hâm mộ thần tượng trở thành một hiện tượng đáng
chú ý trên báo chí. Theo khảo sát Báo Hoa Học trò, từ “fan” lần đầu tiên được dùng
trên tờ báo này số ra ngày 30/5 (1/1992) trong bài “yêu bóng yêu gió” mục trả lời
thư của một bạn “yêu” diễn viên Lý Hùng, còn từ “thần tượng” được nhắc đến lần
đầu tiên trên số 32 (năm 1993), khi mục Tâm tình tuổi mới lớn mở diễn đàn “Thần
tượng của bạn là ai?”. Diễn đàn này đã thu hút rất nhiều bạn trẻ, có tới 3429 bài
tham dự được gửi về báo Hoa Học trò, trong đó ½ số người coi thần tượng là người
thân, cha mẹ. Theo đó, cách hiểu của giới trẻ lúc đó về thần tượng là: “hình mẫu lí
tưởng bắt nguồn từ sự thích thú, yêu mến, kính trọng”. “Tuổi mới lớn ai cũng có
một thần tượng để chúng ta say mê, hướng tới những điều tốt đẹp nhất trong học tập
cũng như cuộc sống hàng ngày”; “Ai cũng có một ý thích hay ước mơ riêng của
mình mà người nào đó lại là hiện thân của sự mơ ước ấy, luôn luôn là những hình
ảnh đẹp của sự mơ ước ấy thì người đó sẽ trở thành thần tượng của lòng mình” hay
56
“thần tượng trước hết là người có được cuộc sống trên vinh quang nghề nghiệp,
được giới trẻ chú ý và tôn sùng” (Theo bài “Lớn lên cùng thần tượng”, HHT số 42
năm 1993). Theo đó, thần tượng của mỗi người có thể là một chính trị gia, một nhà
văn hóa, một nhà phát minh, một người nổi tiếng, một ngôi sao hay có thể chỉ là
một người bình thường nhưng làm được những điều mà người khác cho là phi
thường. Thần tượng của giới trẻ hiện nay ngày càng gần với cuộc sống thường ngày
của họ. Đặc biệt với sự phổ biến của các phương tiện truyền thông, người nghệ sĩ dễ
trở thành “thần tượng”, thành “người của công chúng” hơn cả vì sự xuất hiện dày
đặc của họ. Tần suất xuất hiện ngày càng dày đặc này của những người nổi tiếng
trên báo chí đã làm xuất hiện một nhóm công chúng truyền thông mới - những
người hâm mộ của những ngôi sao, người nổi tiếng. Những câu lạc bộ người hâm
mộ đầu tiên ở Việt Nam được Báo Hoa Học trò nhắc đến nhiều lần là fanclub của
ca sĩ Lam Trường và Đan Trường - hai ca sĩ gây ra nhiều tranh luận giữa hai cộng
đồng fan lúc bấy giờ. Lúc đó, do chưa có internet, fanclub của Đan Trường đăng tin
kết nạp thành viên mới trên Báo Hoa Học trò, ghi rõ địa chỉ và số điện thoại của
bạn trưởng câu lạc bộ, để thông qua đó, những người hâm mộ khác trên cả nước
biết rằng có một fanclub như thế tồn tại, họ có thể trao đổi thông tin và chia sẻ cảm
xúc về Đan Trường qua thư từ. Đây có lẽ là hình thức tổ chức fanclub sớm nhất ở
cộng đồng những người hâm mộ trẻ Việt Nam.
Sau thời báo in, sự xuất hiện hàng loạt các trang báo điện tử đã khiến các
thông tin về người nổi tiếng và những người hâm mộ lại càng nở rộ. Báo chí không
chỉ là chủ thể gợi ra sự quan tâm của giới trẻ về các thần tượng mà còn là nơi đăng
tải liên tục thông tin về những người nổi tiếng và sự hâm mộ những người nổi tiếng
đó, đặc biệt ở giới trẻ. Theo khảo sát của Đặng Thị Thu Hương (2016), trong khi
những bài viết về tấm gương các nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ hay các doanh
nhân xuất hiện không nhiều thì các bài viết về những người nổi tiếng chủ yếu trong
lĩnh vực giải trí lại ngập tràn trên báo chí, nhất là báo điện tử. “Trong 1 tuần từ
31/11/2015 đến 5/12/2015, trên Vnexpress.net, tờ báo điện tử tiếng Việt được nhiều
người đọc nhất, có 7 tin, bài, ảnh, video... về Hồ Ngọc Hà, trong đó, chỉ có 1 tin liên
quan đến hoạt động nghề nghiệp của cô với tư cách là một ca sĩ. Các tin còn lại tập
trung về thời trang, về việc cô mở dịch vụ làm đẹp (...) Tương tự như vậy, Ngọc
57
Trinh cũng xuất hiện với mật độ dày đặc, với 29 tin, bài trong tháng 10/2015 trên
Vnexpress.net” [31, tr. 171-172]. Tuy nhiên, báo chí cũng là nơi khiến những thực
hành này ở giới trẻ bị chỉ trích, quy chụp và chịu định kiến trong một thời gian dài.
Năm 2012, một loạt bài báo viết về hiện tượng “fan cuồng” sau khi đưa tin một số
fan trẻ tuổi hôn ghế thần tượng ngồi, chửi cha mẹ trên mạng chỉ vì không cho đi
xem thần tượng K-Pop về Việt Nam, ôm nhau khóc lóc dù là con trai, ngồi vạ vật
hàng giờ bất kể ngày đêm ở sân bay để chờ được nhìn thấy thần tượng, chen lấn đến
mức ngất xỉu13... Mặc dù những trường hợp như thế này không phải là phổ biến
nhưng nó lại được lan truyền nhanh chóng trên báo chí khiến cho hâm mộ thần
tượng ở giới trẻ trở nên méo mó, dị dạng trong con mắt của số đông xã hội.
Trước những hành vi hâm mộ thần tượng “quá đà”, các bài báo nêu lên sự lọ
ngại về việc đang có sự khủng hoảng về lối sống, văn hóa sống của một bộ phận
thanh niên. “Thần tượng là quyền cá nhân. Nhưng đến mức “cuồng”, với một số
lượng đông đảo và những hành vi mất kiểm soát, thì hết sức đáng lo ngại. Nhìn sâu
vào hiện tượng, không thể nói những phản ứng trên là bình thường, mà đã có những
biểu hiện lệch lạc, bệnh hoạn. Không bậc cha mẹ nào có thể yên tâm với một đứa
con “ăn thần tượng, ngủ thần tượng”, vì sẽ sa sút học hành, ý chí phấn đấu, mơ hồ
trong cuộc sống”14. Và hiện tượng “cuồng” thần tượng, dễ bị quy chụp như là một
biểu hiện của sự phai nhạt, thờ ơ về bản sắc văn hóa dân tộc, các giá trị văn hóa
truyền thống. Hàng hóa, văn hóa nước ngoài đã ồ ạt ngự trị, chiếm lĩnh trong đời
sống các fan “cuồng”. Nhiều bài báo cho rằng cần nhìn nhận hiện tượng “cuồng”
thần tượng là một nguy cơ, từ đó gióng lên một hồi chuông báo động để cảnh tỉnh,
khắc phục. Sau loạt bài báo đó, mác “fan cuồng” được gắn cho tất cả những fan K-
Pop nói riêng cũng như những người hâm mộ trẻ cuồng nhiệt khác nói chung. Ấn
tượng của những người hâm mộ trẻ trong mắt phụ huynh, thầy cô và xã hội là
những người trẻ người non dạ, thiếu hiểu biết; tốn tiền bạc, thời gian và công sức
chạy theo những thứ vô bổ, không có lí tưởng, đam mê đặt nhầm chỗ... Tuy nhiên,
cũng có một số ý kiến “lạc quan và bao dung hơn” cho rằng “Trẻ con ấy mà, hãy thử 13 https://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/hon-ghe-than-tuong-gioi-tre-qua-tron-65637.html Hôn ghế thần tượng, giới trẻ quá trớn? https://tuoitre.vn/khi-nguoi-tre-quy-xuong-va-hon-ghe-483703.htm 14 https://laodong.vn/dien-dan/khi-gioi-tre-ngat-xiu-va-hon-ghe-than-tuong-572822.ldo. Quang Đại, “Khi giới trẻ ngất xỉu và hôn ghế thần tượng”,
58
đặt mình vào vị trí chúng nó”, “Chúng nó lớn tự khắc sẽ tỉnh”, hay “Hãy để lớp trẻ có
thần tượng của mình, dù Hàn hay Việt, nếu họ tạo ra giá trị sống mới, nếu họ đại diện
cho những vẻ đẹp mới, hay thậm chí đơn giản là họ mang đến niềm vui cho hàng triệu
thanh niên đang thiếu vắng thần tượng và thiếu cả không gian giải phóng năng lượng”15.
Theo sự phản ánh của báo chí, việc cuồng thần tượng có nguyên do từ cả hai
phía: giới trẻ và bố mẹ. “Thường tình trạng này hay xuất hiện ở những trẻ thiếu tự tin,
dễ bị cuốn hút bởi những thứ hào nhoáng bên ngoài, cũng như người thiếu tự chủ thì dễ
tin quảng cáo. Tuy nhiên, phụ huynh mới là yếu tố chính khiến con trở nên mê muội
thần tượng. Bố mẹ quá nuông chiều nhưng lại ít dành thời gian tìm hiểu, quan tâm đến
con, đồng thời không đủ làm thần tượng của con, không khiến con cảm thấy tin tưởng
và có thể chia sẻ”16… Có ba lí do chính mà báo chí đưa ra: thứ nhất, sức đề kháng của
giới trẻ còn thấp, không đủ sức đối đầu hoặc thoát khỏi ảnh hưởng toàn diện của làn
sóng văn hóa nước ngoài; thứ hai, khi không có lý tưởng, khi không có điểm tựa chính
đáng về tinh thần, họ vẫn phải sống cuộc sống của người khác, khiến mình lệ thuộc vào
thần tượng ngày càng nhiều; thứ ba nữa, giới truyền thông cũng “góp một phần không
nhỏ” trong việc thổi phồng thần tượng, ca ngợi “lên mây” những ngôi sao trong và
ngoài nước, “nặn” những ngôi sao ảo17. Từ đó, các bài báo cũng đặt câu hỏi về trách
nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục tư tưởng, nhân cách, lối
sống cho thanh thiếu niên hiện nay.
Mặc dù cũng có nhiều ý kiến bênh vực, đồng cảm với hiện tượng hâm mộ
quá mức của những bạn trẻ nhưng các ý kiến chỉ trích vẫn có phần lấn át. Đôi khi
chỉ vì mục đích thương mại (giật tít, câu view) mà những thông tin và đánh giá về
hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam bị báo chí làm cho trở nên méo mó, phiến
diện, gây nên những định kiến, kì thị về những người hâm mộ.
Những năm gần đây, hâm mộ thần tượng vẫn tiếp tục diễn ra nhưng thay vì
là tâm diểm của sự chỉ trích và định kiến như thời điểm năm 2012, hiện tượng này
dường như đã trở nên quá quen thuộc với dư luận xã hội, với giới trẻ và với phụ
huynh của họ. Những người hâm mộ trẻ vẫn chạy theo các thần tượng một cách 15 https://tuoitre.vn/khi-nguoi-tre-quy-xuong-va-hon-ghe-483703.htm (Truy cập ngày 3/2/2018). 16http://vietbao.vn/The-gioi-tre/Chuyen-Fan-cuong-than-tuong-o-gioi-tre-Viet-Nam-hien- nay/2147578136/475/. (Truy cập ngày 3/2/2018). 17http://vietbao.vn/The-gioi-tre/Chuyen-Fan-cuong-than-tuong-o-gioi-tre-Viet-Nam-hien- nay/2147578136/475/. (Truy cập ngày 3/2/2018).
59
cuồng nhiệt: đợi chờ ở sân bay, tham dự các buổi trình diễn, chạy đua trên các diễn
đàn, mạng xã hội và tổ chức các hoạt động, sự kiện nhằm ủng hộ, quảng bá cho thần
tượng... Các thông tin về các ngôi sao, người nổi tiếng ngập tràn trên các phương
tiện truyền thông đại chúng và hiển nhiên đến nỗi chúng trở thành những thông tin
“thường thức” đối với cả xã hội, đặc biệt xã hội đô thị.
Tiểu kết chương 2
Hâm mộ thần tượng không phải là một hiện tượng hoàn toàn mới, tuy nhiên, nó
trở thành một hiện tượng nổi bật ở Việt Nam trong những năm gần đây. Bối cảnh Việt
Nam sau Đổi mới dưới ảnh hưởng của toàn cầu hoá, sự phát triển của các phương tiện
truyền thông và sự cởi mở của chính sách đã mở đường cho các dòng chảy văn hoá
nước ngoài du nhập, làm đa dạng đời sống văn hoá, giải trí của giới trẻ trong nước.
Chính bối cảnh này đã khiến văn hoá đại chúng phổ biến rộng rãi, ngành công nghiệp
giải trí hình thành và phát triển ở Việt Nam trong hơn 20 năm trở lại đây. Việc giới trẻ
dần trở nên quen thuộc và ngày càng có xu hướng tìm hiểu, theo dõi, yêu thích và say
mê đối với những người nổi tiếng, những ngôi sao, thần tượng là kết quả của việc các
thông tin giải trí như âm nhạc, điện ảnh, thể thao ngày càng đa dạng và tràn ngập trên
khắp các phương tiện truyền thông ở Việt Nam. Là thế hệ nhanh nhạy trong việc nắm
bắt những tiến bộ, những cái mới của công nghệ, của truyền thông cũng như tiếp cận
nhanh những làn sóng, trào lưu văn hóa mới, giới trẻ Việt Nam chính là chủ thể của
những thực hành hâm mộ thần tượng đa dạng hiện nay.
Những biểu hiện của hâm mộ thần tượng của giới trẻ trong thời gian vừa qua
đã thu hút sự quan tâm của báo chí cũng như dư luận xã hội. Tuy vậy, báo chí
thường khai thác các khía cạnh giật gân, gây sốc đối với độc giả, ở góc độ nào đó
góp phần tạo nên định kiến và sự kì thị xã hội đối với hiện tượng này. Hâm mộ thần
tượng cần phải được soi chiếu một cách đa chiều hơn những từ góc nhìn, góc tiếp
cận khác. Do vậy, ở chương 3, chúng tôi sẽ trình bày và phân tích rõ hơn những
thực hành hâm mộ thần tượng cụ thể ở giới trẻ Việt Nam từ góc nhìn chủ thể.
60
Chương 3
NHỮNG THỰC HÀNH HÂM MỘ THẦN TƯỢNG
Đó là một ngày mùa thu năm 2019, show diễn thuộc Skytour của Sơn Tùng
M-TP ở Hà Nội diễn ra tại Cung Thể thao điền kinh (Mỹ Đình) sau khi đã được tổ
chức ở Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh. Theo lời hẹn với My - một thông tín
viên cũng là fan ruột của Sơn Tùng, tôi có mặt ở địa điểm này lúc 7 rưỡi sáng, xếp
hàng cùng với các bạn trẻ. Trên tay mỗi người đều cầm tấm vé mà họ đã mua
hoặc “săn” từ cách đây từ gần một tháng. Đây là lần đầu tiên tôi được tham dự
một liveshow của một ca sĩ trẻ, nhưng mọi thứ diễn ra khá suôn sẻ khi thông tín
viên của tôi rất thành thạo vì cô ấy từng mua vé tham dự hai show diễn của
Skytour tại hai thành phố kia.
Trong các hàng dài những người hâm mộ xếp hàng chờ đến lượt, cả nam
cả nữ chủ yếu từ 15-25 tuổi, đa phần là học sinh, sinh viên với đủ các phong cách
ăn mặc khác nhau: có người mặc áo phông quần jean khoẻ khoắn, có người mặc
crop-top hở eo đầy phong cách, có nhiều bạn khoe ảnh check in với những đôi giày
Biti’s hunter mới tinh, có bạn mặc áo giống hệt chiếc áo Sơn Tùng mặc trong MV
mới nhất Hãy trao cho anh... Nhiều bạn trong fanclub mà tôi tham gia đã tụ tập
cùng nhau từ đêm hôm trước; có những bạn ở tỉnh xa, phải bắt xe đi tới Hà Nội từ
rất sớm để có thể tham dự sự kiện quan trọng này. Các hội nhóm người hâm mộ ở
khắp các nơi đã chuẩn bị kế hoạch cho sự kiện này từ rất sớm: tập hợp các thành
viên, chuẩn bị project (chương trình), in banner (khẩu hiệu cổ vũ), in poster khổ
lớn, chuẩn bị bảng đèn cổ vũ và mua thêm lightstick (gậy/đèn cổ vũ phát sáng)...
Tất cả đều trong tâm trạng vừa háo hức, vừa nghiêm túc bởi show diễn này như
một sự kiện lớn không chỉ đánh dấu mốc quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp
của Sơn Tùng M-TP - thần tượng của những bạn trẻ này mà còn là dấu mốc quan
trọng với chính cuộc đời họ - cuộc đời của những người hâm mộ.
Xếp hàng chờ đến gần 12h trưa cho chương trình giao lưu cùng thần tượng
(Meet & Great), tôi cùng fanclub vừa hồi hộp vừa phấn khích hát theo tiếng nhạc
của các ca khúc quen thuộc của Sơn Tùng xen giữa các quảng cáo của Go Viet và
Pepsi - hai nhãn hàng mà Sơn Tùng đang làm đại diện thương hiệu. Không thể diễn
tả được không khí của đám đông người hâm mộ khi Sơn Tùng xuất hiện trong
chương trình Meet & Great. Nhiều bạn trẻ chực khóc. Mọi người đều giơ tay xin
CỦA GIỚI TRẺ HIỆN NAY
61
đặt câu hỏi với thần tượng của mình bởi lẽ, với rất nhiều bạn trẻ, đây là lần đầu
tiên họ được gặp thần tượng bằng xương bằng thịt. Những bạn được chọn để đặt
câu hỏi sẽ được Sơn Tùng tặng một món quà. Có người được Tùng tặng cho bình
đựng nước, có bạn được tặng dây chuyền, có bạn được tặng thú bông - tất cả đều
là sản phẩm của Miniso - một nhãn hàng mà Sơn Tùng đã kí hợp đồng quảng cáo
trong nhiều năm nay.
Tới phần trình diễn chính thức lúc 8 giờ tối, sau cả một ngày dài chờ đợi,
những chiếc lightstick đồng loạt phát sáng dòng chữ M-TP, những bảng đèn cổ vũ
xanh đỏ nhiều màu được giơ cao, hàng ngàn cánh tay vẫy không ngừng và những
tiếng hò hét đầy phấn khích... tất cả tạo nên một không khí vô cùng náo nhiệt và
đáng nhớ đối với cả thần tượng và người hâm mộ.
(Nhật kí điền dã, 11/8/2019)
Đây là trích đoạn từ nhật kí điền dã của tôi sau một lần đi tham dự show
Skytour của Sơn Tùng M-TP như một thành viên của CLB người hâm mộ tại Hà
Nội. Qua quá trình quan sát và tham dự thực tế, tôi nhận thấy từ việc bị thu hút đến
yêu thích, ngưỡng mộ bởi một ngôi sao nổi tiếng, giới trẻ dành nhiều thời gian để
tìm hiểu các thông tin về thần tượng và có những thực hành, chiến lược cụ thể để
bộc lộ tình cảm và sự ủng hộ của họ đối với thần tượng. Hâm mộ thần tượng không
chỉ là một thực hành giải trí mà còn là một phương thức kết nối cũng như là một
thực hành mang màu sắc tiêu dùng của một bộ phận giới trẻ Việt Nam hiện nay. Ở
chương này, chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu các thực hành hâm mộ thần tượng cụ thể
của giới trẻ hiện nay, chủ yếu qua khảo sát những người hâm mộ Sơn Tùng M-TP,
bao gồm những cách thức thể hiện tình cảm ngưỡng mộ với thần tượng, những cách
thức mà những người hâm mộ kết nối với nhau tạo thành một cộng đồng rộng lớn
và cả những thực hành tiêu thụ thần tượng. Ngoài ra, chúng tôi cũng phân tích
những thực hành ở người hâm mộ của các thần tượng khác để có cái nhìn so sánh
cũng như bổ sung cho các lập luận của mình về hiện tượng này.
3.1. Like, view, share, vote, support: những thực hành hàng ngày
Like, view, share, vote, support (thích, theo dõi, chia sẻ, bình chọn, ủng hộ) là
những từ ngữ quen thuộc được sử dụng thường xuyên ở những người hâm mộ hiện
nay. Like, share còn là các nút bấm, các tính năng của facebook - mạng xã hội được
giới trẻ nói chung và những người hâm mộ trẻ nói riêng sử dụng rộng rãi để biểu thị
sự yêu thích, sự chia sẻ của họ đối với những người khác trong thực hành hâm mộ
62
thần tượng hàng ngày. Do vậy, chúng tôi dùng nguyên văn những từ tiếng Anh này
với mục đích khắc họa chân thực những thực hành quen thuộc của những người
hâm mộ.
Hâm mộ ai đó xuất phát từ những cảm tình, ấn tượng chủ quan của người hâm
mộ. Đó có thể là ấn tượng từ một bài hát, một giai điệu bắt tai, phù hợp tâm trạng,
cũng có thể là từ ngoại hình đẹp, hoặc ấn tượng từ một chương trình gameshow,
một bộ phim hay. Nhưng nếu dừng lại ở đó chưa đủ, cảm tình và ấn tượng ấy phải
lặp lại nhiều lần và được phát triển thì mới đủ sức để gọi là hâm mộ. Đa số những
bạn trẻ mà tôi phỏng vấn đều nói rằng họ bắt đầu yêu thích thần tượng của mình khi
bắt gặp họ trên truyền hình hoặc phương tiện truyền thông khác. Đây là lí do vì sao
các phương tiện truyền thông, các chương trình giải trí lại là điều kiện khả thể của
hiện tượng hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam hiện nay.
Để có thể hiểu rõ những điều này về thần tượng, những người hâm mộ đã tìm
kiếm những thông tin trên các chương trình truyền thông - nơi các ngôi sao có cơ
hội để “trải lòng” và bộc lộ bản thân với khán giả. Như vậy, chính những chương
trình truyền thông, những clip được các công ty giải trí và chính các ngôi sao chia
sẻ trên truyền thông đã khiến các fan hiểu hơn, yêu mến và gắn bó hơn với các thần
tượng, chứ không chỉ dừng lại ở những ấn tượng ban đầu.
Từ việc khảo sát trên báo chí, mạng xã hội và quan sát thực tế, không khó để
bao quát được những thực hành hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam hiện nay:
các fan nhiệt tình bình luận, kêu gọi ủng hộ, like, view, vote, share cho thần tượng,
“chế” ảnh, “chế” video, thậm chí sáng tác truyện (fan fic) về thần tượng ở trên
mạng xã hội, làm video fanmade; ngoài đời họ tìm mọi cách để đi xem/ gặp thần
tượng (xem ca sĩ biểu diễn, xem cầu thủ thi đấu, dự offline, fan metting của các ngôi sao...), tặng quà cho thần tượng, đến tận sân bay để gặp thần tượng18.
3.1.1. Theo dõi, cổ vũ, bênh vực thần tượng
Những người hâm mộ trẻ luôn là những người tích cực trong việc theo dõi, cập
nhật mọi thông tin về thần tượng, ủng hộ, động viên, bênh vực thần tượng. Khi chưa
có internet, các bạn trẻ thường theo dõi, ngóng đợi các số báo Hoa Học trò, Sân
khấu điện ảnh, Thế giới điện ảnh... phát hành bởi trên những tờ báo in đó luôn có
những bài viết, thông tin và ảnh về những người nổi tiếng mà họ hâm mộ. Từ khi có 18 Những thực hành hâm mộ thần tượng của giới trẻ hiện nay đa dạng hơn rất nhiều so với 10 năm trước đây, xuất hiện thêm một số thực hành mới như ra sân bay đón thần tượng, viết fan fic, làm các sản phẩm fanmade…
63
internet, việc theo dõi thông tin của các ngôi sao, thần tượng trở nên dễ dàng hơn,
nhưng cũng vì thế mà chiếm nhiều thời gian của giới trẻ hơn. Đa phần những thực
hành thể hiện sự ngưỡng mộ của họ đều thể hiện qua các kênh truyền thông khác nhau:
facebook, fanpage, instagram, twitter, các diễn đàn trực tuyến... Với người hâm mộ
trẻ, họ được lợi rất nhiều từ các nền tảng truyền thông, bởi những kênh phổ biến
như là facebook, google hay youtube hiện nay vẫn được sử dụng miễn phí và đây là
phương tiện chủ yếu để giới trẻ tiếp cận và tìm hiểu mọi thứ về thần tượng của mình
- nhanh chóng và rẻ - phù hợp với điều kiện kinh tế của họ.
Những buổi fansign (kí tặng) nhân dịp ra mắt cuốn tự truyện chật kín người
hâm mộ, những buổi biểu diễn cháy vé, lightstick phát sáng và những cánh tay giơ
cao, những tiếng hú hét hò reo, những hàng dài chờ đợi thần tượng ở sân bay,... là
những cảnh tượng và hoạt động đã trở nên quen thuộc ở những người hâm mộ hiện
nay mà chúng tôi có dịp quan sát. Những thực hành văn hóa hâm mộ thần tượng
kiểu như này xuất hiện ở khắp nơi, đặc biệt các đô thị, nơi thường xuyên diễn ra các
sự kiện văn hóa nổi bật.
Thực tế, đa số các bạn fan tôi thường gặp và nói chuyện phần lớn chưa từng
hoặc rất ít có cơ hội gặp mặt thần tượng của họ ngoài đời mà chủ yếu biết và hâm
mộ thần tượng qua facebook, qua báo chí và các trang mạng xã hội. Những thực
hành hâm mộ của họ đối với thần tượng cũng chủ yếu diễn ra trên những công cụ
truyền thông ấy mà facebook là nổi bật hơn cả.
Các fan Sơn Tùng biết đến nam ca sĩ này qua những ca khúc đầu tay của nam ca
sĩ 23 tuổi này từ khá sớm. Một số bạn biết đến Sơn Tùng từ 2012 khi ca khúc Cơn mưa
ngang qua rầm rộ trên các trang nhạc của cộng đồng underground. Còn lại đa số các
fan cho biết họ hâm mộ Sơn Tùng từ 2013 khi Tùng xuất hiện trong chương trình
Vietnam Idol với tư cách là khách mời và biểu diễn Em của ngày hôm qua. Họ thường
xuyên “săn lùng” ảnh mới, thông tin mới của Sơn Tùng từ mọi kênh có thể (facebook,
instagram, fanpage...). Chỉ một bức ảnh mới mà Sơn Tùng đăng lên facebook cá nhân
cũng có thể nhận được hàng triệu like của người hâm mộ. Các fan cũng thường đăng
ảnh và bài viết, ngắm ảnh, phân tích phong cách thời trang, “bóc giá” từng bộ đồ, chỉ ra
tên các nhãn hàng thời trang mà Sơn Tùng mặc, xem phim Sơn Tùng đóng, xem các
đoạn quảng cáo hay video phỏng vấn của thần tượng (xin xem Phụ lục 2.1), tự chế các
nội dung gây cười theo ảnh của thần tượng, kêu gọi, thúc giục Sơn Tùng “comeback”,
chủ động mở rộng mạng lưới bạn bè cùng sở thích, liên tục chia sẻ thông tin, trạng thái
64
trên mạng xã hội, bình luận và kết nối với các fan khác. Mọi thời gian rỗi của họ đều
dành cho niềm yêu thích đối với thần tượng.
Các fan “sân bay”
Nhiều fan còn có sở thích ra sân bay đón thần tượng, cộng đồng fan gọi họ là “fan
sân bay”. Tên gọi này không phải chỉ những đám đông 1 - 2 lần xếp hàng dài ở sân bay
chờ thần tượng trong các sự kiện được báo chí nhắc đến mà để chỉ các fan thường
xuyên theo sát lịch di chuyển của thần tượng. Bằng cách tận dụng các mối quan hệ, các
nguồn thông tin, họ luôn cập nhật nhanh nhất những thông tin và hành trình di chuyển
của thần tượng với cộng đồng fan của mình. Có một nhóm fan Sơn Tùng, dù họ sống ở
Hà Nội và Sài Gòn, nhưng họ thường xuyên liên lạc để chia sẻ với nhau những bức ảnh
chụp ở sân bay khi đón thần tượng của mình. Với họ, theo đuổi thần tượng đã trở thành
một niềm đam mê, một sở thích nghiêm túc.
My và Phương19 là hai trong số không ít những “fan sân bay” của Sơn Tùng
mà tôi quen. Có những hôm, họ phải đi từ 4 giờ sáng để chờ sẵn ở sân bay mong
được gặp thần tượng. Dù chỉ để chào và hỏi vài câu như “Tùng ơi, anh khỏe không?
Tùng có nhớ em không? Chúc Tùng diễn tốt nhé”, có khi là đưa vội món quà cho
thần tượng... nhưng chỉ cần một cái gật đầu, một cái chạm tay hay một câu đáp lại
cảm ơn của Sơn Tùng cũng đủ làm My, Phương và những “fan sân bay” cảm thấy
sung sướng, hạnh phúc và gần thần tượng hơn bao giờ hết. Những bức ảnh hay
video ngắn được quay vội trong khoảnh khắc gặp thần tượng ở sân bay cũng nhanh
chóng được các bạn đăng lên fanpage chung của nhóm để những fan khác “trầm
trồ” và cùng chia sẻ niềm vui khi cập nhật được những hình ảnh mới nhất của thần tượng.
Những hàng dài chờ thần tượng ở sân bay từng là chủ đề bàn luận của báo chí
trong suốt một thời gian dài nhằm phê phán giới trẻ bỏ học, vạ vật suốt ngày đêm để
chờ thần tượng. Có những bức ảnh các fan nam ôm nhau khóc lóc được lan truyền
rộng rãi như một minh họa xấu xí về người hâm mộ (đã nói ở 2.3), thực chất, một
bạn fan của T-ara cho biết, “bạn nam là một bạn trong FC của bọn em. Lần đó,
chúng em tổ chức đi đón T-ara ở Nội Bài. Chúng em thuê xe 45 chỗ, mặc áo đồng
phục vàng, tay buộc nơ và cầm bóng bay cũng màu vàng. Khi gặp được “các gái”
(cách gọi thân thương đối với nhóm T-ara), chúng em ai cũng phấn khích. Bức ảnh
19 Tên của những người được phỏng vấn trong luận án này đã được thay đổi theo nguyên tắc và đạo đức nghiên cứu.
hai bạn nam ôm nhau khóc kia chỉ là cảm xúc vỡ òa nhất thời khi các bạn lần đầu
65
gặp nhóm nhạc yêu thích ngoài đời. Khoảnh khắc ấy đã bị báo chí bóp méo đi kiểu
như là con trai mà sướt mướt, khiến cho bạn fan này xấu hổ trước gia đình, người
quen trong một thời gian dài, không dám tham gia FC nữa” (PV Thu, 23 tuổi, FC T-
ara Hà Nội, 4/2018). Các fan cho rằng được nhìn thấy thần tượng bằng da, bằng thịt
là một niềm hạnh phúc của bất cứ người hâm mộ nào, đặc biệt với những thần
tượng nước ngoài. Đây là lí do khiến không ít fan có thể chờ hàng giờ ở sân bay,
chịu cảnh chen chúc chỉ để nhìn thấy thần tượng.
Fan war: cuộc chiến giữa fan và anti-fan
Nếu như fan là những người yêu thích, ủng hộ cho thần tượng thì antifan là
những người đối lập hoàn toàn, họ thường xuyên thể hiện việc ghét, phản đối, chỉ
trích hoặc coi thường một ngôi sao, người nổi tiếng nào đó. Cũng có nhiều người là
fan lại trở thành anti-fan và ngược lại. Do hâm mộ thần tượng là sự yêu quý, thậm
chí ngưỡng mộ quá mức của người hâm mộ đối với một ngôi sao, người nổi tiếng,
cho nên khi hình ảnh thần tượng sụp đổ (vì các scandal trong sự nghiệp hay trong
lối sống) trong mắt họ thì việc họ trở nên ghét bỏ, trở thành anti-fan rất dễ xảy ra.
Việc yêu thích một ngôi sao hoàn thiện hoàn mỹ trong mắt của những người trẻ tuổi
kích thích bản năng bảo vệ, che chở, bênh vực một ai đó từ họ. Một ví dụ rõ nhất
cho điều này là những cuộc chiến của fan với báo chí hoặc với những antifan.
Suốt từ 2013 đến nay, cuộc chiến giữa fan và anti-fan của Sơn Tùng chưa bao
giờ kết thúc, khi dữ dội khi âm ỉ bắt đầu từ việc tranh cãi quanh nghi án đạo nhạc
của ca sĩ này. Khi Sơn Tùng giành chiến thắng trong chương trình Bài hát yêu thích
với ca khúc Em của ngày hôm qua và lập tức trở nên nổi tiếng trên khắp các mặt
báo, các anti-fan đã cho rằng ca sĩ này đã dùng beat (nền nhạc) của một ca khúc của
Hàn Quốc và gây sức ép trên mạng buộc nhạc sĩ Huy Tuấn là giám đốc công ty giải
trí Văn Production lúc đó rút bài hát của Sơn Tùng khỏi bảng xếp hạng của chương
trình. Ngay lập tức, cuộc chiến nổ ra, fan và anti-fan cãi nhau trong một thời gian
dài. Một fan nữ tên là Trang đã tự gửi bài hát của ca sĩ này đến một cơ quan có
thẩm quyền về âm nhạc của Hàn Quốc để nhờ thẩm định và nhờ thế, Sơn Tùng đã
được giải oan. Cộng đồng fan đã dùng bức thư phản hồi của bên Hàn Quốc làm
bằng chứng để đập tan những lời lên án vô căn cứ của anti-fan. Tuy nhiên, các cuộc
fan war vẫn cứ nổ ra sau mỗi lần Sơn Tùng ra mắt ca khúc mới. Ngoài âm nhạc, các
anti-fan còn cho rằng Sơn Tùng đạo lại phong cách biểu diễn, phong cách thời trang
của một thần tượng bên Hàn.
66
Ngoài ra, vì tâm lí luôn muốn thần tượng của mình là người xuất sắc và đáng
ngưỡng mộ nhất mà các fandom luôn xảy ra cãi vã với nhau, chê bai thần tượng của
nhau, chẳng hạn giữa fan của Sơn Tùng và fan của Noo Phước Thịnh, fan của Sơn
Tùng và fan của Jack, fan của Minh Hằng và fan của Hồ Ngọc Hà, fan của Messi và
fan của Ronaldo... Đặc biệt ở chỗ, một người là fan của thần tượng này thì thường
sẽ là anti-fan của ngôi sao cạnh tranh với thần tượng của họ. Do vậy, các hoạt động
thể hiện sự cuồng nhiệt của fan với thần tượng luôn song hành với các hoạt động
thể hiện sự ghét bỏ, công kích các ngôi sao khác và người hâm mộ của ngôi sao đó.
Mỗi cuộc fanwar là dịp để thể hiện sự hùng hậu cũng như sự nhiệt tình của fan.
Fan càng đông thì lại càng dễ dập được những bình luận tiêu cực của antifan. Đặc biệt
với những người hâm mộ trẻ tuổi hiện nay, họ không ngại tham gia vào những cuộc
tranh cãi, thậm chí doạ nạt, chửi bới, xúc phạm lẫn nhau trên mạng xã hội chỉ để bảo
vệ, bênh vực idol, mặc dù nhiều khi chính các thần tượng cũng không biết tới các cuộc
fanwar này vì nó chỉ xảy ra đơn thuần là giữa các nhóm fan và anti-fan.
Khi chưa có internet, các cuộc chiến giữa các nhóm hâm mộ đã từng xuất hiện
trên báo Hoa Học trò (ví dụ giữa fan của Đan Trường và Lam Trường), nhưng mức
độ và cách sử dụng ngôn từ được tiết chế hơn rất nhiều so với việc tự do trên mạng
xã hội như hiện nay. Với không gian mang tính ẩn danh, các fan và anti-fan sẵn
sàng là các “anh hùng bàn phím”, những cuộc tranh cãi nảy lửa và có thể kéo dài từ
ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác. Có thể nói, fan và antifan là
những nhóm công chúng đặc trưng gắn liền với sự phát triển của các phương tiện
truyền thông hiện đại.
3.1.2. Quảng bá cho thần tượng
Không chỉ là những khán giả, người hâm mộ trẻ còn là những người tích cực
trong việc quảng bá, tiếp thị cho thần tượng. Nhờ họ, các sản phẩm của thần tượng
được tiêu thụ rộng rãi hơn, danh tiếng của họ được biết đến nhiều hơn. Việc quảng
bá /tiếp thị cho thần tượng được thực hiện một cách hoàn toàn vô tư thông qua các
hoạt động cụ thể đầy tính sáng tạo của họ.
Mỗi khi ekip trong công ty của Sơn Tùng M-TP có động thái úp mở về một dự án
mới trên facebook, các fan đã lập tức like, share và comment (ấn nút yêu thích, chia sẻ
và bình luận) khiến thông tin này được mọi người chú ý. Tương tự, mỗi bức ảnh mà
Sơn Tùng đăng trên facebook hay instagram đều nhận được hàng triệu lượt like, share.
Chính người hâm mộ là những người thúc đẩy các thông tin truyền thông về Sơn Tùng
67
một cách ồ ạt nhất. Họ trở thành những “nhà quảng cáo” miễn phí cho thần tượng, giúp
tên tuổi và hình ảnh thần tượng được “tiêu thụ” ngày càng mạnh mẽ hơn.
Trong thời gian chờ Sơn Tùng tung ra sản phẩm âm nhạc mới, không để tên
tuổi của ca sĩ này bớt đi sức hút, các fan vẫn đều đặn đăng hình ảnh, bài viết về thần
tượng hằng ngày, thậm chí nhiều lần trong ngày: đăng ảnh, đăng tin Sơn Tùng làm
đại diện cho những nhãn hàng nào đó: Oppo, O2, Shopee, Mocha Viettel, Miniso,
Bitis Hunter... Những hoạt động này có thể vừa mang tính giải trí, mang đến niềm
vui cho các bạn, thoả mãn mong muốn làm được việc có ý nghĩa cho thần tượng,
đồng thời vừa mang tính chất tiếp thị cho thần tượng. Ở góc độ này có thể thấy, thần tượng sẽ chẳng còn là thần tượng nếu như không còn những “fan cuồng” như vậy20.
Bên cạnh báo chí truyền thông thì chính fan là những người luôn tích cực sáng
tạo ra những nội dung mới về thần tượng với mục đích giúp tên tuổi của thần tượng
luôn luôn “sáng”. Hàng loạt kế hoạch nhằm hâm nóng hình ảnh của thần tượng
được fan nghĩ ra, từ những hoạt động nho nhỏ cho tới những chiến dịch có quy mô
rộng lớn: thuê phát hình ảnh của thần tượng trên màn hình công cộng, tại các toà
nhà lớn, trên bảng quảng cáo trong thang máy tại các trung tâm thương mại. Thậm
chí, sẽ có hẳn một đội ngũ fan sẵn sàng “móc ngoặc” với những trang báo điện tử để
trở thành những paparazzi “tập sự”, chỉ với mục đích duy nhất là giúp thần tượng
được xuất hiện càng nhiều càng tốt.
Những người hâm mộ thần tượng âm nhạc thường xuyên kéo fan cho thần tượng,
góp phần biến anti-fan trở thành fan. Ngoài ra, họ cũng không ngừng tương tác, kết nối
với cộng đồng fan trên các diễn đàn trên mạng, các trang fanpage, fanclub (Off fan,
tổ chức các event kỉ niệm ngày debut (ra mắt, bắt đầu hoạt động) hoặc sinh nhật
thần tượng, tham gia xây dựng cộng đồng fan của họ ngày càng lớn mạnh). Một số FC
còn bỏ tiền, kêu gọi donate (ủng hộ) tiền làm các project (dự án) in poster khổ lớn hoặc
thuê bảng hiệu điện tử chạy quảng cáo hoặc phát các đoạn video ngắn kỉ niệm ngày
sinh của thần tượng, thu hút sự chú ý của dư luận để quảng bá cho sản phẩm/ dự án mới của thần tượng (fan BTS21, fan EXO, fan Lee Min Ho, fan Sơn Tùng...). Các cộng
đồng fan có rất nhiều cách thức khác nhau để đạt được mục đích quảng bá cho tên tuổi
của thần tượng (xin xem Phụ lục 2.2). 20 Cũng chính vì lí do này mà các nghệ sĩ/ người nổi tiếng hiện nay rất chú ý đến cách thu hút fan, cách chiều fan. Sơn Tùng sáng tác và quay hẳn 1 MV “Nơi này có anh” ở Hàn Quốc để tặng fan với hình ảnh cuối của MV là quả bóng khổng lồ in chữ Sky bay lên trời. Hay trong cuốn tự truyện Chạm tới giấc mơ mới đây, hình quả bóng in chữ Sky này cũng xuất hiện ngay trang bìa. 21 https://www.yan.vn/army-viet-choi-lon-mung-sinh-nhat-jungkook-voi-man-hinh-led-khung-209765.html.
68
Cộng đồng fan cũng thường nhắc đến cái gọi là “fan service” để chỉ những ý
tưởng, những hoạt động mang tính đóng góp, phản hồi tích cực từ người hâm mộ đến
các thần tượng của mình. Chính fan đã đề xuất về việc nên có phụ đề tiếng Anh trong
mỗi MV của Sơn Tùng nhằm tiếp cận với fan quốc tế dễ dàng hơn. Họ cũng nhiều lần
đã liên hệ và đề nghị với ekip trong công ty M-TP Entertainment của Sơn Tùng về việc
công ty cần đứng ra để tập hợp, quy tụ tất cả các hội nhóm fan trong và ngoài nước để
fan và thần tượng có sự liên hệ chặt chẽ hơn cũng như các FC có thể vận hành chuyên
nghiệp hơn. Họ cũng có những ý tưởng mới mẻ, độc đáo để đề xuất tới trang web
chính thức của công ty nhằm hỗ trợ, quảng bá tốt nhất cho thần tượng.
Như vậy, có thể thấy, từ yêu thích, ngưỡng mộ đến theo dõi, chia sẻ, cổ vũ,
bênh vực và quảng bá cho thần tượng là con đường mà những người hâm mộ trẻ đã
đi để thỏa mãn những cảm xúc cá nhân của mình đối với thần tượng. Trên con
đường ấy, họ đã trải qua đủ mọi cung bậc cảm xúc khác nhau và nói như một fan
của Sơn Tùng thì “tất cả làm nên một thời thanh xuân đáng nhớ” cho mỗi cá nhân
người hâm mộ.
3.2. Câu lạc bộ người hâm mộ (Fanclub)
Hằng sinh năm 1999, ở Thường Tín, hiện đang làm thu ngân ở một siêu thị. Hằng
thích Sơn Tùng M-TP từ lớp 12, tầm 2016-2017. Khi đó cả lớp không ai thích ca sĩ này mà
chủ yếu thích K-Pop, họ thường hay chê bai, chỉ trích Sơn Tùng vì nghi án đạo nhạc, Hằng
rất bực mình và ấm ức vì những lời chỉ trích vô căn cứ đó đồng thời cảm thấy thương xót,
đồng cảm với những gì mà thần tượng của mình đang phải trải qua mà không biết nói với
ai. Hằng ở ngoại thành, xa trung tâm và ít có điều kiện tham gia các hình thức giải trí như
các bạn trẻ trong nội thành. Gia đình Hằng làm nông nghiệp nên ngoài thời gian ở trường,
Hằng cũng tham gia vào cộng việc của gia đình từ bé. Nhìn ngoại hình Hằng có nhiều khác
biệt so với các bạn còn lại: da ngăm đen, không trang điểm, tóc dài đen không nhuộm,
buộc túm ra sau. Trước đây, Hằng chưa từng biết hâm mộ một thần tượng là phải như
thế nào. Ở nơi Hằng sống, các bạn của Hằng dù mê K-Pop cũng chỉ chủ yếu là nghe và xem
nhạc qua youtube, ti vi. Hằng, vì thế, chưa từng mua album hay đi xem các show diễn có
Sơn Tùng. Sau khi tốt nghiệp PTTH, Hằng đã đi kiếm việc làm luôn và đã thử qua nhiều
việc vì muốn tìm xem công việc nào phù hợp nhất với sở thích về môi trường, nông
nghiệp, thực phẩm hữu cơ của mình. Làm việc trong nội thành, khi có những đồng lương
đầu tiên, Hằng bắt đầu để dành một chút để mua lightstick, mua sách tự truyện của Sơn
Câu chuyện của Hằng:
69
Tùng và bắt đầu đi xem các show có thần tượng biểu diễn. Do được các Sky rủ vào FC Sơn
Tùng, mặc dù còn chút e dè nhưng Hằng đã tham gia đều đặn các buổi offline của nhóm
cũng như sát cánh cùng họ trong mỗi show diễn để cổ vũ Sơn Tùng. Do tiếp xúc nhiều với
các bạn cùng trang lứa, “chém gió” cùng nhau trên fanpage của FC, Hằng dần tự tin hơn,
cởi mở hơn. Vào FC, Hằng biết nhiều thông tin hơn về thần tượng, được chia sẻ ảnh và
video với các thành viên trong nhóm, được nhìn thấy Sơn Tùng bằng da bằng thịt qua
nhiều lần đi show. Hằng cho biết nếu không tham gia vào FC, Hằng không biết chia sẻ với
ai việc thích Sơn Tùng, đã không thể tự tin và nhiệt tình “quẩy sung” như thế trong những
lần xem show, và có lẽ cũng không thể có được những niềm vui và kỉ niệm đáng nhớ như
thế (PV 5/2019).
Minh 20 tuổi, quê Tuyên Quang, là người dân tộc Tày. Hồi mới lên học Đại học, Minh
rất tự ti và lạc lõng, bạn bè cấp 3 mỗi đứa một nơi, một năm em chỉ về nhà 4 lần, em cũng
không quen ai giữa thành phố chật chội này. Sau học kì I, Minh phát hiện ra một FC của nhóm
EXO, bao gồm rất nhiều bạn trẻ như em đến từ khắp các nơi học ở Hà Nội. Đây là FC đã lập
được 5 năm rồi nên có rất nhiều hoạt động thú vị. Minh và các bạn trong FC hay tụ tập nhau
để chia sẻ thông tin, hình ảnh về idol và buôn đủ thứ chuyện về K-Pop. Nhờ thế, Minh có
thêm nhiều bạn để chia sẻ sở thích cũng như những rắc rối trong việc học, việc làm thêm.
Giữa năm 2019, hai thành viên của nhóm EXO sang Việt Nam biểu diễn tại Mỹ Đình, Minh và
FC đã cùng nhau đặt vé, “vác” lightstick đến để thoả ước mơ gặp “các anh” một lần. Minh cho
rằng những chàng trai xa lạ kia chính là “mảnh ghép đẹp nhất trong tuổi thanh xuân” của
những cô gái tỉnh lẻ như Minh và các bạn (PV tháng 3 & 12/2019).
Câu chuyện của Minh:
Qua quan sát tham dự, tôi nhận thấy rằng, với những người hâm mộ trẻ như
Hằng, như Minh, fanclub có ý nghĩa nhiều hơn là một hội nhóm.
3.2.1. Mục đích và bối cảnh thành lập fanclub
Có rất nhiều FC, nhiều hội nhóm người hâm mộ đã được giới trẻ lập ra và hoạt
động rầm rộ cả trên mạng xã hội và ở ngoài đời, trở thành thực hành văn hóa không
thể thiếu trong đời sống giới trẻ. Trước khi có internet, người hâm mộ bị giới hạn
các cách để gặp gỡ nhau, họ chỉ có thể viết thư, gọi điện thoại và gặp nhau tại các
địa điểm thực. Điều này giới hạn số lượng người có thể gặp do đó, giới hạn tốc độ
lan truyền của fandom. Hiện nay, do sự phổ biến của các phương tiện truyền thông
mà sự tương tác, kết nối giữa những người hâm mộ trở nên dễ dàng hơn. Thay vì
viết thư tay để làm quen, trao đổi thông tin về thần tượng với những người hâm mộ
70
khác, giới trẻ hiện nay có thể dễ dàng tìm thấy hội nhóm người hâm mộ - những
người giống như mình trên các diễn đàn, mạng xã hội. Họ có thể liên lạc với nhau
mọi lúc mọi nơi. Tần suất tương tác giữa họ làm tăng đáng kể số lượng và sự đa
dạng của các hoạt động hâm mộ. Có thể nói fanclub (FC) là một loại cộng đồng mới
trong thời đại truyền thông đại chúng hiện nay. Cộng đồng này ngày càng lớn, thậm
chí xuyên quốc gia và có những ảnh hưởng nhất định đến báo chí cũng như đến
chính thần tượng của mình. Có hai mục đích chính để thành lập fanclub đó là để kết
nối với các fan khác và để kết nối với thần tượng.
Thành lập fanclub để kết nối những người hâm mộ
Những người hâm mộ trẻ luôn có xu hướng kết nối với nhau để tạo thành một
cộng đồng người hâm mộ. Từ đầu những năm 2000, giới trẻ Việt Nam đã lập ra
những fanclub (FC) để chia sẻ tình yêu và sự ủng hộ đối với thần tượng với các fan
giống mình. Báo Hoa Học trò số ngày 18/10/2001 có bài “Bạn muốn thành lập
fanclub không khó lắm đâu” do chính một trưởng FC của Đan Trường viết. Đây là
bài báo đầu tiên nói về việc làm thế nào để thành lập một FC ở Việt Nam. Bài báo
đã chỉ ra cách để giới trẻ có thể lập FC một cách dễ dàng: liên lạc với ca sĩ, phát
phiếu lấy thông tin và ý kiến xây dựng FC từ các thành viên, thông báo việc thành
lập và đi vào hoạt động của FC. Từ những năm đó đến nay, cùng với sự phát triển
của truyền thông, mạng xã hội (yahoo, facebook, instagram...), hình thức câu lạc bộ
người hâm mộ (FC) ngày càng thu hút sự tham gia của đông đảo bạn trẻ. Có rất
nhiều hội nhóm người hâm mộ đã được lập ra và hoạt động rầm rộ cả trên mạng xã
hội (online) cũng như ngoài đời (offline) để thể hiện tình yêu với thần tượng, kết
nối người hâm mộ và tiếp thị cho thần tượng.
Năm 2009, facebook bắt đầu được sử dụng ở Việt Nam và dần trở nên phổ
biến vào 3-4 năm sau đó. Đối với các cộng đồng fandom thì facebook được coi là
phương tiện hữu hiệu để họ tạo dựng, mở rộng và phát triển các câu lạc bộ người
hâm mộ. Các FC ban đầu thường do một hay một số người chung nhau ý tưởng
thiết lập một nơi để các bạn trẻ có thể chia sẻ những mối quan tâm chung của mình
về thần tượng của họ một cách dễ dàng, nhanh chóng. Hai FC của Sơn Tùng mà tôi
là thành viên đều được thành lập một cách tự phát. Trong đó một FC được lập ra
sau khi diễn đàn của những người hâm mộ Sơn Tùng trên VOZ bị quản trị viên của
trang này “tuýt còi” do tranh cãi căng thẳng với những anti-fan của ca sĩ này. Còn
FC kia ban đầu đều là những thành viên trong một FC khác ở Hà Nội, sau đó vì
71
không chung “chí hướng”, không thống nhất về “tôn chỉ mục đích” và cách thức
hoạt động nên các thành viên này đã tách riêng ra, lập nên một FC mới với tên gọi
và cách thức hoạt động mới. Mỗi FC có một tên gọi riêng, logo và hình đại diện
riêng không chỉ để phân biệt với các FC khác mà còn là một sự khẳng định bản sắc
nhóm riêng, chẳng hạn: Sky Thanh Nghệ Tĩnh “nghe vừa hùng hồn lịch sử vừa
không kém tính càn quét như Sky”, Trust team - những fan chân chính, fan thực sự
luôn ủng hộ Tùng, Sky confessions - nơi chia sẻ những tâm tư, bí mật.
Đặc biệt, khi nhắc đến cộng đồng người hâm mộ, không thể không nhắc đến
fandom K-Pop ở Việt Nam. Họ là nhóm người hâm mộ xuyên quốc gia. Nhờ sự tiện
lợi của các phương tiện truyền thông mà giới trẻ thân thuộc với những gì thuộc về
nền văn hóa khác. Sự lớn mạnh của cộng đồng fan K-Pop ở Việt Nam cho thấy sự
lan tỏa mạnh mẽ của nhạc Hàn Quốc và những ca sĩ thần tượng cũng như sự lan tỏa
của văn hóa hâm mộ thần tượng kiểu Hàn Quốc dựa trên sự tận dụng những tiến bộ
của công nghệ truyền thông (điện ảnh, internet). Fan T-ara, fan Big Bang, fan EXO,
fan SNSD, Super Junior, 2NE1... là những cộng đồng fan đông đảo, thậm chí số
lượng người hâm mộ các nhóm thần tượng này ở Việt Nam còn vượt xa số lượng người hâm mộ tại Hàn Quốc22. Điều thú vị là không giống như các thị trường khác
nơi mà K-Pop được phổ biến thông qua mạng lưới các nhà quảng bá và đại lí, sự
phổ biến của K-Pop ở Việt Nam bắt đầu hoàn toàn từ mong muốn của người tiêu
dùng trẻ và khả năng tiếp cận thông tin và các thần tượng thông qua phương tiện
truyền thông xã hội. Rất lâu trước khi K-Pop vào Việt Nam thông qua các kênh
chính thức, fan K-Pop ở Việt Nam đã tồn tại trong các cộng đồng nhỏ khi những
người hâm mộ tận tâm thành lập fanclub, tổ chức sự kiện có sự tham gia quy mô
nhỏ và tham gia các hoạt động trực tuyến như thảo luận về thần tượng, viết fanfic,
dịch tin tức và video (Duong Nguyen Hoai Phuong) [157].
Cùng với việc đưa K-Pop qua con đường chính thức sang Việt Nam (tiêu biểu
là Công ty Naver của Hàn Quốc ở Việt Nam), chính thành viên của các cộng đồng
fan K-Pop là những chủ thể làm lan tỏa văn hóa K-Pop cũng như văn hóa Hàn Quốc
ở Việt Nam. Không những thế, những yếu tố này ảnh hưởng ít nhiều đến Vpop cũng
như cách thức hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam hiện nay. Người hâm mộ đã
22 Số fan của Bigbang ở Việt Nam lớn gấp đôi ở Hàn và số fan của T-ara ở Việt Nam gấp 5 lần ở Hàn Quốc (KOTRA 2015, Dẫn theo Duong Nguyen Hoai Phuong 2016).
quá quen với cách thức vận hành của công nghiệp văn hóa Hàn Quốc, nhờ thế, khi
72
các ngôi sao K-Pop sang Việt Nam, họ đã được chào đón nồng nhiệt và bằng những
cách thức đậm màu sắc Hàn Quốc. Cũng chính vì điều này mà văn hóa thần tượng
đã đặc biệt gây chú ý vào năm 2012 như đã trình bày ở mục 2.3.1.
Thành lập fanclub để kết nối với thần tượng
Nhiều FC được lập ra một cách có chủ đích và tổ chức rõ ràng từ đầu và từ
chính phía công ty chủ quản của nghệ sĩ. Chẳng hạn các FC của ca sĩ Vũ Cát
Tường. Ca sĩ này trực tiếp quản lí fanpage do ekip của mình lập ra, thường xuyên
trả lời tin nhắn điện thoại của fan hay comment trên fanpage chung, thông báo về
các sự kiện, chương trình mà mình tham dự để FC có thể tới để cổ vũ, đồng thời kêu
gọi fan mua lightstick, mua vé concert để ủng hộ mình. Trưởng nhóm các FC như
này có mối liên hệ khá mật thiết với ekip của nghệ sĩ hoặc chính nghệ sĩ đó.
Hầu hết các fan đều mong muốn được kết nối trực tiếp với thần tượng hoặc
công ty của thần tượng để các hoạt động hâm mộ diễn ra có tổ chức, bài bản hơn
nhằm hỗ trợ và ủng hộ tối đa cho thần tượng. Nhiều trưởng nhóm trong các FC Sơn
Tùng đã nhiều lần đề xuất với ekip của ca sĩ này về việc phải có người của công ty
đứng ra quy tụ các fan trong nước và cả fan quốc tế. Mặc dù các fan luôn dành tình
cảm yêu quý, ngưỡng mộ và ủng hộ rất vô tư cho thần tượng nhưng các bạn cũng
rất muốn có được sự ghi nhận từ phía thần tượng. Chính vì vậy, trong lễ công bố kế
hoạch các dự án của công ty M-TP entertainment sẽ diễn ra trong năm 2020 (được
tổ chức vào ngày 18/12/2019), Sơn Tùng đã thông báo về việc sẽ lập ra một mạng
xã hội dành riêng cho các Sky có tên gọi là Sky social - như một dự án quan trọng
bên cạnh rất nhiều dự án khác. Cộng đồng fan trong các FC riêng rẽ rất vui mừng
trước thông tin này bởi họ hi vọng các hoạt động của người hâm mộ sẽ sớm đi vào
quy củ, tránh fan war (tranh cãi nội bộ giữa các fan) không đáng có do các FC hoạt
động không ăn khớp nhau gây bất lợi cho thần tượng.
3.2.2. Hoạt động của các fanclub
Qua việc khảo sát một số FC có thể thấy, mặc dù các FC được lập ra giống
nhau về mục đích đó là thể hiện sự yêu mến thần tượng, kết nối cộng đồng người
hâm mộ và tiếp thị cho thần tượng nhưng ở mỗi FC, phương thức kết nối và hoạt
động lại khác nhau. Chẳng hạn như các FC của Sơn Tùng M-TP, có FC chỉ kết nạp
các thành viên là người Việt Nam trên 22 tuổi, có thể ở bất cứ đâu, thậm chí ở cả
nước ngoài (Vosky Group); có FC ở Hà Nội (Trust team), có FC ở Thanh Hóa, Hải
Phòng, Bắc Giang, Thái Bình, Sài Gòn, Gia Lai, Cần Thơ, Đà Nẵng...; có FC thiên
73
về việc tụ tập “đu show”, đóng quỹ làm áo đồng phục, bảng đèn cổ vũ, in banner,
ảnh thần tượng...; có FC chỉ hoạt động online, có FC thiên về những hoạt động từ
thiện dưới danh nghĩa fan Sơn Tùng (Đại đội cảm tử quân 5794), có FC chuyên
đăng bài chia sẻ cảm xúc về thần tượng (Sky Confession) hay có FC chuyên săn ảnh
độc, ảnh khi ra sân bay đưa, đón thần tượng (Theo chân bé Tùn)... Các FC hoạt
động song song, khi cạnh tranh khi tương hỗ nhau theo những nguyên tắc và quan
điểm riêng của từng nhóm. Qua quá trình quan sát tham dự, tôi nhận thấy các FC có
các hoạt động như sau:
Tập trung cổ vũ cho thần tượng
Các thần tượng thường là khách mời của rất nhiều các sự kiện lớn nhỏ và tình
cảm cổ vũ nồng nhiệt của khán giả, của người hâm mộ chính là hiệu ứng mà bất cứ
thần tượng nào cũng mong muốn nhằm gia tăng vị thế, uy tín của mình. Các FC
chính là những nhân tố chính tạo ra hiệu ứng này. Họ lên kế hoạch và tập trung sớm
với đầy đủ bảng đèn, lightstick, banner... để cổ vũ rầm rộ cho thần tượng. Họ cho
rằng sự khích lệ, đồng hành của FC sẽ truyền thêm lửa cho thần tượng, khiến thần
tượng biểu diễn sung hơn.
Ngoài các sự kiện cổ vũ trực tiếp, các FC còn có các kế hoạch nhằm cổ vũ
gián tiếp tới thần tượng. Họ quay các video gửi đến thần tượng hoặc post lên mạng
để khuếch trương sự ảnh hưởng của thần tượng. Các thành viên FC sống trong cùng
một thành phố, một tỉnh thường tụ tập ở quán cà fe hoặc một địa điểm nào đó thuận
lợi cho việc họp fan.
Trong suốt 2 năm tham gia vào một FC Sơn Tùng tại Hà Nội, tôi đã được
tham dự 3 buổi họp fan của nhóm. Các buổi họp fan này được thực hiện để kỉ niệm
ngày sinh nhật Sơn Tùng (5/7) hoặc sinh nhật chung của cộng đồng fan (25/11). Tại
các sự kiện này, các bạn trẻ đều mang lightstick, banner, vòng tay, poster, búp bê
chibi để tạo ra một không khí vừa trẻ trung, vui tươi, sôi động, vừa gắn kết. Những
sản phẩm này không chỉ giúp các fan nhận ra nhau (cùng chung gia đình Sky) mà
còn giúp họ dễ dàng kết nối với nhau hơn (ví dụ cùng giơ lightstick “quẩy” theo các
bài hát của Sơn Tùng được phát trên màn hình lớn tại quán).
Sự kiện offline tiêu biểu nhất mà tôi có dịp tham dự là buổi off fan ngày
25/11/2018 được tổ chức ở phố đi bộ Hà Nội nhân ngày sinh nhật của cộng đồng
Sky. Sự kiện này đã thu hút hàng trăm bạn trẻ tham dự, có nhiều bạn thuộc các FC
ở các tỉnh lân cận Hà Nội cũng đến tham gia, giao lưu. Họ diễu hành quanh một
74
vòng bờ hồ với loa phát nhạc, poster hình Sơn Tùng, banner cổ vũ “Hà Nội yêu
Tùng”, “Sky yêu Tùng” và cả bánh kem để kỉ niệm ngày sinh nhật chung... Họ hát
vang những ca khúc quen thuộc của thần tượng, thu hút sự quan tâm của tất cả mọi
người có mặt quanh đó, rất nhiều người đã nhận ra họ là Sky, thần tượng của họ
chính là Sơn Tùng (Xin xem Phụ lục 2.3).
Các FC hoạt động bám sát các sự kiện của thần tượng và mỗi FC có những
chiến lược riêng để ủng hộ thần tượng cũng như tiếp cận truyền thông để quảng bá
cho thần tượng của mình. Ví dụ từ thiện, bảo vệ môi trường, xây dựng hình ảnh
fandom văn minh, lịch sự... Mặc dù không tránh khỏi việc các FC nhiều lúc cũng
bất đồng quan điểm trong cách hoạt động của mình và không ít lần công kích nhau
nhưng những lúc cần thiết, họ biết tập trung vào nhiệm vụ chính là ủng hộ và nâng
cao tên tuổi của thần tượng cũng như của cả cộng đồng người hâm mộ. Các fan
cũng thường xuyên tham gia những cuộc “fan war” (khẩu chiến) nhằm chống lại
những công kích của anti-fan. Lúc này, các FC giống như một lực lượng giúp các
fan riêng lẻ có thể tập hợp, đoàn kết lại để bênh vực và bảo vệ thần tượng của mình.
Phát triển cộng đồng fan
Từ mục đích cổ vũ tối đa cho thần tượng mà các FC luôn chủ trương gia tăng
số lượng thành viên của mình, độ lớn của một FC là sự khẳng định độ lớn của tên
tuổi thần tượng. Chẳng hạn, trên facebook, có hàng trăm fanclub của ca sĩ Sơn Tùng
M-TP. Các FC được thành lập và hoạt động chủ yếu theo địa bàn nhưng cũng có
nhiều FC thu hút các thành viên khắp các vùng miền trên cả nước, thậm chí cả nước
ngoài. Chỉ tính riêng Hà Nội đã có hơn 10 câu lạc bộ người hâm mộ của ca sĩ này.
Nổi bật nhất là FC Sơn tùng M-TP (65.255 thành viên, nhóm kín), FC Sơn Tùng M-
TP Hà Nội Trust team (30.000 người theo dõi), FC Sơn Tùng M-TP Hà Nội – Big
Sky Family (nhóm kín, 1000 thành viên), FC Sơn Tùng - Vosky Group (nhóm kín,
3000 thành viên), Sky confession (nhóm kín, 2400 thành viên) hoạt động cả offline
và online. Với sự thuận lợi của facebook, bạn trẻ nào cũng có thể dễ dàng trở thành
thành viên chính thức của các FC này, thậm chí một người cùng lúc có thể follow
(theo dõi) hoặc là thành viên của nhiều FC khác nhau.
Trên không gian mạng, các fan ở khắp nơi có thể dễ dàng trao đổi những ý
tưởng về việc xây dựng “bộ nhận diện” riêng cho cộng đồng mình. Họ tạo ra các
group chat để thảo luận về việc chọn tên của FC, chọn đồng phục và thu quỹ cho
75
các hoạt động online và cả offline, về việc chuẩn bị “đu show” như thế nào cho rầm
rộ, hoành tráng để cổ vũ tốt nhất cho thần tượng...
Trong cộng đồng fan Sơn Tùng, rất nhiều bạn đồng thời là fan của các thần
tượng K-Pop (EXO, T-ara, BigBang, BTS, Blackpink...), thậm chí họ còn hâm mộ
các thần tượng K-Pop này từ rất lâu trước khi biết đến Sơn Tùng. Do vậy, trước khi
tham gia vào các FC của người hâm mộ Sơn Tùng, họ từng là thành viên của các
FC K-Pop khác. Phải chăng vì thế mà Sơn Tùng là ca sĩ Việt Nam đầu tiên có lightstick, có tên chung cho cộng đồng người hâm mộ của mình23?
Qua quá trình tìm hiểu cộng đồng fan của Sơn Tùng, tôi được biết tên gọi “Sky” là do một fan nữ quê Lạng Sơn (tên là Lô Thị Hà Trang) nghĩ ra24, đề xuất
với công ty quản lí của Sơn Tùng khi đó là Wepro, và sau rất nhiều cân nhắc thì
“Sky” được lựa chọn với những ý nghĩa được đồng tình bởi cả Sơn Tùng và những
người hâm mộ. Theo sau Sơn Tùng, rất nhiều ca sĩ (Đông Nhi, Vũ Cát Tường, Tóc
Tiên, Noo Phước Thịnh, Hòa Minzy...) và thậm chí một số diễn viên (như Puca
Diệu Nhi) cũng đã sáng tạo ra lightstick - một biểu tượng chung cho cộng đồng fan
- cái mà giúp nhận diện họ là fan của ai giữa một biển khán giả cổ vũ. Lightstick
của Sơn Tùng được phát hành dựa trên ý nghĩa của tên gọi Sky này. Sau 3 năm hoạt
động nghệ thuật, hình ảnh về gậy cổ vũ mang biểu tượng M-TP đã được giới
thiệu trong buổi họp báo liveshow M-TP Ambition: Chuyến bay đầu tiên. Theo sau
Sơn Tùng, một loạt các ca sĩ khác cũng tìm tên gọi cho cộng đồng fan của họ.
Chẳng hạn, fan của Đông Nhi là Potato, fan của Noo Phước Thịnh là Big family,
fan của Đức Phúc là Sun, fan của Erik là Sea, fan của Chi Pu là Sunshine (trước đó
là Sunlight), fan của Vũ Cát Tường là FM (tức là fan Mèo, Mèo là tên gọi thân mật
của ca sĩ này), fan của Hòa Minzy là Đại gia đình nhà Liều...
Không cần các thủ tục mang tính hành chính, tuy nhiên, mỗi FC đều có những
quy định riêng, để có sự “ràng buộc” nhất định đối với các thành viên, đặc biệt từ
không gian online, họ luôn dễ dàng chuyển sang không gian offline. Họ có ban quản
trị, có đồng phục nhóm, có quỹ riêng đủ để đảm bảo cho việc thực hiện những hoạt
động chung: làm băng rôn, banner cổ vũ thần tượng, tham gia hoạt động từ thiện
23 Lightstick và tên của CLB fan là những đặc trưng rất nổi bật của cộng đồng fan K-Pop, khác hẳn với cộng đồng fan US, UK và các quốc gia khác. 24 Bạn này đã, đang là fan của cùng lúc nhiều ca sĩ, nhóm nhạc thần tượng Hàn Quốc và việc đặt tên fandom cũng như lightstick là điều thường thấy ở K-Pop.
với danh nghĩa là fan của thần tượng (nấu cháo phát miễn phí cho bệnh nhân ở các
76
bệnh viện, quyên góp gạo, sách vở, quần áo cho các mái ấm tình thương, góp tiền
xây cầu cho những vùng khó khăn...). Nguyên tắc chung của các FC là vì thần
tượng, không làm tổn hại đến thần tượng cũng như đến uy tín của FC. Nếu ai vi
phạm sẽ lập tức bị cộng đồng tẩy chay.
Một FC Sơn Tùng mà tôi tham gia có thu quỹ 50.000đ/3 tháng. Số tiền này
được dùng để làm bảng đèn, banner và poster cổ vũ cho thần tượng trong mỗi show
diễn mà FC tham gia. Ngược lại, để tương xứng với việc nộp quỹ chung cho FC,
các thành viên cũng sẽ nhận được những quyền lợi tương xứng: họ có một cộng
đồng chung để chia sẻ cảm xúc, được cập nhật những thông tin “hot” nhất về Sơn
Tùng, được miễn phí vào xem một số show diễn với tư cách “người của FC” đi để cổ vũ cho thần tượng25, được đứng ở vị trí đẹp, sát sân khấu nhất có thể và trong
một số sự kiện lớn như chương trình Bữa trưa vui vẻ của VTV6, các thành viên FC
được mời đến tham gia buổi ghi hình và được giao lưu với Sơn Tùng, được nhìn
Sơn Tùng ở khoảng cách gần nhất có thể.
Ban quản trị FC cũng thường xuyên tổ chức những sự kiện, hoạt động chung
để gia tăng sự đoàn kết, gắn bó, qua đó có thể giúp các thành viên tăng sự tự tin,
phát triển những năng lực ngầm ẩn của bản thân. Một fan của T-ara cho biết “Trước
đây em khá nhút nhát, nhưng sau khi tham gia vào FC, các anh chị đi trước đã kéo
em vào các hoạt động tập thể, ví dụ như dạy em từng động tác nhảy flashmob,
hướng dẫn em cách tổ chức các sự kiện của nhóm. Do vậy, sau này khi T-ara sang
Việt Nam, bọn em đã tổ chức thuê xe ra sân bay, hỗ trợ thuê phòng cho các bạn fan
ở các tỉnh lên Hà Nội khá suôn sẻ” (PV 4/2019). Có thể nói, đây chính là những trải
nghiệm đầy cảm xúc mà chỉ những thành viên chính thức của FC mới có được.
Tạo dựng văn hoá hâm mộ thần tượng
Nhằm xoá bỏ những định kiến của xã hội về người hâm mộ, các FC đã có
những chiến lược đa dạng: tham gia những chiến dịch tình nguyện, từ thiện với
danh nghĩa là fan của thần tượng; tổ chức những hoạt động kêu gọi bảo vệ môi
trường... Chẳng hạn một FC của Sơn Tùng đã quyên góp tiền xây cầu ở Tiền Giang
(Cầu Sky 1 nhân kỉ niệm sinh nhật 24 tuổi của Tùng) và Kiên Giang (cây cầu có tên
Cầu Sky 2 - món quà SKY dành cho tuổi 25 của Tùng) (Xin xem Phụ lục 2). Nhóm
fan này cho rằng món quà tặng cho Tùng là sự đồng lòng của nhiều Sky, mỗi người 25 Trong các show diễn lớn, những nhóm fan nổi bật về ngoại hình, về đạo cụ cổ vũ thần tượng luôn được ưu tiên đứng lên trên, sát sân khấu để tiện cho việc quay phim, ghi hình, giúp gia tăng hiệu ứng truyền thông của sự kiện, đặc biệt khi các sự kiện được phát trực tiếp ngày càng nhiều như hiện nay.
77
tham gia tuỳ theo điều kiện của mình. Một số FC ở Thái Bình, Thanh Hoá, Hà Nội
đã lan toả và hưởng ứng chiến dịch bảo vệ môi trường, họ quay clip, post ảnh, đặt
slogan “Sky yêu môi trường như thương Sơn Tùng”, gom pin đổi thẻ ảnh. Ngoài ra,
fandom còn kết nối với nhau để tạo ra những dấu ấn có ý nghĩa với chính họ: chung
tay quyên tiền, vật chất làm từ thiện. Chẳng hạn như FC ở Hà Nội chung tay quyên
góp tặng quà người cơ nhỡ dịp trung thu 2017, quyên góp tiền đến thăm các mái ấm
tình thương, hay khi FC ở Khánh Hòa đăng tin kêu gọi quyên góp ủng hộ đồng bào
chịu ảnh hưởng của bão Damrey (2017), một loạt FC khác từ Tp. Hồ Chí Minh, Hà
Nội đều “share” và hưởng ứng phong trào này; gom sách ủng hộ dự án Tủ sách sky
cho trẻ em bản Hom; kêu gọi nấu cháo phát miễn phí cho bệnh nhân tại một số bệnh
viện ở Hà Nội. Thay vì tặng quà cho thần tượng thì fan quyên góp làm từ thiện dưới
danh nghĩa fan của thần tượng. Điều này vừa làm thần tượng cảm động, vừa có tác
động tốt đến cộng đồng vừa mang lại nhiều niềm vui, ý nghĩa cho các fan. Một số
bạn trẻ nói rằng họ muốn mọi người có một cái nhìn khác, cách đánh giá khác về
“Sky” (tên gọi chung cho fan của Sơn Tùng M-TP). Sau mỗi buổi diễn có sự tham
gia của Sơn Tùng, nhiều fan đã ở lại đến cuối cùng và thu dọn rác. Các hành động
như vậy cũng là một cách mang tên tuổi của thần tượng đi xa hơn, đến được với
đông đảo mọi người hơn.
3.2.3. Vai trò của các admin (ban quản trị FC)
FC như một tổ chức thu nhỏ, hoạt động dựa trên mục đích và nguyên tắc rõ
ràng. Một FC có thể có 5-7 người trong ban quản trị (admin, boss), trong đó có bạn
được phân công làm thủ quỹ, có bạn chuyên phụ trách mảng tuyên truyền, lên bài,
có bạn chuyên về kĩ thuật để xử lí, chỉnh sửa các video, clip, có bạn phụ trách kết
nối các cộng tác viên...
Những thành viên sáng lập FC (còn gọi là admin, boss) luôn là người định
hướng hoạt động và phong cách cho cả FC cùng nhau chọn và thống nhất tên để đặt
cho FC; kết nạp thành viên mới, lọc thành viên không phù hợp; gây quỹ chung, tổ
chức các hoạt động tập thể như cùng đi show cổ vũ cho thần tượng; tổ chức các
buổi offline (họp fan) hoặc thực hiện các project (dự án) đa dạng (đu show, tổ chức
xem phim chung, từ thiện...) nhằm tăng sự gắn kết giữa các thành viên đồng thời
quảng bá cho FC, thu hút các thành viên mới... Các admin của FC thường xuyên
cập nhật thông tin về thần tượng trên fanpage để các thành viên có thể theo dõi, chia
sẻ tình yêu đối với thần tượng. Nhiều admin là các fan “sân bay” nhiệt tình, không
78
quản sớm tối chờ chực ở sân bay đón thần tượng và chụp được những bức ảnh độc
đáo nhất để cập nhật với các thành viên. Trong các FC, các admin có quyền “tuýt
còi” nhắc nhở các thành viên nếu những người này đưa ra những thông tin bất lợi
cho thần tượng của họ (chẳng hạn đưa hình ảnh xấu, tin tức hẹn hò...). Họ cho rằng
báo chí có thể “đánh hơi” được và đưa nhưng thông tin này lên, các antifan sẽ được
dịp để công kích thần tượng của họ.
Những thành viên chủ chốt của FC không chỉ là những người năng động,
nhanh nhạy trong việc nắm bắt thông tin mà họ còn có khả năng tạo ra và duy trì
mối quan hệ tốt với ekip công ty của thần tượng hoặc với các công ty tổ chức sự
kiện. Bằng các mối quan hệ và sự nhanh nhẹn, khéo léo, họ thường xin được rất
nhiều vé dự các buổi biểu diễn có thần tượng tham gia. Hoặc ít nhất, họ cũng là
người nắm rõ để phổ biến cho cả FC biết cách để “săn vé”. Họ cũng là người định
hướng hoạt động cho FC, kể cả trong việc phát động hoặc dừng lại một cuộc “fan
war” nào đó. Do vậy, các admin là những người rất có uy tín trong cộng đồng fan
hâm mộ. Sự định hướng này kiến tạo nên một bản sắc riêng cho mỗi nhóm fandom.
Một trưởng FC Sơn Tùng cho biết “để giữ gìn cho danh tiếng của thần tượng”,
họ tránh những cãi vã không cần thiết trên mạng xã hội cũng như khi đi show mà có
“va chạm” với fandom của các ca sĩ khác. Bạn này cho rằng vì Sơn Tùng là người
không “sân si” nên bản thân các fan cũng nên giữ cho mình thái độ sống giống như
thần tượng. Họ đề cao tinh thần “yêu Tùng, hỗ trợ Tùng một cách vô tư, không vụ
lợi” và cho rằng đây chính là “bản sắc riêng của FC”.
Mới đây, khi Sơn Tùng phát hành Sky tour movie ở tất cả các cụm rạp trên cả
nước bắt đầu từ 12/6/2020, một FC Sơn Tùng có số lượng thành viên lớn tại Hà Nội
đã đứng ra tổ chức các buổi xem chung cho các thành viên trong FC (Xin xem Phụ
lục 2.6). Phương Anh - một trong số các admin của FC này đã liên hệ với các cụm
rạp, vì nhiều thành viên là học sinh, sinh viên nên Phương Anh đã lên các kế hoạch
thương thảo với các rạp và đề xuất giảm giá vé để FC có thể tham gia đông nhất có
thể. Phương Anh đã tổ chức 9 suất chiếu full rạp trong 3 ngày từ 12-14/6 ở rạp
CGV Xuân Thủy (Cầu Giấy), thậm chí mời cả phóng viên của một trang báo điện tử
đến ghi hình, phỏng vấn và đưa tin về hoạt động của FC trong sự kiện lần này.
Phương Anh cũng chính là người hô hào, điều hành các thành viên để ghi lại những
video ấn tượng nhất để gửi đến ekip công ty của Sơn Tùng. Phương Anh tâm sự:
79
Cái em trăn trở nhất là làm sao các bạn tham gia vào FC thì phải nhận được
nhiều hơn khi bạn là một fan đơn lẻ cũng như làm sao để ủng hộ Sơn Tùng được
nhiều hơn nữa. Em cũng thường học hỏi các FC khác của các fan K-Pop để tìm ra
cách khiến các thành viên có thể gắn bó và máu lửa hơn nữa cùng FC. Em cũng
muốn mọi người có một cái nhìn khác về fan bọn em, chúng em vẫn học hành, thi
cử, đi làm bình thường, và vẫn cố gắng để cháy hết mình với đam mê cùng thần
tượng, tham gia làm những việc có ích cho cộng đồng (PV ngày 25/11/2019).
Có thể thấy, vai trò của các trưởng nhóm FC là rất lớn không chỉ trong việc tổ
chức, điều hành các hoạt động của FC mà còn trong việc tạo ra và duy trì sự gắn kết
và tinh thần chung của cả nhóm cũng như lan tỏa sự ảnh hưởng của FC tới thần
tượng và tới dư luận xã hội.
Như vậy, các FC nổi lên như những cộng đồng mới ở Việt Nam, nó giống như
những hội nhóm, đoàn thể khác của giới trẻ, tuy nhiên, với tính chất vừa lỏng lẻo
vừa chặt chẽ, các FC ngày càng thu hút đông đảo các bạn trẻ tham gia bởi nó là nơi
để những người hâm mộ trẻ có cơ hội kết nối và chia sẻ sự quan tâm chung với một
thần tượng nào đó một cách tự nguyện.
3.3. Các hoạt động tiêu dùng có liên quan đến thần tượng
Bên cạnh việc kết nối với nhau cũng như theo dõi, chia sẻ, quảng bá cho thần
tượng, người hâm mộ trẻ còn tích cực mua các sản phẩm để ủng hộ, cổ vũ và thể
hiện tình yêu đối với thần tượng. Những kỉ lục về lượng người xem, những biển
lightstick phát sáng trong các show diễn, những mẫu giày dép, quần áo liên tục
“sold out” (bán hết) ngay khi vừa ra mắt, lượng tiêu thụ album khủng khiếp… là thứ chúng ta dễ dàng nhìn thấy trên các tít báo26 hàng ngày về những người nổi tiếng,
những thần tượng của giới trẻ hiện nay. Theo kết quả khảo sát của một công ty nghiên cứu thị trường tháng 6/201027, trong số 14 thực hành “thể hiện sự hâm mộ”
thì có đến 9 thực hành liên quan đến tiêu dùng vì thần tượng, đó là: Mua đĩa
nhạc/phim của thần tượng (62%), Xem các phim do thần tượng đóng (56%), Đi
xem các chương trình ca nhạc của thần tượng (42%), Đọc sách do thần tượng viết
(15%), Dùng các đồ giống thần tượng (12%), Mua các sản phẩm do thần tượng
quảng cáo (12%), Dùng đồ có in hình/ chữ kí thần tượng (12%), Tham gia các hoạt 26 Ví dụ: “Áo croptop Lisa Black Pink mặc, mới đăng trên mạng 1h đã 'sold out' sạch sẽ”, “Sau G-Dragon, Jennie chính là "thánh sold out" mới của YG”, “Baek Hyun lập kỉ lục mới về lượng album order”... 27 https://www.slideshare.net/ISCads/thn-tng-ca-gii-tr-vit-nam. Truy cập ngày 1/4/2021.
80
động có thần tượng tham gia (11%), Bắt chước thần tượng (về phong cách ăn
mặc...) (9%). Các hoạt động tiêu thụ liên quan đến thần tượng khiến hâm mộ thần
tượng của giới trẻ hiện nay trở thành một hiện tượng đáng chú ý, nhưng đây cũng
chính là nguyên nhân khiến hâm mộ bị chỉ trích gay gắt và tiêu cực bởi những thế
hệ lớn tuổi trong những năm qua.
3.3.1. Tiêu thụ sản phẩm trực tiếp
Nếu như trước đây, ở Việt Nam, giới trẻ chủ yếu mua các album, đĩa CD,
VCD hay DVD của các ca sĩ, xem các bộ phim của các diễn viên, mua vé xem các
cầu thủ thi đấu hoặc mua vé xem show diễn của các ca sĩ thì hiện nay, họ có thể
mua rất nhiều các sản phẩm của thần tượng hoặc có liên quan đến thần tượng.
3.3.1.1. Tiêu thụ các sản phẩm của thần tượng
Không ít người hâm mộ 8x cho biết họ từng nhịn ăn sáng, để tiền tiết kiệm để
mua từng quyển báo, tạp chí có ảnh và bài viết về thần tượng, mua album, mua vé
xem thần tượng biểu diễn. Những người khá giả hơn thì có thể dành dụm tiền đi
xem show ca nhạc:
Tiền mua album của Đan Trường lúc đó không hề rẻ, 35.000đ/ chiếc. Tiền đi
xem show của Đan Trường thì bố em cho, chứ học sinh kiếm đâu ra mấy trăm nghìn
(bằng mấy triệu bây giờ) Nói chung, đu theo thần tượng rất tốn kém (PV Hạnh, 32
tuổi, Hà Nội, 5/2019).
Ở thời điểm những năm cuối 1990, giá vé 30.000đ là một số tiền không nhỏ,
đến nay, còn hiện nay, những người hâm mộ trẻ phải bỏ ra từ 1-5 triệu để mua vé
tham dự show diễn của thần tượng (mức vé cao nhất trong show gần đây của ca sĩ
Vũ Cát Tường là 5 triệu). Số tiền này đã là khá lớn so với những người đã đi làm,
nhưng với bạn trẻ còn là học sinh, sinh viên chưa đi làm, việc xoay xở để có được
số tiền này lại càng không đơn giản. Đa phần các bạn trẻ được chu cấp từ gia đình
các khoản tiền ăn, học, thuê trọ. Còn số tiền dành cho thần tượng, họ phải tự tìm
cách để có: có người nhịn ăn, tiết kiệm tiền mua sắm quần áo, mỹ phẩm, đi chơi với
bạn bè; có người đi làm thêm theo ca ở các cửa hàng. Chỉ riêng trong một FC người
hâm mộ Sơn Tùng mà tôi quen biết, đã có ít nhất 3 bạn đi làm thêm ở Circle K,
Lotteria. Ngoài ra, các bạn trẻ cũng nỗ lực tìm kiếm các công việc khác để có chi
phí cho sở thích “đu show” của mình.
Tháng 10/2017, Sơn Tùng ra mắt tự truyện Chạm tới giấc mơ với 17.000 bản in,
trong đó 10.000 bản đã bán hết chỉ trong vòng 2 ngày. Trước đó, album các ca khúc
81
của Sơn Tùng khi phát hành cũng được tiêu thụ nhanh chóng bởi sự cuồng nhiệt của
fan (500 bản đã được mua trong vòng 1 giờ đầu tiên). Mới đây, bộ phim Sky tour movie
của Sơn Tùng cũng gây sốt khi đạt doanh thu 11,5 tỉ sau 10 ngày công chiếu. Có những
fan đi xem tới 5-6 lần. Những con số về tiêu thụ ấy nói lên rất nhiều điều. Nó không chỉ
là minh chứng cho độ “hot” của Sơn Tùng, sự yêu mến, ủng hộ của các fan mà còn là
niềm tự hào của chung cho Sơn Tùng và những người yêu mến ca sĩ này. Doanh số bán
album và goods (hàng hóa), lượng view chính là những con số biết nói, không những
thế còn là thứ gia tăng sự kết nối giữa fan và thần tượng.
Là một fan của Sơn Tùng M-TP từ 2014-2015 đến nay, có thể nói My là một
trong những người hâm mộ trẻ cuồng nhiệt nhất mà tôi biết. Năm 2017, khi album
đầu tay của Sơn Tùng ra mắt, My đã mua liền 10 cái với hi vọng sẽ may mắn trúng
được vòng tay để là 1 trong 100 người được gặp mặt thần tượng. Trong 2 năm nay
(2018-2019), My không bỏ lỡ show diễn nào có mặt Sơn Tùng ở Hà Nội, thậm chí
cả ở Đà Nẵng, Sài Gòn. Có những show diễn miễn phí (do các nhãn hàng lớn tài trợ
để quảng bá như Viettel, Levi’s, Canifa), có những show diễn, My phải bỏ tiền túi
ra mua vé vào xem thần tượng (show kín ở quán bar 1900 - Hà Nội có mức giá là
800.000đ/vé). Như một cái duyên, lúc My bắt đầu thích và học làm bánh cũng là lúc
My trở thành fan của Sơn Tùng. Việc làm bánh và bán bánh ngọt này cũng giúp My
trang trải toàn bộ chi phí từ việc hâm mộ thần tượng của mình: mua album, đu
show, vé máy bay vào Sài Gòn xem show diễn của Tùng hay off fan mừng sinh
nhật Sơn Tùng với các bạn fan trong Sài Gòn. Do sắp phải tham gia kì thi tốt nghiệp
THPT, My đã phải vừa ôn thi vừa thức đêm làm bánh để kiếm tiền đi đủ 3 show của
Tùng ở 3 địa điểm: Sài Gòn, Đà Nẵng, Hà Nội và sẽ mua mức giá cao nhất ở cả 3
show này (2.145.000đ/ vé x 3, tổng cộng là 6.435.000đ). Đây là một số tiền rất lớn
đối với các bạn ở tuổi của My. Ngoài tiền vé, My cũng phải tự lo tiền vé máy bay,
tiền ăn ở khi vào Sài Gòn, Đà Nẵng. My nói toàn bộ số tiền dành dụm được My đã
“dồn cả” vào tour diễn lần này của Sơn Tùng.
Hồi nhỏ, My cũng từng rất hâm mộ SNSD (một nhóm nhạc nữ Hàn Quốc).
My biết đến nhóm nhạc này qua kênh iTV trên ti vi. Đây là kênh trả tiền để bài hát
được bình chọn nhiều nhất được ưu tiên phát trên ti vi. My đã lén lấy điện thoại của
bố để nhắn tin tới chương trình yêu cầu bài hát của SNSD khiến cho tháng đó, tiền
cước điện thoại của bố My cao đột biến.. Tuy nhiên, hồi đó, dù thích SNSD nhưng
My cũng chỉ mua được các poster, các sticker hình dán có hình các thành viên của
82
nhóm nhạc Hàn Quốc xa xôi này. Mọi thứ rất khác với cách My hâm mộ Sơn Tùng
bây giờ. My có thể chủ động ủng hộ thần tượng và thỏa mãn mong ước gặp thần
tượng của mình bằng cách bỏ tiền ra mua vé hoặc đi show.
Không chỉ riêng My, có một nhóm fan cũng giống My, họ đã tiết kiệm tiền, đi
làm thêm, nhịn ăn tiêu ngay từ khi Sơn Tùng và công ty của anh thông báo rằng sẽ
tổ chức Skytour ở Sài Gòn, Đà Nẵng và Hà Nội. Theo như My kể, có bạn vẫn đang
là học sinh lớp 11, không dám xin tiền bố mẹ nên đã kiếm việc làm thêm là bán
hàng tại Cirke K để có tiền mua vé, đu show. Rõ ràng, những người hâm mộ trẻ này
đã có một kế hoạch và chiến lược để thực hiện được đam mê của mình. Đam mê
này chính là động lực để họ làm những việc mà trước kia họ chưa từng trải nghiệm.
Các fan K-Pop mấy năm gần đây thường có các chiến dịch “pre order” tức là
đặt hàng trước album hay sản phẩm nào đó của thần tượng và số lượng này sẽ minh
chứng cho tình cảm của các fan dành cho thần tượng. Chẳng hạn cộng đồng fan của của Baek Hyun (nhóm EXO)28 đã giúp ca sĩ này lập kỉ lục album bán chạy nhất
trong việc bán album mới nhất (Citi Lights) hay cộng đồng fan của nhóm BTS đã
giúp album “Map Of Soul: Persona” phá vỡ kỉ lục thế giới về lượng album đặt
trước. “Thay vì khẩu chiến vô bổ, họ dùng tài chính để thể hiện sự ganh đua và tình
yêu với idol. Để rồi cuối cùng chính thần tượng của họ là người hưởng lợi khi sự
đua tranh của fan góp phần giúp doanh số của BTS tăng vòn vọt, “Map of the soul:
Persona” trở thành album bán chạy nhất năm 2019 và nay đã vượt mốc 3 triệu bản. Nhờ đó mà các chàng trai thu được lợi nhuận cao”29 (kenh14.vn, 21/8/2019). Rõ
ràng, sau những cuộc cạnh tranh ấy, sự tiêu dùng lại càng được đẩy cao và lợi
nhuận - tất nhiên không thuộc về những người hâm mộ.
Các fan K-Pop ở Việt Nam cũng là những người nhiệt tình nhất trong việc tiêu
thụ các sản phẩm của thần tượng, họ không những mua album, mà còn mua
lightstick, quạt có in ảnh, mua rất nhiều sản phẩm (goods) khác như vòng tay, mũ,
áo, mỹ phẩm… để ủng hộ thần tượng, tất nhiên qua trang web của công ty chủ
quản. Việc tiêu dùng này là kết quả của việc những người hâm mộ trẻ đã được
“huấn luyện” (để sẵn sàng chi tiền để ủng hộ thần tượng) ngay từ đầu bởi sự bài
28 https://kenh14.vn/cung-ngay-ra-mat-doi-hinh-boygroup-khung-cua-sm-baekhyun-exo-thiet-lap-ky-luc-ban- chay-album-nhat-lich-su-K-Pop-20190808125927875.chn 29 http://kenh14.vn/fanwar-dac-san-di-qua-nam-thang-cua-fan-K-Pop-ca-khia-mot-chut-thi-vui-choang-nhau- hon-chien-chi-dau-idol-20190820172202026.chn
bản, chuyên nghiệp của nền công nghiệp giải trí Hàn Quốc.
83
Theo lời của Uyên - một fan của EXO, nhân ngày sinh nhật Baek Hyun
(EXO), công ty SM tung ra một loạt sản phẩm (poster, mũ, quạt...) để bán cho fan,
nhưng tinh tế ở chỗ là cộng giá của tất cả các sản phẩm lại (bằng 56.000 won) có
liên quan đến ngày sinh nhật của ca sĩ này (ngày 6/5) nên dù phải bỏ tiền túi ra, các
fan đều rất hồ hởi, tự nguyện. Họ gọi đây là “cách bóc lột ngọt ngào”, gọi SM là “tư
bản hút máu fan”. Trên một fanpage của EXO, các fan đã chia sẻ rằng: “Tiền nhiều để
làm gì? Tiền nhiều để làm cho tên tuổi của EXO càng thêm tỏa sáng” hay “con đường
đến với thần tượng trải đầy VNĐ”... Việc hâm mộ thần tượng của những người trẻ như
Uyên mang đậm màu sắc thực tế, họ dần nhập tâm rằng tiêu tiền chính là cách tốt nhất
để thể hiện tình yêu với thần tượng, để chứng minh ai đó là “fan ruột”:
Có những fan Trung Quốc rất giàu, họ mua hẳn 1000 album trong 1 lần phát
hành của EXO. Hoặc fan Hàn, họ góp tiền nhiều đến nỗi đủ để chi trả cho việc làm cho
cột tháp cao nhất ở Dubai rực sáng dòng chữ EXO. Việc này ai cũng biết là đòi hỏi rất
rất nhiều tiền (PV Uyên, 20 tuổi, quê Tuyên Quang, 3/2019).
Chưa từng được gặp EXO nhưng Uyên cũng như các fan của nhóm nhạc này
cũng đã mua hầu hết các album cũng như lightstick của nhóm để làm đồ sở hữu của
riêng mình. Lightstick là đèn chiếu, có thể phát sáng nhiều màu, thường được các fan
dùng để giơ lên vẫy, cổ vũ thần tượng trong các buổi biểu diễn trực tiếp. Vậy các fan
như Uyên mua lightstick làm gì khi chưa từng được gặp thần tượng? Theo lời Uyên, họ
mua để “cảm thấy gần hơn với thần tượng, để ủng hộ và thể hiện tình yêu với thần
tượng. Không thể được coi là một fan chân chính nếu như không có chiếc lightstick
này” - một biểu tượng cho việc bạn thuộc về cộng đồng fan của ai. Do vậy, mặc dù chỉ
có thể mang lightstick theo trong các buổi họp mặt với cộng đồng fan EXO, Uyên vẫn
cảm thấy sung sướng khi sở hữu đồ vật này. Uyên cho biết giá của một chiếc lightstick
như vậy tầm 6-700.000đ kể cả tiền chuyển hàng về Việt Nam, còn giá của một album
của nhóm tầm 400.000đ. Với một cô sinh viên xuất thân từ vùng quê như Uyên, sở hữu được những sản phẩm này đã là cả một sự xa xỉ30.
Một chiếc lightstick đã được lồng ghép vào những giá trị biểu tượng của việc
chứng tỏ bạn là fan của ai. Hơn nữa nó còn được chính các thần tượng, các công ty
30 Tư liệu PV này được thu thập vào đầu năm 2019. Đến cuối 2019, 2 ca sĩ thuộc nhóm EXO đã sang Việt Nam biểu diễn tại SVĐ Mỹ Đình, lightstick mà Uyên tưởng chỉ dùng ở các buổi offline đã được sử dụng để cổ vũ trực tiếp các thần tượng của cô dù như lời Uyên nói “từ vị trí ghế ngồi theo vé của em nhìn lên sân khấu, các anh chỉ bé như cái chấm”. Nhưng như thế cũng đủ làm Uyên cảm thấy sung sướng không tả xiết.
quản lí của thần tượng “lăng xê” bằng những lời kêu gọi. “Các ca sĩ cũng không
84
ngại kêu gọi fan mua hàng của mình, ví dụ họ sẽ nói là: khi đi show, chúng ta cầm
lightstick này để vẫy vẫy nhé, cả đại gia đình chúng ta hãy phủ kín sân vận động
bằng đồ vật này, như thế chúng ta sẽ nhận ra nhau dễ hơn” hay “hãy mua lightstick
để trở thành một fan sang chảnh nhé. Chỉ cần một câu nói thế thôi là các fan lại đặt
mua hàng loạt” (PV nhà báo ĐTN, 14/7/2019). Dễ hiểu vì sao các fan lại sẵn sàng
mua những sản phẩm như vậy để ủng hộ thần tượng.
3.3.1.2. Tiêu thụ những sản phẩm mà thần tượng làm đại diện thương hiệu
Không chỉ mua vé xem show, mua lightstick, album nhạc hay sách tự truyện
của thần tượng, các fan còn không tiếc tiền mua những sản phẩm khác: quần áo,
giày dép, mũ, nước hoa, son môi, vòng đeo tay... - những thứ mà thần tượng đại
diện quảng cáo. Một trong những tiêu chí để đánh giá ai đó là fan cứng là họ có
thuộc nằm lòng những thương hiệu, sản phẩm mà thần tượng của họ làm đại diện
quảng cáo hay không. Các fan rất tự hào về việc thần tượng của họ được nhiều
thương hiệu, nhãn hàng mời quảng cáo hơn những ngôi sao khác. Nhiều thần tượng
dùng danh tiếng của mình như là một sự bảo chứng cho những sản phẩm mà họ bán.
Một fan của Hyomin (ca sĩ nhóm T-ara) cho biết mình đã mua loại phấn phủ do
Hyomin quảng cáo bởi vì tin vào thần tượng. Một số fan nữ của nhóm SNSD cũng
thường xuyên tiêu thụ các sản phẩm của hãng mỹ phẩm Innisfree (Hàn Quốc) bởi
học theo các thần tượng.
Một fan của Cristiano Ronaldo (CR7) cũng cho biết, dù không biết lợi nhuận
mà thần tượng nhận được là bao nhiêu từ những sản phẩm được tiêu thụ bởi người
hâm mộ, cậu vẫn cố gom góp tiền mua bộ quần áo thi đấu của CR7 do câu lạc bộ
Real Mandrid phân phối.
Cảm giác cầm bộ áo đấu xịn của CR7 trên tay nó khác lắm. Không uổng công
em tiết kiệm, dành dụm tiền. Đây là món đồ vô cùng quan trọng của em, em chỉ
ngắm nhìn chứ chưa mặc một lần nào cả. Một bộ quần áo đấu của CR7 có giá hơn
3 triệu đồng (PV Tùng, 24 tuổi, Thái Bình, 4/2019).
Việc mua các sản phẩm có liên quan đến thần tượng được những người hâm
mộ trẻ coi là “cách thiết thực” để thể hiện sự yêu mến của mình với thần tượng. Một
số fan cho rằng họ có cảm giác là “toàn người nghèo mang tiền cho người giàu” và
“không biết lợi nhuận đến tay các thần tượng được bao nhiêu” nhưng họ vẫn thấy
vui “vì cảm giác gần với thần tượng hơn khi mình sở hữu được những món đồ đó”
(PV Uyên, 20 tuổi, fan EXO).
85
Những sản phẩm do thần tượng làm đại diện thương hiệu hay quảng cáo luôn
là hàng hóa bán chạy. Chẳng hạn, khi xem MV của Sơn Tùng, khán giả luôn sốt
sắng săn lùng sản phẩm xuất hiện trong MV hoặc tài trợ cho MV, như điện thoại
Oppo, giày Biti’s Hunter X, nước uống Pepsi... Biti’s là thương hiệu giày lâu năm ở
Việt Nam, tuy nhiên, đầu những năm 2010, thương hiệu này khá mờ nhạt trước sự
cạnh tranh của những nhãn hàng khác không chỉ bởi mẫu mã, giá cả, chất lượng mà
còn về mặt quảng cáo. Từ sau khi xuất hiện trong MV Lạc trôi (2017) của Sơn
Tùng, thương hiệu giày này dường như được vực dậy và trở nên có sức hút đối với
những người tiêu dùng trẻ ở Việt Nam, thậm chí cả một số bạn trẻ ở nước ngoài.
Giày Biti’s Hunter hiện có mức giá tăng cao so với các sản phẩm của hãng này
trước đây. Có những mẫu giày hơn 1 triệu VNĐ và luôn cháy hàng, điển hình là
mẫu giày Biti’s Hunter X Nameless - được Biti’s quảng cáo là “đồng hành sáng tạo
cùng biểu tượng đương đại hàng đầu Việt Nam Sơn Tùng M-TP” có giá
1.400.000VNĐ. Có mức giá cao như vậy nhưng mẫu giày này luôn “cháy hàng”,
đặc biệt từ sau khi xuất hiện trong MV Hãy trao cho anh (7/2019). Nhiều bạn trẻ
phải “đặt hàng trước” và chờ đợi mới có thể mua “mẫu giày của thần tượng” này.
Các fan từng nhiều lần trầm trồ chia sẻ các mẫu giày mà Sơn Tùng hay sử dụng, hầu
hết các đôi giày này đều đắt tiền (hàng chục triệu) vì là sản phẩm của các thương
hiệu đình đám ở nước ngoài như Balenciaga, Nike, Adidas,... Đến Biti’s Hunter X,
một đôi giày được sản xuất trong nước, giá tiền “vừa phải” lại được thần tượng
quảng cáo, thì đây là một cơ hội tuyệt vời để các fan có thể trải nghiệm cảm giác
mua sắm và sử dụng sản phẩm “giống với thần tượng. Tương tự, nhiều fan của Sơn
Tùng M-TP cho biết họ có hai điện thoại thì một chiếc bao giờ cũng là Oppo vì giá
thành sản phẩm hợp với túi tiền của họ, nhưng quan trọng là vì thần tượng của họ là
đại diện quảng cáo cho Oppo từ nhiều năm nay.
Những mặt hàng được tiêu thụ trên đây đã khiến các fan đúc rút ra rằng, nếu
như không có tiền hoặc nghèo thì cũng chỉ đành ngậm ngùi nghĩ về chứ khó mà
“đến gần” hơn các thần tượng được, như lời một fan nữ của nhóm EXO là: “Sau
một thời gian dài là fan của EXO, em phải công nhận rằng cần phải có tiền thì mới
trở thành một fan của thần tượng nào đó được”.
3.3.2. Các hình thức tiêu thụ trên không gian mạng
Người hâm mộ Việt Nam hiện nay không chỉ có thói quen mua các sản phẩm
do thần tượng sản xuất hay do thần tượng làm quảng cáo, đại diện, mà họ còn là
86
những người tích cực sử dụng không gian mạng để gia tăng lợi nhuận cho thần
tượng. Phương tiện chủ yếu để fan hiểu và tiếp cận thần tượng chính là các kênh
truyền thông. Yêu thích ca sĩ nào đó, fan sẽ “lùng” các bài hát, MV, các show mà
thần tượng tham gia cũng như các thông tin được đăng tải trên truyền thông về thần
tượng. Đó có thể là những bài báo điện tử, những thông tin được lan truyền trên
mạng xã hội... Tất cả đều nhằm mục đích PR, tiếp thị và quảng bá cho thần tượng
cũng như thỏa mãn nhu cầu biết nhiều hơn nữa về thần tượng của những người trẻ
tuổi. Nếu những người am hiểu và có thông tin rộng rãi về các sản phẩm mà mình
mua và sử dụng được coi là những người tiêu dùng thông thái thì fan hâm mộ chính
là những người như vậy. Họ không những thuộc lòng những “đặc tính” của “hàng
hóa” mà họ “mua” (tên, tuổi, quê quán, đặc điểm ngoại hình, tính cách cá nhân, tài
năng, tài sản...) mà còn biết cách để biến những “đặc tính” ấy trở nên năng sản hơn
bằng cách lan truyền những thông tin về thần tượng một cách rộng rãi trên các nền
tảng truyền thông, đặc biệt là các mạng xã hội phổ biến hiện thời (facebook,
instagram, twitter). Nhờ những nền tảng này, họ vừa là người tiêu thụ vừa là người
sáng tạo truyền thông.
3.3.2.1. “Cày view”
“Cày view” là hình thức tiêu thụ thần tượng trên không gian mạng đặc trưng ở
những cộng đồng hâm mộ thần tượng âm nhac. Văn hoá “cày view” có lẽ được bắt
đầu từ các nhóm fan K-Pop trong giai đoạn internet phát triển, liên quan đến việc
các fan tập trung để tăng lượt xem trên YouTube cho MV của thần tượng. Các mốc
kỉ lục được truyền thông tạo ra để các fan hướng tới là lượt xem cao nhất trong 24
giờ đầu và mốc trăm triệu view. Câu chuyện cày view này trở nên phổ biến ở Việt
Nam chỉ trong 2-3 năm trở lại đây và được cho là bắt đầu bởi các fan của Sơn Tùng
M-TP với MV Lạc trôi.
Đúng 0h ngày 1/1/2017, MV Lạc trôi chính thức được phát hành trên
YouTube. Chỉ sau 2 ngày đầu tiên, MV này đã đứng ở vị trí thứ 6 trong danh sách
những MV được xem nhiều nhất trên YouTube ở Việt Nam. Sau 2 tháng, Lạc trôi
trở thành ca khúc nhạc EDM đầu tiên tại Việt Nam đạt mốc 200 triệu view. Ngoài
sức hấp dẫn của bản thân MV, việc các fan ngày đêm cày view đã góp phần không
nhỏ vào sự thành công của Sơn Tùng M-TP, giúp cho ca sĩ này đạt được những kỉ
lục khó tin đối với VPop, khiến Sơn Tùng trở thành một tường thành vững chắc về
87
lượt xem trên YouTube ở Việt Nam, cũng từ đây, cụm từ “cày view” đã lan ra cả
Vpop một cách mạnh mẽ.
Các MV sau này của Sơn Tùng M-TP cũng nhanh chóng lọt top trending ở
nhiều nước nhờ lượng view khủng, đặc biệt MV Hãy trao cho anh (1/7/2019) đã
giúp tên tuổi ca sĩ này thu hút được sự chú ý của báo chí, truyền thông quốc tế. Tên
tuổi của Sơn Tùng được xuất hiện trong một bài báo trên trang Billboard của Mỹ
vào ngày 3/7/2019. Bản tin ghi rõ nghệ danh tiếng Việt có dấu của nam ca sĩ là Sơn
Tùng M-TP, thay vì được Anh hóa bằng cách bỏ dấu. Điều này mang lại cảm giác tự hào
không chỉ đối với các Sky (tên fandom của Sơn Tùng) mà còn đối với cộng đồng yêu
nhạc Việt nói chung. Mặc dù xung quanh vấn đề “cày view” còn nhiều tranh cãi,
nhưng không thể phủ nhận rằng đây chính là một xu hướng mới của tất cả các FC
(fanclub) ở thời điểm này.
3.3.2.2. Tiêu thụ nhạc số và bình chọn trên những bảng xếp hạng
Ở các nước có nền công nghiệp âm nhạc phát triển, việc download hoặc nghe
nhạc trên những ứng dụng phải trả tiền là bắt buộc và các fan cho rằng đây một
hành động văn minh của những người yêu nhạc. Ở Việt Nam, mấy năm gần đây
cũng có các ứng dụng nghe/tải nhạc mất phí (Spotify, Itunes…). Một số thần tượng
âm nhạc như Mỹ Tâm, Sơn Tùng, Đông Nhi, Vũ Cát Tường... do có một lượng fan
đông đảo, nên ngay từ đầu, họ đã hướng được fan tới việc sử dụng các nền tảng
nghe nhạc mất phí này. Các cộng đồng fan cũng kêu gọi các thành viên bỏ tiền để
sử dụng các nền tảng này như một cách chứng minh tình yêu với thần tượng.
Nhiều cộng đồng fan K-Pop thường ganh đua nhau về vị trí số 1 trên bảng xếp
hạng âm nhạc, họ coi đây cách để thể hiện sức mạnh của mình và tình yêu của mình
với thần tượng. Khi thần tượng của họ đứng đầu, họ cảm thấy như chính họ đang
dẫn đầu vậy. Thông qua những bảng xếp hạng này, các kênh truyền hình, các trang
mạng đã kích thích được một lượng lớn người hâm mộ trẻ tiêu thụ các sản phẩm
truyền thông. “Trước đây, fan của T-ara và fan của SNSD thường xuyên chiến
tranh với nhau chính là vì bảng xếp hạng. Vì hai nhóm này là nổi nhất trong các
nhóm nhạc nữ lúc ấy nên cãi nhau qua lại suốt. Chính vì muốn thần tượng của mình
luôn ở hạng nhất nên các fan liên tục bỏ công sức, tiền bạc ra để vote” (PV
Phương, fan T-ara, 4/2019). Chính vì những bảng xếp hạng này, các kênh truyền
hình, các trang mạng đã kích thích được một lượng lớn người hâm mộ trẻ tiêu thụ
88
truyền thông. Đó là thành công của thần tượng nhưng lại là thành tích chung của cả
cộng đồng fan.
Những thực hành của người hâm mộ nói trên đã cho thấy “người hâm mộ
giống như những người tiêu dùng thương hiệu lý tưởng” theo nhận định của
Duffett: họ nắm bắt được điều mới nhất, mua thêm hàng hóa, tham gia các chương
trình khuyến mãi, tham gia các câu lạc bộ fan hâm mộ chính thức và xây dựng bộ
sưu tập. Họ tạo thành một thị trường đặc biệt ổn định nền công nghiệp âm nhạc, lợi
nhuận chính sẽ thu về từ việc bán băng đĩa, album, người hâm mộ thể hiện tình cảm
của mình bằng cách mua các sản phẩm âm nhạc này [95, tr. 53].
Các fan mua các sản phẩm của thần tượng và việc này giúp thần tượng thu
được lợi nhuận khổng lồ. Việc tiêu thụ này là hoàn toàn tự nguyện, thậm chí như là
một “nghi lễ, tín ngưỡng” mà người hâm mộ cho là cần thiết để ủng hộ idol và là
một cách để “lượng hóa” tình cảm của cá nhân mình. Từ tâm lí yêu quý, ngưỡng
mộ, các fan luôn muốn idol của mình vươn lên hàng đầu. Các fan luôn so sánh thần
tượng nào giàu hơn, mức cat xê của anh ta/ cô ta là bao nhiêu, anh ta bán được bao
nhiêu sản phẩm... và chính họ là những người ngày đêm tiêu thụ không ngừng các
sản phẩm để gia tăng giá trị về mặt vật chất và về mặt thương mại cho thần tượng.
Dưới góc nhìn của văn hoá tiêu dùng, việc fan cày view, giúp thần tượng đạt nút
bạc, nút vàng youtube không phải là một việc vô bổ bởi những con số trên mạng
không chỉ là sự chạy đua giữa các fandom nhằm gia tăng vị thế trên không gian
“ảo” mà còn là một cách tái sản xuất ra lợi nhuận “thực” cho thần tượng. Các thần
tượng lại tận dụng vị thế và danh tiếng được fan tạo ra để tiếp tục sản xuất, sáng tạo
ra sản phẩm khác. Và vòng tròn khép kín của việc hâm mộ và tiêu dùng lại tiếp diễn
không ngừng. Do vậy, giá trị của một thần tượng thời nay suy cho cùng là lợi
nhuận, là số tiền mà anh ta có được.
Soi chiếu những thực hành hâm mộ cũng như tình cảm mà người hâm mộ trẻ
Việt Nam dành cho thần tượng với các mức độ trong thang đo của McCutcheon, Lange
và Houran [145], có thể thấy hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam đa phần chỉ dừng
ở cấp độ 2 “mãnh liệt - cá nhân” tức là vượt lên trên sự giải trí, người hâm mộ thường
xuyên nghĩ về thần tượng, có thể là hàng ngày, hàng giờ, tham gia vào các fan club, có
tính hướng nội và hành động cảm tính, không có tình trạng giống như “seasang fan”
(kẻ chuyên bám đuôi thần tượng, rình rập và căm thù tất cả những cô gái/chàng trai đến
gần thần tượng) như một số fan Hàn Quốc hay “crazy fan” (fan cuồng, điên ám sát cả
89
thần tượng) ở các nước Âu Mỹ. Tình yêu, sự ngưỡng mộ - thông qua các tính năng đa
dạng của truyền thông đại chúng - có thể dễ dàng được “lượng hóa” và đương nhiên,
người tiêu dùng/ người hâm mộ hoàn toàn tự nguyện và thậm chí vui sướng với việc họ
bỏ tiền ra để tiêu thụ để thể hiện tình yêu cũng như lăng xê, quảng bá cho thần tượng
của họ. Bằng cách này, truyền thông và các công ty giải trí, các nhà sản xuất đã thu
được những lợi nhuận khổng lồ.
Tiểu kết chương 3
Có thể nói các thực hành hâm mộ thần tượng của giới trẻ Việt Nam hiện nay
diễn ra sôi nổi, phổ biến và đa dạng. Những người hâm mộ trẻ thể hiện sự yêu thích
thần tượng ở cả các hoạt động online và offline. Đặc biệt, họ đã sử dụng các phương
tiện truyền thông đại chúng một cách đa dạng và sáng tạo để cập nhật thông tin về
thần tượng, kết nối cộng đồng người hâm mộ cũng như ủng hộ và tiếp thị cho tên
tuổi của thần tượng hiệu quả nhất có thể. Bên cạnh các thông tin về thần tượng thì
các thông tin về hoạt động của các FC cũng tốn nhiều giấy mực của báo chí trong
thời gian qua.
Trong số các hoạt động của người hâm mộ trẻ ở Việt Nam hiện nay, những
hoạt động tiêu dùng liên quan đến thần tượng ngày càng nhiều và nổi bật. Không
chỉ tiêu thụ các sản phẩm hàng hóa để mang lại lợi nhuận trực tiếp cho thần tượng,
họ còn tiêu thụ mạnh mẽ đối với các sản phẩm trừu tượng trên truyền thông (nhạc
số, thông tin, hình ảnh) mang lại lợi nhuận gián tiếp cho thần tượng. Người hâm mộ
mua các sản phẩm với niềm tin rằng họ sẽ góp phần vào sự nổi tiếng, thành công
của thần tượng. Đó cũng là một trong những cách thức để họ kết nối với thần tượng
cũng như với những người hâm mộ khác. Có thể nói, từ yêu thích, ngưỡng mộ đến
tiêu thụ các sản phẩm liên quan đến thần tượng là một quá trình trong đó cảm xúc
của người hâm mộ tham gia trực tiếp và có tính quyết định tới vị thế, lợi nhuận của
các thần tượng. Tuy nhiên, các thực hành tiêu dùng có liên quan đến thần tượng lại
là một trong những vấn đề khiến hâm mộ thần tượng ở giới trẻ chịu sự chỉ trích và
định kiến nhiều nhất từ dư luận xã hội, các bậc phụ huynh. Từ góc nhìn nghiên cứu
văn hóa, chúng tôi cho rằng các thực hành này có khả năng soi chiếu nhiều đặc
trưng về giới trẻ, đặc biệt những ảnh hưởng của bối cảnh xã hội tới sự kiến tạo căn
tính của giới trẻ hiện nay. Điều này sẽ được lí giải rõ hơn ở chương 4.
90
Chương 4
HÂM MỘ THẦN TƯỢNG: MỘT PHƯƠNG THỨC
KIẾN TẠO BẢN SẮC Ở GIỚI TRẺ
4.1. Hâm mộ thần tượng trong quá trình định vị căn tính của giới trẻ
4.1.1. Nhu cầu định vị căn tính của những người trẻ
Như đã trình bày ở mục 1.2.2, bản sắc là cách mọi người thể hiện chính bản
thân mình, nhìn nhận những người xung quanh mình và xem xét những gì người
khác nghĩ về mình (Kidd) [132]. Nhu cầu về bản sắc cá nhân gắn với các câu hỏi
“tôi là ai? Tôi nên trở thành người như thế nào? Làm thế nào để phân biệt tôi với
người khác? Ý thức cá nhân về việc “chúng ta là ai” có liên quan mật thiết với
những gì mà xã hội mong muốn chúng ta thực hiện và trở thành (Lê Thu Hường, Lê
Duy Thể) [32]. Mọi hành vi của các cá nhân, cộng đồng đều liên quan đến vấn đề
căn tính (sự định danh, bản sắc), đều là những “chỉ dấu” cho biết “họ là ai”.
Tại sao việc xác định căn tính lại là một nhu cầu quan trọng đối với những
người trẻ trong bối cảnh hiện nay? Erikson [99] cho rằng tuổi trẻ như là một giai
đoạn hình thành bản sắc quan trọng, trong đó cá nhân vượt qua sự không chắc chắn,
trở nên tự nhận thức được điểm mạnh và điểm yếu của họ và tự tin hơn vào các
phẩm chất độc đáo của riêng họ. Họ sẽ phải đối mặt với những “sự khủng hoảng về
nhận dạng”, phải trả lời các câu hỏi quan trọng liên quan đến giá trị và lí tưởng, sự
nghiệp hay nghề nghiệp tương lai và cả bản dạng tính dục của họ. Thông qua quá
trình tự phản thân và tự định nghĩa, giới trẻ sẽ đạt được một ý thức tích hợp, mạch
lạc về căn tính của họ như một cái gì đó bền vững theo thời gian.
Cũng theo Erikson [99], một cá nhân trưởng thành thành công là người đã
đạt được một bản sắc ổn định, việc tiếp tục “nhầm lẫn” về căn tính của một người
trưởng thành là dấu hiệu của sự phát triển không đầy đủ và có thể dẫn đến hành vi
sai lệch hoặc chống đối xã hội. Từ quan điểm này, tuổi vị thành niên được nhìn
nhận chủ yếu như một trạng thái chuyển tiếp, một vấn đề của “trở thành”
(becoming) thay vì “là” (being). Vị thành niên như là một giai đoạn mà những
người trẻ tuổi có thể thử nghiệm với các nhận dạng khác nhau và thực sự tham gia
với các rủi ro khác nhau; như một “giai đoạn ở giữa” của quá trình chuyển tiếp từ
trẻ con sang người lớn, trong đó người trẻ tuổi đang có ý thức tìm kiếm các hướng
tương lai trong cuộc sống của họ. Chính vì là “giai đoạn ở giữa” nên vị thành niên
91
không được coi là một thế hệ có ý thức hệ riêng biệt. Thiên kiến này đã dẫn đến
những khủng hoảng của thanh thiếu niên/ vị thành niên mà đôi khi những khủng
hoảng ấy xuất phát từ việc các thế hệ lớn hơn không hiểu, không coi trọng những
“hệ giá trị” riêng biệt của giới trẻ.
Nhiều nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra những khủng hoảng của lứa tuổi thanh
thiếu niên và coi đây là giai đoạn mà những người này chuyển tiếp từ trẻ con sang
người lớn, là giai đoạn họ luôn loay hoay tìm cách để hiểu chính bản thân mình và
hiểu về xã hội. Bucholtz [80] cho rằng đây là một giai đoạn của cuộc khủng hoảng
về tâm, sinh lí, về giới của những người trẻ tuổi, “một giai đoạn tâm lý chất đầy
những vấn đề xã hội”. Những khó khăn được cho là đặc hữu của giai đoạn này
chính là việc giới trẻ đang phải trải qua những thay đổi văn hóa nhanh chóng vì phải
đối mặt với sự căng thẳng giữa truyền thống và đổi mới. Ở giai đoạn này, giới trẻ dễ
gặp những stress, những trạng thái tâm lí mong manh, dễ bị tổn thương. Sự thay đổi
về bối cảnh xã hội, cùng với căng thẳng tâm lí gây nên những bất đồng giữa người
trẻ và người già. Cách hiểu về thanh thiếu niên như là nhóm tuổi dễ bị ảnh hưởng
nhất bởi sự thay đổi lớn của sự hiện đại hóa cũng đặt ra những câu hỏi về mối quan
hệ giữa thanh thiếu niên và người lớn tuổi.
Đặc biệt, trong bối cảnh xã hội chuyển đổi, giới trẻ phải đối mặt với những
rủi ro và cơ hội mới do những thay đổi từ giáo dục và thị trường lao động, do đó
bản sắc tự thân trở nên mong manh và phải chịu sự diễn giải liên tục và việc diễn
giải lại này khiến cho cuộc sống mỗi cá nhân đã trở thành một dự án phản thân
(self-reflexive) - nơi các cá nhân liên tục bị buộc phải xây dựng lại căn tính của họ
dưới tác động của những trải nghiệm thay đổi. Khi các liên kết truyền thống suy
yếu, tiêu dùng và lối sống đã trở thành trung tâm của quá trình xây dựng bản sắc,
trở nên quan trọng hơn cả yếu tố giai cấp trong việc định hình cuộc sống của những
người trẻ tuổi. Đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa, khi những nền văn hóa liên tục
có sự giao thoa lẫn nhau, thì những câu hỏi về bản sắc lại trở nên được chú ý hơn
bao giờ hết (Furlong & Cartmel) [104]. Toàn cầu hóa buộc các cá nhân, cộng đồng
phải xem xét đến những yếu tố văn hóa ngoại lai và phải tự định vị lại mình trong
tương quan với bối cảnh văn hóa rộng lớn hơn - bối cảnh văn hóa của toàn thế giới
(Kidd [132], Gidley [108]) và như thế, mỗi người luôn phải sống trong tâm thế tự so
sánh, tự phản thân để tìm ra sự khác biệt, hay nói khác đi là căn tính của riêng mình.
Trước những thay đổi liên tục của bối cảnh xã hội, giới trẻ không tránh khỏi những
92
hoang mang và loay hoay trong việc thích ứng với những thay đổi nhanh chóng ấy
cũng như trong việc tìm kiếm và định hình căn tính cá nhân. Họ buộc phải tìm
kiếm, học hỏi, ướm thử và lựa chọn những căn tính khác nhau từ những mẫu hình
gần gũi với lứa tuổi của họ - những ngôi sao giải trí, những thần tượng đương thời.
4.1.2. Vai trò của thần tượng trong quá trình định vị căn tính ở giới trẻ
“THẦN TƯỢNG CỦA CON BẠN LÀ AI?
Thần tượng như một cái áo, theo thời gian mà cơ thể trưởng thành, chiếc áo
sẽ chật. Mình nghĩ nhiều cha mẹ đang đau đầu hay lo sốt vó khi con thần
tượng sao Hàn hay Sơn Tùng M-TP thì nên xem. Với riêng mình, một người
cha có 3 đứa con đang độ tuổi mém trưởng thành thì điều đáng lo nhất
không phải con thần tượng ai mà là con mình không thần tượng một ai. Bởi
nếu con bạn không thần tượng một ai đó thì hẳn cuộc sống của nó đang rất
nhợt nhạt. Mình luôn tin rằng những gì chúng ta thần tượng trong thơ ấu đều
là những mảng màu rất thú vị khi trưởng thành. Lục lại trong ký ức, mình
cũng đã từng có không dưới 100 thần tượng mà mình đã mê mẩn. Từ Diego
Maradona, Platini đến Tuấn Vũ, Chế Linh, Tuấn Ngọc, từ Cổ Long, đến Cô
Cô, Dương Quá… Cho đến tận bây giờ mình vẫn có rất nhiều thần tượng mà
mình vẫn yêu quý, ngưỡng vọng họ từ xa…” (trích nguyên văn từ status trên
facebook công khai của nhà báo Hoàng Anh Tú ngày 28/6/2018).
Trong quá trình chuyển tiếp thành người trưởng thành, giới trẻ “thử” những
căn tính khác nhau, những vai trò xã hội khác nhau trong những không gian khác
nhau. Do vậy, họ dễ có xu hướng ưa thích những hình mẫu, căn tính mà họ cho là
phù hợp với mình trong những thời điểm nhất định. Việc yêu thích và bắt chước
một thần tượng nào đó như nhà báo Hoàng Anh Tú nói trên đây chính là một cách
để giới trẻ có thể “thử” các hình mẫu khác nhau, từ đó dễ dàng hơn trong việc lựa
chọn được những nét căn tính phù hợp nhất với họ và điều đó là một “khâu” quan
trọng đối với thanh thiếu niên, thể hiện sự chủ động của cá nhân những người trẻ
trong quá trình chuyển tiếp từ trẻ con sang người trưởng thành. Bởi lẽ căn tính của
một cá nhân được tạo dựng lên tùy thuộc vào điều kiện, bối cảnh xã hội mà họ sống,
đồng thời cũng phụ thuộc vào tính chủ thể của mỗi cá nhân, trong đó những thần
tượng - những hình mẫu in đậm dấu ấn thời đại có tác động không nhỏ. Như
Nguyễn Thu Giang [16] đã chỉ ra, các thần tượng, người nổi tiếng có chức năng lấp
đầy sự thiếu hụt giao tiếp liên cá nhân trong bối cảnh đô thị hóa, chức năng cung
93
cấp căn tính văn hoá mới và chức năng củng cố ý thức hệ31. Trong quá trình loay
hoay tìm kiếm phương thức định vị bản thân giữa bối cảnh xã hội đầy biến động,
giới trẻ Việt Nam tìm đến các thần tượng như những hình mẫu, đồng thời như một
điểm tựa tinh thần.
4.1.2.1. Thần tượng như một hình mẫu
“Giống như hâm mộ một thần tượng, hẳn là vì thần tượng đã dạy cho bạn những
điều mà trước đây bạn không hiểu, những phẩm chất toả sáng lấp lánh trên người họ
cũng là những thứ bạn mong muốn sở hữu. Bạn muốn ấm áp hơn nên bạn thích những
người ấm áp, bạn muốn tin vào mơ ước nên bạn nghe những ca khúc nói về ước mơ,
bạn muốn trở nên mạnh mẽ, nên bạn thích những người mạnh mẽ mà nỗ lực. Với thần
tượng, cách tốt nhất để hâm mộ không phải là phát cuồng vì họ mà là để người khác
biết, người hâm mộ họ cũng là những người biết nỗ lực” (Lư Tư Hạo) [21, tr. 45]. Đây
là câu nói được rất nhiều fan K-Pop chia sẻ trên các fanpage gần đây. Theo họ, thần
tượng là hình mẫu có thể giúp người hâm mộ nhận ra rõ ràng hơn những gì họ muốn
hướng đến. Trưởng một FC Sơn Tùng tại Hà Nội cho biết lí do mình thích ca sĩ này là
bởi vì “không chỉ tài năng mà còn vì đời tư cực kì sạch sẽ, kín tiếng, lành tính không
thích nói nhiều nhưng hành động quyết liệt. Thêm nữa là dù giàu có vẫn chung thuỷ
(giống mình). Ngày xưa hay bây giờ, mình đều hâm mộ rất nhiều người tài nhưng nếu
đời tư có “vết” thì mình không bao giờ support”.
Ngoài việc coi thần tượng là hình mẫu về tính cách, lối sống, người hâm mộ
còn có xu hướng bắt chước thần tượng bằng cách sao chép cách ăn mặc, kiểu tóc,
cách ứng xử, giọng nói, và bất kỳ mô hình hành vi xã hội nào khác để đạt được sự
gần gũi hơn với thần tượng của họ. Người hâm mộ không ngần ngại tiêu thụ những
sản phẩm liên quan đến thần tượng bởi chúng đã “được chứng thực bởi danh tiếng
của thần tượng” (Huang, Phau) [121].
Xu hướng dễ bắt chước, theo đuổi, hướng tới hình mẫu của thần tượng ở giới
trẻ cũng là một trong những lí do khiến các ngôi sao trở nên đắt giá với các nhà sản
xuất, các nhãn hàng. Các fan của Sơn Tùng từng phát sốt với kiểu mũ đội đầu, kiểu
đeo túi chéo trước ngực, kiểu tóc, các mẫu giày và quần áo, thậm chí cả hình xăm
của ca sĩ này. My - một fan cứng của Sơn Tùng - như đã nhắc đến ở 3.1. cho biết
31 Ý thức hệ hay hệ tư tưởng là một tập hợp các niềm tin, ý tưởng hoặc triết lý được gán cho một người hoặc một nhóm người (Nguyễn Thu Giang 2011).
các hình xăm trên tay của My giống hệt từ kiểu dáng đến vị trí của Sơn Tùng. Các
94
fan của Lisa (nhóm Blackpink) cũng từng học theo kiểu tóc mái búp bê hay kiểu
mặc áo crop-top kết hợp quần jean ống rộng của cô ấy. Những sự theo đuổi phong
cách này tạo cho giới trẻ cảm giác về sự trẻ trung, năng động, sành điệu, hợp thời.
Trong nội bộ một nhóm FC, rất dễ nhìn ra những kiểu cách ăn mặc giống hệt nhau.
Ví dụ các fan của Sơn Tùng mua giày Biti’s Hunter, dùng điện thoại Oppo; fan của
BTS tìm mua áo Fila... Điều này có thể lí giải qua sự tiêu thụ những sản phẩm hàng
hóa để giống với thần tượng. Thói quen này góp phần hình thành ý tưởng về gu
khác biệt trong giải trí, tiêu dùng và phong cách cá nhân người hâm mộ.
Việc bắt chước một hình mẫu đã được đông đảo mọi người chấp nhận còn
giúp giới trẻ gia tăng sự tự tin cho quá trình thử nghiệm những phong cách mới của
mình. Quá trình thử nghiệm này còn diễn ra ở việc tìm tòi đam mê, tìm kiếm năng
lực cá nhân và tìm đường cho tương lai của giới trẻ. Đây là quá trình quan trọng
giúp giới trẻ có thể nhận biết căn tính nào phù hợp nhất với mình khi chuyển tiếp từ
trẻ con sang người lớn.
Những người hâm mộ trẻ tuổi xem xét một thần tượng nổi tiếng như là hình
ảnh tự tưởng tượng của họ. Những người hâm mộ muốn phát triển hoặc tinh lọc các
đặc điểm nhân cách tương tự như thần tượng của họ. Giới trẻ cho thấy họ muốn
thay đổi ngoại hình, khả năng, giá trị và thái độ để bắt chước những người là thần
tượng của họ (Chan) [85, tr. 80]. Những ngôi sao, người nổi tiếng dần được coi là
những người dẫn đầu, định hướng phong cách sống cho công chúng, đặc biệt là giới
trẻ, những người dễ chịu ảnh hưởng từ những hình mẫu nổi bật trên truyền thông.
Người hâm mộ đã lựa chọn để làm nổi bật những căn tính nhất định ở thần
tượng như một cách thức xây dựng một hình mẫu lí tưởng - một tuyên ngôn ngầm
về những phẩm chất mà họ hướng đến, họ tự hào như là có mình trong đó, chỉ khác
là thần tượng của họ thì tài năng, thành công và nổi tiếng hơn. Do vậy, thần tượng
là kết quả của những hình ảnh được lí tưởng hóa bởi truyền thông, nhưng đôi khi
cũng bởi chính những người hâm mộ trẻ - những người luôn ngưỡng mộ những
phẩm chất ở thần tượng mà họ cho rằng họ còn khuyết thiếu hoặc mơ ước vươn tới.
Em còn nhớ lúc 16 tuổi, đêm nào em cũng phải chịu áp lực về việc học và việc bố
mẹ thúc ép về việc phải thi vào trường chuyên. Lúc đó tâm trạng rơi vào khủng
hoảng, em còn có suy nghĩ là tự tìm đến cái chết. Trong đầu suy nghĩ chắc chả ai
phải chịu sức ép đó lớn hơn mình đâu. Và một hôm đang học thì em có nghe thấy
4.1.2.2. Thần tượng như một điểm tựa tinh thần
95
ở quán cà fe gần nhà mở nhạc của Tùng, không hiểu đó là trùng hợp hay định
mệnh sắp đặt mà câu hát em nghe được lại là “Đừng nhìn lại nhé để muộn phiền ở
lại nhé”. Câu hát đó cứ văng vẳng bên tai cho đến lúc em về đến nhà, hôm đó em
đã lục lọi trên mạng và biết được người hát bài đó là Sơn Tùng. Tìm hiểu sâu hơn
về anh qua chương trình Lần đầu tôi kể, em nhận ra sự chèn ép mà em phải chịu
đâu bằng anh. Lúc đó em đặt ra câu hỏi anh cũng là con người, mình cũng là con
người mà sao mình lại không thể đứng lên giống anh được? Và từ ngày đó, em tìm
hiểu về anh và thường xuyên nghe nhạc của anh, thì cuộc sống của em đã rất
khác. Không còn những nỗi sợ, áp lực từ gia đình, từ việc học và quan trọng nhất
là em tìm được con đường riêng cho mình, giống như cách anh đã tìm đường đến
với những khán giả khó tính. Thật sự cảm ơn anh - người đã mang đến cho em
động lực vượt qua tất cả nỗi sợ đó. Cảm ơn Thanh xuân của em (fan nữ 18 tuổi,
trích từ Sky Confessions).
Với những bạn trẻ còn đang ở độ tuổi học sinh, khi tâm lí chưa phát triển
hoàn thiện, lại thường xuyên phải đối mặt với những lo lắng từ áp lực học hành, các
thần tượng xa xôi không chỉ là một gương mặt đẹp, một giọng hát đẹp, một body
quyến rũ mà còn là một nơi để tâm tình, thậm chí để giải toả những căng thẳng.
Quay lại với My - một “fan sân bay” và là một fan luôn sẵn sàng chi tiền vì
thần tượng mà tôi đã nhắc đến ở phần viết trước. My là một học sinh năm cuối
Trung học phổ thông, trong một gia đình có bố là giảng viên một trường Đại học
còn mẹ kinh doanh cà phê tại nhà. Ngoại hình hơi tròn trịa và không có tài năng gì
nổi bật, My khá mặc cảm, em ít nói và nhút nhát khi ở trường. Cuộc sống của My
chỉ quanh quẩn từ nhà đến trường, tẻ nhạt, nhiều lần chán nản, My cũng không biết
tâm sự cùng ai vì bố mẹ em đã quá bận rộn với việc kiếm tiền. Vào năm 13 tuổi, My
tình cờ nghe được ca khúc “Em của ngày hôm qua” của Sơn Tùng, em bắt đầu tìm
hiểu sâu hơn về ca sĩ này. Chứng kiến sự nỗ lực của Sơn Tùng, My trở thành một
người hâm mộ cuồng nhiệt từ lúc nào không hay. Nhờ Sơn Tùng mà cuộc sống của
My có thêm nhiều sắc màu rực rỡ. My nhìn thấy ở Sơn Tùng sự đam mê và khả
năng dấn thân, dám liều lĩnh thử thách bản thân và kiên định với lựa chọn của mình.
Sau khi thử qua một số việc làm thêm như bán hàng online, My tự phát hiện ra được
“tài lẻ” của mình đó là làm bánh. Với lực học không tốt, My cũng ít khi tâm sự với
bố mẹ nhưng nhận thấy mình không thể thi đỗ Đại học, My thử tìm cách thuyết
phục bố mẹ về việc đi học nghề. Với mẹ thì dễ hơn, còn bố My - một giảng viên đại
96
học, điều này không dễ được chấp nhận, bố My đã từng giận dữ tuyên bố “không
học thì chết đói, có giỏi thì tự kiếm tiền mà nuôi thân”. My quyết định không đi học
thêm mà ngoài giờ học, My tự mày mò làm các loại bánh và bán online, dần dần,
lượng khách mua bánh quen thuộc dần đông hơn, có lúc lượng người follow
facebook bán hàng của My lên tới 9000 người. Việc bán bánh này là cách để My
chứng minh với bố mẹ rằng ai cũng có khả năng riêng và không nên cố ép bản thân
theo những con đường truyền thống. Bố mẹ đã chấp nhận để My đi học làm bánh
ngay sau khi kết thúc kì thi Phổ thông quốc gia. Vì vậy, với My, Sơn Tùng không
chỉ là một ca sĩ đẹp trai, hát hay, sáng tác giỏi và sớm nổi tiếng, mà còn là một tấm
gương về việc tìm kiếm và kiên trì theo đuổi đam mê riêng.
Không giống như My, từ bé đến lớn, Dũng luôn được bố mẹ bao bọc và đầu
tư rất nhiều cho việc học. Vì vậy, cậu từng rất áp lực về chuyện học hành, thi cử để
làm đẹp mặt bố mẹ. Dũng từng muốn “trở thành cầu thủ bóng đá” nhưng ý tưởng
này đã bị bố cậu chê là “viển vông và nhố nhăng”, “không ổn định”, Dũng đành thi
đại học theo ý muốn của bố mẹ. Lúc ấy, bản thân Dũng cũng hoang mang, chưa xác
định rõ mình nên theo nghề gì. Dù học xong đại học, từng cầm bằng đi xin việc và
làm nhân viên văn phòng ở vài công ty, nhưng Dũng cảm thấy thực sự tù túng trong
không gian bốn bức tường, hết giờ thì về, vô vị và tẻ nhạt. Hai năm sau khi ra
trường, Dũng vẫn loay hoay không biết mình muốn gì: tiếp tục công việc mà cậu
không thấy hứng thú hay thử sức theo đuổi đam mê thể thao xưa kia, dù sao cậu
cũng đã hoàn thành tâm nguyện của bố mẹ và tròn vai một “người con ngoan”. Khi
đọc được những tâm sự trong tự truyện Chạm đến giấc mơ của Sơn Tùng: “Ngay cả
ước mơ cũng không dám thì bạn sẽ chẳng làm được gì cả”, Dũng đã quyết định từ
bỏ công việc ổn định hiện tại để tham gia khoá học trở thành một huấn luyện viên
thể hình theo đúng sở trường và ước mơ của mình.
Với những người như My, Dũng, quá trình vươn đến thành công của thần
tượng như là động lực thúc đẩy những đam mê và sáng tạo, là “người truyền cảm
hứng” cho họ. Các fan cũng nhiều lần chia sẻ câu chuyện mà Sơn Tùng trải qua
Anh ấy từng thổ lộ rằng anh ấy muốn làm những điều khác biệt, thà bị ghét hay bị
như thế nào đi chăng nữa, nhưng anh ấy sẽ luôn thoả mãn vì đã làm những điều
khác biệt, không muốn bước trên một bước đi quá an toàn... Khi ấy anh ấy 22 tuổi,
anh ấy nói rằng đến lúc 23, 24 tuổi, nếu không tự mình trải nghiệm, tự mình vấp
trong quãng thời gian “tìm hướng đi cho tương lai” của mình:
97
ngã thì anh ấy sẽ không thể nào mà đạt được ước mơ của mình. Anh ấy cũng
nhiều lần nói với fan rằng “Cứ đi rồi sẽ đến. Nếu không đi thì sẽ không bao giờ có
thể biết được mình sẽ đi được đến đâu” (My, 18 tuổi).
Những người hâm mộ đã lấy sự nỗ lực và thành công của Sơn Tùng như một
“tấm gương” soi cho chính mình. Họ học được ở Sơn Tùng tinh thần dám đương
đầu với những khó khăn, thậm chí cả những chỉ trích của dư luận. Khi những câu
hát đầy tính phá cách của ca khúc “Không phải dạng vừa đâu” hay “Remember me”
vang lên đã lập tức thu hút và làm giới trẻ phát cuồng, không chỉ bởi ca từ lạ mà còn
như là tuyên ngôn về việc khẳng định cái tôi cá nhân của họ: Người ta soi mói bạn
đến từng phút giây. Xung quanh bốn phương ôi sao mỗi tôi khác biệt. Ờ thì tôi đang
sống cuộc sống của tôi mà thôi... Một điều tôi kiếm tìm, một loài hoa khác biệt, mùi
hương chẳng giống theo một ai, tôi là tôi, ai là ai, tôi mặc kệ thôi... Tôi không phải
dạng vừa đâu (Lời bài hát Không phải dạng vừa đâu của Sơn Tùng M-TP). “Không
phải dạng vừa đâu” đã trở thành một câu cửa miệng quen thuộc của giới trẻ suốt từ
lúc bài hát này xuất hiện cho đến nay.
Quay lại câu chuyện của Hằng (như đã nhắc đến ở mục 3.2), mới đây, khi gặp
lại Hằng trong buổi công chiếu bộ phim Sky tour movie của Sơn Tùng, Hằng chủ động
rủ tôi chụp ảnh cùng và khoe rằng sắp nghỉ làm ở siêu thị để mở một cửa hàng riêng
chuyên bán các sản phẩm thân thiện với môi trường, đúng với ước mơ bấy lâu của
Hằng. Hằng nói “Tùng đã thành công khi miệt mài theo đuổi đam mê của mình, em
cũng sẽ học theo sự kiên trì của anh ấy, em sẽ thử sức mình một lần”. Với những bạn
gái từng rụt rè và sợ thất bại như Hằng, quyết định này quả thực không dễ dàng, nhưng
chính việc “tiêu thụ ý nghĩa” về sự kiên trì theo đuổi đam mê của thần tượng đã giúp
Hằng có đủ tự tin để lựa chọn làm những thứ mình yêu thích.
Họ cũng học được ở Sơn Tùng cách tìm kiếm và khám phá năng lực bản
thân, nuôi dưỡng ước mơ của mình, cách kiềm chế cảm xúc trước những lời châm
chọc của bạn bè ngoài đời hay trên mạng xã hội qua những lần vượt qua scandal của
Đã có lúc em cảm thấy mình hết hi vọng, hoàn toàn thất vọng về bản thân, cảm
thấy mình kém cỏi. Giữa những ngày tháng dài giam mình trong phòng và khóc,
em nghĩ đến câu chuyện của Tùng từ khi 17 tuổi, 18 tuổi khi bị chỉ trích vì nghi án
đạo nhạc, có lúc anh ấy mệt mỏi đến độ từng nghĩ đến việc tự tử, em cũng từng
trải qua cảm giác của một kẻ thất bại và cũng từng nghĩ quẩn, nhưng sau đó Tùng
Tùng. Một bạn gái từng trượt đại học năm đầu tâm sự:
98
vượt qua được và đạt được thành công như hiện nay, em thấy tại sao mình hèn
nhát quá. Chính Tùng đã vực em dậy. Suốt những ngày tháng ôn thi lại, Tùng là
bạn đồng hành, là người tiếp sức cho em. Lúc ấy, mong muốn được gặp Tùng là
động lực để em cố gắng thi đỗ Đại học (PV 10/ 2017).
Những người trẻ như đã nói trên đây đều muốn có một “điểm tựa về tinh thần”
và thần tượng chính là những người xuất hiện đúng lúc và vun đắp cho họ ý thức
khám phá năng lực, sở thích, đam mê, sự nỗ lực của bản thân. Xin nói thêm về
trường hợp của My, My là con gái trong gia đình có bố là Phó giáo sư nhưng bạn trẻ
này đã quyết định không thi đại học để theo đuổi năng khiếu và đam mê làm bánh;
chính Sơn Tùng M-TP là chỗ dựa về tinh thần để My nhận thức về bản thân, thêm
hi vọng vào tương lai và sự lựa chọn của mình. Đây có lẽ là lí do khiến My là một
trong những fan cuồng nhiệt nhất, luôn tiêu thụ thần tượng ở bất cứ đâu, với bất cứ
sản phẩm nào (như đã trình bày ở mục 3.3.).
Các ngôi sao giải trí hiện nay thành công ở độ tuổi rất trẻ và điều này được coi
là “truyền cảm hứng mạnh mẽ” tới giới trẻ - những người hâm mộ của họ - những
người đang trong giai đoạn loay hoay tìm kiếm hướng đi cho tương lai của chính
mình, những người đang muốn dấn bước nhưng vẫn còn chút e dè, ngập ngừng vì
sợ sai lầm, thất bại, sợ bị phán xét bởi những người lớn. Trước sự kì thị và định kiến
của những thế hệ lớn hơn, người hâm mộ trẻ đã “sử dụng hình ảnh của thần tượng
như là một hình ảnh phương tiện để phục vụ cho việc xây dựng bản sắc cá nhân và
bản sắc nhóm của họ” (Ka Ki Cheung ) [89, tr. 4].
4.2. Những phương thức kiến tạo căn tính của người hâm mộ trẻ
Từ việc coi thực hành văn hoá như một cách tạo nghĩa, chúng tôi lập luận rằng
những diễn giải về thần tượng của người hâm mộ cũng đồng thời là một sự phản chiếu
về chính cá nhân họ; những cảm xúc, ý nghĩa mà cộng đồng người hâm mộ chia sẻ
cũng chính là cách thức để họ khám phá và tạo dựng căn tính. Ở phần này, chúng tôi sẽ
chỉ ra những phương thức kiến tạo căn tính của giới trẻ thông qua thực hành hâm mộ
thần tượng của họ theo hai khía cạnh: căn tính cá nhân và căn tính nhóm.
4.2.1. Giải mã thần tượng: sự phản chiếu cá nhân
Như đã nêu ở chương 1, theo quan niệm thực hành văn hóa như một quá trình tạo
nghĩa và bản sắc là một quá trình kiến tạo văn hóa - xã hội, chúng tôi cho rằng quá
trình “cấp nghĩa” cho thần tượng cũng như cấp nghĩa cho các thực hành của cá nhân và
nhóm hâm mộ chính là quá trình giới trẻ kiến tạo căn tính của mình. Giải mã thần
99
tượng thực chất chính là quá trình mà người hâm mộ trẻ khám phá những căn tính phù
hợp, cũng là hành trình mà họ kiến tạo căn tính của chính bản thân mình.
Những loại thông điệp mà người nổi tiếng cung cấp cho công chúng đều
xoay quanh những dạng thức định vị căn tính cá nhân, sự khác biệt xã hội và
tính phổ quát trong các kiểu mẫu nhân cách. Người nổi tiếng tái trình hiện
lại một vị trí chủ thể (subject position) mà công chúng có thể sử dụng hoặc
phỏng theo quá trình hình thành căn tính xã hội của mình (Marshall 1997:
25, dẫn theo Nguyễn Thu Giang) [16, tr. 159].
Theo lí thuyết về tái trình hiện (representation) (Hall) [115, tr. 1-2)32, những
thứ chúng ta nhìn thấy chỉ là sự tái trình hiện về nó chứ không thực sự là nó. Một
thần tượng trong mắt và tâm trí công chúng cũng như người hâm mộ thực ra là
những hình ảnh đã được kiến tạo, được tái trình hiện theo những cách khác nhau
của từng cá nhân khác nhau. Thần tượng trong mỗi người không giống nhau, không
trùng lặp nhau là do họ có những cách “giải mã” hình ảnh về thần tượng và kiến tạo
thần tượng khác nhau, tùy thuộc vào cảm xúc, nhận thức và hoàn cảnh riêng của họ
(Kozinets) [135]. Tuy nhiên, do cùng chia sẻ một niềm tin chung, một tình cảm yêu
mến chung và một số bản sắc (phẩm chất) được hướng tới chung ở người hâm mộ
mà thần tượng của một nhóm fan sẽ có những phẩm chất, đặc điểm chung nhất
định. Bản thân các ngôi sao cũng thử những cách “tái trình hiện” khác nhau để lựa
chọn được một “tái trình hiện” - một phong cách cá nhân phù hợp nhất, mang tính
visual (hiệu quả, hiệu ứng tốt) và theo họ là thu hút khán giả nhất. Do vậy, có lúc
công chúng thấy họ sexy, cá tính, lúc lại thấy họ theo phong cách cổ điển, có lúc lại
gần gũi, trẻ trung; mỗi giai đoạn, họ sẽ xây dựng một phong cách và hình ảnh khác
nhau, theo những chiến lược phát triển bản thân và sự nghiệp nhất định. Hình ảnh
các thần tượng xuất hiện trên truyền thông (đa số người hâm mộ chỉ nhìn thấy các
thần tượng trên các phương tiện hay các sự kiện truyền thông) là hình ảnh đã được
mã hóa (code) theo những mục đích, chiến lược, cách thức khác nhau của những
“sản phẩm” truyền thông khác nhau. Việc có thể đọc và giải mã các hình ảnh/ sự tái
32 Theo Stuart Hall, những người thuộc cùng một nền văn hóa phải chia sẻ một bản đồ khái niệm tương tự và cùng một cách giải thích các dấu hiệu của một ngôn ngữ để ý nghĩa có thể được trao đổi một cách hiệu quả. Sự tái trình hiện có một vị trí quan trọng trong nghiên cứu văn hóa vì nó kết nối ý nghĩa và ngôn ngữ với văn hóa.
Sự tái trình hiện có nghĩa là sử dụng ngôn ngữ để đại diện hoặc nói điều gì đó về thế giới một cách có ý nghĩa. Theo Stuart Hall, đó là một phần thiết yếu của quá trình sản xuất và trao đổi ý nghĩa giữa các thành viên của một nền văn hóa (Hall 1997).
trình hiện (representation) đó như thế nào tùy thuộc vào năng lực, tri thức, thị hiếu,
100
thẩm mỹ, địa vị xã hội... của mỗi người hâm mộ. Việc “giải mã” thần tượng từ các
fan của Sơn Tùng M-TP cho thấy điều này.
Sơn Tùng được cộng đồng fan đánh giá là một nghệ sĩ giải trí tài năng. Mặc
dù mới chỉ xuất hiện 8 năm nay và sáng tác không quá nhiều nhưng Sơn Tùng được
coi là ca sĩ hàng đầu trong làng nhạc Việt. Thời gian đầu, các ca khúc mang đậm
màu sắc K-Pop của nam ca sĩ này đã chạm đúng thị hiếu của các khán giả trẻ lúc
này khi âm nhạc K-Pop đang lan rộng trong đời sống giới trẻ Việt Nam. Kết hợp
giữa âm nhạc và vũ đạo, những màn biểu diễn của Sơn Tùng thu hút số đông khán
giả. Sơn Tùng như một phiên bản hoàn hảo của các ca sĩ thần tượng Hàn Quốc: vừa
biết sáng tác vừa biết hát, lại biết truyền thông cho hình ảnh của mình, biết kết nối
hiệu quả với các fan. Không dừng lại ở việc tự thỏa mãn với thành công nhanh
chóng của mình và chiều theo thị hiếu thích nghe nhạc Pop ballad của đa số khán
giả trong nước, ca sĩ này lại chịu khó cập nhật rất nhanh những trào lưu âm nhạc
thịnh hành trên thế giới để mang đến những làn gió mới cho khán giả Việt. Do vậy,
các bài hát của Sơn Tùng luôn rất mới mẻ, bắt tai người nghe về mặt giai điệu, còn
ca từ lại rất gần gũi, dễ thuộc. Thêm vào đó, Sơn Tùng còn được đánh giá là ngôi
sao có ngoại hình đẹp và gu thời trang khác biệt - một yếu tố quan trọng để hút fan
ở những ca sĩ thần tượng hiện nay. Những phong cách thời trang (mũ, áo, giày, kiểu
tóc, hoa tai, những hình xăm), cách ứng xử với truyền thông, cách giao lưu với
fan... của Sơn Tùng đã luôn nhận được sự khen ngợi từ người hâm mộ. Sơn Tùng
xuất hiện với phong cách vừa ngông nghênh, phá cách, vừa hồn nhiên, tươi trẻ đã
thổi một làn gió mới, đầy hứng khởi đến nền âm nhạc Việt Nam sau một thời gian
dài ảm đạm. Các fan của Sơn Tùng “diễn giải” về sự thành công của ca sĩ này như
là kết quả của một sự học hỏi, một sự “lai ghép văn hóa” thành công. Vẫn là âm
nhạc và vũ đạo và phong cách ảnh hưởng từ Mỹ, Hàn nhưng Sơn Tùng là sản phẩm
“made in Việt Nam”. Trong chất liệu âm nhạc và chiến lược tạo dựng hình ảnh của
ca sĩ này vẫn chứa những yếu tố đậm chất Việt Nam, cho nên tạo cảm giác vừa lạ
vừa quen đối với khán giả.
Người hâm mộ còn nhìn thấy ở Sơn Tùng hình ảnh của một doanh nhân trẻ
thành đạt. Năm 2017, Sơn Tùng rời Wepro - công ty giải trí của Nguyễn Quang
Huy để thành lập công ty giải trí M-TP Entertainment do chính mình làm chủ tịch.
Các fan tự hào khi gọi Sơn Tùng là chairman (chủ tịch) và liên tục ca ngợi sự bứt
phá này của thần tượng. Cái mà người hâm mộ quan tâm bây giờ ở ca sĩ này không
101
chỉ là các ca khúc, các MV mà còn cả các dự án mà công ty Sơn Tùng hợp tác với
các đối tác khác. Họ like, share các bức ảnh, video nhằm xây dựng hình tượng Sơn
Tùng giống hình tượng của các nhân vật tổng tài “bên ngoài đẹp trai, bên trong
nhiều tiền” trong các truyện ngôn tình mà giới trẻ gần đây ưa thích.
Theo những người hâm mộ Sơn Tùng, một ngôi sao được tôn vinh là thần
tượng không chỉ là người có tài năng, phong cách mà còn là người có phẩm chất và
tính cách tốt. Đối với các fan, Sơn Tùng là một người công dân tốt, một người đề
cao giá trị của gia đình (hiếu thảo), một người trẻ lễ độ và cư xử đúng mực... Các
fan thường chia sẻ video Sơn Tùng nói về lòng yêu nước và sẵn sàng đứng lên khi
tổ quốc cần: “Tùng từng là người mạnh mẽ phản đối “đường lưỡi bò” của Trung
Quốc, không né tránh như một số ngôi sao khác vì sợ mất fan là người nước này”.
Các fan cũng ngưỡng mộ việc Sơn Tùng thường xuyên thể hiện tình cảm với bố mẹ
và em trai của mình; những chuyến du lịch cùng gia đình, những bữa tiệc nhỏ với
đầy đủ 4 thành viên của gia đình Sơn Tùng luôn nhận được sự chú ý của cộng đồng
fan hâm mộ. Sơn Tùng trong mắt fan là người cư xử đúng mực, lễ độ với tiền bối
hoặc đồng nghiệp: “Trên sân khấu, Tùng có thể là một ông hoàng, nhưng khi bước
xuống, Tùng chỉ là một người bình thường mà thôi”.
Sự nghiêm túc và chín chắn khi làm nghề cũng như khi giao tiếp, ứng xử của
Sơn Tùng đã chinh phục được cả những fan lớn tuổi (50-70 tuổi). Khánh (32 tuổi,
trưởng nhóm của một FC rất đông fan lớn tuổi) cho rằng những người hâm mộ lớn
tuổi hơn yêu quý Sơn Tùng vì sự chỉn chu, cầu toàn, chỉ tập trung vào việc của
mình: “sự chỉn chu trong tất cả sản phẩm mà Tùng làm ra, vì nhân cách, tấm lòng,
hành động của Tùng. Sơn Tùng chưa bao giờ phụ lại niềm tin mà Sky dành cho cậu.
Ở làng giải trí mà con người dễ dàng hạ thấp nhau, quá nhiều cám dỗ và chiêu trò,
Sơn Tùng chưa bao giờ chịu gục ngã, từ bỏ hay buông thả, luôn nỗ lực làm tròn vai
trò của một người nghệ sĩ với âm nhạc, với người hâm mộ, với đam mê thì chẳng có
lí do gì để những người đã yêu thương Tùng để mất đi niềm tin cả” hay “Cá tính
của Tùng là khi hát lên khán giả đều biết nhạc này của ai. Cá tính là chỉ tập trung
việc mình làm, hướng tới tư duy sáng tạo, không so sánh, sân si với các đồng
nghiệp khác. Ấy mới là nét riêng chuyên nghiệp, là cá tính khác biệt còn thiếu nhất
hiện nay của cả showbiz Việt”. Có thể nói, sự “diễn giải” này của Khánh về Sơn
Tùng cũng chính là sự thể hiện những tính cách, phẩm chất và cá tính mà Khánh ưa
102
chuộng. Vì tìm thấy sự tương đồng nên Khánh mới yêu thích, ngưỡng mộ Tùng
theo kiểu “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.
Đặc biệt, nhiều bạn trẻ cho rằng, phẩm chất đáng học tập nhất của Sơn Tùng
là luôn im lặng, kín tiếng, lấy sản phẩm và nỗ lực để khẳng định bản thân và đập
tan mọi nghi ngờ của dư luận. Những năm mới bước chân vào showbiz, khi bắt đầu
nổi tiếng cũng là lúc giông bão ập đến với Sơn Tùng bằng một loạt scandal về nghi
án đạo nhạc Hàn Quốc, thậm chí phong cách biểu diễn cũng bị coi là bắt chước một
ca sĩ nổi tiếng của Hàn. Giữa lúc ấy, chỉ có fan bức xúc bênh vực, còn Sơn Tùng chỉ
im lặng, không lên tiếng thanh minh, cũng không lên mạng than thở, kể khổ mà
lặng lẽ vượt qua dư luận, tiếp tục sáng tác ra những ca khúc hay và biết cách làm
cho chúng nổi đình nổi đám cả làng nhạc Việt, dần tự khẳng định vị trí và tài năng
của mình, đúng như Sơn Tùng từng chia sẻ: “Muốn ngồi ở vị trí không ai ngồi được
thì phải chịu được cảm giác không ai chịu được”. Trong show diễn Skytour tổ chức
tại Hà Nội, trước đông đảo người hâm mộ, khi được hỏi “tại sao lại chọn cách im
lặng?”, Sơn Tùng đã trả lời fan rằng: “im lặng hành động và tạo ra được những sản
phẩm chất lượng là cách tốt nhất để khẳng định bản thân và đập tan những tin đồn”
(Tư liệu quan sát tham dự 17/8/2019). Như vậy, trong rất nhiều lí do để các fan yêu
thích Sơn Tùng nhưng những nét nổi bật về phẩm chất và tính cách của ca sĩ này
mới là điều khiến họ hâm mộ cuồng nhiệt và lâu dài.
Sơn Tùng còn là một ca sĩ trẻ dám nghĩ dám làm khi nỗ lực mang âm nhạc
Việt Nam vươn ra thế giới, bằng cách hợp tác với những nghệ sĩ nổi tiếng nước
ngoài như Mai Davika - diễn viên nữ Thái Lan đóng trong MV Chạy ngay đi (2018)
hay Snoop Dog - huyền thoại nhạc Rap của Mỹ trong MV Hãy trao cho anh (2019).
Đối với người hâm mộ, Sơn Tùng là một điển hình cho việc thâm nhập thành công
vào quá trình toàn cầu hóa, là cầu nối giữa Việt Nam và thế giới. Đặc biệt, với tham
vọng đứng trên sân khấu Mỹ hát bằng tiếng Anh, tiếng Việt (đánh dấu bằng việc kết
hợp với huyền thoại nhạc Rap của Mỹ trong MV Hãy trao cho anh), Sơn Tùng trở
thành một thần tượng có thể truyền tải tâm thức vươn ra ngoài thế giới của giới trẻ.
Đến nay, qua các sản phẩm âm nhạc như Lạc trôi, Nơi này có anh, Chạy ngay đi và
nhất là Hãy trao cho anh mới đây, rất nhiều người ở các quốc gia, các châu lục khác
nhau trên thế giới trở thành người hâm mộ của Tùng. Dám mơ lớn, đi ra khỏi vùng
an toàn, luôn tìm kiếm và thử nghiệm những thứ mới mẻ, không lặp lại mình, bắt kịp
“trend” thế giới, viết tên Vpop trên bản đồ âm nhạc thế giới... là những từ ngữ mà
103
các fan lặp đi lặp lại gần đây khi nói về Sơn Tùng cho thấy những “phẩm chất” mà
họ “gán” cho thần tượng này là một sự phản ánh những khát khao, mong muốn của
chính họ, với những điều mà họ cho là có ý nghĩa, giá trị trong bối cảnh hiện nay.
Tất cả những sự “giải mã” trên đã tạo nên một Sơn Tùng hoàn hảo trong mắt
những người hâm mộ. Những “mã” này ở Sơn Tùng đã được nhắc đi nhắc lại và tô
đậm hơn trở thành những căn tính rõ nét để khán giả nhận ra và phân biệt Sơn Tùng
với những nghệ sĩ khác. Giờ đây, trong showbiz Việt, Sơn Tùng đã trở thành một
biểu tượng: biểu tượng của một thế hệ nghệ sĩ trẻ tài năng, của thế hệ người trẻ Việt
dám khác biệt, dám nghĩ dám làm, của sự lai ghép giữa truyền thống và hiện đại,
toàn cầu... Việc hâm mộ Sơn Tùng M-TP ảnh hưởng không nhỏ đến tính cách, quan
điểm của cá nhân người hâm mộ. Nó không chỉ phản chiếu những trăn trở mà còn
phản chiếu những mong muốn, khát khao, nỗ lực của giới trẻ trong quá trình tìm
kiếm căn tính và hướng đi cho tương lai của chính mình.
Trong quá trình giải mã thần tượng, các fan đã chủ động kiến tạo và lựa chọn
những “phẩm chất” mà họ cho là có lợi nhất cho thần tượng yêu thích của mình.
Việc họ nhấn mạnh và tập trung làm nổi bật và cố tình “phớt lờ” một số đặc điểm
nào đó về thần tượng rõ ràng thể hiện sự chủ động và chiến lược của họ. Chẳng hạn
fan của Hồ Ngọc Hà tập trung sự chú ý vào nghị lực, bản lĩnh, sự thông minh và
thần thái của ca sĩ này và “làm mờ” đi những thông tin đồn thổi xung quanh đời tư
của cô. Hay fan của Chi Pu thường đề cao sự cố gắng, phong cách biến hóa đa dạng
và tính “giải trí” cao trong cách sản phẩm của ca sĩ này để “làm mờ” đi việc anti-fan
thường chê trách về chất giọng và khả năng ca hát của cô. Theo quan sát của tôi ở
một số FC Sơn Tùng, có những fan tuyên bố trở thành anti-fan trước thái độ im lặng
của ca sĩ này khi gặp phải scandal trên truyền thông, có một số fan vẫn đang cố
gắng bảo vệ và ủng hộ idol trước làn sóng tẩy chay, công kích, có những người tạm
thời hướng sự chú ý đến những thần tượng khác của họ... Gần đây nhất, fan của Sơn
Tùng đã kêu gọi nhau “share” những hình ảnh thể hiện tình cảm với gia đình, bạn
bè của ca sĩ này như một chiến thuật “đánh lạc hướng” cộng đồng mạng với hi vọng
để scandal về cả chuyện tình cảm và nghi án đạo nhạc... của ca sĩ này lắng xuống
theo thời gian.
Đối lập với sự diễn giải của các fan là sự diễn giải của các anti-fan về ngôi
sao mà họ ghét. Ví dụ, trước nghi án đạo nhạc và tin đồn phản bội bạn gái đã gắn bó
suốt 8 năm của Sơn Tùng mới đây, các anti-fan đã không ngớt lời phê phán, thậm
104
chí tẩy chay Sơn Tùng bằng nhiều hình thức bởi theo họ, đạo nhạc là tối kị với một
nghệ sĩ và phản bội người yêu là điều tồi tệ, đáng bị lên án và “anti”. Điều này cho
thấy cách diễn giải của họ về ca sĩ này trái ngược hoàn toàn với cách diễn giải của
các fan. Như đã nói ở 3.1., khi hình tượng idol sụp đổ, các fan rất dễ trở thành
antifan. Khi hình ảnh của thần tượng trên truyền thông không đáp ứng được các
“mã”/ ý nghĩa mà các fan muốn gán cho, thần tượng đó có thể bị fan quay lưng,
thậm chí tẩy chay là điều dễ hiểu.
Ngoài “giải mã” dựa trên những hình ảnh sẵn có của thần tượng, các fan còn
tích cực, chủ động đề xuất những mong muốn của mình với thần tượng. Khái niệm
“fan service” mà cộng đồng fan thường nhắc đến (như đã nói ở chương 3) để nói về
điều này. Chẳng hạn các fan chia sẻ ảnh ghép Sơn Tùng vào body “sáu múi” bởi họ
muốn thần tượng của mình ngoài việc có khuôn mặt đẹp trai, thư sinh, còn phải có
một cơ thể khỏe mạnh, săn chắc, cơ bắp, lực lưỡng hơn. Rõ ràng thị hiếu và suy
nghĩ về tầm quan trọng của ngoại hình, về nam tính ở giới trẻ đã được gửi gắm vào
trong cách mà họ “kiến tạo” về thần tượng. Nhờ khả năng tương tác của các phương
tiện truyền thông, fan có thể dễ dàng gửi gắm mong muốn, góp ý đối với các thần
tượng của họ, từ đó, các thần tượng cũng dễ dàng nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu
của khán giả. Bằng cách này, những hình ảnh mà thần tượng thể hiện ra thực chất
là một sự tích hợp, gom thêm vào những điều mà fan mong đợi, kì vọng. Do vậy,
những ý nghĩa mà fan chia sẻ về thần tượng là một sự pha trộn những căn tính thực
với những căn tính mong muốn của riêng họ. Có một điều nổi bật trong cách giải
mã thần tượng của giới trẻ hiện nay là sự pha trộn của những miêu tả như: thần thái,
sang chảnh, khí chất, ngây thơ, chất chơi, nổi loạn... đối với cả thần tượng nam và
nữ. Một thần tượng thu hút phải là một ngôi sao “nhiều màu”, không đơn điệu và
lặp lại. Điều này liên quan đến sự đa dạng và biến đổi trong gu thẩm mỹ, quan niệm
về vẻ đẹp, phong cách ở thế hệ trẻ hiện nay.
Các ngôi sao về cơ bản là hình ảnh, vì chúng ta “không bao giờ biết họ trực
tiếp như người thật, mà họ chỉ được tìm thấy trong các văn bản truyền thông”
(Dyer) [96, tr. 2]. Họ là cấu hình phức tạp của các dấu hiệu hình ảnh, lời nói và âm
thanh khác (Dyer) [96]. Hình ảnh của một ngôi sao cụ thể được thể hiện và chuyển
giao, công khai, phê bình, bình luận, cũng như các tác phẩm của ngôi sao như phim,
âm nhạc, quảng cáo và chương trình truyền hình, v.v... “Hình ảnh ngôi sao được
đan xen, được xây dựng theo thời gian và không gian. Có một khoảng cách không
105
thể tránh khỏi giữa các ngôi sao và người bình thường” (Ka Ki Cheung) [89, tr. 5].
Khoảng cách này chính là khoảng trống mà người hâm mộ có thể sử dụng để kiến
tạo thần tượng theo những cách riêng của họ.
Trong sự hâm mộ thần tượng, hình ảnh ngôi sao mang ý nghĩa phản chiếu về
cuộc sống và tâm trạng của người hâm mộ, và cảm xúc của họ luôn xoay quanh
những hình ảnh đó. Tuy nhiên, người hâm mộ không phải là một khối thụ động.
Fiske [101] gọi những người hâm mộ tích cực là những người hâm mộ năng suất,
những khán giả khác biệt, những người tích cực đọc các văn bản và hình ảnh truyền
thông. Ka Ki Cheung (2002) cho rằng ngoài sự cởi mở của hình ảnh ngôi sao, khả
năng giải mã sáng tạo của người hâm mộ tạo điều kiện cho việc thao tác và nhận
dạng với hình ảnh ngôi sao. Trong quá trình hâm mộ thần tượng, người hâm mộ có
thể nói đã biến hình ảnh ngôi sao yêu thích thành ý nghĩa riêng và tìm niềm vui
trong việc sử dụng những hình ảnh này để tạo ra ý nghĩa riêng cho bản sắc xã hội và
quan hệ xã hội của họ. Hình ảnh của một ngôi sao có thể được kết nối với lịch sử
cuộc sống, tình hình xã hội, và sở thích văn hóa và thẩm mỹ,... của người hâm mộ
theo cách trực tiếp tuỳ theo các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Do đó, hâm mộ
thần tượng còn được coi là một sự tiêu thụ những ý nghĩa liên quan đến bản sắc [89, tr. 6-7].
Qua sự giải mã về thần tượng như đã trình bày ở trên, có thể thấy việc xây
dựng nhiều hình ảnh ngôi sao cho thấy ý nghĩa của hình ảnh ngôi sao không cố
định. Theo Dyer, người hâm mộ không chỉ được tự do lựa chọn những hình ảnh
ngôi sao để tiêu thụ mà còn được chào đón để tham gia vào sự tạo dựng những ý
nghĩa của chúng dựa trên bất cứ thông tin liên văn bản nào mà họ có được [96]. Ý
nghĩa của chúng luôn là có tính mở và năng sản (productive). Điều này làm thay đổi
những “khoảnh khắc tiếp nhận” thành “những khoảnh khắc sản xuất” của người
hâm mộ. Thông qua những khoảng cách trong những hình ảnh đó, khán giả có thể
thoát khỏi sự kiểm soát ý thức hệ và tạo nghĩa để kết nối với những trải nghiệm xã
hội của họ - nơi mà khoảnh khắc tiêu thụ bắt đầu (Fiske) [101]. Ka Ki Cheung cho
rằng “hình ảnh ngôi sao thể hiện ý thức hệ cấu thành các quy ước và chuẩn mực xã
hội và văn hóa mà chúng ta hiểu về xã hội” [89, tr. 5]. Thông qua hình ảnh các ngôi
sao và đặc biệt qua sự “giải mã” hình ảnh các ngôi sao của những người hâm mộ
(hay nói khác đi là qua sự tiêu thụ thần tượng của người hâm mộ), chúng ta có thể
thấy được những đặc trưng của bối cảnh văn hoá, xã hội mà họ sống, cũng như
phong cách và ý thức hệ xã hội của họ.
106
4.2.2. Chia sẻ ý nghĩa biểu trưng: sự kiến tạo căn tính nhóm
4.2.2.1. Vai trò của tương tác nhóm trong quá trình kiến tạo căn tính cá nhân giới trẻ
Bản sắc (nhận dạng cá nhân) được phát triển bởi cá nhân nhưng nó phải được
công nhận và xác nhận bởi những người khác. Tuổi thanh thiếu niên do đó cũng là
giai đoạn mà người trẻ thương lượng sự tách biệt với gia đình và phát triển các năng
lực xã hội độc lập, ví dụ như tham gia vào các nhóm ngang hàng (peer group) -
những nhóm mà có thể tạo ra các loại ảnh hưởng khác nhau đến quá trình xã hội
hoá của các cá nhân trẻ tuổi. Các câu lạc bộ người hâm mộ (Fanclub) cũng là một
trong những dạng “nhóm” như vậy. Thông qua các nhóm này, quá trình xã hội hóa
của giới trẻ diễn ra dựa trên việc họ tương tác, chia sẻ, tranh luận với các cá nhân
khác để tìm ra những căn tính phù hợp nhất với mình. Đồng thời sự tương tác này
cũng là một cách mà họ kiến tạo nên bản sắc nhóm của mình.
Bản sắc nhóm được tạo nên từ các bản sắc cá nhân thông qua sự đồng cảm.
Việc cùng chung cảm xúc yêu thương, giận dữ, tự hào về một ai đó khiến những
bạn trẻ có cảm giác thuộc cùng một nhóm. Thời kì chiến tranh, do sự đồng cảm về
những nỗi đau mà bom đạn chiến tranh gây ra, do đồng cảm về việc mất tự do và bị
đô hộ mà toàn thể người dân Việt Nam đã cùng có chung những cảm xúc về anh
hùng cách mạng, chiến sĩ xả thân vì nước. Nay trước bối cảnh truyền thông đại
chúng, giới trẻ có chung trường cảm xúc về người nổi tiếng, về ngôi sao giải trí.
Cảm xúc của các cá nhân người hâm mộ khác nhau được diễn giải theo cùng một
cách sẽ là công cụ để nhận dạng nhóm. Cảm xúc không tồn tại trong chân không, nó
vốn có tính xã hội, bị ràng buộc trong các tương tác của chúng ta với người khác và
chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Một trong những hiệu ứng quan trọng nhất của
căn tính chung được tạo ra thông qua việc chia sẻ cảm xúc là ở chỗ nó có thể thu
hút mọi người vào cùng một nhóm và sau đó giữ họ ở lại đó. “Nếu các thành viên
trong nhóm cũng diễn giải cảm xúc theo cách tương tự nhau, đám đông sẽ phát triển
cảm giác nhận dạng nhóm, một ấn tượng rằng họ là một phần của nhóm” (Fine)
[100]. Giới trẻ dường như đặc biệt bị thu hút bởi các nhóm dựa trên sự ý thức về
bản sắc mà nhóm mang lại cho họ. Ý thức này đặc biệt mạnh mẽ trong quá trình
chuyển tiếp của họ. Khi họ cảm thấy được đồng cảm, được chia sẻ cảm xúc với một
nhóm, họ thấy an toàn và tự tin hơn khi nhận thấy mình là một phần của điều gì đó.
Sự tương đồng về cảm xúc đối với thần tượng của các thành viên trong câu lạc
bộ fan tạo nên một cảm xúc chung, là tiền đề để tạo dựng nên căn tính chung của cộng
107
đồng người hâm mộ. Nhiều khi những cảm xúc ấy khiến từng cá nhân có cảm nhận về
một cộng đồng dù họ chưa từng gặp gỡ (cộng đồng tưởng tượng - Anderson [71]).
Nhận thức của fan về danh tính nhóm của họ sẽ ảnh hưởng đến các lựa chọn và các
hành vi của họ. Để duy trì danh tính cho nhóm, vai trò của những người đứng đầu (các
admin FC như My, Phương, Phương Anh) rất quan trọng. Họ có vai trò tạo ra những
cảm xúc mạnh mẽ để gắn kết mọi người, giữ lửa cho các thành viên, một trong những
cách đó là gán cảm xúc của họ vào cùng một đối tượng.
Trong bối cảnh văn hóa đại chúng ngày càng phát triển, với sự hùng hậu của
các ngôi sao, người nổi tiếng, fandom là những cộng đồng mà ở đó những người
hâm mộ trẻ giao tiếp và kết nối không ngừng với nhau. Cách thức hâm mộ thần
tượng không chỉ phản ánh sở thích, thị hiếu mà còn cho thấy cách thức mà giới trẻ
hiện nay tương tác và tạo lập mạng lưới xã hội của mình - một kĩ năng quan trọng
trong quá trình xã hội hóa và chuyển tiếp thành người trưởng thành của họ. Việc
cùng hâm mộ thần tượng nào đó chứng tỏ rằng một nhóm giới trẻ có sở thích, thị
hiếu, sự quan tâm chung và họ chia sẻ được chúng với những người khác, thông qua
đó, họ kết nối và tương tác với nhau, cùng sáng tạo ra những ý tưởng, dự án của
riêng họ - những điều mà họ cùng cảm thấy có ý nghĩa và thông qua đó, họ cùng
nhau trải nghiệm, trưởng thành. Nhiều bạn trẻ cùng tham gia trong một FC (như FC
SNSD hay T-ara), gắn bó với nhau 6-7 năm, kể cả khi thần tượng của họ không còn
hoạt động nghệ thuật nữa nhưng họ vẫn duy trì mối quan hệ bạn bè, giúp đỡ nhau
trong công việc và cuộc sống. Mạng lưới xã hội của những người hâm mộ trẻ được
tạo lập và kéo dài nhiều năm này, ở góc độ nào đó, giúp giới trẻ có được sự cân
bằng và ổn định hơn trong quá trình va đập và hoàn thiện các kĩ năng xã hội, vốn
văn hóa để trưởng thành của họ. (Có lẽ vì vậy mà không ít người đã coi đó là những
“kí ức đẹp nhất” trong “tuổi thanh xuân” của họ).
4.2.3.2. Những cảm xúc, ý nghĩa được chia sẻ
Nếu giải mã thần tượng là một sự khám phá các căn tính của từng cá nhân người
hâm mộ trẻ thì việc chia sẻ hệ thống các ý nghĩa biểu trưng với nhóm người hâm mộ
chính là quá trình giúp các cá nhân sàng lọc, lựa chọn và củng cố các căn tính phù hợp
với mình và thế hệ mình. Vậy, đâu là những cảm xúc, ý nghĩa được họ cùng chia sẻ?
Cảm giác về sự gắn bó, thuộc về (belong-ing)
Theo những phân tích ở mục 3.2 có thể thấy hâm mộ thần tượng là một trong
những cách thức đáp ứng nhu cầu mở rộng mạng lưới xã hội và sự kết nối của giới
108
trẻ. Đặc biệt trong không gian đô thị, khi mà các mối quan hệ, các sự kết nối trực tiếp
giữa các cá nhân bị hạn chế, đứt gãy thì truyền thông mà đại diện là các ngôi sao, các
thần tượng là “cầu nối” trong việc giao tiếp của các cá nhân. Trong bài viết “‘We just
hang out together’: Youth Cultures and Social Class” [Chúng tôi chỉ đi chơi cùng
nhau thôi: Văn hóa thanh niên và tầng lớp xã hội], các tác giả cho rằng giới trẻ kết nối
và chia sẻ với nhau những gì chiếm được sự thu hút chung của họ và điều này có liên
quan đến tầng lớp, địa vị xã hội của họ (McCulloch, Stewart và Lovegreen) [144].
Thêm vào đó, quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa và đô thị hóa là một nguyên
nhân trong việc làm giảm sút mối liên hệ giữa người với người vốn tồn tại trong
những cộng đồng truyền thống, dẫn đến việc các cá nhân trở nên rời rạc, mất phương
hướng. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự tham gia ngày càng
đông của giới trẻ vào các hội nhóm người hâm mộ ở Việt Nam hiện nay.
Trở thành một người hâm mộ của một ai đó không chỉ là sự đáp ứng nhu cầu
cần một hình mẫu lí tưởng, nhu cầu kết nối cảm xúc với những người khác mà còn
mang lại cho giới trẻ những cung bậc cảm xúc đa dạng (yêu - ghét, buồn - vui, hi
vọng - thất vọng, cảm xúc về lòng trung thành (loyalty), cảm thấy an toàn, cảm thấy
không lạc lõng, được lắng nghe, được chia sẻ khi thuộc về (belonging) một cộng
đồng những người hâm mộ giống như mình. Cùng yêu thích ai đó, thậm chí cùng
ghét (anti) ai đó cũng mang lại cho giới trẻ cảm giác thân thuộc, gần gũi với những
người khác. Do đó, không phải chỉ có các fanclub mà một số nhóm anti-fan hiện
nay cũng thu hút không ít các bạn trẻ tham gia. Ở đó, họ thẳng thắn bộc lộ việc ghét
ngôi sao nào đó vì những đặc điểm ngoại hình hoặc tính cách không phù hợp với
họ. Cũng giống như việc cùng tiêu dùng những sản phẩm hàng hóa giống nhau: áo
quần mà họ mặc, âm nhạc mà họ nghe, phim ảnh mà họ xem, thông tin mà họ cập
nhật..., việc tham gia vào một nhóm ngang hàng (peer group) khiến giới trẻ có cảm
giác về sự hiện đại, thuộc về số đông, bắt kịp xu hướng, theo trend, cập nhật kịp
thời, không bị tụt hậu, lạc lõng, ngoài rìa, khác thường (lỗi mốt, tụt hậu, người tối
cổ...). Áo đồng phục, tên gọi chung của fandom, lightstick, những album âm nhạc...
chính là những biểu hiện cụ thể của sự gắn kết về cảm xúc này.
Theo đặc trưng lứa tuổi, thanh thiếu niên là những người khát khao được thể
hiện và được người khác công nhận ý kiến, quan điểm, tiếng nói của họ, đặc biệt là
những người lớn (ông bà, cha mẹ, thầy cô) - những người trước nay vốn sẵn thiên
kiến áp đặt vì cho rằng họ vẫn là những người trẻ dại, non nớt, chưa hiểu chuyện
109
đời cũng như chưa hiểu chính bản thân họ. Vì thiên kiến này mà luôn tồn tại một
cuộc chiến, một sự phản kháng của giới trẻ đối với những thế hệ lớn hơn. Sự hâm
mộ thần tượng của thanh thiếu niên được hình thành dựa trên “mối quan hệ tưởng
tượng với một người xa xôi nào đó khi các bạn trẻ trở nên xa cách với cha mẹ”
(Yue & Cheung) [181, tr. 91]. Ở lứa tuổi thanh thiếu niên, khi luôn phải đối diện
với những hồ nghi của người lớn, giới trẻ luôn muốn chứng tỏ họ là những người
kiên định và có lập trường, họ trung thành với bạn bè (thậm chí giấu giếm, che đậy
lỗi lầm của bạn), có lập trường trong suy nghĩ và lựa chọn, kể cả là lòng trung thành
và gắn bó với thần tượng của mình mặc những lời chỉ trích. Trung thành là một
trong những phẩm chất được giới trẻ coi trọng. Nhiều fan của Sơn Tùng công khai
thể hiện họ cùng là anti-fan của một ca sĩ nào đấy trên trang mạng xã hội. Bởi lẽ
việc họ yêu ai, ghét ai cũng là một biểu hiện cho việc họ có trung thành hay không.
Họ không thể là fan của một người từng chỉ trích hay chê bai thần tượng của họ, bởi
nếu như thế, họ là kẻ phản bội, là tội đồ trong FC của mình. Những danh hiệu như
“fan ruột”, “fan cứng” luôn là một thứ “thành tích” mà các fan theo đuổi.
Thêm vào đó, những bạn trẻ đang ở độ tuổi luôn muốn nhận được sự tôn
trọng, đề cao từ những người khác, do đó, họ là những người nhiệt tình và tích cực
trong việc “bảo vệ”, bênh vực thần tượng, thậm chí cảm giác như họ có thể “chống
lại cả thế giới” chỉ vì thần tượng của mình. Đây là lí do các fan luôn sẵn sàng tranh
cãi nảy lửa ngày này qua ngày khác, chủ đề này qua chủ đề khác với cả những
người chưa bao giờ gặp mặt hay quen biết trong các cuộc “fan war” để bảo vệ bằng
được người mà họ yêu thích, ngưỡng mộ.
Cảm giác về quyền lực và vị thế
Những người hâm mộ trẻ luôn được thần tượng của họ cung cấp một cảm
giác rõ ràng về quyền lực (chẳng hạn nhóm BTS thường xuyên đăng tải những lời
cảm ơn người hâm mộ - những người có công lớn làm nên thành tích cho nhóm
nhạc này). Việc giúp thần tượng ngày càng nổi tiếng hơn cũng là một cách để giới
trẻ kiến tạo quyền lực cá nhân và quyền lực nhóm. Các fan luôn cảm thấy rằng thần
tượng thành công là nhờ một phần công sức và sự ủng hộ của họ, và vì thế chiến
thắng của thần tượng cũng mang lại cảm giác người thắng cuộc cho fan.
Những tương tác ngược trở lại giữa thần tượng với người hâm mộ khiến các
bạn trẻ cảm thấy mình được nhìn nhận và tôn trọng. Như đã nói ở 3.1.1., việc yêu
thích một ngôi sao kích thích bản năng bảo vệ, che chở, bênh vực một ai đó từ
110
người hâm mộ trẻ. Thêm vào đó, trong khi luôn bị cha mẹ, thầy cô coi là con trẻ,
chưa đủ chín chắn và hiểu biết, các fan lại được thần tượng thu hút bằng những lời
ghi nhận như “Nhờ có các cậu đồng hành cùng chúng mình trong chuyến lưu diễn
lần này mà chúng mình dã có thể cười vui như thế này. Chân thành cảm ơn các cậu
rất nhiều và mình muốn nói một lần nữa rằng mình yêu các cậu rất nhiều” (câu nói
trên trang Twitter của Jimin - thành viên nhóm BTS). Những lời “có cánh” này
khiến các fan có thể cảm thấy được sức mạnh và giá trị của mình - một trong số các
lí do khiến họ ngày càng cuồng nhiệt với thần tượng của mình. Ở độ tuổi rất dễ va
chạm với những người lớn tuổi (phụ huynh, giáo viên), việc được ghi nhận từ thần
tượng khiến những người hâm mộ trẻ cảm thấy có một sự gắn kết đặc biệt, một mối
quan hệ bạn bè/người yêu theo sự tưởng tượng của họ, khiến họ cảm thấy “chỉ có
anh/cô ấy mới hiểu mình, cần mình”... Một số bạn trẻ mà tôi có dịp tiếp xúc, họ
hoàn toàn mờ nhạt khi ở trường học vì họ không phải là học sinh xuất sắc, là người
rụt rè, lầm lì khi ở nhà, nhưng lại là những thành viên tích cực trong ban quản trị
của các FC (như trường hợp của My, Phương). Họ là những người sản xuất nội
dung và ý tưởng, các hoạt động chung để duy trì FC (đu show, làm từ thiện, quay
clip gửi tới thần tượng), đồng thời cũng là những “fan sân bay” nhiệt tình, không
quản nắng mưa đi đón và tiễn thần tượng, nhờ thế, họ có được những bức ảnh độc
nhất về thần tượng để chia sẻ liên tục với những người khác trong cộng đồng fan
của họ. Những lời tán thưởng, cảm ơn từ những người khác ở khía cạnh nào đó,
chính là sự đáp lại những cố gắng của họ, là sự nhìn nhận năng lực và sự khẳng
định vị thế, quyền lực của họ. Những điều này cũng chính là một trong những động
lực to lớn để họ ngày càng nhiệt thành hơn trong cách hâm mộ thần tượng của mình
(bên cạnh tình yêu với thần tượng luôn luôn là tưởng gần mà xa xôi kia).
Các fan cũng chia sẻ những thông tin, thành tích, kỉ lục của thần tượng,
không chỉ để tiếp thị cho thần tượng, thể hiện sự tự hào của cộng đồng fandom mà
còn là cách kiến tạo quyền lực của họ trước mọi người, trước những nhóm fandom
khác, đồng thời cũng là một cách “tuyên bố” với người khác biết rằng “Tôi đã lựa
chọn đúng người để hâm mộ, thần tượng của tôi là người tuyệt vời và hoàn toàn
xứng đáng với sự yêu quý, ngưỡng mộ của mọi người, tôi không a dua, không mù
quáng như cách mọi người nhìn và phán xét”. Đây cũng là lí do giải thích vì sao các
fan thường tô vẽ và tin thần tượng là những người hoàn hảo.
111
Cảm nhận về sự trẻ trung, phong cách, hiện đại
Những thực hành hâm mộ mang lại cho các fan sự cảm nhận rõ ràng về tính
“trẻ”. Việc đứng dưới những khán đài đông kín người, hoà mình vào đám đông hò
reo, trong không khí của âm nhạc, ánh sáng, vũ đạo,... mang lại cho những người
hâm mộ một cảm giác về sự trẻ trung, phấn khích. Những cảm giác này góp phần
tạo nên những thời khắc đặc biệt trong tuổi trẻ của họ. Sự nhấn mạnh vào tính trẻ
này cho thấy sự “lên ngôi” của cảm giác về sự trẻ trung, về cái gọi là tuổi trẻ. Hơn
nữa, tính trẻ này lại ngày càng được sự tương hỗ từ chủ nghĩa tiêu dùng nên nó ngày
càng thu hút mạnh mẽ hơn đối với những lứa tuổi không còn trẻ. Trường hợp “ông chú Viettel”33 hát những ca khúc của Sơn Tùng hay những fan U70, 80 cũng tham
gia vào các FC của ca sĩ này là những ví dụ tiêu biểu về sức hút của văn hoá giới
trẻ. Điều này cho thấy văn hóa giới trẻ phải chăng đang mở rộng biên độ ảnh hưởng
của mình, như một biểu hiện của sự “kháng cự” đối với văn hóa người lớn - văn hóa
dòng chính, văn hoá thống trị, nhất là trong bối cảnh xã hội và văn hóa Việt Nam
trước nay vẫn coi trọng truyền thống trọng xỉ.
Mối liên hệ giữa văn hóa tiêu dùng và sự nổi lên của các thần tượng kiểu mới
ở giới trẻ Việt Nam được thể hiện ở sự tiêu thụ hàng hóa mang ý nghĩa và tính chất
trẻ trung. Một chiếc áo phông, quả bóng có chữ kí của thần tượng không đơn thuần
chỉ là một hàng hóa. Nó có khả năng kích thích sự tiêu thụ hàng hóa cao hơn rất
nhiều so với việc nó chỉ là một sản phẩm được bán ra thông thường.
Thông qua việc hâm mộ những ngôi sao nổi tiếng được ví như những “biểu
tượng đương đại” (từ dùng trong quảng cáo giày Biti’s Hunter X mà Sơn Tùng làm
đại diện thương hiệu), giới trẻ cho thấy sự ưa chuộng của họ đối với những gì được
coi là mới, hiện đại. Trải nghiệm “tính hiện đại” và hướng đến sự tự nhận dạng
mình là một chủ thể hiện đại dường như là một nhu cầu đã trở thành “bản sắc” của
giới trẻ nói chung và giới trẻ Việt Nam nói riêng.
Cảm nhận về tính toàn cầu
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập, vươn ra thế giới được coi là một kháo
33 http://tiin.vn/chuyen-muc/nhac/suong-nhat-son-tung-ra-hit-nao-la-hit-nay-duoc-ong-chu-viettel-ky-cong- cover-lai.html, truy cập ngày 20/11/2020. 34 Thế hệ Y còn được gọi là thế hệ Millennials là những người sinh ra trong khoảng 1980-1994. Thế hệ Z còn được gọi là thế hệ Generations là những người sinh ra trong khoảng 1995-2009.
khát, một “phẩm chất” đặc trưng. Khát khao này hình thành và gia tăng dần ở các thế hệ Y và thế hệ Z34 người Việt. Cộng đồng fan của BTS ở Việt Nam có thể kết
112
nối, tương tác với cộng đồng fan BTS ở khắp nơi trên thế giới, thông qua những
mạng xã hội như youtube, instagram, twitte, naver...; họ có thể chia sẻ những cảm
xúc, suy nghĩ chung về BTS và về chính Army (tên gọi của cộng đồng fan BTS) và
điều này khiến cho họ cảm thấy được kéo gần hơn với thế giới, vượt qua rào cản về
ngôn ngữ, địa lí... Khi Sơn Tùng phát hành MV Hãy trao cho anh với chất nhạc
đậm chất La tinh, mục đích của ca sĩ này là hướng tới thị trường âm nhạc quốc tế,
mang âm nhạc của Việt Nam ra ngoài phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Nhiều fan hào
hứng mong đợi MV sẽ có phiên bản tiếng Anh, nhưng một số fan khác lại cho rằng
“Tùng mang tiếng Việt ra thế giới là tốt rồi và tại sao lại phải hát tiếng Anh trong
khi có thể hát tiếng Việt và thành công?”; “Nếu hát tiếng Anh thì chỉ Tùng nổi thôi
chứ âm nhạc Việt Nam vẫn không được ai biết đến cả”; “Đây là Vpop thì phải hát
tiếng Việt. Hát tiếng Anh thì thành US, UK rồi. Giống như BTS hát tiếng Hàn, đưa
K-Pop Mỹ tiến thành công và K-Pop giờ lan tỏa thế giới”; “Tùng đang muốn mang
tiếng Việt ra thế giới chứ muốn chuyển sang tiếng Anh thì dễ”...
Sơn Tùng trong một bài phỏng vấn đã nói rằng “Khi nào tôi đứng trên sân
khấu Mỹ, hát bằng tiếng Anh và tiếng Việt thì nói chuyện tiếp”35 và cho biết giấc mơ
của mình chính là mang âm nhạc Việt Nam đến với khán giả quốc tế, để họ biết được
Việt Nam cũng có nhiều nghệ sĩ tài năng. Bài phỏng vấn này đã được cộng đồng fan
share (chia sẻ) nhanh chóng. Một trưởng FC ở Hà Nội cho biết: “Mình bỏ bao nhiêu
thời gian, tâm huyết để support Tùng như thế một phần lớn là vì lòng tự tôn dân tộc,
nếu Tùng không phải người Việt thì mình sẽ chẳng support như thế đâu”. Chính vì
tâm thức muốn vươn ra toàn cầu, được thế giới biết đến mà các nhóm người hâm mộ
tích cực support (ủng hộ), review (miêu tả), comment (bình luận), share (chia sẻ) âm
nhạc của Sơn Tùng một cách rộng rãi, trên khắp các nền tảng mạng xã hội. Nhận thấy
nhu cầu muốn được kết nối, chia sẻ ở fan quốc tế, cộng đồng fan Việt đã kêu gọi
nhau dịch lời bài hát của Tùng ra tiếng Anh, trả lời bình luận và tương tác bằng nhiều
hình thức khác nhau với cộng đồng fan quốc tế để củng cố, gia tăng sự yêu mến, hâm
mộ Sơn Tùng ở những fan nước ngoài. Không chỉ để tiếp thị, quảng bá cho Sơn
Tùng, những hành động này của những người hâm mộ trẻ Việt Nam đã cho thấy
mong muốn được hướng tới một cộng đồng văn hoá rộng lớn hơn - ở đó họ có thể
35 http://kenh14.vn/hay-trao-cho-anh-va-ap-luc-la-son-tung-M-TP-khi-nao-toi-dung-tren-san-khau-o-ben-my- hat-bang-tieng-anh-tieng-viet-thi-noi-chuyen-tiep-20190706002246366.chn
cùng nhau chia sẻ những sở thích, thị hiếu chung, tình yêu chung với thần tượng,
113
đồng thời cũng là mong muốn tiếng Việt, nhạc Việt, cái tên Việt Nam được xuất hiện
và lưu lại dấu ấn nhiều hơn trong tâm trí bạn bè quốc tế. Việc giới trẻ hăng say “cày
view” để tên tuổi thần tượng có thể vươn tầm quốc tế, được thế giới biết đến cũng là
một cách để họ cảm thấy mình gần với thế giới hơn, được chú ý và nhắc đến nhiều
hơn chứ không phải là công dân của một nước xa xôi của bản đồ thế giới. (Đây có lẽ
cũng là lí do giải thích vì sao trong các cuộc thi hoa hậu, số lượt bình chọn của đại
diện Việt Nam bao giờ cũng ở top cao nhất).
Nhưng nhìn ở góc độ khác có thể thấy những chiến lược phá vỡ các kỉ lục
của giới trẻ nói trên dường như là một biểu hiện của những ám ảnh hậu thuộc địa
tồn tại dai dẳng ở các thế hệ người Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến nay. Những fan
của Sơn Tùng, họ cũng là những người trẻ tuổi như ca sĩ này, bao lâu nay họ vẫn
luôn tiêu thụ những sản phẩm âm nhạc nước ngoài và luôn coi đó là những sản
phẩm tốt, nổi tiếng, hiện đại, đã được công nhận ở phạm vi toàn cầu. Bằng cách
“nhúng” mình vào thế giới âm nhạc đó, họ được kéo gần hơn với những gì họ coi là
chuẩn mực của thẩm mỹ và sáng tạo. Do vậy, việc sử dụng YouTube và cày view
(như đã phân tích ở 3.3.2.) là cách thức để những người hâm mộ trẻ Việt Nam tạo
dựng vị trí cho chính mình, giống như cách mà giới trẻ Hàn Quốc đã từng làm với
trong trường hợp của ca sĩ Psy (với MV Gangnam style) và nhóm BTS.
Theo Duffett, hâm mộ thần tượng bao gồm những cách mà nó có thể “nâng
cao cảm giác phấn khích của chúng ta, thúc đẩy sự tự phản thân của chúng ta,
khuyến khích chúng ta thảo luận về các giá trị và đạo đức được chia sẻ, và cung cấp
cho chúng ta một nguồn ý nghĩa quan trọng kéo dài trong cuộc sống hàng ngày”
[95, tr. 50]. Với những ý nghĩa đã phân tích trên, có thể thấy hâm mộ thần tượng là
một phương thức tạo nghĩa, kiến tạo căn tính hữu hiệu của giới trẻ.
Trước những định kiến có sẵn về lứa tuổi mình, thông qua hâm mộ người nổi
tiếng, giới trẻ không chỉ cho thấy những suy nghĩ, quan niệm khác biệt với thế hệ
trước, mà còn tìm cách để thể hiện tiếng nói, cá tính của mình, tìm cách thể hiện
mình. Do vậy, có thể nói các câu lạc bộ người hâm mộ chính là những không gian
để họ có thể tụ tập và chia sẻ với những người trẻ cùng sở thích, đam mê, nhu cầu,
quan niệm, nói khác đi là nhu cầu được giãi bày và được hiểu, để có cảm giác thuộc
về một nhóm/ cộng đồng nào đó dù có thể là cộng đồng tưởng tượng [71]. Cộng
đồng người hâm mộ trẻ ngày càng trở thành một “tiểu văn hóa” với những căn tính
mang dấu ấn đặc trưng của một nhóm, dễ nhận diện so với những nhóm khác.
114
Tiểu kết chương 4
Thần tượng không chỉ là những người nổi bật trong các lĩnh vực giải trí mà
còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình định hình bản sắc của giới trẻ Việt Nam
hiện nay. Trong bối cảnh xã hội có nhiều thay đổi, đặc biệt các mối quan hệ liên cá
nhân có nhiều nguy cơ giảm sút, rạn vỡ, những giá trị mới và cũ đan xen nhau, thần
tượng vừa là hình mẫu, vừa là chỗ dựa tinh thần, là nguồn cảm hứng cho những
người hâm mộ. Tiếp cận hiện tượng hâm mộ thần tượng dưới góc nhìn kiến tạo
“nghĩa” và kiến tạo bản sắc, chương viết đã phần nào chỉ ra những nét căn tính đa
dạng mà giới trẻ đang kiến tạo và thể hiện.
Chương viết đã làm rõ những phương thức kiến tạo căn tính cá nhân và bản
sắc nhóm của những người hâm mộ trẻ. Những phẩm chất, cá tính mà các cá nhân
người hâm mộ giải mã về thần tượng cũng chính là sự phản chiếu những căn tính
mà họ ưa chuộng và hướng tới. Đồng thời qua những cảm xúc và ý nghĩa được chia
sẻ bởi cộng đồng người hâm mộ, có thể thấy được những bản sắc mà họ đang kiến
tạo: là những người đề cao lòng trung thành, muốn được nhìn nhận và tôn trọng, có
trách nhiệm với bản thân, với cộng đồng và với thần tượng họ yêu thích; là những
người giàu ý tưởng sáng tạo, tôn vinh những người thành công nhờ kiên trì theo
đuổi đam mê, dám sống bứt phá; có quan niệm khác biệt so với các thế hệ trước;
khát khao vươn ra thế giới và hòa nhập vào đời sống toàn cầu; biết học hỏi tiếp thu
và biết cách chọn lọc những tinh hoa, sáng tạo từ bạn bè thế giới để phù hợp với văn
hóa người hâm mộ Việt Nam... Không chỉ thế, điều nổi bật nhất trong hệ thống
“nghĩa” mà những người hâm mộ trẻ ở Việt Nam những năm gần đây đã tạo ra chính
là “tính trẻ” - một trong những căn tính đang dần lan tỏa sức ảnh hưởng của nó tới
những thế hệ lớn tuổi hơn. Những ý nghĩa về sự trẻ trung này không chỉ giúp kiến tạo
nên bản sắc của những người trẻ mà còn giúp những người lớn hơn có cơ hội để tái
kiến tạo lại bản sắc của mình. Đây chính là ảnh hưởng ngược trở lại của tiểu văn hoá
giới trẻ đối với văn hoá dòng chính. Những nét bản sắc này không chỉ thể hiện những
đặc trưng về lứa tuổi của giới trẻ Việt Nam mà còn mang đậm dấu ấn của những động
năng xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá với sự phát triển của văn hoá tiêu dùng và
truyền thông. Tất nhiên, những nét bản sắc này không cố định mà liên tục biến đổi đa
dạng trong quá trình tương tác với bối cảnh xã hội đương đại.
115
Chương 5
HÂM MỘ THẦN TƯỢNG Ở GIỚI TRẺ TRONG NHỮNG
ĐỘNG NĂNG CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
Hâm mộ thần tượng là một hiện tượng văn hóa nổi bật có thể phản ánh
những chiều kích của đời sống giới trẻ cũng như những động năng của xã hội Việt
Nam hiện nay. Ở các chương trước, luận án đã khám phá những thực hành hâm mộ
thần tượng cũng như cách thức mà giới trẻ kiến tạo căn tính cá nhân và nhóm thông
qua những thực hành cụ thể, những diễn giải về thần tượng cũng như việc chia sẻ
cảm xúc và những ý nghĩa biểu trưng có liên quan đến thần tượng. Hâm mộ thần
tượng chỉ là một trong rất nhiều những khía cạnh của đời sống giới trẻ và bản thân
trường hợp người hâm mộ Sơn Tùng M-TP trong nghiên cứu này cũng chỉ là một
trong rất nhiều các trường hợp người hâm mộ khác ở Việt Nam hiện nay. Hâm mộ
thần tượng có thể còn chứa đựng những chiều kích và những vấn đề khác, chẳng
hạn sự giải phóng phụ nữ, sự lai ghép văn hoá, sự phản kháng... Nhưng dù là trường
hợp người hâm mộ Sơn Tùng hay trường hợp khác thì vẫn nổi lên một số vấn đề cơ
bản mà qua đó có thể soi chiếu đời sống giới trẻ nói riêng và những động năng của
xã hội Việt Nam nói chung như: sự gia tăng của nhu cầu về văn hóa nghe nhìn, sự
thay đổi thị hiếu... trong bối cảnh nền công nghiệp giải trí; sự xuất hiện các thực
hành, ý nghĩa cũng như nhóm công chúng mới gắn với sự phát triển của truyền
thông; sự thay đổi các thói quen tiêu thụ hàng hóa và giới trẻ như một thế hệ người
tiêu dùng mới; sự định vị bản thân, khao khát toàn cầu và những giá trị mới... Dưới
đây, chúng tôi sẽ soi chiếu xem đời sống giới trẻ Việt Nam mà rộng hơn là xã hội
Việt Nam đương đại đã bị ảnh hưởng và vận hành như thế nào trước tác động của
toàn cầu hóa, truyền thông, công nghiệp văn hoá và văn hóa tiêu dùng. Chúng tôi
nhận thấy sự phân chia các yếu tố ảnh hưởng như vậy chỉ có tính chất tương đối,
thực tế, những động năng của đời sống giới trẻ cũng như xã hội Việt Nam hiện nay
luôn có mối quan hệ đa chiều, chồng xếp và đan xen nhau.
5.1. Đời sống giới trẻ trong bối cảnh nền công nghiệp giải trí ở Việt Nam hiện nay
5.1.1. Sự phát triển của nền công nghiệp giải trí ở Việt Nam hiện nay
Đời sống giới trẻ bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau: việc học tập, lao động,
vui chơi giải trí, các mối quan hệ, sự quan tâm về chính trị và các vấn đề xã hội...
Đời sống giới trẻ luôn được đặt trong tương quan với những yếu tố văn hóa, xã hội.
116
Giới trẻ Việt Nam đương đại là những người sinh ra sau chiến tranh, sống ở thời
bình, học tập dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. Họ chỉ biết đến chiến tranh, sự chia
cắt đất nước hay thời bao cấp qua sách vở hay lời kể của cha mẹ, ông bà - những thế
hệ gắn chặt với ý thức hệ cộng sản. Khác với bối cảnh chiến tranh, khi mọi sự chú ý
của xã hội cũng như của giới trẻ đều ưu tiên cho công cuộc giành độc lập - tự do
của nước nhà, đời sống văn hóa giới trẻ thời bình lại chủ yếu bộc lộ ở những khía
cạnh mang tính cá nhân và đặc trưng lứa tuổi như: việc học tập, giải trí, tiêu dùng và
sự tập trung vào các khía cạnh cá nhân... Sự thay đổi này chịu sự chi phối của các
yếu tố kinh tế - xã hội hiện nay, đặc biệt trong bối cảnh nền công nghiệp giải trí
ngày càng phát triển.
Sự chú ý của một bộ phận không nhỏ giới trẻ hiện nay vào những ngôi sao,
người nổi tiếng cho thấy sự tác động và chi phối của nền công nghiệp giải trí ở Việt
Nam. Sự phát triển của công nghiệp giải trí ở Việt Nam như hiện nay là kết quả của
quá trình chịu ảnh hưởng của công nghiệp giải trí bài bản nước ngoài - một sản
phẩm tiêu biểu của văn hóa đại chúng phương Tây. Văn hóa đại chúng ở Việt Nam
trong những năm gần đây đã rất khác so với cách hiểu văn hóa đại chúng theo nghĩa
văn hóa hướng tới quảng đại quần chúng, hướng tới phục vụ thị hiếu và nhu cầu số
đông dân chúng, mà càng ngày càng theo xu hướng “hàng hóa hóa, kĩ thuật hóa,
tiêu chuẩn hóa và cưỡng bức hóa” (Đặng Thị Thu Hương) [31, tr. 20] của phương
Tây. Văn hoá đại chúng ở Việt Nam đang bị tác động bởi những cải tiến về công
nghệ truyền thông, những dòng chảy văn hoá và sự vận hành của hàng hoá nước
ngoài, đặc biệt là các nước tư bản (Mỹ, Hàn, Nhật). Do gắn với nền công nghiệp
văn hóa, trong đó nguyên tắc thương nghiệp thay thế cho nguyên tắc nghệ thuật,
yêu cầu thị trường thay thế cho yêu cầu tinh thần, văn hoá đại chúng đã có những
thay đổi lớn, tác động đến các nhóm xã hội, đặc biệt là giới trẻ. Các sản phẩm của
văn hoá đại chúng xuất hiện ngày càng nhiều và bao phủ mọi khía cạnh đời sống
giới trẻ: các loại hình giải trí hàng ngày, những ngôi sao được họ mến mộ... “Khác
với xã hội các nước đi trước đã quen với văn hoá giải trí đa sắc mầu, người trẻ Việt
lần đầu đối diện với công nghiệp giải trí bài bản, trong khi thức ăn tinh thần lại quá
nghèo nàn nên hội chứng thần tượng có phần đậm hơn các nước khác” (Nguyễn
Hoàng Ánh) [183].
Từ việc du nhập những sản phẩm văn hóa nghe nhìn nước ngoài, nền công
nghiệp giải trí ở Việt Nam đã dần dần phát triển với sự ra đời của hàng loạt các
117
công ty giải trí, hoạt động giải trí dần được chuyên nghiệp hóa hơn để có thể đáp
ứng nhu cầu của công chúng. Nền công nghiệp giải trí ở Việt Nam được hình thành
và vận hành từ cuối những năm 1990 với việc ra đời các nhóm nhạc, các ca sĩ, cầu
thủ, diễn viên mà sự nghiệp của họ gắn liền với các ông bầu (người quản lí), những
hợp đồng được kí kết và các công ty giải trí theo mô hình của nền công nghiệp văn hóa nước ngoài36. Các công ty giải trí là những công ty hoạt động trong lĩnh vực
nghệ thuật, giải trí, thực hiện việc quản lí cũng như xây dựng hình tượng cho các
nghệ sĩ theo một chiến lược nhất định. Ở Việt Nam, công ty giải trí đầu tiên có lẽ
phải kể đến H.T. Production của “ông bầu” Hoàng Tuấn (Tuấn Thaso) - người lăng
xê thành công một số ca sĩ giai đoạn những năm cuối 1990, trong đó nổi tiếng nhất
là ca sĩ Đan Trường. Đến thời điểm hiện tại, có khoảng hơn 20 công ty giải trí lớn
nhỏ tiêu biểu như: We Pro, Six Sensce, Cát Tiên Sa, OnlyC Entertainment, Music
Box, ST.319 Entertainment... đặc biệt M-TP Entertainment - công ty do chính Sơn
Tùng M-TP làm chủ tịch. Các công ty này hoạt động và cạnh tranh lẫn nhau, tạo
nên đời sống giải trí đa dạng, sôi động ở Việt Nam những năm gần đây. Mặc dù quy
mô và hoạt động của các công ty này còn rất khiêm tốn so với các công ty, tập đoàn
ở các cường quốc về công nghiệp văn hóa (như Hàn Quốc, Nhật Bản), việc ngày
càng xuất hiện nhiều những ngôi sao âm nhạc trong nước cũng như sự phổ biến của
hiện tượng hâm mộ thần tượng trong đời sống giới trẻ như hiện nay đã phản ánh sự
phát triển nền công nghiệp văn hóa mà đặc biệt là công nghiệp giải trí này.
Như đã nói ở chương 2, quá trình mở cửa đã tạo điều kiện cho toàn cầu hóa
và các dòng chảy văn hóa đại chúng phương Tây du nhập vào Việt Nam mạnh mẽ
hơn. Hướng tới số đông khán giả bình dân nhằm gia tăng tối đa lợi nhuận, phần lớn
các giá trị của văn hóa đại chúng đang bị chi phối bởi ngành công nghiệp giải trí. Ở
lĩnh vực nổi bật nhất là âm nhạc, các ngôi sao thần tượng hiện nay đều hướng các
sản phẩm phù hợp với khán giả thành thị bằng cách sản xuất các MV (music video)
nhạc thời thượng, bắt mắt, bắt tai, cập nhật các xu hướng quốc tế. Hình ảnh và âm
nhạc hiện đại vừa thể hiện cá tính âm nhạc của nghệ sĩ vừa là một lợi thế chinh phục
khán giả trẻ cũng như các nhãn hàng. Những sản phẩm âm nhạc đại chúng hướng
36 Báo Hoa Học trò những năm giữa 1990 đã có những bài viết về công ty quản lí của các nhóm nhạc nổi tiếng của Mỹ (như NSync, Backstreet Boys) như là một hệ thống được chuyên môn hóa: ca sĩ chỉ cần tập trung vào hát và nhảy, mọi việc khác đều có ông bầu và ekip lo, theo những chiến lược cụ thể và tỉ lệ chia lợi nhuận nhất định.
tới thị hiếu của số đông khán giả của những ngôi sao trẻ như Sơn Tùng đã chứng tỏ
118
được sức hút mạnh mẽ của nó. Đằng sau sự thành công của Sơn Tùng là rất nhiều
yếu tố, đặc biệt có cả một công nghệ bao gồm nhiều lĩnh vực (sản xuất âm nhạc, vũ
đạo, điện ảnh, thời trang, mỹ phẩm, quảng cáo...) kết hợp với nhau nhịp nhàng như
các khâu của một quá trình sản xuất hàng hóa theo những yêu cầu và chuẩn mực
chung. Sự nổi lên của các nghệ sĩ trẻ như Sơn Tùng phản ánh quá trình vận hành,
thay đổi và tiếp thu những thành tựu của ngành công nghiệp giải trí từ các nước tư
bản trên thế giới mà Sơn Tùng - trước khi trở thành một nhà sản xuất - cũng từng là
một công chúng trẻ tích cực (Sơn Tùng từng là fan của nhạc US, UK và K-Pop).
5.1.2. Tác động của nền công nghiệp giải trí đến đời sống giới trẻ
Từ hiện tượng hâm mộ thần tượng, có thể thấy nền công nghiệp giải trí đã
can thiệp sâu sắc vào đời sống xã hội nói chung và giới trẻ nói riêng. Sự phát triển
đến một mức độ nhất định của công nghiệp giải trí, đặc biệt lĩnh vực văn hóa nghe
nhìn ở Việt Nam đã tạo ra những nhu cầu, thị hiếu, thói quen, phong cách và lối
sống mới cho công chúng, đặc biệt công chúng trẻ tuổi.
Trước hết, công nghiệp giải trí phát triển đã thúc đẩy nhu cầu về văn hóa
nghe nhìn ở giới trẻ nói riêng và mọi tầng lớp nhân dân nói chung. Khi văn hóa
nghe nhìn trở nên phổ biến, nó kéo theo sự quan tâm của cả xã hội dành cho những
đại diện của nền văn hóa này - những người nổi tiếng. Không chỉ làm phong phú
thêm đời sống tinh thần của giới trẻ, cùng với truyền thông, văn hóa đại chúng mà
đại diện tiêu biểu là những ca sĩ, diễn viên nổi tiếng, bằng cách xuất hiện đều đặn và
lặp đi lặp lại những thông điệp trên truyền thông còn có vai trò không nhỏ trong
việc tạo lập và thay đổi nhu cầu, thị hiếu, những giá trị và chuẩn mực mới cho con
người nói chung và giới trẻ ở Việt Nam nói riêng. Ở Việt Nam, mặc dù các phương
tiện truyền thông đại chúng mới chỉ phổ biến trong ba mươi năm trở lại đây, tuy
nhiên, với ảnh hưởng của văn hóa giải trí Âu Mĩ (âm nhạc Âu Mỹ, phim
Hollywood), phim cổ trang Trung Quốc, đặc biệt là làn sóng Hàn Quốc, toàn bộ đời
sống tinh thần, văn hóa, nhu cầu và quan niệm về giải trí, sáng tạo thẩm mĩ của
người Việt Nam đã có nhiều thay đổi, trong đó giới trẻ là thế hệ có những biểu hiện
nổi bật nhất. Đặc biệt, sự ảnh hưởng mạnh mẽ của làn sóng Hallyu từ phim ảnh, âm
nhạc đã có những tác động nhất định đến quan niệm, lối sống của các bạn trẻ về
mẫu hình người yêu lí tưởng, quan niệm về giới, về vẻ đẹp nam tính, nữ tính, về
phong cách thời trang, phong cách trang điểm, cách thể hiện cá tính... (Xem thêm
Đặng Thiếu Ngân [41]). Xin lấy một ví dụ, chỉ sau vài tập phim Mối tình đầu, toàn
119
thể các cô gái Việt Nam đều chạy theo mốt trang điểm “tóc nâu, môi trầm” của nữ
diễn viên chính, và kiểu trang điểm này hoàn toàn thay thế cho kiểu trang điểm da
trắng, môi đỏ, mắt xanh của các minh tinh phim Đài Loan và Hồng Kông vốn đang
là hình mẫu mơ ước cho phụ nữ Việt đầu những năm 1990. Thậm chí, những đặc
trưng của âm nhạc, phim ảnh Hàn Quốc cũng in những dấu ấn đậm nét tới cách tư
duy, xây dựng và phát triển âm nhạc, phim ảnh Việt Nam đến mức mà các ngôi sao
trẻ ở Việt Nam hiện nay có nhiều nét tương đồng với các thần tượng Hàn Quốc
không chỉ về đường nét khuôn mặt, thời trang mà cả phong cách, cá tính nghệ thuật.
Giới trẻ Việt Nam chú ý nhiều hơn đến những câu chuyện lãng mạn, tình cảm thay
vì các nội dung mang tính giáo huấn trước đây. Họ cũng bị thu hút mạnh mẽ bởi
hình thức hào nhoáng, vẻ bề ngoài đẹp đẽ, bóng bẩy. Những ngôi sao với ngoại
hình xinh đẹp cũng góp phần làm thay đổi quan niệm về vẻ đẹp ở giới trẻ, hướng họ
đến những chuẩn mực mới: cằm Vline, mũi Sline, da trắng, răng đều tăm tắp, eo
thon, ngực nở hay bụng 6 múi (ở nam giới)... Ngày càng nhiều bạn trẻ tìm đến phẫu
thuật thẩm mĩ bởi sự ảnh hưởng của những chuẩn mực mới này. Điều này được giải
thích là do mấy chục năm bị bó hẹp trong văn hoá tuyên truyền, thậm chí đến thời
trang và thẩm mỹ cũng đơn điệu nên khi những bộ phim Hàn Quốc với những hình
ảnh trai xinh, gái đẹp, cảnh quay lãng mạn, nhất là khi K-Pop với giai điệu du
dương, các ca sĩ xinh đẹp, sành điệu, nhảy giỏi hát hay tràn vào, giới trẻ Việt dễ
dàng bị mê hoặc. Việc những người hâm mộ trẻ luôn có xu hướng học tập cách ăn
mặc, make up, kiểu tóc, thậm chí xăm hình cơ thể... của các thần tượng như đã phân
tích ở 4.1.2.1. cũng là minh chứng cho sự thay đổi về thị hiếu và quan niệm thẩm mĩ
ở giới trẻ Việt Nam hiện nay. Họ luôn là những người ủng hộ tích cực cho những
mốt quần áo, mẫu tóc mới, những thứ bóng bẩy, màu sắc, mới nhất, thời thượng
nhất, đặc biệt là luôn cập nhật các xu hướng mới từ thần tượng của họ.
Thứ hai, không chỉ thay đổi nhu cầu, thị hiếu và quan niệm thẩm mĩ của giới
trẻ, công nghiệp giải trí đã góp phần làm thay đổi văn hóa tiêu thụ của giới trẻ. Từ
thời Làn sóng xanh đến nay, qua nhiều biến động (với sự thay đổi liên tục các trào
lưu âm nhạc: nhạc Hoa lời Việt, nhạc Hàn, nhạc Âu Mỹ; các thể nghiệm với chất
liệu âm nhạc dân gian; sự thoái trào của nhạc trẻ, sự bùng phát của nhạc thị trường;
sự nổi lên của nhạc Hip Hop và Rap...), nền công nghiệp giải trí ở Việt Nam vẫn
cho thấy xu hướng thị trường hóa là tất yếu, cũng giống như việc giới trẻ hiện nay
khó mà vượt thoát khỏi việc tiêu thụ các sản phẩm phục vụ giải trí nói chung và tiêu
120
thụ thần tượng nói riêng. Nghệ thuật hay thể thao từ chỗ để đáp ứng nhu cầu giải trí
của con người trong cuộc sống thường ngày đã trở thành những ngành công nghiệp,
sản xuất ra những sản phẩm, mặt hàng để bán, đồng thời sản sinh ra những cách
thức để thúc đẩy con người sống trong xã hội này tiêu thụ những sản phẩm ấy. Giới
trẻ Việt Nam giờ đây không chỉ tiêu thụ âm nhạc vì ca từ ý nghĩa, giai điệu hay
(như cách thế hệ lớn tuổi say mê nhạc vàng, nhạc đỏ) mà còn bởi hình ảnh và nội
dung MV mới lạ, kịch tính và đặc biệt các ca sĩ phải có ngoại hình đẹp, vũ điệu bắt
mắt, cập nhật những xu hướng mới nhất về thời trang... Âm nhạc, với họ, không chỉ
để nghe mà còn để trải nghiệm và thông quan với thế giới. Sự phát triển của văn hoá
thị giác như hiện nay đã khiến cho việc tiêu thụ âm nhạc đại chúng (nhạc Pop) luôn
gắn liền và là một gợi ý, một đường dẫn tới việc tiêu thụ các sản phẩm quần áo thời
trang, mỹ phẩm, phụ kiện... Việc mẫu giày mới của Biti’s cháy hàng ngay sau khi
xuất hiện trong MV Hãy trao cho anh của Sơn Tùng (7/2019) như đã nhắc đến ở
3.3.1. là một minh chứng tiêu biểu cho điều này. Song song với nhu cầu về văn hóa
nghe nhìn, truyền thông thị giác là sự xuất hiện và lớn mạnh của các ngành công
nghiệp sản xuất hàng hoá như mỹ phẩm, thời trang, giày dép, đồ công nghệ... ở Việt
Nam, gắn liền với sự thay đổi trong quan niệm và thị hiếu thẩm mỹ, vẻ đẹp cơ thể,
về đẳng cấp và hàng hiệu...
Như vậy, từ ảnh hưởng của những người nổi tiếng, thần tượng tới người hâm
mộ, có thể thấy sự chuyển dịch mạnh mẽ trong đời sống văn hoá giới trẻ Việt Nam,
trong đó, văn hoá đại chúng, công nghiệp giải trí đã tạo ra cả một thế hệ sống khác
và nghĩ khác, đã cấu hình (design) lại đời sống giới trẻ bằng cách “nhúng” họ vào
một “bể nghĩa” khác so với các thế hệ trước đây, thiết lập nên một hệ thống nghĩa
mới, nhu cầu và thị hiếu mới. Mặt khác, việc giới trẻ nói riêng và xã hội nói chung
ngày càng có xu hướng chú trọng những sản phẩm văn hóa có hiệu ứng thị giác
(visual) như âm nhạc thị trường, phim truyền hình khiến cho các loại hình văn hóa
khác có nguy cơ bị suy giảm, mờ nhạt, đồng thời còn khiến thị hiếu thẩm mĩ của xã
hội có chiều hướng ngày càng trở nên đơn giản, dễ dãi. Cũng vì điều này mà văn
hóa đại chúng được cho là “loại văn hóa tiêu dùng dành cho đại chúng có trình độ
văn hóa thấp”. Mặc dù vậy, sự chú ý tới nhu cầu giải trí và thói quen hưởng thụ các
loại hình văn hoá giải trí ở Việt Nam đã phản ánh rõ nét những chuyển dịch của đời
sống xã hội đương đại theo hướng gia tăng những yếu tố dân chủ, tích cực: mức
sống được nâng cao, đời sống vật chất được cải thiện, người dân có điều kiện và cơ
121
hội để quan tâm đến đời sống tinh thần; sự cởi mở về chính trị, hệ tư tưởng xã hội
đóng vai trò như một nhân tố cơ bản, có tác động lớn đến cả việc tự do sáng tác,
sáng tạo của người nghệ sĩ trong các lĩnh vực giải trí, nghệ thuật, lẫn tâm thế tự do
lựa chọn và hưởng thụ các hình thức giải trí và thể nghiệm của người dân.
5.2. Truyền thông, thần tượng và giới trẻ như một nhóm công chúng đặc biệt
5.2.1. Ảnh hưởng của truyền thông tới các hình thức giải trí và tương tác của giới trẻ
Những thực hành hâm mộ đặc trưng trên truyền thông (like, view, share,
vote) ở giới trẻ như đã phân tích trong chương 3 và 4 cho thấy sự ảnh hưởng mạnh
mẽ của truyền thông đại chúng, đặc biệt những phương tiện truyền thông mới tới
đời sống giới trẻ cũng như đời sống xã hội Việt Nam đương đại.
Trước hết, sự bùng nổ của các phương tiện truyền thông mới37 gắn với các công
nghệ ngày càng đột phá đã làm thay đổi toàn bộ phương thức tìm kiếm thông tin và giải
trí cũng như cách kết nối và tương tác nhau ở giới trẻ. Việc “cày view” của những
người hâm mộ trẻ là kết quả của sự lớn mạnh của youtube - một kênh tìm kiếm thông
tin giải trí thu hút đông đảo giới trẻ nhất hiện nay. Việc sử dụng thành thạo các ứng
dụng công nghệ và các phương tiện truyền thông ở những người hâm mộ trẻ đã cho
thấy rằng sự phát triển của các phương tiện truyền thông mới dẫn đến sự ra đời của
“thế hệ số” (một thế hệ được xác định trong và thông qua kinh nghiệm của họ về công
nghệ máy tính kỹ thuật số), “thế hệ mạng”, “thế hệ nghe nhìn” (cyber-kids) (Sefton-
Green) [112, tr. 2], “thế hệ ngón tay cái” (những người trẻ tuổi đã phát triển một sự
khéo léo mới trong ngón tay cái của họ nhờ vào việc sử dụng bàn điều khiển trò chơi
và điện thoại di động) (Buckingham) [81, tr. 1]. Sự phát triển mạnh mẽ của các mạng
xã hội như facebook, twitter, instagram - những phương tiện truyền thông đặc biệt có
khả năng tích hợp nhiều cấp độ truyền thông với ưu điểm nổi bật là tính tương tác cao -
đã khiến giới trẻ được tiếp cận với những không gian mới, con người mới, văn hóa
mới, với những đại dương thông tin mới và đa dạng.
Nếu như trước đây, việc thiết lập quan hệ xã hội của giới trẻ chủ yếu là mặt
đối mặt theo kiểu gặp gỡ rồi kết thân thì hiện nay, họ có thể duy trì và tăng cường
mối quan hệ với nhau qua mạng xã hội. Sự giảm sút mối liên hệ trực tiếp giữa
người với người trong xã hội hiện đại, đặc biệt xã hội đô thị đã khiến thanh thiếu
37Bùi Hoài Sơn (2008) gọi những phương tiện truyền thông như điện thoại di động, internet là những phương tiện truyền thông mới để phân biệt với những phương tiện truyền thông cũ (truyền thống) như là sách, báo in,...
niên ngày càng trở nên hướng nội và ít chia sẻ với cha mẹ. Thêm vào đó, việc phải
122
đối diện với những áp lực từ việc học hành, thi cử, những thay đổi liên tục trong
giáo dục khiến thanh thiếu niên ở trong tình trạng luôn phải liên tục tìm cách thích
ứng với những xáo trộn này, họ ngày càng trở thành một “ốc đảo”... Sự tham gia
vào các CLB người hâm mộ (FC) của Hằng, Minh và những người hâm mộ khác
như đã nêu ở chương 3 cho thấy các fanclub dù là những hội nhóm mới chỉ xuất
hiện trong khoảng 20 năm trở lại đây nhưng có vai trò như một sự “bù đắp” những
thiếu hụt mà đô thị hóa và cuộc sống ở đô thị gây ra, đồng thời cũng là một sự thích
ứng của giới trẻ Việt Nam trong bối cảnh mới. Thần tượng chính là “cái cớ” để giới
trẻ hiện nay kết nối, gặp gỡ và chia sẻ sở thích, niềm đam mê, thị hiếu, quan điểm
sống... với nhau. Thông qua các hội nhóm và các cộng đồng này, các ngôi sao và
người hâm mộ có thể dễ dàng kết nối và mối quan hệ tuy mơ hồ nhưng bền chặt
giữa họ được thúc đẩy dựa trên những cơ chế tương tác đặc thù của internet. Những
hội nhóm người hâm mộ dễ dàng “di chuyển qua lại giữa thế giới online sang
offline” và như đa số giới trẻ hiện nay, họ đang nỗ lực để hài hòa và gắn kết không
gian thực và không gian ảo, làm gia tăng tính mờ nhạt cho ranh giới giữa thực và ảo
của mạng xã hội (Nguyễn Thị Phương Châm) [5, tr. 268]. Điều này cho thấy giới trẻ
Việt Nam hiện nay đã có những cách thức xây dựng mạng lưới xã hội dựa trên sự
quan tâm và sở thích chung thay vì dựa trên các tổ chức đoàn thể như các thế hệ 7x,
8x trước đây.
Sự xuất hiện với tần suất ngày càng dày đặc và phổ biến của những chương
trình truyền thông, những trang báo điện tử đã khiến cho một loạt người nổi tiếng
được xuất hiện, trở thành những câu chuyện chung của công chúng, kết nối họ theo
cách hoàn toàn khác trước đây. Từ văn phòng công sở, giảng đường đại học cho đến
quán nước vỉa hè, không khó để thấy sự có mặt của người nổi tiếng trong đời sống
giới trẻ nói riêng và con người đương đại nói chung. Người ta trở nên quan tâm đến
những câu chuyện đời tư, cá nhân, những scandal của nghệ sĩ, phân tích, mổ xẻ sôi
nổi về họ - những con người mà công chúng tưởng như biết rõ từng chân tơ kẽ tóc
nhưng lại rất xa xôi. Hiện nay, ngoài các trang báo chuyên viết về chủ đề giải trí,
người nổi tiếng, còn có không ít các diễn đàn, hội nhóm fan và anti-fan, thậm chí có
cả những nhóm chuyên “hóng hớt showbiz” thu hút một lượng lớn thành viên tham
gia trên facebook và các diễn đàn. Có thể nói, bàn luận và quan tâm đến người nổi
tiếng không chỉ là một hình thức giải trí mà còn như một cách thức kết nối đám
đông trong môi trường đô thị, đặc biệt môi trường mà truyền thông bao phủ và chi
123
phối. Truyền thông dần trở thành “bầu khí quyển” bao quanh cuộc sống của những
người trẻ ở Việt Nam hiện nay.
5.2.2. Sự tiêu thụ truyền thông mạnh mẽ ở giới trẻ
Không chỉ làm thay đổi thói quen giải trí, giao tiếp, truyền thông còn khiến
giới trẻ trở thành những đối tượng tiêu thụ truyền thông mạnh mẽ, đều đặn. Những
người hâm mộ trẻ như My (đã nhắc đến ở chương 3), họ lớn lên trong bối cảnh
truyền thông đã phát triển mạnh mẽ. Không còn phải xem ti vi đen trắng, đọc báo in
như những người trẻ sinh ra trong những năm 1980, thế hệ của My là thế hệ của ti
vi đa chức năng, của điện thoại thông minh, của internet vào tận phòng ngủ, cũng là
thế hệ gắn chặt với những người nổi tiếng thường xuyên xuất hiện trên các kênh
truyền hình giải trí và mạng xã hội. Bối cảnh này đã khiến họ trở thành một thế hệ
công chúng truyền thông kiểu mới - rất khác với các nhóm công chúng truyền thông
trước đây. Việc những người hâm mộ trẻ thường xuyên like, view, share về thần
tượng như đã trình bày ở phần 3.1 là kết quả của việc nhóm công chúng này đã sử
dụng các ứng dụng truyền thông phổ biến như facebook, youtube, instagram, twitte
hay spotify một cách đều đặn. Sự tiêu thụ truyền thông mạnh mẽ này được thúc đẩy
bởi niềm tin rằng với sự đầu tư về thời gian và công sức, họ sẽ lập nên những thành
tích mới, kỉ lục mới cho thần tượng của mình. Các con số cụ thể (100 triệu view,
200 triệu view) được đặt ra như là cái đích để các fan hướng tới, kêu gọi, cổ vũ
nhau “lập nên kì tích” để “cùng tự hào” với những gì thần tượng và bản thân họ đã
làm được. Nhìn rộng ra có thể thấy thu hút sự chú ý trên mạng xã hội trở thành một
tiêu chuẩn mới của giới trẻ hiện nay. Những thực hành cụ thể như đăng hình đẹp lên
facebook (kéo theo trào lưu selfie “tự sướng”, “sống ảo”), like, view, thả tim đã trở
thành những thực hành quen thuộc thường ngày không chỉ ở giới trẻ.
Việc tiêu thụ truyền thông ngày càng được thúc đẩy hơn nữa bởi với những
tính năng ưu việt của truyền thông đại chúng (mass media), đặc biệt là truyền thông
xã hội (social media) hiện nay, những người hâm mộ trẻ không chỉ là khán giả, là
người tiếp nhận thông tin mà còn được mời gọi, khuyến khích tham gia vào quá
trình sản xuất những nội dung truyền thông thông qua khả năng cho phép tương tác
của các phương tiện truyền thông hiện đại (Duffett) [95]. Chẳng hạn ở chương trình
trực tiếp như Bữa trưa vui vẻ phát trên VTV6, người hâm mộ có thể gửi các yêu cầu
tới ekip cũng như nhân vật người nổi tiếng là khách mời thông qua trang fanpage
của chương trình này. Hoặc thông qua những gameshow trực tiếp (The Voice,
124
Vietnam Idol...), kết quả bình chọn thường phụ thuộc ít nhất là một nửa vào quyết
định của khán giả thông qua hệ thống bình chọn bằng tin nhắn. Khán giả được cấp
cho một thứ “quyền lực” mà thông qua cách thức này, chương trình thu được những
lợi ích to lớn: lợi nhuận từ việc bán quảng cáo thông qua khả năng thu hút lượng
người xem (rating cao hay không) ở khung giờ vàng. Chính tính linh động này của
truyền thông đã khiến giới trẻ không chỉ là khán giả (audiences) mà còn là người
sáng tạo (creators). Không chỉ tiêu thụ truyền thông mạnh mẽ, nhóm công chúng
này còn biến những hình ảnh của truyền thông trở nên năng sản hơn bằng cách “hấp
thụ”, tái diễn giải, phản hồi và góp phần và sáng tạo những nội dung truyền thông
mới thông qua khả năng cho phép tương tác của các phương tiện truyền thông hiện
đại. Những thực hành hâm mộ thần tượng ở giới trẻ cho thấy họ cũng chính là
những người thúc đẩy truyền thông phát triển và đổi mới bởi nhu cầu liên tục thay
đổi của họ. Cập nhật liên tục các trào lưu mới thông qua mạng xã hội, giới trẻ cùng
nhau chia sẻ và tạo dựng những “trend” (xu hướng) mới nhất, làm đa dạng đời sống
xã hội nói chung. Hấp thụ những thay đổi của các phương tiện truyền thông, giới trẻ
ngày càng tạo dựng cho mình những căn tính phù hợp để sống trong bối cảnh mà
mọi thứ đều được bủa vây bởi truyền thông. Do vậy, giới trẻ vừa là người tạo ra,
vừa là người cảm nhận sự thay đổi văn hóa. Về điều này, rất dễ để phân biệt họ với
các nhóm công chúng truyền thông lớn tuổi hơn.
Những cách thức hâm mộ thần tượng ở giới trẻ hiện nay cũng cho thấy giới
trẻ là những người chịu ảnh hưởng nhưng cũng là những chủ thể của sự lai ghép
văn hóa (cultural hybridization). Hâm mộ thần tượng trở thành một hiện tượng
xuyên quốc gia và những thực hành cụ thể của người hâm mộ có thể phản chiếu
những sự tiếp biến, tương tác, hòa trộn từ các nền văn hóa khác nhau. Qua các
phương tiện truyền thông, mỗi một diễn viên, ca sĩ hay cầu thủ nổi tiếng đều có
những FC riêng ở khắp nơi trên thế giới mà đôi khi chính họ cũng không biết đến sự
tồn tại của chúng. Người hâm mộ ở Việt Nam có thể kết nối với cộng đồng người
hâm mộ quốc tế, những chia sẻ thường xuyên của họ về thông tin, hình ảnh và cảm
xúc về thần tượng đã giúp gắn kết họ với nhau, bất chấp khoảng cách địa lí và bất
đồng ngôn ngữ (trường hợp fan của nhóm T-ara, BTS). Riêng với cộng đồng fan K-
Pop ở Việt Nam, những FC này được thành lập và hoạt động giống mô hình và cách
thức của các FC của những fan K-Pop, rất nhiều bạn trẻ vừa là fan của ngôi sao K-
Pop vừa là fan của các ngôi sao Việt Nam (trường hợp My, Hằng, Phương Anh như
125
đã nói ở 3.1, 3.2), họ chịu ảnh hưởng không nhỏ từ cách hâm mộ thần tượng của
giới trẻ Hàn Quốc. Chính họ là một nhân tố quan trọng trong việc định hình và phổ
biến những cách thức hâm mộ thần tượng của giới trẻ trong nước như chúng ta thấy
hiện nay (đu show, mua album, mua lightstick, chờ ở sân bay, thành lập các FC...).
Những thần tượng, người nổi tiếng liên tục xuất hiện trên truyền thông có tác
động không nhỏ đến việc định hướng, dẫn dắt thị hiếu, tư tưởng của công chúng nói
chung và giới trẻ nói riêng. Những thời kì trước đây ở Việt Nam, truyền thông được
sử dụng chủ yếu như một công cụ để tuyên truyền chủ trương của Đảng, Nhà nước
trong bối cảnh chiến tranh và xây dựng đất nước. Khi đó, sách báo, đài phát thanh...
đã khiến cả nước cùng chia sẻ chung ý nghĩa về những tấm gương anh hùng cách
mạng, anh hùng lao động. Đó là lí do thanh niên (cũng giống như mọi lứa tuổi khác)
đều ngưỡng mộ các anh hùng dân tộc, lãnh tụ cách mạng... và ý thức hệ thống trị
lúc bấy giờ là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa tập thể. Ngày nay,
giới trẻ có những thần tượng đặc trưng cho lứa tuổi của riêng mình, sự hâm mộ của
họ gắn với sự giải trí, tiêu dùng, gắn với hàng hóa, đặc biệt, sự phát triển của ngành
quảng cáo đã thúc đẩy công chúng tham gia vào các quá trình tiêu thụ và cập nhật
những xu hướng, lối sống theo những giá trị của phương Tây. Đầu những năm
2010, trên sóng của VTV liên tục phát các chương trình có format bản quyền mua
lại từ Mĩ, những người làm truyền hình cũng là những người đi học ở các nước
phương Tây… Nội dung và kĩ thuật hình ảnh, âm thanh của những chương trình
gameshow nhập khẩu (chẳng hạn như Vietnam Idol, X Factor, The Face, The
Debut,...) đã khiến khán giả nhập tâm hóa với những khái niệm, hình ảnh, tư duy,
lối sống phương Tây khiến chúng dần trở nên quen thuộc, len lỏi vào cuộc sống đời
thường của người dân, đặc biệt là giới trẻ. Đây cũng được coi là một con đường
khiến những giá trị theo kiểu phương Tây trở nên thống soát. Công nghệ truyền
thông mới đã khiến hàng triệu người trên thế giới trở nên quan tâm đến bản thân họ
hơn và xa rời những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc hay say mê với những sản
phẩm thương mại và cả văn hóa của Tây phương (mà cụ thể là Coca Cola,
Hollywood, Microsoft) hơn những sản phẩm của chính nước mình. Nó góp phần
vào việc thúc đẩy quá trình dân chủ hóa, mặt khác nó “làm cho toàn bộ thế giới nghĩ
và viết như người Mỹ” (Bùi Hoài Sơn) [52]. Việc Sơn Tùng được đánh giá cao và
được khán giả quốc tế biết đến nhiều hơn sau MV ca nhạc có sự hợp tác của các ca
sĩ, diễn viên người Mỹ, quay ở Mỹ; hay việc BTS được xuất hiện và ca tụng nhiều
126
lần trên truyền thông Mỹ như một nhóm nhạc Hàn Quốc hàng đầu là những minh
chứng cho việc họ đã vươn ra thế giới, họ đã đạt được thành công nhưng đồng thời
cũng là sự củng cố cho tính “bá quyền” của Mỹ bởi lẽ Mỹ đã trở thành một đích đến
cho mọi sự nỗ lực, là thước đo chuẩn mực của mọi thành công. Qua đó, văn hóa
truyền thông của Mỹ đang xâm nhập nền văn hóa trên toàn thế giới, tạo ra các hình
thức mới phổ biến trên toàn cầu.
Qua việc những người hâm mộ tích cực sử dụng cũng như tham gia vào quá
trình sáng tạo các nội dung truyền thông, có thể nói giới trẻ Việt Nam đã định danh
về họ là một thế hệ “đam mê công nghệ, ăn ngủ cùng internet” (Nguyễn Thị
Phương Châm) [5, tr. 242]. Họ luôn cập nhật những ứng dụng mới nhất về công
nghệ, luôn cố gắng bắt kịp các trào lưu mới mẻ trên truyền thông, có xu hướng kết
nối nhanh và mạnh mẽ trong không gian ảo, là những chủ thể góp phần thúc đẩy
truyền thông phát triển theo hướng ngày càng đa dạng hơn. Sự phổ biến của truyền
thông có thể coi là một trong những nhân tố cơ bản thúc đẩy những động năng mới
trong đời sống giới trẻ nói riêng và đời sống xã hội Việt Nam nói chung trong gần
30 năm trở lại đây, đặc biệt thúc đẩy quá trình dân chủ hoá, làm nảy sinh những xu
hướng và lối sống mới theo hướng cởi mở và đa chiều hơn.
5.3. Chủ nghĩa tiêu dùng và giới trẻ như một thị trường tiềm năng
5.3.1. Giới trẻ - một thế hệ người tiêu dùng mới
Như nhiều nghiên cứu đã chỉ ra, sự phổ biến của hiện tượng hâm mộ thần tượng
là do “thu nhập ngày càng tăng của người dân để duy trì việc mua các sản phẩm liên
quan đến hâm mộ thần tượng” (Dẫn theo Cheng &Yue [87, tr. 251]). Hâm mộ thần
tượng ở Việt Nam hiện nay không chỉ cho thấy mức độ cải thiện về kinh tế của đất
nước mà còn phản ánh sự gia tăng của thói quen tiêu thụ hàng hóa của những người trẻ
từ sau Đổi mới, khiến cho họ trở thành một thị trường nhiều tiềm năng.
Giới trẻ chiếm hơn 30% dân số và là “nhóm người tiêu dùng lớn nhất tại Việt
Nam hiện nay” [148, tr. 491]. Họ được sinh ra sau Đổi mới, họ lớn lên với sự gia tăng
của hàng hóa nước ngoài tại thị trường Việt Nam (đặc biệt phim nước ngoài, âm nhạc
và sách) cũng như sự xuất hiện của lối sống tiêu dùng toàn cầu. Cuộc cách mạng công
nghiệp trên thế giới đã khiến lượng hàng hóa gia tăng từng ngày, tuy nhiên, ở Việt
Nam, sự nhỏ giọt của hàng hóa thời kì quan hệ với Đông Âu không làm “cơn khát” về
hàng hóa, về nhu yếu phẩm dịu đi. Sau khi mở cửa năm 1986, sự khan hiếm hàng hóa
ở Việt Nam bắt đầu được khắc phục bởi sự bắt đầu của kinh tế thị trường. Đến 20 năm
127
trở lại đây, chúng ta được chứng kiến một khối lượng hàng hóa không ngừng gia tăng
mỗi ngày, người dân không chỉ ăn no mặc ấm mà đã được đáp ứng để ăn ngon mặc
đẹp, đặc biệt là ở các đô thị. Sự mọc lên như nấm của các trung tâm thương mại - nơi
được cho là tập trung mọi loại hàng hóa với đủ loại giá cả ngày càng là nơi lui đến để
mua sắm, vui chơi giải trí của mọi người, nhất là giới trẻ. Không chỉ tiêu thụ để đáp
ứng nhu cầu thiết yếu, giới trẻ giờ đây có xu hướng tiêu thụ mạnh mẽ những sản phẩm
văn hoá, giải trí để thoả mãn sở thích và cảm xúc cá nhân.
Sau giai đoạn phát triển công nghiệp thiên về sản xuất các sản phẩm phục vụ
nhu cầu vật chất thiết yếu của con người, thành tựu của các cuộc cách mạng 2.0 rồi
3.0 đã tạo nên một lượng hàng hóa khổng lồ và ngày càng dư thừa. Trước nguy cơ
bão hòa nhu cầu về hàng hóa, chủ nghĩa tiêu dùng đã tìm kiếm và khai thác những
nhu cầu liên quan đến cảm xúc, cảm giác của con người để mở rộng thị trường của
nó. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng tập trung phát triển các ngành công
nghiệp văn hóa, tạo ra các sản phẩm văn hóa để đáp ứng nhu cầu về giải trí, tinh
thần cho con người hiện đại. Trong bối cảnh đó, công nghiệp văn hóa trở thành một
ngành công nghiệp mũi nhọn ở các xã hội tư bản. Nó ngày càng cho thấy mức độ
ảnh hưởng của mình thông qua sự thúc đẩy tiêu thụ các sản phẩm văn hóa đại chúng
trên phạm vi toàn cầu, trong đó có sự tiêu thụ có liên quan đến thần tượng.
Công nghiệp văn hóa được coi là một ngành kinh tế, các dịch vụ và sản
phẩm văn hóa như một bộ phận của nền kinh tế toàn cầu (Phạm Văn Đức) [13, tr.
28]. Công nghiệp văn hóa ngày càng mở rộng sức ảnh hưởng của nó bằng các chiến
lược khác nhau nhằm khai thác tối đa thị trường và lợi nhuận. Chỉ trong thời đại của
ngành công nghiệp văn hóa, các thần tượng mới được coi là các hàng hóa như
chúng ta đang thấy hiện nay. Khác với cách hiểu về thần tượng ở các thời kì trong
quá khứ, thần tượng hiện nay như một “sản phẩm” văn hóa được “sản xuất” ra theo
những quy trình bài bản, với những “chất lượng” đặc biệt nhằm đáp ứng “nhu cầu”
của người tiêu dùng đồng thời cũng là những người hâm mộ trẻ. Quy trình sản xuất
một thần tượng với tư cách một sản phẩm đại chúng bao gồm: xây dựng thần tượng
dựa trên việc nắm bắt nhu cầu và thị hiếu của công chúng, quảng bá cho thần tượng
và tìm cách giữ chân công chúng. Quy trình này không có quá nhiều sự khác biệt so
với quy trình tạo ra và nâng cấp những hàng hóa công nghiệp khác chẳng hạn như
iphone, mĩ phẩm và thời trang hàng hiệu... Cách giới trẻ tiêu thụ hàng hóa có liên
quan đến thần tượng như đã trình bày ở mục 3.3. cho thấy những ảnh hưởng của
128
công nghiệp văn hóa, đặc biệt là quá trình hàng hóa hóa văn hóa và chiến lược của
nền kinh tế cảm xúc trên phạm vi toàn cầu, mà Việt Nam không phải là ngoại lệ.
Tiến trình “hàng hóa hóa văn hóa” (The process of cultural
commodification) (Horkheimer và Adorno [120]) đã biến văn hóa trở thành các sản
phẩm đại chúng bán chạy: một chú mèo máy Đô rê mon - một biểu tượng về sự toàn
năng, hiện thực hoá các ước mơ và tưởng tượng viển vông gắn liền với tuổi thơ của
nhiều trẻ em trên toàn thế giới, máy nghe nhạc “riêng tư hóa” sự giải trí của giới trẻ
Sony Walkman, biểu tượng của sự sexy Manrylin Monroe, nhóm Beatles huyền
thoại... Như Turner đã viết: “Nếu người nổi tiếng là một loại hàng hóa thì tôi muốn
biết thêm về các ngành sản xuất hàng hóa đó” [175, tr. 18]. Trong thời đại của văn
hóa đại chúng, thần tượng hay người nổi tiếng nói chung được “sản xuất hàng loạt”
như là các sản phẩm đại chúng được tiêu dùng rộng rãi, đều đặn, mang lại lợi nhuận
cho các công ty truyền thông và các nhà sản xuất tư bản. Không những thế, tính
năng sản của thần tượng còn khiến họ được coi là những siêu hàng hoá. Chính nền
kinh tế tư bản toàn cầu đã làm nảy sinh những thần tượng và cách thức hâm mộ thần
tượng như hiện nay. “Người ta phải tiêu dùng thì mới tiêu thụ hết được những cái
mà chủ nghĩa tư bản sản xuất ra” bởi lẽ “sản xuất là trung tâm” còn “tiêu dùng hàng
hóa là nguyên lí của chủ nghĩa tư bản” (Tomlinson) [174], trong đó, cái tôi, tính chủ
thể là một sản phẩm có thể “bán” được. Những người nổi tiếng là những hình ảnh
được bán, theo những gì đám đông cần, do vậy, họ ngày càng trở thành những “sản
phẩm văn hóa” đầy sức hút.
Các thực hành tiêu dùng ồ ạt của những người hâm mộ trẻ còn cho thấy sự
nổi lên của nền kinh tế cảm xúc (affective economy) (Ahmed [70], Jenkins [127]).
Khi đã đáp ứng tương đối đầy đủ các nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống con người,
nền sản xuất công nghiệp thời hiện đại muộn buộc phải tìm ra và tạo ra những thị
trường tiêu thụ mới, một “lãnh địa màu mỡ” giúp họ tránh được nguy cơ bão hoà,
đó là cảm xúc của con người. Các sản phẩm của ngành công nghiệp văn hóa được
tạo ra và trở nên phổ biến, thúc đẩy người tiêu dùng trẻ không phải bởi nhu cầu
hàng hóa vật chất mà bởi nhu cầu về cảm xúc. Ở chừng mực nào đó, giải trí
(leisure), cảm xúc (emotion) và tiêu dùng (consumption) nhiều khi khó tách biệt.
Liên quan đến các nhu cầu về cảm xúc, tiêu dùng mang lại cho con người hiện đại
một cảm thức rằng thông qua việc mua sắm hàng hóa, họ đồng thời cũng tiêu thụ
một phong cách, một lối sống và cả tính hiện đại... Đó cũng là cách thức mà chủ
129
nghĩa tiêu dùng (đằng sau nó là các cỗ máy của chủ nghĩa tư bản) tạo ra để kích
thích mọi hình thức tiêu dùng nhằm thu lợi nhuận. Theo Jenkins, nền kinh tế cảm
xúc tìm cách tạo ra một kết nối sâu sắc hơn, nhiều cảm xúc hơn giữa người tiêu
dùng và sản phẩm. Đây được coi là một phương thức tiếp thị mới dựa trên động lực
cảm xúc để thu hút mọi người và ảnh hưởng đến việc tiêu thụ một sản phẩm mới,
nhấn mạnh những cam kết cảm xúc mà người tiêu dùng thực hiện đối với thương
hiệu như một động lực trung tâm cho quyết định mua hàng của họ. Theo đó, các
nhóm tiếp thị có thể trang bị lại các chiến dịch quảng cáo của họ và sáng tạo lại sản
phẩm của họ như một thứ gì đó hơn là một mặt hàng và khiến nó trở nên hấp dẫn
hơn nhiều đối với người tiêu dùng tiềm năng [127, tr. 61-62].
Để người hâm mộ/ người tiêu dùng tự nguyện mua các sản phẩm đại chúng,
chủ nghĩa tiêu dùng đã kiến tạo một loạt những “diễn ngôn” về tiêu dùng và kích
thích tiêu dùng thông qua các ngôi sao - những tuyên ngôn, minh chứng sống,
những biểu tượng về thời trang, phong cách và lối sống hiện đại, sành điệu, hợp thời
cũng như nhắm vào sự gắn bó, trung thành của người hâm mộ. Những ngôi sao,
người nổi tiếng dần được coi là những người dẫn đầu, định hướng phong cách sống
cho công chúng, đặc biệt là công chúng trẻ, những người dễ chịu ảnh hưởng từ
những hình mẫu nổi bật trên truyền thông. Sự ảnh hưởng của người nổi tiếng đến
giới trẻ/ người tiêu dùng phụ thuộc ba yếu tố: mức độ nổi tiếng (quen thuộc, quen
mặt) của người nổi tiếng, hình ảnh tích cực của người nổi tiếng, và sự tương đồng
giữa người nổi tiếng và các nhãn hàng mà họ đại diện/ quảng cáo. Việc sử dụng một
người nổi tiếng trong một quảng cáo sẽ làm tăng thương hiệu nhận biết, thu hút
người hâm mộ của người nổi tiếng đó, “khuyến khích họ thử nghiệm và tăng cường
sự tự tin khi mua hàng” (Chan và cộng sự) [86]. Việc nhà quảng cáo và các nhà bán
lẻ thường sử dụng những người nổi tiếng trên truyền thông như người phát ngôn
cho các sản phẩm và dịch vụ mà mục tiêu nhắm đến những người trẻ tuổi xuất phát
từ sự gắn bó (attachment) của người trẻ tuổi với các nhân vật truyền thông bên cạnh
mối quan hệ gia đình và bạn bè. Việc các fan của Sơn Tùng, BTS thường xuyên
“bóc giá”, kể ra vanh vách thương hiệu của các món đồ được thần tượng của họ sử
dụng cho thấy họ có một sự quan tâm sâu sắc đến những thương hiệu được bảo đảm
bằng danh tiếng của các thần tượng, đồng thời cũng cho thấy họ rất có thể là những
khách hàng của các thương hiệu nổi tiếng này trong tương lai không xa.
130
Trường hợp Sơn Tùng trong những phân tích về những thực hành tiêu dùng
có liên quan đến thần tượng ở mục 3.3. có thể coi là một ví dụ tiêu biểu cho cách
thức xây dựng giá trị thương mại của một người nổi tiếng - một “sản phẩm” đại
chúng. Ngoài việc tiếp thị cho các sản phẩm âm nhạc của chính mình, Sơn Tùng
còn đã và đang là đại diện quảng cáo cho rất nhiều thương hiệu khác: Viettel, Oppo,
Biti’s Hunter, Miniso, Goviet, Pepsi, Gogi, TP bank,... Tên tuổi của Sơn Tùng là
một thứ chứng thực đáng tin cậy đối với các nhãn hàng để thu hút công chúng và
người tiêu dùng. Sự tiêu thụ dựa trên cảm xúc ở nhóm người hâm mộ Sơn Tùng
mạnh mẽ đến mức giúp làm tăng doanh số bán hàng của Biti’s lên 300%, giúp hồi
sinh thương hiệu này sau MV Lạc trôi vào tháng 1/2017, hoặc thậm chí khiến Oppo
ra mắt riêng một dòng sản phẩm theo tên chính nam ca sĩ này: Sơn Tùng M-TP
Limited Edition F3 vào tháng 6/2017.
Giống như quy luật của kinh doanh, khi nào người tiêu dùng mua sản phẩm
dựa trên tình yêu và niềm tin dành cho sản phẩm thì khi đó doanh nghiệp/nhãn hàng
đã thành công. Một khi nhà sản xuất, sản phẩm xây dựng được niềm tin, tình yêu
với khách hàng thì những hành vi tiêu dùng của khách hàng sau đó là tất yếu và dễ
dàng. Vận hành theo nguyên tắc này, các ngôi sao âm nhạc, thể thao, điện ảnh -
những người thường xuyên có sự xuất hiện và sự tái trình hiện (representation) chỉn
chu, đẹp đẽ trước công chúng dễ dàng thu hút số lượng khổng lồ fan hâm mộ. Điều
này cũng lí giải vì sao việc giữ gìn hình ảnh là quan trọng bậc nhất đối với họ. Sự
nổi tiếng, thành công, những phẩm chất tốt đẹp được người hâm mộ “gán” cho Sơn
Tùng đã giúp ca sĩ này trở thành một biểu tượng văn hóa, một biểu tượng của giới
trẻ. Khi trở thành một biểu tượng, nhất cử nhất động của ca sĩ này đều có tính dẫn
dắt, hướng đạo và cả sức cưỡng chế, có quyền lực lớn đối với những người yêu
thích. Đó là lí do vì sao Sơn Tùng ra ca khúc gì mới cũng tạo nên cơn sốt, “cơn địa
chấn” trong làng nhạc Việt. Vì sùng bái thần tượng của mình, các fan mặc nhiên cày
view, “automatic” hưởng ứng và ra sức kêu gọi mọi người bình chọn, mua vé
concert, mua các sản phẩm để ủng hộ cho thần tượng, các hàng hóa mà thần tượng
làm đại diện quảng cáo cũng nhanh chóng được tiêu thụ.
Ngoài việc nhắm vào cảm giác về lòng trung thành, sự ủng hộ của fan đối
với thần tượng, nền kinh tế cảm xúc còn thúc đẩy người hâm mộ tiêu thụ sản phẩm
bằng việc cấp cho họ cảm giác về vị thế, quyền lực. Họ được coi như “những người
tiêu dùng chuyên nghiệp” (consumers), “người tiêu dùng truyền cảm hứng”
131
(inspirational consumers) (Jenkins) [128] hay “khán giả năng suất” (Fiske) [101].
Các hoạt động của người hâm mộ đã gián tiếp mang lại lợi ích cho các tập đoàn
hùng mạnh (Kozinets) [135]. Việc tiêu thụ mạnh mẽ của fan BTS như đã trình bày
ở mục 3.3. cho thấy người hâm mộ hiện nay trở nên tin rằng số lượng và tốc độ tiêu
thụ của họ đối với các sản phẩm của thần tượng là cách mà họ có thể thể hiện “đẳng
cấp” và “quyền lực” của mình so với những cộng đồng người hâm mộ khác. Sự
ganh đua về vị thế của thần tượng thực chất là quá trình tiêu thụ của người hâm mộ.
Như vậy, nền công nghiệp văn hoá đã thúc đẩy việc hình thành quan niệm cho rằng
tình cảm của một fan phải được quy đổi ra bằng số tiền mà họ tiêu cho thần tượng ở
những người hâm mộ trẻ hiện nay.
Không chỉ “bán” cảm xúc, chủ nghĩa tiêu dùng đã “bán” cho người hâm mộ
những “ý nghĩa liên quan đến bản sắc” (Ka Ki Cheung) [89]. Có thể thấy các sản
phẩm hiện nay đều là những hàng hóa được gắn với những diễn ngôn về thị hiếu,
phong cách. Khi chúng ta mua một hàng hóa, đó cũng là lúc chúng ta mua về những
ý nghĩa biểu trưng và những hình ảnh liên quan mà chúng ta tìm thấy trong các sản
phẩm. Việc tiêu thụ hàng hóa đã “cung cấp một khái niệm độc đáo cho bản sắc của
người tiêu thụ, giúp họ xây dựng một bản sắc nhất định khác với các nhóm khác”
(Purnama) [158]. Càng ngày, tiêu dùng càng được coi là một phương tiện để các cá
nhân và các nhóm thể hiện bản sắc của họ thông qua biểu tượng tượng trưng trong
thị hiếu và lối sống, với mong muốn tập trung vào các “ý nghĩa biểu tượng hơn là
phần thưởng vật chất” (AlanWarde) [178, tr. 282].
Nếu như trước đây, “cái tôi” (the self) và những vấn đề về căn tính chưa từng
là một khả thể được nghĩ đến ở Việt Nam, thì hiện nay, căn tính được kiến tạo gắn
với những diễn ngôn mới, gắn với những bối cảnh nhất định đã trở nên nổi bật và
trở thành một thứ “hàng hoá” bán chạy cho những đối tượng khách hàng trẻ tuổi
thông qua những sản phẩm cụ thể phù hợp với lứa tuổi của họ. Thời trang, đồ uống,
âm nhạc đều được “thổi” vào những ý nghĩa về một căn tính và người tiêu dùng
mua những sản phẩm đó, thực chất là mong muốn có thể “mua” về được một căn
tính nào đó mà họ cho là phù hợp với họ ở thời điểm nhất định, chẳng hạn cool
ngầu, chất chơi, sành điệu, thời thượng...
Ngay cả những căn tính từng được coi là đối ngược với văn hóa chính thống
(mainstream) trước đây cũng đã được khai thác triệt để nhằm khai thác tối đa thị
trường. Duffett cho rằng từ những năm 1960, các doanh nhân văn hóa thâm nhập
132
sâu hơn vào phần cuối của thị trường. Trong khi đó, các thành phần nổi bật nhất của
văn hóa giới trẻ đã tránh xa cuộc nổi loạn của tuổi vị thành niên và hòa nhập nhiều
hơn với chủ nghĩa khoái lạc và giải trí: thiên thần tuổi teen, âm thanh lướt sóng và
phim bên bãi biển giải trí cho khán giả trẻ phương Tây [95, tr. 33]. Cho đến hiện tại,
chủ nghĩa tư bản đã khai thác cả những phần nổi loạn của thanh niên để kích thích
mua bán và bành trướng sự thống soát của mình, khiến cho tiểu văn hóa giới trẻ đã
có những phần nhập vào dòng chính. Một ví dụ tiêu biểu là nếu như trước kia, hip -
hop được coi là một tiểu văn hóa bởi những thông điệp phản kháng mạnh mẽ đối
với văn hóa thống trị phương Tây thì hiện nay, nó lại được coi trọng và như một
công cụ đầy tính năng sản bởi khả năng kích thích tiêu thụ ở giới trẻ dựa trên tính
chất ca tụng “cá tính”, “tài năng”, “khác biệt”, “sống chất” của một loạt những sản
phẩm mang hơi hướng hip hop như: thời trang, âm nhạc, phụ kiện... “Đối văn hoá”
(counter-culture) sẽ được “chính thống hoá”, được nhập vào “dòng chính”
(mainstream) một khi nó tạo ra được lợi nhuận. Ở Việt Nam cũng vậy, những phần
nổi loạn của giới trẻ đang dần được khai thác mạnh mẽ và trở thành hàng hoá có thể
bán cho những khách hàng muốn mua “tính trẻ”, “tính nổi loạn” ấy và nhờ thế,
“giới trẻ” ngày càng không phải là một từ bị giới hạn bởi độ tuổi. Những mẫu quần
jean mài rách, những trang phục đậm chất hip hop, những hình xăm và màu tóc
sáng rực... được ưa chuộng không chỉ ở giới trẻ.
Tuy vậy, từ những quan sát thực tế, chúng tôi cũng nhận thấy rằng, việc tiêu
thụ các sản phẩm vì thần tượng theo cách như hiện nay có thể nói là một thực hành
của những người trẻ có mức sống trung bình-khá trở lên. Để mua những sản phẩm
của thần tượng hoặc do thần tượng làm đại diện, những người hâm mộ cần phải có
tiền, trong khi các đa số họ là những người trẻ tuổi, chính vì vậy, khi bị cuốn vào
vòng xoáy của nền kinh tế cảm xúc này, giới trẻ đã buộc phải tham gia vào thị
trường lao động sớm hơn dự kiến và đương nhiên, họ bị bóc lột sớm hơn và triệt để
hơn. Điều này cũng góp phần dẫn đến những thay đổi về quan niệm và lí tưởng
sống cũng như những giá trị được coi trọng trong xã hội Việt Nam hiện nay mà
chúng tôi sẽ bàn kĩ hơn ở phần sau.
5.3.2. Sự thẩm thấu ý thức hệ thị trường
Các thần tượng gắn với nền công nghiệp giải trí và văn hóa tiêu dùng trong
bối cảnh xã hội sau Đổi mới đã ngày càng xâm nhập sâu vào đời sống thường ngày
của giới trẻ Việt Nam là một biểu hiện của ý thức hệ thị trường trong đời sống giới
133
trẻ nói riêng và xã hội Việt Nam nói chung. Nếu sự tôn vinh các trung thần là một
sự củng cố ý thức hệ Nho giáo, tôn vinh các anh hùng cách mạng là một sự củng cố
ý thức hệ cộng sản thì việc hâm mộ các ngôi sao giải trí hiện nay cho thấy sự thẩm
thấu của ý thức hệ thị trường. Trong đời sống xã hội phi quan phương hiện nay, ý
thức hệ của chủ nghĩa cộng sản thời kì trước đây đã không còn chiếm vị trí độc tôn,
duy nhất mà có sự cạnh tranh và ảnh hưởng bởi những ý thức hệ khác. Những đổi
mới trong chính sách về kinh tế và văn hóa, đặc biệt là quá trình toàn cầu hóa và hội
nhập đã làm “biến đổi diễn ngôn cho và về thanh thiếu niên ở Việt Nam” từ chỗ là
một “đối tượng để phổ biến và giáo dục lí tưởng cộng sản” thành một “thị trường
đầy tiềm năng” (Huong Nguyen) [122, tr. 14].
Một trong những lí do chính khiến những thần tượng giải trí trở nên nổi
tiếng, được giới trẻ “tiêu thụ” một cách vô thức và có ý thức như đã thấy là vì
những hình ảnh về họ hợp thời và trùng khít với những ý nghĩa biểu tượng của ý
thức hệ thị trường ở những người hâm mộ trẻ nói riêng cũng như giới trẻ Việt Nam
hiện nay nói chung. Theo Huong Nguyen, khái niệm thanh thiếu niên (Youth) đã
phá vỡ quỹ đạo cuộc sống liên tục thành các giai đoạn riêng biệt và đánh dấu bước
chuyển từ một thanh niên có ý thức hệ theo định hướng của Đảng Cộng sản Việt
Nam sang một thanh niên chịu ảnh hưởng của định hướng thị trường mà bản sắc cá
nhân được nuôi dưỡng thông qua tiêu dùng tư bản [122, tr. 4]. Nền kinh tế thị
trường và các tư tưởng phương Tây có liên quan đã “phá vỡ quan niệm sống truyền
thống của người Việt từ một quỹ đạo liên tục thành một trong những giai đoạn phát
triển riêng biệt”, với nhu cầu phát triển và nhu cầu tiêu dùng riêng biệt (Huong
Nguyen) [122, tr. 4].
Thời đại hiện nay là thời đại mà con người ý thức rõ ràng về “sự thống soát
của hàng hóa, kinh tế thị trường và chủ nghĩa tiêu dùng ở khắp nơi trên thế giới”
(Phạm Quỳnh Phương) [47, tr. 11]. Việc tiêu thụ hàng hóa ở những người trẻ tuổi
được thúc đẩy bởi sự nổi lên của các diễn ngôn, đặc biệt phổ biến trên truyền thông,
về lối sống/phong cách sống, như một phương thức giúp giới trẻ kiếm tìm bản sắc
và đối mặt với sự biến đổi mạnh mẽ của môi trường và xã hội (Phạm Quỳnh
Phương) [46, tr. 27]. Khác với thế hệ cha mẹ, giới trẻ Việt Nam hiện nay tiêu dùng
hàng hóa không chỉ vì những nhu cầu thiết yếu, mà còn là mua về sự phong phú của
các mặt hàng, mua cảm giác về sự hưởng thụ và sung túc, nhằm giải phóng các nhu
cầu và thoả mãn thú vui cá nhân, hoặc niềm đam mê với hàng hoá. Giới trẻ Việt
134
Nam - một bộ phận không nhỏ là những người ở độ tuổi mà vốn kinh tế còn hạn chế
nhưng lại là đối tượng khách hàng rộng lớn - đã tiêu dùng một khối lượng lớn hàng
hóa với sự phổ biến của các chương trình quảng cáo trên ti vi, internet. Cứ mỗi
trung tâm thương mại, cửa hàng mới khai trương, với những quảng cáo hoa mĩ và
đầy kích thích, giới trẻ lại đua nhau tới xếp hàng “check in”. Ai cũng có thể mua
sắm hàng hóa dù họ ở giai cấp, tầng lớp nào, các nhà bán lẻ có đủ các sản phẩm với
đủ các mức giá để “giữ chân” bằng được khách hàng của mình. Tiêu dùng được coi
là một trong những cách để “giải giai cấp”, người giàu hay nghèo đều có thể tham
gia vào việc mua hàng. Việc tiêu thụ hàng hóa khiến người tiêu dùng cảm thấy cuộc
sống của họ ổn định và có ý nghĩa hơn. Tuy nhiên, cũng chính vì vậy mà lối sống,
lối tiêu dùng của những người thuộc tầng lớp thượng lưu ngày càng trở thành đích
đến của đa số người trong xã hội. Điều này có thể được giải thích do xã hội của con
người ở đô thị “ngày càng được liên kết với các dấu hiệu về địa vị như: nhà ở, các
tiện nghi, điện thoại di động, ô tô, xe máy và quần áo hàng hiệu” (Pam Nilan) [149].
Giới trẻ sẽ không thể ngừng nghĩ về hàng hoá và ham muốn mua hàng hoá khi mà
hàng hoá có mặt khắp nơi, bủa vây xung quanh họ. Chưa kể những hàng hoá này lại
được các nhà sản xuất tiếp thị bằng nhiều cách thức tinh vi như thông qua cảm xúc
và những ý nghĩa liên quan đến bản sắc như đã nói ở trên.
Thêm vào đó, người trẻ hiện nay trải qua những nỗi lo lắng khác với thời mà
bố mẹ họ sống. Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh kinh tế thị trường và nền sản xuất
hàng hóa gia tăng trong 20 năm trở lại đây, giới trẻ không lấy tiết kiệm làm mục
tiêu hàng đầu mà coi sự tiện nghi, trải nghiệm mới là mục đích của việc kiếm tiền
của họ. Tiêu dùng đóng một vai trò quan trọng trong việc “cá nhân hóa và xã hội
hóa giới trẻ” (Nhat Nguyen Nguyen và cộng sự) [148, tr. 490]. Những người tiêu
dùng trẻ này được biết đến như “những người tìm kiếm niềm vui, người tiêu dùng
văn hóa và những người định hướng sáng tạo” (Nhat Nguyen Nguyen và cộng sự)
[148]. Tham gia vào các thực hành tiêu dùng cũng là một cách thức giúp giới trẻ
hình thành các nhóm của họ (nhóm ngang hàng, nhóm theo sở thích mà các FC như
đã trình bày là một ví dụ điển hình) và phân biệt với các nhóm khác.
Ý thức hệ thị trường đã len lỏi và chi phối nhiều khía cạnh trong đời sống
văn hóa giới trẻ hiện nay bởi lẽ “những ý nghĩa biểu tượng, ý tưởng văn hóa và ý
thức hệ được mã hóa trong các văn bản văn hóa đại chúng” (Phạm Quỳnh Phương)
[47, tr. 10] khiến cho giới trẻ nhìn đâu cũng thấy những ý nghĩa biểu tượng và thông
135
điệp từ các hàng hóa xung quanh họ. Theo Nguyễn Thu Giang, nếu như trong giai
đoạn chiến tranh, báo chí Việt Nam thường đưa tin về người anh hùng cách mạng
như một cách củng cố ý thức hệ khá hiển ngôn và có dụng ý rõ ràng (còn gọi là
“nêu gương”), thì hiện tượng người nổi tiếng trên truyền thông hiện nay lại khá “tự
nhiên” và trong nhiều trường hợp, bản thân người nổi tiếng, người đưa tin lẫn công
chúng đều không có ý thức rõ ràng về sự tham gia của họ vào không gian của chủ
nghĩa tiêu dùng. Người nổi tiếng lại củng cố và quan trọng hơn cả, biến những giá
trị mang tính ý thức hệ trở nên “tự nhiên” và khó phát hiện đối với công chúng [16,
tr. 159]. Các văn bản văn hoá đại chúng (quảng cáo, chương trình truyền hình,
phim…) được coi như là “những định hướng về lối sống và căn tính, hàm chứa
trong nó những ý hệ thị trường (marketplace ideologies) và lý tưởng hoá các dạng
thức người tiêu dùng” (Phạm Quỳnh Phương) [47, tr. 10]. Những người nổi tiếng,
những thần tượng hút fan được truyền thông mà đặc biệt là các chương trình quảng
cáo của các nhãn hàng tôn vinh là “biểu tượng đương đại” chẳng hạn như Sơn Tùng
M-TP, như BTS chính là những “văn bản văn hóa đại chúng” như thế. Họ không chỉ
là những “hàng hoá đặc biệt” mà từ hình ảnh và biểu tượng của các thần tượng âm
nhạc này, chúng ta có thể nhìn ra những thông điệp của chủ nghĩa tiêu dùng: tiêu
thụ không ngừng, với niềm tin rằng họ sẽ mua được một phong cách, cá tính, cuộc
sống của họ sẽ ổn định, tươi vui và có ý nghĩa hơn.
Theo Phạm Quỳnh Phương, “việc áp đặt ý hệ thị trường đại chúng xảy ra ở
cả cấp độ toàn cầu và trong nước: ở mức độ vĩ mô, toàn cầu hoá văn hoá và kinh tế
đã áp những dự án căn tính tiêu dùng (consumer identity projects) và hình thái tiêu
dùng lên các bối cảnh xã hội cụ thể; ở trong nước, các hệ thống sản xuất, như truyền
thông marketing hay công nghiệp thời trang, đã áp đặt một cách có hệ thống, khiến
khách hàng hướng theo những ý tưởng căn tính nhất định” [47, tr. 9]. Hiện tượng
hâm mộ thần tượng ở giới trẻ như đã phân tích có thể coi là một biểu hiện sống
động cho việc truyền thông và văn hóa tiêu dùng đã “áp đặt một cách có hệ thống”
ý thức hệ thị trường tới thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay. Qua những biểu hiện cụ thể
như đã mô tả ở mục 3.3. có thể thấy việc hâm mộ thần tượng ngày càng mang màu
sắc của một thực hành tiêu dùng, mối quan hệ giữa người hâm mộ và thần tượng
ngày càng mang đặc trưng của mối quan hệ thị trường, giữa người mua và người
bán. Điều này cho thấy ý thức hệ thị trường (thực chất là ý thức hệ tiêu dùng, ý thức
hệ của chủ nghĩa tư bản) đã trở nên “tự nhiên nhi nhiên” ở giới trẻ hiện nay. Đáng
136
chú ý, ý thức hệ này ngày càng len lỏi và được tô đậm một cách có hệ thống ở Việt
Nam, gắn liền với sự bao trùm của truyền thông, với việc gia tăng của chủ nghĩa cá
nhân. Ở một đất nước vốn ưa bình quân chủ nghĩa, đề cao con người làng xã, con
người sống hòa vào cộng đồng và tập thể như Việt Nam, việc tìm kiếm và làm nổi
bật những căn tính và giá trị mang tính cá nhân của giới trẻ cho thấy ý thức hệ thị
trường đã được đan cài tinh vi trong những diễn ngôn thường ngày về những giá trị mới.
5.4. Định vị bản thân và khao khát toàn cầu: giới trẻ và những giá trị mới
5.4.1. Định vị bản thân
Như đã chỉ ra ở chương 2, sự theo đuổi và tôn vinh các hình mẫu lí tưởng là
hiện tượng được nhìn thấy ở mọi thời kì, do đó, việc hâm mộ những ngôi sao giải trí ở
giới trẻ Việt Nam hiện nay chỉ là một trong vô vàn những chiều cạnh đa dạng của hâm
mộ thần tượng. Đặt trong bối cảnh xã hội đương đại, việc hâm mộ các thần tượng giải
trí của giới trẻ hiện nay phản ánh mong muốn định vị bản thân của giới trẻ cũng như
những nhân tố có tác động đến mong muốn này. Giới trẻ Việt Nam hiện nay là những
người được tuyên truyền và giáo dục về việc cần phải kế thừa và phát huy những giá trị
văn hóa lâu đời của dân tộc nhưng đồng thời họ cũng buộc phải vượt thoát khỏi những
rào cản của truyền thống để phù hợp với yêu cầu ngày càng khắt khe của thời đại.
Trong quá trình từ trẻ con thành người trưởng thành, giới trẻ Việt Nam không ngừng
va đập giữa những giá trị cũ và giá trị mới, giữa ý thức hệ cũ với ý thức hệ mới đang
hình thành, trong đó có những kế thừa, thỏa hiệp nhưng cũng có cả những phản kháng
và nỗ lực kiến tạo bản sắc riêng của nhóm tuổi này.
Sự đề cao các khía cạnh cá nhân và những quan niệm khác biệt
Qua những cách thức mà những người hâm mộ trẻ diễn giải về thần tượng đã
được phân tích ở phần 4.2., có thể thấy phần nào những ý nghĩa, giá trị được họ coi
trọng và chia sẻ. Trong bối cảnh xã hội kể từ sau Đổi mới với những biến đổi mạnh
mẽ về cơ cấu kinh tế, xã hội, cấu trúc gia đình, cùng với đó là sự giao lưu văn hóa
và toàn cầu hóa ngày càng rộng lớn, sự ảnh hưởng của truyền thông, hệ giá trị của
giới trẻ Việt Nam có những thay đổi căn bản so với những thế hệ trước. Sự chú ý
vào các khía cạnh cá nhân ngày càng trở thành những vấn đề nổi bật trong hệ giá trị
của những người trẻ. Nếu con người thời kì chiến tranh và xây dựng chủ nghĩa xã
hội luôn được tắm mình trong chủ nghĩa anh hùng cách mạng (gắn với truyền thống
đề cao con người vô ngã, con người tập thể) thì đến nay, những cái gần gũi, thiết
thực, đời thường nhất của con người (tình yêu, sự ghen tuông, nỗi cô đơn, sự khác
137
biệt...) lại được đề cao, được khai thác và dễ dàng được đồng cảm không chỉ trong
âm nhạc, văn học mà trong hầu hết mọi khía cạnh, lĩnh vực của cuộc sống. Sống ở
thời bình, khi lí tưởng cộng sản không còn là một đòi hỏi cấp thiết về mặt tư tưởng,
lại liên tục va đập với những giá trị mới trong quá trình tiếp nhận những làn sóng
văn hóa nước ngoài, các tầng lớp xã hội đặc biệt là giới trẻ Việt Nam nhanh chóng
tiếp thu những trào lưu, lối sống mới, trong đó có hệ tư tưởng tiêu dùng và chủ
nghĩa cá nhân - những đặc trưng của xã hội phương Tây. Mọi khía cạnh trong đời
sống của giới trẻ từ cách ăn mặc, giải trí, sử dụng ngôn ngữ, giao tiếp... của thanh
thiếu niên đều mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa cá nhân. Thay vì tập trung vào các
đại tự sự thì hiện nay, xã hội nói chung và giới trẻ nói riêng chú ý nhiều hơn đến các
tiểu tự sự, mà các nhà lí thuyết gọi là “văn hóa thường ngày” (Phạm Quỳnh
Phương) [46]. Đây cũng là lí do khiến nhạc trẻ lên ngôi với những tự sự về tình yêu,
sự cô đơn, sự thất vọng... thay vì là không khí tập thể hừng hực lửa như nhạc cách
mạng trước kia. Đặc biệt, những ca sĩ nổi tiếng, có sự nghiệp thành công, có tầm
ảnh hưởng với những câu chuyện vượt khó vươn lên được xuất hiện đều đặn trên
truyền thông với diễn ngôn về hiện đại, tự do đã khiến họ ngày càng có xu hướng bộc
lộ các quan điểm cá nhân, lối sống cá nhân đa dạng.
Cách mà giới trẻ tiêu thụ và giải mã thần tượng của mình như đã được trình
bày ở chương 3, 4 cho thấy giới trẻ Việt Nam hiện nay đã bộc lộ sự khác biệt thậm
chí đối lập với thế hệ cha mẹ trong những quan niệm về vẻ đẹp, về sự thành công,
về nghề nghiệp, về gia đình... mà họ hướng tới hoặc theo đuổi. Nếu như thế hệ trước
đây chú trọng “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” thì giới trẻ ngày nay quan tâm nhiều hơn
đến hình thức, vẻ bề ngoài và coi đó như một nhân tố góp phần không nhỏ làm nên
sự thành công, sự nổi bật của cá nhân (đẹp cũng là một tài nguyên, một giá trị),
mang lại sự thuận lợi cho công việc, giao tiếp.
Việc hâm mộ những ngôi sao giải trí nổi tiếng cho thấy sự chú ý đến danh
tiếng, sự nổi trội, khát vọng giàu có của giới trẻ hiện nay. Không phải tự nhiên mà
các mẫu hình thần tượng của số đông giới trẻ hiện nay đều là những ngôi sao, người
nổi tiếng thành danh nhanh chóng dựa vào tài năng, ngoại hình và cả sự lăng xê của
truyền thông. “Vịt hoá thiên nga” cũng không phải tự nhiên mà trở thành mô tip
tưởng bất ngờ nhưng quen thuộc của đa phần các chương trình gameshow thực tế
thịnh hành từ Mỹ cho đến Việt Nam (Vietnam Idol, The Face, Next Top Model...).
Một người nổi tiếng, một người thành công từ “hai bàn tay trắng” đã trở thành một
138
mô típ chung, một “tấm gương” về sự đổi đời - khát vọng của giới trẻ trong thời của
khởi nghiệp hiện nay, đặc biệt ở giới trẻ thuộc tầng lớp bình dân - những người mới
chập chững bước vào đời, gặp nhiều trở ngại về vốn văn hoá, vốn xã hội và cả nhiều
thất bại. Khát vọng này là kết quả của sự nhập tâm hoá đối với diễn ngôn về thành
đạt và giàu có trước sự phồn thịnh của hàng hoá ở khắp nơi. Và những thần tượng,
những người nổi tiếng dễ dàng thuyết phục được giới trẻ - những người lớn lên
trong bối cảnh kinh tế thị trường sau mở cửa. Hình ảnh người nổi tiếng đã cấp cho
người hâm mộ của họ những khao khát mãnh liệt về sự thành công, giàu có nhanh
chóng. Một trong những lí do khiến Sơn Tùng M-TP được đông đảo bạn trẻ ngưỡng
mộ, khâm phục là bởi ca sĩ này xuất thân là một chàng trai tỉnh lẻ (Thái Bình), trong
gia đình bình thường, không phải con nhà nòi, cũng không giàu có (bố làm lái xe,
mẹ bán quần áo), nhưng chàng trai này đã tự mày mò và tìm kiếm lối đi riêng từ
việc tận dụng một chiếc máy tính rẻ tiền, những beat nhạc (nhạc nền) có sẵn trên
mạng để khám phá phát triển đam mê của bản thân và trở nên nổi tiếng, trở thành
một nghệ sĩ hàng đầu của Vbiz; biết nắm bắt các cơ hội, nhanh nhạy trước các xu
hướng để luôn hâm nóng tên tuổi của bản thân, thậm chí dám thử sức và vươn ra
quốc tế bằng việc hợp tác với huyền thoại nhạc Rap của Mỹ. Việc Sơn Tùng tự tách
ra để thành lập công ty giải trí của chính mình khi chỉ mới 23 tuổi là một bước
ngoặt thể hiện sự táo bạo, đột phá của ca sĩ này. Sự thành công của Sơn Tùng như
một tấm gương rực rỡ về khởi nghiệp, là ý nghĩa biểu tượng lớn lao làm nên sức hút
mạnh mẽ đối với người hâm mộ. Nhờ thế, từ một thần tượng giải trí, Sơn Tùng M-
TP đã trở thành thần tượng nói chung của một bộ phận không nhỏ giới trẻ Việt Nam
trong những năm vừa qua.
Sự nổi tiếng và giàu có của các thần tượng giải trí tạo ra những diễn ngôn có
sức tác động lớn đến suy nghĩ, quan điểm của giới trẻ về khả năng cá nhân, sự thể
hiện bản thân, về sự thành đạt. Nhu cầu nổi tiếng và tìm kiếm cơ hội để khẳng định
năng lực bản thân trở thành một nhu cầu chính đáng và được cổ vũ của giới trẻ hiện
nay. Ngày càng nhiều bạn trẻ ước mơ trở thành ca sĩ, thành diễn viên, thành người
38 Báo chí 10 năm trở lại đây đã đăng không ít bài về các hiện tượng một số bạn trẻ tự lăng xê mình để nối tiếng, thậm chí bất chấp sự phê phán của công chúng để trở nên nổi tiếng theo cách mà họ nghĩ là được nhiều người biết tới, nếu không bằng tài năng thì bằng tai tiếng - cũng là một cách nổi tiếng. Chẳng hạn như Bà Tưng, Thuý Vy, Lệ Rơi, Khá Bảnh… Đặc biệt trên không gian mạng, việc nổi tiếng bằng tai tiếng lại càng trở nên dễ dàng hơn.
nổi tiếng, thậm chí tìm mọi cách để nổi tiếng38. Nếu như thế hệ cha mẹ hướng tới sự
139
ổn định, lâu dài thì giới trẻ hiện nay hướng tới sự bứt phá, nổi trội, không chỉ khám
phá mà còn nỗ lực tạo dựng nên các năng lực mới của bản thân. Họ tìm kiếm các cơ
hội để thể hiện bản thân và toả sáng. Đây là lí do vì sao các cuộc thi tìm kiếm tài
năng, các cuộc thi khởi nghiệp... liên tục thu hút được sự tham gia của những người
trẻ trong thời gian qua. Thêm vào đó, những nghề nghiệp mà họ theo đuổi không
phải chỉ bó hẹp trong quan niệm nghề danh giá của cha mẹ mà có xu hướng theo
đuổi những ngành nghề mới, đặc biệt những nghề nghiệp đòi hỏi tính sáng tạo và
ứng dụng cao. Những thay đổi này ở giới trẻ phản ánh những chuyển dịch, những
động năng về kinh tế, văn hoá, xã hội của bối cảnh Việt Nam hiện nay. Những phê
phán và định kiến của thế hệ cha mẹ về việc giới trẻ hâm mộ thần tượng giải trí
được phản ánh trên báo chí thời gian qua là hệ quả của việc mong muốn của những
người trẻ tuổi nhiều khi không trùng khít, thậm chí đối lập với những mong muốn
hoặc định hướng của thế hệ cha mẹ. Theo Huong Nguyen, các hình mẫu vai trò
(role models) mà họ theo đuổi khác biệt đáng kể với các hình mẫu từng được các
thế hệ trước nuôi dưỡng và ấp ủ (hình mẫu tuổi trẻ lý tưởng ở Việt Nam trước đây):
sự trưởng thành về ý thức chính trị; kết quả học tập tốt; tham gia vào các hoạt động
của trường, các phong trào Đoàn Thanh niên và các hoạt động cộng đồng; và là đứa
con ngoan trong gia đình [122, tr. 9].
Sự thành đạt - giàu có - địa vị xã hội luôn là đích đến của một bộ phận không
nhỏ những người trẻ. Điều này phản chiếu bức tranh xã hội đương đại khi thời đại
hiện nay được coi là thời đại của start up, của khởi nghiệp. Đây là một sản phẩm
của quá trình toàn cầu hoá và va đập với thế giới bên ngoài, khi mà cả xã hội sục sôi
tinh thần “làm giàu”, coi giàu có như một giá trị quan trọng. Làm sao để trở nên
giàu có là điều mà cả xã hội hiện nay quan tâm. Bằng chứng là một loạt các lớp học
“dạy làm giàu” liên tục được mở ra, thu hút không ít người tham dự; các sách dạy
làm giàu, thúc đẩy tinh thần làm giàu cũng được ưa chuộng hơn bao giờ hết (Ví dụ: Cha giàu
cha nghèo); các bậc phụ huynh cũng có xu hướng định hướng con em mình theo những nghề
nghiệp có thu nhập cao (công nghệ, kinh tế...). Như vậy, việc hâm mộ các thần tượng giải trí
nổi tiếng đã góp phần soi chiếu những thay đổi của ý thức xã hội trong bối cảnh đương đại.
Để hiểu rõ hơn những thay đổi này ở giới trẻ, cần phải đặt chủ nghĩa cá nhân
trong những tương quan với văn hoá truyền thống của Việt Nam. Thời phong kiến,
cái tôi không có một diện mạo cụ thể và việc không có ý thức cá nhân cụ thể đó tạo
nên “sự cộng cảm có tác dụng củng cố, giáo dục ý thức cộng đồng” (Đỗ Lai Thúy)
140
[56, tr. 457]. Ý thức cộng đồng này bao trùm và xuyên thấm toàn bộ ý thức xã hội,
tạo thành một cơ tầng vững chắc khiến mọi hệ thống tư tưởng ngoại nhập, dù hùng
mạnh đến đâu cũng không làm thay đổi được cấu trúc xã hội. Trong các xã hội tiền
công nghiệp, “cá nhân không đại diện cho chính bản thân nó mà đại diện cho các
tập đoàn xã hội bao gồm những cá thể như nó, có chung quyền lợi kinh tế, xã hội,
chung nếp cảm, nếp nghĩ. Cá nhân, bởi thế lấy bản tính chung của nhóm làm bản
tính riêng của mình một cách tự nhiên nhi nhiên” (Đỗ Lai Thúy) [56, tr. 451]. Điều
này giải thích cho việc các mẫu người tiêu biểu được kết tinh lại trong các giai đoạn
văn hóa - xã hội như người quân tử, người anh hùng, tấm gương lao động sản xuất...
được tôn vinh và đề cao. Trong nền văn minh công nghiệp, cá nhân vấp phải một
mâu thuẫn là càng phát triển cao (công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyên môn hóa,
rồi đô thị hóa, số hóa), cá nhân càng rơi vào trạng thái cô đơn, biệt lập, tách rời với
tập thể. Đến thời hậu hiện đại, trước ảnh hưởng của toàn cầu hóa, giao lưu quốc tế
ngày càng mạnh, trong bối cảnh truyền thông và tiêu dùng, khi có quá nhiều bản sắc
và giá trị được phô bày, thậm chí bản sắc còn trở thành “hàng hóa” được “bán”, khi
có quá nhiều thứ để so sánh và lựa chọn, thì việc xác định mình cần gì, muốn gì
càng trở nên khó khăn hơn với những người trẻ tuổi; sự khủng hoảng về căn tính, cá
tính lại trở thành một vấn đề đối với con người đương đại. Những phương thức
truyền thống để hình thành bản sắc có tính chi phối, khắt khe và độc đoán dựa trên
nền tảng giai cấp, tuổi tác, giới tính, chủng tộc... đã tan rã và thay vào đó là những
nguồn hình thành bản sắc khác nhau dựa trên chủ nghĩa tiêu dùng. Con người tự do
hơn nhưng lại dễ trở thành “nô lệ của sự hỗn mang” (Lê Thu Hường, Lê Duy Thể)
[32]. Bản sắc trong giai đoạn này được mô tả là vụn vặt và rời rạc, không ổn định,
mong manh, nông cạn và viển vông (Lê Thu Hường, Lê Duy Thể [32], Nguyễn Đức
Lộc [38]). Trong bối cảnh ấy, mỗi cá nhân nói chung và giới trẻ nói riêng luôn phải
tìm cách để định vị bản thân mình. Họ muốn trở thành người như thế nào và đâu là
những căn tính họ muốn tạo dựng đã trở thành câu hỏi thường trực.
Khủng hoảng niềm tin và sự thay đổi hệ giá trị
Bối cảnh Việt Nam 30 năm trở lại đây đã có những thay đổi nhanh chóng cả
về chính trị, kinh tế, văn hóa. Toàn cầu hóa với sự du nhập của các dòng chảy văn
hóa nước ngoài, truyền thông đại chúng đặc biệt là internet là một bước ngoặt văn
hóa trong đời sống tinh thần của xã hội, là điều kiện để nổi bật những mâu thuẫn
giữa cũ và mới, truyền thống và hiện đại. Sự phát triển nhanh chóng của các phương
141
tiện khoa học kĩ thuật mà đặc biệt là cuộc cách mạng trong thông tin liên lạc với sự
ra đời của internet và mạng xã hội đã giúp con người vượt qua những rào cản về địa
lí, truyền thống để hoà nhập vào một thế giới phẳng. Tuy nhiên, cũng chính trong
bối cảnh đó, con người lại chịu những va đập mạnh mẽ từ các nền văn hoá, tư tưởng
bên ngoài khiến cho họ vừa đứt gãy với những giá trị truyền thống vừa lạ lẫm trước
những cái mới chưa định hình rõ. Cấu trúc và trật tự xã hội truyền thống đã có nhiều
rạn vỡ và đang được thay thế bởi các hệ thống mới, trong khi đó các cơ hội và lựa
chọn mới đang nổi lên, các cá nhân luôn phải vật lộn trong việc tìm kiếm cách thức
để đối phó với những thay đổi về cấu trúc xã hội này. Thêm vào đó, quá trình hiện
đại hoá dẫn đến những đứt đoạn với truyền thống gây ra những bất ổn đối với tinh
thần của các cá nhân. Điểm tựa tinh thần cho quá trình tự nhận dạng của các cá
nhân từ các thiết chế truyền thống (tôn giáo, tầng lớp xã hội, cộng đồng địa
phương...) đã trở nên không ổn định, thậm chí suy giảm, kinh tế phát triển nhanh
trong khi nền tảng ý thức xã hội chưa có những chuyển biến kịp thời dẫn đến những
mâu thuẫn trong việc xác định hệ giá trị của con người. Con người Việt Nam đang
đứng trước sự giằng co, phân vân giữa hai lựa chọn: truyền thống hay hiện đại?,
theo đuổi những giá trị cá nhân hay cộng đồng?...
Bên cạnh đó, quá trình đô thị hóa và sự đứt gãy giao tiếp liên cá nhân do
những suy giảm của các thiết chế truyền thống như gia đình, trường học... đã khiến
một số cá nhân trở thành những cá thể đơn độc trong việc phải tự giải quyết những
rắc rối của mình. Những rủi ro, mong manh của bối cảnh đô thị, công nghiệp hóa -
hiện đại hóa, sự tôn sùng vật chất ngày càng gia tăng đã khiến “con người bắt đầu bị
khủng hoảng trong chính hệ giá trị văn hoá truyền thống của mình”, “ngày càng
hoang mang” và thậm chí là “chối bỏ tất cả những giá trị, hay nói cách khác, họ
không theo bất cứ một hệ giá trị nào nữa” (Quách Thuyên Nhã Uyên) [65, tr. 182].
Những “tấm gương” cũ tỏ ra không còn phù hợp với bối cảnh mới, thậm chí còn đổ
sụp trước những cám dỗ vật chất đương thời. Có những huyền thoại và tượng đài
từng được tôn vinh trong truyền thống dần bị giải hủy trong bối cảnh kinh tế thị
trường, khi vật chất lên ngôi (chẳng hạn những người từng anh dũng đi qua cuộc
kháng chiến chống Mỹ nhưng lại bị khuất phục trước tiền tài, danh vọng; những vụ
án quan chức tham nhũng; những giáo viên tham gia vào nâng điểm, mua điểm...).
Những hiện thực này dẫn đến sự khủng hoảng niềm tin ở những người trẻ và trên
thực tế cũng như trên mạng xã hội, chúng ta hay bắt gặp những tâm tư “biết tin vào
142
cái gì bây giờ” đầy bất mãn của nhiều bạn trẻ. Và khi những hình mẫu của thế hệ cũ
tỏ ra không còn phù hợp với bối cảnh hiện tại, giới trẻ tìm đến và vin vào những
mẫu hình mới mang đặc trưng của thời đại để tìm kiếm những phương thức định
dạng bản thân. Điều này cũng từng được nhà nghiên cứu Nguyễn Trung Kiên bàn đến khi lí giải về hiện tượng một số người trẻ hâm mộ Khá Bảnh39, nhìn Khá Bảnh
như một con người trượng nghĩa: “Khi rường cột bị mục ruỗng, người ta có xu
hướng tìm kiếm sự chống đỡ từ môi trường phi chính thống. Lúc đó, các nhân vật
xã hội trở thành người tạo ra và dẫn dắt các giá trị mong muốn cho đám đông. Đó
có thể là ca sĩ có năng lực, đó có thể là cô người mẫu biểu trưng của sắc đẹp, đó có thể là thiếu gia giàu có, và đó có thể là Khá - một nhân vật giang hồ”40. Tác giả này
cũng cho rằng trong bối cảnh các khuôn mẫu và hệ giá trị chính danh bị xói mòn,
một bộ phận sinh ra và lớn lên trong sự lung lay, không biết đặt niềm tin vào đâu thì
một nhân vật như Khá Bảnh lại có khả năng tạo ra giá trị lấp chỗ trống vào sự hụt
hẫng đó. Và đương nhiên, trong bối cảnh này, những nhân vật có tài năng, ngoại
hình và đã từng bước khẳng định được danh tiếng như Sơn Tùng là thần tượng của
không ít giới trẻ là điều dễ hiểu.
Việc Sơn Tùng được diễn giải là một người vừa đẹp trai, tài năng, dám nghĩ
dám làm, nhiều khao khát, sống bứt phá, vừa hiếu thảo, lễ phép, cư xử đúng mực
cũng cho thấy sự pha trộn giữa hiện đại và truyền thống trong quan niệm, suy nghĩ
của những người hâm mộ. Những fan là sinh viên tỉnh lẻ rời quê lên thành phố để
học tập nhìn thấy phần nào ước mơ và nỗ lực của mình ở Sơn Tùng; nhóm những
bạn trẻ đô thị lại tìm thấy sự mới mẻ, phá cách và khâm phục tư duy dám nghĩ dám
làm của ca sĩ này. Sơn Tùng đã đáp ứng được về mặt ý nghĩa và biểu tượng gắn với
nhu cầu về hình mẫu, định hướng lối sống, hệ giá trị của từng cá nhân những người
trẻ trong bối cảnh xã hội hoàn toàn khác so với thời của bố mẹ, ông bà họ trước đây.
Họ trở nên dễ dàng bị thu hút và tôn thờ các thần tượng hát hay, nhảy đẹp, ngoại
hình sáng, bởi trong mắt họ, đó là một hình mẫu hoàn hảo hay là một “miền thiêng
39 Khá Bảnh là một nhân vật được dư luận và báo chí gán cho cái mác “giang hồ mạng” với những video có nội dung gây sốc trên Youtube như đập nát xe máy 70 triệu đồng, châm lửa đốt để đổi lấy xe điện, tuyên truyền hành vi tiêu cực cho giới trẻ; clip cùng nhóm bạn dàn hàng ngang trên đường cao tốc, trừng phạt đàn em…Mỗi video có mặt thanh niên này thường có cả triệu người xem và bình luận. Khá Bảnh bị bắt vì tổ chức đánh bạc và nhiều tội danh khác. Trước khi bị khóa, kênh YouTube của Khá "bảnh" có khoảng 1,99 triệu người đăng ký và hơn 400 video. 40 [Góc nhìn] Người Việt giang hồ: Tại sao Khá BảnH lại hot thế? (Làm giang hồ thời nay là kiếm 100 triệu/tháng từ Youtube?). Nguồn: https://kiensociology.wordpress.com/tag/kha-banh/, (26/5/2019).
liêng” (từ dùng của Kozinets [135]), “chốn mộng mơ”, một chỗ dựa tinh thần.
143
Trong bối cảnh hậu hiện đại, thần tượng bị buộc phải là “tấm gương” vì con người
không thể tự làm tấm gương cho chính bản thân mình, hình ảnh và mong muốn của
mỗi người chính là hình ảnh mà thần tượng sẽ phải mang. Hâm mộ thần tượng, do
vậy, có thể nói còn là một trong những phương thức để thích nghi với bối cảnh khi
mà các hệ giá trị đan xen nhau, cũng là phương thức để giới trẻ hình thành nên căn
tính của mình. Tuy nhiên, cũng có một thực tế là một mặt, những người hâm mộ trẻ
luôn có xu hướng lí tưởng hóa, lãng mạn hóa các thần tượng (Đó cũng là lí do giải
thích vì sao họ ra sức bênh vực thần tượng, thậm chí tô vẽ thần tượng theo những
tưởng tượng, lí tưởng của mình và chia sẻ với những người hâm mộ khác cùng
nhóm tuổi); mặt khác, sự phổ biến nhanh chóng của thông tin trong thời đại truyền
thông kĩ thuật số cũng có thể là một nhân tố khiến niềm tin vào thần tượng dễ bị sụp
đổ, khi những scandal của ca sĩ, diễn viên, cầu thủ nổi tiếng liên tục nổ ra trên
mạng, và điều này có thể làm giới trẻ cảm thấy chênh vênh hơn. Một số người từ bỏ
mộng mơ vào thần tượng và chấp nhận thực tại, nhưng cũng có những cá nhân vẫn
lại tiếp tục đi tìm kiếm và đặt niềm tin ở những hình mẫu khác - những sản phẩm
vẫn được sản xuất đều đặn bởi ngành công nghiệp văn hóa và truyền thông. Trường
hợp scandal của Seungri - một thành viên của nhóm nhạc thần tượng nổi tiếng Hàn Quốc BigBang mới đây41 là một ví dụ. Khi scandal của ca sĩ này nổ ra, nhiều fan
đặc biệt là fan nữ vẫn ra sức bênh vực thần tượng của mình, cho rằng người mà họ
yêu quý và tin tưởng bao năm không thể có những hành vi đồi bại và vi phạm đạo
đức như báo chí đưa tin. Tuy vậy, khi những thông tin về vụ việc của ca sĩ này liên
tục được phơi bày và xử lí bởi các cơ quan chức năng của Hàn Quốc, nhiều fan đã
thừa nhận rằng họ sụp đổ niềm tin về thần tượng, tuy yêu quý thần tượng nhưng họ
không muốn là những người mù quáng.
Như vậy, trong bối cảnh các điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội liên tục có sự thay
đổi, xáo trộn, đan xen giữa cũ và mới, sự hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam hiện
nay đã phản ánh phần nào sự loay hoay của họ trong quá trình tìm kiếm những điểm tựa
về tinh thần, hình mẫu và những giá trị vừa hợp thời vừa hòa hợp với truyền thống.
5.4.2. Khao khát toàn cầu
Các thực hành hâm mộ, đặc biệt cách giải mã thần tượng như đã trình bày ở
41 https://kenh14.vn/nhin-lai-chuoi-scandal-lien-tiep-nhan-chim-seungri-trong-nhung-thang-dau-nam-2019- 20190228183440016.chn.
chương 4 không chỉ phản ánh nhu cầu định vị cá nhân mà còn phản chiếu khao khát
144
vươn ra toàn cầu - một khao khát chung của giới trẻ Việt Nam hiện nay. Có thể nói,
toàn cầu hóa đã có những tác động sâu sắc và toàn diện đến đời sống xã hội Việt
Nam những năm qua, mà một trong những biểu hiện của nó là đã tạo ra những khao
khát mới và những căn tính mới trong các tầng lớp xã hội. Những diễn giải của
người hâm mộ về sự hợp tác của Sơn Tùng với huyền thoại nhạc Rap của Mỹ
Snoop Dog ở chương 4, sự say mê của cộng đồng fan K-Pop đối với các thần tượng
Hàn Quốc và Âu Mỹ hiện nay cho thấy phần nào khao khát này. Việc tên tuổi của
Sơn Tùng được báo Mỹ nhắc đến được coi là kết quả khởi đầu cho nỗ lực trong việc
đưa âm nhạc Việt Nam ra thế giới của ca sĩ này. Giới trẻ coi đây như là một sự hiện
thực hóa ước mơ và khả năng vươn ra thế giới, hòa nhập vào dòng chảy văn hóa
toàn cầu. Sự kiện này không chỉ được đánh giá cao bởi người hâm mộ của Sơn
Tùng mà còn thu hút sự chú ý của truyền thông và được đánh giá cao từ các nhà
báo, nhà sản xuất âm nhạc trong nước. Điều này cho thấy khao khát toàn cầu là
khao khát chung của thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay. Nó không chỉ phản chiếu những
ám ảnh hậu thuộc địa, ám ảnh về tụt hậu, bị bỏ lại phía sau của người dân ở một
nước từng ít được biết đến trên bản đồ thế giới vốn tồn tại dai dẳng trong tâm thức
các thế hệ người Việt, mà đồng thời còn phản chiếu mong muốn hòa vào dòng
chung của văn hóa nhân loại, thực chất là văn hóa phương Tây, văn hoá Mỹ. Đây
cũng là khát khao đặc trưng của thế hệ trẻ hiện nay - những người được gán cho
trách nhiệm trở thành “công dân toàn cầu”. Nó cũng giống như việc được đi du học,
đạt được thành công hay được công nhận ở nước ngoài chưa từng là một giá trị, một
điều đáng ngưỡng mộ, danh giá trong quan niệm của người Việt 50 năm trước đây.
Các diễn ngôn về phát triển, về hội nhập quốc tế, về khả năng đuổi kịp các
nước phương Tây, về văn minh, hiện đại, phát triển dường như đã được thẩm thấu
dần ở mọi tầng lớp nhân dân nói chung và giới trẻ nói riêng, thậm chí từng được
phát biểu bởi chính những người lãnh đạo cấp cao của đất nước đã khiến cho việc
luôn luôn phải cập nhật, không bị tụt lại phía sau trở thành một đòi hỏi, một “phẩm
chất” đặc trưng cần có của giới trẻ thời hiện đại. Hệ quả của điều này có thể được
nhìn thấy ở tần suất và mức độ tiêu thụ văn hóa đại chúng, đặc biệt văn hóa đại
chúng nước ngoài như đã nói ở những người hâm mộ trẻ Việt Nam hiện nay. Giới
trẻ nước ngoài giải trí như thế nào, có các trào lưu gì mới... ngay lập tức sẽ được
giới trẻ Việt Nam tiếp nhận, chia sẻ, mà theo ngôn ngữ thường ngày của họ là “bắt
trend”. Giới trẻ ngày càng quan tâm nhiều đến các trò chơi trực tuyến, nhạc Pop,
145
truyện ngôn tình, phim Hollywood... Thậm chí, để quảng bá cho thần tượng với bạn
bè thế giới, không ít fan của Sơn Tùng đã kêu gọi nhau tải về và sử dụng các mạng
xã hội được ưa chuộng ở Mỹ như Twitter hay Instagram dù chúng không phổ biến ở
Việt Nam. Nói khác đi, các giá trị được gắn mác toàn cầu dễ dàng được “bán” cho
giới trẻ. Một mặt, nó phản ánh sự đa dạng trong đời sống văn hóa giới trẻ Việt Nam,
mặt khác cho thấy nguy cơ làm xa thêm khoảng cách giữa các thế hệ, đồng thời tạo
ra thách thức đối với văn hóa dân tộc cũng như khả năng cạnh tranh và phát triển
của nền công nghiệp văn hóa trong nước hiện nay.
Có thể nói, việc ưa chuộng những thần tượng âm nhạc, ngôi sao giải trí cũng
như những thực hành hâm mộ thần tượng ở giới trẻ như đã được phân tích phần nào
phản ánh sự thay đổi hệ giá trị ở giới trẻ. Nếu như đầu những năm 1990, thần tượng
chỉ đơn thuần là giải trí, là sự ngưỡng vọng đối với những người có ngoại hình đẹp,
có phẩm chất hoặc tài năng, thì giờ đây, thần tượng còn là nhiều thứ khác: là điểm
tựa tinh thần, là hàng hoá, là khát khao vật chất, là quyền lực, là đẳng cấp, là tính
hiện đại, là vươn ra thế giới... Tất cả những mong muốn đương thời và những dấu
vết của thời đại đã được gói ghém trong hình ảnh của các thần tượng. Những thay
đổi về hệ giá trị này cũng là một trong những nguyên nhân tạo ra khoảng cách giữa
các thế hệ người Việt hiện nay.
Tiểu kết chương 5
Trong bối cảnh nền công nghiệp giải trí, truyền thông và văn hóa tiêu dùng phát
triển, đời sống giới trẻ nói riêng và đời sống xã hội Việt Nam trong 30 năm trở lại đây
đã có những biến đổi sâu sắc. Việc giới trẻ lựa chọn hâm mộ ai và cách thức mà họ thể
hiện sự hâm mộ là kết quả của quá trình tương tác giữa giới trẻ với những yếu tố thuộc
bối cảnh xã hội này. Sự phát triển của kinh tế thị trường đã kéo theo sự gia tăng của
hàng hóa, hình thành thói quen tiêu thụ trong các tầng lớp nhân dân, mở đường cho các
dòng chảy văn hóa cũng như hàng hóa du nhập vào Việt Nam. Cùng với đó, sự phát
triển đa dạng của các phương tiện truyền thông đại chúng đã góp phần không nhỏ vào
việc khiến văn hóa đại chúng, công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí ăn sâu vào đời
sống xã hội, đặc biệt những người trẻ tuổi, hình thành nên thói quen tiêu thụ thông tin
và các nội dung truyền thông, trong đó có những thông tin và nội dung về những ngôi
sao giải trí nổi tiếng ở nhóm công chúng này. Những yếu tố này đã từng bước hình
thành nên bức tranh đời sống đương đại của xã hội Việt Nam nói chung và giới trẻ nói
146
riêng thông qua việc chia sẻ những cảm nghiệm, ý nghĩa, quan niệm và thói quen
chung, mặt khác cũng dẫn đến những thay đổi mang tính nền tảng về hệ giá trị, hệ tư
tưởng của con người sống trong bối cảnh hiện nay.
Giới trẻ Việt Nam được tiếp cận với khối lượng thông tin đồ sộ, đa chiều, đa
hướng; cách suy nghĩ, giao tiếp, nói năng, cách thực hành văn hóa của họ cũng khác
với thế hệ cha mẹ họ. Trong quá trình kiến tạo “bộ nhận diện” của riêng mình, giới
trẻ Việt Nam cũng đã dần xác lập một hệ thống giá trị, quan niệm mới, biểu lộ sự
khác biệt trong cách họ nhìn nhận về cuộc sống, về thế giới so với các thế hệ trước.
Họ dễ dàng thể hiện quan điểm, cá tính, bản sắc của mình, ngày càng năng động
hơn trong cuộc sống và chủ động hơn trong các mối quan hệ xã hội. Họ lựa chọn
tôn vinh những giá trị mà họ cho là cần thiết trong bối cảnh họ đang sống, gắn với
nhu cầu thực tế của họ. Cách giới trẻ Việt Nam thể hiện sự hâm mộ và ảnh hưởng từ
thần tượng của họ ngày càng cho thấy sự chú ý của họ vào việc khám phá và định vị
bản thân, nuôi dưỡng giấc mơ khởi nghiệp, ưa thử sức và trải nghiệm thay vì xu
hướng tìm kiếm sự ổn định của thế hệ cha mẹ họ. Các giá trị mà họ ưu tiên lựa chọn
là những giá trị mang tính cá nhân chứ không bắt buộc phải là những giá trị mang
tính tập thể như các thế hệ trước đây từng lựa chọn. Theo dòng chảy của toàn cầu
hoá, cùng với các diễn ngôn về văn minh và hiện đại hoá, mà trên thực tế là
“phương Tây hoá” và “tư bản hoá”, lối sống phương Tây đã có điều kiện len lỏi
trong các xã hội phi phương Tây, đặc biệt ở những người trẻ - những người có điều
kiện tiếp nhận các giá trị mới mẻ, lạ lẫm, bóng bẩy và giàu sức hút. Sự khác biệt
này nói lên nhiều điều về thời đại mà họ sinh ra, lớn lên và sống trong đó. Với
những ý nghĩa này, hâm mộ thần tượng không chỉ là một hiện tượng nổi bật trong
văn hóa thường ngày của giới trẻ mà còn là một lát cắt giúp chúng ta khám phá
những chiều kích, những sự vận động không ngừng của xã hội Việt Nam đương đại.
Chúng tôi nhận thấy rằng những người hâm mộ thần tượng (đặc biệt nhóm
người hâm mộ được nghiên cứu trong trường hợp của luận án này) chỉ là một nhóm
đặc thù trong rất nhiều nhóm giới trẻ hiện nay và do vậy, nó chỉ giúp nhận diện một
số khía cạnh quan trọng trong đời sống giới trẻ. Trên thực tế, giới trẻ Việt Nam
chưa khi nào đa dạng như hiện nay, các vấn đề của đời sống giới trẻ cũng sẽ rộng
lớn hơn nhiều so với những gì mà hâm mộ thần tượng có thể soi chiếu. Tuy nhiên,
hâm mộ thần tượng như đã phân tích có thể nói đã phản chiếu được các chiều kích
và những động năng cơ bản của bối cảnh xã hội Việt Nam đương đại.
147
KẾT LUẬN
Hâm mộ thần tượng là một trong số những thực hành văn hóa nổi bật của
giới trẻ Việt Nam hiện nay khi những làn sóng văn hóa nước ngoài được du nhập và
có tác động mạnh mẽ. Từ thói quen hiếm khi bộc lộ cảm xúc cá nhân, giới trẻ Việt
Nam đến nay đã không ngại ngần bày tỏ tình yêu, sự say mê với những người nổi
tiếng mà họ yêu thích, ngưỡng mộ. Những hoạt động hâm mộ thần tượng trở nên
rầm rộ và phổ biến trong những năm gần đây cho thấy sự tự do, dân chủ, cởi mở
trong việc tiếp cận, sáng tạo và hưởng thụ các sản phẩm văn hoá giải trí, trong các
biểu đạt văn hoá của giới trẻ nói riêng và xã hội Việt Nam nói chung sau Đổi mới.
Hâm mộ một ai đó và ảnh hưởng từ họ là một mắt xích quan trọng trong quá
trình chuyển tiếp của giới trẻ. Những ngôi sao giải trí, những thần tượng âm nhạc
không chỉ góp phần làm đời sống tinh thần của giới trẻ phong phú, mới mẻ hơn mà còn
có vai trò như một hình mẫu, một điểm tựa tinh thần của giới trẻ trước những loay hoay
tìm kiếm và ướm thử những căn tính phù hợp. Sự thay đổi hình mẫu thần tượng từ các
anh hùng, các nhà khoa học, lãnh tụ… sang các ngôi sao giải trí và những thực hành
hâm mộ thần tượng cụ thể của giới trẻ Việt Nam hiện nay không chỉ phản ánh những
biến đổi và đặc trưng của tiểu văn hóa này, không chỉ là một phương thức giúp giới trẻ
nhận diện được “họ là ai” mà đồng thời còn có thể cho thấy những thay đổi của bối
cảnh đặc thù của xã hội Việt Nam từ sau Đổi mới. Người trẻ ngày càng có điều kiện và
cơ hội để dành nhiều sự quan tâm hơn đối với các loại hình giải trí, văn hóa văn nghệ,
thể thao, sự đổi mới của công nghệ và xu hướng giao lưu với thế giới. Tuy không phải
là một hiện tượng văn hóa mới mẻ, nhưng trong bối cảnh đương đại khi mà truyền
thông đại chúng và công nghệ thông tin phát triển rộng rãi, hâm mộ thần tượng nổi lên
như một hiện tượng đặc thù của văn hóa giới trẻ.
Hâm mộ thần tượng còn là một hiện tượng giúp nhận biết những thay đổi căn
bản trong đời sống giới trẻ nói riêng và bức tranh xã hội Việt Nam đương đại nói
chung. Những thực hành hâm mộ như đã được mô tả và phân tích trong luận án đã
phần nào phản ánh sự chuyển dịch về thị hiếu, thẩm mĩ, thói quen, quan niệm và lối
sống của một bộ phận không nhỏ giới trẻ Việt Nam hiện nay. Trước những vận
động không ngừng của các nhân tố thuộc bối cảnh trong và ngoài nước như toàn
cầu hóa với sự du nhập của các dòng chảy văn hóa nước ngoài, sự phát triển như vũ
bão của truyền thông đại chúng đặc biệt là internet, quá trình đô thị hóa và sự đứt
gãy giao tiếp liên cá nhân, giới trẻ đã tìm đến và tham gia vào những hình thức giao
148
tiếp khác để thỏa mãn nhu cầu giao lưu và xã hội hóa của lứa tuổi: các cộng đồng
người hâm mộ online và offline. Đặc biệt, hiện tượng hâm mộ thần tượng còn cho
thấy giới trẻ Việt Nam hiện nay cũng là những công chúng truyền thông tích cực và
những người tiêu dùng đầy tiềm năng. Một mặt, những người hâm mộ trẻ chịu
những ảnh hưởng sâu sắc bởi truyền thông từ thị hiếu, thói quen, giải trí, tiêu dùng
đến lối sống, phong cách... Mặt khác, họ cũng có một vai trò quyết định trong việc
tuyên truyền các sản phẩm văn hóa thông qua tiêu dùng của họ, là những nhân tố
thúc đẩy không ngừng các khả năng sáng tạo, đặc biệt là sáng tạo văn hóa. Các cộng
đồng người hâm mộ có mặt trong hầu khắp các lĩnh vực của văn hóa đại chúng, văn
hóa tiêu dùng với những thực hành hâm mộ thần tượng đa dạng, ngày càng tham gia
tích cực vào dòng chảy chung của đời sống xã hội (tiêu biểu nhất là các hoạt động
từ thiện, các trào lưu mới về giải trí và tiêu dùng trên mạng xã hội) đã tạo ra sự tác
động trở lại đối với văn hóa dòng chính (mainstream) và dần trở nên được chấp
nhận, chiếm được cảm tình của những thế hệ lớn hơn.
Những thực hành giải trí và tiêu dùng liên quan đến hâm mộ thần tượng của
các cá nhân và hội nhóm người hâm mộ hiện nay cũng cho thấy những khả năng và
nỗ lực của giới trẻ trong việc thích ứng với những thay đổi liên tục của bối cảnh
trong nước và thế giới. Họ cập nhật và hội nhập rất nhanh trước những trào lưu, xu
hướng, lối sống mang tính hiện đại, toàn cầu nhưng cũng loay hoay, đầy ám ảnh và
trăn trở với tâm thức của một người dân ở một đất nước nhỏ bé đang vươn ra ngoài
với mong muốn khẳng định mình rõ nét và mạnh mẽ. Sự va đập giữa cái cũ và cái
mới, giữa các “bể nghĩa” ngược chiều đan xen nhau mà giới trẻ đang chia sẻ, kiến
tạo đồng thời còn phản ánh quá trình vận động và dịch chuyển không ngừng của xã
hội Việt Nam đương đại trong đó nổi bật là xu hướng cởi mở, dân chủ, tự do, hoà
nhập nhanh vào tiến trình toàn cầu hoá, sự gia tăng của hàng hoá và thói quen tiêu
dùng ở các tầng lớp xã hội, sự can thiệp của truyền thông vào mọi lĩnh vực của đời
sống... Do vậy, việc nghiên cứu về hâm mộ thần tượng không chỉ có ý nghĩa trong
việc nhìn nhận những hiện tượng, thực hành văn hóa ở giới trẻ Việt Nam mà còn có
ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá những ảnh hưởng, tác động của toàn cầu
hoá, của văn hoá đại chúng và truyền thông tới việc kiến tạo, chi phối hệ tư tưởng,
hệ giá trị của giới trẻ Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Với những ý nghĩa này,
hâm mộ thần tượng tuy không phải là một hiện tượng bao trùm mọi khía cạnh về
văn hóa giới trẻ Việt Nam, nhưng là một trường hợp đủ thú vị, có giá trị như một
149
“lát cắt”, một chiều kích giúp chúng ta có thể hiểu về những động năng của đời sống
giới trẻ và rộng hơn là những động năng của đời sống xã hội Việt Nam đương đại.
Mặc dù các cá nhân những người trẻ tuổi có thể được xem là đã và đang
“kiến tạo ra” các hệ thống ý nghĩa của họ và của thế giới họ sống, tuy nhiên điều
này không có nghĩa là giới trẻ hiện nay hoàn toàn có khả năng định nghĩa hoặc xây
dựng bản thân giống như cách mà họ muốn. Toàn cầu hóa vừa là cơ hội đối với giới
trẻ trong việc có thể phát triển đa dạng bản sắc, lại vừa là thách thức đối với họ bởi
sự can thiệp ngày càng sâu của chủ nghĩa tiêu dùng và truyền thông khiến quá trình
chuyển đổi thành người trưởng thành ngày càng khó khăn hơn. Tuy vậy, với đặc
tính nổi bật là “tính trẻ” và nhu cầu vô tận về những ý nghĩa mới mẻ, giới trẻ sẽ liên
tục tạo ra các nghĩa mới, kiến tạo những căn tính mới với tinh thần phản kháng và
sáng tạo không ngừng.
Với hệ thống ý nghĩa biểu trưng riêng, những thực hành văn hoá khác biệt,
văn hóa giới trẻ cần phải được nhìn nhận như là một tiểu văn hóa riêng biệt, chứ
không phải chỉ là một nhóm dân số “chưa trưởng thành” và “chỉ đang tập làm người
lớn”. Hâm mộ thần tượng tuy chỉ là một hiện tượng, một lát cắt không mang tính
bao quát cho toàn bộ văn hoá giới trẻ nhưng đã cho thấy những mong muốn, giá trị,
ý nghĩa đặc thù - những chất liệu hình thành nên căn tính của một bộ phận thuộc
tiểu văn hóa này. Sự thay đổi ý thức hệ cho thấy khó có thể đòi hỏi những người trẻ
sống trong bối cảnh xã hội này phải theo đuổi những tượng đài cũ, những hình mẫu
cũ cũng như duy trì và tuân phục theo những hệ giá trị cũ. Những định kiến cho
rằng giới trẻ hiện nay cuồng thần tượng, a dua, đua đòi, chạy theo những thứ vô bổ
một cách mù quáng mà không quan tâm đến hệ giá trị mà lứa tuổi này theo đuổi sẽ
chỉ làm gia tăng những mâu thuẫn và giãn ra xa thêm “khoảng cách thế hệ”.
Những người hâm mộ trẻ được đề cập đến trong luận án này chỉ là một nhóm
giới trẻ, cụ thể là nhóm người hâm mộ các thần tượng giải trí (chủ yếu là học sinh,
sinh viên, những bạn trẻ mới ra trường). Các bàn luận và kết luận được chỉ ra trong
luận án dựa trên những phân tích từ nghiên cứu trường hợp này có thể không đúng
hết và bao quát hết mọi đối tượng giới trẻ Việt Nam hiện nay. Nghiên cứu về hiện
tượng hâm mộ thần tượng trong đời sống giới trẻ, do vậy, cũng chỉ là một nỗ lực
góp phần làm rõ thêm sự đa dạng và không đồng nhất này của giới trẻ Việt Nam,
đặc biệt trong bối cảnh không ngừng biến động như hiện nay.
150
DANH MỤC CÁC BÀI ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Đinh Việt Hà (2017), “Văn hóa giải trí của giới trẻ Việt Nam trong bối cảnh toàn
cầu hóa”, Tạp chí Văn hóa dân gian, Hà Nội, số 5, tr. 20-27.
2. Đinh Việt Hà (2018), “Một số nội dung nghiên cứu về văn hóa giới trẻ”, Tạp chí
Văn hóa dân gian, Hà Nội, số 5, tr. 67-74.
3. Đinh Việt Hà (2019), “Hiện tượng hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam hiện
nay”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, số tháng 2, tr. 54-57.
4. Đinh Việt Hà (2020), “Ảnh hưởng của truyền thông đại chúng tới hâm mộ thần
tượng ở giới trẻ Việt Nam”, in trong sách Văn hoá Việt Nam đương đại đa dạng
biểu đạt và tương tác, Viện Nghiên cứu Văn hoá, Nguyễn Thị Phương Châm –
Hoàng Cầm đồng chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 71-91.
5. Đinh Việt Hà (2020), “Hâm mộ thần tượng: một thực hành tiêu dùng ở giới trẻ
Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Văn hoá Việt Nam, Hà Nội, số 5, tr. 46-56.
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Barker, Chris. 2011. Nghiên cứu văn hóa lí thuyết và thực hành, Đặng Tuyết
Anh dịch, Nguyễn Thị Hiền và Đoàn Thị Tuyến hiệu đính, Nxb Văn hóa -
Thông tin.
2. Nguyễn Duy Bắc. 2004. “Thông tin đại chúng với việc đáp ứng nhu cầu giải
trí”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 4, tr. 34-39, 46.
3. Phillip Cam. 2006. “Toàn cầu hóa và dân chủ”, Tạp chí Triết học, số 2 (177),
tr. 39 - 45.
4. Nguyễn Thị Phương Châm, Trương Thị Minh Hằng đồng chủ nhiệm. 2010.
Những xu hướng biến đổi văn hóa ở nông thôn và đô thị Việt Nam thập niên
đầu thế kỉ XXI, Đề tài khoa học cấp bộ, lưu tại Viện Nghiên cứu văn hóa.
5. Nguyễn Thị Phương Châm. 2013. Internet: mạng lưới xã hội và sự thể hiện
bản sắc, Nxb Khoa học xã hội.
6. Đinh Thị Vân Chi. 2003. Nhu cầu giải trí của thanh niên, Nxb Chính trị quốc gia.
7. Nguyễn Đức Chiện. 2011. Sống chung trước hôn nhân của nam, nữ sinh viên
hiện nay (nghiên cứu trường hợp Đại học Nông nghiệp Hà Nội)”, Luận án
tiến sĩ Xã hội học, Học viện Khoa học xã hội.
8. Đoàn Văn Chúc. 1997. Xã hội học văn hóa, Nxb Văn hóa - Thông tin.
9. Phạm Văn Chúc. 2006. “Toàn cầu hóa cho mọi người: Điều tốt đẹp chưa có
trong hiện thực, Tạp chí Triết học, số 2 (177), tr. 33 - 38.
10. Trần Đức Cường. 2006. “Toàn cầu hóa một số vấn đề triết học đặt ra ở châu Á
- Thái Bình Dương hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 1, tr. 19-21.
11. Nguyễn Văn Dân. 2008. “Đời sống văn hóa của người Việt Nam sau hai mươi
năm đổi mới”, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 9 (309), tr. 13-22.
12. Phạm Duy Đức chủ biên. 2004. Hoạt động giải trí ở đô thị Việt Nam hiên nay:
Những vấn đề lý luận thực tiễn, Nxb Văn hóa - Thông tin.
13. Phạm Văn Đức. 2006. “Toàn cầu hóa và sự tác động của nó đối với Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 3 (178), tr. 22 - 31.
14. Trần Thị Minh Đức. 2007. “Phân tích từ góc nhìn của Tâm lý học: Vì sao giới
trẻ thích game online?”, Tạp chí Tâm lý học, số 10, tr. 12-18.
152
15. Friedman, Thomas. 2006. Thế giới phẳng, Nguyễn Quang A và cộng sự dịch
và hiệu đính, Nxb Trẻ, Tp. HCM.
16. Nguyễn Thu Giang. 2011. “Hiện tượng người nổi tiếng và chức năng xã hội
của nó”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 27, tr.
151-162.
17. Nguyễn Thu Giang. 2015. “Truyền hình bình dân ở Việt Nam: Giữa dân chủ
hóa và thị trường hóa”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và
Nhân văn, tập 31, số 3, tr. 1-14.
18. Hoàng Thị Thu Hà. 2016. “Bước đầu nhận diện nhóm người hâm mộ”, trong:
25 năm nghiên cứu và đào tạo báo chí truyền thông 1990 - 2015, Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội, tr. 252 - 264.
19. Tô Thúy Hạnh. 2013. “Nhịp sống của thanh niên hiện nay”, Tạp chí Tâm lí
học, số 5, tr. 74-83.
20. Tô Thúy Hạnh. 2014. “Thực trạng nhu cầu giải trí của thanh niên dân tộc thiểu
số vùng Tây Nam Bộ”, Tạp chí Tâm lí học, số 5, tr. 80-90.
21. Lư Tư Hạo. 2019. Dám mơ lớn, đừng hoài phí tuổi trẻ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
22. Nguyễn Trung Hiếu. 2018. “Hacker sự diễn giải căn tính trong trò chơi ngôn
ngữ hậu hiện đại”, trong sách: Nguyễn Đức Lộc chủ biên. Đời sống xã hội
Việt Nam đương đại, (Tập 3) Người trẻ trong xã hội hiện đại, Nxb Văn hoá
văn nghệ, Tp. HCM, tr. 107-171.
23. Vũ Hoàng Hiếu. 2019. Người đồng tính trong xã hội Việt Nam đương đại: Từ
ẩn ức đến tự sự, Luận án tiến sĩ Văn hoá học, Học viện Khoa học xã hội.
24. Lương Thị Minh Hoa. 2015. Hiện tượng Fashionista ở giới trẻ Thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay, Luận văn thạc sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học xã hội.
25. Lê Như Hoa. 1998. Văn hóa tiêu dùng, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
26. Nguyễn Thị Phương Hoa. 2014. “Bàn về đạo đức, lối sống của thanh niên trí
thức nước ta hiện nay”, Tạp chí Tâm lí học, số 4, tr. 50-63.
27. Nguyễn Ánh Hồng. 2002. Phân tích về mặt tâm lí học lối sống của sinh viên
Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ tâm lí học,
Tài liệu lưu tại Thư viện quốc gia.
28. Nguyễn Văn Huyên. 2003. “Lối sống người Việt Nam trước tác động của toàn
cầu hóa hiện nay”, Tạp chí Triết học, số tháng 12, tr. 29-34.
153
29. Lê Hương. 2000. “Một số nét tâm lí đặc trưng của lứa tuổi thanh niên”, Tạp
chí Tâm lí học, số 2, tr. 5-9.
30. Lê Thị Thanh Hương. 2014. “Một số nhân tố khách quan tác động đến thực
trạng thái độ chính trị và trách nhiệm xã hội của thanh niên trong giai đoạn
hiện nay”, Tạp chí Tâm lí học, số 3, tr. 1-14.
31. Đặng Thị Thu Hương chủ biên. 2016. Văn hoá truyền thông đại chúng ở Việt
Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và toàn cầu hoá, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
32. Lê Thu Hường, Lê Duy Thể. 2013. “Một số vấn đề về văn hóa của giới trẻ”, in
trong: Những vấn đề Khoa học xã hội & nhân văn - Chuyên đề Văn hoá học,
Nxb Đại học Quốc gia.
33. Nguyễn Mai Kiên. 2012. Văn hóa Hip Hop trong giới trẻ ở Hà Nội, luận văn
thạc sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học xã hội.
34. Nguyễn Mai Kiên. 2016. “Sự phát triển của B-Boying ở Hà Nội”, Tạp chí Văn
hóa dân gian, số 3, tr. 54 - 59.
35. Đặng Cảnh Khanh. 2006. Xã hội học thanh niên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đỗ Nam Liên chủ biên. 2005. Văn hoá nghe nhìn và giới trẻ, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
37. Từ Thị Loan. 2004. “Mấy vấn đề về tiểu văn hóa thanh niên”, Tạp chí Xã hội
học, số 3, tr. 87 - 92.
38. Nguyễn Đức Lộc chủ biên. 2018. Đời sống xã hội Việt Nam đương đại (tập 3).
Người trẻ trong xã hội hiện đại, Nxb Văn hóa văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
39. Mattelart, Armand & Mattelart, Michèle. 2017. Lịch sử các lý thuyết truyền
thông, Hồ Thị Hòa dịch, Trần Hữu Quang hiệu đính, Nxb Tri thức.
40. Đỗ Hạnh Nga. 2015. “Ảnh hưởng của thần tượng đến học sinh trung học cơ sở
tại Thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Tâm lý học, số 1 (190), tr. 45-56.
41. Đặng Thiếu Ngân. 2017. Hiện tượng Hallyu ở Việt Nam hay sự ảnh hưởng
của phim Hàn Quốc tới văn hóa Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Văn hóa
học, Học viện Khoa học xã hội.
42. Trần Đức Ngôn. 2017. “Khái niệm và cấu trúc đời sống văn hoá”, Tạp chí
Nghiên cứu văn hoá, số 21 (tháng 9), tr. 5 - 12.
43. Nhiều tác giả. 2014. Toàn cầu hóa, văn hóa địa phương và phát triển: cách
tiếp cận nhân học, Nxb Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh.
154
44. Phan Thị Oanh. 2013. Ảnh hưởng của làn sóng văn hóa Hàn Quốc tới văn hóa
tiêu dùng của giới trẻ Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trung tâm Nghiên cứu Hàn
Quốc - Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á.
45. Phạm Quỳnh Phương. 2013a. “Ngành Nghiên cứu văn hóa (Cultural Studies)
Lược sử hình thành và cách tiếp cận”, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa, số 6
(tháng 12), tr. 85-91.
46. Phạm Quỳnh Phương. 2013b. Văn hóa thường ngày từ góc độ lí thuyết, Đề tài
cấp cơ sở, Viện Nghiên cứu văn hóa.
47. Phạm Quỳnh Phương. 2018. “Các hướng tiếp cận lí thuyết về tiêu dùng và văn
hóa tiêu dùng”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4, tr. 3-13.
48. Phạm Quỳnh Phương. 2019. “Từ khám phá quy luật đến kiếm tìm nghĩa: Một
hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu văn hoá Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu
Văn hóa Việt Nam, số 4, tr. 92-104.
49. Lê Minh Quý. 2008. “Phát triển dịch vụ vui chơi giải trí tại Hà Nội”, Tạp chí
Du lịch Việt Nam, số 3, tr. 26-27, 29; số 4, tr. 39-41.
50. Siebert, Fred S. - Theodore, Peterson - Schramm, Wilbur. 2013. Bốn học
thuyết truyền thông, Lê Ngọc Sơn dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội.
51. Bùi Hoài Sơn. 2006. Ảnh hưởng của Internet đối với thanh niên Hà Nội, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
52. Bùi Hoài Sơn. 2008. Phương tiện truyền thông và những thay đổi văn hoá - xã
hội ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
53. Nguyễn Quý Thanh. 2011. Internet - Sinh viên - Lối sống một nghiên cứu xã
hội học về phương tiện truyền thông kiểu mới, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội.
54. Lê Thị Phước Thảo. 2015. Hình ảnh người nổi tiếng trên báo chí và việc hình
thành hệ giá trị cho giới trẻ Việt Nam, Luận văn Báo chí học, Trường Đại học
KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội.
55. Trần Nho Thìn. 2008. Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
56. Đỗ Lai Thúy. 2005. Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa, Nxb Văn
hóa thông tin và Tạp chí Văn hóa nghệ thuật xb, Hà Nội.
57. Bùi Thị Tỉnh. 2013. “Tìm hiểu thực trạng lối sống thực dụng của sinh viên
Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Giáo dục, số 310 (tháng 5), tr. 20-21, 26.
155
58. Đặng Thị Diệu Trang. 2015. “Ngôn ngữ teen trong giao tiếp của giới trẻ hiện
nay”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số tháng 10 (376), tr. 20-26.
59. Hồng Trân. 2019. Dành cả thanh xuân để chạy theo idol, Nxb Lao động.
60. Phạm Hồng Tung. 2011. Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt Nam
trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật.
61. Sơn Tùng M-TP. 2017. Chạm tới giấc mơ, Nxb Hà Nội.
62. Đoàn Thị Tuyến. 2014. Bản sắc văn hóa - từ góc độ lí thuyết, Đề tài cấp cơ sở,
Viện Nghiên cứu Văn hóa.
63. Vũ Thị Thanh Trà. 2017. Ghi ta trong đời sống giới trẻ Hà Nội, Luận án tiến
sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học xã hội.
64. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia. 1996. Văn hóa trong phát
triển và toàn cầu hóa, Kỷ yếu hội thảo tại Hà Nội, Tokyo và Noongkhai.
65. Quách Thuyên Nhã Uyên. 2018. “Người trẻ khởi nghiệp một phân tích về vấn
đề xây dựng chủ thể tính đương đại nơi người trẻ ở đô thị”, in trong: Nguyễn
Đức Lộc chủ biên. Đời sống xã hội Việt Nam đương đại, (Tập 3) Người trẻ
trong xã hội hiện đại, Nxb Văn hoá văn nghệ, Tp. HCM, tr. 172-222.
66. Viện Ngôn ngữ học. 2003. Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm Từ
điển học xb., Hà Nội - Đà Nẵng, tr. 913.
67. Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Thị Hậu chủ
biên. 2013. Thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Văn
hóa văn nghệ.
68. Trần Ngọc Vương. 1995. Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
69. Adorno, T.W. 1991. “The Culture Industry Reconsidered”, The Culture
Tài liệu tiếng Anh
70. Ahmed, Sara. 2004, “Affective Economies”, Social Text, 79 (Vol 22, Number
Industry, Ed. J. M. Bernstein, London: Routledge, pp. 61 - 106.
2), pp. 117-139.
71. Anderson, Benedict. 1991. Imagined Communities: reflections on the origin
and spread of nationalism, Verso, London.
72. Anderson, Tonya. 2012. “Still kissing their posters goodnight: Female fandom
and the politics of popular music”, Participations Journal of Audience and
Reception Studies, Vol 9(2), pp. 239-264.
156
73. Austin, D. M.; Gagne, Patricia; Orend, Angela (2010), “Commodification and
Popular Imagery of the Biker in American Culture”, The Journal of Popular
Culture, Vol 43(5), pp. 942 - 963.
74. Barker, Chris. 2011. Nghiên cứu văn hóa lí thuyết và thực hành, Đặng Tuyết
Anh dịch, Nguyễn Thị Hiền và Đoàn Thị Tuyến hiệu đính, Nxb Văn hóa -
Thông tin.
75. Bennett, Andy. 2002. “Researching youth culture and popular music: a
methodological critique”, The British journal of sociology, Vol 53(3), pp. 451-
466.
76. Bird, Sara & Alan, Tapp. 2008. “Social Marketing and the Meaning of Cool”,
Social Marketing Quarterly, journals.sagepub.com,
77. Boon, S.D. and Lomore, C.D. 2001. “Admirer-celebrity relationships among
young adults: explaining perceptions of celebrity influence on identity”,
Human Communication Research, Vol. 27 (3), pp. 432 - 465.
78. Bourdieu, Pierre. 1984. “Distinction A Social Critique of the Judgement of
Taste”, Judgement-of-Taste/Bourdieu/p/book/9780415567886> 79. Brake, Michael. 1985. Comparative The Sociology of Youth Cultures and Youth Subcultures in America, Britain and Canada, Routledge and Kegan Paul, London. 80. Bucholtz, Mary. 2002. “Youth and cultural practices”, Annual Review, Vol 31, pp. 525-552. 81. Buckingham, David. 2008. Youth Identity and Digital media, MIT Press. 82. Busse, Kristina & Hellekson, Karen. 2006. “Work in Progres” Introduction to Fan Fiction and Fan Communities in the Age of the Internet: New Essays, edited by Karen Hellekson and Kristina Busse, pp. 5–32. Jefferson, NC: McFarland. 83. Caldwell, M & Henry, P. 2005. “Celebrity worship, micro-communities and consumer well-being”, 8th International Conference on Arts and Cultural Management, Montreal, Canada, 6th July 2005. 84. Caughey, J.L. 1994. “Gina as Steven: The social and cultural demensions of a media relationship”, Visual Anthroppology Review, Vol 10 (1), pp. 126 - 135. 157 85. Chan, Kara. 2011. “What pre-teen girls learn about gender roles from celebrities”, Journalism and Mass Communication, Vol 1(2), pp. 79 - 87. 86. Chan, Kara, Yu-leung Ng, Edwin K. Luk. 2013. “Impact of Celebrity endorsement in advertising on brand image among Chinese adolescents”, Young Consumers, Vol 14 (2), pp. 167 - 179. 87. Cheung, C. & Yue, X. D. 2003a. Adolescent modeling after luminary and star idols and development of self-efficacy, International Journal of Adolescence 88. Cheung, C. & Yue, X. D. 2003b. “Identity Achievement and Idol Worship and Youth, Vol 11(3), pp. 251 - 267. among Teenagers in Hong Kong”, International Journal of Adolescence and Youth, Vol 11(1), pp. 1-26. 89. Cheung, Ka Ki. 2002. Idol Consumption and Identity Construction: A Study of the Young Fans of Popular Singers in Hong Kong, Chinese University of Hong Kong. 90. Chin, Bertha. 2013. “Towards a theory of transcultural fandom”, Journal of Audience & Reception Studies, Vol 10(1). 91. Click, Lee & Holladay. 2013. “Making monsters: Lady Gaga, fan identification, and social media”, Popular Music and Society, Vol 36(3), pp. 360-379. 92. Deen, Catherine. 2015. “Formation, Purpose and Gains: An Exploratory Study of Hallyu Fanclubs in the Philippines”, Aiks Korean Studies Conference Proceedings, Vol 1, pp. 25 - 33. 93. D’heer, Evelien, Courtois, Cesdric, Paulussen, Steve. 2012. “Everyday Life in (front of) the Screen: The Comsumption of Multiple Screen Technologies in the Living Room”, EuroITV'12 Proceedings of the 10th European Conference on Interactive TV and Video, Berlin, Germany, pp. 195 - 198. 94. Du Gay, P., Hall, S, Mackay, H, Negus, K. 1997. Doing Cultural Studies: The Story of the Sony Walkman (Culture, Media & Identities, Vol.1) (Culture, Media and Identities series), citeulike.org. 95. Duffett, Mark. 2013. Understanding Fandom: An Introduction to the Study of Media Fan Culture, Bloomsbury Publishing, New York. 96. Dyer, Richard. 1979 [1998]. Stars. Bristish Film Institute, London. 158 97. Dyson, Michael Eric. 2004. “Hip - Hop Culture”, in: Neal, Mc Anthony, That's the Joint!: The Hip-hop Studies Reader, Routledge, New York, pp. 61-68. 98. Erikson, E. H. 1950. Childhood and society, Norton, New York. 99. Erikson, E. H. 1968. Identity, Youth, and Crisis, Norton, New York. 100. Fine, Lauren. 2014. “More than a feeling: The Transmissions of affect and group identity”, (15/9/2019). 101. Fiske. 1989. Understanding popular culture, Unwin Hyman, Boston. 102. Fung, A. 2002. “Women’s magazines: Construction of identities and cultural consumption in Hong Kong”, Consumption, Markets and Culture, Vol 5(4), 103. Fung, A. 2009. “Fandom, youth and consumption in China”, European pp. 321-336. Journal of Cultural Studies, Vol 12(3), pp. 285-303. 104. Furlong, Andy & Cartmel, Fred. 2006. Young people and social change new perspectives, Open University Press, New York. 105. Galuszka, Patryk. 2015. “New Economy of Fandom”, Popular Music and Society, Vol 38 (1): Fandom, pp. 25-43. 106. Geertz, Clifford. 1973. Interpretion of Cultures, Basic Books. 107. Giddens, Anthony. 1991. Modernity and Self-identity: Self and society in the late modern age, Stanford University Press, Stanford, California, pp. 1-10. 108. Gidley, Jennifer. 2001. “Globalization and Its Impact on Youth”, Journal of Futures Studies, Vol 6 (1), pp. 89-106. 109. Goggin, Gerard. 2013. “Youth culture and Mobile”, Mobile Media & Communication, Vol 1 (1), pp. 83-88. 110. Gray, J., Sandvoss, C. & Lee Harrington, C. 2007. “Why Study Fans?” Introduction to Fandom: Identities and Communities in a Mediated World, edited by Jonathan Gray, Cornel Sandvoss, and C. Lee Harrington, pp. 1-16, New York University Press, New York. 111. Green, A.L. & Adam-Price, Carolyn. 1990. “Adolescents’ Secondary Attachments to Celebrity Figures”, Sex Roles, Vol 23, No 7/8, pp. 335-347. 112. Green, Julian Sefton ed. 1998. Digital Diversions: Youth Culture in the Age of Multimedia, University College Press, London. 159 113. Ha Hoang. 2019. “K-Pop Male Androgyny, Madiated Intimacy, and Vietnamese Fandom”, Chapter 12, in: J. V. A. Cabanes, C. S. Uy-Tioco (eds), Mobile Media and Social Intimacies in Asia, Mobile Communication in Asia: Local Insights, Global Implications, pp. 187-203. 94-024-1790-6_12>, (15/3/2020). 114. Hall, Stuart & Jefferson, Tony. 1993. Resistance Through Rituals: Youth Subcultures in Post-war Britain, Routledge, London. 115. Hall, Stuart. 1997. Representation: cultural representations and signifying practices, Open University, London. 116. Hebdige, Dick. 1979. Subculture: The meaning of style, Menthuen & Co, London. 117. Henderson, K. A. et al. 2003. A Leisure of One’s Own: A Feminist Perspective on Women’s Leisure, Venture Publishing, Inc, State College. 118. Hills, Matthew. 2002. Fan Cultures, Routledge, New York. 119. Hodkinson, Paul & Deicke, Wolfgang. 2007. Youth Cultures: Scenes, 120. Horkheimer, M.; Adorno, T.W. (2006), “The culture industry: Enlightenment Subcultures and Tribes, Routledge Advances in Sociology. as mass deception”, in: M.G. Durham and D.M. Kellner (ed), Media and Cultural Studies, Blackwell Publishing, pp. 41-72. 121. Huang, Yu-an & Phau, Ian. 2015. “Idol attachment and Human Brand Loyalty”, European Journal of Marketing, Vol. 4(7/8), pp. 1234-1255. 122. Huong Nguyen. 2015. “Globalizaton, consumerism, and the ergence of teens in contemporary vietnam”, Journal Social History, Vol 49(1), pp. 4 - 19. 123. Huq, Rupa. 2006. Beyond Subculture Pop, Youth and Identity in a Postcolonial World, Routledge, New York. 124. Ito, Mizuko et al. 2009. Living and learning with new media: summary of Findings from the Digital Youth Project, MIT Press, Cambrige, pp. 1-46. 125. Jenkins, Henry. 1992. Textual Poachers: Television Fans and Participatory Culture, Routledge, New York. 126. Jenkins, R. 1996. Social Identity, Routledge, London. 127. Jenkins, Henry. 2006. Convergence Culture: Where Old and New Media Collide, New York University Press, New York, pp. 61-62. 160 128. Jenkins, Henry. 2007. “After word: The Future of fandom”, in: Fandom, Harrington C., Gray Jonathan, Sandvoss Cornel, New York University Press, pp. 357 – 364. 129. Jenkins, Henry, Sam Ford, and Joshua Green. 2013. Spreadable Media: Creating Value and Meaning in a Networked Culture, New York University Press, New York. 130. Jenson, J. 1992. “Fandom as pathology: The consequences of characterization”, In: L. Lewis (ed.), The adoring audience: Fan culture and popular media, Routledge, London. 131. Jia, Xinming; Hung, Kineta; Zhang, Ke. 2018. “Charging fandom in the Digital Age: The Rise of Social Media” (Chapter 8), in: Exploring the Rise of Fandom in Contemporary Consumer Culture, Cheung LuWang, IGI Global, USA. 132. Kidd, Warren. 2002. Culture and identity, Palgrave, Basingstoke. 133. Kotarba, Joseph A. 2009. “I’m just as Rock ‘n’ Roll fan” Popular music as a meaning resource for aging, researchgate.net. 134. Koshar, Rudy (ed.). 2002. Histories of Leisure, Berg Publishers, Oxford. 135. Kozinets, Robert V. 2001. “Utopian Enterprise: Articulating the Meanings of Star Trek's Culture of Consumption”, Journal of consumer research, Vol. 28(1), pp. 67-88. 136. Leung, L. K. 1999. Study on the influence of media on youth, Commission on Youth, Hong Kong. 137. Liu, Jacky K. K. 2013. “Idol worship, religiosity, and self-esteem among university and secondary students in Hong Kong”, Discovery - SS Student E- journal, Vol 2, pp. 15 - 28. 138. Cheng Lu, Wang. 2018. Exploring the Rise of Fandom in Contemporary Consumer Culture, University of New Haven, USA. 139. Lynxwiler, J. & Gay, D. 2000. “Moral boundaries and deviant music: Public attitudes toward heavy metal and rap”, Deviant Behavior, Vol 21(1), pp. 63-85. 140. Maltby, J.; Houran, J.; Lange, R.; Ashe, D. & McCutcheon, L. E. 2002. “Thou Shalt Worship No Other Gods - Unless They Are Celebrities”, Personality and Individual Differences, Vol 32, pp. 1157-1172. 161 141. Maltby, J.; & Houran, J.; & McCutcheon, L. E. 2003. “A Clinical Interpretation of Attitudes and Behaviors Associated with Celebrity Worship”, The Journal of Nervous and Mental Disease, Vol 191(1), pp. 25 – 29. 142. Maltby, J.; Day, L.; McCutcheon, L. E.; Gillett, R., Houran, J. & Ashe, D. 2004. “Personality and coping: A context for examining celebrity worship and mental health”, British Journal of Psychology, Vol 95(4), pp. 411-428. 143. Marshall, David P. 2014. Celebrity and Power: Fame in Contemporary Culture, University of Minnesota Press. 144. McCulloch, Ken & Stewart, Alexis; Lovegreen, Nick. 2006. “‘We just hang out together’: Youth Cultures and Social Class”, Journal of Youth Studies, Vol 9 (5), pp. 539 - 556. 145. McCutcheon; Lange, Rense & Houran, James. 2002. “Conceptualization and measurement of celebrity worship”, British Journal of Psychology, Vol 9(1), pp. 67-87. 146. McQuail, Denis. 2010. McQuail's mass communication theory, Sage Publications. 147. Miles, Steven. 2000. Youth lifestyle in a Changing world, Open University Press. 148. Nhat Nguyen Nguyen, Nil Özçaglar-Toulouse, Dannie Kjeldgaard. 2018. “Toward an understanding of young consumers' daily consumption practices in post-Doi Moi Vietnam”, Journal of Business Research, Vol 86, pp. 490-500. 149. Nilan, Pam. 1999. “Young People and Globalizing Trends in Vietnam”, Journal of Youth Studies, Taylor & Francis, (2/10/2019). 150. Nilan, Pam & Feixa, Carles. 2006. Global Youth? Hybric Identities, Plural Worlds, Routledge, New York. 151. North, A. C., Hargreaves D. J. 2006. “Problem music and Self-harming”, Suicide and Life-Threating Behavior, Vol 36 (5), pp. 582 – 590. 152. North, A. C., Sheridan, L. Maltby, J. & Gillett, R. 2007. “Attributional style, self-esteem, and celebrity worship”, Media Psychology, Vol 9(2), pp. 291-308. 153. Nye, Joseph S. 1990. “Soft Power”, Foreign Policy, No. 80, Twentieth Anniversary (Autumn), pp. 153-171. 162 154. Oh Ingyu, Lee Hyo-Jung. 2013. “Mass Media Technologies and Popular Music Genres: K-Pop and Youtube”, Korea Journal, Vol 53(4), pp. 34-58. 155. Parker, Elizabeth. 2015. “The rise of the hip hop idol: Authenticity and new masculinities in Korean popular music”, academia.edu. 156. Pearson, Roberta. 2010. “Fandom in the Digital Era”, The International Journal of Media and Culture, Vol 8(1): Digitizing Audiovisual Production, pp. 84-95. 157. Duong Nguyen Hoai Phuong. 2016. “Korean Wave as Cultural Imperialism: A study of K-pop Reception in Vietnam”, Leiden University MA Thesis Asian Studies, 158. Purnama, Finsensius Yuli. 2012. “Leisure time, social media, and youth identity”, International Communication Research Conference, "Youth, Media, and Social Change"/ London School of Public Relations-Jakarta, academia.edu. 159. Robert, Ken. 2006. “Youth Transitions and Generations: A Response to Wyn and Woodman”, Journal of Youth Studies, Vol 10(2), pp. 263-269. 160. Rojek, Chris. 1989. Leisure for Leisure, The Macmillan Press Ltd, London. 161. Rojek, Chris. 2001. Celebrity, Reaktion Books. 162. Rojek, Chris; Shaw, Susan M; Veal A. J. 2006. A Handbook of Leisure Studies, Palgrave Macmillan Ltd, New York. 164. Scott, Suzanne. 2009. “Repackaging fan culture: The regifting economy of 163. Sandvoss, Cornel. 2005. Fans: The Mirror of Consumption. Malden, Polity, MA. ancillary content models”, Transfomative works and cultures, Vol 3. 165. Shary, Timothy & Seibel, Alexandra. 2007. Youth Culture in Global Cinema, University of Texas Press. 166. Shildrick, Tracy & MacDonald, Robert. 2006. “In Defence of Subculture: Young People, Leisure and Social Division”, Journal of Youth Studies, Vol 9(2), pp. 125 - 140. 167. Slate, Don. 1997. Consumer Culture and Modernity, Published by Polity Press, United Kingdom, pg. 37. 168. Stebbins, Robert A. 2015. Leisure and The Motive To Volunteer: Theories of Serious, Casual and Project - Based on Leisure, Palgrave Macmillan. 163 169. Stever, Gayle. 2009. “Fan/Celebrity symbiotic social relationships: A participant-observer ethnography of fan clubs”, Conference: International Communications Association: Theme: Keywords in Communication, Chicago, IL, May 22-26, 2009, 170. Tapscott, Don. 2008. Grown Up Digital: How the Net Generation Is Changing Your World, McGraw Hill. 171. Phan Thanh Thanh. 2014. “Asianization, Imagination, Fan Culture and Cultural Capital of Vietnamese Youth: A Case Study of K-pop Cover Dance Groups in Hanoi Vietnam”, files/Hallyu%20Proceedings_Draft1b_2014-Sept-25.pdf#page=162> (23/12/2019). 172. Thomas, M. 2004. “Transitions in taste in Vietnam and the diaspora”, The Australian journal of anthropology, Wiley Online Library. 173. Thomson, Matthew. 2006. “Human brands: Investigating antecedents to consumers' strong attachments to celebrities”, Journal of Marketing, Vol 70, pp. 104-119. 174. Tomlinson, John. 1991. Cultural Imperialism: A Critical Introduction, Continuum, London. 175. Turner, Graeme. 2010. “Approaching Celebrity”, Celebrity Studies Journal, Vol 1(1), pp. 11-20. 176. Turner, Graeme. 2013. Understanding Celebrity, SAGE Publications Ltd, London. 177. Wang, Jing. 2005. “Youth culture, music, and cell phone branding in China”, 178. Warde, Alan. 2014. “After taste: Culture, consumption and theories of Global Media and Communication, Vol 1(2), pp. 185 - 201. practice”, Journal of Consumer Culture, Vol 14(3), pp. 279-303. 179. Wyn, Johanna & Woodman, Dan. 2006. “Generation, Youth and Social Change in Australia”, Journal of Youth Studies, Vol 9(5), pp. 495-514. 180. Wyn, Johanna & Woodman, Dan. 2007. “Researching Youth in a Context of Social Change: A Reply to Roberts”, Journal of Youth Studies, Vol 10(3), pp. 373-381. 181. Yue, Xiao Dong and Cheung, Chau-kiu. 2000. “Selection of favourite idols and models among Chinese young people: A comparative study in Hong Kong 164 and Nanjing”, International Journal of Behavioral Development, Vol 24(1), pp. 91 - 98. 182. Yue, X. D., Cheung, C. & Wrong, D. S. W. 2010. “From glamour-oriented idolatry to achievement-oriented idolatry: A framing experiment among adolescents in Hong Kong and Shenzhen”, Asian Journal of Social Psychology, Vol 13(1), pp. 1-8. Tài liệu mạng 183. Nguyễn Hoàng Ánh. 2016. “Giải mã Hallyu và chủ nghĩa thần tượng ở Việt Nam”, than-tuong-o-viet-nam-300415.html>, (15/5/2017). 184. Hà Hữu Nga. 2017. “Văn hóa tiêu dùng”, goc-nhin-van-hoa/van-hoa-tieu-dung>, (11/9/2019). 185. Nguyên Trang. 2012. “Bàn về thần tượng và người hâm mộ”, nguoi-ham-mo.html>, (7/9/2017). 186. Lê Thị Trang. 2017. Văn hóa tiêu dùng - từ góc nhìn lí luận, dung-mot-goc-nhin-ly-luan.html>, (11/9/2019). 187. “How It All Began- A Cultural Revolution”, nguồn: 165 166 MỤC LỤC PHỤ LỤC Phụ lục 1: Phiếu hỏi ý kiến 168 Phụ lục 2: Các thực hành hâm mộ thần tượng cụ thể 172 2.1. Like, share các thông tin liên quan đến thần tượng và cộng đồng fan 172
179
2.2. Các hình thức quảng bá cho thần tượng
185
2.3. Các fan sân bay
187
2.4. Hoạt động off fan của các FC
193
2.5. Cổ vũ thần tượng tại các chương trình, show diễn
196
2.6. Các hoạt động từ thiện và các hoạt động cộng đồng
2.7. Các hoạt động tiêu thụ có liên quan đến thần tượng
201 167 I. Phụ lục 1: 168 169 170 171 II. Phụ lục 2: Các thực hành hâm mộ thần tượng cụ thể 1. Like, share các thông tin liên quan đến thần tượng và cộng đồng fan Ảnh 1: 172 Ảnh 2: Ảnh 3: 173 Ảnh 4: Ảnh 1, 2, 3, 4: Các bức ảnh kèm các dòng chữ, con số “khoe” thành tích mà
cộng đồng fan giành được cho thần tượng: cày view, lọt top trending Việt Nam và
thế giới nhân dịp phát hành MV Hãy trao cho anh 7/2019 (Nguồn: kenh14.vn),
MV Skyler 1/2021 (Nguồn: MTP Stories) 174 Ảnh 5: 175 Ảnh 6: Ảnh 5, 6: Fan “bóc giá” quần áo, trang sức, đồ dùng của thần tượng (Nguồn: Sky Confession) 176 Ảnh 7: Chia sẻ về thành tích của idol (Nguồn: ME meme) 177 Ảnh 8: Chia sẻ cảm giác tự hào, quyền lực của cộng đồng fan Sơn Tùng (Nguồn: M-TP stories) 178 2. Các hình thức quảng bá, lăng xê cho thần tượng - Thuê phát hình ảnh thần tượng trên các màn hình lớn Ảnh 1: Chiến dịch quảng bá nhân dịp sinh nhật diễn viên Hàn Quốc Lee Min Ho
(Nguồn: FC cung cấp) 179 Ảnh 2: Fan chúc mừng sinh nhật Jung Kook (nhóm BTS - Hàn Quốc) trên màn
hình của tòa nhà TNR 54 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội ngày 1/9/2019 (Nguồn:
https://www.yan.vn/army-viet-choi-lon-mung-sinh-nhat-jungkook-voi-man-hinh-
led-khung-209765.html) 180 Ảnh 3: Các chiến dịch quảng cáo nhân kỉ niệm sinh nhật của Jungkook và RM
(nhóm BTS) do fan BTS ở Việt Nam quyên góp thực hiện. (Nguồn ảnh: yan.vn) 181 Ảnh 4: Sky thuê Roadshow để thu hút sự chú ý của cộng đồng 1 ngày
trước khi MV Hãy trao cho anh của Sơn Tùng phát hành (1/7/2019).
Nguồn: https://bestie.vn/2019/07/ro-ri-hinh-anh-fandom-son-tung-chieu-
qua-de-keu-goi-ung-ho-than-tuong 182 - Hưởng ứng các cuộc thi, chương trình do các nhãn hàng phát động CUỘC THI ẢNH "CHÚNG TA CỦA HIỆN TẠI" CÙNG VINFAST CHỤP ẢNH CHẤT NGAY - RINH QUÀ LIỀN TAY
Thể lệ cuộc thi chi tiết tại đây: https://id.vin/cDR
Chỉ với 03 bước đơn giản sau: - Bước 1: Đến check-in cùng 1 trong 2 chiếc xe Ludo Mint To Be và Impes Milky
Sky tại Showroom VinFast trên toàn quốc.
- Bước 2: Nộp ảnh dự thi trước 23h59’ ngày 27/12/2020 qua: https://id.vin/csD
- Bước 3: Kêu gọi bạn bè tương tác với ảnh dự thi của bạn bằng cách like, share,
comment. Cổng bình chọn sẽ đóng vào 23h59’ ngày 30/12/2020.
Đặc biệt hơn, VinFast có rất nhiều quà tặng giá trị đang chờ bạn: GIẢI CÁ NHÂN: - 01 Giải Nhất: 01 xe máy điện Impes Milky Sky trị giá 14,900,000 VNĐ.
- 01 Giải Nhì: 01 xe máy điện Ludo Mint To Be trị giá 12,900,000 VNĐ. GIẢI NHÓM: 3 group cộng đồng/ fanpage có số bài dự thi nhiều nhất sẽ nhận được tài trợ từ BTC
với giá trị cụ thể như sau:
- 01 Giải Nhất: 15,000,000 VNĐ
- 01 Giải Nhì: 10,000,000 VNĐ
- 01 Giải Ba: 5,000,000 VNĐ
-------------------
Hotline: 1900 23 23 89 Bài đăng của
admin 1 FC
nhằm quảng bá,
ủng hộ cho sản
phẩm mà Sơn
Tùng hợp tác với
Vinfast 183 - Vote cho thần tượng tại các chiến dịch, chương trình và bảng xếp hạng PROJECT COMEBACK No.1 VOTE GIÀNH BẢNG QUẢNG CÁO TẠI NHẬT BẢN CHO SƠN TÙNG M- TP
Theo dự kiến, 01/05/2021 Tùng sẽ ra Album CHÚNG TA. Để chào đón Album lần
này của Tùng, Group SKY M-TP tổ chức hoạt động vote cho Tùng trên ứng dụng
Idolpick để giành bảng quảng cáo. Người có lượt vote nhiều nhất sẽ được trình
chiếu đoạn video quảng cáo trên màn hình LED siêu lớn tại Tokyo, Osaka - Nhật
Bản Thời gian bình chọn: 02/04/2021 đến 18/04/2021
Video sẽ được trình chiếu Led: 30/4/2021 đến 06/05/2021 (Có thể thay đổi theo lịch trình địa phương) HƯỚNG DẪN VOTE : 1. Mở ứng dụng và đi đến tab cuối cùng và chọn ngôn ngữ / bản dịch
2. Đăng nhập / Đăng ký (sử dụng Twitter, Naver, Kakaotalk,Facebook)
3. Nhập nick name ( mọi người NHỚ ấn vào nút màu hồng chỗ nhập nick name để
kiểm tra xem nick name đã có ai dùng hay chưa) và thần tượng yêu thích đặt "Son
Tung M-TP”
4. Chọn tab 4 có hình “Sạc Pin” để điểm danh và nhận 5 pick vote (5 phiếu miễn
phí hàng ngày)
5. Đi đến tab thứ 3 hình "Trái Tim" hoặc tìm banner chương trình vote "The Best
Pop Star In Asia" để vote
cái nút để vote. Như vậy bạn hoàn thành việc
6. Tìm tới "Son Tung M-TP" Nhấp
bỏ phiếu bầu chọn bầu chọn 1 PICK đã hoàn tất! Bạn nhớ ấn 5 lần để bầu hết 5 pick
có mỗi ngày.
7. Bạn có thể mua sao để vote. Lưu ý: Mỗi 1 thiết bị chỉ được điểm danh 1 lần cho 1 tài khoản trong 1 ngày
để nhận được 5 pick để vote. Hôm sau mọi người vào điểm danh lại nhận 5 pick để
vote tiếp nhá. Link Tải app Idol Pick - Android: https://play.google.com/store/apps/details...
- IOS: https://apps.apple.com/.../%EC%95%84%EC.../id1461429755... Một bài đăng nhằm kêu gọi fan vote cho Sơn Tùng giành được bảng quảng cáo
tại Nhật mới đây (Nguồn: FC cung cấp) 184 3. Các fan sân bay Ảnh 1: Các fan T-ara đón Hyo Min ở sân bay năm 2019 (Nguồn: kenh14.vn) Ảnh 2: Các fan đón T-ara tại sân bay 8/2012 (nguồn: kenh14.vn) 185 Ảnh 3: Hình ảnh Sơn Tùng được các fan sân bay chụp lại ngày
23/11/2019 (Nguồn: FC cung cấp) 186 4. Hoạt động Off fan của các FC Ảnh 1: Off fan nhân dịp sinh nhật Sky ngày 26/11/2018 (Nguồn: Tác giả tự chụp) Ảnh 2: Các Sky biểu diễn giao lưu văn nghệ tại buổi off fan ngày 26/11/2018
tại bờ hồ (Nguồn: Tác giả tự chụp) 187 Ảnh 3: Các Sky diễu hành một vòng quanh bờ hồ nhân dịp off fan kỉ niệm sinh nhật cộng đồng fan 26/11/2018 (Nguồn: tác giả tự chụp) 188 Ảnh 4: Các Sky tổ chức off fan kỉ niệm sinh nhật Sơn Tùng 5/7/2019 (Nguồn: FC cung cấp) 189 Ảnh 5: off fan ngày 30/12/2020 tại quán Sky Tea (chủ quán là admin của FC)
để “Cày view” cho Sơn Tùng nhân dịp phát hành MV Chúng ta của hiện
tại (Nguồn: FC cung cấp) 190 Ảnh 6: Off fan nhân dịp sinh nhật Sơn Tùng M-TP ngày 5/7/2018
(Nguồn: Tác giả tự chụp) Ảnh 7: Sky off fan tổ chức sinh nhật Sơn Tùng M-TP (5/7/2020) 191 Ảnh 8: buổi off fan của FC T-ara miền Bắc nhân dịp kỉ niệm 10 năm nhóm T-
ara debut (29/7/2012-29/7/2019) (Tác giả tự chụp ngày 28/7/2019). Ảnh 9: Màn nhảy flasmob dưới mưa của FC T-ara miền Bắc (Tác giả tự chụp
ngày 28/7/2019). 192 Ảnh 10: tác giả tự chụp ngày 28/7/2019. 5. Cổ vũ thần tượng tại các chương trình, show diễn Ảnh 1: Fan Hyo Min (T-ara) cổ vũ ca sĩ này nhân dịp sang Việt Nam và tham dự
chương trình Bữa trưa vui vẻ của VTV6 năm 2019 (Nguồn: FC T-ara miền Bắc) 193 Ảnh 2: Các fan tụ tập chuẩn bị check in một chương trình cổ vũ Sơn Tùng M-
TP (Tác giả tự chụp 14/10/2018) 194 Ảnh 3, 4: Các fan trong lúc chờ check in Skytour tại Mỹ Đình, Hà Nội ngày
11/8/2019 (Nguồn: FC cung cấp) 195 6. Các hoạt động từ thiện và hoạt động cộng đồng Ảnh 1: Chương trình nấu cháo từ thiện tại bệnh viện của FC Sơn Tùng
M-TP Hà Nội for Trust team (Nguồn: FC cung cấp) 196 Anh 2,3: Quyên góp xây cầu Sky 1 ở Kiên Giang (Nguồn: FC cung câp) 197 ̣ i kề̂u ̣n FC Sờn Tù ng M-TP Hà Nô ̣ p phả i khó kha n vờ́ i ̣ đề n bà o Miề n Trung đang ga KÊU GỌI QUYÊN GÓP CHO MIỀN TRUNG
Xin chà o mọ i ngườ̀ i, Miề n Trung thâ n thường củ a To quo c chú ng ta đang phả i hứ ng
chịu nhữ ng cờn bã o lũ hoà nh hà nh hờn bao giờ̀ hề t, đề lạ i nhữ ng ma t má t na
̣ ng nề .
Vờ́ i tinh tha n "lá là nh đù m lá rá ch" Mì̀nh xin dc đạ i diề̂
gọ i mọ i ngườ̀ i tham gia ủ ng hô
những mất mát vật chất lẫn tinh thần.
Mọi đóng góp của mọi người mình sẽ up công khai ạ!
Stk :
Chủ tài khoản :
Ngân hàng : Techcombank
Nội dung chuyển khoản : Họ và tên + FCHN
Mọi người donatề xong có thể chụp lại màn hình và cmt vào bài viết này để mình notề
lại thông tin tránh xót ạ
Thời hạn nhận donatề: 14/10 - 16/10
Sau khi hề t hạ n mì̀nh sề̃ quyề̂n gó p dườ́ i tề̂n "Fc Sờn Tù ng M-TP " tờ́ i ca sì̃ Thủ y Tiề̂n
gử i ta m lò ng a m á p đề n nhâ n dâ n Miề n Trung.
Mong nhận được sự ủng hộ tích cực từ mọi người dù ít hay nhiều cũng đều đáng quý
ạ Cách thức nhận áo : Nhận tại Evềnt , show gần nhất , tại nhà qua ship, qua nhà mình ) lấy (Láng Hạ
_______________ Sắp tới sinh nhật ý nghĩa của chúng ta rồi!! Còn ai chưa có thì mau đặt để hoà chung sắc với mọi người , với bầu trờii Tháng 12 mình vừa nhận được thông tin show xong nhaa Có áo FC cũng là có đc quyền lợi thành viên như mình đã nói trc nhé! Hẹn gặp tại HAPPY SKY'S DAY Một bài đăng kêu gọi ủng hộ đồng bào lũ lụt 10/2020 của FC Hà Nội 198 Ảnh 4: Cộng đồng Sky hưởng ứng phong trào “stay home for” trong mùa
dịch Covid-19 (Nguồn: FC Sơn Tùng M-TP Hà Nội for Trust team) 199 Ảnh 6: Chiến dịch “kẻ trộm nhựa” được cộng đồng Sky ủng hộ, chia sẻ
rộng rãi trên mạng xã hội để bảo vệ môi trường 200 6. Các hình thức tiêu thụ liên quan đến thần tượng: Chibi Baek Hyun (nhóm EXO) Chibi 7 thành viên nhóm BTS Chibi Sơn Tùng được các fan mang theo những dịp off fan (Ảnh: tác giả tự chụp) Ảnh một số búp bê (chibi) mô phỏng thần tượng được bán cho fan 201 Ảnh 1: Ảnh 2: 202 Ảnh 3: Ảnh 1,2,3: Góc sưu tầm những sản phẩm liên quan đến thần tượngcủa fan
Sơn Tùng M-TP ở Trà Vinh (Nguồn: FC cung cấp) 203 Ảnh 4: FC Sơn Tùng bao rạp nhân ngày công chiếu Skytour movie 13/6/2020
(Tác giả chụp cùng FC) Ảnh 5: FC nhân ngày công chiếu Skytour movie (13/6/2020)
(Tác giả chụp cùng FC) 204 Ảnh 6: Xếp hàng chờ xem Skytour movie (Nguồn: FC cung cấp) 205PHỤ LỤC
PHIẾU HỎI Ý KIẾN
Hiện chúng tôi đang thực hiện một nghiên cứu về hâm mộ thần tượng ở
giới trẻ hiện nay. Rất mong các bạn cung cấp thông tin bằng cách trả lời các
câu hỏi sau đây. Chúng tôi cam kết mọi thông tin sẽ được giữ kín và chỉ phục
vụ cho việc nghiên cứu đề tài này. Chân thành cảm ơn!
1. Em vui lòng cho biết tên, tuổi, quê quán, nghề nghiệp hoặc ngành học
2. Em hâm mộ thần tượng giải trí nào?
3. Em hâm mộ thần tượng đó lâu chưa?
4. Em hâm mộ họ vì điều gì?
a. Tài năng
b. Tính cách, phẩm chất
c. Ngoại hình
d. Khác
5. Em biết đến thần tượng qua “kênh” nào?
a. Mạng xã hội
b. Ti vi
c. Bạn bè
d. Báo in
e. Báo điện tử
6. Các em dành bao nhiêu thời gian trong một ngày để theo dõi, chia sẻ
những thông tin về thần tượng?
7. Ngoài thần tượng này, em còn thích ai nữa?
8. Em thể hiện sự hâm mộ idol của mình như thế nào trên mạng xã hội?
(có thể chọn nhiều câu trả lời)
a. Like, share, comment
b. Chỉ nghe/xem chứ không like, share, comment
c. Kết nối với những fan khác
d. Khác
9. Suy nghĩ và cảm xúc của em thế nào trước những tin đồn hay scandal
về thần tượng?
a. Tẩy chay idol vì cảm thấy bị lừa dối
b. Rất sốc và buồn bã
c. Buồn nhưng vẫn tin idol
d. Không quan tâm vì tuyệt đối tin tưởng idol
10. Em có từng tham gia vào các cuộc tranh cãi để bảo vệ thần tượng trên
mạng xã hội hoặc các diễn đàn hay không? Tại sao?
a. Có
b. Không
11. Cách em thể hiện sự hâm mộ idol của mình ở ngoài đời có giống như
trên mạng xã hội không? (Nếu không, hãy cho biết lí do)
a. Có
b. Không
12. Sự hâm mộ này của em ảnh hưởng đến những khía cạnh nào trong cuộc
sống của em?
a. Việc học
b. Quan niệm về nghề nghiệp
c. Tính cách
d. Các mối quan hệ xã hội
e. Thời trang
f. Giải trí
g. Tiêu dùng hàng hóa
13. Mức độ ảnh hưởng như thế nào?
a. Rất ảnh hưởng
b. Ảnh hưởng ít
c. Không ảnh hưởng
14. Em có tham gia hội nhóm fanclub nào không? Nếu có, thì hoạt động
của các fanclub đó như thế nào? Em có thể nói rõ được không? Nếu
không thì vì sao?
a. Có
b. Không
15. Gia đình em đồng tình hay phản đối việc em hâm mộ thần tượng? Tại
sao?
a. Có
b. Không
16. Em có biết những thương hiệu mà idol của em làm đại diện? (Nếu biết,
trả lời tiếp câu 17 và 19, nếu không, chuyển sang câu 19)
a. Biết tất cả
b. Biết một số
c. Không rõ
17. Em hãy kể tên các sản phẩm mà idol là đại diện quảng cáo?
18. Em có sở hữu sản phẩm nào trong số những thương hiệu đó không?
(nếu có, trả lời tiếp câu 19; nếu không, chuyển sang câu 20)
a. Có
b. Không
19. Em có hài lòng với sản phẩm ấy không?
a. Có
b. Không
20. Tại sao em mua (hoặc không mua) những sản phẩm đó?
a. Vì thích hình dáng, mẫu mã
b. Vì chất lượng tốt
c. Vì idol làm đại diện quảng cáo
d. Vì bạn bè đều mua
e. Khác
21. Các idol thường được xây dựng rất hoàn mĩ qua truyền thông, em có
nghĩ rằng đó là tính cách và phẩm chất thật sự của họ?
a. Có
b. Không
22. Trong thành công của một idol, em nghĩ yếu tố nào là quan trọng nhất
(mức độ từ lớn đến nhỏ)?
a. Truyền thông
b. Tài năng
c. Ngoại hình
d. Tính cách
e. Khác
Ảnh 5: Một Slogan của cộng đồng Sky trong dự án chào mừng sinh nhật
Sơn Tùng (6/2019)