VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐINH VIỆT HÀ

HÂM MỘ THẦN TƯỢNG TRONG ĐỜI SỐNG GIỚI TRẺ VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: Văn hóa học Mã số: 9 22 90 40

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. PHẠM QUỲNH PHƯƠNG

HÀ NỘI - 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan:

- Luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Phạm Quỳnh Phương. Các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu của ai khác.

- Luận án đã được thực hiện một cách nghiêm túc, cầu thị và đảm bảo

các nguyên tắc đạo đức trong việc trích dẫn tài liệu.

Tác giả luận án

Đinh Việt Hà

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ

LUẬN............................................................................................................................ 12

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................ 12 1.1.1. Những nghiên cứu về văn hóa giới trẻ ............................................................... 12

1.1.2. Những nghiên cứu về hâm mộ thần tượng ..............................................................

1.2. Cơ sở lí luận và các khái niệm liên quan ............................................................ 31 1.2.1. Các khái niệm được sử dụng trong luận án ........................................................ 31

1.2.2. Cơ sở lí luận của luận án .................................................................................... 34

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................ 39

CHƯƠNG 2: BỨC TRANH CHUNG VỀ HÂM MỘ THẦN TƯỢNG

Ở VIỆT NAM .............................................................................................................. 40

2.1. Những mẫu hình thần tượng trong lịch sử ........................................................ 40

2.2. Bối cảnh của hiện tượng hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam hiện nay .. 44 2.2.1. Chính sách mở cửa, kinh tế thị trường, quá trình hiện đại hoá và đô thị hoá

ở Việt Nam ..................................................................................................................... 44

2.2.2. Toàn cầu hoá và các dòng chảy văn hoá nước ngoài ......................................... 45

2.2.3. Sự phát triển của truyền thông đại chúng ........................................................... 48

2.3. Sự thịnh hành của các ngôi sao giải trí trong đời sống giới trẻ ....................... 52 2.3.1. Những ngôi sao giải trí nước ngoài .................................................................... 52

2.3.2. Các ngôi sao giải trí trong nước ......................................................................... 55

2.4. Hâm mộ thần tượng qua sự phản ánh của báo chí ........................................... 56

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................ 60

CHƯƠNG 3: NHỮNG THỰC HÀNH HÂM MỘ THẦN TƯỢNG CỦA GIỚI

TRẺ HIỆN NAY .......................................................................................................... 61 3.1. Like, view, share, vote, support: những thực hành hàng ngày ........................ 62 3.1.1.Theo dõi, cổ vũ, bênh vực thần tượng .................................................................. 63 3.1.2. Quảng bá cho thần tượng.................................................................................... 67

3.2. Câu lạc bộ người hâm mộ (Fanclub) .................................................................. 69 3.2.1. Mục đích và bối cảnh thành lập fanclub ............................................................. 70 3.2.2. Hoạt động của các fanclub ................................................................................. 73 3.2.3. Vai trò của các admin (ban quản trị FC) ............................................................ 78

3.3. Các hoạt động tiêu dùng có liên quan đến thần tượng ..................................... 80

3.3.1. Tiêu thụ sản phẩm trực tiếp ................................................................................ 81 3.3.2. Các hình thức tiêu thụ trên không gian mạng ..................................................... 86

Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................ 90

CHƯƠNG 4: HÂM MỘ THẦN TƯỢNG: MỘT PHƯƠNG THỨC KIẾN TẠO

BẢN SẮC Ở GIỚI TRẺ .............................................................................................. 91 4.1. Hâm mộ thần tượng trong quá trình định vị căn tính của giới trẻ ................. 91 4.1.1. Nhu cầu định vị căn tính của những người trẻ ................................................... 91

Vai trò của thần tượng trong quá trình định vị căn tính ở giới trẻ ............................... 93

4.2. Những phương thức kiến tạo căn tính của người hâm mộ trẻ ........................ 99 4.2.1. Giải mã thần tượng: sự phản chiếu cá nhân ....................................................... 99

4.2.2. Chia sẻ ý nghĩa biểu trưng: sự kiến tạo căn tính nhóm .................................... 107

Tiểu kết chương 4 ...................................................................................................... 115

CHƯƠNG 5: HÂM MỘ THẦN TƯỢNG Ở GIỚI TRẺ TRONG NHỮNG

ĐỘNG NĂNG CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI .................................... 116

5.1. Đời sống giới trẻ trong bối cảnh nền công nghiệp giải trí ở Việt Nam hiện

nay ............................................................................................................................... 116 5.1.1. Sự phát triển công nghiệp giải trí ở Việt Nam hiện nay ................................... 116

5.1.2. Tác động của nền công nghiệp giải trí đến đời sống giới trẻ ........................... 119

5.2. Truyền thông, thần tượng và giới trẻ như một nhóm công chúng đặc biệt .. 122 5.2.1. Ảnh hưởng của truyền thông tới các hình thức giải trí và tương tác của giới

trẻ ................................................................................................................................ 122

5.2.2. Sự tiêu thụ truyền thông mạnh mẽ ở giới trẻ..................................................... 124

5.3. Chủ nghĩa tiêu dùng và giới trẻ như một thị trường tiềm năng .................... 127 5.3.1. Giới trẻ - một thế hệ người tiêu dùng mới ........................................................ 127

5.3.2. Sự thẩm thấu ý thức hệ thị trường ..................................................................... 133

5.4. Định vị bản thân và khao khát toàn cầu: giới trẻ và những giá trị mới ....... 137 5.4.1. Định vị bản thân ................................................................................................ 137 5.4.2. Khao khát toàn cầu ........................................................................................... 144

Tiểu kết chương 5 ...................................................................................................... 146 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 148 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 152

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây, hâm mộ thần tượng trở thành một hiện tượng nổi

bật, phổ biến của giới trẻ trên phạm vi toàn cầu. Từ phương diện học thuật, hâm mộ

thần tượng là một khía cạnh nghiên cứu quan trọng về văn hóa giới trẻ. Từ khi

Ngành Nghiên cứu văn hóa ra đời và phát triển vào những năm 1960 ở phương Tây,

văn hóa giới trẻ đã được tiếp cận bằng nhiều khung lí thuyết nhằm khám phá các

chiều kích khác nhau như tiểu văn hóa, bản sắc, sự phản kháng, mạng lưới xã hội,

văn hóa tiêu dùng... Ở trong nước, hai thập kỉ trở lại đây chứng kiến giới trẻ và văn

hóa giới trẻ trở thành đối tượng nghiên cứu của một số ngành như xã hội học, tâm lí

học, giáo dục học, văn hóa học. Đặc biệt, với sự phát triển của ngành nghiên cứu

văn hóa ở Việt Nam, các chiều cạnh của văn hóa giới trẻ ngày càng được nghiên

cứu đa chiều hơn. Ban đầu, các nhà nghiên cứu hầu như chỉ chú ý đến lối sống, hệ

giá trị, quan niệm sống hay nhận thức của giới trẻ, sau đó những đặc trưng cũng như

biến đổi của văn hóa giới trẻ trong bối cảnh đặc thù mà họ sống được quan tâm

nhiều hơn chẳng hạn hiện tượng sống thử, sự thay đổi thị hiếu, phong cách, sự thể

hiện bản sắc... trước những tác động của toàn cầu hóa, đặc biệt với vai trò của

internet. Văn hóa giới trẻ và những biểu hiện ngày càng đa dạng, phức tạp của nó

cần được nhìn nhận và có thể soi chiếu bằng những lăng kính đa chiều hơn mà hâm

mộ thần tượng là một hiện tượng nổi bật. Nghiên cứu về hâm mộ thần tượng sẽ giúp

nhận diện những chiều kích mới của văn hóa giới trẻ với những động năng của xã

hội Việt Nam đương đại.

Hâm mộ thần tượng không phải là hiện tượng hoàn toàn mới ở Việt Nam.

Khi đất nước còn chìm đắm trong khói lửa chiến tranh, những lãnh tụ cách mạng,

những người lính anh dũng không tiếc tuổi xuân cho sự nghiệp giải phóng dân tộc

được xem là hình mẫu của lớp lớp thanh niên. Sau khi đất nước giải phóng và bước

vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, những người được ngưỡng mộ và

được coi là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ chính là những anh hùng lao động. Trong

bối cảnh hiện nay, các ngôi sao giải trí, những người nổi tiếng lại là những thần

tượng có sức thu hút mạnh mẽ đối với số đông giới trẻ.

1

Việc giới trẻ hiện nay trở nên say mê với những ca sĩ, diễn viên, cầu thủ và

tham gia vào những cộng đồng người hâm mộ cuồng nhiệt chờ chực ở sân bay,

khóc lóc, ngất xỉu vì thần tượng, sẵn sàng bỏ ra những số tiền lớn so với khả năng

chi tiêu ở độ tuổi của họ để mua album, gậy cổ vũ, mua vé dự concert... đã khiến

không ít phụ huynh lo ngại và tỏ ra hoang mang vì không hiểu nổi con em họ đã

nghĩ gì và tại sao các ngôi sao giải trí kia lại có thể khiến con em họ “phát cuồng”

như thế. Đối lập với lo ngại của các thế hệ lớn hơn, giới trẻ vẫn hàng ngày, hàng giờ

theo dõi, chia sẻ, thậm chí “chạy theo” các thần tượng của mình. Điều này gợi ra

những câu hỏi nghiên cứu có tính then chốt để hiểu về giới trẻ Việt Nam trong bối

cảnh văn hoá tiêu dùng phát triển mạnh mẽ và sự khủng hoảng về căn tính của

những người trẻ còn loay hoay tìm giá trị bản thân.

Từ góc nhìn nghiên cứu văn hóa, quan điểm của chính những người trẻ - như

là “tiếng nói người trong cuộc” - cần phải được “lên tiếng”. Những câu chuyện,

những thực hành văn hóa thường ngày nhỏ nhặt, riêng tư, “cái tôi”, “cái khác biệt”

của giới trẻ cần được phân tích. Khác với các ngành khác, nghiên cứu văn hóa nhìn

ra được những ý nghĩa của các thực hành bị gạt ra ngoài lề, nhìn hâm mộ thần tượng

không phải là một thực hành phi lí, nông nổi, điên rồ mà có vai trò quan trọng trong

quá trình tạo dựng ý nghĩa và căn tính giới trẻ. Trong quá trình biến đổi liên tục,

phức tạp của bối cảnh trong nước và thế giới, khi những khoảng cách thế hệ và định

kiến về giới trẻ vẫn luôn tồn tại, khi giới trẻ vẫn luôn loay hoay với những câu hỏi

trong việc xác định “họ là ai”, luôn không ngừng tìm kiếm những cách thức để phản

kháng lại những áp đặt, định kiến và khẳng định bản thân thì nghiên cứu cơ bản về

giới trẻ và văn hóa giới trẻ vẫn luôn là một việc làm quan trọng. Tìm hiểu việc hâm

mộ thần tượng của giới trẻ có thể góp phần làm lộ ra các chiều kích phong phú, đa

chiều của văn hoá giới trẻ ngày nay. Vì vậy, chúng tôi tin rằng việc nghiên cứu

“Hâm mộ thần tượng trong đời sống giới trẻ Việt Nam hiện nay” có tính cấp thiết

cao trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

Mục đích nghiên cứu của đề tài là khám phá thực hành hâm mộ thần tượng

và chỉ ra phương thức kiến tạo bản sắc của giới trẻ trong những động năng của xã

hội Việt Nam đương đại.

Các câu hỏi nghiên cứu cơ bản:

2

1- Thực hành hâm mộ thần tượng của giới trẻ được thể hiện như thế nào?

2- Vai trò của những thực hành ấy trong việc kiến tạo nên bản sắc của giới trẻ?

3- Những động năng của xã hội Việt Nam đương đại đã góp phần định dạng

hiện tượng hâm mộ thần tượng của giới trẻ hiện nay như thế nào?

Để trả lời câu hỏi này, luận án đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản sau:

 Cung cấp một cái nhìn tổng quan những khía cạnh lí thuyết quan trọng trong

nghiên cứu về văn hóa giới trẻ và hâm mộ thần tượng.

 Nhận diện các thực hành hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam (qua

nghiên cứu trường hợp cụ thể một số cá nhân người hâm mộ và các câu lạc bộ

người hâm mộ).

 Tìm hiểu phương thức kiến tạo bản sắc của giới trẻ thông qua việc hâm mộ

thần tượng trong bối cảnh hiện nay.

 Phân tích những yếu tố tác động đến thực hành hâm mộ thần tượng của giới

trẻ Việt Nam hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng, khách thể nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: các thực hành hâm mộ thần tượng của giới trẻ Việt

Nam hiện nay, cụ thể là các thần tượng giải trí trong nền văn hoá đại chúng, tập

trung chủ yếu vào các thần tượng âm nhạc. Sở dĩ tôi lựa chọn các thần tượng âm

nhạc là vì các hoạt động của họ và người hâm mộ của họ diễn ra phong phú, nổi bật

và đều đặn trên truyền thông (truyền hình, youtube, báo điện tử...), dễ nhận thấy sự

ảnh hưởng của họ trong việc định hình và khiến cho đời sống giải trí của giới trẻ trở

nên sôi động như hiện nay. Thêm vào đó, vì đây là những ngôi sao biểu diễn, gắn

với một loại hình văn hóa đại chúng có tính chất phổ biến và sôi động nhất hiện nay

(nhạc Pop) nên đã tạo ra những đặc trưng riêng nhưng đồng thời cũng mang tính

bao quát khá đầy đủ cho những cộng đồng người hâm mộ (có tên gọi và lightstick

riêng của fandom, có những hoạt động đặc trưng: tham gia các show diễn cổ vũ

thần tượng - hoạt động này không có ở fan của ngôi sao điện ảnh, mua các sản

phẩm đa dạng gắn với thần tượng như album, nhạc số và các sản phẩm của thần

tượng hay do thần tượng làm đại diện quảng cáo)...

3

Trong những trường hợp nhất định, tôi vẫn sử dụng tư liệu về người hâm mộ

của những ngôi sao điện ảnh hay ngôi sao thể thao khác làm minh chứng để bổ sung

cho các kết luận của mình.

- Khách thể nghiên cứu: những người hâm mộ trẻ (fan), các câu lạc bộ người

hâm mộ (FC - fanclub) ở Việt Nam hiện nay. Trong luận án này, thuật ngữ “giới

trẻ” không hoàn toàn trùng khít với thuật ngữ “thanh niên” (theo định nghĩa của

Luật Thanh niên là độ tuổi từ 16 đến 30 tuổi), bởi “giới trẻ” còn chỉ tất cả những

người có “tính trẻ”, khao khát tìm kiếm định vị bản thân, thử nghiệm những điều

mới mẻ, liều lĩnh, năng động, sáng tạo. Tuy nhiên, người hâm mộ đối với các thần

tượng trong giới nghệ sĩ giải trí, mà cụ thể là thần tượng âm nhạc, chủ yếu là những

người trẻ là học sinh, sinh viên, người mới đi làm. Vì vậy, nghiên cứu này chủ yếu

tiếp cận và phân tích người hâm mộ ở độ tuổi 16 - 30 này.

Để có thể tìm hiểu thấu đáo và cụ thể về người hâm mộ trẻ, đề tài luận án lựa

chọn nghiên cứu trường hợp người hâm mộ của ca sĩ nổi tiếng Sơn Tùng M-TP.

Sơn Tùng M-TP tên thật là Nguyễn Thanh Tùng, sinh ngày 5/7/1994, quê Thái

Bình, là một trong những ca sĩ “hot” nhất trong làng nhạc trẻ hiện nay ở Việt Nam.

Là một ca sĩ thành danh từ giới underground, Sơn Tùng hoạt động nghệ thuật từ khi

còn là học sinh cấp 3, nhưng chính thức được biết đến rộng rãi từ năm 2013 sau khi

xuất hiện trên chương trình Vietnam Idol với ca khúc “Cơn mưa ngang qua”. Sáng

tác tầm 20 bài hát, ca sĩ này đã từng giành nhiều giải trên các sân khấu âm nhạc,

không ít bài đã trở thành “hit”, có lượt xem cao kỉ lục so với các ca sĩ Việt Nam:

“Em của ngày hôm qua”, “Không phải dạng vừa đâu”, “Chúng ta không thuộc về

nhau”, “Lạc trôi”, “Nơi này có anh”, “Chạy ngay đi”, “Hãy trao cho anh”... Trong

danh sách Top 10 tìm kiếm nhiều nhất trên Google Việt Nam năm 2015 có đến 4 từ

khóa liên quan đến nam ca sĩ này. Tháng 10/2017, ca sĩ này còn ra mắt tự truyện

Chạm tới giấc mơ với 17.000 bản in. Tháng 7/2019, sau khi MV Hãy trao cho anh

được phát hành, với sự góp mặt của những nghệ sĩ nước ngoài và đặc biệt là sự góp

giọng của huyền thoại nhạc Rap Snoop Dog của Mỹ thì tên tuổi Sơn Tùng đã vượt

xa hơn nữa khỏi lãnh thổ Việt Nam. Sự kiện này được nhắc đến trong một thời gian

dài trên các phương tiện truyền thông ở Việt Nam năm 2019. Sơn Tùng cũng trở

thành gương mặt thương hiệu, đại diện cho hàng chục nhãn hàng lớn nhỏ, là cái tên

xuất hiện liên tục trên báo chí, mạng xã hội, các chương trình truyền hình. Dù mới

4

chỉ tham gia lĩnh vực giải trí được 7 năm nhưng Sơn Tùng đã có một sự nghiệp

đáng kể, có lượng người hâm mộ trẻ đông đảo bậc nhất ở Việt Nam hiện nay. Có

một điều đặc biệt là không chỉ Sơn Tùng mà cộng đồng người hâm mộ của ca sĩ này

cũng luôn là đối tượng, chủ đề bàn luận của báo chí, cộng đồng mạng trong suốt

thời gian vừa qua. Các câu lạc bộ người hâm mộ (fanclub - FC) của ca sĩ này dù

hoạt động tự phát nhưng khá đông đảo và chuyên nghiệp, thu hút ngày càng nhiều

thành viên tham gia. Nghiên cứu trường hợp người hâm mộ Sơn Tùng M-TP sẽ

giúp nhận diện các chiều kích của vấn đề người hâm mộ trẻ hiện nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về khía cạnh nghiên cứu, luận án không bao quát mọi khía cạnh của hiện

tượng hâm mộ thần tượng (nghiên cứu thần tượng, người hâm mộ, các công ty giải

trí, mạng lưới kinh doanh và quản lý thần tượng, mối quan hệ xuyên quốc gia trong

ngành công nghiệp kinh doanh thần tượng...) mà tập trung nghiên cứu những thực

hành hâm mộ thần tượng của người hâm mộ - những người đã kiến tạo nên thần

tượng và tiêu thụ thần tượng theo cách riêng của họ, mặc dù bị chi phối trong mạng

lưới về “nghĩa” của thế giới tiêu dùng và ngành công nghiệp giải trí. Luận án chú ý

tới các khía cạnh cảm xúc, hành vi tiêu dùng, đặt chúng trong mối quan hệ với việc

kiến tạo căn tính của người hâm mộ trẻ. Ngành công nghiệp giải trí có ảnh hưởng

không nhỏ trong việc định hướng thẩm mỹ, định hướng thị trường, được công

nghiệp hóa trở thành một ngành công nghiệp. Chính trong bối cảnh của ngành công

nghiệp này mới khiến xuất hiện nhiều những người nổi tiếng, những thần tượng

như hiện nay. Đồng thời, công nghiệp văn hóa cũng tạo nên cả một hệ thống nghĩa

mới đối với công chúng nói chung và giới trẻ nói riêng.

Về thời gian nghiên cứu: quá trình nghiên cứu được thực hiện từ giữa năm

2017 đến cuối năm 2019.

Về không gian nghiên cứu: chủ yếu tại nội thành Hà Nội vì đây là nơi thường

xuyên diễn ra những chương trình, sự kiện văn hóa văn nghệ và thể thao có sự tham

gia của các ngôi sao âm nhạc, thể thao trẻ tuổi và các fan hâm mộ của họ. Không

chỉ thế, đô thị Hà Nội còn là nơi có cơ sở hạ tầng phù hợp cho những sự kiện giải trí

thu hút một số lượng người đông đảo (các sân vận động, nhà văn hoá, trung tâm

phát hành vé, trung tâm thương mại - nơi thường được các ekip tổ chức sự kiện thực

hiện các chương trình quảng bá, giao lưu, fan meeting...).

5

Ngoài phạm vi nghiên cứu là không gian thực tế, chúng tôi cũng tiến hành

nghiên cứu hiện tượng hâm mộ thần tượng và các cá nhân, hội nhóm những người

hâm mộ ở không gian trực tuyến (mạng xã hội Facebook, các diễn đàn của fan và

anti-fan, ví dụ diễn đàn về Sơn Tùng trên VOZ...). Việc này giúp chúng tôi có thêm

cơ sở dữ liệu để chỉ ra được những thứ mà giới trẻ muốn thể hiện cũng như những

yếu tố tác động đến quan niệm, thị hiếu, nhu cầu của họ.

4. Phương pháp nghiên cứu

Đây là một nghiên cứu định tính với mục tiêu khám phá diện mạo và ý nghĩa

của thực hành hâm mộ thần tượng của giới trẻ Việt Nam trong xã hội đương đại.

Trước khi lựa chọn các phương pháp nghiên cứu định tính, tôi đã tiến hành khảo sát

sơ bộ một số nhóm bạn trẻ hâm mộ thần tượng Việt Nam và K-Pop thông qua phiếu

hỏi ý kiến để có được cái nhìn khái quát và những nhận định chung về người hâm

mộ và các thực hành hâm mộ của họ (xin xem Phụ lục 1). Sự nhất quán tương đối

trong những câu trả lời của các đối tượng được khảo sát này đã giúp tôi có cơ sở để

quyết định lựa chọn nghiên cứu định tính đối với một số người hâm mộ trẻ nhằm

tìm hiểu sâu hơn về ý nghĩa của hâm mộ thần tượng trong đời sống giới trẻ Việt

Nam hiện nay. Các phương pháp định tính bao gồm quan sát tham dự, phỏng vấn

sâu, thảo luận nhóm. Ngoài ra, luận án cũng sử dụng phương pháp phân tích, tổng

hợp các tư liệu thứ cấp.

Trước hết là phương pháp quan sát tham dự. Do có một thời gian dài tìm hiểu

trên các mạng xã hội, tham gia vào các diễn đàn, hội nhóm người hâm mộ, tôi nhận

thấy các thực hành hâm mộ thần tượng của giới trẻ đa dạng và đa chiều hơn nhiều

so với những gì báo chí phản ánh. Vì vậy, tôi đã đề nghị được trở thành “member”

(thành viên) của một số fanclub (FC) như 4 FC của những người hâm mộ Sơn Tùng

M-TP, 1 FC của ca sĩ Đức Phúc, 1 FC của những người hâm mộ nhóm nhạc nữ Hàn

Quốc T-ara, 1 FC của nhóm EXO, 1 FC của nhóm BTS, ngoài ra tôi còn theo dõi

một số FC của các ca sĩ, diễn viên, cầu thủ bóng đá Việt Nam và nước ngoài.

Để được chấp nhận là “member” (thành viên), tôi phải trả lời 3-5 câu hỏi của

“admin” (ban quản trị FC) để chứng minh được rằng tôi là fan thật sự, tôi phải có

những hiểu biết nhất định về thần tượng của cả nhóm và nếu muốn tham gia với tư

cách là thành viên chính thức, tôi phải nộp phí định kì và tham gia các hoạt động

offline với FC. Quỹ của FC sẽ do một thành viên trong dàn admin giữ để chi tiêu

6

vào những việc chung của FC như mua áo đồng phục, mua bảng đèn cổ vũ, in

banner và poster để tổ chức “đu show” cho các thành viên trong nhóm; thuê loa đài

để tổ chức các sự kiện offline của FC (kỉ niệm ngày thành lập FC, kỉ niệm ngày

thần tượng phát hành album hay bài hát nào đó đáng nhớ, sinh nhật của thần

tượng...); làm từ thiện khi có sự kiện như kỉ niệm ngày sinh của thần tượng hoặc khi

có những hoàn cảnh cần trợ giúp. Tôi đã tham gia đóng quỹ và trở thành một thành

viên chính thức trong một FC của những người hâm mộ Sơn Tùng M-TP tại Hà Nội.

Để tăng cường các mối quan hệ và duy trì tư cách thành viên, tôi đã mua

“vương miện” đội đầu để cổ vũ khi đi xem show, đi dự offline tại phố đi bộ và tại

các quán trà sữa, cà phê cùng với cả FC. Nhờ quá trình này, tôi nhanh chóng làm

quen với khá nhiều bạn trẻ cả nam và nữ. Tôi cùng xếp hàng với họ để đợi được vào

miễn phí trong một vài show tại phố đi bộ theo quyền lợi của các thành viên chính

thức trong FC, cùng họ kêu gọi những người hâm mộ khác mua vương miện cổ vũ

Sơn Tùng, cùng hồi hộp săn vé trên hệ thống VinID và xếp hàng tại cửa hàng Circle

K để đổi 3 thùng Pepsi lấy vé Vvip. Tôi cũng từng tụ tập từ 7 rưỡi sáng đến 12 giờ

đêm để tham dự Skytour (một liveshow có bán vé của Sơn Tùng năm 2019) cùng

FC. Nhờ vậy, dù hơn tuổi khá nhiều nhưng các bạn trẻ này coi tôi như “người trong

cùng gia đình Sky” của họ. Tôi đã cùng họ có những trải nghiệm tuyệt vời trong

suốt quãng thời gian từ 2017 đến nay. Ngoài quan sát tham dự những hoạt động

thực tế của FC này, tôi còn tham gia bình luận trên facebook của các FC khác, để có

những thông tin, những trải nghiệm khác của một thành viên online. Phương pháp

này đã giúp tôi thu được những tư liệu quan trọng, những cảm nhận sinh động, thực

tế, vừa bao quát vừa cụ thể từ góc độ của người trong cuộc.

Phương pháp phỏng vấn sâu được triển khai dựa trên những hiểu biết và mối

quan hệ tôi có được từ quá trình quan sát tham dự dài ngày. Từ một vài thông tín

viên thân thiết, phương pháp “quả cầu tuyết” (snowball) đã giúp tôi mở rộng mạng

lưới những người có thể phỏng vấn. Tôi đã tiến hành các cuộc phỏng vấn với 45

bạn trẻ là những người hâm mộ của các ca sĩ, diễn viên, cầu thủ bóng đá của Việt

Nam và nước ngoài, trong đó 30 bạn là người hâm mộ của ca sĩ Sơn Tùng M-TP.

Họ là những người thể hiện tình cảm nồng nhiệt với thần tượng (like, share và

comment liên tục tại các fanpage, các diễn đàn về thần tượng, nhiệt tình trong các

sự kiện của FC). Các bạn trẻ được lựa chọn phỏng vấn khá đa dạng về độ tuổi, nghề

7

nghiệp, trình độ, quê quán. Họ là sinh viên (26 bạn), học sinh (6 bạn), người đã đi

làm (13 bạn, trong đó có 5 bạn làm các công việc văn phòng như y tá, giáo viên,

luật sư, nhân viên truyền thông; 6 bạn còn lại kinh doanh tự do hoặc là nhân viên

bán hàng); 14/45 bạn được phỏng vấn là người Hà Nội, còn lại là các bạn đến từ

nhiều tỉnh thành miền Bắc, miền Trung và cả miền Nam. Đây là những bạn trẻ

trong độ tuổi từ 16 - 30 (cũng có một số ít bạn ngoài 30 tuổi - 4 bạn). Những bạn là

fan của ca sĩ Sơn Tùng M-TP chủ yếu sinh sống tại nội thành Hà Nội (13/30 bạn).

Ngoài ra cũng có một vài trường hợp ngoại lệ (là người sống ở Sài Gòn hoặc tỉnh

ngoài nhưng đến Hà Nội để “off” - họp fan với những người hâm mộ khác). Với

một số fan sống ở Sài Gòn, qua thông tín viên của mình - cũng là thành viên của

một FC, tôi đã liên hệ được với 2 admin của FC này. Khi họ ra Hà Nội công tác, tôi

có dịp cùng gặp gỡ, đi ăn, đi uống nước cùng họ và các admin đầu cầu Hà Nội. Nhờ

có những hiểu biết nhất định về Sơn Tùng M-TP, tôi bắt chuyện và hòa nhập khá

nhanh với họ.

Trong các cuộc phỏng vấn bán cấu trúc được thực hiện trong khoảng từ 60 -

120 phút, những người tham gia cùng tôi trao đổi và chia sẻ về một số chủ đề: Cách

họ được giới thiệu/ biết tới thần tượng, tại sao hâm mộ thần tượng này; Những khía

cạnh của thần tượng mà họ thích hoặc không thích; Cách mà họ thể hiện sự hâm mộ

của mình và Tại sao họ lại hâm mộ như vậy? Cách hâm mộ của họ có ảnh hưởng từ

đâu?; Những sự thay đổi về cảm xúc, suy nghĩ, quan điểm, thị hiếu, thẩm mỹ từ khi

hâm mộ ca sĩ này? Họ muốn cho người khác thấy họ là những người hâm mộ như

thế nào? Cách họ sử dụng phương tiện truyền thông xã hội cho các hoạt động của

người hâm mộ... Tất cả các cuộc phỏng vấn đều bắt đầu bằng câu chuyện về các

ngôi sao thần tượng, cấu trúc của cuộc phỏng vấn được phát triển linh hoạt theo các

chủ đề nổi lên trong suốt quá trình phỏng vấn. Nội dung các cuộc phỏng vấn được

ghi âm hoặc được ghi chép lại dưới dạng nhật kí, kết hợp với quá trình quan sát

tham dự, có những đối tượng được phỏng vấn nhiều lần nhằm đảm bảo tính chính

xác, tin cậy và phong phú của thông tin.

Phương pháp phỏng vấn sâu với nguyên tắc ẩn danh cho phép người được

phỏng vấn bộc lộ một cách thành thật, tự nhiên những thị hiếu, sở thích của họ,

thậm chí cả sự điên rồ, cuồng nhiệt của họ đối với thần tượng một cách không ngại

ngùng. Phương pháp này đã giúp tôi có được sự hiểu biết sâu và đa chiều hơn về

8

những cảm xúc, hành vi của các cá nhân và nhóm người hâm mộ. Những hiểu biết

này một mặt bổ sung tư liệu, một mặt là sự phản biện với những gì mà báo chí phản

ánh về hiện tượng hâm mộ thần tượng của giới trẻ Việt Nam trong những năm vừa

qua vì thực sự, trước khi tiếp cận những người hâm mộ cụ thể, tôi cũng từng có cái

nhìn đầy định kiến về họ.

Bên cạnh việc phỏng vấn những bạn trẻ là fan của ca sĩ Sơn Tùng M-TP, tôi

cũng tiến hành phỏng vấn một số fan của các ca sĩ, nhóm nhạc, cầu thủ nổi tiếng và

một số nhà báo, người làm truyền thông về các vấn đề như: các yếu tố làm nên sự

nổi tiếng và thành công của một ngôi sao, những yếu tố tác động đến việc hâm mộ

thần tượng ở giới trẻ hiện nay, mối quan hệ giữa các ngôi sao với truyền thông và

các thương hiệu, giữa thần tượng với người hâm mộ...

Ngoài phương pháp phỏng vấn sâu, tôi còn tiến hành 4 cuộc thảo luận nhóm

(mỗi nhóm từ 3-5 người) với mục đích tăng tính tương tác, tranh luận giữa các cá

nhân người hâm mộ để tìm hiểu những suy nghĩ, góc nhìn đa chiều về thần tượng và

những thực hành hâm mộ cụ thể của các bạn trẻ hiện nay, cũng như để tìm những

điểm chung mang tính bối cảnh mà những người trẻ cùng trang lứa như họ từng trải

qua, chẳng hạn các kênh truyền hình, các trang web họ thường xem, các ứng dụng

internet và các trang mạng xã hội họ từng sử dụng, các dấu mốc thời gian và các sự

kiện văn hóa có liên quan tới quá trình hâm mộ thần tượng của họ.

Nghiên cứu người hâm mộ trẻ cũng gặp một số khó khăn nhất định. Các bạn

trẻ tuy khá cởi mở, sôi nổi trong khi nói chuyện, tuy nhiên cũng không dễ để sắp

xếp một buổi hẹn bởi họ thường xuyên phải học theo giờ giấc không ổn định (học

tín chỉ), hoặc đi thi, đi làm thêm... Do vậy, ngoài gặp gỡ ở quán cà phê, tôi đã tham

gia với các bạn trẻ một số sự kiện có thần tượng của họ biểu diễn, tham gia các buổi

họp fan của họ (đi ăn, đến trường mà họ học...) và thường xuyên trò chuyện với họ

qua mạng xã hội trực tuyến để tìm hiểu những thông tin từ họ.

Do đặc trưng về giao tiếp và tương tác của lứa tuổi trong bối cảnh truyền

thông và mạng xã hội hiện nay, để khắc phục những hạn chế của việc phỏng vấn

trực tiếp, tôi còn sử dụng phương pháp phân tích văn bản, coi những nội dung,

thông tin trên các trang fanpage của các nhóm fandom, các fanclub và các tài khoản

facebook của các cá nhân người hâm mộ trẻ như là một văn bản để phân tích, đánh giá.

9

Ngoài ra, để hỗ trợ cho những bàn luận và diễn giải của mình, chúng tôi cũng

sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp các tư liệu thứ cấp. Nguồn tài liệu mà

chúng tôi tiếp cận và xử lí bao gồm: các tài liệu nghiên cứu về giới trẻ và văn hóa

giới trẻ, các tài liệu về thần tượng, người nổi tiếng và hâm mộ thần tượng trên thế

giới và ở Việt Nam, các tài liệu về bối cảnh đương đại ở Việt Nam nói riêng và thế

giới nói chung bao gồm toàn cầu hóa, truyền thông, văn hóa đại chúng, văn hóa tiêu

dùng đặt trong mối quan hệ với văn hóa giới trẻ. Mặc dù hâm mộ thần tượng là một

hiện tượng văn hóa nổi bật ở giới trẻ Việt Nam trong khoảng 20 năm trở lại đây, tuy

nhiên, các tài liệu nghiên cứu của Việt Nam về hiện tượng này hầu như rất ít, chủ

yếu là các tư liệu báo chí truyền thông, trong khi tư liệu nước ngoài lại khá đồ sộ.

Do vậy, để thu thập các tư liệu này, tôi chủ yếu phải sử dụng các công cụ tìm kiếm

như: Google, Google Scholar, ResearchGate, Academia.edu,... và khai thác tối đa

các nguồn tài liệu hỗ trợ từ phía các thầy cô và các chuyên gia. Đây là nền tảng

quan trọng để chúng tôi có được cái nhìn tổng thể về đối tượng nghiên cứu, trường

hợp nghiên cứu, từ đó có thể lên kế hoạch cho việc quan sát tham dự, lập câu hỏi

phỏng vấn và lựa chọn đối tượng để phỏng vấn. Đồng thời, khi đối chiếu với các tư

liệu điền dã, nguồn tư liệu thứ cấp này còn giúp cho việc phân tích, lí giải vấn đề

nghiên cứu trở nên rõ ràng hơn, từ đó có thể đưa ra được những hướng tiếp cận mới,

những kết quả nghiên cứu mới cho đề tài.

Không chỉ khai thác các tư liệu mang tính học thuật nghiên cứu về văn hóa

giới trẻ và hâm mộ thần tượng, luận án còn tìm kiếm những tư liệu trên báo chí về

đối tượng nghiên cứu qua một số tờ báo dành riêng cho thanh thiếu niên, tiêu biểu

nhất là Hoa Học trò. Chúng tôi đã khảo sát tờ báo này trong 29 năm liên tục từ số

báo đầu tiên năm 1991 đến 2019 để có thể lịch sử hóa hiện tượng hâm mộ thần

tượng cũng như thấy được những biến đổi trong đời sống văn hóa giới trẻ Việt Nam

trong quãng thời gian này.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

 Luận án là một trong những công trình đầu tiên khám phá những chiều kích

văn hóa của hiện tượng hâm mộ thần tượng ở Việt Nam trong thời đại hiện nay

cũng như các tác nhân tác động đến nó.

 Luận án khám phá cách thức giới trẻ kiến tạo nên căn tính của mình thông

qua cách họ hâm mộ thần tượng và gán nghĩa cho các thực hành văn hoá.

10

 Luận án cung cấp những luận giải về căn nguyên và động lực của việc hâm

mộ thần tượng, từ đó chỉ ra những động năng của xã hội Việt Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án

- Ý nghĩa lí luận

Ý nghĩa lý luận của luận án được thể hiện trên hai phương diện:

Thứ nhất, từ việc lí giải sâu sắc về hiện tượng hâm mộ ở giới trẻ và lập luận

rằng những thực hành hâm mộ thần tượng (tiêu dùng, giải mã thần tượng và kiến

tạo văn hoá người hâm mộ) là một cách thức hữu hiệu để giới trẻ tạo dựng bản sắc

cá nhân và bản sắc nhóm, luận án đóng góp một quan điểm học thuật về phương

thức kiến tạo bản sắc của giới trẻ trong bối cảnh đương đại.

Thứ hai, cũng thông qua việc tranh luận rằng hâm mộ thần tượng không chỉ

đơn thuần là một hình thức giải trí mà còn là phương thức để những người hâm mộ

trẻ kiến tạo căn tính cá nhân và tập thể, khẳng định “quyền lực” của nhóm tuổi

trước những định kiến của các nhóm tuổi lớn hơn, thậm chí có sức hấp dẫn ngược

trở lại đối với các nhóm tuổi lớn hơn, luận án đóng góp vào lý thuyết về tiểu văn

hoá giới trẻ.

- Ý nghĩa thực tiễn

Qua việc nghiên cứu những ý nghĩa, giá trị, quan điểm, thị hiếu mà những

người hâm mộ trẻ cùng chia sẻ, luận án chỉ ra những cách thức mà những người

hâm mộ trẻ định danh về mình qua cách hâm mộ thần tượng của họ trong bối cảnh

xã hội đương đại. Với ý nghĩa đó, luận án là tư liệu tham khảo cho các nhà nghiên

cứu văn hóa, những người làm chính sách về thanh niên cũng như những người

quan tâm đến vấn đề bản sắc văn hoá và văn hoá giới trẻ.

7. Cơ cấu của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận án gồm 5 chương sau:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận;

Chương 2: Bức tranh chung về hâm mộ thần tượng ở Việt Nam;

Chương 3: Những thực hành hâm mộ thần tượng của giới trẻ hiện nay;

Chương 4: Hâm mộ thần tượng: một phương thức kiến tạo căn tính ở giới trẻ;

Chương 5: Hâm mộ thần tượng ở giới trẻ trong những động năng của xã hội

Việt Nam đương đại.

11

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1. Những nghiên cứu về giới trẻ và văn hóa giới trẻ

1.1.1.1. Những nghiên cứu về văn hóa của các nhóm giới trẻ

Có rất nhiều khuynh hướng lí thuyết trong nghiên cứu về văn hóa của các

nhóm giới trẻ khác nhau, trong đó tiểu văn hóa là một khuynh hướng nổi bật. Tiểu

văn hóa (subculture) là một khái niệm để chỉ văn hóa của một nhóm người trong

một nền văn hóa, có những đặc trưng riêng so với nền văn hóa chung mà nó thuộc

về mặc dù vẫn duy trì những nguyên tắc nền tảng của nền văn hóa đó. “Tiểu văn

hóa giới trẻ” được xem là một tiểu văn hóa dựa trên giới trẻ với phong cách, hành vi

và sở thích riêng biệt. Các tiểu văn hóa giới trẻ được nhận dạng dựa trên các yếu tố

có thể phân biệt về mặt xã hội như gia đình, công việc, nhà ở và trường học (Brake 1985) [79].

“Tiểu văn hóa” (sub-culture) được hiểu là văn hóa “con”, văn hóa “phụ”,

văn hóa “nhóm” được sản sinh trong chính nền văn hóa chính thống (nền văn hóa

“cha mẹ”). Lí thuyết này được phát triển bởi Trung tâm Nghiên cứu văn hóa đương

đại Birmingham (CCCS) (1964) với các công trình quan trọng của Dick Hebdige

(1979) [116], Stuart Hall & Tony Jefferson (1993) [114]... Các nhà nghiên cứu cho

rằng một trong những đặc trưng của các tiểu văn hóa giới trẻ là thường thể hiện sự

đối lập có hệ thống với nền văn hóa chính thống. Dick Hebdige [116] mô tả tiểu văn

hoá như là một phản ứng của các nhóm ít quyền lực thách thức quyền bá chủ của

văn hóa thống trị/chi phối. Stuart Hall và Tony Jefferson [114] thì mô tả các tiểu

văn hóa giới trẻ là những nỗ lực phản kháng lại quyền lực thống trị thông qua việc

áp dụng có ý thức các hành vi mang tính biểu tượng hay nghi lễ có ý nghĩa đe dọa

đến việc thiết lập sự thống trị đó. Vì giới trẻ được xem như một nhóm phụ thuộc và

ít quyền lực trong mối quan hệ với sự chi phối của xã hội người lớn, nên tiểu văn

hoá giới trẻ có thể được xem như một hệ thống văn hoá thách thức sự thống trị của

xã hội người lớn.

Các tiểu văn hóa giới trẻ có thể được định nghĩa là các hệ thống biểu đạt ý

nghĩa (systems of meaning), phương thức biểu hiện (modes of expression) hoặc lối

sống (lifestyle) được phát triển bởi các nhóm yếu thế để đối phó với các hệ thống

12

chiếm vai trò chủ đạo trong xã hội và nó phản ánh nỗ lực của họ để giải quyết các

mâu thuẫn có tính cấu trúc phát sinh từ bối cảnh xã hội rộng lớn hơn (Brake) [79].

Do vậy, các nghiên cứu về các tiểu văn hóa thường bao gồm nghiên cứu về biểu

tượng gắn liền với trang phục, âm nhạc, những cảm xúc của các thành viên trong

nhóm cũng như cách thức mà các biểu tượng này được các thành viên của nền văn

hóa thống trị hiểu. Nhiều tiểu văn hóa giới trẻ trên thế giới có liên quan đến các thể

loại âm nhạc, chẳng hạn: punks, emos, ravers, juggalos, metalheads và goths trong

nghiên cứu của Brake [79] hay nhạc pop trong nghiên cứu của Huq [123] sau này.

Sau tiểu văn hoá là một số khuynh hướng mới chẳng hạn: “hậu tiểu văn hóa”

(post-subculture) tập trung vào văn hóa giới trẻ đương đại phù du và được tổ chức

xoay quanh lối sống cá nhân và các lựa chọn tiêu dùng, khả năng biến đổi với một

loạt các phong cách khác nhau ở giới trẻ. Văn hóa giới trẻ ngày càng được khai thác

ở khía cạnh “sự khác biệt” (Barker) [74]. “Nền “tiểu” văn hóa có nghĩa là những

khái niệm về tính đặc biệt và điểm khác biệt so với xã hội thống trị và chủ đạo” [74,

tr. 561]. Cũng theo Barker, tuổi trẻ như một sự trì hoãn, như một sự phân loại văn hóa và đầy mơ hồ; tuổi trẻ là một kết cấu diễn ngôn1 - “những diễn ngôn về phong

cách, hình ảnh, điểm khác biệt và bản sắc đóng vai trò đặc biệt quan trọng” [74, tr.

559]. Theo đó, đặc điểm của tuổi trẻ là “sự kháng cự”, “sự bác bỏ và đảo ngược”, là

“việc diễn và nhấn mạnh những giá trị ngầm...” [74, tr. 562].

Ở Việt Nam, “tiểu văn hóa” không phải là một thuật ngữ được sử dụng

thường xuyên trong các nghiên cứu về giới trẻ. Có một số nhà nghiên cứu sử dụng

khái niệm “tiểu văn hóa thanh niên” (Từ Thị Loan [37], Đặng Cảnh Khanh [35],

Phạm Quỳnh Phương [45]). Đặng Cảnh Khanh [35, tr. 255] cho rằng “bên cạnh cái

1 “Diễn ngôn” (discourse) là một thuật ngữ được dùng khá phổ biến, đặc biệt trong các nghiên cứu gần đây và được dùng sớm nhất trong ngôn ngữ học, nhằm ám chỉ phương thức hoạt động của ngôn từ, vượt ra ngoài văn bản và có thể xem xét sự vận hành của ngôn từ để khám phá các quan hệ quyền lực chi phối sự tạo thành và vận hành của chúng trong thực tiễn đời sống (Dẫn theo Phạm Quỳnh Phương, Hoàng Cầm 2012: 50). Diễn ngôn được hiểu là một quá trình hiểu và tạo nghĩa mang tính xã hội (thay vì mang tính ngôn ngữ thuần túy). Vì vậy, mặc dù khả năng tạo nghĩa của ngôn ngữ là vô hạn, nhưng trong mỗi giai đoạn lịch sử, việc nghĩa nào được chấp nhận và nghĩa nào trở nên phổ biến lại phụ thuộc vào các mối quan hệ xã hội, chính trị chứ không phải một quá trình mang tính ngôn ngữ học thuần túy. Việc thương thỏa để tạo nghĩa này (cùng với kết quả của nó) chính là các diễn ngôn đặc trưng của từng thời đại. Việc nhìn nhận người nổi tiếng như một diễn ngôn, đồng nghĩa với việc nhìn nhận họ như một văn bản, và đọc “nghĩa” của văn bản đó trên điều kiện lịch sử, xã hội của Việt Nam, thay vì hiểu chữ “người nổi tiếng” như là ý nghĩa ghi trong từ điển (Nguyễn Thu Giang 2011: 152).

dòng văn hóa chính thống của xã hội còn có một dòng chảy văn hóa khác. Dòng

13

chảy ấy có thể là ít khuôn phép, ít bài bản và không hàn lâm nhưng lại rất mạnh mẽ

và sáng tạo”. Bên cạnh đó, một số ý kiến hoặc còn ngập ngừng hoặc không tán

thành do cho rằng khái niệm này ra đời và phù hợp với bối cảnh Âu Mỹ nhưng có

vẻ chưa thật chính xác đối với giới trẻ Việt Nam (Phạm Hồng Tung [60]). Theo

Phạm Hồng Tung, “tiểu văn hóa thanh niên” thường để chỉ những trào lưu “phá

cách” của thanh niên phương Tây như hippies, punks... còn ở Việt Nam, sẽ không

hợp lí khi cho rằng có một tiểu văn hóa như vậy vì những biểu hiện của tiểu văn hóa

như thế không tiêu biểu và đại diện cho số đông thanh niên nước ta. Mặc dù tồn tại

một “văn hóa nhóm thanh niên” và theo đặc trưng của lứa tuổi nên văn hóa nhóm

của thanh niên thường chứa những nhóm không đồng nhất, thậm chí trái ngược với

hệ giá trị được xã hội chấp thuận, tuy nhiên theo tác giả này, văn hóa thanh niên là

một bộ phận không tách rời của văn hóa dân tộc xét theo tất cả các chiều cạnh [60, tr. 75].

Các nghiên cứu khác (Nguyễn Ánh Hồng [27], Đinh Thị Vân Chi [6],

Nguyễn Thị Phương Châm [4], [5]...) tuy không khẳng định rõ việc tồn tại một “tiểu

văn hóa giới trẻ” nhưng phần đa đều cho rằng giới trẻ là một “nhóm dân số”, “nhóm

xã hội”, “nhóm văn hóa” đặc thù. Đây là nhóm có nhiều lí tưởng, nhiều cống hiến,

nhưng cũng là nhóm có nhiều nổi loạn so với nền văn hóa chính thống. Cách tiếp

cận giới trẻ dựa trên lí thuyết văn hóa nhóm giới trẻ giúp lí giải sâu sắc hơn những

vấn đề liên quan đến lứa tuổi hết sức “nhạy cảm” này.

1.1.1.2. Những nghiên cứu về nhu cầu, thị hiếu, quan niệm, lối sống của giới trẻ

Có thể nói, dù được nhìn nhận thuộc về một tiểu văn hóa (subculture) hay là

một nhóm (group), giới trẻ luôn được đánh giá là những người có nhu cầu, thị hiếu,

quan niệm, lối sống khác biệt rõ ràng với các thế hệ trước.

Trong những công trình nghiên cứu của nước ngoài, lối sống (lifestyle) của

giới trẻ đã được chú ý từ rất lâu, gắn với các tiểu văn hóa cụ thể, riêng biệt, theo đó

mỗi tiểu văn hóa sẽ có những phong cách sống, lối sống khác nhau (Bennett [75],

Brake [79], Huq [123]). Từ khóa của những nghiên cứu này là bản sắc (identity), sự

phản kháng (resistance), những băng nhóm (gangs).

Ở Việt Nam, các nghiên cứu quan tâm tới việc chỉ ra và phân tích những

khuynh hướng, xu hướng, trào lưu thuộc về văn hoá giới trẻ như nhu cầu, thị hiếu,

quan niệm, lối sống… Một số bài viết của các tác giả Bùi Thị Tỉnh [57], Nguyễn

Thị Phương Hoa [26], Lê Thị Thanh Hương [30],... mặc dù nhấn mạnh những biến

14

đổi và thích ứng của thanh niên Việt Nam trong bối cảnh hiện đại (chẳng hạn như

sự năng động, sáng tạo và cập nhật) nhưng vẫn chủ yếu xoay quanh các chủ đề

“truyền thống” về thanh niên như đạo đức, thái độ chính trị, lối sống. Tác giả

Nguyễn Thị Phương Hoa [26] trong bài viết “Bàn về đạo đức lối sống của thanh

niên trí thức nước ta hiện nay” cho rằng giới trẻ hiện nay sống thực tế hơn, có ý

thức phấn đấu trong nghề nghiệp song ít có hoài bão lớn lao đối với xã hội, đất

nước, ít bày tỏ chính kiến của mình, mặc dù vậy nhưng vì có trình độ học vấn cao,

khả năng nhận thức tốt nên sự biến đổi theo chiều hướng tiêu cực về đạo đức và lối

sống của thanh niên trí thức không quá lệch lạc.

Đặng Cảnh Khanh [35], Phạm Hồng Tung [60] cũng nhấn mạnh lối sống của

giới trẻ, đặc biệt giới trẻ Việt Nam, bao hàm cả những biểu hiện tích cực và tiêu

cực. Theo Phạm Hồng Tung, do quan niệm văn hóa thanh niên không tách rời nền

văn hóa dân tộc, nên một số xu hướng tích cực của văn hóa thanh niên được tác giả

này chỉ ra là: 1. Trân trọng và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp

của dân tộc, 2. Yêu nước, quan tâm đến tình hình đất nước và tin tưởng vào tương

lai của đất nước; 3. Thực tế, thực dụng; 4. Năng động, sáng tạo, luôn hướng tới cái

mới, cái khác biệt; 5. Tích cực hội nhập quốc tế, tiếp thu thành tựu văn minh và tinh

hoa văn hóa thế giới; 6. Có khát vọng, lạc quan, có tính tích cực chính trị - xã hội

cao. Bên cạnh đó, tác giả chỉ ra một số xu hướng tiêu cực là: 1. Lối sống buông thả

bản thân; 2. Hành xử hung bạo, bất chấp pháp luật; 3. Thờ ơ, vô cảm, thiếu trách

nhiệm; 4. Tiếp thu thiếu chọn lọc ảnh hưởng văn hóa từ bên ngoài. Có thể thấy các

nghiên cứu này tiếp cận từ góc độ xã hội học, khái quát hoá toàn bộ những biểu

hiện và xu hướng biến đổi của văn hóa giới trẻ Việt Nam, chứ không đi sâu vào các

thực hành văn hóa cụ thể cũng như không tiếp cận từ phía chủ thể của nền văn hóa

này [60]. Còn theo Đặng Cảnh Khanh [35, tr. 258], các hành vi lối sống, quan niệm,

cảm thụ và sáng tạo văn hóa đặc thù của thanh niên không phải lúc nào cũng lọt qua

được tầm mắt của các cư dân xã hội khác, đặc biệt các biểu hiện của lối sống thanh

niên thường bị phán xét và đánh giá về phương diện “đạo lí”.

Một số nghiên cứu khác đã chú ý đến những chủ đề gần gũi và mới hơn về

giới trẻ chẳng hạn giải trí, kết nối và tiêu dùng. Giới trẻ là những người có nhu cầu

cao về giải trí và giải trí được coi là một trong những phương tiện giúp thanh niên

phát triển toàn diện. Dù là giải trí trong nhà hay ngoài trời, các hình thức giải trí cũ

15

(băng đĩa, ti vi) (Đinh Thị Vân Chi [6], Đỗ Nam Liên [36]) hay mới (internet, game,

chat...) (Bùi Hoài Sơn [51], Trần Thị Minh Đức [14], Nguyễn Thị Phương Châm

[5], Tô Thúy Hạnh [20]) đều cho thấy giới trẻ là những người nhanh chóng bị thu

hút và dễ dàng tiếp cận các hình thức giải trí mới lạ, độc đáo. Qua các nghiên cứu

này, có thể thấy, trong khoảng 20 năm trở lại đây, sự thay đổi của công nghệ đã có

những tác động to lớn đến giải trí nói riêng và văn hóa giới trẻ Việt Nam nói chung.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa với sự phát triển của truyền thông, văn hóa đại

chúng và văn hóa tiêu dùng, các nghiên cứu đều chỉ ra văn hóa giới trẻ Việt Nam có

những biến đổi sâu sắc từ học tập, đến giải trí và tiêu dùng, từ quan niệm đến định

hướng và lối sống (Nilan [149], Phan Thanh Thanh [171], Bùi Hoài Sơn [51], Phạm

Hồng Tung [60], Nguyễn Thị Phương Châm cb [5], Nguyễn Thị Hậu cb [67],

Huong Nguyen [122], Lê Thị Thanh Hương [31], Đặng Thiếu Ngân [41], Nhat

Nguyen Nguyen và cộng sự [148]...). Huong Nguyen [122] trong bài viết

“Globalization, consumerism, and the emergence of teens in contemporary

vietnam” [Toàn cầu hoá, chủ nghĩa tiêu dùng và sự xuất hiện của lứa tuổi thanh

thiếu niên ở Việt Nam đương đại] đã lịch sử hóa sự xuất hiện và phổ biến của thuật

ngữ “tuổi teen” ở Việt Nam đồng thời chỉ ra những yếu tố khiến “tuổi teen” trở

thành một thuật ngữ quen thuộc với giới trẻ Việt Nam đó là: sự nới lỏng của chính

phủ, việc gia nhập các tổ chức quốc tế của Việt Nam (ASEAN, WTO), sự tấn công

của các nhãn hàng và các tập đoàn kinh tế đối với các “cơ quan” truyền thông có tác

động mạnh và trực tiếp tới thanh thiếu niên Việt Nam như các tờ báo tuổi teen

(Thiếu niên tiền phong, Hoa Học trò), sự lan truyền của văn hóa tiêu dùng...

Một số nghiên cứu đã phân tích những ảnh hưởng của truyền thông tới giới

trẻ khi cho rằng trong một “thế giới phẳng” (từ dùng của Friedman [15]), công nghệ

thông tin phổ biến rộng rãi với những tiện ích không giới hạn. Chính vì vậy, nó có

sức thu hút mạnh mẽ với thanh niên, sinh viên - nhóm dân số trẻ và năng động

(Nguyễn Quý Thanh [53]). Đặc biệt internet là một phương tiện truyền thông kiểu

mới đã góp phần hình thành nên một số giá trị xã hội mới ở giới trẻ (Bùi Hoài Sơn

[51]), “internet làm cho lối sống của sinh viên trở nên năng động hơn, hướng ngoại

nhiều hơn, định hướng giá trị mang tính tự do hơn so với các thế hệ sinh viên trước

kia” [53, tr. 239], góp phần “định hướng thẩm mỹ cho giới trẻ hiện nay” [67], đặc biệt

internet còn là phương tiện để giới trẻ kiến tạo bản sắc và kết nối đa chiều [5].

16

1.1.1.3. Những nghiên cứu về bản sắc và kiến tạo bản sắc ở giới trẻ

Bản sắc là một khái niệm được nhắc đến thường xuyên và là một trong các

“từ khoá” quan trọng trong các nghiên cứu về tiểu văn hóa giới trẻ, giúp phân chia

một tiểu văn hóa với văn hóa chính thống bao trùm và tạo nên một nhận dạng đặc

trưng của tiểu văn hóa đó. Nó được hình thành trong tương tác xã hội với những

người khác ở các tiểu văn hóa khác (Brake [79]) và xét cho cùng thì bản sắc và tạo

dựng được một bản sắc riêng biệt có thể được công nhận bởi văn hóa dòng chính

(mainstream) là mục đích chung cho sự phản kháng của các tiểu văn hóa. Cũng theo

các nghiên cứu về các tiểu văn hóa giới trẻ, cách thức tạo dựng bản sắc riêng của

các trào lưu văn hóa là thông qua các nghi lễ, các biểu tượng, ngôn ngữ và các thực

hành văn hóa (trang phục, âm nhạc, việc tụ tập...) của nhóm giới trẻ trong những bối

cảnh xã hội nhất định.

Thay vì tập trung vào những vấn đề như phản kháng, lật đổ nền văn hóa

chính thống của lí thuyết tiểu văn hóa thời kì trước những năm 1980, xu hướng tiếp

cận hậu tiểu văn hóa (post-subculture) sau này lại tập trung nhiều hơn vào sự khác

biệt. Những câu hỏi về sự khác biệt, về bản sắc của giới trẻ liên quan chặt chẽ với

sự phát triển cá nhân trong tiến trình đi tìm kiếm căn cước của chính mình. Giới trẻ

hiện nay có rất nhiều cách thức để kiến tạo và thể hiện căn tính, và như nhiều tác giả

đã chỉ ra, không có hoạt động nào của con người đạt được tiềm năng bộc lộ bản sắc

cá nhân rõ hơn giải trí (Chris Rojek [160], Henderson và cộng sự [117]). Hoạt động

giải trí giúp một người bộc lộ bản thân mình rõ nhất so với các hoạt động khác, con

người cởi bỏ được mọi âu lo, ràng buộc, khuôn khổ để làm những gì bản thân họ

thực sự muốn và yêu thích, để làm thỏa mãn chính họ, là một trong những không

gian sống trong đó, con người tự định nghĩa và trình bày chúng trước người khác

như một bản sắc (Dẫn theo Henderson và cộng sự [117, tr. 3]. “Thực hành giải trí có

thể mở đường cho việc khám phá bản thân và thể hiện bản thân” (Rojek) [160, tr.

6], giải trí có liên quan đến những vấn đề về chủ thể, đến sự lựa chọn, sự tự do và tự

xác định mục tiêu cá nhân, cũng như ý nghĩa của sự nhân ái (Rojek) [160, tr. 8].

Trong bối cảnh xã hội hiện đại ngày nay, các hình thức thời trang, âm nhạc,

phim ảnh, sử dụng mạng internet và các thiết bị công nghệ... đặc biệt là các hình

thức giải trí và tiêu dùng cũng là các phương tiện để giới trẻ kiến tạo và thể hiện bản

sắc một cách rõ ràng nhất.

17

Trang phục là một trong những cách góp phần quan trọng vào việc định danh

căn tính của cá nhân. Theo Carter (1967), quần áo là vỏ xã hội, là hệ thống các tín

hiệu mà qua đó chúng ta truyền bá ý định của mình, là sự tưởng tượng về bản thân,

là vũ khí, những thách thức, những vết thương có thể nhìn thấy... Chúng ta có thể sử

dụng quần áo để thách thức các định đề thống trị, nhưng chúng ta cũng dùng nó đưa

ra các tuyên bố về môi trường. “Chúng ta nghĩ trang phục thể hiện bản thân, nhưng

trên thực tế nó thể hiện môi trường của chúng ta, và như quảng cáo, nhạc pop, tiểu

thuyết... (Dẫn theo Brake [ 7 9 , t r . 13-14]. Nghiên cứu về thời trang và giới trẻ

hiện nay ở Việt Nam, Lương Thị Minh Hoa (2015) chỉ ra rằng nhiều bạn trẻ yêu

thích thời trang đã tìm ra cách thức thể hiện dấu ấn và tính cách cá nhân, diễn tả

cảm xúc, cái tôi của mình qua trang phục với mục đích khẳng định sự tồn tại của

mình trong xã hội và trở thành các “fashionista” (tín đồ thời trang). Sự ra đời của

fashionista đánh dấu cho sự ra đời của các sáng tạo văn hóa mới góp phần làm đa

dạng và phong phú, đây cũng là cơ hội, cũng là sân chơi để các bạn trẻ thể hiện cá

tính riêng và con người thật của chính mình, đó là những cá thể vượt trội, góp phần

tạo nên sự độc đáo và đặc biệt cho sự ra đời những con người mới trong xã hội [25].

Thời trang, âm nhạc và phim ảnh... không chỉ là những hình thức giải trí tiêu

biểu ở thanh niên, mà còn thúc đẩy sự xuất hiện và phát triển các bản sắc, các tiểu

văn hóa thanh niên (Bennett [75]). Chẳng hạn, trước những năm 1950, thanh thiếu

niên Anh được nhìn nhận chỉ là những phiên bản trẻ hơn của cha mẹ. Ý tưởng về

một nền văn hoá thiếu niên riêng biệt, hoặc bản sắc riêng biệt của giới trẻ không tồn

tại. Quá trình chuyển đổi giữa trẻ em và người lớn không được đánh dấu bởi bất kỳ

điều gì đặc biệt. Họ không phải là một nhóm riêng biệt với các giá trị và phong tục

riêng của mình cho đến khi chịu ảnh hưởng của văn hóa nhạc Rock’n Roll từ Mỹ

với biểu tượng của Elvis Presley. Đến 1960, tất cả đã thay đổi khi nhạc Pop và Rock

của Anh đứng nhất nhì thế giới, ngang hàng hoặc chỉ sau Mỹ. Văn hoá thanh thiếu niên ở Anh như vậy được xem là chỉ ra đời từ nửa cuối những năm 1950 trở về sau2.

Trong nghiên cứu về tiểu văn hoá nhạc Pop, Rupa Huq [123] cho rằng Pop

có khả năng cung cấp những cách thức để thoát khỏi hoàn cảnh của một người và

phát minh lại căn tính nhưng cũng có khả năng đóng vai trò trong việc nêu rõ hoặc

2 Theo “How It All Began- A Cultural Revolution”, nguồn: http://www.gpwu.ac.jp/~biddle/youth.htm.

thậm chí củng cố giới tính, dân tộc và tầng lớp của giới trẻ. Trước đó, mối quan hệ

18

giữa văn hoá thanh thiếu niên và nhạc Pop cũng từng là chủ đề nghiên cứu của

nhiều công trình (Brake [79], Bennett [75]).

Những nghiên cứu về âm nhạc và giới trẻ ở Việt Nam cũng đã chỉ ra mối

quan hệ giữa các thể loại, phong cách âm nhạc và việc kiến tạo bản sắc của giới trẻ,

dù là qua Hip Hop (Nguyễn Mai Kiên [34]) hay qua việc gắn bó với cây đàn ghita

(Vũ Thị Thanh Trà [63]). Theo Vũ Thị Thanh Trà, việc giới trẻ lựa chọn ghi ta để

chơi không đơn thuần là vì mục đích giải trí hay để đáp ứng nhu cầu “thị hiếu thẩm

mỹ” mà là để tạo ra “thị hiếu khác biệt”, để “khu biệt họ với các nhóm người khác,

hình thành nên một nhóm xã hội có bản sắc riêng, có vị thế xã hội” [63, tr. 145].

Ở thời đại hiện nay, người ta không thể xem xét căn tính các cá nhân và

nhóm xã hội mà không đặt nó trong bối cảnh truyền thông mới. Truyền thông đã

thay đổi bối cảnh kiến tạo căn tính, đồng thời cung cấp những khía cạnh căn tính

mới. Việc tiêu thụ các chương trình giải trí, các sản phẩm công nghệ như điện thoại

di động, máy tính bảng, internet... giúp giới trẻ đạt được cảm giác “cool” (ngầu) của

“những người dẫn đầu xu hướng” và gia tăng sự kết nối (Wang [177], D’heer,

Courtois, Paulussen [95]; Goggin [109]). Từ việc khảo sát thói quen dùng Facebook

qua các thiết bị di động như một cách để giải trí, Purnama [155] đã tìm hiểu bản sắc

của giới trẻ đã thể hiện qua cách mà họ thực hành như thế nào trên facebook của

mình: giao tiếp, chơi các trò chơi trực tuyến... và chỉ ra rằng bản sắc của họ (những

người trẻ ưa thích và cập nhật nhanh các thiết bị công nghệ, những người tôn thờ

nền văn hóa đại chúng và truyền hình) là do chính họ tạo ra trước tác động của

truyền thông và từ chính những thực hành truyền thông của họ (sử dụng facebook,

chơi game...). Thậm chí lựa chọn trở thành một hacker cũng là một cách để giới trẻ

định vị căn tính của mình (Nguyễn Trung Hiếu [22]).

Nhìn chung, các nghiên cứu về giới trẻ nói trên đã chỉ ra rằng văn hóa giới trẻ

là một tiểu văn hóa, một nhóm tuổi với những đặc trưng riêng. Qua những tư liệu

nghiên cứu đi trước, có thể thấy một bức tranh đa dạng, phong phú về đời sống giới

trẻ Việt Nam hiện nay: có những nhóm giới trẻ mê game online (Trần Thị Minh Đức

2007), có nhóm mê hip hop (Nguyễn Mạnh Kiên 2014), có nhóm thích ghita (Vũ Thị

Thanh Trà 2017), có nhóm hâm mộ thần tượng… Các nghiên cứu trên đã cho thấy

giới trẻ không phải là một nhóm thuần nhất mà khá đa dạng về cả tâm lí, sở thích, thị

hiếu, trình độ, lối sống… do đó, những ảnh hưởng của toàn cầu hóa, truyền thông,

19

văn hóa đại chúng và tiêu dùng đối với giới trẻ cũng không đồng nhất mà theo những

mức độ khác nhau. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển như vũ bão

của truyền thông - nơi mà thế giới ngày càng “phẳng”, hơn ai hết, giới trẻ luôn là

những người nỗ lực định hình căn tính cá nhân một cách mạnh mẽ nhất.

1.1.2. Những nghiên cứu về hâm mộ thần tượng

1.1.2.1. Nghiên cứu về người nổi tiếng/ thần tượng

Những nghiên cứu về thần tượng - đối tượng được hâm mộ, chủ yếu xoay

quanh chức năng, ý nghĩa của thần tượng đối với người hâm mộ nói riêng và với

nền văn hoá đại chúng nói chung.

Thần tượng được coi là người “có tài năng, thành tích, địa vị, hoặc sự xuất

hiện hình ảnh được đặc biệt công nhận hoặc đánh giá bởi người hâm mộ của mình”

(Yue & Cheung) [181, tr. 91]. Thần tượng, ngôi sao, người nổi tiếng được tiếp cận

như là một sản phẩm của truyền thông và văn hóa đại chúng (Dyer [96]; Turner

[176]; Duffett [95]; Marshall [143]), một thương hiệu con người (human brand)

(Thomson [172])... Rojek [161] coi người nổi tiếng là những người thu hút “vốn chú

ý” của công chúng. Sự phóng đại của truyền thông về văn hoá người nổi tiếng đã

tạo ra một xu hướng mới mẻ cho khán giả để mô phỏng lại sự chú ý này.

Các ngôi sao còn được coi là sản phẩm của chủ nghĩa cá nhân (Dyer [96],

Marshall [143]). Trong cuốn sách Stars (1979 [1998]), dựa trên việc phân tích các

nhân vật ngôi sao cụ thể, Dyer đã chỉ ra ý nghĩa xã hội của họ, đồng thời tập trung

vào mối quan hệ giữa hình ảnh ngôi sao và diễn ngôn của chủ nghĩa cá nhân. Ngôi

sao là một “hiện tượng của sản xuất”, đồng thời là một “hiện tượng của tiêu thụ”

với hàm ý rằng chính khán giả cũng là một lực lượng để sản xuất ra các ngôi sao

[96, tr. 10-17]. Còn Marshall [143] trong công trình Celebrity and Power: Fame in

Contemporary Culture [Người nổi tiếng và quyền lực: danh tiếng trong văn hoá

đương đại] đã đặt ra và giải quyết những câu hỏi cốt lõi như: Sự nổi tiếng trong văn

hóa đương đại là gì, ý nghĩa của người nổi tiếng là gì và họ có ảnh hưởng như thế

nào đến công chúng cũng như đến việc thay đổi diễn ngôn công cộng? cách người

nổi tiếng hoạt động trong thế giới ngày nay ra sao và họ thể hiện quyền lực, sức

mạnh gì?. Cũng giống như Dyer (1979), Marshall cho rằng hiện tượng người nổi

tiếng trong bối cảnh phương Tây bắt nguồn từ những ý tưởng triết học của chủ

nghĩa cá nhân, là một sản phẩm của chủ nghĩa tư bản. Do đó, diễn ngôn về người

20

nổi tiếng và quyền lực của họ trở nên phổ biến và có tác động không nhỏ trong một

nền văn hóa dân chủ, tiêu dùng, trong đó khán giả đại chúng trở thành đối tượng

trung tâm của việc xác định giá trị của một cá nhân.

Các ngôi sao, người nổi tiếng, thần tượng được phân loại theo các cách khác

nhau. Marshall chia ngôi sao thành 3 loại: ngôi sao phim ảnh, ngôi sao truyền hình

và ngôi sao âm nhạc. Trái ngược với ngôi sao phim ảnh (hào quang và sự hấp dẫn

của ngôi sao được xây dựng xung quanh khoảng cách của họ với khán giả và sự bí

ẩn bao quanh cuộc sống của họ), người nổi tiếng trên truyền hình lại thu hút khán

giả bởi sự quen thuộc, được mọi người chấp nhận bởi sự hiện diện liên tục trên các

chương trình mà họ xem ở nhà (Marshall [143]). Các công cụ để phân tích người

nổi tiếng như một dạng sức mạnh văn hóa, đã khám phá những cách mà chúng ta có

thể giải nén bản chất của quyền lực của người nổi tiếng. Trong mô hình tư bản của

người tiêu dùng, người nổi tiếng thấm vào thế giới xã hội của chúng ta ở một mức

độ cao, đến mức mọi thứ chúng ta trải nghiệm đều được lọc qua lăng kính của

người nổi tiếng.

Một số nghiên cứu lại chia các ngôi sao thành 3 loại: ngôi sao điện ảnh, ngôi

sao ca nhạc và ngôi sao thể thao (hay còn gọi là mô hình ‘tôn thờ ba ngôi sao’)

(Cheung & Yue [87]; Yue, Wong & Cheung [182]). Chiếm đa số trong các thần

tượng của giới trẻ là các ngôi sao âm nhạc. Lí giải về việc một phần lớn các thần

tượng của giới trẻ hiện nay là các ca sĩ nhạc Pop, Chan [85] cho rằng nghe nhạc Pop

là một hình thức giải trí quan trọng cho giới trẻ và các ca sĩ nhạc Pop thường được

giới trẻ tôn sùng bởi nó mang lại cho họ cảm giác về sự trẻ trung và đại chúng.

Thêm vào đó, những người hâm mộ trẻ tuổi dễ dàng bị thu hút bởi những ngôi sao

điện ảnh và ca sĩ nhạc Pop có vẻ ngoài đẹp đẽ, tính tình tốt và những màn trình diễn

xuất sắc (Leung [136]; Cheung & Yue [86], [87]).

Một số nghiên cứu phân loại người nổi tiếng dựa theo cách hiểu, cách định

nghĩa về người nổi tiếng trong bối cảnh văn hóa đại chúng và truyền thông.

Hefzallah (1987) cho rằng: “Anh hùng là người trở nên nổi tiếng vì những thành

tích anh ấy hoặc cô ấy phấn đấu và đạt được. Còn người nổi tiếng là người được

biết đến rộng khắp trong xã hội” (Dẫn theo Nguyễn Thu Giang [16]). Trước đó,

Broostin (1982: 61) quan niệm: “Người anh hùng tự tạo ra chính mình, còn người

nổi tiếng do truyền thông tạo ra” (Dẫn theo Nguyễn Thu Giang [16]). Broostin cho

21

rằng chính các phương tiện truyền thông đã tạo ra hệ thống kí hiệu riêng cho người

nổi tiếng bằng ngôn ngữ và hình ảnh đặc biệt, và bất cứ người bình thường nào

được đưa vào hệ thống này đều sẽ trở thành người nổi tiếng ngay lập tức.

Với sự phát triển của truyền thông, việc hâm mộ người nổi tiếng dường như

là tất yếu, thậm chí, theo Hills [118], việc tôn thờ người nổi tiếng tràn ngập, thấm

đẫm xã hội đương đại. Bất cứ ai cũng có thể trở thành người nổi tiếng và bất cứ sự

kiện nào cũng có thể trở thành sự kiện nổi tiếng. Tuy nhiên, với những nhân vật nổi

tiếng với thời gian như Elvis Presley, công nương Diana... thì ngoài những phẩm

chất độc đáo, sự nổi tiếng của họ còn được thúc đẩy bởi truyền thông. Theo Rojek

[160], người nổi tiếng được chia thành ba loại: người nổi tiếng do nhân thân của họ

(chẳng hạn như các thành viên trong gia đình hoàng gia), người nổi tiếng do tài

năng thực sự của họ (nổi tiếng do tự họ đạt được, chẳng hạn các ngôi sao phim ảnh)

và người nổi tiếng do thu hút truyền thông và được truyền thông gán cho sự nổi

tiếng (chẳng hạn những người nổi lên nhờ các scandal hoặc được truyền thông chú ý đến).

Thần tượng hay người nổi tiếng cũng được xem xét với những chức năng xã hội

đặc thù. Bài viết của Nguyễn Thu Giang [16] về “Hiện tượng người nổi tiếng và chức

năng xã hội của nó” đã chỉ ra rằng người nổi tiếng như một diễn ngôn, bao chứa quyền

lực và được kiến tạo nên, như là hàng hóa. Tác giả cho rằng việc nhìn nhận người nổi

tiếng như một diễn ngôn dẫn đến việc có thể nhìn nhận họ như một văn bản (text) để từ

đó có thể “đọc” và tìm ra những ý nghĩa của văn bản đó trong điều kiện lịch sử, xã hội

nhất định. Bài viết cũng chỉ ra ba chức năng chính của người nổi tiếng: chức năng cân

bằng nhu cầu giao tiếp liên cá nhân của con người đô thị, chức năng cung cấp những

căn tính mới đa dạng và chức năng củng cố ý thức hệ.

Ngoài ra, người nổi tiếng có chức năng thúc đẩy tiêu dùng, “danh tiếng của

họ là một tài sản thương mại là nền tảng cho sự nghiệp của họ và phải được duy trì

và có chiến lược nếu họ tiếp tục hưởng lợi từ nó”, và nghiên cứu về người nổi tiếng

là cần thiết “để tìm ra cách lập bản đồ và hiểu được tầm quan trọng cấu trúc ngày

càng tăng của việc sản xuất và tiêu thụ danh tiếng đối với ngành công nghiệp truyền

thông và giải trí” (Turner) [173, tr. 16-18]. Trong bài viết của mình, Turner cũng

bàn thêm về truyền thông, văn hóa đại chúng, giải trí và tiêu dùng trong mối quan

hệ với chức năng xã hội và chức năng văn hóa của người nổi tiếng: “Chưa có dấu

hiệu nào cho thấy sự lan rộng của văn hoá người nổi tiếng đã đạt đến giới hạn của

22

nó. Thay vào đó, nội dung người nổi tiếng đã trở thành nền tảng cho các phương

tiện truyền thông trong thế kỷ XXI. Từ tạp chí thị trường đại chúng đến các chương

trình truyền hình hàng đêm cho đến các ấn bản trực tuyến, tin tức về người nổi tiếng

đã chứng tỏ khả năng thu hút sự chú ý và thúc đẩy tiêu dùng” [176, tr. 11].

1.1.2.2. Những khuynh hướng nghiên cứu về người hâm mộ

Hâm mộ thần tượng trở thành một hiện tượng nổi bật của giới trẻ thời đại

hiện nay với 70% giới trẻ có ít nhất một thần tượng (Chan) [85]. Cứ trong ba

người thì có ít nhất một người tham gia vào việc hâm mộ người nổi tiếng (Maltby,

Houran, McCutcheon [141]). Người hâm mộ chủ yếu được nghiên cứu từ góc độ là

một nhóm/ cộng đồng, một tiểu văn hóa dựa trên sự chia sẻ những nhu cầu, mục

đích và ý nghĩa chung (Kozinets [135]; Stever [169]; Click & Holladay [91]; Deen

[92]; Phan Thanh Thanh [171]; Duong Nguyen Hoai Phuong [157]).

Có một số lí do để nghiên cứu về người hâm mộ. Trước hết, sự hâm mộ là

một sự phản chiếu về chính chúng ta, bao gồm thị hiếu và giá trị của chúng ta (Deen

[92]; Jia, Hung và Zhang [131]). Theo Deen, các fan hâm mộ như một người tiêu

dùng đặc biệt đã trở thành trung tâm của các chiến lược tiếp thị truyền thông, người

hâm mộ thực sự có một vai trò quyết định trong việc tuyên truyền các sản phẩm văn

hóa thông qua sự tiêu dùng của họ; fandom mở ra diễn ngôn về quyền lực, thần

tượng được miêu tả là một dạng năng lượng mềm nơi mà những thị hiếu, khoan

dung văn hóa thay đổi bị ảnh hưởng thông qua các phương tiện truyền thông đại

chúng và các thành phần của nó. Nghiên cứu về người hâm mộ có thể cung cấp câu

trả lời cho các vấn đề hiện đại toàn cầu [92]. Jia, Hung và Zhang [131] thì lí giải

rằng bởi vì nó quan trọng đối với người hâm mộ, đặc biệt là cảm xúc của họ.

Nghiên cứu về fandom cho chúng ta sự hiểu biết sâu sắc hơn về cách mọi người kết

nối với những người khác, cũng như cách họ đọc các văn bản thông qua trung gian

(các idol) để tạo nên thế giới, cung cấp cái nhìn sâu sắc về mối quan hệ giữa hiện

tượng fandom và các biến đổi xã hội và văn hóa bao trùm trên thế giới. Fandom

đang trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại của chúng ta và

nó ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến các mô hình tiêu dùng, giao tiếp, nhận

dạng và sáng tạo toàn cầu. Hay nói khác đi, nghiên cứu về nhóm người hâm mộ có

thể mang lại hiểu biết sâu sắc về mối quan hệ giữa công chúng với truyền thông đại

chúng và cách thức mà truyền thông đang kiến tạo nên căn tính của mỗi cá nhân.

23

Một số nghiên cứu chỉ ra các vai trò của người hâm mộ. Galuszka [105]

trong bài viết “New Economy of Fandom” [Nền kinh tế mới của người hâm mộ]

đã thảo luận về năm vai trò mới mà người hâm mộ có thể đóng: nhà tài trợ,

người đồng sáng tạo giá trị, các bên liên quan, nhà đầu tư và người kiểm duyệt

(bộ lọc). Những vai trò này là các yếu tố của các loại mối quan hệ mới giữa

người hâm mộ và nghệ sĩ, đó là biểu hiện của sự xuất hiện của cái có thể gọi là

nền kinh tế mới của fandom. Sự xuất hiện của nền kinh tế mới của fandom có thể

dẫn đến việc xác định lại ý nghĩa của việc trở thành một người hâm mộ và đòi

hỏi người hâm mộ phải được nghiên cứu.

Người hâm mộ còn được nghiên cứu như một mạng lưới hùng mạnh có vai

trò như người mua, người tiêu dùng và người quảng bá nhiệt tình cho người nổi

tiếng. Những người hâm mộ được kết nối bởi truyền thông xã hội để tạo thành một

cộng đồng ảo. Họ là những người quảng bá công khai cho các thần tượng của mình

thông qua các hoạt động cụ thể: tham dự show diễn, xem phim, mua các sản phẩm

của thần tượng hoặc do thần tượng làm đại diện quảng cáo. Họ còn là người tạo ra

các văn bản, hình ảnh, video để quảng bá cho thần tượng (Marshall [143]). Người

hâm mộ đã tận dụng các nền tảng truyền thông để thiết lập nên cộng đồng của mình.

Deen trong bài “Formation, Purpose and Gains: An Exploratory Study of Hallyu

Fanclubs in the Philippines” [Sự hình thành, mục đích và lợi ích: một nghiên cứu về

các câu lạc bộ Hallyu ở Philippines] đã chỉ ra rằng các FC Hallyu được thành lập ở

đất nước này bởi những người hâm mộ với mục đích chính là hỗ trợ nghệ sĩ, thống

nhất người hâm mộ Phillipines và tiếp thị cho nghệ sĩ [92].

Các nghiên cứu về người hâm mộ lập luận rằng người hâm mộ luôn đi đầu

trong các biến đổi của ngành truyền thông, đặt ra vấn đề xác định lại mối quan

hệ giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng trong nền kinh tế kỹ thuật số (Hills

[118], Scott [164]). Các hoạt động của người hâm mộ ít nhất đã gián tiếp mang

lại lợi ích cho các tập đoàn hùng mạnh. Người hâm mộ cũng không phải là một

khối thụ động mà họ có khả năng giải mã sáng tạo những ý nghĩa đa dạng từ

hình ảnh ngôi sao, do đó họ là những khán giả năng suất, những khán giả khác

biệt và những người đọc các văn bản và hình ảnh truyền thông một cách tích cực,

sáng tạo (Fiske [101]). Do vậy, fandom truyền thông đang nhanh chóng được

24

xây dựng như một chiến địa màu mỡ - nơi các nền kinh tế quà tặng trực tuyến và

văn hóa hàng hóa sẽ được đàm phán (Scott [164]).

Nhiều nghiên cứu chỉ ra nguyên nhân khiến các cá nhân bị thu hút và hâm

mộ thần tượng của mình. Theo Yue & Cheung [181, tr. 91], sự tôn thờ thần tượng ở

vị thành niên được hình thành từ sự lôi cuốn bởi những nhân vật nổi tiếng mà họ

yêu thích. Thanh thiếu niên thường xây dựng những mối quan hệ tưởng tượng giữa

họ và những con người xa xôi, như ngôi sao nhạc Pop và những người nổi tiếng

trong các bộ phim và điều này có thể được hiểu như là một sự chuyển đổi mối quan

tâm, tình cảm đối với người nuôi nấng và những mối quan hệ thân tình sang những

mối quan hệ lãng mạn hơn ở thanh thiếu niên.

Với nhiều cá nhân, thần tượng là người đầu tiên mang đến cho họ những

ham muốn về tình dục ở thời niên thiếu dù chỉ bằng cách chiêm ngưỡng các poster

(tranh ảnh). Đến thời trung niên, thần tượng giúp họ “quay trở lại thời thanh niên”

(Anderson [72]). Đây có lẽ là sự lí giải cho việc nhiều người trung tuổi vẫn hâm mộ

một cách trung thành với thần tượng từ thời trẻ của mình (Kotarba [132], Anderson

[72]). Một số nghiên cứu khác đã chỉ ra bản chất hướng nội và sự thiếu vắng các

mối quan hệ xã hội trong thực tế khiến người hâm mộ trẻ mải mê tập trung sự chú ý

vào thần tượng (Green & Adam-Price [113]; McCutcheon, Lange và Houran [140]).

Sự tôn thờ thần tượng ở thanh thiếu niên được xem là một hoạt động bền

vững được duy trì bởi ngành công nghiệp giải trí và báo chí (Yue, Wong và Cheung

[182]; Turner [174]). Người nổi tiếng do đó cũng cần phải được hiểu và nghiên cứu

như là “một ngành công nghiệp” và như “một loại hàng hóa” [175, tr. 16-18]. Nó là

một sản phẩm của chủ nghĩa tư bản, tạo ra lợi nhuận bằng cách nuôi dưỡng chủ

nghĩa tiêu dùng thông qua việc tôn thờ các ngôi sao (Dyer) [96]. Những người nổi

tiếng được sử dụng trên truyền thông như người phát ngôn cho các sản phẩm và

dịch vụ nhắm đến những người trẻ tuổi. “Tôn thờ thần tượng có thể trở nên phổ

biến hơn như hiện nay là do thu nhập ngày càng tăng của người dân để duy trì việc

mua các sản phẩm liên quan đến hâm mộ thần tượng (Hall 1964, Jenson 1992)”

(Dẫn theo Cheung & Yue) [87, tr. 251].

Một số nghiên cứu cũng chỉ ra rằng bối cảnh xã hội và đặc thù địa phương là

một yếu tố chi phối đến việc lựa chọn ai là thần tượng của giới trẻ (Liu [136]; Yue,

Cheung & Wong [182]). Nếu như thanh thiếu niên Hồng Kông thể hiện sự hâm mộ

25

tới chủ yếu là các ngôi sao liên quan đến giải trí thì thanh thiếu niên ở Trung Quốc

đại lục lại quan tâm nhiều hơn đến các thần tượng về chính trị. Điều này được Yue,

Cheung, và Wong [182] giải thích là có liên quan đến sự theo đuổi chủ nghĩa duy

tâm và chủ nghĩa duy lí ở thanh thiếu niên ở hai địa phương này. Theo đó, thanh

thiếu niên Hồng Kông thường chú ý tới các tính năng tình dục và lãng mạn của thần

tượng trong khi thanh thiếu niên Trung Quốc đại lục lại theo lại tập trung vào các

tính năng ý thức hệ và ý thức của thần tượng của họ. Nghiên cứu này cũng chỉ ra

rằng có một mối tương quan nhất định giữa sự tự ý thức của các cá nhân với hâm

mộ thần tượng, nữ giới có thái độ tôn thờ thần tượng cao hơn nam giới trong khi đó

nam giới có mức độ yêu bản thân cao hơn nữ giới.

Các xu hướng và các cấp độ hâm mộ thần tượng cũng là chủ đề của một số

nghiên cứu. Có hai xu hướng hâm mộ thần tượng ở giới trẻ đó là: học tập, bắt chước

những hình mẫu thần tượng trên truyền thông (mô hình vai trò học tập), và phê

phán những biểu hiện xấu của thần tượng trên truyền thông (mô hình vai trò phủ

định) (Chan [85]). McCutcheon, Lange và Houran (2002) đã khái niệm hóa sự tôn

thờ thần tượng (celebrity worship) và phát triển một thang đo thái độ thần tượng

(celebrity attitude scale) với 3 cấp độ:

 Cấp độ đầu tiên đó là mức “giải trí - xã hội”. Ở mức này, người hâm mộ chỉ

đơn giản là thích và thảo luận về những điều thần tượng làm.

 Cấp độ thứ hai, người hâm mộ thường xuyên nghĩ về thần tượng, có thể là

hàng ngày, hàng giờ, được gọi là cấp độ “mãnh liệt - cá nhân”. Những người

ở mức này thường tham gia vào các fan club, có tính hướng nội và hành

động cảm tính.

 Cuối cùng là mức “ranh giới - bệnh lý”, ám chỉ những người hâm mộ sẵn

sàng làm mọi việc phạm pháp nếu được thần tượng yêu cầu. Người ở mức

này có biểu hiện cực đoan như ảo tưởng thần tượng yêu mình (erotomania),

chủ động theo dõi thần tượng, thậm chí viết thư từ với nội dung không phù

hợp cho thần tượng [140].

North và Hargreaves [151] còn thêm vào thang đo trên một mức độ hâm mộ

nữa, gọi là “bắt chước tai hại”. Người hâm mộ ở mức độ này sẵn sàng bắt chước

mọi hành vi của thần tượng, dù là nhỏ nhất. Bất cứ ai rơi vào hai mức độ cuối cùng

trong thang này có thể được gọi là một “fan cuồng”. Tình trạng fan cuồng diễn ra

26

đặc biệt nhiều ở lứa tuổi vị thành niên, khi nhân cách chưa phát triển hoàn chỉnh và

dễ chịu tác động của bạn bè cùng trang lứa. Khi trở thành fan cuồng, con người bắt

đầu có những hành động quá khích. Động cơ hành động của họ có nguyên tắc khá

giống các chất gây nghiện. Họ có xu hướng xây dựng bản thân theo hình mẫu của

thần tượng, thậm chí tưởng tượng thần tượng yêu mình và phụ thuộc vào mình…

Một số nghiên cứu quan tâm đến mối quan hệ và tác động qua lại giữa thần

tượng và người hâm mộ. Mối quan hệ xã hội cộng sinh giữa fan và thần tượng đã

được Stever chỉ ra như sau: 1. Các tiểu văn hóa người hâm mộ đã tạo cơ hội để phát

triển các kĩ năng quý giá cho nghề nghiệp sau này ở người hâm mộ; 2. Người hâm

mộ có nhiều cơ hội để tạo dựng mạng lưới xã hội của mình (thậm chí là mạng lưới

quan hệ xuyên quốc gia); 3. Người hâm mộ được tham gia vào các hoạt động cộng

đồng có sự hợp tác giữa fan và nghệ sĩ, chẳng hạn như các hoạt động từ thiện; 4. Sự

tương tác giữa người hâm mộ và thần tượng mang lại cho người hâm mộ cảm giác

được đóng góp vào sự nghiệp và thành công của nghệ sĩ; 5. Việc trở thành người

hâm mộ của ai đó mang lại nhiều hứng thú cho cuộc sống thường ngày nhàm chán

của họ [169, tr. 2]. Các “quyền lợi” của fan hâm mộ mà Stever chỉ ra qua ý 4 và 5

cho thấy rằng qua những thực hành hâm mộ thần tượng, người hâm mộ có thể có

được cảm giác quyền lực và cảm giác được lấp đầy cảm xúc. Đây là những “quyền

lợi” vô hình nhưng lại có vai trò lớn trong việc gắn bó của fan với thần tượng.

Do tồn tại một mối quan hệ hữu cơ giữa thần tượng và người hâm mộ nên

những tác động về mặt hiệu quả của việc quảng cáo khi các thương hiệu sử dụng

hình ảnh người nổi tiếng và sự xác nhận của họ (celebrity endorsement) về một

hàng hóa, một sản phẩm trong quảng cáo đối với giới trẻ là rất lớn (Chan và cộng

sự) [86]. Sự ảnh hưởng của người nổi tiếng đến giới trẻ/ người tiêu dùng phụ thuộc

ba yếu tố: mức độ nổi tiếng (quen thuộc, quen mặt) của người nổi tiếng, hình ảnh

tích cực của người nổi tiếng, và sự tương đồng giữa người nổi tiếng và các nhãn

hàng mà họ đại diện/ quảng cáo.

Bên cạnh đó, cũng có những nghiên cứu chỉ ra tác động tiêu cực của việc

hâm mộ thần tượng một cách cuồng tín. Jenson [130] cho rằng, hâm mộ thần tượng

làm suy giảm thành tích học tập của thanh thiếu niên. Việc đam mê quá mức một

thần tượng nào đó cũng làm tăng chứng loạn thần kinh, bạo lực, tự tử, sex, sử dụng

ma túy và nói tục ở giới trẻ (Lynxwiler & Gay) [139]. Ngoài ra sự hâm mộ quá mức

27

thần tượng cũng liên quan đến sự suy giảm sức khỏe (Maltby và cộng sự) [141].

Một số nghiên cứu cũng phản ánh sự liên quan giữa sự kém yêu mến chính mình

với bệnh tâm thần, bởi hâm mộ thần tượng liên quan đến sự lo lắng, phiền muộn và

triệu chứng rối loạn chức năng xã hội (North và cộng sự) [152].

1.1.2.3. Những nghiên cứu về hâm mộ thần tượng và kiến tạo bản sắc ở giới trẻ

Hâm mộ thần tượng còn được soi chiếu dưới góc độ kiến tạo bản sắc. Giới

trẻ chịu ảnh hưởng rất nhiều từ thần tượng của mình, chẳng hạn về vai trò giới

(Chan [85], Anderson [72], Parker [155]) hay tự nhận thức về bản thân (Ka Ki

Cheung [89], Cheung và Yue [87]).

Thần tượng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình tự nhận thức và phát

triển bản sắc của giới trẻ. Những người hâm mộ trẻ tuổi xem xét một thần tượng nổi

tiếng như là hình ảnh tự tưởng tượng của họ (Chan [85]). Trong nghiên cứu về việc

những cô gái trẻ (10-12 tuổi) học được gì về vai trò giới từ những người nổi tiếng,

Chan [85] cho rằng các cô gái này lấy cảm hứng từ những người nổi tiếng và nhân

vật truyền thông để theo đuổi một nhận dạng đó là thông minh, thành đạt, độc lập,

tự tin và biểu cảm. Kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu về giới trẻ ở Hong

Kong, những người thường xuyên tiêu thụ tạp chí phụ nữ để xây dựng một hình ảnh

lí tưởng về sự hiện đại và vẻ đẹp nổi bật (Fung) [102]. Sự khác biệt là nếu như các

cô gái trẻ (10-12 tuổi) tập trung hơn vào tài năng, năng lực của những người nổi

tiếng và các nhân vật truyền thông thì những người được phỏng vấn trong nghiên

cứu của Fung [102] (về độc giả của tạp chí phụ nữ) nhấn mạnh nhiều đến trang

phục của người nổi tiếng và các mô hình nổi bật trên các tạp chí. Người nổi tiếng

đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định vai trò giới của các cô gái trẻ theo

hướng xác định rõ ràng các mô hình giới tích cực và tiêu cực.

Kozinets [135] qua nghiên cứu về người hâm mộ Star Trek cho rằng các sản

phẩm tiêu dùng giải trí (văn hóa đại chúng thương mại) đã góp phần vào việc xây

dựng bản sắc và ý thức về những gì quan trọng trong cuộc sống, khám phá lí do tại

sao một số hành vi và sản phẩm nhất định được văn hóa coi là thiêng liêng hay thế

tục. Kozinets đã chỉ ra cách thức căn tính của người hâm mộ đã được kiến tạo nên

để kết nối với các ý tưởng có tính lý tưởng và được tích hợp vào trong truyền thông

như thế nào. Theo ông, Star Trek bao hàm những ý nghĩa liên quan đến chủ nghĩa

quân bình, hi vọng và chủ nghĩa không tưởng. Mỗi người hâm mộ - người tiêu dùng

28

sẽ có cách giải mã khác nhau về seri phim này và sự giải mã của họ sẽ phản ánh về

hình ảnh thế giới mà họ mong muốn. Còn Ka Ki Cheung [89] đã tập trung phân tích

các khía cạnh của việc tiêu thụ thần tượng (idol consumption) và kiến tạo bản sắc

(identity construction) ở người hâm mộ trẻ Hồng Kông và nhận định rằng việc tiêu

thụ các ý nghĩa từ hâm mộ thần tượng có vai trò quan trọng trong việc tự nhận thức

và phản kháng của giới trẻ.

Cách tiêu thụ thần tượng của giới trẻ còn cho thấy nhiều điều về bối cảnh

kinh tế, văn hoá, xã hội mà họ sống. Tiêu thụ thần tượng ở fandom Jay Chou (một

ca sĩ thần tượng của Hồng Kông) được Anthony Y.H. Fung (2009) giải thích có liên

quan đến sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng XHCN của đất nước này.

Trong nghiên cứu này, tác giả đã chỉ ra cách mà Jay Chou đã bán hình ảnh “cool”

của mình cho khán giả của anh ấy. Người hâm mộ tiêu thụ thần tượng là tiêu thụ ý

nghĩa về chủ nghĩa cá nhân, sự độc lập, bướng bỉnh, những giá trị của văn hóa giới

trẻ trong các xã hội phương Tây tự do. Việc tiêu thụ thần tượng này được phân tích

trong mối liên hệ với sự trỗi dậy của văn hóa đại chúng và chủ nghĩa tiêu dùng ở

Trung Quốc - như một dấu hiệu biểu đạt cho tự do, khi công chúng tự lựa chọn thị

trường và theo đuổi những ham muốn và thú vui cá nhân - điều mà dưới chế độ độc

tài trước đây không thể có, đồng thời phản ánh những va chạm về chuẩn mực và giá

trị xã hội trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường XHCN. Cách tiêu

thụ thần tượng ở giới trẻ Trung Quốc được chỉ ra là cách mà thế hệ mới này đối phó

với nền văn hóa tiêu dùng toàn cầu và cách họ hiểu những hình ảnh trong văn hóa

đại chúng trong quá trình tìm kiếm bản sắc và khám phá những giá trị giới tính của

họ [103].

Các thần tượng không chỉ là cầu nối giữa giới trẻ với thế giới, với các nền

văn hóa khác, gia tăng cơ hội học hỏi mà còn là phương tiện để người hâm mộ tìm

kiếm và nhận ra những căn tính phù hợp với bản thân mình (Phan Thanh Thanh

[171]).

Việc lấy thần tượng ngôi sao và người nổi tiếng làm hình mẫu góp phần tích

cực cho việc củng cố sự tự tin ở giới trẻ. Theo Cheung và Yue (2003), “tôn thờ thần

tượng không phải luôn luôn gây bất lợi cho sự phát triển của thanh niên. Nó có thể

đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của thanh niên ở Hồng Kông” [88]. Từ đó,

các tác giả cho rằng những người hâm mộ trẻ tuổi cần phải đóng vai trò tiên phong

29

trong việc lựa chọn hình mẫu từ các thần tượng mà họ hâm mộ, tránh trở thành nô

lệ cho các thần tượng, bởi điều đó có thể làm suy yếu sự tự tin, tiềm năng và phẩm

giá của họ. Quay lưng lại với các ngôi sao được thúc đẩy bởi ngành công nghiệp

(sao nhất thời) và di chuyển về phía những ngôi sao tỏa sáng qua thời gian (ngôi sao

nổi tiếng bởi thực lực) sẽ là đường đi đúng đắn cho việc hâm mộ thần tượng

(Cheung & Yue) [88].

Ở Việt Nam, hâm mộ thần tượng được nhắc đến chủ yếu trong các bài báo

mô tả về các fan cuồng của K-Pop, hoặc được nhắc đến một cách ngắn gọn, sơ lược

như một hệ quả của sự ảnh hưởng của truyền thông đến thị hiếu, lối sống, văn hoá

tiêu dùng của giới trẻ (Phan Thị Oanh [44], Đặng Thiếu Ngân [41]) và việc hình

thành hệ giá trị cho giới trẻ Việt Nam (Đặng Thị Thu Hương [31], Lê Thị Phước

Thảo [54]), chưa có một nghiên cứu chuyên sâu nào về hiện tượng văn hóa này ở

giới trẻ từ góc nhìn chủ thể, góc nhìn kiến tạo bản sắc. Có thể nói, đây chính là

khoảng trống để đề tài luận án của tôi quan tâm bổ sung, làm rõ.

Như vậy, hiện tượng hâm mộ thần tượng ở giới trẻ đã được nghiên cứu từ

nhiều góc nhìn, khía cạnh khác nhau trong các nghiên cứu nước ngoài, chủ yếu tập

trung vào chức năng của thần tượng (người nổi tiếng) và vai trò, ảnh hưởng của

thần tượng đến giới trẻ; mối quan hệ giữa fan hâm mộ và thần tượng; sự thúc đẩy

giải trí và tiêu dùng dựa trên hâm mộ thần tượng. Từ những nghiên cứu trên có thể

thấy hâm mộ thần tượng là thực hành văn hóa xuất phát từ cả nhu cầu tâm lí và nhu

cầu xã hội của mỗi cá nhân. Yếu tố tâm lí khiến cá nhân yêu thích thần tượng nào

đó mà có thể hoặc đôi khi chính họ không thể lí giải được. Yếu tố xã hội là những

bối cảnh tác động, chi phối khiến cá nhân lựa chọn yêu thích người nào đó. Sự lựa

chọn hâm mộ và cách hâm mộ một ai đó sẽ cho thấy cá tính, bản sắc của mỗi người.

Dù còn ít khai thác đến những thực hành hâm mộ thần tượng cụ thể cũng như ý

nghĩa của việc hâm mộ thần tượng trong việc xây dựng căn tính cá nhân, tuy vậy,

các nghiên cứu này là những gợi ý quan trọng để chúng tôi kế thừa và phát triển

trong luận án của mình.

30

1.2. Cơ sở lý luận và các khái niệm liên quan

1.2.1. Các khái niệm được sử dụng trong luận án

Giới trẻ

Khái niệm “giới trẻ” (youth) là chủ đề còn nhiều tranh luận của các học giả ở

Việt Nam cũng như trên thế giới. Có nhiều thuật ngữ khác nhau được sử dụng để

nói về những người trẻ như: tuổi trẻ, giới trẻ, thanh niên, thanh thiếu niên... tuy

nhiên vẫn chưa có một định nghĩa khoa học nào cho khái niệm này được giới

nghiên cứu chấp nhận rộng rãi.

Trong ngôn ngữ đời thường, giới trẻ hay thanh niên (youth) được hiểu là

“Người còn trẻ, đang ở độ tuổi trưởng thành” (Từ điển tiếng Việt 2003) [66, tr. 913];

hoặc “Là người trẻ tuổi, trong giai đoạn giữa tuổi thơ ấu và tuổi người lớn, hăng hái,

nhiệt tình hoặc thiếu kinh nghiệm hoặc chỉ những đặc trưng khác của độ tuổi này.

Khi được dùng ở dạng số nhiều thì từ này chỉ tập hợp những người trẻ tuổi” (Từ

điển Oxford 1994, tr. 877, Dẫn theo Phạm Hồng Tung) [60, tr. 39]. Xét về độ tuổi,

Mizuko Ito và cộng sự [124, tr. 9] sử dụng thuật ngữ “trẻ em” (kids) đối với những

người 13 trở xuống, “thiếu niên” (teens) đối với những người tuổi từ 13 đến 18, và

“người trẻ” (young people) cho thiếu niên và người lớn trẻ tuổi từ 13 đến 30. Đặng

Cảnh Khanh cho rằng thanh niên là những người từ 15 - 34 tuổi, chiếm 1/3 dân số

cả nước [35, tr. 76]. Theo Mary Bucholtz [80], tùy theo cấu trúc và đặc trưng xã

hội, về tâm sinh lí (của tộc người hay chủng tộc) hay ở từng hoàn cảnh, đặc biệt ở

xã hội hiện đại, tuổi thanh niên có thể giãn biên độ ngoài tuổi 40 và trước tuổi 15.

Như vậy, giới trẻ được hiểu là những người trẻ tuổi, có thể trùng với độ tuổi

quy định trong Luật Thanh niên (16-30 tuổi) nhưng không nhất thiết bị giới hạn

chính xác trong khung tuổi đó mà có thể chênh lệch một vài tuổi so với độ tuổi được

quy định. Trong luận án này, giới trẻ được nhắc đến chủ yếu trong độ tuổi 16-30.

Giới trẻ là một khái niệm không đồng nhất (về độ tuổi, nơi sinh sống, trình

độ, nghề nghiệp...), các đặc điểm tâm lí, xã hội của họ khá đa dạng, họ là những

người trẻ trung, năng động, ưa mới mẻ và khác biệt, ưa thử nghiệm, thích lựa chọn

và ướm thử các vai trò xã hội, ngay cả khi họ còn chưa được chuẩn bị đủ tốt cho

những thử nghiệm đó, nhiều hoài nghi, dễ xung đột với thế hệ đi trước, thậm chí cố

tình phủ nhận, làm khác, coi đó như một phương thức để khẳng định mình. Họ cũng

31

là những người năng động, chủ động, tích cực trong việc chuẩn bị hành trang cho

tương lai của bản thân mình và quốc gia, dân tộc.

Khác với giới trẻ phương Tây, giới trẻ Việt Nam giữ mối liên hệ khá chặt

chẽ với gia đình, họ cũng là một lực lượng sản xuất chiếm số đông trong xã hội, là

thế hệ tiếp thu văn hóa đại chúng mạnh mẽ (Đặng Thiếu Ngân) [41, tr. 9]. Vì vậy,

bên cạnh những gì họ bị ảnh hưởng do tiếp nhận những sự trao truyền, giáo dục của

thế hệ đi trước, thì họ luôn có lựa chọn của riêng mình và thế hệ mình. Trong thời

đại toàn cầu hóa, họ còn chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố văn hóa, tri thức, kinh

nghiệm, giá trị và lựa chọn của các cộng đồng và cá nhân khác trên thế giới. Bên

cạnh việc chia sẻ đặc điểm chung về độ tuổi, tính cách và xu hướng lối sống, giới

trẻ còn được hiểu là những người cùng chia sẻ những hệ thống giá trị, ý nghĩa biểu

trưng của riêng họ.

Đời sống giới trẻ

Đời sống giới trẻ bao gồm tất cả những yếu tố liên quan đến đời sống vật

chất và đời sống tinh thần của giới trẻ, từ thói quen, thị hiếu, sở thích đến hành vi

của các cá nhân và các nhóm giới trẻ, chẳng hạn về thời trang, âm nhạc, việc học

tập, tiêu dùng, hoạt động vui chơi giải trí... Đời sống giới trẻ là những biểu hiện ra

bên ngoài của văn hóa giới trẻ, chịu sự chi phối của văn hóa giới trẻ với cách hiểu

văn hóa giới trẻ là một hệ thống các ý nghĩa biểu trưng, các giá trị được giới trẻ

cùng chia sẻ và kiến tạo. Ở luận án này, tôi quan tâm nhiều hơn đến các khía cạnh

đời sống tinh thần của giới trẻ, chẳng hạn nhu cầu và đòi hỏi riêng biệt về sáng tạo

và cảm thụ văn hóa, những đặc điểm riêng về tâm sinh lí, về tình cảm và nhận thức,

về việc xử lí các mối quan hệ xã hội... Bất cứ thực hành văn hóa nào của giới trẻ

như giải trí, tiêu dùng cũng đều là một trong những con đường kiếm tìm và thể hiện

căn tính khác biệt của giới trẻ, là một cách thức giúp cho họ nhận diện được họ là ai

trong cuộc sống này.

Thần tượng

Thần tượng (idol) là cách gọi đối với những người được đánh giá cao, được

yêu thích, say mê, ngưỡng mộ, thậm chí sùng bái bởi sự vượt trội về ngoại hình, tài

năng, phẩm chất hay thành tựu. Thần tượng có thể là các ngôi sao, người nổi tiếng

nhưng cũng có thể là những người đạt được thành tựu ở các lĩnh vực khác như khoa

học, cách mạng, chính trị... Trong luận án này, chúng tôi chú ý tới các thần tượng là

32

các ngôi sao giải trí bao gồm: diễn viên điện ảnh, các ca sĩ, cầu thủ bóng đá, những

người nổi tiếng về phương diện nghệ thuật trên truyền thông.

Người hâm mộ

Người hâm mộ hay còn được gọi với cái tên ngắn gọn là fan, chỉ chung cho

một người hoặc một nhóm đông người yêu thích, nhiệt tình ủng hộ, bênh vực, thậm

chí tôn thờ thần tượng của anh/cô ta. Trong luận án này, đó là những người có

những cảm xúc và hành vi thể hiện tình cảm mãnh liệt và tự định danh mình là một

người hâm mộ của một thần tượng cụ thể.

Tiêu thụ thần tượng

Tiêu thụ thần tượng (idol consumption) là một khái niệm được dùng tương

đối phổ biến trong lĩnh vực nghiên cứu về hâm mộ thần tượng. Nó được hiểu không

chỉ là “mua” những sản phẩm của thần tượng hoặc có liên quan đến thần tượng mà

còn là sử dụng những ý nghĩa từ hình ảnh của thần tượng cho quá trình tìm kiếm

các giá trị, ý nghĩa cho bản thân mình (Cheung Ka Ki) [89]. Việc tiêu thụ các ý

nghĩa biểu trưng và phong cách trong hình ảnh về thần tượng “giúp giới trẻ cảm

thấy cuộc sống ổn định và có ý nghĩa hơn” (Milles) [146]. Với cách hiểu này, các

thần tượng được coi là những sản phẩm hàng hóa đặc biệt (Turner) [174], một sản

phẩm của quá trình “hàng hóa hóa văn hóa” (Horkheimer & Adorno) [119].

Bản sắc

Bản sắc (identity) về mặt từ nguyên có nghĩa là sự “giống nhau” hay “tương

tự (identitas). Nó còn được hiểu là sự “nhận dạng”, “căn tính”. Bản sắc chủ yếu nói

đến sự tự ý thức hoặc một cảm nhận rõ ràng về cái cá nhân, gần tương tự như

cách cá nhân được người khác quan sát và nhận diện (Erikson 1950) [98]. Về cơ

bản, bản sắc chính là cách một người nhận biết về bản thân, cho phép những người

khác biết chúng ta là ai. Bản sắc như là một đặc điểm nhận biết thuộc về mỗi cá

nhân cụ thể, có thể là thứ được chia sẻ giữa các cá nhân trong một nhóm hoặc một

tầng lớp xã hội nhất định (Đoàn Thị Tuyến) [62, tr. 6].

Bản sắc văn hóa từng được quan tâm, tranh cãi bởi hai góc độ tiếp cận: bản

thể luận và kiến tạo luận hay phản - bản thể luận. Các nhà bản thể luận cho rằng

bản sắc là thuộc về bản chất, cái vốn có từ khi sinh ra của mỗi người và bản sắc này

sẽ theo họ suốt cuộc đời, là bất biến. Ngược lại, các nhà kiến tạo luận chủ trương

rằng bản sắc không có sẵn, nó không “tĩnh”, và được kiến tạo theo những bối cảnh

33

xã hội khác nhau nên nó luôn “động”. Mỗi cá nhân, mỗi nhóm hay cộng đồng đều

có những phương thức khác nhau trong việc bộc lộ và tạo dựng bản sắc của mình,

thông qua các phương thức tự sự (Vũ Hoàng Hiếu) [23] hay thông qua các thực

hành và sáng tạo văn hóa (Rojek [159], Brake [79], Huq [122])... Bản sắc được

phân loại thành bản sắc cá nhân, bản sắc nhóm, bản sắc văn hóa. Trong luận án này,

chúng tôi chú ý tới bản sắc cá nhân và bản sắc nhóm, trong đó chúng tôi quan tâm

nhiều hơn đến căn tính cá nhân của những người hâm mộ trẻ. Có chỗ chúng tôi sử

dụng thuật ngữ “căn tính” hay “sự nhận diện”, “sự định danh”, “sự nhận dạng” như

những từ tương đương để thay thế cho thuật ngữ “bản sắc”.

1.2.2. Cơ sở lí luận của luận án

Với mục tiêu nghiên cứu chính là khám phá các chiều kích và ý nghĩa của

các thực hành hâm mộ thần tượng và chỉ ra rằng hâm mộ thần tượng có liên quan

đến sự kiến tạo căn tính của những người hâm mộ trẻ, luận án đã tìm kiếm những

cơ sở lí luận từ những quan điểm lí thuyết khác nhau có liên quan và có thể làm

sáng rõ mục tiêu này. Sử dụng cách tiếp cận của ngành nghiên cứu văn hóa, luận án

tiếp cận vấn đề từ quan niệm về văn hoá như là một quá trình tạo nghĩa và cách thức

các thực hành văn hoá có thể kiến tạo nên căn tính cá nhân và nhóm. Từ góc nhìn

này, hiện tượng hâm mộ thần tượng không phải chỉ là biểu hiện của văn hoá giải trí

đơn thuần, mà nó còn là một quá trình tìm kiếm ý nghĩa. Nói cách khác, hâm mộ

thần tượng là một thực hành tạo nghĩa và kiến tạo bản sắc cá nhân. Điều này cần

được đặt trong bối cảnh văn hoá xã hội đương đại, nơi tiêu dùng và truyền thông

đóng vai trò xương sống trong đời sống con người.

Thực hành văn hoá như một quá trình tạo nghĩa

Theo Clifford Geertz (1973), “con người là một động vật treo trên một mạng

lưới những ý nghĩa do chính mình tự dệt nên”, và “văn hóa là những mạng lưới đó,

phân tích văn hóa, vì vậy, không phải là một khoa học tìm kiếm quy luật mà là một

ngành diễn giải đi tìm ý nghĩa” [106]. Từ cách hiểu văn hóa giới trẻ là một hệ thống

các ý nghĩa biểu trưng, các giá trị được giới trẻ cùng chia sẻ và kiến tạo, mà thông

qua đó giúp giới trẻ hiểu và nhận biết về thế giới theo cách riêng của họ, chúng tôi

coi thực hành hâm mộ thần tượng là một tiến trình tạo nghĩa, mà qua đó giới trẻ

định danh về mình, về thế hệ của mình.

34

“Nghĩa” trở thành vấn đề then chốt của phân tích văn hoá. “Nghĩa” được gán

cho một sự vật, hiện tượng dựa trên cách hiểu, nhận thức, quan niệm của một cá

nhân, một nhóm người hay một cộng đồng trong những điều kiện và bối cảnh nhất

định. “Nghĩa” không cố định mà luôn luôn biến đổi. Nó được sinh ra từ đời sống

hàng ngày, và chính nhờ những “nghĩa” được sinh ra, được chia sẻ, mà diện mạo

của một đời sống văn hoá được hình thành (Phạm Quỳnh Phương) [45], [48]. Theo

Phạm Quỳnh Phương, “văn hóa không phải được tạo ra từ những thực thể xã hội

riêng biệt, ổn định, bền vững, cố định mà là một hệ thống các hành vi và thực hành

liên tục thay đổi và có sự tương tác của con người. “Cốt lõi”, “bản chất”, “bản

sắc” hay “giá trị” cũng chỉ là những sản phẩm được tạo ra và liên tục được kiến

tạo trong những bối cảnh chính trị và xã hội nhất định. Thế giới và văn hóa của con

người đều là sự kiến tạo hàng ngày, trong đời thường. Vì vậy, không phải văn hóa

bác học (văn hóa gắn với tầng lớp thống trị) mà chính văn hóa đại chúng của số

đông dân chung với những thực hành hàng ngày đầy ý nghĩa của họ, đã tạo nên

diện mạo của một đời sống văn hóa” [48, tr. 98-99].

Từ góc tiếp cận về “nghĩa” trong nghiên cứu văn hoá, hiện tượng hâm mộ

thần tượng không thể chỉ nhìn đơn thuần như một thực hành trong văn hoá giải trí

của giới trẻ. Quá trình “cấp nghĩa” cho thần tượng cũng như cấp nghĩa cho các thực

hành của cá nhân và nhóm hâm mộ đã khiến cho những người hâm mộ trẻ tham gia

vào quá trình kiến tạo văn hoá giới trẻ.

Bản sắc - một kiến tạo văn hóa, xã hội

Như đã viết ở trên, một số nghiên cứu đã chỉ ra có hai cách tiếp cận bản sắc,

hoặc theo hướng bản thể luận (essentialism), hoặc theo hướng kiến tạo luận

(constructivism), trong đó nghiên cứu văn hoá theo hướng thứ hai: bản sắc là một

sản phẩm được kiến tạo (Đoàn Thị Tuyến [62], Phạm Quỳnh Phương [48]). Nếu

như cách tiếp cận bản chất luận coi bản sắc là cái có tính tự nhiên, thuộc về bản

chất, có tính cốt lõi, thì cách tiếp cận kiến tạo luận chỉ ra bản sắc là cái có thể đạt

được, được sinh ra từ một quá trình kiến tạo và vận động không ngừng, tự định

danh và được định danh. Bản sắc của một cá nhân là cách thức định danh để cá

nhân được biết đến như một thực thể riêng biệt có những phẩm chất và nét riêng.

Bản sắc là những đặc điểm riêng, được kiến tạo bởi những điều kiện văn hóa,

xã hội nhất định. Mỗi người, mỗi nhóm người sẽ có những cách thức khác nhau để

35

tạo dựng nên bản sắc của mình tùy theo nhu cầu và nền tảng của bản thân những bối

cảnh lịch sử, xã hội khác nhau. Do là sản phẩm của sự kiến tạo nên bản sắc không

bất biến mà luôn thay đổi. Do vậy, từ sự kiến tạo bản sắc có thể nhìn ra các chiều

cạnh của nó trong những tương tác, những vận động của bối cảnh xã hội và

những động năng của chính chủ thể văn hóa. Đây là luận điểm chính mà chúng

tôi sử dụng xuyên suốt luận án này.

Tuổi trẻ được xem như là một giai đoạn hình thành bản sắc quan trọng, trong

đó cá nhân vượt qua sự không chắc chắn, trở nên tự nhận thức được điểm mạnh và

điểm yếu của họ và tự tin hơn vào các phẩm chất độc đáo của riêng họ (Erikson

1968). Để tiếp tục trưởng thành, họ phải trải qua một cuộc “khủng hoảng” trong đó

giải quyết các câu hỏi quan trọng về giá trị và lí tưởng, sự nghiệp hay nghề nghiệp

tương lai và cả bản dạng tính dục của họ. “Thông qua quá trình tự phản ánh và tự

định nghĩa, giới trẻ sẽ đạt được một ý thức tích hợp, mạch lạc về danh tính của họ

như một cái gì đó bền vững theo thời gian” (Buckingham) [81]. Tuy nhiên, theo

Hall và Jefferson [113], bản sắc hoàn toàn không có tính cố định, mà chuyển đổi

liên tục tuỳ thuộc vào quá trình tương tác với “bất cứ thứ gì có tính lịch sử” (Dẫn

theo Đoàn Thị Tuyến) [62]. Vì liên quan đến lịch sử nên bản sắc luôn là sản phẩm

được tạo dựng, là sản phẩm của giao tiếp và tương tác xã hội.

Bản sắc được chú ý ở cả khía cạnh cá nhân và nhóm. Ở góc độ cá nhân,

bản sắc có thể được kiến tạo từ sự phản xạ tự nhận dạng bản thân và tính tự thân,

trong đó các cá nhân có thể tự xây dựng một câu chuyện cá nhân cho chính họ,

cho phép họ hiểu bản thân cũng như kiểm soát cuộc sống và tương lai của họ

(Giddens) [107]. Ở góc độ nhóm, những sự tương tác là cách thức giúp cá nhân

và tập thể khám phá ra bản sắc của họ (Jenkins) [126]. Vấn đề của bản sắc là trả

lời những câu hỏi: Tôi là ai? Làm thế nào để chúng ta biết chúng ta là ai và làm

thế nào để người khác nhận ra chúng ta? (Jenkins) [126]. Bản sắc có thể tham

gia vào quá trình cố kết và vận động xã hội, trở thành động lực và cơ hội cho các

cá nhân trong xã hội. Việc gắn bó chặt chẽ với một nhóm cụ thể sẽ giúp các cá

nhân trong nhóm đó có cảm giác thuộc về và thường điều này đưa lại cho họ cảm

giác an toàn (Đoàn Thị Tuyến) [62]. Từ các nền tảng lí thuyết này, một số cách

thức giúp con người, đặc biệt giới trẻ tìm kiếm và tạo dựng những khía cạnh

36

giúp người khác có thể nhận diện và phân biệt họ đã được khám phá, chẳng hạn

qua Hip hop, Graffity, nhạc Pop...

Bản sắc của các cá nhân hiện nay chịu sự chi phối rất lớn của bối cảnh văn

hóa tiêu dùng - nơi mà hầu như mọi hành vi của các cá nhân đều có liên quan đến

việc tiêu thụ các sản phẩm. Tiêu dùng không chỉ phản ánh trật tự đẳng cấp của giai

tầng xã hội (Bourdieu) [78] mà còn là một trong những cách thức giúp con người

đối phó với sự lo lắng được tạo ra bởi những thay đổi cấu trúc xã hội (Miles) [147]

và như một nguồn để giới trẻ xây dựng và duy trì danh tính của họ. Đặc biệt, khi

ngành quảng cáo đã nắm được những cách thức để có thể bán cho mọi người nhiều

hơn và đắt hơn, bằng cách bán cho khách hàng một “bản sắc”: một cái nhìn mới,

một cách trang điểm khác, một meme khác. “Bản sắc” đã trở thành một “hàng hóa”

bán chạy. Bản sắc của người tiêu dùng khiến cho giới trẻ cảm thấy cuộc sống hàng

ngày của họ ổn định hơn (Nhat Nguyen Nguyen và cộng sự) [148]. Tham gia vào

các thực hành tiêu dùng cũng là một cách thức giúp giới trẻ hình thành các nhóm

của họ (nhóm ngang hàng, nhóm theo sở thích hay giới tính) và phân biệt với các

nhóm khác. Những thần tượng - những hình mẫu mang đậm tính thời đại cũng được

coi một loại hàng hóa được chủ nghĩa tiêu dùng tạo ra nhằm thỏa mãn nhu cầu về

những căn tính mới của người tiêu dùng thời hiện đại. Dựa trên các chức năng xã

hội của thần tượng: cung cấp căn tính mới đa dạng, lấp đầy giao tiếp liên cá nhân,

củng cố ý thức hệ (Nguyễn Thu Giang) [16], luận án sẽ chỉ ra cách thức mà các thần

tượng can thiệp vào quá trình kiến tạo căn tính của những người hâm mộ trẻ.

Luận án cũng dựa trên quan điểm của Fiske [101] khi cho rằng người hâm

mộ biến hình ảnh ngôi sao yêu thích của họ thành ý nghĩa riêng của họ và tìm niềm

vui trong việc sử dụng những hình ảnh này để tạo ra ý nghĩa riêng cho bản sắc xã

hội và quan hệ xã hội của họ, và quan điểm của Cheung Ka Ki [89] khi chỉ ra hâm

mộ thần tượng là một sự tiêu thụ những ý nghĩa liên quan đến bản sắc. Cheung

Ka Ki đã khám phá những cách thức mà những người trẻ tuổi có thể sử dụng những

hình ảnh của thần tượng để phục vụ cho việc xây dựng bản sắc của chính họ và bản

sắc nhóm. Thông qua việc tiêu thụ những ý nghĩa có liên quan đến thần tượng,

người hâm mộ gia tăng việc tự suy nghĩ, nhập vai và định đoạt các giá trị và niềm

tin hiện có của họ tạo nên sự tự nhận thức (self-awareness). Qua cách tiêu thụ hình

ảnh ngôi sao của người hâm mộ nào đó có thể thấy được sự khác biệt về danh tính

37

của họ với những người hâm mộ khác. Tất cả tạo thành một bản sắc tập thể và chia

sẻ ý nghĩa về sự trẻ trung và những mối quan hệ nổi loạn tương tự nhau chống lại sự

áp đặt của người lớn.

Vì xuất phát điểm của việc hâm mộ thần tượng là những cảm xúc cá nhân

của một/nhóm người đối với thần tượng của họ, và cảm xúc này sẽ chi phối cách mà

họ “giải mã” về thần tượng cũng như những sở thích, thị hiếu, thói quen và cả hành

vi của họ nên trong luận án này, chúng tôi cũng quan tâm tới những cảm xúc của

các cá nhân người hâm mộ đối với thần tượng của họ. Theo Sara Ahmed [70], cảm

xúc là yếu tố có khả năng “quản trị” cuộc sống của con người và đó là cơ sở để nền

kinh tế cảm xúc (affective economy) thúc đẩy việc tiêu thụ các sản phẩm để đạt

được sự cân bằng và thỏa mãn của cảm xúc. Do vậy, trong luận án này, chúng tôi

cho rằng bên cạnh những cách thức “truyền thống” mà giới trẻ bộc lộ và kiến tạo

bản sắc như đã từng được các nhà nghiên cứu trước đây chỉ ra, chẳng hạn qua thời

trang, âm nhạc, phim ảnh... thì những thực hành hâm mộ thần tượng, đặc biệt là

những cách thức tiêu thụ thần tượng liên quan đến cảm xúc ở các cá nhân và nhóm

người hâm mộ trẻ cũng là những là chất liệu quan trọng để tạo dựng căn tính cá

nhân cũng như bản sắc nhóm của giới trẻ.

Như Deen [92] đã chỉ ra “hâm mộ ai đó là sự phản chiếu về chính chúng ta”,

những người hâm mộ trẻ tuổi xem xét một thần tượng nổi tiếng như là “hình ảnh tự

tưởng tượng của họ” (Boon & Lomore 2001, Caughey 1994, Dẫn theo Chan) [85,

tr. 80], và dần hình thành sự gắn bó (attachment) với các nhân vật thần tượng -

những người lạ nằm ngoài mối quan hệ gia đình và bạn bè. Sự gắn bó này lại được

tạo ra và thúc đẩy bởi truyền thông và tiêu dùng.

Kế thừa những quan điểm lí thuyết trên trong nghiên cứu về bản sắc và kiến

tạo bản sắc của giới trẻ trong bối cảnh văn hóa tiêu dùng và truyền thông, bằng việc

chỉ ra những cảm xúc, những thực hành đặc biệt là thực hành tiêu dùng có liên quan

đến thần tượng, luận án lập luận rằng hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam diễn

ra theo cách mà chúng ta thấy hiện nay là một phương thức kiến tạo bản của những

người trẻ trong bối cảnh xã hội mà văn hóa tiêu dùng, công nghiệp văn hóa và

truyền thông đóng vai trò nổi bật. Đồng thời, quan điểm kiến tạo bản sắc cá nhân và

nhóm người hâm mộ cũng là cơ sở để luận án có thể nhìn ra những chiều kích của

xã hội Việt Nam đương đại qua nghiên cứu về hiện tượng này.

38

Tiểu kết chương 1

Hâm mộ thần tượng là một hiện tượng nổi bật trong văn hóa giới trẻ. Ở

chương này, chúng tôi đã khái quát những hướng nghiên cứu về văn hoá giới trẻ và

hiện tượng hâm mộ thần tượng ở giới trẻ. Theo đó, giới trẻ là những người trẻ trung,

ưa sự mới mẻ, sôi động; có nhu cầu, thị hiếu, quan niệm, lối sống khác với các thế

hệ khác; là nhóm có nhiều lí tưởng nhưng cũng là nhóm có nhiều nổi loạn, dám thử

nghiệm, luôn hướng tới cái mới, cái khác biệt, luôn ý thức cao trong việc kiếm tìm

và xây dựng bản sắc cá nhân. Văn hóa giới trẻ được coi là một tiểu văn hóa nổi bật

vì những đặc trưng và những thực hành văn hóa của nó.

Những nghiên cứu về người nổi tiếng/ thần tượng cung cấp những vấn đề

liên quan đến khái niệm, chức năng và vai trò của thần tượng trong đời sống của

người hâm mộ. Đặc biệt, đối với những người hâm mộ trẻ, hâm mộ thần tượng là

một hiện tượng có liên quan đến đặc trưng lứa tuổi cũng như các đặc trưng của tiểu

văn hóa giới trẻ. Các nghiên cứu về hâm mộ thần tượng ở giới trẻ chủ yếu xoay

quanh một số vấn đề như: những nguyên nhân dẫn đến việc hâm mộ thần tượng, các

mức độ hâm mộ thần tượng ở giới trẻ, mối quan hệ giữa thần tượng và người hâm

mộ trẻ, việc tiêu thụ thần tượng và kiến tạo bản sắc ở những người hâm mộ cũng

như ý nghĩa của việc nghiên cứu về người hâm mộ... trong bối cảnh văn hóa - xã hội

mà truyền thông và văn hóa tiêu dùng ngày càng có sức ảnh hưởng sâu sắc.

Chương viết cũng đã đưa ra các khái niệm và quan điểm tiếp cận như một

điểm tựa xuyên suốt cho quá trình triển khai các ý tưởng và nội dung của luận án.

Dựa trên cách tiếp cận của ngành nghiên cứu văn hoá coi thực hành văn hóa như

một quá trình tạo nghĩa và bản sắc là một kiến tạo văn hóa, xã hội, chúng tôi lập

luận rằng hiện tượng hâm mộ thần tượng hiện nay cần phải được nhìn nhận như một

thực hành tạo nghĩa, một cách thức kiến tạo nên bản sắc giới trẻ từ góc độ cá nhân

và nhóm, và đặt trong bối cảnh xã hội có nhiều biến đổi so với trước đây. Hâm mộ

thần tượng, do vậy là một hiện tượng có thể giúp nhận diện về văn hóa giới trẻ

trong thời đại hiện nay.

39

Chương 2

BỨC TRANH CHUNG VỀ HÂM MỘ THẦN TƯỢNG Ở

GIỚI TRẺ VIỆT NAM

2.1. Những mẫu hình thần tượng trong lịch sử

Mỗi thời đại đều có những người được coi là hình mẫu của số đông xã hội -

những người được người khác ngưỡng mộ dựa trên sự nổi trội về ngoại hình, phẩm

chất hay tài năng của họ. Từ “Thần tượng” được dùng phổ biến hiện nay thực ra là

cách gọi của thời hiện đại, dịch từ thuật ngữ “idol” trong các nghiên cứu về văn hoá

đại chúng và truyền thông phương Tây để nói về những mẫu hình lí tưởng, được

yêu thích bởi số đông xã hội hiện nay. Mặc dù phương thức “hâm mộ” ở mỗi thời

có thể rất khác nhau, nhưng việc ngưỡng mộ cá nhân không phải là hiện tượng hoàn

toàn mới trong lịch sử.

Ở Việt Nam, qua khảo sát tư liệu có thể thấy “mẫu hình con người lí tưởng”

là thuật ngữ quen thuộc để nói về những nhân vật lịch sử, những mẫu hình nhân

cách cao thượng, các bậc “chí nhân”, “thánh nhân”, “dị nhân” có nét phi thường, kì

vĩ trong những bối cảnh văn hóa xã hội trước đây ở Việt Nam (Trần Ngọc Vương

[68], Trần Nho Thìn [55], Đỗ Lai Thúy [56]). Đặc trưng của các mẫu hình này phản

ánh những đặc trưng về chính trị và tôn giáo, tư tưởng, truyền thống và các chuẩn

mực xã hội. Các mẫu hình lí tưởng ở các thời kì là khác nhau, phụ thuộc vào những

biến đổi của bối cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội đặc thù. Những người có vẻ đẹp hình

thức, tài năng và vẻ đẹp phẩm chất luôn là mẫu hình lí tưởng mà con người các thời

đại muốn hướng đến, mặc dù vậy, vẻ đẹp về phẩm chất, đạo đức có phần được

người Việt Nam đề cao hơn cả “Cái nết đánh chết cái đẹp”, “Tốt gỗ hơn tốt nước

sơn”... Trước kia, quan niệm về cái đẹp, về hình mẫu con người lí tưởng ở Việt

Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi những chuẩn mực của Nho giáo. Lấy đạo đức,

phẩm chất và tài năng làm cốt lõi để xây dựng các hình mẫu lí tưởng, có thể thấy

những người được ngưỡng mộ, tôn thờ khá thống nhất trong quan điểm của người

Việt Nam từ trước đến nay. Các triều đại phong kiến thường phong tước cho những

người có công. Điều này như một phần thưởng, sự khen ngợi cho những đóng góp,

40

cống hiến, xả thân của họ cho đất nước, dân tộc, đồng thời cũng như một sự khuyến

khích, nêu gương đối với xã hội. Những danh hiệu đính kèm với từng nhân vật lịch

sử phản ánh thái độ tôn trọng, ngưỡng mộ, sự đánh giá tích cực của cộng đồng dành

cho những phẩm chất hoặc thành tựu của họ.

Trải qua 1000 năm Bắc thuộc, các triều đại phong kiến luôn phải đề cao mục

đích bảo vệ vương triều, bảo vệ đất nước khỏi âm mưu bành trướng của giặc ngoại

xâm. Gắn liền với lịch sử này, những tấm gương, mẫu hình lí tưởng của con người

thời trung đại là các vị vua anh minh (Lê Lợi, Lê Thánh Tông, Trần Nhân Tông,

Quang Trung...), các anh hùng chiến trận, anh hùng vệ quốc (Ngô Quyền, Lý

Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo…), anh hùng văn hoá (Nguyễn Trãi), các trung thần,

các liệt nữ (Trưng Trắc, Trưng Nhị, Bà Triệu, Vũ Nương)... Bên cạnh đó, do ảnh

hưởng mạnh mẽ từ khuôn thước Nho giáo, các nhà nho luôn là các hình mẫu được

ngưỡng vọng không chỉ bởi học thức mà còn bởi phẩm chất đạo đức. Nhà nho hành

đạo (nhà nho nhập thế) là mẫu hình nhà nho được ca tụng (Nguyễn Du, Nguyễn

Đình Chiểu, Đào Tấn...) bởi họ là những người sẵn sàng thực hành những nguyên

tắc đạo lý của Nho gia, sẵn sàng dấn thân nhập cuộc, suốt đời nguyện thực hiện lý

tưởng “Thượng trí quân, hạ trạch dân” (trên thì giúp vua, dưới thì chăm dân), đề cao

đạo và chí, chú trọng đến vấn đề tu thân, nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Theo Đỗ Lai Thúy

[56], đỉnh cao nhất của mẫu hình lí tưởng của Nho gia là con người quân tử - người

không chỉ có học vấn mà còn luôn tuân thủ các quy tắc đạo đức cộng đồng, luôn

tích cực thực hành cái đạo của người quân tử tức lí tưởng đạo Nho “tề gia, trị quốc,

bình thiên hạ”. Trong cuộc sống, họ là những tấm gương mẫu mực, có tấm lòng bao

dung, nhân nghĩa, trung hiếu. Khi đất nước có nguy cơ bị xâm lược thì họ chính là

những người đầu tiên dám xả thân vì tổ quốc. Trong thời đại Nho giáo độc tôn (thời

Lê sơ, thời nhà Nguyễn và phong trào kháng Pháp Cần Vương) thì người quân tử

nổi lên như một nhân vật chính, trở thành một giá trị mà ánh hào quang của nó tỏa

sáng đến tất cả mọi người từ ông vua cho đến thứ dân (Lê Thánh Tông, Nguyễn

Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm...).

Theo đó, những phẩm chất khiến các nhân vật này trở thành người được đề

cao, ngưỡng mộ là tinh thần trung quân ái quốc, quả cảm, vì nước vì dân, luôn đặt

41

lợi ích chung của quốc gia dân tộc lên trên hết, là những người có nhân cách đạo

đức tốt đẹp... Mặt khác, sự tôn vinh những nhân vật như vậy đồng nghĩa với sự tôn

vinh chủ nghĩa tập thể thời phong kiến cũng góp phần củng cố quyền lực của các

triều đại thông qua những “chuẩn mực” đạo đức để qua đó quản trị đất nước, con

người. Việc tôn vinh họ là của thời đại sau này (vì các mục đích khác nhau) chứ

không phải của người đương thời. Trong xã hội truyền thống, con người làng xã là

con người cộng đồng. Con người tồn tại không phải với tư cách cá nhân mà trong

quan hệ với gia đình, dòng họ, làng xóm... Hầu như toàn bộ các thiết chế xã hội (thờ

thành hoàng làng, phe, giáp, hội, hương ước, lệ làng, lũy tre, sự phân biệt chính cư

ngụ cư...) đều nhằm củng cố và nâng cao tính cộng đồng trong mỗi con người (Đỗ

Lai Thúy) [56].

Về sau này, ngoài con người làng xã - con người cộng đồng và con người tài

tử, còn có xuất hiện con người vô ngã, con người tài tử. Đó có thể là các nhà nho ẩn

dật, nhà nho tài tử như Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú

Xương, Tản Đà... (Trần Ngọc Vương) [68]. Sự xuất hiện của các mẫu hình này cho

thấy “sự phát triển của ý thức cá nhân” (Đỗ Lai Thúy) [56, tr. 449]. Ngoài sự ca

ngợi trung, hiếu, tiết, nghĩa, xã hội cũng chú ý tới cái “tài” và “tình” - những biểu

hiện của con người cá nhân. Điều này là kết quả của những biến chuyển mạnh mẽ

thuộc bối cảnh xã hội, thời đại. Con người tài tử, theo Đỗ Lai Thúy, là nhân vật

trung tâm của thời đại mà Nho giáo chính thống không còn là hệ tư tưởng độc tôn,

các nhà Nho chịu nhiều ảnh hưởng của Phật giáo, Lão giáo. Tư tưởng của các nhà

Nho (Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều thời Lê - Trịnh; Nguyễn Công Trứ, Dương

Khuê, Chu Mạnh Trinh... sau này) được hòa loãng trong tư tưởng bình dân, là sản

phẩm của sự lệch chuẩn Nho giáo, của tư tưởng thị dân và văn hóa đô thị. Các nhà

nho này được công chúng yêu quý bởi họ đã chạm đến được những tâm tư, tình

cảm, nỗi lòng của những người bình dân, phản ánh những mâu thuẫn giữa ý thức về

con người cá nhân và con người cộng đồng. Đầu thế kỉ XX, con người tài tử còn tồn

tại cho đến Tản Đà và hồi quang của nó còn ánh lên lần cuối ở Nguyễn Tuân khi mà

con người cá nhân cá thể đã xuất hiện và khẳng định [56, tr. 278-304].

42

Đến thời chiến tranh chống Pháp và Mỹ, những hình mẫu được đề cao, trân

trọng là những tấm gương của không chỉ giới trẻ mà của toàn dân: Chủ tịch Hồ Chí

Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các anh hùng Trần Thị Lý, Kim Đồng, Võ Thị

Sáu,… hầu hết là các anh hùng cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, sau

này là các tấm gương - anh hùng trong lao động sản xuất thời kì mới (như anh Hồ

Giáo, chị Hai năm tấn...). Những mẫu hình được tôn vinh, ca ngợi này bị chi phối

bởi chính trị, tuy nhiên, do yêu cầu của bối cảnh lịch sử, có một sự đồng thuận cao

giữa nhà nước và nhân dân trong việc tôn vinh các anh hùng, danh nhân này. Họ

được ngưỡng mộ và tạo động lực cho một thế hệ thanh niên hừng hực khí thế, tự

nguyện viết đơn bằng máu xin ra trận.

Sau năm 1975, những mẫu người được vinh danh là những anh hùng lao

động. Lúc này chủ nghĩa tập thể vẫn được đề cao: một người làm việc gấp đôi để

kiến thiết đất nước. Tình riêng vẫn được đặt sau lợi ích chung. Trong Lặng lẽ Sa Pa,

Nguyễn Thành Trung đã khắc họa những tấm gương miệt mài, say mê lao động:

anh kĩ sư trẻ, anh thanh niên nghiên cứu về sét, cô họa sĩ... Những hình mẫu này

hầu hết đều là những tấm gương về lao động, truyền tải ý thức hệ cộng sản rất rõ

ràng bởi cách sống, cách cống hiến lặng thầm của họ cho thấy lí tưởng sống và

niềm tin trong họ. Như vậy, đến thời hiện đại, mặc dù con người cá nhân đã định

hình rõ nét hơn thời trung đại nhưng vẫn chịu chi phối rất lớn bởi tính cộng đồng,

bởi quan niệm của tập thể.

Trong các giai đoạn sau này, các ca sĩ, diễn viên như Chánh Tín, Trà Giang,

Thương Tín, hay sau này là Lý Hùng, Việt Trinh, Diễm Hương... từng cũng được

mến mộ bởi đông đảo khán giả của họ, thậm chí cũng có người đi theo họ khắp nơi.

Trường hợp này khá giống với việc khán giả “tự mê” như bây giờ, chỉ có điều đó

chỉ là một vài trường hợp riêng lẻ, ít thấy, không khiến cho việc hâm mộ này trở

thành một hiện tượng nổi bật như chúng ta thấy ở giới trẻ hiện nay. Một phần là bởi

các nhân vật thần tượng này chưa trở thành mối quan tâm chung của số đông giới

trẻ, còn phần lớn là do sự chi phối của bối cảnh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội tới

thị hiếu, sở thích và thói quen các thế hệ trước đây.

43

Như vậy, theo quan niệm trước đây, thần tượng phải là một người tài năng,

xuất chúng, có phông văn hóa lớn, có nền tảng kiến thức sâu rộng, có đạo đức, tư

cách tốt, sống chuẩn mực và có nhiều đóng góp cho cộng đồng... và do đó, để đánh

giá ai đó là hình mẫu, là thần tượng trong xã hội không phải dễ (Nguyên Trang)

[185]. Tuy nhiên, cách hiểu về thần tượng ở mỗi thời đại có một biên độ nghĩa khác

nhau, bị chi phối rất nhiều bởi bối cảnh xã hội. Theo cách hiểu thông thường hiện

nay, thần tượng là cách gọi đối với những người nổi tiếng được giới trẻ yêu thích,

say mê, hâm mộ thậm chí sùng bái. Có một thực tế là nếu như thần tượng của các

thế hệ tuổi trẻ trước đây (thời kì cách mạng giải phóng dân tộc, thời kì xây dựng xã

hội chủ nghĩa) chủ yếu là các lãnh tụ, các anh hùng cách mạng, anh hùng lao động,

nhà bác học, nhà khoa học... thì rất nhiều nhân vật được coi là thần tượng của một

bộ phận không nhỏ giới trẻ hiện nay (20 năm trở lại đây) chủ yếu là các diễn viên

điện ảnh, các ca sĩ, cầu thủ bóng đá... hay nói khác đi là những người nổi tiếng. Vì

sao có sự thay đổi mẫu hình được ưa thích ở giới trẻ Việt Nam? Hâm mộ thần tượng

ở giới trẻ Việt Nam hiện nay đã nổi lên như một hiện tượng trong bối cảnh văn hoá,

xã hội nào?

2.2. Bối cảnh của hiện tượng hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam hiện nay

2.2.1. Chính sách mở cửa, kinh tế thị trường, quá trình hiện đại hóa và đô thị

hóa ở Việt Nam

Từ sau Đổi mới, sự cởi mở về chính trị đã mở đường cho kinh tế phát

triển và khiến cho xã hội Việt Nam có những thay đổi toàn diện. Với chính sách

mở cửa của nhà nước, kinh tế thị trường xuất hiện và phát triển ở Việt Nam như

một quy luật tất yếu. Thoát khỏi sự cấm vận, sự chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch

hóa tập trung sang kinh tế thị trường đã giúp Việt Nam từ một trong những quốc

gia nghèo nhất thế giới thành nước có thu nhập trung bình thấp. Mức sống được

cải thiện, đời sống văn hóa của người Việt Nam có nhiều khởi sắc theo hướng

dân chủ hóa, năng động và mở rộng giao lưu với thế giới. Khác với chủ trương

xóa bỏ kinh tế tư nhân và không theo quy luật thị trường trước đây, sau mở cửa,

việc đề cao thị trường đã mở đường cho sự du nhập, sản xuất và tiêu thụ hàng

44

hóa ở Việt Nam. Quá trình mở cửa này cũng đã tạo điều kiện cho toàn cầu hóa

và các dòng chảy văn hóa du nhập vào Việt Nam.

Với chủ trương đổi mới toàn diện và mở cửa với bên ngoài, kinh tế thị

trường có cơ hội phát triển, một khối lượng hàng hóa lớn được nhập về Việt Nam

làm thay đổi thói quen và lối sống của các thành phần dân cư, đặc biệt là ở các đô

thị. Lúc này, tốc độ đô thị hóa ở Việt Nam cũng diễn ra ngày càng mạnh hơn. Đô thị

hóa kéo theo các dòng di cư, nhập cư dẫn đến sự xáo trộn dân cư liên tục, cùng với

đó là sự đứt gãy các mối quan hệ giao tiếp liên cá nhân khiến cho vai trò của mối

quan hệ làng xóm, khu vực cư trú trở nên ít quan trọng hơn. Sự tách rời công việc

và sinh kế khỏi nơi cư trú đã khiến cha mẹ ngày càng phải tập trung nhiều thời gian

hơn cho công việc và quá trình di chuyển đến nơi làm việc của mình. Đó cũng là

một nguyên nhân khiến thời gian giao tiếp giữa các thành viên trong gia đình hạt

nhân bị rút ngắn hơn trước đây. Con người ngày càng suy giảm các liên hệ trực tiếp

của mình với các cá nhân khác, họ trở nên cô đơn hơn. Những mối quan hệ thân

tình thời niên thiếu trở nên xa cách và mờ nhạt dần. Bối cảnh này là điều kiện để

các thần tượng trở thành mối quan tâm chung của những người trẻ.

2.2.2. Toàn cầu hóa và các dòng chảy văn hóa nước ngoài

Toàn cầu hóa là một sự liên thông ngày càng tăng giữa các xã hội và các yếu

tố của nó do quá trình đan xen văn hóa kết hợp với sự gia tăng bùng nổ của giao

thông và các công nghệ truyền thông góp phần thúc đẩy kinh tế quốc tế và giao lưu

văn hóa; là quá trình “quốc tế hóa” mọi giá trị nhân loại, là sự phụ thuộc qua lại

không ngừng giữa các quốc gia và các cá nhân. Toàn cầu hóa về văn hóa diễn ra

song song và có mối quan hệ qua lại với toàn cầu hóa về kinh tế. Do vậy, quá trình

toàn cầu hóa đã ảnh hưởng sâu sắc đến mọi phương diện đời sống văn hóa các quốc

gia, Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Đặc biệt, từ 1997, internet xuất hiện và

được sử dụng ngày càng phổ biến ở Việt Nam đã khiến quá trình hội nhập càng diễn

ra sâu, rộng, nhanh hơn. Năm 2006, Việt Nam gia nhập WTO, mở ra cơ hội lớn cho

hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam với thị trường rộng lớn.

45

Trong khi đó, các chính sách về giới trẻ3, về văn hóa, văn nghệ4 ở Việt Nam

từ sau Đổi mới ngày càng có những thay đổi theo hướng cởi mở hơn. Những loại

hình văn hóa, nghệ thuật, thể thao cũng được nới lỏng chứ không bị siết chặt như

trước và ngày càng được chú trọng như là một trong những yếu tố quan trọng tạo

nên sức mạnh mềm văn hóa (soft power) (Nye) [153] của quốc gia. Mối quan hệ

ngoại giao văn hóa cũng được thiết lập và vun đắp để phát triển bằng sự mở đường

về giao lưu văn hóa giữa các nước trong khu vực và trên thế giới5. Đây cũng là điều

kiện thuận lợi để các ngôi sao nước ngoài, âm nhạc và phim ảnh đại chúng du nhập

vào Việt Nam cũng như làm cho bản thân nền văn hóa giải trí trong nước phát triển

phong phú, đa dạng.

Toàn cầu hóa kéo theo sự lớn mạnh, phủ rộng của các làn sóng văn hóa mới

bắt nguồn từ việc xuất khẩu văn hóa đại chúng của phương Tây đến những nơi khác

trên thế giới. Văn hoá đại chúng (popular culture) được coi là tương phản với văn

hóa tinh hoa bởi các sản phẩm của nó bao gồm các hàng hóa được sản xuất đại trà

với nguyên liệu tiêu chuẩn hóa (truyền hình, băng đĩa, radio, quảng cáo, thể thao,

nghệ thuật, phong cách sống, ý tưởng, thị hiếu, thời trang và các giá trị...) hướng tới

số đông dân chúng. Văn hóa đại chúng là “sản phẩm” do các quốc gia công nghiệp

tiên tiến nhất tạo ra. Nó gắn bó chặt chẽ với truyền thông đại chúng. Các thần tượng

3 Mục 2. Điều 26 của Luật Thanh niên sửa đổi (16/6/2020) có đề cập đến việc các cáp, ngành, chính quyền và các thiết chế xã hội cần “Ưu tiên, tạo điều kiện tham gia hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, vui chơi, giải trí phù hợp với khả năng và lứa tuổi để phát triển toàn diện”. 4 Gần đây nhất, ngày 16 - 6 - 2008, Đảng đã ban hành Nghị quyết 23 - NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới. Đây là nghị quyết đầu tiên của Đảng dành riêng cho văn học nghệ thuật, một lĩnh vực cụ thể của văn hoá, như là sự cụ thể hoá Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về xây dựng nền văn hoá Việt Nam. Quyền tự do sáng tác khi nói đến thành tựu của văn học nghệ thuật thời gian qua: được khẳng định: “Tự do trong sáng tạo nghệ thuật và sự đa dạng về nội dung, phong cách sáng tác, phương thức biểu hiện được tôn trọng; dấu ấn cá nhân, cá tính sáng tạo được khẳng định” (tr. 5 – 6). Và trong phần “Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo...”, Đảng chủ trương: “Tiếp tục đổi mới, tạo điều kiện thuật lợi cho sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của văn học, nghệ thuật về đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp sáng tác, sự tìm tòi, thể nghiệm, nâng cao chất lượng toàn diện nền văn học, nghệ thuật nước nhà”. Đời sống văn hoá của người dân Việt Nam đã được tạo điều kiện thuận lợi, trở nên đa dạng và phong phú hơn. Các loại hình văn hoá - nghệ thuật cũ được phát huy. Đồng thời, các loại hình văn hoá - nghệ thuật mới của thế giới cũng được tiếp thu rộng rãi. 5 Nghị định số 88/2002/NĐCP về xuất - nhập khẩu văn hoá; Quyết định số 23/2008 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Chỉ thị số 4252/2008/CT-BNG ngày 23-12-2008 cho thấy nhà nước đã quan tâm và tạo điều kiện cho việc mở rộng giao lưu văn hoá, đồng thời quy định rõ các loại hình văn hoá được xuất, nhập khẩu.

(ngôi sao, người nổi tiếng) ở Việt Nam không phải bây giờ mới có, tuy nhiên nó chỉ

46

trở thành một hiện tượng và ngày càng phổ biến với bệ đỡ của văn hoá đại chúng

trên phạm vi toàn cầu.

Văn hóa đại chúng bao gồm những sản phẩm như nhạc Pop, truyền hình,

phim ảnh, video, tiểu thuyết “dễ đọc”, truyện tranh, quảng cáo, thời trang, thiết kế

nhà và thức ăn sản xuất đại trà. Toàn cầu hóa có ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc tới

văn hóa giới trẻ ở các quốc gia, đặc biệt văn hóa giải trí bởi giải trí gắn liền với văn

hóa tiêu dùng và văn hóa đại chúng, với các hình thức, các sản phẩm giải trí đa

dạng, âm nhạc và phim ảnh nước ngoài với những phong cách mới, những sắc màu

văn hóa mới mẻ.... Theo chân các ấn phẩm văn hoá, các ngôi sao thuộc các lĩnh vực

giải trí đã phát triển rực rỡ ở các nước Âu Mỹ (phim ảnh, âm nhạc, thể thao) liên tục

được giới thiệu ở Việt Nam, thu hút sự chú ý, quan tâm, tò mò của các thế hệ công

chúng người Việt.

Cuối những năm 1990, âm nhạc toàn cầu, hiện đại (US / UK-pop được gọi là

nhạc Pop Mỹ do phương Tây dẫn đầu) với những cái tên nổi tiếng như N’Sync,

Boyzone, The Backstreet Boys, Madona và Britney Spears... được giới trẻ Việt

Nam tích cực đón nhận thông qua các kênh phát thanh, kênh Truyền hình quốc gia

(chương trình MTV most wanted nổi tiếng một thời với 2 MC Diễm Quỳnh và Anh

Tuấn) và thông qua đĩa CD và DVD giá rẻ. Cùng với đó, dòng chảy văn hóa Hàn

Quốc trở nên phổ biến ở Việt Nam vào khoảng cuối những năm 1990 (với phim

truyền hình Hàn Quốc) trên truyền hình Việt Nam và vào đầu những năm 2000 (với

nhạc Pop Hàn Quốc) cùng với sự xuất hiện của internet. Sức hấp dẫn của những

người nổi tiếng nước ngoài và các biểu tượng nhạc Pop đối với giới trẻ Việt Nam đã

gia tăng mạnh mẽ.

Với sức lan tỏa mạnh mẽ và gần như tuyệt đối của nền văn hóa Mỹ, toàn cầu

hóa có lúc còn được gọi là “Mỹ hóa”. Tuy vậy, đến giai đoạn đầu những năm 2000

trở lại đây, dòng chảy văn hóa nước ngoài có tác động lớn tới văn hóa giới trẻ Việt

Nam tiêu biểu nhất có lẽ phải kể đến làn sóng Hallyu là bởi nó đã kéo theo việc một

loạt các tên tuổi ngôi sao ca nhạc, truyền hình Hàn Quốc được nhớ mặt nhớ tên rộng

khắp trong giới trẻ Việt Nam, hơn nữa, sự gần gũi về văn hóa Á Đông trên nền tảng

Nho giáo, đặc biệt sự có mặt thường xuyên của một số ngôi sao Hàn Quốc trong các

47

sự kiện giải trí ở nước ta những năm gần đây càng khiến cho xu hướng Hàn hóa

diễn ra mạnh mẽ song song, có lúc còn lấn át làn sóng Âu Mỹ. Việc đặt mối quan hệ

chính thức giữa hai nước Việt - Hàn năm 1992 là một động thái chính trị có tính

bước ngoặt đối với sự ảnh hưởng của Hallyu ở Việt Nam như hiện nay.

Có thể nói, toàn cầu hoá và các làn sóng văn hoá nước ngoài đã không chỉ

mang các thần tượng đến với giới trẻ Việt Nam mà còn giới thiệu những cách thức,

thực hành hâm mộ ở giới trẻ. Đây chính là “điều kiện” cơ bản để văn hóa giới trẻ

nói chung và hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam nói riêng diễn ra như hiện nay.

2.2.3. Sự phát triển của truyền thông đại chúng

Không chỉ kéo theo sự du nhập văn hoá đại chúng, toàn cầu hoá còn mở

đường cho các phương tiện truyền thông mới, công nghiệp văn hoá, công nghiệp

giải trí trở nên phổ biến rộng rãi ở Việt Nam. Trước khi có internet, văn hóa đại

chúng ở Việt Nam trở nên dần phổ biến thông qua hệ thống truyền hình và báo in.

Trên thế giới, sự phổ biến của báo in đầu thế kỉ XIX là điều kiện để văn hóa người

nổi tiếng, văn hóa fan hâm mộ ra đời và phát triển với việc đăng tin giới thiệu về

những buổi biểu diễn. Thuật ngữ “fan” xuất hiện lần đầu tiên ở nước Anh cuối thế

kỷ XVII, trong đó nó là tên viết tắt phổ biến của ‘fanatic’ (chỉ một người cuồng tín).

Thuật ngữ này trở nên quan trọng ở Mỹ một thế kỷ sau đó, nơi nó được các nhà báo

sử dụng để mô tả niềm đam mê của khán giả bóng chày. Sau này nó được dùng để

mô tả khán giả dành riêng cho phim và ghi âm nhạc (Duffett) [95, tr. 28]. Có thể

nói, sẽ không có người nổi tiếng nếu không có người hâm mộ, và sẽ không có người

hâm mộ nếu không có phương tiện truyền thông, dù là in ấn hay điện tử [95, tr. 30].

Đặc biệt ở những quốc gia có nền công nghiệp phim ảnh hay âm nhạc phát triển như

Anh, Mỹ… có hẳn một hệ thống báo chí chuyên khai thác những thông tin cá nhân,

đời tư của người nổi tiếng và những tờ báo này lúc nào cũng đắt khách (ví dụ: Elle,

Cosmopolitian, Bazaar, Look, Vogue, Glamour, People, Time…). Ở Việt Nam từ

những năm 1990 trở lại đây, người nổi tiếng và sự quan tâm đến những người nổi

tiếng ngày càng là một nội dung nổi bật, thu hút độc giả của nhiều tờ báo: Báo Đất

mũi, Báo Hoa Học trò, Tạp chí Sân khấu điện ảnh, Thế giới điện ảnh… Thông qua

các tờ báo có nhiều nội dung dành riêng cho lứa tuổi “teen” (học sinh, sinh viên)

48

này, giới trẻ Việt Nam không chỉ được biết đến các thói quen, thị hiếu, trào lưu của

giới trẻ ở khắp nơi trên thế giới, mà còn được biết đến những ngôi sao, người nổi

tiếng, thần tượng, các nhóm nhạc, các ca sĩ, diễn viên, cầu thủ trong nước cũng như

nước ngoài. Hiện nay vẫn có tới hàng chục các tờ báo, tạp chí như vậy (các báo về

điện ảnh, thời trang, mỹ phẩm, thị trường) tồn tại song song với sự đa dạng, tiện lợi

và lớn mạnh của báo điện tử. Chính báo chí in và báo mạng (hay còn gọi là báo điện

tử)6 sau này là những nhân tố kích thích nhu cầu tìm hiểu thông tin về đời tư người

nổi tiếng tới khán giả.

Từ năm 1970 đến 1987, ở Việt Nam mới chỉ có đài phát thanh rồi đài truyền

hình phát trên vô tuyến đen trắng, số lượng vô tuyến cũng hiếm hoi, nội dung phát

sóng nghèo nàn, thời lượng ngắn (VTV2 phát sóng lần đầu năm 1990, VTV1 năm

1991, VTV3 năm 1995). Chỉ đến các chương trình giải trí như Trò chơi liên tỉnh, SV

96, MTV most wanted…, giới trẻ mới thực sự bị thu hút bởi những chương trình

dành riêng cho lứa tuổi của mình trên truyền hình. Bên cạnh đó, các bộ phim truyền

hình nước ngoài được phát sóng ở Việt Nam trên những kênh chính thống đã mang

những gương mặt nghệ sĩ, ngôi sao đại chúng tới gần hơn với khán giả trong nước.

Khán giả luôn “khát” thông tin về những cầu thủ, diễn viên, ca sĩ nổi tiếng này do

kênh truyền thông chính để họ biết tới những người nổi tiếng lúc bấy giờ chủ yếu là

ti vi7. Đương nhiên khán giả lúc đó cũng chưa quan tâm đến đời tư, những thông tin

ngoài lề về những người nổi tiếng.

Những năm 1990, khi phim truyền hình được phát sóng, nó đã “xâm chiếm”

trái tim và thậm chí làm thay đổi cách nghĩ, nề nếp sinh hoạt của người dân khi các

6 Thống kê của cơ quan chức năng cho thấy trong khoảng 5 năm trở lại đây, sự phát triển của dòng báo chí điện tử (gồm báo và tạp chí điện tử) có xu hướng tăng tốc. Vào cuối năm 2013, cả nước có 92 cơ quan báo chí điện tử thì đến giữa năm 2018 đã lên tới 159 cơ quan báo và tạp chí điện tử. Nguyên nhân của việc phát triển nhanh chóng dòng báo chí điện tử được cho là vì cước phí các gói dữ liệu Internet của Việt Nam thuộc hàng rẻ nhất thế giới, tốc độ 4G đứng thứ 2 khu vực Đông Nam Á cùng với việc wifi miễn phí có ở khắp nơi. Các thống kê gần đây cho thấy với dân số khoảng 96 triệu người, Việt Nam có hơn 64 triệu người dùng Internet (chiếm 67% dân số), trong đó có hơn 55 triệu người có tài khoản mạng xã hội (chiếm 85% người dùng Internet và 57% tổng dân số). nguồn: https://thoibaonganhang.vn/bao-dien-tu- va-cuoc-dua-vi-ban-doc-89143.html (Truy cập: 21/6/2019). 7 Ở Việt Nam, trước khi chương trình truyền hình đầu tiên được phát sóng năm 1970, hệ thống truyền tin trong nước chủ yếu qua đài phát thanh và các rạp chiếu bóng lưu động, phục vụ cho công cuộc kháng chiến chống Mỹ.

bộ phim đầu tiên được chiếu ở Việt Nam như: Người giàu cũng khóc, Đơn giản tôi

49

là Maria, Tây Du kí, O sin…; chưa kể sau này là một loạt các bộ phim truyền hình

Hàn Quốc đánh dấu cho sự bành trướng ngày càng mạnh của làn sóng Hallyu ở Việt

Nam như: Mối tình đầu, Người mẫu, Cảm xúc, Trái tim mùa thu, Bản tình ca mùa

đông… Có thể nói, việc xuất hiện những tờ báo in dành riêng cho giới trẻ và một

loạt các bộ phim truyền hình (đặc biệt phim Hàn Quốc) đã góp phần lớn trong việc

chuyển sự quan tâm, thích thú của giới trẻ Việt Nam từ các nhà cách mạng, các lãnh

tụ chính trị, nhà khoa học sang những ngôi sao giải trí với ngoại hình sáng sủa, nổi

bật. Các bộ phim truyền hình nước ngoài được phát sóng ở Việt Nam trên những

kênh chính thống đã mang những gương mặt nghệ sĩ, ngôi sao đại chúng tới gần

hơn với khán giả trong nước. Ban đầu là các phim từ các nước Đông Âu, Mỹ, Úc,

Canada, Mexico, sau đó có thêm các dòng phim điện ảnh, phim chưởng, phim bộ

của Hồng Kông, Đài Loan, Hong Kong, Nhật Bản và đặc biệt từ cuối những năm

1990 thì không thể không kể đến các bộ phim truyền hình Hàn với một loạt diễn

viên có ngoại hình đẹp nổi bật, trở thành thần tượng của đông đảo khán giả.

Nhờ các tờ báo in, ti vi hoặc đài cassette, giới trẻ Việt Nam được tiếp xúc với

âm nhạc, phim ảnh của nước ngoài. Sự tiếp xúc với văn hóa nước ngoài cùng với sự

phát triển về kinh tế trong nước đã làm xuất hiện nhóm giới trẻ trung lưu thành thị -

những người sống ở những trung tâm tiêu dùng, giải trí, trong khi đó, các sản phẩm

trong nước lúc đó còn nghèo nàn nên nhu cầu của họ về văn hóa đại chúng nước

ngoài ngày càng cao.

Sau thời của báo in và truyền hình, sự phát triển của các phương tiện truyền

thông mới với sự bùng nổ của internet, mạng xã hội được coi là một trong những

điều kiện khả thể cho sự xuất hiện diễn ngôn về người nổi tiếng, về thần tượng.

“Mạng internet chính là một trong những điều kiện hậu hiện đại của diễn ngôn về

người nổi tiếng, bởi “khả năng dung chứa thông tin vô hạn, sự phi tuyến tính, phi

định kì, nặc danh hóa và cá nhân hóa gần như tuyệt đối trong hành vi đọc” (Nguyễn

Thu Giang) [16, tr. 154]. Năm 1996-1997, internet xuất hiện ở Việt Nam nhưng lúc

đó, cả nước mới chỉ có hơn 3000 người sử dụng8 (trên tổng số gần 76 triệu người,

8 https://internetvietnam.net/bang-thong-ke-nguoi-dung-internet-viet-nam.html

chiếm gần 0,004% dân số cả nước). Đến 2018, đã có hơn 55 triệu người sử dụng

50

internet9 (trên tổng số 95,6 triệu người, chiếm 57,5% dân số cả nước). Có thể thấy

tốc độ phổ biến, lan rộng của internet tăng nhanh chóng mặt trong hơn 20 năm qua.

Internet là công cụ thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa diễn ra nhanh và mạnh hơn, đặc

biệt nhờ internet mà các dòng chảy hàng hóa, văn hóa toàn cầu có thể tỏa đi mọi

ngóc ngách trên thế giới. Internet cũng như một công cụ để giới trẻ tiếp cận và biết

đến các thần tượng nhiều hơn, đồng thời là môi trường để những thực hành hâm mộ

thần tượng diễn ra và trở nên phổ biến, trở thành một hiện tượng trong đời sống văn

hoá giới trẻ Việt Nam như hiện nay.

Theo dòng chảy của toàn cầu hóa, công nghiệp văn hóa của các nước Âu Mỹ

có điều kiện để lan tỏa sức ảnh hưởng của nó tới các quốc gia khác, góp phần hình

thành nền công nghiệp văn hóa, trong đó có công nghiệp giải trí ở các nước này. Từ

máy ghi âm, đến máy quay đĩa nhựa, rồi đến băng từ, đĩa Compact Disc (CD),

VCD, sau này là MP3 cùng sự phát triển của internet đang dần thay đổi bộ mặt của

ngành công nghiệp âm nhạc, hướng tới một nền công nghiệp âm nhạc điện tử E-

music. Nhờ những bước phát triển vượt trội về mặt công nghệ, các sản phẩm âm

nhạc được phát hành rộng rãi. Những ngôi sao âm nhạc, ca sĩ trở nên nổi tiếng với

lượng phát hành đĩa, album khổng lồ, theo đó, lượng người hâm mộ của họ cũng

ngày càng gia tăng không chỉ giới hạn ở phạm vi của một quốc gia mà vươn ra cả

thế giới. Đây là những điều kiện dẫn đến sự bùng nổ của hiện tượng hâm mộ thần

tượng ở giới trẻ Việt Nam đương đại.

Có thể nói, bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội từ sau Đổi mới với

những biến chuyển sâu sắc đã có tác động không nhỏ tới đời sống giới trẻ Việt

Nam. Mức sống và chất lượng cuộc sống của toàn dân được cải thiện, đời sống của

các tầng lớp nhân dân phong phú và có nhiều biến đổi nhanh chóng so với trước đây

theo xu hướng gia tăng các hình thức giải trí và tiêu dùng do điều kiện kinh tế phát

triển, thị trường tự do và ngày càng cởi mở. Làn sóng văn hóa Âu Mỹ, Hàn Quốc và

sự nổi lên của các phương tiện truyền thông đã làm thay đổi toàn bộ đời sống tinh

9 https://internetvietnam.net/bang-thong-ke-nguoi-dung-internet-viet-nam.html

thần, văn hóa của giới trẻ. Đây chính là những điều kiện khả thể khiến để các ngôi

51

sao giải trí xuất hiện ngày càng nhiều và trở nên quen thuộc trong đời sống giới trẻ

Việt Nam hiện nay.

2.3. Sự thịnh hành của các ngôi sao giải trí ở giới trẻ Việt Nam

2.3.1. Những ngôi sao giải trí nước ngoài

Những ngôi sao giải trí đã trở nên thịnh hành trên báo chí ở Việt Nam trong

khoảng 30 năm trở lại đây. Sau thời kì mới du nhập với những tên tuổi mở đầu như

ABBA, Modern Talking, Boney M,..., những năm 1990 là thời kì nhạc Âu Mỹ cực

thịnh ở Việt Nam. Cuối những năm 1990, âm nhạc toàn cầu, hiện đại (US / UK-pop

được gọi là nhạc pop phương Tây do Mỹ dẫn đầu) với những cái tên nổi tiếng như

Michael Jackson, Madona, Britney, Christina Aguilera, Justin Timberlake, Ricky

Martin, Boyzone, The Backstreet Boys,... được giới trẻ Việt Nam tích cực đón nhận

thông qua các kênh phát thanh, kênh Truyền hình quốc gia (chương trình MTV

most wanted nổi tiếng một thời với 2 MC Diễm Quỳnh và Anh Tuấn) và thông qua

đĩa CD và DVD giá rẻ. Giai đoạn cuối 1990 đầu những năm 2000, các ngôi sao

châu Á dần được giới thiệu trên báo ngày càng nhiều hơn, cũng là lúc phim Hàn,

Trung Quốc, Đài Loan được chiếu liên tục trên ti vi. Ti vi chiếu phim gì thì trên

Hoa học trò sẽ có những bài viết, giới thiệu thông tin về diễn viên phim ấy. Chính

các tờ báo in dành riêng cho lứa tuổi thanh thiếu niên (teenagers) như: Báo Hoa

Học trò, Mực tím, Sinh viên Việt Nam… đã “huấn luyện” cho độc giả, khán giả trẻ

dần hình thành thói quen và sở thích đọc, xem những nội dung giải trí, những

chương trình giải trí. Ban đầu trên Hoa Học trò chỉ có các mục như Cùng tuổi chúng

mình, Gương mặt Hoa học trò, Thử tài của bạn, Những người bạn muốn biết

chuyên giới thiệu thông tin về các diễn viên, ca sĩ, nhóm nhạc nước ngoài. Cũng

nhờ các thông tin trên báo này, giới trẻ 7x, 8x lúc đó mới có thể cùng nhau chia sẻ

những hiểu biết chung về các ngôi sao trong và ngoài nước. Sức hấp dẫn của những

người nổi tiếng nước ngoài và các biểu tượng nhạc pop đối với giới trẻ Việt Nam đã

gia tăng mạnh mẽ.

Trong suốt hai thập niên 2000 và 2010, các dòng nhạc C-Pop, K-Pop và J-

Pop đã bắt đầu lan tỏa sang các nước phương Tây và khu vực châu Á. Thời điểm

đầu những năm 2000, khi trào lưu nhạc trẻ ở trong nước có xu hướng lắng xuống so

52

với thời của Làn sóng xanh, lúc này làn sóng Hallyu (tiêu biểu là phim Hàn và nhạc

Hàn) với chiến lược bành trướng bài bản của nó đã bắt đầu lan tới và có ảnh hưởng

ngày càng mạnh mẽ đặc biệt đối với ngành công nghiệp giải trí ở các nước châu Á

trong đó có Việt Nam. Những người hâm mộ diễn viên, ca sĩ Hàn Quốc chiếm một

tỉ lệ không nhỏ trong giới trẻ. Trong khảo sát của Đặng Thiếu Ngân (2017) về ảnh

hưởng của Hallyu đến giới trẻ Việt Nam, có 51% giới trẻ được hỏi trả lời hâm mộ

các thần tượng Hàn Quốc (chủ yếu là các diễn viên, ca sĩ, nhóm nhạc thần tượng nổi

tiếng) và 39,9% trả lời không hâm mộ [41, tr. 84]. Thông qua các bộ phim lãng

mạn, với số tập ngắn dần dễ theo dõi, các diễn viên thuộc làn sóng Hallyu10 thế hệ

đầu (Bae Yoong Joon, Won Bin, Song Seung Hun, Song Hye Kyo, Son Ye Jin...)

đến các diễn viên trẻ hiện nay (Lee Min Ho, Kim Soo Huyn...) được nhiều bạn

trẻ Việt Nam ưa thích. Tuy nhiên, để nói về những ảnh hưởng của làn sóng

Hayllyu ở Việt Nam, không thể không kể đến mức độ phủ sóng và được yêu

thích của các nhóm nhạc thần tượng. Từ những nhóm nhạc thần tượng gen 1 (hay

còn gọi là thế hệ đầu) (H.O.T, Shinhwa, Sechskies), gen 2 (Big Bang, SNSD, T-

ara, 2EN1, Shinee, DBSK...) đến các nhóm thuộc gen 3 mới đây (như EXO,

BTS, Blackpink, Mamamoo, iKON, Winner...) đều thu hút lượng fan đông đảo

người Việt. Lí do khiến nhiều ngôi sao Hàn Quốc trở thành thần tượng của giới

trẻ Việt Nam là bởi những ngôi sao này đã vượt ra khỏi sáng tạo nghệ thuật,

khán giả tiếp nhận họ ở cả hai chiều cạnh: con người thực (real) và con người

hình dung (imagined) và quan trọng là bởi họ không những xinh đẹp, dễ thương

(hoặc nam tính), hát hay, vũ đạo, diễn xuất tốt, đa tài, mà còn bởi những phẩm

chất con người xã hội của họ như: có ý chí, nghị lực, hoàn thành nghĩa vụ quân

sự và nhiệm vụ học tập, đời tư sạch, nhân cách tốt, có tinh thần dân tộc, tính

cách vui vẻ, thân thiện... (Đặng Thiếu Ngân) [41, tr. 84].

10 Làn sóng Hallyu hay còn gọi là Làn sóng Hàn Quốc là tên gọi cho sự phát triển mạnh mẽ của nền văn hóa đại chúng Hàn Quốc (bao gồm phim ảnh, âm nhạc…) trên khắp thế giới trong thế kỷ 21. Làn sóng Hàn bắt đầu với việc xuất khẩu các sản phẩm phim truyền hình như Trái tim mùa thu, Bản tình ca mùa đông và Nàng Dae Jang Geum khắp Đông và Đông Nam Á. Sự thành công nhanh chóng của phim truyền hình Hàn Quốc kéo theo sự nổi tiếng của phim nhựa, âm nhạc đại chúng Hàn Quốc (gọi tắt K-pop), ẩm thực Triều Tiên và tiếng Hàn Quốc. Từ "Hàn lưu" giờ cũng ám chỉ nền kinh tế đang lên của Hàn Quốc và sự nổi lên của các tập đoàn đa quốc gia đến từ đất nước này như Samsung, LG, Lotte và Hyundai.

53

K-Pop phổ biến nhất ở những giới trẻ Việt Nam từ 15-27 tuổi, gần đây, đối

tượng này ngày càng trở nên trẻ hóa khi những học sinh cấp 1, cấp 2 đã không ngần

ngại tự “định danh” mình là fan của một/một số thần tượng nhạc K-Pop. Những

cộng đồng người hâm mộ trẻ này đã tự thiết lập những nhóm, những diễn đàn để

trao đổi thông tin và thể hiện tình cảm, sự yêu thích đối với các thần tượng Hàn

Quốc, tạo nên một cộng đồng rộng lớn được gọi chung là fan K-Pop - những người

thậm chí còn bị gắn mác “fan cuồng” bởi những biểu hiện cuồng nhiệt của họ đối

với các thần tượng. Chỉ riêng năm 2012 đã có tới 6 sự kiện âm nhạc được tổ chức

nhân kỉ niệm 20 năm thiết lập quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc, với sự tham gia của

nhiều ngôi sao Hàn Quốc được mời sang Việt Nam biểu diễn. Điều này đã tạo nên

cơn sốt trong cộng đồng fan của họ, gây nên hiệu ứng “cuồng thần tượng” với hình

ảnh đám đông fan vây kín sân bay đón thần tượng, gào khóc khi nhìn thấy thần

tượng, thậm chí ngất xỉu do chen lấn trong các show diễn của thần tượng... K-Pop

Việt Nam từ một nền văn hóa nhóm ít được chú ý trở thành một hiện tượng bùng nổ

của truyền thông trong nước gọi là “văn hóa thần tượng” với nhiều hoạt động đa

dạng: âm nhạc, nhảy flashmob, thi nhảy cover, tìm kiếm giọng hát và ngôi sao để

đào tạo theo chuẩn K-Pop... Điều đáng chú ý hơn nữa là nhạc Pop Việt Nam nổi lên

như một sự bắt chước của mô hình K-Pop, thậm chí có nhiều ý kiến cho rằng đó là

sự sao chép phong cách và âm nhạc của các ngôi sao thần tượng K-Pop, đặc biệt

trong giai đoạn 2014-2015 (Duong Nguyen Hoai Phuong) [157]. Theo khảo sát của

Trần Thị Hường và Cao Thị Hải Bắc, ở Việt Nam, hiện tượng fan cuồng cũng đã

xuất hiện nhưng không đáng quan ngại như tại Nhật Bản hay Trung Quốc, với chỉ

10,6% số người trả lời rằng rất muốn thay đổi theo diễn viên Hàn Quốc và 37,3% số

người trả lời muốn bắt chước theo thần tượng11.

Như vậy, các ngôi sao giải trí nước ngoài đã thu hút sự chú ý và từng bước

11 Trần Thị Hường, Cao Thị Hải Bắc (2015), “Hàn lưu trong đời sống văn hóa người Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 4, tr. 66-74.

trở thành thần tượng của không ít giới trẻ Việt Nam trong 20 năm trở lại đây.

54

2.3.2. Các ngôi sao giải trí trong nước

Ngoài sự thịnh hành của các ngôi sao quốc tế, các ngôi sao giải trí trong

nước cũng thu hút một lượng lớn công chúng trẻ tuổi. Từ những ảnh hưởng của

nhạc Pop phương Tây, nhạc trẻ ở Việt Nam bắt đầu phát triển với các chương trình

như Làn sóng xanh, nơi các nghệ sĩ Việt Nam có thể thể hiện sự sáng tạo của mình

trong việc phát triển các chủ đề mới, từ chủ đề dân tộc và yêu nước cũ (dựa trên các

bài hát chiến tranh và tuyên truyền), đến một nền văn hóa Pop vật chất mới

(Thomas) [172]. Nhắc đến giai đoạn cuối những năm 1990, đầu 2000, rất nhiều bạn

thuộc thế hệ 8x chỉ nhớ được những mốc thời gian gắn liền với sự xuất hiện hay nổi

tiếng của các ca sĩ, diễn viên mà họ yêu thích. Chẳng hạn, năm 1997-1998, ca sĩ

Lam Trường, Đan Trường bắt đầu nổi tiếng, trước đó có Mỹ Linh, Hồng Nhung,

Thanh Lam, rồi Bằng Kiều, Phương Thanh, Hồng Ngọc… Tên tuổi những ca sĩ này

mở ra trào lưu nhạc trẻ, chương trình Làn sóng xanh đình đám một thời. Những kỉ

niệm của thế hệ 8x được họ nhớ lại đều gắn với các ca khúc mà một thời họ hay sưu

tầm, hát theo, những mốt quần áo, đầu tóc gắn liền với hình mẫu của các ca sĩ nổi

tiếng, chẳng hạn đầu bổ của Đan Trường, đầu “chôm chôm” của Lam Trường, tóc

tém Mỹ Linh, “tóc nâu môi trầm” Mỹ Tâm. Từ việc bê nguyên xi nhạc Hoa, đặt lời

Việt cho đến việc tự sáng tác của các nhạc sĩ trẻ đã tạo nên một nền nhạc trẻ Việt

Nam thời kì đầu, rồi dần dần là nền “công nghiệp giải trí”12.

Sau giai đoạn thoái trào, nhạc trẻ Việt Nam lại xuất hiện một loạt các ca sĩ

thu hút sự chú ý và yêu thích của giới trẻ gắn liền với dòng nhạc thị trường: Noo

Phước Thịnh, Đông Nhi, Tóc Tiên, Thủy Tiên, Bích Phương, Sơn Tùng M-TP và

một vài năm gần đây là Đức Phúc, Erik, Hòa Minzy, Hương Giang Idol... Đây là

những ca sĩ liên tục có những sản phẩm lọt top trending trên youtube trong nước,

cũng đồng thời là những ca sĩ có những câu lạc bộ người hâm mộ đông đảo nhất

hiện nay ở Việt Nam.

Sau các diễn viên của dòng phim “mì ăn liền” như Lý Hùng, Diễm Hương,

12 Cụm từ “Công nghiệp giải trí” được Báo Hoa Học trò sử dụng lần đầu trên số 234 phát hành ngày 4/6/1998 khi nói về các hoạt động của nhạc trẻ Việt Nam.

Việt Trinh vào những năm 1990, đến nay, thế hệ diễn viên trẻ cũng thu hút sự chú

55

ý, yêu mến của công chúng, đặc biệt các diễn viên hài vì độ phủ sóng trên các

chương trình truyền hình (chẳng hạn như Trấn Thành từ 2019 đến nay là nhân vật

có sức ảnh hưởng lớn nhất trên mạng xã hội). Ngoài ra, với sự hưng thịnh trở lại của

bóng đá nước nhà mấy năm gần đây, các cầu thủ đạt nhiều thành tích cho đội bóng

đá quốc gia cũng trở thành thần tượng được nhiều bạn trẻ yêu thích (chẳng hạn

Quang Hải, Duy Mạnh, Công Phượng, Xuân Trường, Đoàn Văn Hậu...).

Có thể nói, các ngôi sao giải trí trong và ngoài nước ngày càng trở thành thần

tượng của một bộ phận không nhỏ giới trẻ Việt Nam từ cuối những năm 1990 đến

nay. Ngoài ra, do các hình thức giải trí của giới trẻ càng ngày càng phong phú, các

ngôi sao giải trí mà họ yêu thích cũng ngày càng nhiều. Đồng thời với sự phát triển

của các phương tiện truyền thông và sự đa dạng của các chương trình truyền thông

đại chúng, có thể thấy các thần tượng của giới trẻ đương đại không chỉ có xu hướng

thiên về các ngôi sao giải trí mà còn chủ yếu là những ngôi sao trên truyền thông.

Không chỉ là ca sĩ, diễn viên, cầu thủ mà còn có thể là các youtuber, streamer,

vlogger... Vì vậy, cũng có thể nói những người hâm mộ thực chất là những nhóm

công chúng truyền thông và thần tượng của họ thực chất là những sản phẩm của

truyền thông.

2.4. Hâm mộ thần tượng qua sự phản ánh của báo chí

Trong 30 năm trở lại đây, hâm mộ thần tượng trở thành một hiện tượng đáng

chú ý trên báo chí. Theo khảo sát Báo Hoa Học trò, từ “fan” lần đầu tiên được dùng

trên tờ báo này số ra ngày 30/5 (1/1992) trong bài “yêu bóng yêu gió” mục trả lời

thư của một bạn “yêu” diễn viên Lý Hùng, còn từ “thần tượng” được nhắc đến lần

đầu tiên trên số 32 (năm 1993), khi mục Tâm tình tuổi mới lớn mở diễn đàn “Thần

tượng của bạn là ai?”. Diễn đàn này đã thu hút rất nhiều bạn trẻ, có tới 3429 bài

tham dự được gửi về báo Hoa Học trò, trong đó ½ số người coi thần tượng là người

thân, cha mẹ. Theo đó, cách hiểu của giới trẻ lúc đó về thần tượng là: “hình mẫu lí

tưởng bắt nguồn từ sự thích thú, yêu mến, kính trọng”. “Tuổi mới lớn ai cũng có

một thần tượng để chúng ta say mê, hướng tới những điều tốt đẹp nhất trong học tập

cũng như cuộc sống hàng ngày”; “Ai cũng có một ý thích hay ước mơ riêng của

mình mà người nào đó lại là hiện thân của sự mơ ước ấy, luôn luôn là những hình

ảnh đẹp của sự mơ ước ấy thì người đó sẽ trở thành thần tượng của lòng mình” hay

56

“thần tượng trước hết là người có được cuộc sống trên vinh quang nghề nghiệp,

được giới trẻ chú ý và tôn sùng” (Theo bài “Lớn lên cùng thần tượng”, HHT số 42

năm 1993). Theo đó, thần tượng của mỗi người có thể là một chính trị gia, một nhà

văn hóa, một nhà phát minh, một người nổi tiếng, một ngôi sao hay có thể chỉ là

một người bình thường nhưng làm được những điều mà người khác cho là phi

thường. Thần tượng của giới trẻ hiện nay ngày càng gần với cuộc sống thường ngày

của họ. Đặc biệt với sự phổ biến của các phương tiện truyền thông, người nghệ sĩ dễ

trở thành “thần tượng”, thành “người của công chúng” hơn cả vì sự xuất hiện dày

đặc của họ. Tần suất xuất hiện ngày càng dày đặc này của những người nổi tiếng

trên báo chí đã làm xuất hiện một nhóm công chúng truyền thông mới - những

người hâm mộ của những ngôi sao, người nổi tiếng. Những câu lạc bộ người hâm

mộ đầu tiên ở Việt Nam được Báo Hoa Học trò nhắc đến nhiều lần là fanclub của

ca sĩ Lam Trường và Đan Trường - hai ca sĩ gây ra nhiều tranh luận giữa hai cộng

đồng fan lúc bấy giờ. Lúc đó, do chưa có internet, fanclub của Đan Trường đăng tin

kết nạp thành viên mới trên Báo Hoa Học trò, ghi rõ địa chỉ và số điện thoại của

bạn trưởng câu lạc bộ, để thông qua đó, những người hâm mộ khác trên cả nước

biết rằng có một fanclub như thế tồn tại, họ có thể trao đổi thông tin và chia sẻ cảm

xúc về Đan Trường qua thư từ. Đây có lẽ là hình thức tổ chức fanclub sớm nhất ở

cộng đồng những người hâm mộ trẻ Việt Nam.

Sau thời báo in, sự xuất hiện hàng loạt các trang báo điện tử đã khiến các

thông tin về người nổi tiếng và những người hâm mộ lại càng nở rộ. Báo chí không

chỉ là chủ thể gợi ra sự quan tâm của giới trẻ về các thần tượng mà còn là nơi đăng

tải liên tục thông tin về những người nổi tiếng và sự hâm mộ những người nổi tiếng

đó, đặc biệt ở giới trẻ. Theo khảo sát của Đặng Thị Thu Hương (2016), trong khi

những bài viết về tấm gương các nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ hay các doanh

nhân xuất hiện không nhiều thì các bài viết về những người nổi tiếng chủ yếu trong

lĩnh vực giải trí lại ngập tràn trên báo chí, nhất là báo điện tử. “Trong 1 tuần từ

31/11/2015 đến 5/12/2015, trên Vnexpress.net, tờ báo điện tử tiếng Việt được nhiều

người đọc nhất, có 7 tin, bài, ảnh, video... về Hồ Ngọc Hà, trong đó, chỉ có 1 tin liên

quan đến hoạt động nghề nghiệp của cô với tư cách là một ca sĩ. Các tin còn lại tập

trung về thời trang, về việc cô mở dịch vụ làm đẹp (...) Tương tự như vậy, Ngọc

57

Trinh cũng xuất hiện với mật độ dày đặc, với 29 tin, bài trong tháng 10/2015 trên

Vnexpress.net” [31, tr. 171-172]. Tuy nhiên, báo chí cũng là nơi khiến những thực

hành này ở giới trẻ bị chỉ trích, quy chụp và chịu định kiến trong một thời gian dài.

Năm 2012, một loạt bài báo viết về hiện tượng “fan cuồng” sau khi đưa tin một số

fan trẻ tuổi hôn ghế thần tượng ngồi, chửi cha mẹ trên mạng chỉ vì không cho đi

xem thần tượng K-Pop về Việt Nam, ôm nhau khóc lóc dù là con trai, ngồi vạ vật

hàng giờ bất kể ngày đêm ở sân bay để chờ được nhìn thấy thần tượng, chen lấn đến

mức ngất xỉu13... Mặc dù những trường hợp như thế này không phải là phổ biến

nhưng nó lại được lan truyền nhanh chóng trên báo chí khiến cho hâm mộ thần

tượng ở giới trẻ trở nên méo mó, dị dạng trong con mắt của số đông xã hội.

Trước những hành vi hâm mộ thần tượng “quá đà”, các bài báo nêu lên sự lọ

ngại về việc đang có sự khủng hoảng về lối sống, văn hóa sống của một bộ phận

thanh niên. “Thần tượng là quyền cá nhân. Nhưng đến mức “cuồng”, với một số

lượng đông đảo và những hành vi mất kiểm soát, thì hết sức đáng lo ngại. Nhìn sâu

vào hiện tượng, không thể nói những phản ứng trên là bình thường, mà đã có những

biểu hiện lệch lạc, bệnh hoạn. Không bậc cha mẹ nào có thể yên tâm với một đứa

con “ăn thần tượng, ngủ thần tượng”, vì sẽ sa sút học hành, ý chí phấn đấu, mơ hồ

trong cuộc sống”14. Và hiện tượng “cuồng” thần tượng, dễ bị quy chụp như là một

biểu hiện của sự phai nhạt, thờ ơ về bản sắc văn hóa dân tộc, các giá trị văn hóa

truyền thống. Hàng hóa, văn hóa nước ngoài đã ồ ạt ngự trị, chiếm lĩnh trong đời

sống các fan “cuồng”. Nhiều bài báo cho rằng cần nhìn nhận hiện tượng “cuồng”

thần tượng là một nguy cơ, từ đó gióng lên một hồi chuông báo động để cảnh tỉnh,

khắc phục. Sau loạt bài báo đó, mác “fan cuồng” được gắn cho tất cả những fan K-

Pop nói riêng cũng như những người hâm mộ trẻ cuồng nhiệt khác nói chung. Ấn

tượng của những người hâm mộ trẻ trong mắt phụ huynh, thầy cô và xã hội là

những người trẻ người non dạ, thiếu hiểu biết; tốn tiền bạc, thời gian và công sức

chạy theo những thứ vô bổ, không có lí tưởng, đam mê đặt nhầm chỗ... Tuy nhiên,

cũng có một số ý kiến “lạc quan và bao dung hơn” cho rằng “Trẻ con ấy mà, hãy thử 13 https://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/hon-ghe-than-tuong-gioi-tre-qua-tron-65637.html Hôn ghế thần tượng, giới trẻ quá trớn? https://tuoitre.vn/khi-nguoi-tre-quy-xuong-va-hon-ghe-483703.htm 14 https://laodong.vn/dien-dan/khi-gioi-tre-ngat-xiu-va-hon-ghe-than-tuong-572822.ldo. Quang Đại, “Khi giới trẻ ngất xỉu và hôn ghế thần tượng”,

58

đặt mình vào vị trí chúng nó”, “Chúng nó lớn tự khắc sẽ tỉnh”, hay “Hãy để lớp trẻ có

thần tượng của mình, dù Hàn hay Việt, nếu họ tạo ra giá trị sống mới, nếu họ đại diện

cho những vẻ đẹp mới, hay thậm chí đơn giản là họ mang đến niềm vui cho hàng triệu

thanh niên đang thiếu vắng thần tượng và thiếu cả không gian giải phóng năng lượng”15.

Theo sự phản ánh của báo chí, việc cuồng thần tượng có nguyên do từ cả hai

phía: giới trẻ và bố mẹ. “Thường tình trạng này hay xuất hiện ở những trẻ thiếu tự tin,

dễ bị cuốn hút bởi những thứ hào nhoáng bên ngoài, cũng như người thiếu tự chủ thì dễ

tin quảng cáo. Tuy nhiên, phụ huynh mới là yếu tố chính khiến con trở nên mê muội

thần tượng. Bố mẹ quá nuông chiều nhưng lại ít dành thời gian tìm hiểu, quan tâm đến

con, đồng thời không đủ làm thần tượng của con, không khiến con cảm thấy tin tưởng

và có thể chia sẻ”16… Có ba lí do chính mà báo chí đưa ra: thứ nhất, sức đề kháng của

giới trẻ còn thấp, không đủ sức đối đầu hoặc thoát khỏi ảnh hưởng toàn diện của làn

sóng văn hóa nước ngoài; thứ hai, khi không có lý tưởng, khi không có điểm tựa chính

đáng về tinh thần, họ vẫn phải sống cuộc sống của người khác, khiến mình lệ thuộc vào

thần tượng ngày càng nhiều; thứ ba nữa, giới truyền thông cũng “góp một phần không

nhỏ” trong việc thổi phồng thần tượng, ca ngợi “lên mây” những ngôi sao trong và

ngoài nước, “nặn” những ngôi sao ảo17. Từ đó, các bài báo cũng đặt câu hỏi về trách

nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục tư tưởng, nhân cách, lối

sống cho thanh thiếu niên hiện nay.

Mặc dù cũng có nhiều ý kiến bênh vực, đồng cảm với hiện tượng hâm mộ

quá mức của những bạn trẻ nhưng các ý kiến chỉ trích vẫn có phần lấn át. Đôi khi

chỉ vì mục đích thương mại (giật tít, câu view) mà những thông tin và đánh giá về

hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam bị báo chí làm cho trở nên méo mó, phiến

diện, gây nên những định kiến, kì thị về những người hâm mộ.

Những năm gần đây, hâm mộ thần tượng vẫn tiếp tục diễn ra nhưng thay vì

là tâm diểm của sự chỉ trích và định kiến như thời điểm năm 2012, hiện tượng này

dường như đã trở nên quá quen thuộc với dư luận xã hội, với giới trẻ và với phụ

huynh của họ. Những người hâm mộ trẻ vẫn chạy theo các thần tượng một cách 15 https://tuoitre.vn/khi-nguoi-tre-quy-xuong-va-hon-ghe-483703.htm (Truy cập ngày 3/2/2018). 16http://vietbao.vn/The-gioi-tre/Chuyen-Fan-cuong-than-tuong-o-gioi-tre-Viet-Nam-hien- nay/2147578136/475/. (Truy cập ngày 3/2/2018). 17http://vietbao.vn/The-gioi-tre/Chuyen-Fan-cuong-than-tuong-o-gioi-tre-Viet-Nam-hien- nay/2147578136/475/. (Truy cập ngày 3/2/2018).

59

cuồng nhiệt: đợi chờ ở sân bay, tham dự các buổi trình diễn, chạy đua trên các diễn

đàn, mạng xã hội và tổ chức các hoạt động, sự kiện nhằm ủng hộ, quảng bá cho thần

tượng... Các thông tin về các ngôi sao, người nổi tiếng ngập tràn trên các phương

tiện truyền thông đại chúng và hiển nhiên đến nỗi chúng trở thành những thông tin

“thường thức” đối với cả xã hội, đặc biệt xã hội đô thị.

Tiểu kết chương 2

Hâm mộ thần tượng không phải là một hiện tượng hoàn toàn mới, tuy nhiên, nó

trở thành một hiện tượng nổi bật ở Việt Nam trong những năm gần đây. Bối cảnh Việt

Nam sau Đổi mới dưới ảnh hưởng của toàn cầu hoá, sự phát triển của các phương tiện

truyền thông và sự cởi mở của chính sách đã mở đường cho các dòng chảy văn hoá

nước ngoài du nhập, làm đa dạng đời sống văn hoá, giải trí của giới trẻ trong nước.

Chính bối cảnh này đã khiến văn hoá đại chúng phổ biến rộng rãi, ngành công nghiệp

giải trí hình thành và phát triển ở Việt Nam trong hơn 20 năm trở lại đây. Việc giới trẻ

dần trở nên quen thuộc và ngày càng có xu hướng tìm hiểu, theo dõi, yêu thích và say

mê đối với những người nổi tiếng, những ngôi sao, thần tượng là kết quả của việc các

thông tin giải trí như âm nhạc, điện ảnh, thể thao ngày càng đa dạng và tràn ngập trên

khắp các phương tiện truyền thông ở Việt Nam. Là thế hệ nhanh nhạy trong việc nắm

bắt những tiến bộ, những cái mới của công nghệ, của truyền thông cũng như tiếp cận

nhanh những làn sóng, trào lưu văn hóa mới, giới trẻ Việt Nam chính là chủ thể của

những thực hành hâm mộ thần tượng đa dạng hiện nay.

Những biểu hiện của hâm mộ thần tượng của giới trẻ trong thời gian vừa qua

đã thu hút sự quan tâm của báo chí cũng như dư luận xã hội. Tuy vậy, báo chí

thường khai thác các khía cạnh giật gân, gây sốc đối với độc giả, ở góc độ nào đó

góp phần tạo nên định kiến và sự kì thị xã hội đối với hiện tượng này. Hâm mộ thần

tượng cần phải được soi chiếu một cách đa chiều hơn những từ góc nhìn, góc tiếp

cận khác. Do vậy, ở chương 3, chúng tôi sẽ trình bày và phân tích rõ hơn những

thực hành hâm mộ thần tượng cụ thể ở giới trẻ Việt Nam từ góc nhìn chủ thể.

60

Chương 3

NHỮNG THỰC HÀNH HÂM MỘ THẦN TƯỢNG

Đó là một ngày mùa thu năm 2019, show diễn thuộc Skytour của Sơn Tùng

M-TP ở Hà Nội diễn ra tại Cung Thể thao điền kinh (Mỹ Đình) sau khi đã được tổ

chức ở Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh. Theo lời hẹn với My - một thông tín

viên cũng là fan ruột của Sơn Tùng, tôi có mặt ở địa điểm này lúc 7 rưỡi sáng, xếp

hàng cùng với các bạn trẻ. Trên tay mỗi người đều cầm tấm vé mà họ đã mua

hoặc “săn” từ cách đây từ gần một tháng. Đây là lần đầu tiên tôi được tham dự

một liveshow của một ca sĩ trẻ, nhưng mọi thứ diễn ra khá suôn sẻ khi thông tín

viên của tôi rất thành thạo vì cô ấy từng mua vé tham dự hai show diễn của

Skytour tại hai thành phố kia.

Trong các hàng dài những người hâm mộ xếp hàng chờ đến lượt, cả nam

cả nữ chủ yếu từ 15-25 tuổi, đa phần là học sinh, sinh viên với đủ các phong cách

ăn mặc khác nhau: có người mặc áo phông quần jean khoẻ khoắn, có người mặc

crop-top hở eo đầy phong cách, có nhiều bạn khoe ảnh check in với những đôi giày

Biti’s hunter mới tinh, có bạn mặc áo giống hệt chiếc áo Sơn Tùng mặc trong MV

mới nhất Hãy trao cho anh... Nhiều bạn trong fanclub mà tôi tham gia đã tụ tập

cùng nhau từ đêm hôm trước; có những bạn ở tỉnh xa, phải bắt xe đi tới Hà Nội từ

rất sớm để có thể tham dự sự kiện quan trọng này. Các hội nhóm người hâm mộ ở

khắp các nơi đã chuẩn bị kế hoạch cho sự kiện này từ rất sớm: tập hợp các thành

viên, chuẩn bị project (chương trình), in banner (khẩu hiệu cổ vũ), in poster khổ

lớn, chuẩn bị bảng đèn cổ vũ và mua thêm lightstick (gậy/đèn cổ vũ phát sáng)...

Tất cả đều trong tâm trạng vừa háo hức, vừa nghiêm túc bởi show diễn này như

một sự kiện lớn không chỉ đánh dấu mốc quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp

của Sơn Tùng M-TP - thần tượng của những bạn trẻ này mà còn là dấu mốc quan

trọng với chính cuộc đời họ - cuộc đời của những người hâm mộ.

Xếp hàng chờ đến gần 12h trưa cho chương trình giao lưu cùng thần tượng

(Meet & Great), tôi cùng fanclub vừa hồi hộp vừa phấn khích hát theo tiếng nhạc

của các ca khúc quen thuộc của Sơn Tùng xen giữa các quảng cáo của Go Viet và

Pepsi - hai nhãn hàng mà Sơn Tùng đang làm đại diện thương hiệu. Không thể diễn

tả được không khí của đám đông người hâm mộ khi Sơn Tùng xuất hiện trong

chương trình Meet & Great. Nhiều bạn trẻ chực khóc. Mọi người đều giơ tay xin

CỦA GIỚI TRẺ HIỆN NAY

61

đặt câu hỏi với thần tượng của mình bởi lẽ, với rất nhiều bạn trẻ, đây là lần đầu

tiên họ được gặp thần tượng bằng xương bằng thịt. Những bạn được chọn để đặt

câu hỏi sẽ được Sơn Tùng tặng một món quà. Có người được Tùng tặng cho bình

đựng nước, có bạn được tặng dây chuyền, có bạn được tặng thú bông - tất cả đều

là sản phẩm của Miniso - một nhãn hàng mà Sơn Tùng đã kí hợp đồng quảng cáo

trong nhiều năm nay.

Tới phần trình diễn chính thức lúc 8 giờ tối, sau cả một ngày dài chờ đợi,

những chiếc lightstick đồng loạt phát sáng dòng chữ M-TP, những bảng đèn cổ vũ

xanh đỏ nhiều màu được giơ cao, hàng ngàn cánh tay vẫy không ngừng và những

tiếng hò hét đầy phấn khích... tất cả tạo nên một không khí vô cùng náo nhiệt và

đáng nhớ đối với cả thần tượng và người hâm mộ.

(Nhật kí điền dã, 11/8/2019)

Đây là trích đoạn từ nhật kí điền dã của tôi sau một lần đi tham dự show

Skytour của Sơn Tùng M-TP như một thành viên của CLB người hâm mộ tại Hà

Nội. Qua quá trình quan sát và tham dự thực tế, tôi nhận thấy từ việc bị thu hút đến

yêu thích, ngưỡng mộ bởi một ngôi sao nổi tiếng, giới trẻ dành nhiều thời gian để

tìm hiểu các thông tin về thần tượng và có những thực hành, chiến lược cụ thể để

bộc lộ tình cảm và sự ủng hộ của họ đối với thần tượng. Hâm mộ thần tượng không

chỉ là một thực hành giải trí mà còn là một phương thức kết nối cũng như là một

thực hành mang màu sắc tiêu dùng của một bộ phận giới trẻ Việt Nam hiện nay. Ở

chương này, chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu các thực hành hâm mộ thần tượng cụ thể

của giới trẻ hiện nay, chủ yếu qua khảo sát những người hâm mộ Sơn Tùng M-TP,

bao gồm những cách thức thể hiện tình cảm ngưỡng mộ với thần tượng, những cách

thức mà những người hâm mộ kết nối với nhau tạo thành một cộng đồng rộng lớn

và cả những thực hành tiêu thụ thần tượng. Ngoài ra, chúng tôi cũng phân tích

những thực hành ở người hâm mộ của các thần tượng khác để có cái nhìn so sánh

cũng như bổ sung cho các lập luận của mình về hiện tượng này.

3.1. Like, view, share, vote, support: những thực hành hàng ngày

Like, view, share, vote, support (thích, theo dõi, chia sẻ, bình chọn, ủng hộ) là

những từ ngữ quen thuộc được sử dụng thường xuyên ở những người hâm mộ hiện

nay. Like, share còn là các nút bấm, các tính năng của facebook - mạng xã hội được

giới trẻ nói chung và những người hâm mộ trẻ nói riêng sử dụng rộng rãi để biểu thị

sự yêu thích, sự chia sẻ của họ đối với những người khác trong thực hành hâm mộ

62

thần tượng hàng ngày. Do vậy, chúng tôi dùng nguyên văn những từ tiếng Anh này

với mục đích khắc họa chân thực những thực hành quen thuộc của những người

hâm mộ.

Hâm mộ ai đó xuất phát từ những cảm tình, ấn tượng chủ quan của người hâm

mộ. Đó có thể là ấn tượng từ một bài hát, một giai điệu bắt tai, phù hợp tâm trạng,

cũng có thể là từ ngoại hình đẹp, hoặc ấn tượng từ một chương trình gameshow,

một bộ phim hay. Nhưng nếu dừng lại ở đó chưa đủ, cảm tình và ấn tượng ấy phải

lặp lại nhiều lần và được phát triển thì mới đủ sức để gọi là hâm mộ. Đa số những

bạn trẻ mà tôi phỏng vấn đều nói rằng họ bắt đầu yêu thích thần tượng của mình khi

bắt gặp họ trên truyền hình hoặc phương tiện truyền thông khác. Đây là lí do vì sao

các phương tiện truyền thông, các chương trình giải trí lại là điều kiện khả thể của

hiện tượng hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam hiện nay.

Để có thể hiểu rõ những điều này về thần tượng, những người hâm mộ đã tìm

kiếm những thông tin trên các chương trình truyền thông - nơi các ngôi sao có cơ

hội để “trải lòng” và bộc lộ bản thân với khán giả. Như vậy, chính những chương

trình truyền thông, những clip được các công ty giải trí và chính các ngôi sao chia

sẻ trên truyền thông đã khiến các fan hiểu hơn, yêu mến và gắn bó hơn với các thần

tượng, chứ không chỉ dừng lại ở những ấn tượng ban đầu.

Từ việc khảo sát trên báo chí, mạng xã hội và quan sát thực tế, không khó để

bao quát được những thực hành hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam hiện nay:

các fan nhiệt tình bình luận, kêu gọi ủng hộ, like, view, vote, share cho thần tượng,

“chế” ảnh, “chế” video, thậm chí sáng tác truyện (fan fic) về thần tượng ở trên

mạng xã hội, làm video fanmade; ngoài đời họ tìm mọi cách để đi xem/ gặp thần

tượng (xem ca sĩ biểu diễn, xem cầu thủ thi đấu, dự offline, fan metting của các ngôi sao...), tặng quà cho thần tượng, đến tận sân bay để gặp thần tượng18.

3.1.1. Theo dõi, cổ vũ, bênh vực thần tượng

Những người hâm mộ trẻ luôn là những người tích cực trong việc theo dõi, cập

nhật mọi thông tin về thần tượng, ủng hộ, động viên, bênh vực thần tượng. Khi chưa

có internet, các bạn trẻ thường theo dõi, ngóng đợi các số báo Hoa Học trò, Sân

khấu điện ảnh, Thế giới điện ảnh... phát hành bởi trên những tờ báo in đó luôn có

những bài viết, thông tin và ảnh về những người nổi tiếng mà họ hâm mộ. Từ khi có 18 Những thực hành hâm mộ thần tượng của giới trẻ hiện nay đa dạng hơn rất nhiều so với 10 năm trước đây, xuất hiện thêm một số thực hành mới như ra sân bay đón thần tượng, viết fan fic, làm các sản phẩm fanmade…

63

internet, việc theo dõi thông tin của các ngôi sao, thần tượng trở nên dễ dàng hơn,

nhưng cũng vì thế mà chiếm nhiều thời gian của giới trẻ hơn. Đa phần những thực

hành thể hiện sự ngưỡng mộ của họ đều thể hiện qua các kênh truyền thông khác nhau:

facebook, fanpage, instagram, twitter, các diễn đàn trực tuyến... Với người hâm mộ

trẻ, họ được lợi rất nhiều từ các nền tảng truyền thông, bởi những kênh phổ biến

như là facebook, google hay youtube hiện nay vẫn được sử dụng miễn phí và đây là

phương tiện chủ yếu để giới trẻ tiếp cận và tìm hiểu mọi thứ về thần tượng của mình

- nhanh chóng và rẻ - phù hợp với điều kiện kinh tế của họ.

Những buổi fansign (kí tặng) nhân dịp ra mắt cuốn tự truyện chật kín người

hâm mộ, những buổi biểu diễn cháy vé, lightstick phát sáng và những cánh tay giơ

cao, những tiếng hú hét hò reo, những hàng dài chờ đợi thần tượng ở sân bay,... là

những cảnh tượng và hoạt động đã trở nên quen thuộc ở những người hâm mộ hiện

nay mà chúng tôi có dịp quan sát. Những thực hành văn hóa hâm mộ thần tượng

kiểu như này xuất hiện ở khắp nơi, đặc biệt các đô thị, nơi thường xuyên diễn ra các

sự kiện văn hóa nổi bật.

Thực tế, đa số các bạn fan tôi thường gặp và nói chuyện phần lớn chưa từng

hoặc rất ít có cơ hội gặp mặt thần tượng của họ ngoài đời mà chủ yếu biết và hâm

mộ thần tượng qua facebook, qua báo chí và các trang mạng xã hội. Những thực

hành hâm mộ của họ đối với thần tượng cũng chủ yếu diễn ra trên những công cụ

truyền thông ấy mà facebook là nổi bật hơn cả.

Các fan Sơn Tùng biết đến nam ca sĩ này qua những ca khúc đầu tay của nam ca

sĩ 23 tuổi này từ khá sớm. Một số bạn biết đến Sơn Tùng từ 2012 khi ca khúc Cơn mưa

ngang qua rầm rộ trên các trang nhạc của cộng đồng underground. Còn lại đa số các

fan cho biết họ hâm mộ Sơn Tùng từ 2013 khi Tùng xuất hiện trong chương trình

Vietnam Idol với tư cách là khách mời và biểu diễn Em của ngày hôm qua. Họ thường

xuyên “săn lùng” ảnh mới, thông tin mới của Sơn Tùng từ mọi kênh có thể (facebook,

instagram, fanpage...). Chỉ một bức ảnh mới mà Sơn Tùng đăng lên facebook cá nhân

cũng có thể nhận được hàng triệu like của người hâm mộ. Các fan cũng thường đăng

ảnh và bài viết, ngắm ảnh, phân tích phong cách thời trang, “bóc giá” từng bộ đồ, chỉ ra

tên các nhãn hàng thời trang mà Sơn Tùng mặc, xem phim Sơn Tùng đóng, xem các

đoạn quảng cáo hay video phỏng vấn của thần tượng (xin xem Phụ lục 2.1), tự chế các

nội dung gây cười theo ảnh của thần tượng, kêu gọi, thúc giục Sơn Tùng “comeback”,

chủ động mở rộng mạng lưới bạn bè cùng sở thích, liên tục chia sẻ thông tin, trạng thái

64

trên mạng xã hội, bình luận và kết nối với các fan khác. Mọi thời gian rỗi của họ đều

dành cho niềm yêu thích đối với thần tượng.

Các fan “sân bay”

Nhiều fan còn có sở thích ra sân bay đón thần tượng, cộng đồng fan gọi họ là “fan

sân bay”. Tên gọi này không phải chỉ những đám đông 1 - 2 lần xếp hàng dài ở sân bay

chờ thần tượng trong các sự kiện được báo chí nhắc đến mà để chỉ các fan thường

xuyên theo sát lịch di chuyển của thần tượng. Bằng cách tận dụng các mối quan hệ, các

nguồn thông tin, họ luôn cập nhật nhanh nhất những thông tin và hành trình di chuyển

của thần tượng với cộng đồng fan của mình. Có một nhóm fan Sơn Tùng, dù họ sống ở

Hà Nội và Sài Gòn, nhưng họ thường xuyên liên lạc để chia sẻ với nhau những bức ảnh

chụp ở sân bay khi đón thần tượng của mình. Với họ, theo đuổi thần tượng đã trở thành

một niềm đam mê, một sở thích nghiêm túc.

My và Phương19 là hai trong số không ít những “fan sân bay” của Sơn Tùng

mà tôi quen. Có những hôm, họ phải đi từ 4 giờ sáng để chờ sẵn ở sân bay mong

được gặp thần tượng. Dù chỉ để chào và hỏi vài câu như “Tùng ơi, anh khỏe không?

Tùng có nhớ em không? Chúc Tùng diễn tốt nhé”, có khi là đưa vội món quà cho

thần tượng... nhưng chỉ cần một cái gật đầu, một cái chạm tay hay một câu đáp lại

cảm ơn của Sơn Tùng cũng đủ làm My, Phương và những “fan sân bay” cảm thấy

sung sướng, hạnh phúc và gần thần tượng hơn bao giờ hết. Những bức ảnh hay

video ngắn được quay vội trong khoảnh khắc gặp thần tượng ở sân bay cũng nhanh

chóng được các bạn đăng lên fanpage chung của nhóm để những fan khác “trầm

trồ” và cùng chia sẻ niềm vui khi cập nhật được những hình ảnh mới nhất của thần tượng.

Những hàng dài chờ thần tượng ở sân bay từng là chủ đề bàn luận của báo chí

trong suốt một thời gian dài nhằm phê phán giới trẻ bỏ học, vạ vật suốt ngày đêm để

chờ thần tượng. Có những bức ảnh các fan nam ôm nhau khóc lóc được lan truyền

rộng rãi như một minh họa xấu xí về người hâm mộ (đã nói ở 2.3), thực chất, một

bạn fan của T-ara cho biết, “bạn nam là một bạn trong FC của bọn em. Lần đó,

chúng em tổ chức đi đón T-ara ở Nội Bài. Chúng em thuê xe 45 chỗ, mặc áo đồng

phục vàng, tay buộc nơ và cầm bóng bay cũng màu vàng. Khi gặp được “các gái”

(cách gọi thân thương đối với nhóm T-ara), chúng em ai cũng phấn khích. Bức ảnh

19 Tên của những người được phỏng vấn trong luận án này đã được thay đổi theo nguyên tắc và đạo đức nghiên cứu.

hai bạn nam ôm nhau khóc kia chỉ là cảm xúc vỡ òa nhất thời khi các bạn lần đầu

65

gặp nhóm nhạc yêu thích ngoài đời. Khoảnh khắc ấy đã bị báo chí bóp méo đi kiểu

như là con trai mà sướt mướt, khiến cho bạn fan này xấu hổ trước gia đình, người

quen trong một thời gian dài, không dám tham gia FC nữa” (PV Thu, 23 tuổi, FC T-

ara Hà Nội, 4/2018). Các fan cho rằng được nhìn thấy thần tượng bằng da, bằng thịt

là một niềm hạnh phúc của bất cứ người hâm mộ nào, đặc biệt với những thần

tượng nước ngoài. Đây là lí do khiến không ít fan có thể chờ hàng giờ ở sân bay,

chịu cảnh chen chúc chỉ để nhìn thấy thần tượng.

Fan war: cuộc chiến giữa fan và anti-fan

Nếu như fan là những người yêu thích, ủng hộ cho thần tượng thì antifan là

những người đối lập hoàn toàn, họ thường xuyên thể hiện việc ghét, phản đối, chỉ

trích hoặc coi thường một ngôi sao, người nổi tiếng nào đó. Cũng có nhiều người là

fan lại trở thành anti-fan và ngược lại. Do hâm mộ thần tượng là sự yêu quý, thậm

chí ngưỡng mộ quá mức của người hâm mộ đối với một ngôi sao, người nổi tiếng,

cho nên khi hình ảnh thần tượng sụp đổ (vì các scandal trong sự nghiệp hay trong

lối sống) trong mắt họ thì việc họ trở nên ghét bỏ, trở thành anti-fan rất dễ xảy ra.

Việc yêu thích một ngôi sao hoàn thiện hoàn mỹ trong mắt của những người trẻ tuổi

kích thích bản năng bảo vệ, che chở, bênh vực một ai đó từ họ. Một ví dụ rõ nhất

cho điều này là những cuộc chiến của fan với báo chí hoặc với những antifan.

Suốt từ 2013 đến nay, cuộc chiến giữa fan và anti-fan của Sơn Tùng chưa bao

giờ kết thúc, khi dữ dội khi âm ỉ bắt đầu từ việc tranh cãi quanh nghi án đạo nhạc

của ca sĩ này. Khi Sơn Tùng giành chiến thắng trong chương trình Bài hát yêu thích

với ca khúc Em của ngày hôm qua và lập tức trở nên nổi tiếng trên khắp các mặt

báo, các anti-fan đã cho rằng ca sĩ này đã dùng beat (nền nhạc) của một ca khúc của

Hàn Quốc và gây sức ép trên mạng buộc nhạc sĩ Huy Tuấn là giám đốc công ty giải

trí Văn Production lúc đó rút bài hát của Sơn Tùng khỏi bảng xếp hạng của chương

trình. Ngay lập tức, cuộc chiến nổ ra, fan và anti-fan cãi nhau trong một thời gian

dài. Một fan nữ tên là Trang đã tự gửi bài hát của ca sĩ này đến một cơ quan có

thẩm quyền về âm nhạc của Hàn Quốc để nhờ thẩm định và nhờ thế, Sơn Tùng đã

được giải oan. Cộng đồng fan đã dùng bức thư phản hồi của bên Hàn Quốc làm

bằng chứng để đập tan những lời lên án vô căn cứ của anti-fan. Tuy nhiên, các cuộc

fan war vẫn cứ nổ ra sau mỗi lần Sơn Tùng ra mắt ca khúc mới. Ngoài âm nhạc, các

anti-fan còn cho rằng Sơn Tùng đạo lại phong cách biểu diễn, phong cách thời trang

của một thần tượng bên Hàn.

66

Ngoài ra, vì tâm lí luôn muốn thần tượng của mình là người xuất sắc và đáng

ngưỡng mộ nhất mà các fandom luôn xảy ra cãi vã với nhau, chê bai thần tượng của

nhau, chẳng hạn giữa fan của Sơn Tùng và fan của Noo Phước Thịnh, fan của Sơn

Tùng và fan của Jack, fan của Minh Hằng và fan của Hồ Ngọc Hà, fan của Messi và

fan của Ronaldo... Đặc biệt ở chỗ, một người là fan của thần tượng này thì thường

sẽ là anti-fan của ngôi sao cạnh tranh với thần tượng của họ. Do vậy, các hoạt động

thể hiện sự cuồng nhiệt của fan với thần tượng luôn song hành với các hoạt động

thể hiện sự ghét bỏ, công kích các ngôi sao khác và người hâm mộ của ngôi sao đó.

Mỗi cuộc fanwar là dịp để thể hiện sự hùng hậu cũng như sự nhiệt tình của fan.

Fan càng đông thì lại càng dễ dập được những bình luận tiêu cực của antifan. Đặc biệt

với những người hâm mộ trẻ tuổi hiện nay, họ không ngại tham gia vào những cuộc

tranh cãi, thậm chí doạ nạt, chửi bới, xúc phạm lẫn nhau trên mạng xã hội chỉ để bảo

vệ, bênh vực idol, mặc dù nhiều khi chính các thần tượng cũng không biết tới các cuộc

fanwar này vì nó chỉ xảy ra đơn thuần là giữa các nhóm fan và anti-fan.

Khi chưa có internet, các cuộc chiến giữa các nhóm hâm mộ đã từng xuất hiện

trên báo Hoa Học trò (ví dụ giữa fan của Đan Trường và Lam Trường), nhưng mức

độ và cách sử dụng ngôn từ được tiết chế hơn rất nhiều so với việc tự do trên mạng

xã hội như hiện nay. Với không gian mang tính ẩn danh, các fan và anti-fan sẵn

sàng là các “anh hùng bàn phím”, những cuộc tranh cãi nảy lửa và có thể kéo dài từ

ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác. Có thể nói, fan và antifan là

những nhóm công chúng đặc trưng gắn liền với sự phát triển của các phương tiện

truyền thông hiện đại.

3.1.2. Quảng bá cho thần tượng

Không chỉ là những khán giả, người hâm mộ trẻ còn là những người tích cực

trong việc quảng bá, tiếp thị cho thần tượng. Nhờ họ, các sản phẩm của thần tượng

được tiêu thụ rộng rãi hơn, danh tiếng của họ được biết đến nhiều hơn. Việc quảng

bá /tiếp thị cho thần tượng được thực hiện một cách hoàn toàn vô tư thông qua các

hoạt động cụ thể đầy tính sáng tạo của họ.

Mỗi khi ekip trong công ty của Sơn Tùng M-TP có động thái úp mở về một dự án

mới trên facebook, các fan đã lập tức like, share và comment (ấn nút yêu thích, chia sẻ

và bình luận) khiến thông tin này được mọi người chú ý. Tương tự, mỗi bức ảnh mà

Sơn Tùng đăng trên facebook hay instagram đều nhận được hàng triệu lượt like, share.

Chính người hâm mộ là những người thúc đẩy các thông tin truyền thông về Sơn Tùng

67

một cách ồ ạt nhất. Họ trở thành những “nhà quảng cáo” miễn phí cho thần tượng, giúp

tên tuổi và hình ảnh thần tượng được “tiêu thụ” ngày càng mạnh mẽ hơn.

Trong thời gian chờ Sơn Tùng tung ra sản phẩm âm nhạc mới, không để tên

tuổi của ca sĩ này bớt đi sức hút, các fan vẫn đều đặn đăng hình ảnh, bài viết về thần

tượng hằng ngày, thậm chí nhiều lần trong ngày: đăng ảnh, đăng tin Sơn Tùng làm

đại diện cho những nhãn hàng nào đó: Oppo, O2, Shopee, Mocha Viettel, Miniso,

Bitis Hunter... Những hoạt động này có thể vừa mang tính giải trí, mang đến niềm

vui cho các bạn, thoả mãn mong muốn làm được việc có ý nghĩa cho thần tượng,

đồng thời vừa mang tính chất tiếp thị cho thần tượng. Ở góc độ này có thể thấy, thần tượng sẽ chẳng còn là thần tượng nếu như không còn những “fan cuồng” như vậy20.

Bên cạnh báo chí truyền thông thì chính fan là những người luôn tích cực sáng

tạo ra những nội dung mới về thần tượng với mục đích giúp tên tuổi của thần tượng

luôn luôn “sáng”. Hàng loạt kế hoạch nhằm hâm nóng hình ảnh của thần tượng

được fan nghĩ ra, từ những hoạt động nho nhỏ cho tới những chiến dịch có quy mô

rộng lớn: thuê phát hình ảnh của thần tượng trên màn hình công cộng, tại các toà

nhà lớn, trên bảng quảng cáo trong thang máy tại các trung tâm thương mại. Thậm

chí, sẽ có hẳn một đội ngũ fan sẵn sàng “móc ngoặc” với những trang báo điện tử để

trở thành những paparazzi “tập sự”, chỉ với mục đích duy nhất là giúp thần tượng

được xuất hiện càng nhiều càng tốt.

Những người hâm mộ thần tượng âm nhạc thường xuyên kéo fan cho thần tượng,

góp phần biến anti-fan trở thành fan. Ngoài ra, họ cũng không ngừng tương tác, kết nối

với cộng đồng fan trên các diễn đàn trên mạng, các trang fanpage, fanclub (Off fan,

tổ chức các event kỉ niệm ngày debut (ra mắt, bắt đầu hoạt động) hoặc sinh nhật

thần tượng, tham gia xây dựng cộng đồng fan của họ ngày càng lớn mạnh). Một số FC

còn bỏ tiền, kêu gọi donate (ủng hộ) tiền làm các project (dự án) in poster khổ lớn hoặc

thuê bảng hiệu điện tử chạy quảng cáo hoặc phát các đoạn video ngắn kỉ niệm ngày

sinh của thần tượng, thu hút sự chú ý của dư luận để quảng bá cho sản phẩm/ dự án mới của thần tượng (fan BTS21, fan EXO, fan Lee Min Ho, fan Sơn Tùng...). Các cộng

đồng fan có rất nhiều cách thức khác nhau để đạt được mục đích quảng bá cho tên tuổi

của thần tượng (xin xem Phụ lục 2.2). 20 Cũng chính vì lí do này mà các nghệ sĩ/ người nổi tiếng hiện nay rất chú ý đến cách thu hút fan, cách chiều fan. Sơn Tùng sáng tác và quay hẳn 1 MV “Nơi này có anh” ở Hàn Quốc để tặng fan với hình ảnh cuối của MV là quả bóng khổng lồ in chữ Sky bay lên trời. Hay trong cuốn tự truyện Chạm tới giấc mơ mới đây, hình quả bóng in chữ Sky này cũng xuất hiện ngay trang bìa. 21 https://www.yan.vn/army-viet-choi-lon-mung-sinh-nhat-jungkook-voi-man-hinh-led-khung-209765.html.

68

Cộng đồng fan cũng thường nhắc đến cái gọi là “fan service” để chỉ những ý

tưởng, những hoạt động mang tính đóng góp, phản hồi tích cực từ người hâm mộ đến

các thần tượng của mình. Chính fan đã đề xuất về việc nên có phụ đề tiếng Anh trong

mỗi MV của Sơn Tùng nhằm tiếp cận với fan quốc tế dễ dàng hơn. Họ cũng nhiều lần

đã liên hệ và đề nghị với ekip trong công ty M-TP Entertainment của Sơn Tùng về việc

công ty cần đứng ra để tập hợp, quy tụ tất cả các hội nhóm fan trong và ngoài nước để

fan và thần tượng có sự liên hệ chặt chẽ hơn cũng như các FC có thể vận hành chuyên

nghiệp hơn. Họ cũng có những ý tưởng mới mẻ, độc đáo để đề xuất tới trang web

chính thức của công ty nhằm hỗ trợ, quảng bá tốt nhất cho thần tượng.

Như vậy, có thể thấy, từ yêu thích, ngưỡng mộ đến theo dõi, chia sẻ, cổ vũ,

bênh vực và quảng bá cho thần tượng là con đường mà những người hâm mộ trẻ đã

đi để thỏa mãn những cảm xúc cá nhân của mình đối với thần tượng. Trên con

đường ấy, họ đã trải qua đủ mọi cung bậc cảm xúc khác nhau và nói như một fan

của Sơn Tùng thì “tất cả làm nên một thời thanh xuân đáng nhớ” cho mỗi cá nhân

người hâm mộ.

3.2. Câu lạc bộ người hâm mộ (Fanclub)

Hằng sinh năm 1999, ở Thường Tín, hiện đang làm thu ngân ở một siêu thị. Hằng

thích Sơn Tùng M-TP từ lớp 12, tầm 2016-2017. Khi đó cả lớp không ai thích ca sĩ này mà

chủ yếu thích K-Pop, họ thường hay chê bai, chỉ trích Sơn Tùng vì nghi án đạo nhạc, Hằng

rất bực mình và ấm ức vì những lời chỉ trích vô căn cứ đó đồng thời cảm thấy thương xót,

đồng cảm với những gì mà thần tượng của mình đang phải trải qua mà không biết nói với

ai. Hằng ở ngoại thành, xa trung tâm và ít có điều kiện tham gia các hình thức giải trí như

các bạn trẻ trong nội thành. Gia đình Hằng làm nông nghiệp nên ngoài thời gian ở trường,

Hằng cũng tham gia vào cộng việc của gia đình từ bé. Nhìn ngoại hình Hằng có nhiều khác

biệt so với các bạn còn lại: da ngăm đen, không trang điểm, tóc dài đen không nhuộm,

buộc túm ra sau. Trước đây, Hằng chưa từng biết hâm mộ một thần tượng là phải như

thế nào. Ở nơi Hằng sống, các bạn của Hằng dù mê K-Pop cũng chỉ chủ yếu là nghe và xem

nhạc qua youtube, ti vi. Hằng, vì thế, chưa từng mua album hay đi xem các show diễn có

Sơn Tùng. Sau khi tốt nghiệp PTTH, Hằng đã đi kiếm việc làm luôn và đã thử qua nhiều

việc vì muốn tìm xem công việc nào phù hợp nhất với sở thích về môi trường, nông

nghiệp, thực phẩm hữu cơ của mình. Làm việc trong nội thành, khi có những đồng lương

đầu tiên, Hằng bắt đầu để dành một chút để mua lightstick, mua sách tự truyện của Sơn

Câu chuyện của Hằng:

69

Tùng và bắt đầu đi xem các show có thần tượng biểu diễn. Do được các Sky rủ vào FC Sơn

Tùng, mặc dù còn chút e dè nhưng Hằng đã tham gia đều đặn các buổi offline của nhóm

cũng như sát cánh cùng họ trong mỗi show diễn để cổ vũ Sơn Tùng. Do tiếp xúc nhiều với

các bạn cùng trang lứa, “chém gió” cùng nhau trên fanpage của FC, Hằng dần tự tin hơn,

cởi mở hơn. Vào FC, Hằng biết nhiều thông tin hơn về thần tượng, được chia sẻ ảnh và

video với các thành viên trong nhóm, được nhìn thấy Sơn Tùng bằng da bằng thịt qua

nhiều lần đi show. Hằng cho biết nếu không tham gia vào FC, Hằng không biết chia sẻ với

ai việc thích Sơn Tùng, đã không thể tự tin và nhiệt tình “quẩy sung” như thế trong những

lần xem show, và có lẽ cũng không thể có được những niềm vui và kỉ niệm đáng nhớ như

thế (PV 5/2019).

Minh 20 tuổi, quê Tuyên Quang, là người dân tộc Tày. Hồi mới lên học Đại học, Minh

rất tự ti và lạc lõng, bạn bè cấp 3 mỗi đứa một nơi, một năm em chỉ về nhà 4 lần, em cũng

không quen ai giữa thành phố chật chội này. Sau học kì I, Minh phát hiện ra một FC của nhóm

EXO, bao gồm rất nhiều bạn trẻ như em đến từ khắp các nơi học ở Hà Nội. Đây là FC đã lập

được 5 năm rồi nên có rất nhiều hoạt động thú vị. Minh và các bạn trong FC hay tụ tập nhau

để chia sẻ thông tin, hình ảnh về idol và buôn đủ thứ chuyện về K-Pop. Nhờ thế, Minh có

thêm nhiều bạn để chia sẻ sở thích cũng như những rắc rối trong việc học, việc làm thêm.

Giữa năm 2019, hai thành viên của nhóm EXO sang Việt Nam biểu diễn tại Mỹ Đình, Minh và

FC đã cùng nhau đặt vé, “vác” lightstick đến để thoả ước mơ gặp “các anh” một lần. Minh cho

rằng những chàng trai xa lạ kia chính là “mảnh ghép đẹp nhất trong tuổi thanh xuân” của

những cô gái tỉnh lẻ như Minh và các bạn (PV tháng 3 & 12/2019).

Câu chuyện của Minh:

Qua quan sát tham dự, tôi nhận thấy rằng, với những người hâm mộ trẻ như

Hằng, như Minh, fanclub có ý nghĩa nhiều hơn là một hội nhóm.

3.2.1. Mục đích và bối cảnh thành lập fanclub

Có rất nhiều FC, nhiều hội nhóm người hâm mộ đã được giới trẻ lập ra và hoạt

động rầm rộ cả trên mạng xã hội và ở ngoài đời, trở thành thực hành văn hóa không

thể thiếu trong đời sống giới trẻ. Trước khi có internet, người hâm mộ bị giới hạn

các cách để gặp gỡ nhau, họ chỉ có thể viết thư, gọi điện thoại và gặp nhau tại các

địa điểm thực. Điều này giới hạn số lượng người có thể gặp do đó, giới hạn tốc độ

lan truyền của fandom. Hiện nay, do sự phổ biến của các phương tiện truyền thông

mà sự tương tác, kết nối giữa những người hâm mộ trở nên dễ dàng hơn. Thay vì

viết thư tay để làm quen, trao đổi thông tin về thần tượng với những người hâm mộ

70

khác, giới trẻ hiện nay có thể dễ dàng tìm thấy hội nhóm người hâm mộ - những

người giống như mình trên các diễn đàn, mạng xã hội. Họ có thể liên lạc với nhau

mọi lúc mọi nơi. Tần suất tương tác giữa họ làm tăng đáng kể số lượng và sự đa

dạng của các hoạt động hâm mộ. Có thể nói fanclub (FC) là một loại cộng đồng mới

trong thời đại truyền thông đại chúng hiện nay. Cộng đồng này ngày càng lớn, thậm

chí xuyên quốc gia và có những ảnh hưởng nhất định đến báo chí cũng như đến

chính thần tượng của mình. Có hai mục đích chính để thành lập fanclub đó là để kết

nối với các fan khác và để kết nối với thần tượng.

Thành lập fanclub để kết nối những người hâm mộ

Những người hâm mộ trẻ luôn có xu hướng kết nối với nhau để tạo thành một

cộng đồng người hâm mộ. Từ đầu những năm 2000, giới trẻ Việt Nam đã lập ra

những fanclub (FC) để chia sẻ tình yêu và sự ủng hộ đối với thần tượng với các fan

giống mình. Báo Hoa Học trò số ngày 18/10/2001 có bài “Bạn muốn thành lập

fanclub không khó lắm đâu” do chính một trưởng FC của Đan Trường viết. Đây là

bài báo đầu tiên nói về việc làm thế nào để thành lập một FC ở Việt Nam. Bài báo

đã chỉ ra cách để giới trẻ có thể lập FC một cách dễ dàng: liên lạc với ca sĩ, phát

phiếu lấy thông tin và ý kiến xây dựng FC từ các thành viên, thông báo việc thành

lập và đi vào hoạt động của FC. Từ những năm đó đến nay, cùng với sự phát triển

của truyền thông, mạng xã hội (yahoo, facebook, instagram...), hình thức câu lạc bộ

người hâm mộ (FC) ngày càng thu hút sự tham gia của đông đảo bạn trẻ. Có rất

nhiều hội nhóm người hâm mộ đã được lập ra và hoạt động rầm rộ cả trên mạng xã

hội (online) cũng như ngoài đời (offline) để thể hiện tình yêu với thần tượng, kết

nối người hâm mộ và tiếp thị cho thần tượng.

Năm 2009, facebook bắt đầu được sử dụng ở Việt Nam và dần trở nên phổ

biến vào 3-4 năm sau đó. Đối với các cộng đồng fandom thì facebook được coi là

phương tiện hữu hiệu để họ tạo dựng, mở rộng và phát triển các câu lạc bộ người

hâm mộ. Các FC ban đầu thường do một hay một số người chung nhau ý tưởng

thiết lập một nơi để các bạn trẻ có thể chia sẻ những mối quan tâm chung của mình

về thần tượng của họ một cách dễ dàng, nhanh chóng. Hai FC của Sơn Tùng mà tôi

là thành viên đều được thành lập một cách tự phát. Trong đó một FC được lập ra

sau khi diễn đàn của những người hâm mộ Sơn Tùng trên VOZ bị quản trị viên của

trang này “tuýt còi” do tranh cãi căng thẳng với những anti-fan của ca sĩ này. Còn

FC kia ban đầu đều là những thành viên trong một FC khác ở Hà Nội, sau đó vì

71

không chung “chí hướng”, không thống nhất về “tôn chỉ mục đích” và cách thức

hoạt động nên các thành viên này đã tách riêng ra, lập nên một FC mới với tên gọi

và cách thức hoạt động mới. Mỗi FC có một tên gọi riêng, logo và hình đại diện

riêng không chỉ để phân biệt với các FC khác mà còn là một sự khẳng định bản sắc

nhóm riêng, chẳng hạn: Sky Thanh Nghệ Tĩnh “nghe vừa hùng hồn lịch sử vừa

không kém tính càn quét như Sky”, Trust team - những fan chân chính, fan thực sự

luôn ủng hộ Tùng, Sky confessions - nơi chia sẻ những tâm tư, bí mật.

Đặc biệt, khi nhắc đến cộng đồng người hâm mộ, không thể không nhắc đến

fandom K-Pop ở Việt Nam. Họ là nhóm người hâm mộ xuyên quốc gia. Nhờ sự tiện

lợi của các phương tiện truyền thông mà giới trẻ thân thuộc với những gì thuộc về

nền văn hóa khác. Sự lớn mạnh của cộng đồng fan K-Pop ở Việt Nam cho thấy sự

lan tỏa mạnh mẽ của nhạc Hàn Quốc và những ca sĩ thần tượng cũng như sự lan tỏa

của văn hóa hâm mộ thần tượng kiểu Hàn Quốc dựa trên sự tận dụng những tiến bộ

của công nghệ truyền thông (điện ảnh, internet). Fan T-ara, fan Big Bang, fan EXO,

fan SNSD, Super Junior, 2NE1... là những cộng đồng fan đông đảo, thậm chí số

lượng người hâm mộ các nhóm thần tượng này ở Việt Nam còn vượt xa số lượng người hâm mộ tại Hàn Quốc22. Điều thú vị là không giống như các thị trường khác

nơi mà K-Pop được phổ biến thông qua mạng lưới các nhà quảng bá và đại lí, sự

phổ biến của K-Pop ở Việt Nam bắt đầu hoàn toàn từ mong muốn của người tiêu

dùng trẻ và khả năng tiếp cận thông tin và các thần tượng thông qua phương tiện

truyền thông xã hội. Rất lâu trước khi K-Pop vào Việt Nam thông qua các kênh

chính thức, fan K-Pop ở Việt Nam đã tồn tại trong các cộng đồng nhỏ khi những

người hâm mộ tận tâm thành lập fanclub, tổ chức sự kiện có sự tham gia quy mô

nhỏ và tham gia các hoạt động trực tuyến như thảo luận về thần tượng, viết fanfic,

dịch tin tức và video (Duong Nguyen Hoai Phuong) [157].

Cùng với việc đưa K-Pop qua con đường chính thức sang Việt Nam (tiêu biểu

là Công ty Naver của Hàn Quốc ở Việt Nam), chính thành viên của các cộng đồng

fan K-Pop là những chủ thể làm lan tỏa văn hóa K-Pop cũng như văn hóa Hàn Quốc

ở Việt Nam. Không những thế, những yếu tố này ảnh hưởng ít nhiều đến Vpop cũng

như cách thức hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam hiện nay. Người hâm mộ đã

22 Số fan của Bigbang ở Việt Nam lớn gấp đôi ở Hàn và số fan của T-ara ở Việt Nam gấp 5 lần ở Hàn Quốc (KOTRA 2015, Dẫn theo Duong Nguyen Hoai Phuong 2016).

quá quen với cách thức vận hành của công nghiệp văn hóa Hàn Quốc, nhờ thế, khi

72

các ngôi sao K-Pop sang Việt Nam, họ đã được chào đón nồng nhiệt và bằng những

cách thức đậm màu sắc Hàn Quốc. Cũng chính vì điều này mà văn hóa thần tượng

đã đặc biệt gây chú ý vào năm 2012 như đã trình bày ở mục 2.3.1.

Thành lập fanclub để kết nối với thần tượng

Nhiều FC được lập ra một cách có chủ đích và tổ chức rõ ràng từ đầu và từ

chính phía công ty chủ quản của nghệ sĩ. Chẳng hạn các FC của ca sĩ Vũ Cát

Tường. Ca sĩ này trực tiếp quản lí fanpage do ekip của mình lập ra, thường xuyên

trả lời tin nhắn điện thoại của fan hay comment trên fanpage chung, thông báo về

các sự kiện, chương trình mà mình tham dự để FC có thể tới để cổ vũ, đồng thời kêu

gọi fan mua lightstick, mua vé concert để ủng hộ mình. Trưởng nhóm các FC như

này có mối liên hệ khá mật thiết với ekip của nghệ sĩ hoặc chính nghệ sĩ đó.

Hầu hết các fan đều mong muốn được kết nối trực tiếp với thần tượng hoặc

công ty của thần tượng để các hoạt động hâm mộ diễn ra có tổ chức, bài bản hơn

nhằm hỗ trợ và ủng hộ tối đa cho thần tượng. Nhiều trưởng nhóm trong các FC Sơn

Tùng đã nhiều lần đề xuất với ekip của ca sĩ này về việc phải có người của công ty

đứng ra quy tụ các fan trong nước và cả fan quốc tế. Mặc dù các fan luôn dành tình

cảm yêu quý, ngưỡng mộ và ủng hộ rất vô tư cho thần tượng nhưng các bạn cũng

rất muốn có được sự ghi nhận từ phía thần tượng. Chính vì vậy, trong lễ công bố kế

hoạch các dự án của công ty M-TP entertainment sẽ diễn ra trong năm 2020 (được

tổ chức vào ngày 18/12/2019), Sơn Tùng đã thông báo về việc sẽ lập ra một mạng

xã hội dành riêng cho các Sky có tên gọi là Sky social - như một dự án quan trọng

bên cạnh rất nhiều dự án khác. Cộng đồng fan trong các FC riêng rẽ rất vui mừng

trước thông tin này bởi họ hi vọng các hoạt động của người hâm mộ sẽ sớm đi vào

quy củ, tránh fan war (tranh cãi nội bộ giữa các fan) không đáng có do các FC hoạt

động không ăn khớp nhau gây bất lợi cho thần tượng.

3.2.2. Hoạt động của các fanclub

Qua việc khảo sát một số FC có thể thấy, mặc dù các FC được lập ra giống

nhau về mục đích đó là thể hiện sự yêu mến thần tượng, kết nối cộng đồng người

hâm mộ và tiếp thị cho thần tượng nhưng ở mỗi FC, phương thức kết nối và hoạt

động lại khác nhau. Chẳng hạn như các FC của Sơn Tùng M-TP, có FC chỉ kết nạp

các thành viên là người Việt Nam trên 22 tuổi, có thể ở bất cứ đâu, thậm chí ở cả

nước ngoài (Vosky Group); có FC ở Hà Nội (Trust team), có FC ở Thanh Hóa, Hải

Phòng, Bắc Giang, Thái Bình, Sài Gòn, Gia Lai, Cần Thơ, Đà Nẵng...; có FC thiên

73

về việc tụ tập “đu show”, đóng quỹ làm áo đồng phục, bảng đèn cổ vũ, in banner,

ảnh thần tượng...; có FC chỉ hoạt động online, có FC thiên về những hoạt động từ

thiện dưới danh nghĩa fan Sơn Tùng (Đại đội cảm tử quân 5794), có FC chuyên

đăng bài chia sẻ cảm xúc về thần tượng (Sky Confession) hay có FC chuyên săn ảnh

độc, ảnh khi ra sân bay đưa, đón thần tượng (Theo chân bé Tùn)... Các FC hoạt

động song song, khi cạnh tranh khi tương hỗ nhau theo những nguyên tắc và quan

điểm riêng của từng nhóm. Qua quá trình quan sát tham dự, tôi nhận thấy các FC có

các hoạt động như sau:

Tập trung cổ vũ cho thần tượng

Các thần tượng thường là khách mời của rất nhiều các sự kiện lớn nhỏ và tình

cảm cổ vũ nồng nhiệt của khán giả, của người hâm mộ chính là hiệu ứng mà bất cứ

thần tượng nào cũng mong muốn nhằm gia tăng vị thế, uy tín của mình. Các FC

chính là những nhân tố chính tạo ra hiệu ứng này. Họ lên kế hoạch và tập trung sớm

với đầy đủ bảng đèn, lightstick, banner... để cổ vũ rầm rộ cho thần tượng. Họ cho

rằng sự khích lệ, đồng hành của FC sẽ truyền thêm lửa cho thần tượng, khiến thần

tượng biểu diễn sung hơn.

Ngoài các sự kiện cổ vũ trực tiếp, các FC còn có các kế hoạch nhằm cổ vũ

gián tiếp tới thần tượng. Họ quay các video gửi đến thần tượng hoặc post lên mạng

để khuếch trương sự ảnh hưởng của thần tượng. Các thành viên FC sống trong cùng

một thành phố, một tỉnh thường tụ tập ở quán cà fe hoặc một địa điểm nào đó thuận

lợi cho việc họp fan.

Trong suốt 2 năm tham gia vào một FC Sơn Tùng tại Hà Nội, tôi đã được

tham dự 3 buổi họp fan của nhóm. Các buổi họp fan này được thực hiện để kỉ niệm

ngày sinh nhật Sơn Tùng (5/7) hoặc sinh nhật chung của cộng đồng fan (25/11). Tại

các sự kiện này, các bạn trẻ đều mang lightstick, banner, vòng tay, poster, búp bê

chibi để tạo ra một không khí vừa trẻ trung, vui tươi, sôi động, vừa gắn kết. Những

sản phẩm này không chỉ giúp các fan nhận ra nhau (cùng chung gia đình Sky) mà

còn giúp họ dễ dàng kết nối với nhau hơn (ví dụ cùng giơ lightstick “quẩy” theo các

bài hát của Sơn Tùng được phát trên màn hình lớn tại quán).

Sự kiện offline tiêu biểu nhất mà tôi có dịp tham dự là buổi off fan ngày

25/11/2018 được tổ chức ở phố đi bộ Hà Nội nhân ngày sinh nhật của cộng đồng

Sky. Sự kiện này đã thu hút hàng trăm bạn trẻ tham dự, có nhiều bạn thuộc các FC

ở các tỉnh lân cận Hà Nội cũng đến tham gia, giao lưu. Họ diễu hành quanh một

74

vòng bờ hồ với loa phát nhạc, poster hình Sơn Tùng, banner cổ vũ “Hà Nội yêu

Tùng”, “Sky yêu Tùng” và cả bánh kem để kỉ niệm ngày sinh nhật chung... Họ hát

vang những ca khúc quen thuộc của thần tượng, thu hút sự quan tâm của tất cả mọi

người có mặt quanh đó, rất nhiều người đã nhận ra họ là Sky, thần tượng của họ

chính là Sơn Tùng (Xin xem Phụ lục 2.3).

Các FC hoạt động bám sát các sự kiện của thần tượng và mỗi FC có những

chiến lược riêng để ủng hộ thần tượng cũng như tiếp cận truyền thông để quảng bá

cho thần tượng của mình. Ví dụ từ thiện, bảo vệ môi trường, xây dựng hình ảnh

fandom văn minh, lịch sự... Mặc dù không tránh khỏi việc các FC nhiều lúc cũng

bất đồng quan điểm trong cách hoạt động của mình và không ít lần công kích nhau

nhưng những lúc cần thiết, họ biết tập trung vào nhiệm vụ chính là ủng hộ và nâng

cao tên tuổi của thần tượng cũng như của cả cộng đồng người hâm mộ. Các fan

cũng thường xuyên tham gia những cuộc “fan war” (khẩu chiến) nhằm chống lại

những công kích của anti-fan. Lúc này, các FC giống như một lực lượng giúp các

fan riêng lẻ có thể tập hợp, đoàn kết lại để bênh vực và bảo vệ thần tượng của mình.

Phát triển cộng đồng fan

Từ mục đích cổ vũ tối đa cho thần tượng mà các FC luôn chủ trương gia tăng

số lượng thành viên của mình, độ lớn của một FC là sự khẳng định độ lớn của tên

tuổi thần tượng. Chẳng hạn, trên facebook, có hàng trăm fanclub của ca sĩ Sơn Tùng

M-TP. Các FC được thành lập và hoạt động chủ yếu theo địa bàn nhưng cũng có

nhiều FC thu hút các thành viên khắp các vùng miền trên cả nước, thậm chí cả nước

ngoài. Chỉ tính riêng Hà Nội đã có hơn 10 câu lạc bộ người hâm mộ của ca sĩ này.

Nổi bật nhất là FC Sơn tùng M-TP (65.255 thành viên, nhóm kín), FC Sơn Tùng M-

TP Hà Nội Trust team (30.000 người theo dõi), FC Sơn Tùng M-TP Hà Nội – Big

Sky Family (nhóm kín, 1000 thành viên), FC Sơn Tùng - Vosky Group (nhóm kín,

3000 thành viên), Sky confession (nhóm kín, 2400 thành viên) hoạt động cả offline

và online. Với sự thuận lợi của facebook, bạn trẻ nào cũng có thể dễ dàng trở thành

thành viên chính thức của các FC này, thậm chí một người cùng lúc có thể follow

(theo dõi) hoặc là thành viên của nhiều FC khác nhau.

Trên không gian mạng, các fan ở khắp nơi có thể dễ dàng trao đổi những ý

tưởng về việc xây dựng “bộ nhận diện” riêng cho cộng đồng mình. Họ tạo ra các

group chat để thảo luận về việc chọn tên của FC, chọn đồng phục và thu quỹ cho

75

các hoạt động online và cả offline, về việc chuẩn bị “đu show” như thế nào cho rầm

rộ, hoành tráng để cổ vũ tốt nhất cho thần tượng...

Trong cộng đồng fan Sơn Tùng, rất nhiều bạn đồng thời là fan của các thần

tượng K-Pop (EXO, T-ara, BigBang, BTS, Blackpink...), thậm chí họ còn hâm mộ

các thần tượng K-Pop này từ rất lâu trước khi biết đến Sơn Tùng. Do vậy, trước khi

tham gia vào các FC của người hâm mộ Sơn Tùng, họ từng là thành viên của các

FC K-Pop khác. Phải chăng vì thế mà Sơn Tùng là ca sĩ Việt Nam đầu tiên có lightstick, có tên chung cho cộng đồng người hâm mộ của mình23?

Qua quá trình tìm hiểu cộng đồng fan của Sơn Tùng, tôi được biết tên gọi “Sky” là do một fan nữ quê Lạng Sơn (tên là Lô Thị Hà Trang) nghĩ ra24, đề xuất

với công ty quản lí của Sơn Tùng khi đó là Wepro, và sau rất nhiều cân nhắc thì

“Sky” được lựa chọn với những ý nghĩa được đồng tình bởi cả Sơn Tùng và những

người hâm mộ. Theo sau Sơn Tùng, rất nhiều ca sĩ (Đông Nhi, Vũ Cát Tường, Tóc

Tiên, Noo Phước Thịnh, Hòa Minzy...) và thậm chí một số diễn viên (như Puca

Diệu Nhi) cũng đã sáng tạo ra lightstick - một biểu tượng chung cho cộng đồng fan

- cái mà giúp nhận diện họ là fan của ai giữa một biển khán giả cổ vũ. Lightstick

của Sơn Tùng được phát hành dựa trên ý nghĩa của tên gọi Sky này. Sau 3 năm hoạt

động nghệ thuật, hình ảnh về gậy cổ vũ mang biểu tượng M-TP đã được giới

thiệu trong buổi họp báo liveshow M-TP Ambition: Chuyến bay đầu tiên. Theo sau

Sơn Tùng, một loạt các ca sĩ khác cũng tìm tên gọi cho cộng đồng fan của họ.

Chẳng hạn, fan của Đông Nhi là Potato, fan của Noo Phước Thịnh là Big family,

fan của Đức Phúc là Sun, fan của Erik là Sea, fan của Chi Pu là Sunshine (trước đó

là Sunlight), fan của Vũ Cát Tường là FM (tức là fan Mèo, Mèo là tên gọi thân mật

của ca sĩ này), fan của Hòa Minzy là Đại gia đình nhà Liều...

Không cần các thủ tục mang tính hành chính, tuy nhiên, mỗi FC đều có những

quy định riêng, để có sự “ràng buộc” nhất định đối với các thành viên, đặc biệt từ

không gian online, họ luôn dễ dàng chuyển sang không gian offline. Họ có ban quản

trị, có đồng phục nhóm, có quỹ riêng đủ để đảm bảo cho việc thực hiện những hoạt

động chung: làm băng rôn, banner cổ vũ thần tượng, tham gia hoạt động từ thiện

23 Lightstick và tên của CLB fan là những đặc trưng rất nổi bật của cộng đồng fan K-Pop, khác hẳn với cộng đồng fan US, UK và các quốc gia khác. 24 Bạn này đã, đang là fan của cùng lúc nhiều ca sĩ, nhóm nhạc thần tượng Hàn Quốc và việc đặt tên fandom cũng như lightstick là điều thường thấy ở K-Pop.

với danh nghĩa là fan của thần tượng (nấu cháo phát miễn phí cho bệnh nhân ở các

76

bệnh viện, quyên góp gạo, sách vở, quần áo cho các mái ấm tình thương, góp tiền

xây cầu cho những vùng khó khăn...). Nguyên tắc chung của các FC là vì thần

tượng, không làm tổn hại đến thần tượng cũng như đến uy tín của FC. Nếu ai vi

phạm sẽ lập tức bị cộng đồng tẩy chay.

Một FC Sơn Tùng mà tôi tham gia có thu quỹ 50.000đ/3 tháng. Số tiền này

được dùng để làm bảng đèn, banner và poster cổ vũ cho thần tượng trong mỗi show

diễn mà FC tham gia. Ngược lại, để tương xứng với việc nộp quỹ chung cho FC,

các thành viên cũng sẽ nhận được những quyền lợi tương xứng: họ có một cộng

đồng chung để chia sẻ cảm xúc, được cập nhật những thông tin “hot” nhất về Sơn

Tùng, được miễn phí vào xem một số show diễn với tư cách “người của FC” đi để cổ vũ cho thần tượng25, được đứng ở vị trí đẹp, sát sân khấu nhất có thể và trong

một số sự kiện lớn như chương trình Bữa trưa vui vẻ của VTV6, các thành viên FC

được mời đến tham gia buổi ghi hình và được giao lưu với Sơn Tùng, được nhìn

Sơn Tùng ở khoảng cách gần nhất có thể.

Ban quản trị FC cũng thường xuyên tổ chức những sự kiện, hoạt động chung

để gia tăng sự đoàn kết, gắn bó, qua đó có thể giúp các thành viên tăng sự tự tin,

phát triển những năng lực ngầm ẩn của bản thân. Một fan của T-ara cho biết “Trước

đây em khá nhút nhát, nhưng sau khi tham gia vào FC, các anh chị đi trước đã kéo

em vào các hoạt động tập thể, ví dụ như dạy em từng động tác nhảy flashmob,

hướng dẫn em cách tổ chức các sự kiện của nhóm. Do vậy, sau này khi T-ara sang

Việt Nam, bọn em đã tổ chức thuê xe ra sân bay, hỗ trợ thuê phòng cho các bạn fan

ở các tỉnh lên Hà Nội khá suôn sẻ” (PV 4/2019). Có thể nói, đây chính là những trải

nghiệm đầy cảm xúc mà chỉ những thành viên chính thức của FC mới có được.

Tạo dựng văn hoá hâm mộ thần tượng

Nhằm xoá bỏ những định kiến của xã hội về người hâm mộ, các FC đã có

những chiến lược đa dạng: tham gia những chiến dịch tình nguyện, từ thiện với

danh nghĩa là fan của thần tượng; tổ chức những hoạt động kêu gọi bảo vệ môi

trường... Chẳng hạn một FC của Sơn Tùng đã quyên góp tiền xây cầu ở Tiền Giang

(Cầu Sky 1 nhân kỉ niệm sinh nhật 24 tuổi của Tùng) và Kiên Giang (cây cầu có tên

Cầu Sky 2 - món quà SKY dành cho tuổi 25 của Tùng) (Xin xem Phụ lục 2). Nhóm

fan này cho rằng món quà tặng cho Tùng là sự đồng lòng của nhiều Sky, mỗi người 25 Trong các show diễn lớn, những nhóm fan nổi bật về ngoại hình, về đạo cụ cổ vũ thần tượng luôn được ưu tiên đứng lên trên, sát sân khấu để tiện cho việc quay phim, ghi hình, giúp gia tăng hiệu ứng truyền thông của sự kiện, đặc biệt khi các sự kiện được phát trực tiếp ngày càng nhiều như hiện nay.

77

tham gia tuỳ theo điều kiện của mình. Một số FC ở Thái Bình, Thanh Hoá, Hà Nội

đã lan toả và hưởng ứng chiến dịch bảo vệ môi trường, họ quay clip, post ảnh, đặt

slogan “Sky yêu môi trường như thương Sơn Tùng”, gom pin đổi thẻ ảnh. Ngoài ra,

fandom còn kết nối với nhau để tạo ra những dấu ấn có ý nghĩa với chính họ: chung

tay quyên tiền, vật chất làm từ thiện. Chẳng hạn như FC ở Hà Nội chung tay quyên

góp tặng quà người cơ nhỡ dịp trung thu 2017, quyên góp tiền đến thăm các mái ấm

tình thương, hay khi FC ở Khánh Hòa đăng tin kêu gọi quyên góp ủng hộ đồng bào

chịu ảnh hưởng của bão Damrey (2017), một loạt FC khác từ Tp. Hồ Chí Minh, Hà

Nội đều “share” và hưởng ứng phong trào này; gom sách ủng hộ dự án Tủ sách sky

cho trẻ em bản Hom; kêu gọi nấu cháo phát miễn phí cho bệnh nhân tại một số bệnh

viện ở Hà Nội. Thay vì tặng quà cho thần tượng thì fan quyên góp làm từ thiện dưới

danh nghĩa fan của thần tượng. Điều này vừa làm thần tượng cảm động, vừa có tác

động tốt đến cộng đồng vừa mang lại nhiều niềm vui, ý nghĩa cho các fan. Một số

bạn trẻ nói rằng họ muốn mọi người có một cái nhìn khác, cách đánh giá khác về

“Sky” (tên gọi chung cho fan của Sơn Tùng M-TP). Sau mỗi buổi diễn có sự tham

gia của Sơn Tùng, nhiều fan đã ở lại đến cuối cùng và thu dọn rác. Các hành động

như vậy cũng là một cách mang tên tuổi của thần tượng đi xa hơn, đến được với

đông đảo mọi người hơn.

3.2.3. Vai trò của các admin (ban quản trị FC)

FC như một tổ chức thu nhỏ, hoạt động dựa trên mục đích và nguyên tắc rõ

ràng. Một FC có thể có 5-7 người trong ban quản trị (admin, boss), trong đó có bạn

được phân công làm thủ quỹ, có bạn chuyên phụ trách mảng tuyên truyền, lên bài,

có bạn chuyên về kĩ thuật để xử lí, chỉnh sửa các video, clip, có bạn phụ trách kết

nối các cộng tác viên...

Những thành viên sáng lập FC (còn gọi là admin, boss) luôn là người định

hướng hoạt động và phong cách cho cả FC cùng nhau chọn và thống nhất tên để đặt

cho FC; kết nạp thành viên mới, lọc thành viên không phù hợp; gây quỹ chung, tổ

chức các hoạt động tập thể như cùng đi show cổ vũ cho thần tượng; tổ chức các

buổi offline (họp fan) hoặc thực hiện các project (dự án) đa dạng (đu show, tổ chức

xem phim chung, từ thiện...) nhằm tăng sự gắn kết giữa các thành viên đồng thời

quảng bá cho FC, thu hút các thành viên mới... Các admin của FC thường xuyên

cập nhật thông tin về thần tượng trên fanpage để các thành viên có thể theo dõi, chia

sẻ tình yêu đối với thần tượng. Nhiều admin là các fan “sân bay” nhiệt tình, không

78

quản sớm tối chờ chực ở sân bay đón thần tượng và chụp được những bức ảnh độc

đáo nhất để cập nhật với các thành viên. Trong các FC, các admin có quyền “tuýt

còi” nhắc nhở các thành viên nếu những người này đưa ra những thông tin bất lợi

cho thần tượng của họ (chẳng hạn đưa hình ảnh xấu, tin tức hẹn hò...). Họ cho rằng

báo chí có thể “đánh hơi” được và đưa nhưng thông tin này lên, các antifan sẽ được

dịp để công kích thần tượng của họ.

Những thành viên chủ chốt của FC không chỉ là những người năng động,

nhanh nhạy trong việc nắm bắt thông tin mà họ còn có khả năng tạo ra và duy trì

mối quan hệ tốt với ekip công ty của thần tượng hoặc với các công ty tổ chức sự

kiện. Bằng các mối quan hệ và sự nhanh nhẹn, khéo léo, họ thường xin được rất

nhiều vé dự các buổi biểu diễn có thần tượng tham gia. Hoặc ít nhất, họ cũng là

người nắm rõ để phổ biến cho cả FC biết cách để “săn vé”. Họ cũng là người định

hướng hoạt động cho FC, kể cả trong việc phát động hoặc dừng lại một cuộc “fan

war” nào đó. Do vậy, các admin là những người rất có uy tín trong cộng đồng fan

hâm mộ. Sự định hướng này kiến tạo nên một bản sắc riêng cho mỗi nhóm fandom.

Một trưởng FC Sơn Tùng cho biết “để giữ gìn cho danh tiếng của thần tượng”,

họ tránh những cãi vã không cần thiết trên mạng xã hội cũng như khi đi show mà có

“va chạm” với fandom của các ca sĩ khác. Bạn này cho rằng vì Sơn Tùng là người

không “sân si” nên bản thân các fan cũng nên giữ cho mình thái độ sống giống như

thần tượng. Họ đề cao tinh thần “yêu Tùng, hỗ trợ Tùng một cách vô tư, không vụ

lợi” và cho rằng đây chính là “bản sắc riêng của FC”.

Mới đây, khi Sơn Tùng phát hành Sky tour movie ở tất cả các cụm rạp trên cả

nước bắt đầu từ 12/6/2020, một FC Sơn Tùng có số lượng thành viên lớn tại Hà Nội

đã đứng ra tổ chức các buổi xem chung cho các thành viên trong FC (Xin xem Phụ

lục 2.6). Phương Anh - một trong số các admin của FC này đã liên hệ với các cụm

rạp, vì nhiều thành viên là học sinh, sinh viên nên Phương Anh đã lên các kế hoạch

thương thảo với các rạp và đề xuất giảm giá vé để FC có thể tham gia đông nhất có

thể. Phương Anh đã tổ chức 9 suất chiếu full rạp trong 3 ngày từ 12-14/6 ở rạp

CGV Xuân Thủy (Cầu Giấy), thậm chí mời cả phóng viên của một trang báo điện tử

đến ghi hình, phỏng vấn và đưa tin về hoạt động của FC trong sự kiện lần này.

Phương Anh cũng chính là người hô hào, điều hành các thành viên để ghi lại những

video ấn tượng nhất để gửi đến ekip công ty của Sơn Tùng. Phương Anh tâm sự:

79

Cái em trăn trở nhất là làm sao các bạn tham gia vào FC thì phải nhận được

nhiều hơn khi bạn là một fan đơn lẻ cũng như làm sao để ủng hộ Sơn Tùng được

nhiều hơn nữa. Em cũng thường học hỏi các FC khác của các fan K-Pop để tìm ra

cách khiến các thành viên có thể gắn bó và máu lửa hơn nữa cùng FC. Em cũng

muốn mọi người có một cái nhìn khác về fan bọn em, chúng em vẫn học hành, thi

cử, đi làm bình thường, và vẫn cố gắng để cháy hết mình với đam mê cùng thần

tượng, tham gia làm những việc có ích cho cộng đồng (PV ngày 25/11/2019).

Có thể thấy, vai trò của các trưởng nhóm FC là rất lớn không chỉ trong việc tổ

chức, điều hành các hoạt động của FC mà còn trong việc tạo ra và duy trì sự gắn kết

và tinh thần chung của cả nhóm cũng như lan tỏa sự ảnh hưởng của FC tới thần

tượng và tới dư luận xã hội.

Như vậy, các FC nổi lên như những cộng đồng mới ở Việt Nam, nó giống như

những hội nhóm, đoàn thể khác của giới trẻ, tuy nhiên, với tính chất vừa lỏng lẻo

vừa chặt chẽ, các FC ngày càng thu hút đông đảo các bạn trẻ tham gia bởi nó là nơi

để những người hâm mộ trẻ có cơ hội kết nối và chia sẻ sự quan tâm chung với một

thần tượng nào đó một cách tự nguyện.

3.3. Các hoạt động tiêu dùng có liên quan đến thần tượng

Bên cạnh việc kết nối với nhau cũng như theo dõi, chia sẻ, quảng bá cho thần

tượng, người hâm mộ trẻ còn tích cực mua các sản phẩm để ủng hộ, cổ vũ và thể

hiện tình yêu đối với thần tượng. Những kỉ lục về lượng người xem, những biển

lightstick phát sáng trong các show diễn, những mẫu giày dép, quần áo liên tục

“sold out” (bán hết) ngay khi vừa ra mắt, lượng tiêu thụ album khủng khiếp… là thứ chúng ta dễ dàng nhìn thấy trên các tít báo26 hàng ngày về những người nổi tiếng,

những thần tượng của giới trẻ hiện nay. Theo kết quả khảo sát của một công ty nghiên cứu thị trường tháng 6/201027, trong số 14 thực hành “thể hiện sự hâm mộ”

thì có đến 9 thực hành liên quan đến tiêu dùng vì thần tượng, đó là: Mua đĩa

nhạc/phim của thần tượng (62%), Xem các phim do thần tượng đóng (56%), Đi

xem các chương trình ca nhạc của thần tượng (42%), Đọc sách do thần tượng viết

(15%), Dùng các đồ giống thần tượng (12%), Mua các sản phẩm do thần tượng

quảng cáo (12%), Dùng đồ có in hình/ chữ kí thần tượng (12%), Tham gia các hoạt 26 Ví dụ: “Áo croptop Lisa Black Pink mặc, mới đăng trên mạng 1h đã 'sold out' sạch sẽ”, “Sau G-Dragon, Jennie chính là "thánh sold out" mới của YG”, “Baek Hyun lập kỉ lục mới về lượng album order”... 27 https://www.slideshare.net/ISCads/thn-tng-ca-gii-tr-vit-nam. Truy cập ngày 1/4/2021.

80

động có thần tượng tham gia (11%), Bắt chước thần tượng (về phong cách ăn

mặc...) (9%). Các hoạt động tiêu thụ liên quan đến thần tượng khiến hâm mộ thần

tượng của giới trẻ hiện nay trở thành một hiện tượng đáng chú ý, nhưng đây cũng

chính là nguyên nhân khiến hâm mộ bị chỉ trích gay gắt và tiêu cực bởi những thế

hệ lớn tuổi trong những năm qua.

3.3.1. Tiêu thụ sản phẩm trực tiếp

Nếu như trước đây, ở Việt Nam, giới trẻ chủ yếu mua các album, đĩa CD,

VCD hay DVD của các ca sĩ, xem các bộ phim của các diễn viên, mua vé xem các

cầu thủ thi đấu hoặc mua vé xem show diễn của các ca sĩ thì hiện nay, họ có thể

mua rất nhiều các sản phẩm của thần tượng hoặc có liên quan đến thần tượng.

3.3.1.1. Tiêu thụ các sản phẩm của thần tượng

Không ít người hâm mộ 8x cho biết họ từng nhịn ăn sáng, để tiền tiết kiệm để

mua từng quyển báo, tạp chí có ảnh và bài viết về thần tượng, mua album, mua vé

xem thần tượng biểu diễn. Những người khá giả hơn thì có thể dành dụm tiền đi

xem show ca nhạc:

Tiền mua album của Đan Trường lúc đó không hề rẻ, 35.000đ/ chiếc. Tiền đi

xem show của Đan Trường thì bố em cho, chứ học sinh kiếm đâu ra mấy trăm nghìn

(bằng mấy triệu bây giờ) Nói chung, đu theo thần tượng rất tốn kém (PV Hạnh, 32

tuổi, Hà Nội, 5/2019).

Ở thời điểm những năm cuối 1990, giá vé 30.000đ là một số tiền không nhỏ,

đến nay, còn hiện nay, những người hâm mộ trẻ phải bỏ ra từ 1-5 triệu để mua vé

tham dự show diễn của thần tượng (mức vé cao nhất trong show gần đây của ca sĩ

Vũ Cát Tường là 5 triệu). Số tiền này đã là khá lớn so với những người đã đi làm,

nhưng với bạn trẻ còn là học sinh, sinh viên chưa đi làm, việc xoay xở để có được

số tiền này lại càng không đơn giản. Đa phần các bạn trẻ được chu cấp từ gia đình

các khoản tiền ăn, học, thuê trọ. Còn số tiền dành cho thần tượng, họ phải tự tìm

cách để có: có người nhịn ăn, tiết kiệm tiền mua sắm quần áo, mỹ phẩm, đi chơi với

bạn bè; có người đi làm thêm theo ca ở các cửa hàng. Chỉ riêng trong một FC người

hâm mộ Sơn Tùng mà tôi quen biết, đã có ít nhất 3 bạn đi làm thêm ở Circle K,

Lotteria. Ngoài ra, các bạn trẻ cũng nỗ lực tìm kiếm các công việc khác để có chi

phí cho sở thích “đu show” của mình.

Tháng 10/2017, Sơn Tùng ra mắt tự truyện Chạm tới giấc mơ với 17.000 bản in,

trong đó 10.000 bản đã bán hết chỉ trong vòng 2 ngày. Trước đó, album các ca khúc

81

của Sơn Tùng khi phát hành cũng được tiêu thụ nhanh chóng bởi sự cuồng nhiệt của

fan (500 bản đã được mua trong vòng 1 giờ đầu tiên). Mới đây, bộ phim Sky tour movie

của Sơn Tùng cũng gây sốt khi đạt doanh thu 11,5 tỉ sau 10 ngày công chiếu. Có những

fan đi xem tới 5-6 lần. Những con số về tiêu thụ ấy nói lên rất nhiều điều. Nó không chỉ

là minh chứng cho độ “hot” của Sơn Tùng, sự yêu mến, ủng hộ của các fan mà còn là

niềm tự hào của chung cho Sơn Tùng và những người yêu mến ca sĩ này. Doanh số bán

album và goods (hàng hóa), lượng view chính là những con số biết nói, không những

thế còn là thứ gia tăng sự kết nối giữa fan và thần tượng.

Là một fan của Sơn Tùng M-TP từ 2014-2015 đến nay, có thể nói My là một

trong những người hâm mộ trẻ cuồng nhiệt nhất mà tôi biết. Năm 2017, khi album

đầu tay của Sơn Tùng ra mắt, My đã mua liền 10 cái với hi vọng sẽ may mắn trúng

được vòng tay để là 1 trong 100 người được gặp mặt thần tượng. Trong 2 năm nay

(2018-2019), My không bỏ lỡ show diễn nào có mặt Sơn Tùng ở Hà Nội, thậm chí

cả ở Đà Nẵng, Sài Gòn. Có những show diễn miễn phí (do các nhãn hàng lớn tài trợ

để quảng bá như Viettel, Levi’s, Canifa), có những show diễn, My phải bỏ tiền túi

ra mua vé vào xem thần tượng (show kín ở quán bar 1900 - Hà Nội có mức giá là

800.000đ/vé). Như một cái duyên, lúc My bắt đầu thích và học làm bánh cũng là lúc

My trở thành fan của Sơn Tùng. Việc làm bánh và bán bánh ngọt này cũng giúp My

trang trải toàn bộ chi phí từ việc hâm mộ thần tượng của mình: mua album, đu

show, vé máy bay vào Sài Gòn xem show diễn của Tùng hay off fan mừng sinh

nhật Sơn Tùng với các bạn fan trong Sài Gòn. Do sắp phải tham gia kì thi tốt nghiệp

THPT, My đã phải vừa ôn thi vừa thức đêm làm bánh để kiếm tiền đi đủ 3 show của

Tùng ở 3 địa điểm: Sài Gòn, Đà Nẵng, Hà Nội và sẽ mua mức giá cao nhất ở cả 3

show này (2.145.000đ/ vé x 3, tổng cộng là 6.435.000đ). Đây là một số tiền rất lớn

đối với các bạn ở tuổi của My. Ngoài tiền vé, My cũng phải tự lo tiền vé máy bay,

tiền ăn ở khi vào Sài Gòn, Đà Nẵng. My nói toàn bộ số tiền dành dụm được My đã

“dồn cả” vào tour diễn lần này của Sơn Tùng.

Hồi nhỏ, My cũng từng rất hâm mộ SNSD (một nhóm nhạc nữ Hàn Quốc).

My biết đến nhóm nhạc này qua kênh iTV trên ti vi. Đây là kênh trả tiền để bài hát

được bình chọn nhiều nhất được ưu tiên phát trên ti vi. My đã lén lấy điện thoại của

bố để nhắn tin tới chương trình yêu cầu bài hát của SNSD khiến cho tháng đó, tiền

cước điện thoại của bố My cao đột biến.. Tuy nhiên, hồi đó, dù thích SNSD nhưng

My cũng chỉ mua được các poster, các sticker hình dán có hình các thành viên của

82

nhóm nhạc Hàn Quốc xa xôi này. Mọi thứ rất khác với cách My hâm mộ Sơn Tùng

bây giờ. My có thể chủ động ủng hộ thần tượng và thỏa mãn mong ước gặp thần

tượng của mình bằng cách bỏ tiền ra mua vé hoặc đi show.

Không chỉ riêng My, có một nhóm fan cũng giống My, họ đã tiết kiệm tiền, đi

làm thêm, nhịn ăn tiêu ngay từ khi Sơn Tùng và công ty của anh thông báo rằng sẽ

tổ chức Skytour ở Sài Gòn, Đà Nẵng và Hà Nội. Theo như My kể, có bạn vẫn đang

là học sinh lớp 11, không dám xin tiền bố mẹ nên đã kiếm việc làm thêm là bán

hàng tại Cirke K để có tiền mua vé, đu show. Rõ ràng, những người hâm mộ trẻ này

đã có một kế hoạch và chiến lược để thực hiện được đam mê của mình. Đam mê

này chính là động lực để họ làm những việc mà trước kia họ chưa từng trải nghiệm.

Các fan K-Pop mấy năm gần đây thường có các chiến dịch “pre order” tức là

đặt hàng trước album hay sản phẩm nào đó của thần tượng và số lượng này sẽ minh

chứng cho tình cảm của các fan dành cho thần tượng. Chẳng hạn cộng đồng fan của của Baek Hyun (nhóm EXO)28 đã giúp ca sĩ này lập kỉ lục album bán chạy nhất

trong việc bán album mới nhất (Citi Lights) hay cộng đồng fan của nhóm BTS đã

giúp album “Map Of Soul: Persona” phá vỡ kỉ lục thế giới về lượng album đặt

trước. “Thay vì khẩu chiến vô bổ, họ dùng tài chính để thể hiện sự ganh đua và tình

yêu với idol. Để rồi cuối cùng chính thần tượng của họ là người hưởng lợi khi sự

đua tranh của fan góp phần giúp doanh số của BTS tăng vòn vọt, “Map of the soul:

Persona” trở thành album bán chạy nhất năm 2019 và nay đã vượt mốc 3 triệu bản. Nhờ đó mà các chàng trai thu được lợi nhuận cao”29 (kenh14.vn, 21/8/2019). Rõ

ràng, sau những cuộc cạnh tranh ấy, sự tiêu dùng lại càng được đẩy cao và lợi

nhuận - tất nhiên không thuộc về những người hâm mộ.

Các fan K-Pop ở Việt Nam cũng là những người nhiệt tình nhất trong việc tiêu

thụ các sản phẩm của thần tượng, họ không những mua album, mà còn mua

lightstick, quạt có in ảnh, mua rất nhiều sản phẩm (goods) khác như vòng tay, mũ,

áo, mỹ phẩm… để ủng hộ thần tượng, tất nhiên qua trang web của công ty chủ

quản. Việc tiêu dùng này là kết quả của việc những người hâm mộ trẻ đã được

“huấn luyện” (để sẵn sàng chi tiền để ủng hộ thần tượng) ngay từ đầu bởi sự bài

28 https://kenh14.vn/cung-ngay-ra-mat-doi-hinh-boygroup-khung-cua-sm-baekhyun-exo-thiet-lap-ky-luc-ban- chay-album-nhat-lich-su-K-Pop-20190808125927875.chn 29 http://kenh14.vn/fanwar-dac-san-di-qua-nam-thang-cua-fan-K-Pop-ca-khia-mot-chut-thi-vui-choang-nhau- hon-chien-chi-dau-idol-20190820172202026.chn

bản, chuyên nghiệp của nền công nghiệp giải trí Hàn Quốc.

83

Theo lời của Uyên - một fan của EXO, nhân ngày sinh nhật Baek Hyun

(EXO), công ty SM tung ra một loạt sản phẩm (poster, mũ, quạt...) để bán cho fan,

nhưng tinh tế ở chỗ là cộng giá của tất cả các sản phẩm lại (bằng 56.000 won) có

liên quan đến ngày sinh nhật của ca sĩ này (ngày 6/5) nên dù phải bỏ tiền túi ra, các

fan đều rất hồ hởi, tự nguyện. Họ gọi đây là “cách bóc lột ngọt ngào”, gọi SM là “tư

bản hút máu fan”. Trên một fanpage của EXO, các fan đã chia sẻ rằng: “Tiền nhiều để

làm gì? Tiền nhiều để làm cho tên tuổi của EXO càng thêm tỏa sáng” hay “con đường

đến với thần tượng trải đầy VNĐ”... Việc hâm mộ thần tượng của những người trẻ như

Uyên mang đậm màu sắc thực tế, họ dần nhập tâm rằng tiêu tiền chính là cách tốt nhất

để thể hiện tình yêu với thần tượng, để chứng minh ai đó là “fan ruột”:

Có những fan Trung Quốc rất giàu, họ mua hẳn 1000 album trong 1 lần phát

hành của EXO. Hoặc fan Hàn, họ góp tiền nhiều đến nỗi đủ để chi trả cho việc làm cho

cột tháp cao nhất ở Dubai rực sáng dòng chữ EXO. Việc này ai cũng biết là đòi hỏi rất

rất nhiều tiền (PV Uyên, 20 tuổi, quê Tuyên Quang, 3/2019).

Chưa từng được gặp EXO nhưng Uyên cũng như các fan của nhóm nhạc này

cũng đã mua hầu hết các album cũng như lightstick của nhóm để làm đồ sở hữu của

riêng mình. Lightstick là đèn chiếu, có thể phát sáng nhiều màu, thường được các fan

dùng để giơ lên vẫy, cổ vũ thần tượng trong các buổi biểu diễn trực tiếp. Vậy các fan

như Uyên mua lightstick làm gì khi chưa từng được gặp thần tượng? Theo lời Uyên, họ

mua để “cảm thấy gần hơn với thần tượng, để ủng hộ và thể hiện tình yêu với thần

tượng. Không thể được coi là một fan chân chính nếu như không có chiếc lightstick

này” - một biểu tượng cho việc bạn thuộc về cộng đồng fan của ai. Do vậy, mặc dù chỉ

có thể mang lightstick theo trong các buổi họp mặt với cộng đồng fan EXO, Uyên vẫn

cảm thấy sung sướng khi sở hữu đồ vật này. Uyên cho biết giá của một chiếc lightstick

như vậy tầm 6-700.000đ kể cả tiền chuyển hàng về Việt Nam, còn giá của một album

của nhóm tầm 400.000đ. Với một cô sinh viên xuất thân từ vùng quê như Uyên, sở hữu được những sản phẩm này đã là cả một sự xa xỉ30.

Một chiếc lightstick đã được lồng ghép vào những giá trị biểu tượng của việc

chứng tỏ bạn là fan của ai. Hơn nữa nó còn được chính các thần tượng, các công ty

30 Tư liệu PV này được thu thập vào đầu năm 2019. Đến cuối 2019, 2 ca sĩ thuộc nhóm EXO đã sang Việt Nam biểu diễn tại SVĐ Mỹ Đình, lightstick mà Uyên tưởng chỉ dùng ở các buổi offline đã được sử dụng để cổ vũ trực tiếp các thần tượng của cô dù như lời Uyên nói “từ vị trí ghế ngồi theo vé của em nhìn lên sân khấu, các anh chỉ bé như cái chấm”. Nhưng như thế cũng đủ làm Uyên cảm thấy sung sướng không tả xiết.

quản lí của thần tượng “lăng xê” bằng những lời kêu gọi. “Các ca sĩ cũng không

84

ngại kêu gọi fan mua hàng của mình, ví dụ họ sẽ nói là: khi đi show, chúng ta cầm

lightstick này để vẫy vẫy nhé, cả đại gia đình chúng ta hãy phủ kín sân vận động

bằng đồ vật này, như thế chúng ta sẽ nhận ra nhau dễ hơn” hay “hãy mua lightstick

để trở thành một fan sang chảnh nhé. Chỉ cần một câu nói thế thôi là các fan lại đặt

mua hàng loạt” (PV nhà báo ĐTN, 14/7/2019). Dễ hiểu vì sao các fan lại sẵn sàng

mua những sản phẩm như vậy để ủng hộ thần tượng.

3.3.1.2. Tiêu thụ những sản phẩm mà thần tượng làm đại diện thương hiệu

Không chỉ mua vé xem show, mua lightstick, album nhạc hay sách tự truyện

của thần tượng, các fan còn không tiếc tiền mua những sản phẩm khác: quần áo,

giày dép, mũ, nước hoa, son môi, vòng đeo tay... - những thứ mà thần tượng đại

diện quảng cáo. Một trong những tiêu chí để đánh giá ai đó là fan cứng là họ có

thuộc nằm lòng những thương hiệu, sản phẩm mà thần tượng của họ làm đại diện

quảng cáo hay không. Các fan rất tự hào về việc thần tượng của họ được nhiều

thương hiệu, nhãn hàng mời quảng cáo hơn những ngôi sao khác. Nhiều thần tượng

dùng danh tiếng của mình như là một sự bảo chứng cho những sản phẩm mà họ bán.

Một fan của Hyomin (ca sĩ nhóm T-ara) cho biết mình đã mua loại phấn phủ do

Hyomin quảng cáo bởi vì tin vào thần tượng. Một số fan nữ của nhóm SNSD cũng

thường xuyên tiêu thụ các sản phẩm của hãng mỹ phẩm Innisfree (Hàn Quốc) bởi

học theo các thần tượng.

Một fan của Cristiano Ronaldo (CR7) cũng cho biết, dù không biết lợi nhuận

mà thần tượng nhận được là bao nhiêu từ những sản phẩm được tiêu thụ bởi người

hâm mộ, cậu vẫn cố gom góp tiền mua bộ quần áo thi đấu của CR7 do câu lạc bộ

Real Mandrid phân phối.

Cảm giác cầm bộ áo đấu xịn của CR7 trên tay nó khác lắm. Không uổng công

em tiết kiệm, dành dụm tiền. Đây là món đồ vô cùng quan trọng của em, em chỉ

ngắm nhìn chứ chưa mặc một lần nào cả. Một bộ quần áo đấu của CR7 có giá hơn

3 triệu đồng (PV Tùng, 24 tuổi, Thái Bình, 4/2019).

Việc mua các sản phẩm có liên quan đến thần tượng được những người hâm

mộ trẻ coi là “cách thiết thực” để thể hiện sự yêu mến của mình với thần tượng. Một

số fan cho rằng họ có cảm giác là “toàn người nghèo mang tiền cho người giàu” và

“không biết lợi nhuận đến tay các thần tượng được bao nhiêu” nhưng họ vẫn thấy

vui “vì cảm giác gần với thần tượng hơn khi mình sở hữu được những món đồ đó”

(PV Uyên, 20 tuổi, fan EXO).

85

Những sản phẩm do thần tượng làm đại diện thương hiệu hay quảng cáo luôn

là hàng hóa bán chạy. Chẳng hạn, khi xem MV của Sơn Tùng, khán giả luôn sốt

sắng săn lùng sản phẩm xuất hiện trong MV hoặc tài trợ cho MV, như điện thoại

Oppo, giày Biti’s Hunter X, nước uống Pepsi... Biti’s là thương hiệu giày lâu năm ở

Việt Nam, tuy nhiên, đầu những năm 2010, thương hiệu này khá mờ nhạt trước sự

cạnh tranh của những nhãn hàng khác không chỉ bởi mẫu mã, giá cả, chất lượng mà

còn về mặt quảng cáo. Từ sau khi xuất hiện trong MV Lạc trôi (2017) của Sơn

Tùng, thương hiệu giày này dường như được vực dậy và trở nên có sức hút đối với

những người tiêu dùng trẻ ở Việt Nam, thậm chí cả một số bạn trẻ ở nước ngoài.

Giày Biti’s Hunter hiện có mức giá tăng cao so với các sản phẩm của hãng này

trước đây. Có những mẫu giày hơn 1 triệu VNĐ và luôn cháy hàng, điển hình là

mẫu giày Biti’s Hunter X Nameless - được Biti’s quảng cáo là “đồng hành sáng tạo

cùng biểu tượng đương đại hàng đầu Việt Nam Sơn Tùng M-TP” có giá

1.400.000VNĐ. Có mức giá cao như vậy nhưng mẫu giày này luôn “cháy hàng”,

đặc biệt từ sau khi xuất hiện trong MV Hãy trao cho anh (7/2019). Nhiều bạn trẻ

phải “đặt hàng trước” và chờ đợi mới có thể mua “mẫu giày của thần tượng” này.

Các fan từng nhiều lần trầm trồ chia sẻ các mẫu giày mà Sơn Tùng hay sử dụng, hầu

hết các đôi giày này đều đắt tiền (hàng chục triệu) vì là sản phẩm của các thương

hiệu đình đám ở nước ngoài như Balenciaga, Nike, Adidas,... Đến Biti’s Hunter X,

một đôi giày được sản xuất trong nước, giá tiền “vừa phải” lại được thần tượng

quảng cáo, thì đây là một cơ hội tuyệt vời để các fan có thể trải nghiệm cảm giác

mua sắm và sử dụng sản phẩm “giống với thần tượng. Tương tự, nhiều fan của Sơn

Tùng M-TP cho biết họ có hai điện thoại thì một chiếc bao giờ cũng là Oppo vì giá

thành sản phẩm hợp với túi tiền của họ, nhưng quan trọng là vì thần tượng của họ là

đại diện quảng cáo cho Oppo từ nhiều năm nay.

Những mặt hàng được tiêu thụ trên đây đã khiến các fan đúc rút ra rằng, nếu

như không có tiền hoặc nghèo thì cũng chỉ đành ngậm ngùi nghĩ về chứ khó mà

“đến gần” hơn các thần tượng được, như lời một fan nữ của nhóm EXO là: “Sau

một thời gian dài là fan của EXO, em phải công nhận rằng cần phải có tiền thì mới

trở thành một fan của thần tượng nào đó được”.

3.3.2. Các hình thức tiêu thụ trên không gian mạng

Người hâm mộ Việt Nam hiện nay không chỉ có thói quen mua các sản phẩm

do thần tượng sản xuất hay do thần tượng làm quảng cáo, đại diện, mà họ còn là

86

những người tích cực sử dụng không gian mạng để gia tăng lợi nhuận cho thần

tượng. Phương tiện chủ yếu để fan hiểu và tiếp cận thần tượng chính là các kênh

truyền thông. Yêu thích ca sĩ nào đó, fan sẽ “lùng” các bài hát, MV, các show mà

thần tượng tham gia cũng như các thông tin được đăng tải trên truyền thông về thần

tượng. Đó có thể là những bài báo điện tử, những thông tin được lan truyền trên

mạng xã hội... Tất cả đều nhằm mục đích PR, tiếp thị và quảng bá cho thần tượng

cũng như thỏa mãn nhu cầu biết nhiều hơn nữa về thần tượng của những người trẻ

tuổi. Nếu những người am hiểu và có thông tin rộng rãi về các sản phẩm mà mình

mua và sử dụng được coi là những người tiêu dùng thông thái thì fan hâm mộ chính

là những người như vậy. Họ không những thuộc lòng những “đặc tính” của “hàng

hóa” mà họ “mua” (tên, tuổi, quê quán, đặc điểm ngoại hình, tính cách cá nhân, tài

năng, tài sản...) mà còn biết cách để biến những “đặc tính” ấy trở nên năng sản hơn

bằng cách lan truyền những thông tin về thần tượng một cách rộng rãi trên các nền

tảng truyền thông, đặc biệt là các mạng xã hội phổ biến hiện thời (facebook,

instagram, twitter). Nhờ những nền tảng này, họ vừa là người tiêu thụ vừa là người

sáng tạo truyền thông.

3.3.2.1. “Cày view”

“Cày view” là hình thức tiêu thụ thần tượng trên không gian mạng đặc trưng ở

những cộng đồng hâm mộ thần tượng âm nhac. Văn hoá “cày view” có lẽ được bắt

đầu từ các nhóm fan K-Pop trong giai đoạn internet phát triển, liên quan đến việc

các fan tập trung để tăng lượt xem trên YouTube cho MV của thần tượng. Các mốc

kỉ lục được truyền thông tạo ra để các fan hướng tới là lượt xem cao nhất trong 24

giờ đầu và mốc trăm triệu view. Câu chuyện cày view này trở nên phổ biến ở Việt

Nam chỉ trong 2-3 năm trở lại đây và được cho là bắt đầu bởi các fan của Sơn Tùng

M-TP với MV Lạc trôi.

Đúng 0h ngày 1/1/2017, MV Lạc trôi chính thức được phát hành trên

YouTube. Chỉ sau 2 ngày đầu tiên, MV này đã đứng ở vị trí thứ 6 trong danh sách

những MV được xem nhiều nhất trên YouTube ở Việt Nam. Sau 2 tháng, Lạc trôi

trở thành ca khúc nhạc EDM đầu tiên tại Việt Nam đạt mốc 200 triệu view. Ngoài

sức hấp dẫn của bản thân MV, việc các fan ngày đêm cày view đã góp phần không

nhỏ vào sự thành công của Sơn Tùng M-TP, giúp cho ca sĩ này đạt được những kỉ

lục khó tin đối với VPop, khiến Sơn Tùng trở thành một tường thành vững chắc về

87

lượt xem trên YouTube ở Việt Nam, cũng từ đây, cụm từ “cày view” đã lan ra cả

Vpop một cách mạnh mẽ.

Các MV sau này của Sơn Tùng M-TP cũng nhanh chóng lọt top trending ở

nhiều nước nhờ lượng view khủng, đặc biệt MV Hãy trao cho anh (1/7/2019) đã

giúp tên tuổi ca sĩ này thu hút được sự chú ý của báo chí, truyền thông quốc tế. Tên

tuổi của Sơn Tùng được xuất hiện trong một bài báo trên trang Billboard của Mỹ

vào ngày 3/7/2019. Bản tin ghi rõ nghệ danh tiếng Việt có dấu của nam ca sĩ là Sơn

Tùng M-TP, thay vì được Anh hóa bằng cách bỏ dấu. Điều này mang lại cảm giác tự hào

không chỉ đối với các Sky (tên fandom của Sơn Tùng) mà còn đối với cộng đồng yêu

nhạc Việt nói chung. Mặc dù xung quanh vấn đề “cày view” còn nhiều tranh cãi,

nhưng không thể phủ nhận rằng đây chính là một xu hướng mới của tất cả các FC

(fanclub) ở thời điểm này.

3.3.2.2. Tiêu thụ nhạc số và bình chọn trên những bảng xếp hạng

Ở các nước có nền công nghiệp âm nhạc phát triển, việc download hoặc nghe

nhạc trên những ứng dụng phải trả tiền là bắt buộc và các fan cho rằng đây một

hành động văn minh của những người yêu nhạc. Ở Việt Nam, mấy năm gần đây

cũng có các ứng dụng nghe/tải nhạc mất phí (Spotify, Itunes…). Một số thần tượng

âm nhạc như Mỹ Tâm, Sơn Tùng, Đông Nhi, Vũ Cát Tường... do có một lượng fan

đông đảo, nên ngay từ đầu, họ đã hướng được fan tới việc sử dụng các nền tảng

nghe nhạc mất phí này. Các cộng đồng fan cũng kêu gọi các thành viên bỏ tiền để

sử dụng các nền tảng này như một cách chứng minh tình yêu với thần tượng.

Nhiều cộng đồng fan K-Pop thường ganh đua nhau về vị trí số 1 trên bảng xếp

hạng âm nhạc, họ coi đây cách để thể hiện sức mạnh của mình và tình yêu của mình

với thần tượng. Khi thần tượng của họ đứng đầu, họ cảm thấy như chính họ đang

dẫn đầu vậy. Thông qua những bảng xếp hạng này, các kênh truyền hình, các trang

mạng đã kích thích được một lượng lớn người hâm mộ trẻ tiêu thụ các sản phẩm

truyền thông. “Trước đây, fan của T-ara và fan của SNSD thường xuyên chiến

tranh với nhau chính là vì bảng xếp hạng. Vì hai nhóm này là nổi nhất trong các

nhóm nhạc nữ lúc ấy nên cãi nhau qua lại suốt. Chính vì muốn thần tượng của mình

luôn ở hạng nhất nên các fan liên tục bỏ công sức, tiền bạc ra để vote” (PV

Phương, fan T-ara, 4/2019). Chính vì những bảng xếp hạng này, các kênh truyền

hình, các trang mạng đã kích thích được một lượng lớn người hâm mộ trẻ tiêu thụ

88

truyền thông. Đó là thành công của thần tượng nhưng lại là thành tích chung của cả

cộng đồng fan.

Những thực hành của người hâm mộ nói trên đã cho thấy “người hâm mộ

giống như những người tiêu dùng thương hiệu lý tưởng” theo nhận định của

Duffett: họ nắm bắt được điều mới nhất, mua thêm hàng hóa, tham gia các chương

trình khuyến mãi, tham gia các câu lạc bộ fan hâm mộ chính thức và xây dựng bộ

sưu tập. Họ tạo thành một thị trường đặc biệt ổn định nền công nghiệp âm nhạc, lợi

nhuận chính sẽ thu về từ việc bán băng đĩa, album, người hâm mộ thể hiện tình cảm

của mình bằng cách mua các sản phẩm âm nhạc này [95, tr. 53].

Các fan mua các sản phẩm của thần tượng và việc này giúp thần tượng thu

được lợi nhuận khổng lồ. Việc tiêu thụ này là hoàn toàn tự nguyện, thậm chí như là

một “nghi lễ, tín ngưỡng” mà người hâm mộ cho là cần thiết để ủng hộ idol và là

một cách để “lượng hóa” tình cảm của cá nhân mình. Từ tâm lí yêu quý, ngưỡng

mộ, các fan luôn muốn idol của mình vươn lên hàng đầu. Các fan luôn so sánh thần

tượng nào giàu hơn, mức cat xê của anh ta/ cô ta là bao nhiêu, anh ta bán được bao

nhiêu sản phẩm... và chính họ là những người ngày đêm tiêu thụ không ngừng các

sản phẩm để gia tăng giá trị về mặt vật chất và về mặt thương mại cho thần tượng.

Dưới góc nhìn của văn hoá tiêu dùng, việc fan cày view, giúp thần tượng đạt nút

bạc, nút vàng youtube không phải là một việc vô bổ bởi những con số trên mạng

không chỉ là sự chạy đua giữa các fandom nhằm gia tăng vị thế trên không gian

“ảo” mà còn là một cách tái sản xuất ra lợi nhuận “thực” cho thần tượng. Các thần

tượng lại tận dụng vị thế và danh tiếng được fan tạo ra để tiếp tục sản xuất, sáng tạo

ra sản phẩm khác. Và vòng tròn khép kín của việc hâm mộ và tiêu dùng lại tiếp diễn

không ngừng. Do vậy, giá trị của một thần tượng thời nay suy cho cùng là lợi

nhuận, là số tiền mà anh ta có được.

Soi chiếu những thực hành hâm mộ cũng như tình cảm mà người hâm mộ trẻ

Việt Nam dành cho thần tượng với các mức độ trong thang đo của McCutcheon, Lange

và Houran [145], có thể thấy hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam đa phần chỉ dừng

ở cấp độ 2 “mãnh liệt - cá nhân” tức là vượt lên trên sự giải trí, người hâm mộ thường

xuyên nghĩ về thần tượng, có thể là hàng ngày, hàng giờ, tham gia vào các fan club, có

tính hướng nội và hành động cảm tính, không có tình trạng giống như “seasang fan”

(kẻ chuyên bám đuôi thần tượng, rình rập và căm thù tất cả những cô gái/chàng trai đến

gần thần tượng) như một số fan Hàn Quốc hay “crazy fan” (fan cuồng, điên ám sát cả

89

thần tượng) ở các nước Âu Mỹ. Tình yêu, sự ngưỡng mộ - thông qua các tính năng đa

dạng của truyền thông đại chúng - có thể dễ dàng được “lượng hóa” và đương nhiên,

người tiêu dùng/ người hâm mộ hoàn toàn tự nguyện và thậm chí vui sướng với việc họ

bỏ tiền ra để tiêu thụ để thể hiện tình yêu cũng như lăng xê, quảng bá cho thần tượng

của họ. Bằng cách này, truyền thông và các công ty giải trí, các nhà sản xuất đã thu

được những lợi nhuận khổng lồ.

Tiểu kết chương 3

Có thể nói các thực hành hâm mộ thần tượng của giới trẻ Việt Nam hiện nay

diễn ra sôi nổi, phổ biến và đa dạng. Những người hâm mộ trẻ thể hiện sự yêu thích

thần tượng ở cả các hoạt động online và offline. Đặc biệt, họ đã sử dụng các phương

tiện truyền thông đại chúng một cách đa dạng và sáng tạo để cập nhật thông tin về

thần tượng, kết nối cộng đồng người hâm mộ cũng như ủng hộ và tiếp thị cho tên

tuổi của thần tượng hiệu quả nhất có thể. Bên cạnh các thông tin về thần tượng thì

các thông tin về hoạt động của các FC cũng tốn nhiều giấy mực của báo chí trong

thời gian qua.

Trong số các hoạt động của người hâm mộ trẻ ở Việt Nam hiện nay, những

hoạt động tiêu dùng liên quan đến thần tượng ngày càng nhiều và nổi bật. Không

chỉ tiêu thụ các sản phẩm hàng hóa để mang lại lợi nhuận trực tiếp cho thần tượng,

họ còn tiêu thụ mạnh mẽ đối với các sản phẩm trừu tượng trên truyền thông (nhạc

số, thông tin, hình ảnh) mang lại lợi nhuận gián tiếp cho thần tượng. Người hâm mộ

mua các sản phẩm với niềm tin rằng họ sẽ góp phần vào sự nổi tiếng, thành công

của thần tượng. Đó cũng là một trong những cách thức để họ kết nối với thần tượng

cũng như với những người hâm mộ khác. Có thể nói, từ yêu thích, ngưỡng mộ đến

tiêu thụ các sản phẩm liên quan đến thần tượng là một quá trình trong đó cảm xúc

của người hâm mộ tham gia trực tiếp và có tính quyết định tới vị thế, lợi nhuận của

các thần tượng. Tuy nhiên, các thực hành tiêu dùng có liên quan đến thần tượng lại

là một trong những vấn đề khiến hâm mộ thần tượng ở giới trẻ chịu sự chỉ trích và

định kiến nhiều nhất từ dư luận xã hội, các bậc phụ huynh. Từ góc nhìn nghiên cứu

văn hóa, chúng tôi cho rằng các thực hành này có khả năng soi chiếu nhiều đặc

trưng về giới trẻ, đặc biệt những ảnh hưởng của bối cảnh xã hội tới sự kiến tạo căn

tính của giới trẻ hiện nay. Điều này sẽ được lí giải rõ hơn ở chương 4.

90

Chương 4

HÂM MỘ THẦN TƯỢNG: MỘT PHƯƠNG THỨC

KIẾN TẠO BẢN SẮC Ở GIỚI TRẺ

4.1. Hâm mộ thần tượng trong quá trình định vị căn tính của giới trẻ

4.1.1. Nhu cầu định vị căn tính của những người trẻ

Như đã trình bày ở mục 1.2.2, bản sắc là cách mọi người thể hiện chính bản

thân mình, nhìn nhận những người xung quanh mình và xem xét những gì người

khác nghĩ về mình (Kidd) [132]. Nhu cầu về bản sắc cá nhân gắn với các câu hỏi

“tôi là ai? Tôi nên trở thành người như thế nào? Làm thế nào để phân biệt tôi với

người khác? Ý thức cá nhân về việc “chúng ta là ai” có liên quan mật thiết với

những gì mà xã hội mong muốn chúng ta thực hiện và trở thành (Lê Thu Hường, Lê

Duy Thể) [32]. Mọi hành vi của các cá nhân, cộng đồng đều liên quan đến vấn đề

căn tính (sự định danh, bản sắc), đều là những “chỉ dấu” cho biết “họ là ai”.

Tại sao việc xác định căn tính lại là một nhu cầu quan trọng đối với những

người trẻ trong bối cảnh hiện nay? Erikson [99] cho rằng tuổi trẻ như là một giai

đoạn hình thành bản sắc quan trọng, trong đó cá nhân vượt qua sự không chắc chắn,

trở nên tự nhận thức được điểm mạnh và điểm yếu của họ và tự tin hơn vào các

phẩm chất độc đáo của riêng họ. Họ sẽ phải đối mặt với những “sự khủng hoảng về

nhận dạng”, phải trả lời các câu hỏi quan trọng liên quan đến giá trị và lí tưởng, sự

nghiệp hay nghề nghiệp tương lai và cả bản dạng tính dục của họ. Thông qua quá

trình tự phản thân và tự định nghĩa, giới trẻ sẽ đạt được một ý thức tích hợp, mạch

lạc về căn tính của họ như một cái gì đó bền vững theo thời gian.

Cũng theo Erikson [99], một cá nhân trưởng thành thành công là người đã

đạt được một bản sắc ổn định, việc tiếp tục “nhầm lẫn” về căn tính của một người

trưởng thành là dấu hiệu của sự phát triển không đầy đủ và có thể dẫn đến hành vi

sai lệch hoặc chống đối xã hội. Từ quan điểm này, tuổi vị thành niên được nhìn

nhận chủ yếu như một trạng thái chuyển tiếp, một vấn đề của “trở thành”

(becoming) thay vì “là” (being). Vị thành niên như là một giai đoạn mà những

người trẻ tuổi có thể thử nghiệm với các nhận dạng khác nhau và thực sự tham gia

với các rủi ro khác nhau; như một “giai đoạn ở giữa” của quá trình chuyển tiếp từ

trẻ con sang người lớn, trong đó người trẻ tuổi đang có ý thức tìm kiếm các hướng

tương lai trong cuộc sống của họ. Chính vì là “giai đoạn ở giữa” nên vị thành niên

91

không được coi là một thế hệ có ý thức hệ riêng biệt. Thiên kiến này đã dẫn đến

những khủng hoảng của thanh thiếu niên/ vị thành niên mà đôi khi những khủng

hoảng ấy xuất phát từ việc các thế hệ lớn hơn không hiểu, không coi trọng những

“hệ giá trị” riêng biệt của giới trẻ.

Nhiều nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra những khủng hoảng của lứa tuổi thanh

thiếu niên và coi đây là giai đoạn mà những người này chuyển tiếp từ trẻ con sang

người lớn, là giai đoạn họ luôn loay hoay tìm cách để hiểu chính bản thân mình và

hiểu về xã hội. Bucholtz [80] cho rằng đây là một giai đoạn của cuộc khủng hoảng

về tâm, sinh lí, về giới của những người trẻ tuổi, “một giai đoạn tâm lý chất đầy

những vấn đề xã hội”. Những khó khăn được cho là đặc hữu của giai đoạn này

chính là việc giới trẻ đang phải trải qua những thay đổi văn hóa nhanh chóng vì phải

đối mặt với sự căng thẳng giữa truyền thống và đổi mới. Ở giai đoạn này, giới trẻ dễ

gặp những stress, những trạng thái tâm lí mong manh, dễ bị tổn thương. Sự thay đổi

về bối cảnh xã hội, cùng với căng thẳng tâm lí gây nên những bất đồng giữa người

trẻ và người già. Cách hiểu về thanh thiếu niên như là nhóm tuổi dễ bị ảnh hưởng

nhất bởi sự thay đổi lớn của sự hiện đại hóa cũng đặt ra những câu hỏi về mối quan

hệ giữa thanh thiếu niên và người lớn tuổi.

Đặc biệt, trong bối cảnh xã hội chuyển đổi, giới trẻ phải đối mặt với những

rủi ro và cơ hội mới do những thay đổi từ giáo dục và thị trường lao động, do đó

bản sắc tự thân trở nên mong manh và phải chịu sự diễn giải liên tục và việc diễn

giải lại này khiến cho cuộc sống mỗi cá nhân đã trở thành một dự án phản thân

(self-reflexive) - nơi các cá nhân liên tục bị buộc phải xây dựng lại căn tính của họ

dưới tác động của những trải nghiệm thay đổi. Khi các liên kết truyền thống suy

yếu, tiêu dùng và lối sống đã trở thành trung tâm của quá trình xây dựng bản sắc,

trở nên quan trọng hơn cả yếu tố giai cấp trong việc định hình cuộc sống của những

người trẻ tuổi. Đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa, khi những nền văn hóa liên tục

có sự giao thoa lẫn nhau, thì những câu hỏi về bản sắc lại trở nên được chú ý hơn

bao giờ hết (Furlong & Cartmel) [104]. Toàn cầu hóa buộc các cá nhân, cộng đồng

phải xem xét đến những yếu tố văn hóa ngoại lai và phải tự định vị lại mình trong

tương quan với bối cảnh văn hóa rộng lớn hơn - bối cảnh văn hóa của toàn thế giới

(Kidd [132], Gidley [108]) và như thế, mỗi người luôn phải sống trong tâm thế tự so

sánh, tự phản thân để tìm ra sự khác biệt, hay nói khác đi là căn tính của riêng mình.

Trước những thay đổi liên tục của bối cảnh xã hội, giới trẻ không tránh khỏi những

92

hoang mang và loay hoay trong việc thích ứng với những thay đổi nhanh chóng ấy

cũng như trong việc tìm kiếm và định hình căn tính cá nhân. Họ buộc phải tìm

kiếm, học hỏi, ướm thử và lựa chọn những căn tính khác nhau từ những mẫu hình

gần gũi với lứa tuổi của họ - những ngôi sao giải trí, những thần tượng đương thời.

4.1.2. Vai trò của thần tượng trong quá trình định vị căn tính ở giới trẻ

“THẦN TƯỢNG CỦA CON BẠN LÀ AI?

Thần tượng như một cái áo, theo thời gian mà cơ thể trưởng thành, chiếc áo

sẽ chật. Mình nghĩ nhiều cha mẹ đang đau đầu hay lo sốt vó khi con thần

tượng sao Hàn hay Sơn Tùng M-TP thì nên xem. Với riêng mình, một người

cha có 3 đứa con đang độ tuổi mém trưởng thành thì điều đáng lo nhất

không phải con thần tượng ai mà là con mình không thần tượng một ai. Bởi

nếu con bạn không thần tượng một ai đó thì hẳn cuộc sống của nó đang rất

nhợt nhạt. Mình luôn tin rằng những gì chúng ta thần tượng trong thơ ấu đều

là những mảng màu rất thú vị khi trưởng thành. Lục lại trong ký ức, mình

cũng đã từng có không dưới 100 thần tượng mà mình đã mê mẩn. Từ Diego

Maradona, Platini đến Tuấn Vũ, Chế Linh, Tuấn Ngọc, từ Cổ Long, đến Cô

Cô, Dương Quá… Cho đến tận bây giờ mình vẫn có rất nhiều thần tượng mà

mình vẫn yêu quý, ngưỡng vọng họ từ xa…” (trích nguyên văn từ status trên

facebook công khai của nhà báo Hoàng Anh Tú ngày 28/6/2018).

Trong quá trình chuyển tiếp thành người trưởng thành, giới trẻ “thử” những

căn tính khác nhau, những vai trò xã hội khác nhau trong những không gian khác

nhau. Do vậy, họ dễ có xu hướng ưa thích những hình mẫu, căn tính mà họ cho là

phù hợp với mình trong những thời điểm nhất định. Việc yêu thích và bắt chước

một thần tượng nào đó như nhà báo Hoàng Anh Tú nói trên đây chính là một cách

để giới trẻ có thể “thử” các hình mẫu khác nhau, từ đó dễ dàng hơn trong việc lựa

chọn được những nét căn tính phù hợp nhất với họ và điều đó là một “khâu” quan

trọng đối với thanh thiếu niên, thể hiện sự chủ động của cá nhân những người trẻ

trong quá trình chuyển tiếp từ trẻ con sang người trưởng thành. Bởi lẽ căn tính của

một cá nhân được tạo dựng lên tùy thuộc vào điều kiện, bối cảnh xã hội mà họ sống,

đồng thời cũng phụ thuộc vào tính chủ thể của mỗi cá nhân, trong đó những thần

tượng - những hình mẫu in đậm dấu ấn thời đại có tác động không nhỏ. Như

Nguyễn Thu Giang [16] đã chỉ ra, các thần tượng, người nổi tiếng có chức năng lấp

đầy sự thiếu hụt giao tiếp liên cá nhân trong bối cảnh đô thị hóa, chức năng cung

93

cấp căn tính văn hoá mới và chức năng củng cố ý thức hệ31. Trong quá trình loay

hoay tìm kiếm phương thức định vị bản thân giữa bối cảnh xã hội đầy biến động,

giới trẻ Việt Nam tìm đến các thần tượng như những hình mẫu, đồng thời như một

điểm tựa tinh thần.

4.1.2.1. Thần tượng như một hình mẫu

“Giống như hâm mộ một thần tượng, hẳn là vì thần tượng đã dạy cho bạn những

điều mà trước đây bạn không hiểu, những phẩm chất toả sáng lấp lánh trên người họ

cũng là những thứ bạn mong muốn sở hữu. Bạn muốn ấm áp hơn nên bạn thích những

người ấm áp, bạn muốn tin vào mơ ước nên bạn nghe những ca khúc nói về ước mơ,

bạn muốn trở nên mạnh mẽ, nên bạn thích những người mạnh mẽ mà nỗ lực. Với thần

tượng, cách tốt nhất để hâm mộ không phải là phát cuồng vì họ mà là để người khác

biết, người hâm mộ họ cũng là những người biết nỗ lực” (Lư Tư Hạo) [21, tr. 45]. Đây

là câu nói được rất nhiều fan K-Pop chia sẻ trên các fanpage gần đây. Theo họ, thần

tượng là hình mẫu có thể giúp người hâm mộ nhận ra rõ ràng hơn những gì họ muốn

hướng đến. Trưởng một FC Sơn Tùng tại Hà Nội cho biết lí do mình thích ca sĩ này là

bởi vì “không chỉ tài năng mà còn vì đời tư cực kì sạch sẽ, kín tiếng, lành tính không

thích nói nhiều nhưng hành động quyết liệt. Thêm nữa là dù giàu có vẫn chung thuỷ

(giống mình). Ngày xưa hay bây giờ, mình đều hâm mộ rất nhiều người tài nhưng nếu

đời tư có “vết” thì mình không bao giờ support”.

Ngoài việc coi thần tượng là hình mẫu về tính cách, lối sống, người hâm mộ

còn có xu hướng bắt chước thần tượng bằng cách sao chép cách ăn mặc, kiểu tóc,

cách ứng xử, giọng nói, và bất kỳ mô hình hành vi xã hội nào khác để đạt được sự

gần gũi hơn với thần tượng của họ. Người hâm mộ không ngần ngại tiêu thụ những

sản phẩm liên quan đến thần tượng bởi chúng đã “được chứng thực bởi danh tiếng

của thần tượng” (Huang, Phau) [121].

Xu hướng dễ bắt chước, theo đuổi, hướng tới hình mẫu của thần tượng ở giới

trẻ cũng là một trong những lí do khiến các ngôi sao trở nên đắt giá với các nhà sản

xuất, các nhãn hàng. Các fan của Sơn Tùng từng phát sốt với kiểu mũ đội đầu, kiểu

đeo túi chéo trước ngực, kiểu tóc, các mẫu giày và quần áo, thậm chí cả hình xăm

của ca sĩ này. My - một fan cứng của Sơn Tùng - như đã nhắc đến ở 3.1. cho biết

31 Ý thức hệ hay hệ tư tưởng là một tập hợp các niềm tin, ý tưởng hoặc triết lý được gán cho một người hoặc một nhóm người (Nguyễn Thu Giang 2011).

các hình xăm trên tay của My giống hệt từ kiểu dáng đến vị trí của Sơn Tùng. Các

94

fan của Lisa (nhóm Blackpink) cũng từng học theo kiểu tóc mái búp bê hay kiểu

mặc áo crop-top kết hợp quần jean ống rộng của cô ấy. Những sự theo đuổi phong

cách này tạo cho giới trẻ cảm giác về sự trẻ trung, năng động, sành điệu, hợp thời.

Trong nội bộ một nhóm FC, rất dễ nhìn ra những kiểu cách ăn mặc giống hệt nhau.

Ví dụ các fan của Sơn Tùng mua giày Biti’s Hunter, dùng điện thoại Oppo; fan của

BTS tìm mua áo Fila... Điều này có thể lí giải qua sự tiêu thụ những sản phẩm hàng

hóa để giống với thần tượng. Thói quen này góp phần hình thành ý tưởng về gu

khác biệt trong giải trí, tiêu dùng và phong cách cá nhân người hâm mộ.

Việc bắt chước một hình mẫu đã được đông đảo mọi người chấp nhận còn

giúp giới trẻ gia tăng sự tự tin cho quá trình thử nghiệm những phong cách mới của

mình. Quá trình thử nghiệm này còn diễn ra ở việc tìm tòi đam mê, tìm kiếm năng

lực cá nhân và tìm đường cho tương lai của giới trẻ. Đây là quá trình quan trọng

giúp giới trẻ có thể nhận biết căn tính nào phù hợp nhất với mình khi chuyển tiếp từ

trẻ con sang người lớn.

Những người hâm mộ trẻ tuổi xem xét một thần tượng nổi tiếng như là hình

ảnh tự tưởng tượng của họ. Những người hâm mộ muốn phát triển hoặc tinh lọc các

đặc điểm nhân cách tương tự như thần tượng của họ. Giới trẻ cho thấy họ muốn

thay đổi ngoại hình, khả năng, giá trị và thái độ để bắt chước những người là thần

tượng của họ (Chan) [85, tr. 80]. Những ngôi sao, người nổi tiếng dần được coi là

những người dẫn đầu, định hướng phong cách sống cho công chúng, đặc biệt là giới

trẻ, những người dễ chịu ảnh hưởng từ những hình mẫu nổi bật trên truyền thông.

Người hâm mộ đã lựa chọn để làm nổi bật những căn tính nhất định ở thần

tượng như một cách thức xây dựng một hình mẫu lí tưởng - một tuyên ngôn ngầm

về những phẩm chất mà họ hướng đến, họ tự hào như là có mình trong đó, chỉ khác

là thần tượng của họ thì tài năng, thành công và nổi tiếng hơn. Do vậy, thần tượng

là kết quả của những hình ảnh được lí tưởng hóa bởi truyền thông, nhưng đôi khi

cũng bởi chính những người hâm mộ trẻ - những người luôn ngưỡng mộ những

phẩm chất ở thần tượng mà họ cho rằng họ còn khuyết thiếu hoặc mơ ước vươn tới.

Em còn nhớ lúc 16 tuổi, đêm nào em cũng phải chịu áp lực về việc học và việc bố

mẹ thúc ép về việc phải thi vào trường chuyên. Lúc đó tâm trạng rơi vào khủng

hoảng, em còn có suy nghĩ là tự tìm đến cái chết. Trong đầu suy nghĩ chắc chả ai

phải chịu sức ép đó lớn hơn mình đâu. Và một hôm đang học thì em có nghe thấy

4.1.2.2. Thần tượng như một điểm tựa tinh thần

95

ở quán cà fe gần nhà mở nhạc của Tùng, không hiểu đó là trùng hợp hay định

mệnh sắp đặt mà câu hát em nghe được lại là “Đừng nhìn lại nhé để muộn phiền ở

lại nhé”. Câu hát đó cứ văng vẳng bên tai cho đến lúc em về đến nhà, hôm đó em

đã lục lọi trên mạng và biết được người hát bài đó là Sơn Tùng. Tìm hiểu sâu hơn

về anh qua chương trình Lần đầu tôi kể, em nhận ra sự chèn ép mà em phải chịu

đâu bằng anh. Lúc đó em đặt ra câu hỏi anh cũng là con người, mình cũng là con

người mà sao mình lại không thể đứng lên giống anh được? Và từ ngày đó, em tìm

hiểu về anh và thường xuyên nghe nhạc của anh, thì cuộc sống của em đã rất

khác. Không còn những nỗi sợ, áp lực từ gia đình, từ việc học và quan trọng nhất

là em tìm được con đường riêng cho mình, giống như cách anh đã tìm đường đến

với những khán giả khó tính. Thật sự cảm ơn anh - người đã mang đến cho em

động lực vượt qua tất cả nỗi sợ đó. Cảm ơn Thanh xuân của em (fan nữ 18 tuổi,

trích từ Sky Confessions).

Với những bạn trẻ còn đang ở độ tuổi học sinh, khi tâm lí chưa phát triển

hoàn thiện, lại thường xuyên phải đối mặt với những lo lắng từ áp lực học hành, các

thần tượng xa xôi không chỉ là một gương mặt đẹp, một giọng hát đẹp, một body

quyến rũ mà còn là một nơi để tâm tình, thậm chí để giải toả những căng thẳng.

Quay lại với My - một “fan sân bay” và là một fan luôn sẵn sàng chi tiền vì

thần tượng mà tôi đã nhắc đến ở phần viết trước. My là một học sinh năm cuối

Trung học phổ thông, trong một gia đình có bố là giảng viên một trường Đại học

còn mẹ kinh doanh cà phê tại nhà. Ngoại hình hơi tròn trịa và không có tài năng gì

nổi bật, My khá mặc cảm, em ít nói và nhút nhát khi ở trường. Cuộc sống của My

chỉ quanh quẩn từ nhà đến trường, tẻ nhạt, nhiều lần chán nản, My cũng không biết

tâm sự cùng ai vì bố mẹ em đã quá bận rộn với việc kiếm tiền. Vào năm 13 tuổi, My

tình cờ nghe được ca khúc “Em của ngày hôm qua” của Sơn Tùng, em bắt đầu tìm

hiểu sâu hơn về ca sĩ này. Chứng kiến sự nỗ lực của Sơn Tùng, My trở thành một

người hâm mộ cuồng nhiệt từ lúc nào không hay. Nhờ Sơn Tùng mà cuộc sống của

My có thêm nhiều sắc màu rực rỡ. My nhìn thấy ở Sơn Tùng sự đam mê và khả

năng dấn thân, dám liều lĩnh thử thách bản thân và kiên định với lựa chọn của mình.

Sau khi thử qua một số việc làm thêm như bán hàng online, My tự phát hiện ra được

“tài lẻ” của mình đó là làm bánh. Với lực học không tốt, My cũng ít khi tâm sự với

bố mẹ nhưng nhận thấy mình không thể thi đỗ Đại học, My thử tìm cách thuyết

phục bố mẹ về việc đi học nghề. Với mẹ thì dễ hơn, còn bố My - một giảng viên đại

96

học, điều này không dễ được chấp nhận, bố My đã từng giận dữ tuyên bố “không

học thì chết đói, có giỏi thì tự kiếm tiền mà nuôi thân”. My quyết định không đi học

thêm mà ngoài giờ học, My tự mày mò làm các loại bánh và bán online, dần dần,

lượng khách mua bánh quen thuộc dần đông hơn, có lúc lượng người follow

facebook bán hàng của My lên tới 9000 người. Việc bán bánh này là cách để My

chứng minh với bố mẹ rằng ai cũng có khả năng riêng và không nên cố ép bản thân

theo những con đường truyền thống. Bố mẹ đã chấp nhận để My đi học làm bánh

ngay sau khi kết thúc kì thi Phổ thông quốc gia. Vì vậy, với My, Sơn Tùng không

chỉ là một ca sĩ đẹp trai, hát hay, sáng tác giỏi và sớm nổi tiếng, mà còn là một tấm

gương về việc tìm kiếm và kiên trì theo đuổi đam mê riêng.

Không giống như My, từ bé đến lớn, Dũng luôn được bố mẹ bao bọc và đầu

tư rất nhiều cho việc học. Vì vậy, cậu từng rất áp lực về chuyện học hành, thi cử để

làm đẹp mặt bố mẹ. Dũng từng muốn “trở thành cầu thủ bóng đá” nhưng ý tưởng

này đã bị bố cậu chê là “viển vông và nhố nhăng”, “không ổn định”, Dũng đành thi

đại học theo ý muốn của bố mẹ. Lúc ấy, bản thân Dũng cũng hoang mang, chưa xác

định rõ mình nên theo nghề gì. Dù học xong đại học, từng cầm bằng đi xin việc và

làm nhân viên văn phòng ở vài công ty, nhưng Dũng cảm thấy thực sự tù túng trong

không gian bốn bức tường, hết giờ thì về, vô vị và tẻ nhạt. Hai năm sau khi ra

trường, Dũng vẫn loay hoay không biết mình muốn gì: tiếp tục công việc mà cậu

không thấy hứng thú hay thử sức theo đuổi đam mê thể thao xưa kia, dù sao cậu

cũng đã hoàn thành tâm nguyện của bố mẹ và tròn vai một “người con ngoan”. Khi

đọc được những tâm sự trong tự truyện Chạm đến giấc mơ của Sơn Tùng: “Ngay cả

ước mơ cũng không dám thì bạn sẽ chẳng làm được gì cả”, Dũng đã quyết định từ

bỏ công việc ổn định hiện tại để tham gia khoá học trở thành một huấn luyện viên

thể hình theo đúng sở trường và ước mơ của mình.

Với những người như My, Dũng, quá trình vươn đến thành công của thần

tượng như là động lực thúc đẩy những đam mê và sáng tạo, là “người truyền cảm

hứng” cho họ. Các fan cũng nhiều lần chia sẻ câu chuyện mà Sơn Tùng trải qua

Anh ấy từng thổ lộ rằng anh ấy muốn làm những điều khác biệt, thà bị ghét hay bị

như thế nào đi chăng nữa, nhưng anh ấy sẽ luôn thoả mãn vì đã làm những điều

khác biệt, không muốn bước trên một bước đi quá an toàn... Khi ấy anh ấy 22 tuổi,

anh ấy nói rằng đến lúc 23, 24 tuổi, nếu không tự mình trải nghiệm, tự mình vấp

trong quãng thời gian “tìm hướng đi cho tương lai” của mình:

97

ngã thì anh ấy sẽ không thể nào mà đạt được ước mơ của mình. Anh ấy cũng

nhiều lần nói với fan rằng “Cứ đi rồi sẽ đến. Nếu không đi thì sẽ không bao giờ có

thể biết được mình sẽ đi được đến đâu” (My, 18 tuổi).

Những người hâm mộ đã lấy sự nỗ lực và thành công của Sơn Tùng như một

“tấm gương” soi cho chính mình. Họ học được ở Sơn Tùng tinh thần dám đương

đầu với những khó khăn, thậm chí cả những chỉ trích của dư luận. Khi những câu

hát đầy tính phá cách của ca khúc “Không phải dạng vừa đâu” hay “Remember me”

vang lên đã lập tức thu hút và làm giới trẻ phát cuồng, không chỉ bởi ca từ lạ mà còn

như là tuyên ngôn về việc khẳng định cái tôi cá nhân của họ: Người ta soi mói bạn

đến từng phút giây. Xung quanh bốn phương ôi sao mỗi tôi khác biệt. Ờ thì tôi đang

sống cuộc sống của tôi mà thôi... Một điều tôi kiếm tìm, một loài hoa khác biệt, mùi

hương chẳng giống theo một ai, tôi là tôi, ai là ai, tôi mặc kệ thôi... Tôi không phải

dạng vừa đâu (Lời bài hát Không phải dạng vừa đâu của Sơn Tùng M-TP). “Không

phải dạng vừa đâu” đã trở thành một câu cửa miệng quen thuộc của giới trẻ suốt từ

lúc bài hát này xuất hiện cho đến nay.

Quay lại câu chuyện của Hằng (như đã nhắc đến ở mục 3.2), mới đây, khi gặp

lại Hằng trong buổi công chiếu bộ phim Sky tour movie của Sơn Tùng, Hằng chủ động

rủ tôi chụp ảnh cùng và khoe rằng sắp nghỉ làm ở siêu thị để mở một cửa hàng riêng

chuyên bán các sản phẩm thân thiện với môi trường, đúng với ước mơ bấy lâu của

Hằng. Hằng nói “Tùng đã thành công khi miệt mài theo đuổi đam mê của mình, em

cũng sẽ học theo sự kiên trì của anh ấy, em sẽ thử sức mình một lần”. Với những bạn

gái từng rụt rè và sợ thất bại như Hằng, quyết định này quả thực không dễ dàng, nhưng

chính việc “tiêu thụ ý nghĩa” về sự kiên trì theo đuổi đam mê của thần tượng đã giúp

Hằng có đủ tự tin để lựa chọn làm những thứ mình yêu thích.

Họ cũng học được ở Sơn Tùng cách tìm kiếm và khám phá năng lực bản

thân, nuôi dưỡng ước mơ của mình, cách kiềm chế cảm xúc trước những lời châm

chọc của bạn bè ngoài đời hay trên mạng xã hội qua những lần vượt qua scandal của

Đã có lúc em cảm thấy mình hết hi vọng, hoàn toàn thất vọng về bản thân, cảm

thấy mình kém cỏi. Giữa những ngày tháng dài giam mình trong phòng và khóc,

em nghĩ đến câu chuyện của Tùng từ khi 17 tuổi, 18 tuổi khi bị chỉ trích vì nghi án

đạo nhạc, có lúc anh ấy mệt mỏi đến độ từng nghĩ đến việc tự tử, em cũng từng

trải qua cảm giác của một kẻ thất bại và cũng từng nghĩ quẩn, nhưng sau đó Tùng

Tùng. Một bạn gái từng trượt đại học năm đầu tâm sự:

98

vượt qua được và đạt được thành công như hiện nay, em thấy tại sao mình hèn

nhát quá. Chính Tùng đã vực em dậy. Suốt những ngày tháng ôn thi lại, Tùng là

bạn đồng hành, là người tiếp sức cho em. Lúc ấy, mong muốn được gặp Tùng là

động lực để em cố gắng thi đỗ Đại học (PV 10/ 2017).

Những người trẻ như đã nói trên đây đều muốn có một “điểm tựa về tinh thần”

và thần tượng chính là những người xuất hiện đúng lúc và vun đắp cho họ ý thức

khám phá năng lực, sở thích, đam mê, sự nỗ lực của bản thân. Xin nói thêm về

trường hợp của My, My là con gái trong gia đình có bố là Phó giáo sư nhưng bạn trẻ

này đã quyết định không thi đại học để theo đuổi năng khiếu và đam mê làm bánh;

chính Sơn Tùng M-TP là chỗ dựa về tinh thần để My nhận thức về bản thân, thêm

hi vọng vào tương lai và sự lựa chọn của mình. Đây có lẽ là lí do khiến My là một

trong những fan cuồng nhiệt nhất, luôn tiêu thụ thần tượng ở bất cứ đâu, với bất cứ

sản phẩm nào (như đã trình bày ở mục 3.3.).

Các ngôi sao giải trí hiện nay thành công ở độ tuổi rất trẻ và điều này được coi

là “truyền cảm hứng mạnh mẽ” tới giới trẻ - những người hâm mộ của họ - những

người đang trong giai đoạn loay hoay tìm kiếm hướng đi cho tương lai của chính

mình, những người đang muốn dấn bước nhưng vẫn còn chút e dè, ngập ngừng vì

sợ sai lầm, thất bại, sợ bị phán xét bởi những người lớn. Trước sự kì thị và định kiến

của những thế hệ lớn hơn, người hâm mộ trẻ đã “sử dụng hình ảnh của thần tượng

như là một hình ảnh phương tiện để phục vụ cho việc xây dựng bản sắc cá nhân và

bản sắc nhóm của họ” (Ka Ki Cheung ) [89, tr. 4].

4.2. Những phương thức kiến tạo căn tính của người hâm mộ trẻ

Từ việc coi thực hành văn hoá như một cách tạo nghĩa, chúng tôi lập luận rằng

những diễn giải về thần tượng của người hâm mộ cũng đồng thời là một sự phản chiếu

về chính cá nhân họ; những cảm xúc, ý nghĩa mà cộng đồng người hâm mộ chia sẻ

cũng chính là cách thức để họ khám phá và tạo dựng căn tính. Ở phần này, chúng tôi sẽ

chỉ ra những phương thức kiến tạo căn tính của giới trẻ thông qua thực hành hâm mộ

thần tượng của họ theo hai khía cạnh: căn tính cá nhân và căn tính nhóm.

4.2.1. Giải mã thần tượng: sự phản chiếu cá nhân

Như đã nêu ở chương 1, theo quan niệm thực hành văn hóa như một quá trình tạo

nghĩa và bản sắc là một quá trình kiến tạo văn hóa - xã hội, chúng tôi cho rằng quá

trình “cấp nghĩa” cho thần tượng cũng như cấp nghĩa cho các thực hành của cá nhân và

nhóm hâm mộ chính là quá trình giới trẻ kiến tạo căn tính của mình. Giải mã thần

99

tượng thực chất chính là quá trình mà người hâm mộ trẻ khám phá những căn tính phù

hợp, cũng là hành trình mà họ kiến tạo căn tính của chính bản thân mình.

Những loại thông điệp mà người nổi tiếng cung cấp cho công chúng đều

xoay quanh những dạng thức định vị căn tính cá nhân, sự khác biệt xã hội và

tính phổ quát trong các kiểu mẫu nhân cách. Người nổi tiếng tái trình hiện

lại một vị trí chủ thể (subject position) mà công chúng có thể sử dụng hoặc

phỏng theo quá trình hình thành căn tính xã hội của mình (Marshall 1997:

25, dẫn theo Nguyễn Thu Giang) [16, tr. 159].

Theo lí thuyết về tái trình hiện (representation) (Hall) [115, tr. 1-2)32, những

thứ chúng ta nhìn thấy chỉ là sự tái trình hiện về nó chứ không thực sự là nó. Một

thần tượng trong mắt và tâm trí công chúng cũng như người hâm mộ thực ra là

những hình ảnh đã được kiến tạo, được tái trình hiện theo những cách khác nhau

của từng cá nhân khác nhau. Thần tượng trong mỗi người không giống nhau, không

trùng lặp nhau là do họ có những cách “giải mã” hình ảnh về thần tượng và kiến tạo

thần tượng khác nhau, tùy thuộc vào cảm xúc, nhận thức và hoàn cảnh riêng của họ

(Kozinets) [135]. Tuy nhiên, do cùng chia sẻ một niềm tin chung, một tình cảm yêu

mến chung và một số bản sắc (phẩm chất) được hướng tới chung ở người hâm mộ

mà thần tượng của một nhóm fan sẽ có những phẩm chất, đặc điểm chung nhất

định. Bản thân các ngôi sao cũng thử những cách “tái trình hiện” khác nhau để lựa

chọn được một “tái trình hiện” - một phong cách cá nhân phù hợp nhất, mang tính

visual (hiệu quả, hiệu ứng tốt) và theo họ là thu hút khán giả nhất. Do vậy, có lúc

công chúng thấy họ sexy, cá tính, lúc lại thấy họ theo phong cách cổ điển, có lúc lại

gần gũi, trẻ trung; mỗi giai đoạn, họ sẽ xây dựng một phong cách và hình ảnh khác

nhau, theo những chiến lược phát triển bản thân và sự nghiệp nhất định. Hình ảnh

các thần tượng xuất hiện trên truyền thông (đa số người hâm mộ chỉ nhìn thấy các

thần tượng trên các phương tiện hay các sự kiện truyền thông) là hình ảnh đã được

mã hóa (code) theo những mục đích, chiến lược, cách thức khác nhau của những

“sản phẩm” truyền thông khác nhau. Việc có thể đọc và giải mã các hình ảnh/ sự tái

32 Theo Stuart Hall, những người thuộc cùng một nền văn hóa phải chia sẻ một bản đồ khái niệm tương tự và cùng một cách giải thích các dấu hiệu của một ngôn ngữ để ý nghĩa có thể được trao đổi một cách hiệu quả. Sự tái trình hiện có một vị trí quan trọng trong nghiên cứu văn hóa vì nó kết nối ý nghĩa và ngôn ngữ với văn hóa.

Sự tái trình hiện có nghĩa là sử dụng ngôn ngữ để đại diện hoặc nói điều gì đó về thế giới một cách có ý nghĩa. Theo Stuart Hall, đó là một phần thiết yếu của quá trình sản xuất và trao đổi ý nghĩa giữa các thành viên của một nền văn hóa (Hall 1997).

trình hiện (representation) đó như thế nào tùy thuộc vào năng lực, tri thức, thị hiếu,

100

thẩm mỹ, địa vị xã hội... của mỗi người hâm mộ. Việc “giải mã” thần tượng từ các

fan của Sơn Tùng M-TP cho thấy điều này.

Sơn Tùng được cộng đồng fan đánh giá là một nghệ sĩ giải trí tài năng. Mặc

dù mới chỉ xuất hiện 8 năm nay và sáng tác không quá nhiều nhưng Sơn Tùng được

coi là ca sĩ hàng đầu trong làng nhạc Việt. Thời gian đầu, các ca khúc mang đậm

màu sắc K-Pop của nam ca sĩ này đã chạm đúng thị hiếu của các khán giả trẻ lúc

này khi âm nhạc K-Pop đang lan rộng trong đời sống giới trẻ Việt Nam. Kết hợp

giữa âm nhạc và vũ đạo, những màn biểu diễn của Sơn Tùng thu hút số đông khán

giả. Sơn Tùng như một phiên bản hoàn hảo của các ca sĩ thần tượng Hàn Quốc: vừa

biết sáng tác vừa biết hát, lại biết truyền thông cho hình ảnh của mình, biết kết nối

hiệu quả với các fan. Không dừng lại ở việc tự thỏa mãn với thành công nhanh

chóng của mình và chiều theo thị hiếu thích nghe nhạc Pop ballad của đa số khán

giả trong nước, ca sĩ này lại chịu khó cập nhật rất nhanh những trào lưu âm nhạc

thịnh hành trên thế giới để mang đến những làn gió mới cho khán giả Việt. Do vậy,

các bài hát của Sơn Tùng luôn rất mới mẻ, bắt tai người nghe về mặt giai điệu, còn

ca từ lại rất gần gũi, dễ thuộc. Thêm vào đó, Sơn Tùng còn được đánh giá là ngôi

sao có ngoại hình đẹp và gu thời trang khác biệt - một yếu tố quan trọng để hút fan

ở những ca sĩ thần tượng hiện nay. Những phong cách thời trang (mũ, áo, giày, kiểu

tóc, hoa tai, những hình xăm), cách ứng xử với truyền thông, cách giao lưu với

fan... của Sơn Tùng đã luôn nhận được sự khen ngợi từ người hâm mộ. Sơn Tùng

xuất hiện với phong cách vừa ngông nghênh, phá cách, vừa hồn nhiên, tươi trẻ đã

thổi một làn gió mới, đầy hứng khởi đến nền âm nhạc Việt Nam sau một thời gian

dài ảm đạm. Các fan của Sơn Tùng “diễn giải” về sự thành công của ca sĩ này như

là kết quả của một sự học hỏi, một sự “lai ghép văn hóa” thành công. Vẫn là âm

nhạc và vũ đạo và phong cách ảnh hưởng từ Mỹ, Hàn nhưng Sơn Tùng là sản phẩm

“made in Việt Nam”. Trong chất liệu âm nhạc và chiến lược tạo dựng hình ảnh của

ca sĩ này vẫn chứa những yếu tố đậm chất Việt Nam, cho nên tạo cảm giác vừa lạ

vừa quen đối với khán giả.

Người hâm mộ còn nhìn thấy ở Sơn Tùng hình ảnh của một doanh nhân trẻ

thành đạt. Năm 2017, Sơn Tùng rời Wepro - công ty giải trí của Nguyễn Quang

Huy để thành lập công ty giải trí M-TP Entertainment do chính mình làm chủ tịch.

Các fan tự hào khi gọi Sơn Tùng là chairman (chủ tịch) và liên tục ca ngợi sự bứt

phá này của thần tượng. Cái mà người hâm mộ quan tâm bây giờ ở ca sĩ này không

101

chỉ là các ca khúc, các MV mà còn cả các dự án mà công ty Sơn Tùng hợp tác với

các đối tác khác. Họ like, share các bức ảnh, video nhằm xây dựng hình tượng Sơn

Tùng giống hình tượng của các nhân vật tổng tài “bên ngoài đẹp trai, bên trong

nhiều tiền” trong các truyện ngôn tình mà giới trẻ gần đây ưa thích.

Theo những người hâm mộ Sơn Tùng, một ngôi sao được tôn vinh là thần

tượng không chỉ là người có tài năng, phong cách mà còn là người có phẩm chất và

tính cách tốt. Đối với các fan, Sơn Tùng là một người công dân tốt, một người đề

cao giá trị của gia đình (hiếu thảo), một người trẻ lễ độ và cư xử đúng mực... Các

fan thường chia sẻ video Sơn Tùng nói về lòng yêu nước và sẵn sàng đứng lên khi

tổ quốc cần: “Tùng từng là người mạnh mẽ phản đối “đường lưỡi bò” của Trung

Quốc, không né tránh như một số ngôi sao khác vì sợ mất fan là người nước này”.

Các fan cũng ngưỡng mộ việc Sơn Tùng thường xuyên thể hiện tình cảm với bố mẹ

và em trai của mình; những chuyến du lịch cùng gia đình, những bữa tiệc nhỏ với

đầy đủ 4 thành viên của gia đình Sơn Tùng luôn nhận được sự chú ý của cộng đồng

fan hâm mộ. Sơn Tùng trong mắt fan là người cư xử đúng mực, lễ độ với tiền bối

hoặc đồng nghiệp: “Trên sân khấu, Tùng có thể là một ông hoàng, nhưng khi bước

xuống, Tùng chỉ là một người bình thường mà thôi”.

Sự nghiêm túc và chín chắn khi làm nghề cũng như khi giao tiếp, ứng xử của

Sơn Tùng đã chinh phục được cả những fan lớn tuổi (50-70 tuổi). Khánh (32 tuổi,

trưởng nhóm của một FC rất đông fan lớn tuổi) cho rằng những người hâm mộ lớn

tuổi hơn yêu quý Sơn Tùng vì sự chỉn chu, cầu toàn, chỉ tập trung vào việc của

mình: “sự chỉn chu trong tất cả sản phẩm mà Tùng làm ra, vì nhân cách, tấm lòng,

hành động của Tùng. Sơn Tùng chưa bao giờ phụ lại niềm tin mà Sky dành cho cậu.

Ở làng giải trí mà con người dễ dàng hạ thấp nhau, quá nhiều cám dỗ và chiêu trò,

Sơn Tùng chưa bao giờ chịu gục ngã, từ bỏ hay buông thả, luôn nỗ lực làm tròn vai

trò của một người nghệ sĩ với âm nhạc, với người hâm mộ, với đam mê thì chẳng có

lí do gì để những người đã yêu thương Tùng để mất đi niềm tin cả” hay “Cá tính

của Tùng là khi hát lên khán giả đều biết nhạc này của ai. Cá tính là chỉ tập trung

việc mình làm, hướng tới tư duy sáng tạo, không so sánh, sân si với các đồng

nghiệp khác. Ấy mới là nét riêng chuyên nghiệp, là cá tính khác biệt còn thiếu nhất

hiện nay của cả showbiz Việt”. Có thể nói, sự “diễn giải” này của Khánh về Sơn

Tùng cũng chính là sự thể hiện những tính cách, phẩm chất và cá tính mà Khánh ưa

102

chuộng. Vì tìm thấy sự tương đồng nên Khánh mới yêu thích, ngưỡng mộ Tùng

theo kiểu “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.

Đặc biệt, nhiều bạn trẻ cho rằng, phẩm chất đáng học tập nhất của Sơn Tùng

là luôn im lặng, kín tiếng, lấy sản phẩm và nỗ lực để khẳng định bản thân và đập

tan mọi nghi ngờ của dư luận. Những năm mới bước chân vào showbiz, khi bắt đầu

nổi tiếng cũng là lúc giông bão ập đến với Sơn Tùng bằng một loạt scandal về nghi

án đạo nhạc Hàn Quốc, thậm chí phong cách biểu diễn cũng bị coi là bắt chước một

ca sĩ nổi tiếng của Hàn. Giữa lúc ấy, chỉ có fan bức xúc bênh vực, còn Sơn Tùng chỉ

im lặng, không lên tiếng thanh minh, cũng không lên mạng than thở, kể khổ mà

lặng lẽ vượt qua dư luận, tiếp tục sáng tác ra những ca khúc hay và biết cách làm

cho chúng nổi đình nổi đám cả làng nhạc Việt, dần tự khẳng định vị trí và tài năng

của mình, đúng như Sơn Tùng từng chia sẻ: “Muốn ngồi ở vị trí không ai ngồi được

thì phải chịu được cảm giác không ai chịu được”. Trong show diễn Skytour tổ chức

tại Hà Nội, trước đông đảo người hâm mộ, khi được hỏi “tại sao lại chọn cách im

lặng?”, Sơn Tùng đã trả lời fan rằng: “im lặng hành động và tạo ra được những sản

phẩm chất lượng là cách tốt nhất để khẳng định bản thân và đập tan những tin đồn”

(Tư liệu quan sát tham dự 17/8/2019). Như vậy, trong rất nhiều lí do để các fan yêu

thích Sơn Tùng nhưng những nét nổi bật về phẩm chất và tính cách của ca sĩ này

mới là điều khiến họ hâm mộ cuồng nhiệt và lâu dài.

Sơn Tùng còn là một ca sĩ trẻ dám nghĩ dám làm khi nỗ lực mang âm nhạc

Việt Nam vươn ra thế giới, bằng cách hợp tác với những nghệ sĩ nổi tiếng nước

ngoài như Mai Davika - diễn viên nữ Thái Lan đóng trong MV Chạy ngay đi (2018)

hay Snoop Dog - huyền thoại nhạc Rap của Mỹ trong MV Hãy trao cho anh (2019).

Đối với người hâm mộ, Sơn Tùng là một điển hình cho việc thâm nhập thành công

vào quá trình toàn cầu hóa, là cầu nối giữa Việt Nam và thế giới. Đặc biệt, với tham

vọng đứng trên sân khấu Mỹ hát bằng tiếng Anh, tiếng Việt (đánh dấu bằng việc kết

hợp với huyền thoại nhạc Rap của Mỹ trong MV Hãy trao cho anh), Sơn Tùng trở

thành một thần tượng có thể truyền tải tâm thức vươn ra ngoài thế giới của giới trẻ.

Đến nay, qua các sản phẩm âm nhạc như Lạc trôi, Nơi này có anh, Chạy ngay đi và

nhất là Hãy trao cho anh mới đây, rất nhiều người ở các quốc gia, các châu lục khác

nhau trên thế giới trở thành người hâm mộ của Tùng. Dám mơ lớn, đi ra khỏi vùng

an toàn, luôn tìm kiếm và thử nghiệm những thứ mới mẻ, không lặp lại mình, bắt kịp

“trend” thế giới, viết tên Vpop trên bản đồ âm nhạc thế giới... là những từ ngữ mà

103

các fan lặp đi lặp lại gần đây khi nói về Sơn Tùng cho thấy những “phẩm chất” mà

họ “gán” cho thần tượng này là một sự phản ánh những khát khao, mong muốn của

chính họ, với những điều mà họ cho là có ý nghĩa, giá trị trong bối cảnh hiện nay.

Tất cả những sự “giải mã” trên đã tạo nên một Sơn Tùng hoàn hảo trong mắt

những người hâm mộ. Những “mã” này ở Sơn Tùng đã được nhắc đi nhắc lại và tô

đậm hơn trở thành những căn tính rõ nét để khán giả nhận ra và phân biệt Sơn Tùng

với những nghệ sĩ khác. Giờ đây, trong showbiz Việt, Sơn Tùng đã trở thành một

biểu tượng: biểu tượng của một thế hệ nghệ sĩ trẻ tài năng, của thế hệ người trẻ Việt

dám khác biệt, dám nghĩ dám làm, của sự lai ghép giữa truyền thống và hiện đại,

toàn cầu... Việc hâm mộ Sơn Tùng M-TP ảnh hưởng không nhỏ đến tính cách, quan

điểm của cá nhân người hâm mộ. Nó không chỉ phản chiếu những trăn trở mà còn

phản chiếu những mong muốn, khát khao, nỗ lực của giới trẻ trong quá trình tìm

kiếm căn tính và hướng đi cho tương lai của chính mình.

Trong quá trình giải mã thần tượng, các fan đã chủ động kiến tạo và lựa chọn

những “phẩm chất” mà họ cho là có lợi nhất cho thần tượng yêu thích của mình.

Việc họ nhấn mạnh và tập trung làm nổi bật và cố tình “phớt lờ” một số đặc điểm

nào đó về thần tượng rõ ràng thể hiện sự chủ động và chiến lược của họ. Chẳng hạn

fan của Hồ Ngọc Hà tập trung sự chú ý vào nghị lực, bản lĩnh, sự thông minh và

thần thái của ca sĩ này và “làm mờ” đi những thông tin đồn thổi xung quanh đời tư

của cô. Hay fan của Chi Pu thường đề cao sự cố gắng, phong cách biến hóa đa dạng

và tính “giải trí” cao trong cách sản phẩm của ca sĩ này để “làm mờ” đi việc anti-fan

thường chê trách về chất giọng và khả năng ca hát của cô. Theo quan sát của tôi ở

một số FC Sơn Tùng, có những fan tuyên bố trở thành anti-fan trước thái độ im lặng

của ca sĩ này khi gặp phải scandal trên truyền thông, có một số fan vẫn đang cố

gắng bảo vệ và ủng hộ idol trước làn sóng tẩy chay, công kích, có những người tạm

thời hướng sự chú ý đến những thần tượng khác của họ... Gần đây nhất, fan của Sơn

Tùng đã kêu gọi nhau “share” những hình ảnh thể hiện tình cảm với gia đình, bạn

bè của ca sĩ này như một chiến thuật “đánh lạc hướng” cộng đồng mạng với hi vọng

để scandal về cả chuyện tình cảm và nghi án đạo nhạc... của ca sĩ này lắng xuống

theo thời gian.

Đối lập với sự diễn giải của các fan là sự diễn giải của các anti-fan về ngôi

sao mà họ ghét. Ví dụ, trước nghi án đạo nhạc và tin đồn phản bội bạn gái đã gắn bó

suốt 8 năm của Sơn Tùng mới đây, các anti-fan đã không ngớt lời phê phán, thậm

104

chí tẩy chay Sơn Tùng bằng nhiều hình thức bởi theo họ, đạo nhạc là tối kị với một

nghệ sĩ và phản bội người yêu là điều tồi tệ, đáng bị lên án và “anti”. Điều này cho

thấy cách diễn giải của họ về ca sĩ này trái ngược hoàn toàn với cách diễn giải của

các fan. Như đã nói ở 3.1., khi hình tượng idol sụp đổ, các fan rất dễ trở thành

antifan. Khi hình ảnh của thần tượng trên truyền thông không đáp ứng được các

“mã”/ ý nghĩa mà các fan muốn gán cho, thần tượng đó có thể bị fan quay lưng,

thậm chí tẩy chay là điều dễ hiểu.

Ngoài “giải mã” dựa trên những hình ảnh sẵn có của thần tượng, các fan còn

tích cực, chủ động đề xuất những mong muốn của mình với thần tượng. Khái niệm

“fan service” mà cộng đồng fan thường nhắc đến (như đã nói ở chương 3) để nói về

điều này. Chẳng hạn các fan chia sẻ ảnh ghép Sơn Tùng vào body “sáu múi” bởi họ

muốn thần tượng của mình ngoài việc có khuôn mặt đẹp trai, thư sinh, còn phải có

một cơ thể khỏe mạnh, săn chắc, cơ bắp, lực lưỡng hơn. Rõ ràng thị hiếu và suy

nghĩ về tầm quan trọng của ngoại hình, về nam tính ở giới trẻ đã được gửi gắm vào

trong cách mà họ “kiến tạo” về thần tượng. Nhờ khả năng tương tác của các phương

tiện truyền thông, fan có thể dễ dàng gửi gắm mong muốn, góp ý đối với các thần

tượng của họ, từ đó, các thần tượng cũng dễ dàng nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu

của khán giả. Bằng cách này, những hình ảnh mà thần tượng thể hiện ra thực chất

là một sự tích hợp, gom thêm vào những điều mà fan mong đợi, kì vọng. Do vậy,

những ý nghĩa mà fan chia sẻ về thần tượng là một sự pha trộn những căn tính thực

với những căn tính mong muốn của riêng họ. Có một điều nổi bật trong cách giải

mã thần tượng của giới trẻ hiện nay là sự pha trộn của những miêu tả như: thần thái,

sang chảnh, khí chất, ngây thơ, chất chơi, nổi loạn... đối với cả thần tượng nam và

nữ. Một thần tượng thu hút phải là một ngôi sao “nhiều màu”, không đơn điệu và

lặp lại. Điều này liên quan đến sự đa dạng và biến đổi trong gu thẩm mỹ, quan niệm

về vẻ đẹp, phong cách ở thế hệ trẻ hiện nay.

Các ngôi sao về cơ bản là hình ảnh, vì chúng ta “không bao giờ biết họ trực

tiếp như người thật, mà họ chỉ được tìm thấy trong các văn bản truyền thông”

(Dyer) [96, tr. 2]. Họ là cấu hình phức tạp của các dấu hiệu hình ảnh, lời nói và âm

thanh khác (Dyer) [96]. Hình ảnh của một ngôi sao cụ thể được thể hiện và chuyển

giao, công khai, phê bình, bình luận, cũng như các tác phẩm của ngôi sao như phim,

âm nhạc, quảng cáo và chương trình truyền hình, v.v... “Hình ảnh ngôi sao được

đan xen, được xây dựng theo thời gian và không gian. Có một khoảng cách không

105

thể tránh khỏi giữa các ngôi sao và người bình thường” (Ka Ki Cheung) [89, tr. 5].

Khoảng cách này chính là khoảng trống mà người hâm mộ có thể sử dụng để kiến

tạo thần tượng theo những cách riêng của họ.

Trong sự hâm mộ thần tượng, hình ảnh ngôi sao mang ý nghĩa phản chiếu về

cuộc sống và tâm trạng của người hâm mộ, và cảm xúc của họ luôn xoay quanh

những hình ảnh đó. Tuy nhiên, người hâm mộ không phải là một khối thụ động.

Fiske [101] gọi những người hâm mộ tích cực là những người hâm mộ năng suất,

những khán giả khác biệt, những người tích cực đọc các văn bản và hình ảnh truyền

thông. Ka Ki Cheung (2002) cho rằng ngoài sự cởi mở của hình ảnh ngôi sao, khả

năng giải mã sáng tạo của người hâm mộ tạo điều kiện cho việc thao tác và nhận

dạng với hình ảnh ngôi sao. Trong quá trình hâm mộ thần tượng, người hâm mộ có

thể nói đã biến hình ảnh ngôi sao yêu thích thành ý nghĩa riêng và tìm niềm vui

trong việc sử dụng những hình ảnh này để tạo ra ý nghĩa riêng cho bản sắc xã hội và

quan hệ xã hội của họ. Hình ảnh của một ngôi sao có thể được kết nối với lịch sử

cuộc sống, tình hình xã hội, và sở thích văn hóa và thẩm mỹ,... của người hâm mộ

theo cách trực tiếp tuỳ theo các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Do đó, hâm mộ

thần tượng còn được coi là một sự tiêu thụ những ý nghĩa liên quan đến bản sắc [89, tr. 6-7].

Qua sự giải mã về thần tượng như đã trình bày ở trên, có thể thấy việc xây

dựng nhiều hình ảnh ngôi sao cho thấy ý nghĩa của hình ảnh ngôi sao không cố

định. Theo Dyer, người hâm mộ không chỉ được tự do lựa chọn những hình ảnh

ngôi sao để tiêu thụ mà còn được chào đón để tham gia vào sự tạo dựng những ý

nghĩa của chúng dựa trên bất cứ thông tin liên văn bản nào mà họ có được [96]. Ý

nghĩa của chúng luôn là có tính mở và năng sản (productive). Điều này làm thay đổi

những “khoảnh khắc tiếp nhận” thành “những khoảnh khắc sản xuất” của người

hâm mộ. Thông qua những khoảng cách trong những hình ảnh đó, khán giả có thể

thoát khỏi sự kiểm soát ý thức hệ và tạo nghĩa để kết nối với những trải nghiệm xã

hội của họ - nơi mà khoảnh khắc tiêu thụ bắt đầu (Fiske) [101]. Ka Ki Cheung cho

rằng “hình ảnh ngôi sao thể hiện ý thức hệ cấu thành các quy ước và chuẩn mực xã

hội và văn hóa mà chúng ta hiểu về xã hội” [89, tr. 5]. Thông qua hình ảnh các ngôi

sao và đặc biệt qua sự “giải mã” hình ảnh các ngôi sao của những người hâm mộ

(hay nói khác đi là qua sự tiêu thụ thần tượng của người hâm mộ), chúng ta có thể

thấy được những đặc trưng của bối cảnh văn hoá, xã hội mà họ sống, cũng như

phong cách và ý thức hệ xã hội của họ.

106

4.2.2. Chia sẻ ý nghĩa biểu trưng: sự kiến tạo căn tính nhóm

4.2.2.1. Vai trò của tương tác nhóm trong quá trình kiến tạo căn tính cá nhân giới trẻ

Bản sắc (nhận dạng cá nhân) được phát triển bởi cá nhân nhưng nó phải được

công nhận và xác nhận bởi những người khác. Tuổi thanh thiếu niên do đó cũng là

giai đoạn mà người trẻ thương lượng sự tách biệt với gia đình và phát triển các năng

lực xã hội độc lập, ví dụ như tham gia vào các nhóm ngang hàng (peer group) -

những nhóm mà có thể tạo ra các loại ảnh hưởng khác nhau đến quá trình xã hội

hoá của các cá nhân trẻ tuổi. Các câu lạc bộ người hâm mộ (Fanclub) cũng là một

trong những dạng “nhóm” như vậy. Thông qua các nhóm này, quá trình xã hội hóa

của giới trẻ diễn ra dựa trên việc họ tương tác, chia sẻ, tranh luận với các cá nhân

khác để tìm ra những căn tính phù hợp nhất với mình. Đồng thời sự tương tác này

cũng là một cách mà họ kiến tạo nên bản sắc nhóm của mình.

Bản sắc nhóm được tạo nên từ các bản sắc cá nhân thông qua sự đồng cảm.

Việc cùng chung cảm xúc yêu thương, giận dữ, tự hào về một ai đó khiến những

bạn trẻ có cảm giác thuộc cùng một nhóm. Thời kì chiến tranh, do sự đồng cảm về

những nỗi đau mà bom đạn chiến tranh gây ra, do đồng cảm về việc mất tự do và bị

đô hộ mà toàn thể người dân Việt Nam đã cùng có chung những cảm xúc về anh

hùng cách mạng, chiến sĩ xả thân vì nước. Nay trước bối cảnh truyền thông đại

chúng, giới trẻ có chung trường cảm xúc về người nổi tiếng, về ngôi sao giải trí.

Cảm xúc của các cá nhân người hâm mộ khác nhau được diễn giải theo cùng một

cách sẽ là công cụ để nhận dạng nhóm. Cảm xúc không tồn tại trong chân không, nó

vốn có tính xã hội, bị ràng buộc trong các tương tác của chúng ta với người khác và

chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Một trong những hiệu ứng quan trọng nhất của

căn tính chung được tạo ra thông qua việc chia sẻ cảm xúc là ở chỗ nó có thể thu

hút mọi người vào cùng một nhóm và sau đó giữ họ ở lại đó. “Nếu các thành viên

trong nhóm cũng diễn giải cảm xúc theo cách tương tự nhau, đám đông sẽ phát triển

cảm giác nhận dạng nhóm, một ấn tượng rằng họ là một phần của nhóm” (Fine)

[100]. Giới trẻ dường như đặc biệt bị thu hút bởi các nhóm dựa trên sự ý thức về

bản sắc mà nhóm mang lại cho họ. Ý thức này đặc biệt mạnh mẽ trong quá trình

chuyển tiếp của họ. Khi họ cảm thấy được đồng cảm, được chia sẻ cảm xúc với một

nhóm, họ thấy an toàn và tự tin hơn khi nhận thấy mình là một phần của điều gì đó.

Sự tương đồng về cảm xúc đối với thần tượng của các thành viên trong câu lạc

bộ fan tạo nên một cảm xúc chung, là tiền đề để tạo dựng nên căn tính chung của cộng

107

đồng người hâm mộ. Nhiều khi những cảm xúc ấy khiến từng cá nhân có cảm nhận về

một cộng đồng dù họ chưa từng gặp gỡ (cộng đồng tưởng tượng - Anderson [71]).

Nhận thức của fan về danh tính nhóm của họ sẽ ảnh hưởng đến các lựa chọn và các

hành vi của họ. Để duy trì danh tính cho nhóm, vai trò của những người đứng đầu (các

admin FC như My, Phương, Phương Anh) rất quan trọng. Họ có vai trò tạo ra những

cảm xúc mạnh mẽ để gắn kết mọi người, giữ lửa cho các thành viên, một trong những

cách đó là gán cảm xúc của họ vào cùng một đối tượng.

Trong bối cảnh văn hóa đại chúng ngày càng phát triển, với sự hùng hậu của

các ngôi sao, người nổi tiếng, fandom là những cộng đồng mà ở đó những người

hâm mộ trẻ giao tiếp và kết nối không ngừng với nhau. Cách thức hâm mộ thần

tượng không chỉ phản ánh sở thích, thị hiếu mà còn cho thấy cách thức mà giới trẻ

hiện nay tương tác và tạo lập mạng lưới xã hội của mình - một kĩ năng quan trọng

trong quá trình xã hội hóa và chuyển tiếp thành người trưởng thành của họ. Việc

cùng hâm mộ thần tượng nào đó chứng tỏ rằng một nhóm giới trẻ có sở thích, thị

hiếu, sự quan tâm chung và họ chia sẻ được chúng với những người khác, thông qua

đó, họ kết nối và tương tác với nhau, cùng sáng tạo ra những ý tưởng, dự án của

riêng họ - những điều mà họ cùng cảm thấy có ý nghĩa và thông qua đó, họ cùng

nhau trải nghiệm, trưởng thành. Nhiều bạn trẻ cùng tham gia trong một FC (như FC

SNSD hay T-ara), gắn bó với nhau 6-7 năm, kể cả khi thần tượng của họ không còn

hoạt động nghệ thuật nữa nhưng họ vẫn duy trì mối quan hệ bạn bè, giúp đỡ nhau

trong công việc và cuộc sống. Mạng lưới xã hội của những người hâm mộ trẻ được

tạo lập và kéo dài nhiều năm này, ở góc độ nào đó, giúp giới trẻ có được sự cân

bằng và ổn định hơn trong quá trình va đập và hoàn thiện các kĩ năng xã hội, vốn

văn hóa để trưởng thành của họ. (Có lẽ vì vậy mà không ít người đã coi đó là những

“kí ức đẹp nhất” trong “tuổi thanh xuân” của họ).

4.2.3.2. Những cảm xúc, ý nghĩa được chia sẻ

Nếu giải mã thần tượng là một sự khám phá các căn tính của từng cá nhân người

hâm mộ trẻ thì việc chia sẻ hệ thống các ý nghĩa biểu trưng với nhóm người hâm mộ

chính là quá trình giúp các cá nhân sàng lọc, lựa chọn và củng cố các căn tính phù hợp

với mình và thế hệ mình. Vậy, đâu là những cảm xúc, ý nghĩa được họ cùng chia sẻ?

Cảm giác về sự gắn bó, thuộc về (belong-ing)

Theo những phân tích ở mục 3.2 có thể thấy hâm mộ thần tượng là một trong

những cách thức đáp ứng nhu cầu mở rộng mạng lưới xã hội và sự kết nối của giới

108

trẻ. Đặc biệt trong không gian đô thị, khi mà các mối quan hệ, các sự kết nối trực tiếp

giữa các cá nhân bị hạn chế, đứt gãy thì truyền thông mà đại diện là các ngôi sao, các

thần tượng là “cầu nối” trong việc giao tiếp của các cá nhân. Trong bài viết “‘We just

hang out together’: Youth Cultures and Social Class” [Chúng tôi chỉ đi chơi cùng

nhau thôi: Văn hóa thanh niên và tầng lớp xã hội], các tác giả cho rằng giới trẻ kết nối

và chia sẻ với nhau những gì chiếm được sự thu hút chung của họ và điều này có liên

quan đến tầng lớp, địa vị xã hội của họ (McCulloch, Stewart và Lovegreen) [144].

Thêm vào đó, quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa và đô thị hóa là một nguyên

nhân trong việc làm giảm sút mối liên hệ giữa người với người vốn tồn tại trong

những cộng đồng truyền thống, dẫn đến việc các cá nhân trở nên rời rạc, mất phương

hướng. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự tham gia ngày càng

đông của giới trẻ vào các hội nhóm người hâm mộ ở Việt Nam hiện nay.

Trở thành một người hâm mộ của một ai đó không chỉ là sự đáp ứng nhu cầu

cần một hình mẫu lí tưởng, nhu cầu kết nối cảm xúc với những người khác mà còn

mang lại cho giới trẻ những cung bậc cảm xúc đa dạng (yêu - ghét, buồn - vui, hi

vọng - thất vọng, cảm xúc về lòng trung thành (loyalty), cảm thấy an toàn, cảm thấy

không lạc lõng, được lắng nghe, được chia sẻ khi thuộc về (belonging) một cộng

đồng những người hâm mộ giống như mình. Cùng yêu thích ai đó, thậm chí cùng

ghét (anti) ai đó cũng mang lại cho giới trẻ cảm giác thân thuộc, gần gũi với những

người khác. Do đó, không phải chỉ có các fanclub mà một số nhóm anti-fan hiện

nay cũng thu hút không ít các bạn trẻ tham gia. Ở đó, họ thẳng thắn bộc lộ việc ghét

ngôi sao nào đó vì những đặc điểm ngoại hình hoặc tính cách không phù hợp với

họ. Cũng giống như việc cùng tiêu dùng những sản phẩm hàng hóa giống nhau: áo

quần mà họ mặc, âm nhạc mà họ nghe, phim ảnh mà họ xem, thông tin mà họ cập

nhật..., việc tham gia vào một nhóm ngang hàng (peer group) khiến giới trẻ có cảm

giác về sự hiện đại, thuộc về số đông, bắt kịp xu hướng, theo trend, cập nhật kịp

thời, không bị tụt hậu, lạc lõng, ngoài rìa, khác thường (lỗi mốt, tụt hậu, người tối

cổ...). Áo đồng phục, tên gọi chung của fandom, lightstick, những album âm nhạc...

chính là những biểu hiện cụ thể của sự gắn kết về cảm xúc này.

Theo đặc trưng lứa tuổi, thanh thiếu niên là những người khát khao được thể

hiện và được người khác công nhận ý kiến, quan điểm, tiếng nói của họ, đặc biệt là

những người lớn (ông bà, cha mẹ, thầy cô) - những người trước nay vốn sẵn thiên

kiến áp đặt vì cho rằng họ vẫn là những người trẻ dại, non nớt, chưa hiểu chuyện

109

đời cũng như chưa hiểu chính bản thân họ. Vì thiên kiến này mà luôn tồn tại một

cuộc chiến, một sự phản kháng của giới trẻ đối với những thế hệ lớn hơn. Sự hâm

mộ thần tượng của thanh thiếu niên được hình thành dựa trên “mối quan hệ tưởng

tượng với một người xa xôi nào đó khi các bạn trẻ trở nên xa cách với cha mẹ”

(Yue & Cheung) [181, tr. 91]. Ở lứa tuổi thanh thiếu niên, khi luôn phải đối diện

với những hồ nghi của người lớn, giới trẻ luôn muốn chứng tỏ họ là những người

kiên định và có lập trường, họ trung thành với bạn bè (thậm chí giấu giếm, che đậy

lỗi lầm của bạn), có lập trường trong suy nghĩ và lựa chọn, kể cả là lòng trung thành

và gắn bó với thần tượng của mình mặc những lời chỉ trích. Trung thành là một

trong những phẩm chất được giới trẻ coi trọng. Nhiều fan của Sơn Tùng công khai

thể hiện họ cùng là anti-fan của một ca sĩ nào đấy trên trang mạng xã hội. Bởi lẽ

việc họ yêu ai, ghét ai cũng là một biểu hiện cho việc họ có trung thành hay không.

Họ không thể là fan của một người từng chỉ trích hay chê bai thần tượng của họ, bởi

nếu như thế, họ là kẻ phản bội, là tội đồ trong FC của mình. Những danh hiệu như

“fan ruột”, “fan cứng” luôn là một thứ “thành tích” mà các fan theo đuổi.

Thêm vào đó, những bạn trẻ đang ở độ tuổi luôn muốn nhận được sự tôn

trọng, đề cao từ những người khác, do đó, họ là những người nhiệt tình và tích cực

trong việc “bảo vệ”, bênh vực thần tượng, thậm chí cảm giác như họ có thể “chống

lại cả thế giới” chỉ vì thần tượng của mình. Đây là lí do các fan luôn sẵn sàng tranh

cãi nảy lửa ngày này qua ngày khác, chủ đề này qua chủ đề khác với cả những

người chưa bao giờ gặp mặt hay quen biết trong các cuộc “fan war” để bảo vệ bằng

được người mà họ yêu thích, ngưỡng mộ.

Cảm giác về quyền lực và vị thế

Những người hâm mộ trẻ luôn được thần tượng của họ cung cấp một cảm

giác rõ ràng về quyền lực (chẳng hạn nhóm BTS thường xuyên đăng tải những lời

cảm ơn người hâm mộ - những người có công lớn làm nên thành tích cho nhóm

nhạc này). Việc giúp thần tượng ngày càng nổi tiếng hơn cũng là một cách để giới

trẻ kiến tạo quyền lực cá nhân và quyền lực nhóm. Các fan luôn cảm thấy rằng thần

tượng thành công là nhờ một phần công sức và sự ủng hộ của họ, và vì thế chiến

thắng của thần tượng cũng mang lại cảm giác người thắng cuộc cho fan.

Những tương tác ngược trở lại giữa thần tượng với người hâm mộ khiến các

bạn trẻ cảm thấy mình được nhìn nhận và tôn trọng. Như đã nói ở 3.1.1., việc yêu

thích một ngôi sao kích thích bản năng bảo vệ, che chở, bênh vực một ai đó từ

110

người hâm mộ trẻ. Thêm vào đó, trong khi luôn bị cha mẹ, thầy cô coi là con trẻ,

chưa đủ chín chắn và hiểu biết, các fan lại được thần tượng thu hút bằng những lời

ghi nhận như “Nhờ có các cậu đồng hành cùng chúng mình trong chuyến lưu diễn

lần này mà chúng mình dã có thể cười vui như thế này. Chân thành cảm ơn các cậu

rất nhiều và mình muốn nói một lần nữa rằng mình yêu các cậu rất nhiều” (câu nói

trên trang Twitter của Jimin - thành viên nhóm BTS). Những lời “có cánh” này

khiến các fan có thể cảm thấy được sức mạnh và giá trị của mình - một trong số các

lí do khiến họ ngày càng cuồng nhiệt với thần tượng của mình. Ở độ tuổi rất dễ va

chạm với những người lớn tuổi (phụ huynh, giáo viên), việc được ghi nhận từ thần

tượng khiến những người hâm mộ trẻ cảm thấy có một sự gắn kết đặc biệt, một mối

quan hệ bạn bè/người yêu theo sự tưởng tượng của họ, khiến họ cảm thấy “chỉ có

anh/cô ấy mới hiểu mình, cần mình”... Một số bạn trẻ mà tôi có dịp tiếp xúc, họ

hoàn toàn mờ nhạt khi ở trường học vì họ không phải là học sinh xuất sắc, là người

rụt rè, lầm lì khi ở nhà, nhưng lại là những thành viên tích cực trong ban quản trị

của các FC (như trường hợp của My, Phương). Họ là những người sản xuất nội

dung và ý tưởng, các hoạt động chung để duy trì FC (đu show, làm từ thiện, quay

clip gửi tới thần tượng), đồng thời cũng là những “fan sân bay” nhiệt tình, không

quản nắng mưa đi đón và tiễn thần tượng, nhờ thế, họ có được những bức ảnh độc

nhất về thần tượng để chia sẻ liên tục với những người khác trong cộng đồng fan

của họ. Những lời tán thưởng, cảm ơn từ những người khác ở khía cạnh nào đó,

chính là sự đáp lại những cố gắng của họ, là sự nhìn nhận năng lực và sự khẳng

định vị thế, quyền lực của họ. Những điều này cũng chính là một trong những động

lực to lớn để họ ngày càng nhiệt thành hơn trong cách hâm mộ thần tượng của mình

(bên cạnh tình yêu với thần tượng luôn luôn là tưởng gần mà xa xôi kia).

Các fan cũng chia sẻ những thông tin, thành tích, kỉ lục của thần tượng,

không chỉ để tiếp thị cho thần tượng, thể hiện sự tự hào của cộng đồng fandom mà

còn là cách kiến tạo quyền lực của họ trước mọi người, trước những nhóm fandom

khác, đồng thời cũng là một cách “tuyên bố” với người khác biết rằng “Tôi đã lựa

chọn đúng người để hâm mộ, thần tượng của tôi là người tuyệt vời và hoàn toàn

xứng đáng với sự yêu quý, ngưỡng mộ của mọi người, tôi không a dua, không mù

quáng như cách mọi người nhìn và phán xét”. Đây cũng là lí do giải thích vì sao các

fan thường tô vẽ và tin thần tượng là những người hoàn hảo.

111

Cảm nhận về sự trẻ trung, phong cách, hiện đại

Những thực hành hâm mộ mang lại cho các fan sự cảm nhận rõ ràng về tính

“trẻ”. Việc đứng dưới những khán đài đông kín người, hoà mình vào đám đông hò

reo, trong không khí của âm nhạc, ánh sáng, vũ đạo,... mang lại cho những người

hâm mộ một cảm giác về sự trẻ trung, phấn khích. Những cảm giác này góp phần

tạo nên những thời khắc đặc biệt trong tuổi trẻ của họ. Sự nhấn mạnh vào tính trẻ

này cho thấy sự “lên ngôi” của cảm giác về sự trẻ trung, về cái gọi là tuổi trẻ. Hơn

nữa, tính trẻ này lại ngày càng được sự tương hỗ từ chủ nghĩa tiêu dùng nên nó ngày

càng thu hút mạnh mẽ hơn đối với những lứa tuổi không còn trẻ. Trường hợp “ông chú Viettel”33 hát những ca khúc của Sơn Tùng hay những fan U70, 80 cũng tham

gia vào các FC của ca sĩ này là những ví dụ tiêu biểu về sức hút của văn hoá giới

trẻ. Điều này cho thấy văn hóa giới trẻ phải chăng đang mở rộng biên độ ảnh hưởng

của mình, như một biểu hiện của sự “kháng cự” đối với văn hóa người lớn - văn hóa

dòng chính, văn hoá thống trị, nhất là trong bối cảnh xã hội và văn hóa Việt Nam

trước nay vẫn coi trọng truyền thống trọng xỉ.

Mối liên hệ giữa văn hóa tiêu dùng và sự nổi lên của các thần tượng kiểu mới

ở giới trẻ Việt Nam được thể hiện ở sự tiêu thụ hàng hóa mang ý nghĩa và tính chất

trẻ trung. Một chiếc áo phông, quả bóng có chữ kí của thần tượng không đơn thuần

chỉ là một hàng hóa. Nó có khả năng kích thích sự tiêu thụ hàng hóa cao hơn rất

nhiều so với việc nó chỉ là một sản phẩm được bán ra thông thường.

Thông qua việc hâm mộ những ngôi sao nổi tiếng được ví như những “biểu

tượng đương đại” (từ dùng trong quảng cáo giày Biti’s Hunter X mà Sơn Tùng làm

đại diện thương hiệu), giới trẻ cho thấy sự ưa chuộng của họ đối với những gì được

coi là mới, hiện đại. Trải nghiệm “tính hiện đại” và hướng đến sự tự nhận dạng

mình là một chủ thể hiện đại dường như là một nhu cầu đã trở thành “bản sắc” của

giới trẻ nói chung và giới trẻ Việt Nam nói riêng.

Cảm nhận về tính toàn cầu

Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập, vươn ra thế giới được coi là một kháo

33 http://tiin.vn/chuyen-muc/nhac/suong-nhat-son-tung-ra-hit-nao-la-hit-nay-duoc-ong-chu-viettel-ky-cong- cover-lai.html, truy cập ngày 20/11/2020. 34 Thế hệ Y còn được gọi là thế hệ Millennials là những người sinh ra trong khoảng 1980-1994. Thế hệ Z còn được gọi là thế hệ Generations là những người sinh ra trong khoảng 1995-2009.

khát, một “phẩm chất” đặc trưng. Khát khao này hình thành và gia tăng dần ở các thế hệ Y và thế hệ Z34 người Việt. Cộng đồng fan của BTS ở Việt Nam có thể kết

112

nối, tương tác với cộng đồng fan BTS ở khắp nơi trên thế giới, thông qua những

mạng xã hội như youtube, instagram, twitte, naver...; họ có thể chia sẻ những cảm

xúc, suy nghĩ chung về BTS và về chính Army (tên gọi của cộng đồng fan BTS) và

điều này khiến cho họ cảm thấy được kéo gần hơn với thế giới, vượt qua rào cản về

ngôn ngữ, địa lí... Khi Sơn Tùng phát hành MV Hãy trao cho anh với chất nhạc

đậm chất La tinh, mục đích của ca sĩ này là hướng tới thị trường âm nhạc quốc tế,

mang âm nhạc của Việt Nam ra ngoài phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Nhiều fan hào

hứng mong đợi MV sẽ có phiên bản tiếng Anh, nhưng một số fan khác lại cho rằng

“Tùng mang tiếng Việt ra thế giới là tốt rồi và tại sao lại phải hát tiếng Anh trong

khi có thể hát tiếng Việt và thành công?”; “Nếu hát tiếng Anh thì chỉ Tùng nổi thôi

chứ âm nhạc Việt Nam vẫn không được ai biết đến cả”; “Đây là Vpop thì phải hát

tiếng Việt. Hát tiếng Anh thì thành US, UK rồi. Giống như BTS hát tiếng Hàn, đưa

K-Pop Mỹ tiến thành công và K-Pop giờ lan tỏa thế giới”; “Tùng đang muốn mang

tiếng Việt ra thế giới chứ muốn chuyển sang tiếng Anh thì dễ”...

Sơn Tùng trong một bài phỏng vấn đã nói rằng “Khi nào tôi đứng trên sân

khấu Mỹ, hát bằng tiếng Anh và tiếng Việt thì nói chuyện tiếp”35 và cho biết giấc mơ

của mình chính là mang âm nhạc Việt Nam đến với khán giả quốc tế, để họ biết được

Việt Nam cũng có nhiều nghệ sĩ tài năng. Bài phỏng vấn này đã được cộng đồng fan

share (chia sẻ) nhanh chóng. Một trưởng FC ở Hà Nội cho biết: “Mình bỏ bao nhiêu

thời gian, tâm huyết để support Tùng như thế một phần lớn là vì lòng tự tôn dân tộc,

nếu Tùng không phải người Việt thì mình sẽ chẳng support như thế đâu”. Chính vì

tâm thức muốn vươn ra toàn cầu, được thế giới biết đến mà các nhóm người hâm mộ

tích cực support (ủng hộ), review (miêu tả), comment (bình luận), share (chia sẻ) âm

nhạc của Sơn Tùng một cách rộng rãi, trên khắp các nền tảng mạng xã hội. Nhận thấy

nhu cầu muốn được kết nối, chia sẻ ở fan quốc tế, cộng đồng fan Việt đã kêu gọi

nhau dịch lời bài hát của Tùng ra tiếng Anh, trả lời bình luận và tương tác bằng nhiều

hình thức khác nhau với cộng đồng fan quốc tế để củng cố, gia tăng sự yêu mến, hâm

mộ Sơn Tùng ở những fan nước ngoài. Không chỉ để tiếp thị, quảng bá cho Sơn

Tùng, những hành động này của những người hâm mộ trẻ Việt Nam đã cho thấy

mong muốn được hướng tới một cộng đồng văn hoá rộng lớn hơn - ở đó họ có thể

35 http://kenh14.vn/hay-trao-cho-anh-va-ap-luc-la-son-tung-M-TP-khi-nao-toi-dung-tren-san-khau-o-ben-my- hat-bang-tieng-anh-tieng-viet-thi-noi-chuyen-tiep-20190706002246366.chn

cùng nhau chia sẻ những sở thích, thị hiếu chung, tình yêu chung với thần tượng,

113

đồng thời cũng là mong muốn tiếng Việt, nhạc Việt, cái tên Việt Nam được xuất hiện

và lưu lại dấu ấn nhiều hơn trong tâm trí bạn bè quốc tế. Việc giới trẻ hăng say “cày

view” để tên tuổi thần tượng có thể vươn tầm quốc tế, được thế giới biết đến cũng là

một cách để họ cảm thấy mình gần với thế giới hơn, được chú ý và nhắc đến nhiều

hơn chứ không phải là công dân của một nước xa xôi của bản đồ thế giới. (Đây có lẽ

cũng là lí do giải thích vì sao trong các cuộc thi hoa hậu, số lượt bình chọn của đại

diện Việt Nam bao giờ cũng ở top cao nhất).

Nhưng nhìn ở góc độ khác có thể thấy những chiến lược phá vỡ các kỉ lục

của giới trẻ nói trên dường như là một biểu hiện của những ám ảnh hậu thuộc địa

tồn tại dai dẳng ở các thế hệ người Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến nay. Những fan

của Sơn Tùng, họ cũng là những người trẻ tuổi như ca sĩ này, bao lâu nay họ vẫn

luôn tiêu thụ những sản phẩm âm nhạc nước ngoài và luôn coi đó là những sản

phẩm tốt, nổi tiếng, hiện đại, đã được công nhận ở phạm vi toàn cầu. Bằng cách

“nhúng” mình vào thế giới âm nhạc đó, họ được kéo gần hơn với những gì họ coi là

chuẩn mực của thẩm mỹ và sáng tạo. Do vậy, việc sử dụng YouTube và cày view

(như đã phân tích ở 3.3.2.) là cách thức để những người hâm mộ trẻ Việt Nam tạo

dựng vị trí cho chính mình, giống như cách mà giới trẻ Hàn Quốc đã từng làm với

trong trường hợp của ca sĩ Psy (với MV Gangnam style) và nhóm BTS.

Theo Duffett, hâm mộ thần tượng bao gồm những cách mà nó có thể “nâng

cao cảm giác phấn khích của chúng ta, thúc đẩy sự tự phản thân của chúng ta,

khuyến khích chúng ta thảo luận về các giá trị và đạo đức được chia sẻ, và cung cấp

cho chúng ta một nguồn ý nghĩa quan trọng kéo dài trong cuộc sống hàng ngày”

[95, tr. 50]. Với những ý nghĩa đã phân tích trên, có thể thấy hâm mộ thần tượng là

một phương thức tạo nghĩa, kiến tạo căn tính hữu hiệu của giới trẻ.

Trước những định kiến có sẵn về lứa tuổi mình, thông qua hâm mộ người nổi

tiếng, giới trẻ không chỉ cho thấy những suy nghĩ, quan niệm khác biệt với thế hệ

trước, mà còn tìm cách để thể hiện tiếng nói, cá tính của mình, tìm cách thể hiện

mình. Do vậy, có thể nói các câu lạc bộ người hâm mộ chính là những không gian

để họ có thể tụ tập và chia sẻ với những người trẻ cùng sở thích, đam mê, nhu cầu,

quan niệm, nói khác đi là nhu cầu được giãi bày và được hiểu, để có cảm giác thuộc

về một nhóm/ cộng đồng nào đó dù có thể là cộng đồng tưởng tượng [71]. Cộng

đồng người hâm mộ trẻ ngày càng trở thành một “tiểu văn hóa” với những căn tính

mang dấu ấn đặc trưng của một nhóm, dễ nhận diện so với những nhóm khác.

114

Tiểu kết chương 4

Thần tượng không chỉ là những người nổi bật trong các lĩnh vực giải trí mà

còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình định hình bản sắc của giới trẻ Việt Nam

hiện nay. Trong bối cảnh xã hội có nhiều thay đổi, đặc biệt các mối quan hệ liên cá

nhân có nhiều nguy cơ giảm sút, rạn vỡ, những giá trị mới và cũ đan xen nhau, thần

tượng vừa là hình mẫu, vừa là chỗ dựa tinh thần, là nguồn cảm hứng cho những

người hâm mộ. Tiếp cận hiện tượng hâm mộ thần tượng dưới góc nhìn kiến tạo

“nghĩa” và kiến tạo bản sắc, chương viết đã phần nào chỉ ra những nét căn tính đa

dạng mà giới trẻ đang kiến tạo và thể hiện.

Chương viết đã làm rõ những phương thức kiến tạo căn tính cá nhân và bản

sắc nhóm của những người hâm mộ trẻ. Những phẩm chất, cá tính mà các cá nhân

người hâm mộ giải mã về thần tượng cũng chính là sự phản chiếu những căn tính

mà họ ưa chuộng và hướng tới. Đồng thời qua những cảm xúc và ý nghĩa được chia

sẻ bởi cộng đồng người hâm mộ, có thể thấy được những bản sắc mà họ đang kiến

tạo: là những người đề cao lòng trung thành, muốn được nhìn nhận và tôn trọng, có

trách nhiệm với bản thân, với cộng đồng và với thần tượng họ yêu thích; là những

người giàu ý tưởng sáng tạo, tôn vinh những người thành công nhờ kiên trì theo

đuổi đam mê, dám sống bứt phá; có quan niệm khác biệt so với các thế hệ trước;

khát khao vươn ra thế giới và hòa nhập vào đời sống toàn cầu; biết học hỏi tiếp thu

và biết cách chọn lọc những tinh hoa, sáng tạo từ bạn bè thế giới để phù hợp với văn

hóa người hâm mộ Việt Nam... Không chỉ thế, điều nổi bật nhất trong hệ thống

“nghĩa” mà những người hâm mộ trẻ ở Việt Nam những năm gần đây đã tạo ra chính

là “tính trẻ” - một trong những căn tính đang dần lan tỏa sức ảnh hưởng của nó tới

những thế hệ lớn tuổi hơn. Những ý nghĩa về sự trẻ trung này không chỉ giúp kiến tạo

nên bản sắc của những người trẻ mà còn giúp những người lớn hơn có cơ hội để tái

kiến tạo lại bản sắc của mình. Đây chính là ảnh hưởng ngược trở lại của tiểu văn hoá

giới trẻ đối với văn hoá dòng chính. Những nét bản sắc này không chỉ thể hiện những

đặc trưng về lứa tuổi của giới trẻ Việt Nam mà còn mang đậm dấu ấn của những động

năng xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá với sự phát triển của văn hoá tiêu dùng và

truyền thông. Tất nhiên, những nét bản sắc này không cố định mà liên tục biến đổi đa

dạng trong quá trình tương tác với bối cảnh xã hội đương đại.

115

Chương 5

HÂM MỘ THẦN TƯỢNG Ở GIỚI TRẺ TRONG NHỮNG

ĐỘNG NĂNG CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI

Hâm mộ thần tượng là một hiện tượng văn hóa nổi bật có thể phản ánh

những chiều kích của đời sống giới trẻ cũng như những động năng của xã hội Việt

Nam hiện nay. Ở các chương trước, luận án đã khám phá những thực hành hâm mộ

thần tượng cũng như cách thức mà giới trẻ kiến tạo căn tính cá nhân và nhóm thông

qua những thực hành cụ thể, những diễn giải về thần tượng cũng như việc chia sẻ

cảm xúc và những ý nghĩa biểu trưng có liên quan đến thần tượng. Hâm mộ thần

tượng chỉ là một trong rất nhiều những khía cạnh của đời sống giới trẻ và bản thân

trường hợp người hâm mộ Sơn Tùng M-TP trong nghiên cứu này cũng chỉ là một

trong rất nhiều các trường hợp người hâm mộ khác ở Việt Nam hiện nay. Hâm mộ

thần tượng có thể còn chứa đựng những chiều kích và những vấn đề khác, chẳng

hạn sự giải phóng phụ nữ, sự lai ghép văn hoá, sự phản kháng... Nhưng dù là trường

hợp người hâm mộ Sơn Tùng hay trường hợp khác thì vẫn nổi lên một số vấn đề cơ

bản mà qua đó có thể soi chiếu đời sống giới trẻ nói riêng và những động năng của

xã hội Việt Nam nói chung như: sự gia tăng của nhu cầu về văn hóa nghe nhìn, sự

thay đổi thị hiếu... trong bối cảnh nền công nghiệp giải trí; sự xuất hiện các thực

hành, ý nghĩa cũng như nhóm công chúng mới gắn với sự phát triển của truyền

thông; sự thay đổi các thói quen tiêu thụ hàng hóa và giới trẻ như một thế hệ người

tiêu dùng mới; sự định vị bản thân, khao khát toàn cầu và những giá trị mới... Dưới

đây, chúng tôi sẽ soi chiếu xem đời sống giới trẻ Việt Nam mà rộng hơn là xã hội

Việt Nam đương đại đã bị ảnh hưởng và vận hành như thế nào trước tác động của

toàn cầu hóa, truyền thông, công nghiệp văn hoá và văn hóa tiêu dùng. Chúng tôi

nhận thấy sự phân chia các yếu tố ảnh hưởng như vậy chỉ có tính chất tương đối,

thực tế, những động năng của đời sống giới trẻ cũng như xã hội Việt Nam hiện nay

luôn có mối quan hệ đa chiều, chồng xếp và đan xen nhau.

5.1. Đời sống giới trẻ trong bối cảnh nền công nghiệp giải trí ở Việt Nam hiện nay

5.1.1. Sự phát triển của nền công nghiệp giải trí ở Việt Nam hiện nay

Đời sống giới trẻ bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau: việc học tập, lao động,

vui chơi giải trí, các mối quan hệ, sự quan tâm về chính trị và các vấn đề xã hội...

Đời sống giới trẻ luôn được đặt trong tương quan với những yếu tố văn hóa, xã hội.

116

Giới trẻ Việt Nam đương đại là những người sinh ra sau chiến tranh, sống ở thời

bình, học tập dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. Họ chỉ biết đến chiến tranh, sự chia

cắt đất nước hay thời bao cấp qua sách vở hay lời kể của cha mẹ, ông bà - những thế

hệ gắn chặt với ý thức hệ cộng sản. Khác với bối cảnh chiến tranh, khi mọi sự chú ý

của xã hội cũng như của giới trẻ đều ưu tiên cho công cuộc giành độc lập - tự do

của nước nhà, đời sống văn hóa giới trẻ thời bình lại chủ yếu bộc lộ ở những khía

cạnh mang tính cá nhân và đặc trưng lứa tuổi như: việc học tập, giải trí, tiêu dùng và

sự tập trung vào các khía cạnh cá nhân... Sự thay đổi này chịu sự chi phối của các

yếu tố kinh tế - xã hội hiện nay, đặc biệt trong bối cảnh nền công nghiệp giải trí

ngày càng phát triển.

Sự chú ý của một bộ phận không nhỏ giới trẻ hiện nay vào những ngôi sao,

người nổi tiếng cho thấy sự tác động và chi phối của nền công nghiệp giải trí ở Việt

Nam. Sự phát triển của công nghiệp giải trí ở Việt Nam như hiện nay là kết quả của

quá trình chịu ảnh hưởng của công nghiệp giải trí bài bản nước ngoài - một sản

phẩm tiêu biểu của văn hóa đại chúng phương Tây. Văn hóa đại chúng ở Việt Nam

trong những năm gần đây đã rất khác so với cách hiểu văn hóa đại chúng theo nghĩa

văn hóa hướng tới quảng đại quần chúng, hướng tới phục vụ thị hiếu và nhu cầu số

đông dân chúng, mà càng ngày càng theo xu hướng “hàng hóa hóa, kĩ thuật hóa,

tiêu chuẩn hóa và cưỡng bức hóa” (Đặng Thị Thu Hương) [31, tr. 20] của phương

Tây. Văn hoá đại chúng ở Việt Nam đang bị tác động bởi những cải tiến về công

nghệ truyền thông, những dòng chảy văn hoá và sự vận hành của hàng hoá nước

ngoài, đặc biệt là các nước tư bản (Mỹ, Hàn, Nhật). Do gắn với nền công nghiệp

văn hóa, trong đó nguyên tắc thương nghiệp thay thế cho nguyên tắc nghệ thuật,

yêu cầu thị trường thay thế cho yêu cầu tinh thần, văn hoá đại chúng đã có những

thay đổi lớn, tác động đến các nhóm xã hội, đặc biệt là giới trẻ. Các sản phẩm của

văn hoá đại chúng xuất hiện ngày càng nhiều và bao phủ mọi khía cạnh đời sống

giới trẻ: các loại hình giải trí hàng ngày, những ngôi sao được họ mến mộ... “Khác

với xã hội các nước đi trước đã quen với văn hoá giải trí đa sắc mầu, người trẻ Việt

lần đầu đối diện với công nghiệp giải trí bài bản, trong khi thức ăn tinh thần lại quá

nghèo nàn nên hội chứng thần tượng có phần đậm hơn các nước khác” (Nguyễn

Hoàng Ánh) [183].

Từ việc du nhập những sản phẩm văn hóa nghe nhìn nước ngoài, nền công

nghiệp giải trí ở Việt Nam đã dần dần phát triển với sự ra đời của hàng loạt các

117

công ty giải trí, hoạt động giải trí dần được chuyên nghiệp hóa hơn để có thể đáp

ứng nhu cầu của công chúng. Nền công nghiệp giải trí ở Việt Nam được hình thành

và vận hành từ cuối những năm 1990 với việc ra đời các nhóm nhạc, các ca sĩ, cầu

thủ, diễn viên mà sự nghiệp của họ gắn liền với các ông bầu (người quản lí), những

hợp đồng được kí kết và các công ty giải trí theo mô hình của nền công nghiệp văn hóa nước ngoài36. Các công ty giải trí là những công ty hoạt động trong lĩnh vực

nghệ thuật, giải trí, thực hiện việc quản lí cũng như xây dựng hình tượng cho các

nghệ sĩ theo một chiến lược nhất định. Ở Việt Nam, công ty giải trí đầu tiên có lẽ

phải kể đến H.T. Production của “ông bầu” Hoàng Tuấn (Tuấn Thaso) - người lăng

xê thành công một số ca sĩ giai đoạn những năm cuối 1990, trong đó nổi tiếng nhất

là ca sĩ Đan Trường. Đến thời điểm hiện tại, có khoảng hơn 20 công ty giải trí lớn

nhỏ tiêu biểu như: We Pro, Six Sensce, Cát Tiên Sa, OnlyC Entertainment, Music

Box, ST.319 Entertainment... đặc biệt M-TP Entertainment - công ty do chính Sơn

Tùng M-TP làm chủ tịch. Các công ty này hoạt động và cạnh tranh lẫn nhau, tạo

nên đời sống giải trí đa dạng, sôi động ở Việt Nam những năm gần đây. Mặc dù quy

mô và hoạt động của các công ty này còn rất khiêm tốn so với các công ty, tập đoàn

ở các cường quốc về công nghiệp văn hóa (như Hàn Quốc, Nhật Bản), việc ngày

càng xuất hiện nhiều những ngôi sao âm nhạc trong nước cũng như sự phổ biến của

hiện tượng hâm mộ thần tượng trong đời sống giới trẻ như hiện nay đã phản ánh sự

phát triển nền công nghiệp văn hóa mà đặc biệt là công nghiệp giải trí này.

Như đã nói ở chương 2, quá trình mở cửa đã tạo điều kiện cho toàn cầu hóa

và các dòng chảy văn hóa đại chúng phương Tây du nhập vào Việt Nam mạnh mẽ

hơn. Hướng tới số đông khán giả bình dân nhằm gia tăng tối đa lợi nhuận, phần lớn

các giá trị của văn hóa đại chúng đang bị chi phối bởi ngành công nghiệp giải trí. Ở

lĩnh vực nổi bật nhất là âm nhạc, các ngôi sao thần tượng hiện nay đều hướng các

sản phẩm phù hợp với khán giả thành thị bằng cách sản xuất các MV (music video)

nhạc thời thượng, bắt mắt, bắt tai, cập nhật các xu hướng quốc tế. Hình ảnh và âm

nhạc hiện đại vừa thể hiện cá tính âm nhạc của nghệ sĩ vừa là một lợi thế chinh phục

khán giả trẻ cũng như các nhãn hàng. Những sản phẩm âm nhạc đại chúng hướng

36 Báo Hoa Học trò những năm giữa 1990 đã có những bài viết về công ty quản lí của các nhóm nhạc nổi tiếng của Mỹ (như NSync, Backstreet Boys) như là một hệ thống được chuyên môn hóa: ca sĩ chỉ cần tập trung vào hát và nhảy, mọi việc khác đều có ông bầu và ekip lo, theo những chiến lược cụ thể và tỉ lệ chia lợi nhuận nhất định.

tới thị hiếu của số đông khán giả của những ngôi sao trẻ như Sơn Tùng đã chứng tỏ

118

được sức hút mạnh mẽ của nó. Đằng sau sự thành công của Sơn Tùng là rất nhiều

yếu tố, đặc biệt có cả một công nghệ bao gồm nhiều lĩnh vực (sản xuất âm nhạc, vũ

đạo, điện ảnh, thời trang, mỹ phẩm, quảng cáo...) kết hợp với nhau nhịp nhàng như

các khâu của một quá trình sản xuất hàng hóa theo những yêu cầu và chuẩn mực

chung. Sự nổi lên của các nghệ sĩ trẻ như Sơn Tùng phản ánh quá trình vận hành,

thay đổi và tiếp thu những thành tựu của ngành công nghiệp giải trí từ các nước tư

bản trên thế giới mà Sơn Tùng - trước khi trở thành một nhà sản xuất - cũng từng là

một công chúng trẻ tích cực (Sơn Tùng từng là fan của nhạc US, UK và K-Pop).

5.1.2. Tác động của nền công nghiệp giải trí đến đời sống giới trẻ

Từ hiện tượng hâm mộ thần tượng, có thể thấy nền công nghiệp giải trí đã

can thiệp sâu sắc vào đời sống xã hội nói chung và giới trẻ nói riêng. Sự phát triển

đến một mức độ nhất định của công nghiệp giải trí, đặc biệt lĩnh vực văn hóa nghe

nhìn ở Việt Nam đã tạo ra những nhu cầu, thị hiếu, thói quen, phong cách và lối

sống mới cho công chúng, đặc biệt công chúng trẻ tuổi.

Trước hết, công nghiệp giải trí phát triển đã thúc đẩy nhu cầu về văn hóa

nghe nhìn ở giới trẻ nói riêng và mọi tầng lớp nhân dân nói chung. Khi văn hóa

nghe nhìn trở nên phổ biến, nó kéo theo sự quan tâm của cả xã hội dành cho những

đại diện của nền văn hóa này - những người nổi tiếng. Không chỉ làm phong phú

thêm đời sống tinh thần của giới trẻ, cùng với truyền thông, văn hóa đại chúng mà

đại diện tiêu biểu là những ca sĩ, diễn viên nổi tiếng, bằng cách xuất hiện đều đặn và

lặp đi lặp lại những thông điệp trên truyền thông còn có vai trò không nhỏ trong

việc tạo lập và thay đổi nhu cầu, thị hiếu, những giá trị và chuẩn mực mới cho con

người nói chung và giới trẻ ở Việt Nam nói riêng. Ở Việt Nam, mặc dù các phương

tiện truyền thông đại chúng mới chỉ phổ biến trong ba mươi năm trở lại đây, tuy

nhiên, với ảnh hưởng của văn hóa giải trí Âu Mĩ (âm nhạc Âu Mỹ, phim

Hollywood), phim cổ trang Trung Quốc, đặc biệt là làn sóng Hàn Quốc, toàn bộ đời

sống tinh thần, văn hóa, nhu cầu và quan niệm về giải trí, sáng tạo thẩm mĩ của

người Việt Nam đã có nhiều thay đổi, trong đó giới trẻ là thế hệ có những biểu hiện

nổi bật nhất. Đặc biệt, sự ảnh hưởng mạnh mẽ của làn sóng Hallyu từ phim ảnh, âm

nhạc đã có những tác động nhất định đến quan niệm, lối sống của các bạn trẻ về

mẫu hình người yêu lí tưởng, quan niệm về giới, về vẻ đẹp nam tính, nữ tính, về

phong cách thời trang, phong cách trang điểm, cách thể hiện cá tính... (Xem thêm

Đặng Thiếu Ngân [41]). Xin lấy một ví dụ, chỉ sau vài tập phim Mối tình đầu, toàn

119

thể các cô gái Việt Nam đều chạy theo mốt trang điểm “tóc nâu, môi trầm” của nữ

diễn viên chính, và kiểu trang điểm này hoàn toàn thay thế cho kiểu trang điểm da

trắng, môi đỏ, mắt xanh của các minh tinh phim Đài Loan và Hồng Kông vốn đang

là hình mẫu mơ ước cho phụ nữ Việt đầu những năm 1990. Thậm chí, những đặc

trưng của âm nhạc, phim ảnh Hàn Quốc cũng in những dấu ấn đậm nét tới cách tư

duy, xây dựng và phát triển âm nhạc, phim ảnh Việt Nam đến mức mà các ngôi sao

trẻ ở Việt Nam hiện nay có nhiều nét tương đồng với các thần tượng Hàn Quốc

không chỉ về đường nét khuôn mặt, thời trang mà cả phong cách, cá tính nghệ thuật.

Giới trẻ Việt Nam chú ý nhiều hơn đến những câu chuyện lãng mạn, tình cảm thay

vì các nội dung mang tính giáo huấn trước đây. Họ cũng bị thu hút mạnh mẽ bởi

hình thức hào nhoáng, vẻ bề ngoài đẹp đẽ, bóng bẩy. Những ngôi sao với ngoại

hình xinh đẹp cũng góp phần làm thay đổi quan niệm về vẻ đẹp ở giới trẻ, hướng họ

đến những chuẩn mực mới: cằm Vline, mũi Sline, da trắng, răng đều tăm tắp, eo

thon, ngực nở hay bụng 6 múi (ở nam giới)... Ngày càng nhiều bạn trẻ tìm đến phẫu

thuật thẩm mĩ bởi sự ảnh hưởng của những chuẩn mực mới này. Điều này được giải

thích là do mấy chục năm bị bó hẹp trong văn hoá tuyên truyền, thậm chí đến thời

trang và thẩm mỹ cũng đơn điệu nên khi những bộ phim Hàn Quốc với những hình

ảnh trai xinh, gái đẹp, cảnh quay lãng mạn, nhất là khi K-Pop với giai điệu du

dương, các ca sĩ xinh đẹp, sành điệu, nhảy giỏi hát hay tràn vào, giới trẻ Việt dễ

dàng bị mê hoặc. Việc những người hâm mộ trẻ luôn có xu hướng học tập cách ăn

mặc, make up, kiểu tóc, thậm chí xăm hình cơ thể... của các thần tượng như đã phân

tích ở 4.1.2.1. cũng là minh chứng cho sự thay đổi về thị hiếu và quan niệm thẩm mĩ

ở giới trẻ Việt Nam hiện nay. Họ luôn là những người ủng hộ tích cực cho những

mốt quần áo, mẫu tóc mới, những thứ bóng bẩy, màu sắc, mới nhất, thời thượng

nhất, đặc biệt là luôn cập nhật các xu hướng mới từ thần tượng của họ.

Thứ hai, không chỉ thay đổi nhu cầu, thị hiếu và quan niệm thẩm mĩ của giới

trẻ, công nghiệp giải trí đã góp phần làm thay đổi văn hóa tiêu thụ của giới trẻ. Từ

thời Làn sóng xanh đến nay, qua nhiều biến động (với sự thay đổi liên tục các trào

lưu âm nhạc: nhạc Hoa lời Việt, nhạc Hàn, nhạc Âu Mỹ; các thể nghiệm với chất

liệu âm nhạc dân gian; sự thoái trào của nhạc trẻ, sự bùng phát của nhạc thị trường;

sự nổi lên của nhạc Hip Hop và Rap...), nền công nghiệp giải trí ở Việt Nam vẫn

cho thấy xu hướng thị trường hóa là tất yếu, cũng giống như việc giới trẻ hiện nay

khó mà vượt thoát khỏi việc tiêu thụ các sản phẩm phục vụ giải trí nói chung và tiêu

120

thụ thần tượng nói riêng. Nghệ thuật hay thể thao từ chỗ để đáp ứng nhu cầu giải trí

của con người trong cuộc sống thường ngày đã trở thành những ngành công nghiệp,

sản xuất ra những sản phẩm, mặt hàng để bán, đồng thời sản sinh ra những cách

thức để thúc đẩy con người sống trong xã hội này tiêu thụ những sản phẩm ấy. Giới

trẻ Việt Nam giờ đây không chỉ tiêu thụ âm nhạc vì ca từ ý nghĩa, giai điệu hay

(như cách thế hệ lớn tuổi say mê nhạc vàng, nhạc đỏ) mà còn bởi hình ảnh và nội

dung MV mới lạ, kịch tính và đặc biệt các ca sĩ phải có ngoại hình đẹp, vũ điệu bắt

mắt, cập nhật những xu hướng mới nhất về thời trang... Âm nhạc, với họ, không chỉ

để nghe mà còn để trải nghiệm và thông quan với thế giới. Sự phát triển của văn hoá

thị giác như hiện nay đã khiến cho việc tiêu thụ âm nhạc đại chúng (nhạc Pop) luôn

gắn liền và là một gợi ý, một đường dẫn tới việc tiêu thụ các sản phẩm quần áo thời

trang, mỹ phẩm, phụ kiện... Việc mẫu giày mới của Biti’s cháy hàng ngay sau khi

xuất hiện trong MV Hãy trao cho anh của Sơn Tùng (7/2019) như đã nhắc đến ở

3.3.1. là một minh chứng tiêu biểu cho điều này. Song song với nhu cầu về văn hóa

nghe nhìn, truyền thông thị giác là sự xuất hiện và lớn mạnh của các ngành công

nghiệp sản xuất hàng hoá như mỹ phẩm, thời trang, giày dép, đồ công nghệ... ở Việt

Nam, gắn liền với sự thay đổi trong quan niệm và thị hiếu thẩm mỹ, vẻ đẹp cơ thể,

về đẳng cấp và hàng hiệu...

Như vậy, từ ảnh hưởng của những người nổi tiếng, thần tượng tới người hâm

mộ, có thể thấy sự chuyển dịch mạnh mẽ trong đời sống văn hoá giới trẻ Việt Nam,

trong đó, văn hoá đại chúng, công nghiệp giải trí đã tạo ra cả một thế hệ sống khác

và nghĩ khác, đã cấu hình (design) lại đời sống giới trẻ bằng cách “nhúng” họ vào

một “bể nghĩa” khác so với các thế hệ trước đây, thiết lập nên một hệ thống nghĩa

mới, nhu cầu và thị hiếu mới. Mặt khác, việc giới trẻ nói riêng và xã hội nói chung

ngày càng có xu hướng chú trọng những sản phẩm văn hóa có hiệu ứng thị giác

(visual) như âm nhạc thị trường, phim truyền hình khiến cho các loại hình văn hóa

khác có nguy cơ bị suy giảm, mờ nhạt, đồng thời còn khiến thị hiếu thẩm mĩ của xã

hội có chiều hướng ngày càng trở nên đơn giản, dễ dãi. Cũng vì điều này mà văn

hóa đại chúng được cho là “loại văn hóa tiêu dùng dành cho đại chúng có trình độ

văn hóa thấp”. Mặc dù vậy, sự chú ý tới nhu cầu giải trí và thói quen hưởng thụ các

loại hình văn hoá giải trí ở Việt Nam đã phản ánh rõ nét những chuyển dịch của đời

sống xã hội đương đại theo hướng gia tăng những yếu tố dân chủ, tích cực: mức

sống được nâng cao, đời sống vật chất được cải thiện, người dân có điều kiện và cơ

121

hội để quan tâm đến đời sống tinh thần; sự cởi mở về chính trị, hệ tư tưởng xã hội

đóng vai trò như một nhân tố cơ bản, có tác động lớn đến cả việc tự do sáng tác,

sáng tạo của người nghệ sĩ trong các lĩnh vực giải trí, nghệ thuật, lẫn tâm thế tự do

lựa chọn và hưởng thụ các hình thức giải trí và thể nghiệm của người dân.

5.2. Truyền thông, thần tượng và giới trẻ như một nhóm công chúng đặc biệt

5.2.1. Ảnh hưởng của truyền thông tới các hình thức giải trí và tương tác của giới trẻ

Những thực hành hâm mộ đặc trưng trên truyền thông (like, view, share,

vote) ở giới trẻ như đã phân tích trong chương 3 và 4 cho thấy sự ảnh hưởng mạnh

mẽ của truyền thông đại chúng, đặc biệt những phương tiện truyền thông mới tới

đời sống giới trẻ cũng như đời sống xã hội Việt Nam đương đại.

Trước hết, sự bùng nổ của các phương tiện truyền thông mới37 gắn với các công

nghệ ngày càng đột phá đã làm thay đổi toàn bộ phương thức tìm kiếm thông tin và giải

trí cũng như cách kết nối và tương tác nhau ở giới trẻ. Việc “cày view” của những

người hâm mộ trẻ là kết quả của sự lớn mạnh của youtube - một kênh tìm kiếm thông

tin giải trí thu hút đông đảo giới trẻ nhất hiện nay. Việc sử dụng thành thạo các ứng

dụng công nghệ và các phương tiện truyền thông ở những người hâm mộ trẻ đã cho

thấy rằng sự phát triển của các phương tiện truyền thông mới dẫn đến sự ra đời của

“thế hệ số” (một thế hệ được xác định trong và thông qua kinh nghiệm của họ về công

nghệ máy tính kỹ thuật số), “thế hệ mạng”, “thế hệ nghe nhìn” (cyber-kids) (Sefton-

Green) [112, tr. 2], “thế hệ ngón tay cái” (những người trẻ tuổi đã phát triển một sự

khéo léo mới trong ngón tay cái của họ nhờ vào việc sử dụng bàn điều khiển trò chơi

và điện thoại di động) (Buckingham) [81, tr. 1]. Sự phát triển mạnh mẽ của các mạng

xã hội như facebook, twitter, instagram - những phương tiện truyền thông đặc biệt có

khả năng tích hợp nhiều cấp độ truyền thông với ưu điểm nổi bật là tính tương tác cao -

đã khiến giới trẻ được tiếp cận với những không gian mới, con người mới, văn hóa

mới, với những đại dương thông tin mới và đa dạng.

Nếu như trước đây, việc thiết lập quan hệ xã hội của giới trẻ chủ yếu là mặt

đối mặt theo kiểu gặp gỡ rồi kết thân thì hiện nay, họ có thể duy trì và tăng cường

mối quan hệ với nhau qua mạng xã hội. Sự giảm sút mối liên hệ trực tiếp giữa

người với người trong xã hội hiện đại, đặc biệt xã hội đô thị đã khiến thanh thiếu

37Bùi Hoài Sơn (2008) gọi những phương tiện truyền thông như điện thoại di động, internet là những phương tiện truyền thông mới để phân biệt với những phương tiện truyền thông cũ (truyền thống) như là sách, báo in,...

niên ngày càng trở nên hướng nội và ít chia sẻ với cha mẹ. Thêm vào đó, việc phải

122

đối diện với những áp lực từ việc học hành, thi cử, những thay đổi liên tục trong

giáo dục khiến thanh thiếu niên ở trong tình trạng luôn phải liên tục tìm cách thích

ứng với những xáo trộn này, họ ngày càng trở thành một “ốc đảo”... Sự tham gia

vào các CLB người hâm mộ (FC) của Hằng, Minh và những người hâm mộ khác

như đã nêu ở chương 3 cho thấy các fanclub dù là những hội nhóm mới chỉ xuất

hiện trong khoảng 20 năm trở lại đây nhưng có vai trò như một sự “bù đắp” những

thiếu hụt mà đô thị hóa và cuộc sống ở đô thị gây ra, đồng thời cũng là một sự thích

ứng của giới trẻ Việt Nam trong bối cảnh mới. Thần tượng chính là “cái cớ” để giới

trẻ hiện nay kết nối, gặp gỡ và chia sẻ sở thích, niềm đam mê, thị hiếu, quan điểm

sống... với nhau. Thông qua các hội nhóm và các cộng đồng này, các ngôi sao và

người hâm mộ có thể dễ dàng kết nối và mối quan hệ tuy mơ hồ nhưng bền chặt

giữa họ được thúc đẩy dựa trên những cơ chế tương tác đặc thù của internet. Những

hội nhóm người hâm mộ dễ dàng “di chuyển qua lại giữa thế giới online sang

offline” và như đa số giới trẻ hiện nay, họ đang nỗ lực để hài hòa và gắn kết không

gian thực và không gian ảo, làm gia tăng tính mờ nhạt cho ranh giới giữa thực và ảo

của mạng xã hội (Nguyễn Thị Phương Châm) [5, tr. 268]. Điều này cho thấy giới trẻ

Việt Nam hiện nay đã có những cách thức xây dựng mạng lưới xã hội dựa trên sự

quan tâm và sở thích chung thay vì dựa trên các tổ chức đoàn thể như các thế hệ 7x,

8x trước đây.

Sự xuất hiện với tần suất ngày càng dày đặc và phổ biến của những chương

trình truyền thông, những trang báo điện tử đã khiến cho một loạt người nổi tiếng

được xuất hiện, trở thành những câu chuyện chung của công chúng, kết nối họ theo

cách hoàn toàn khác trước đây. Từ văn phòng công sở, giảng đường đại học cho đến

quán nước vỉa hè, không khó để thấy sự có mặt của người nổi tiếng trong đời sống

giới trẻ nói riêng và con người đương đại nói chung. Người ta trở nên quan tâm đến

những câu chuyện đời tư, cá nhân, những scandal của nghệ sĩ, phân tích, mổ xẻ sôi

nổi về họ - những con người mà công chúng tưởng như biết rõ từng chân tơ kẽ tóc

nhưng lại rất xa xôi. Hiện nay, ngoài các trang báo chuyên viết về chủ đề giải trí,

người nổi tiếng, còn có không ít các diễn đàn, hội nhóm fan và anti-fan, thậm chí có

cả những nhóm chuyên “hóng hớt showbiz” thu hút một lượng lớn thành viên tham

gia trên facebook và các diễn đàn. Có thể nói, bàn luận và quan tâm đến người nổi

tiếng không chỉ là một hình thức giải trí mà còn như một cách thức kết nối đám

đông trong môi trường đô thị, đặc biệt môi trường mà truyền thông bao phủ và chi

123

phối. Truyền thông dần trở thành “bầu khí quyển” bao quanh cuộc sống của những

người trẻ ở Việt Nam hiện nay.

5.2.2. Sự tiêu thụ truyền thông mạnh mẽ ở giới trẻ

Không chỉ làm thay đổi thói quen giải trí, giao tiếp, truyền thông còn khiến

giới trẻ trở thành những đối tượng tiêu thụ truyền thông mạnh mẽ, đều đặn. Những

người hâm mộ trẻ như My (đã nhắc đến ở chương 3), họ lớn lên trong bối cảnh

truyền thông đã phát triển mạnh mẽ. Không còn phải xem ti vi đen trắng, đọc báo in

như những người trẻ sinh ra trong những năm 1980, thế hệ của My là thế hệ của ti

vi đa chức năng, của điện thoại thông minh, của internet vào tận phòng ngủ, cũng là

thế hệ gắn chặt với những người nổi tiếng thường xuyên xuất hiện trên các kênh

truyền hình giải trí và mạng xã hội. Bối cảnh này đã khiến họ trở thành một thế hệ

công chúng truyền thông kiểu mới - rất khác với các nhóm công chúng truyền thông

trước đây. Việc những người hâm mộ trẻ thường xuyên like, view, share về thần

tượng như đã trình bày ở phần 3.1 là kết quả của việc nhóm công chúng này đã sử

dụng các ứng dụng truyền thông phổ biến như facebook, youtube, instagram, twitte

hay spotify một cách đều đặn. Sự tiêu thụ truyền thông mạnh mẽ này được thúc đẩy

bởi niềm tin rằng với sự đầu tư về thời gian và công sức, họ sẽ lập nên những thành

tích mới, kỉ lục mới cho thần tượng của mình. Các con số cụ thể (100 triệu view,

200 triệu view) được đặt ra như là cái đích để các fan hướng tới, kêu gọi, cổ vũ

nhau “lập nên kì tích” để “cùng tự hào” với những gì thần tượng và bản thân họ đã

làm được. Nhìn rộng ra có thể thấy thu hút sự chú ý trên mạng xã hội trở thành một

tiêu chuẩn mới của giới trẻ hiện nay. Những thực hành cụ thể như đăng hình đẹp lên

facebook (kéo theo trào lưu selfie “tự sướng”, “sống ảo”), like, view, thả tim đã trở

thành những thực hành quen thuộc thường ngày không chỉ ở giới trẻ.

Việc tiêu thụ truyền thông ngày càng được thúc đẩy hơn nữa bởi với những

tính năng ưu việt của truyền thông đại chúng (mass media), đặc biệt là truyền thông

xã hội (social media) hiện nay, những người hâm mộ trẻ không chỉ là khán giả, là

người tiếp nhận thông tin mà còn được mời gọi, khuyến khích tham gia vào quá

trình sản xuất những nội dung truyền thông thông qua khả năng cho phép tương tác

của các phương tiện truyền thông hiện đại (Duffett) [95]. Chẳng hạn ở chương trình

trực tiếp như Bữa trưa vui vẻ phát trên VTV6, người hâm mộ có thể gửi các yêu cầu

tới ekip cũng như nhân vật người nổi tiếng là khách mời thông qua trang fanpage

của chương trình này. Hoặc thông qua những gameshow trực tiếp (The Voice,

124

Vietnam Idol...), kết quả bình chọn thường phụ thuộc ít nhất là một nửa vào quyết

định của khán giả thông qua hệ thống bình chọn bằng tin nhắn. Khán giả được cấp

cho một thứ “quyền lực” mà thông qua cách thức này, chương trình thu được những

lợi ích to lớn: lợi nhuận từ việc bán quảng cáo thông qua khả năng thu hút lượng

người xem (rating cao hay không) ở khung giờ vàng. Chính tính linh động này của

truyền thông đã khiến giới trẻ không chỉ là khán giả (audiences) mà còn là người

sáng tạo (creators). Không chỉ tiêu thụ truyền thông mạnh mẽ, nhóm công chúng

này còn biến những hình ảnh của truyền thông trở nên năng sản hơn bằng cách “hấp

thụ”, tái diễn giải, phản hồi và góp phần và sáng tạo những nội dung truyền thông

mới thông qua khả năng cho phép tương tác của các phương tiện truyền thông hiện

đại. Những thực hành hâm mộ thần tượng ở giới trẻ cho thấy họ cũng chính là

những người thúc đẩy truyền thông phát triển và đổi mới bởi nhu cầu liên tục thay

đổi của họ. Cập nhật liên tục các trào lưu mới thông qua mạng xã hội, giới trẻ cùng

nhau chia sẻ và tạo dựng những “trend” (xu hướng) mới nhất, làm đa dạng đời sống

xã hội nói chung. Hấp thụ những thay đổi của các phương tiện truyền thông, giới trẻ

ngày càng tạo dựng cho mình những căn tính phù hợp để sống trong bối cảnh mà

mọi thứ đều được bủa vây bởi truyền thông. Do vậy, giới trẻ vừa là người tạo ra,

vừa là người cảm nhận sự thay đổi văn hóa. Về điều này, rất dễ để phân biệt họ với

các nhóm công chúng truyền thông lớn tuổi hơn.

Những cách thức hâm mộ thần tượng ở giới trẻ hiện nay cũng cho thấy giới

trẻ là những người chịu ảnh hưởng nhưng cũng là những chủ thể của sự lai ghép

văn hóa (cultural hybridization). Hâm mộ thần tượng trở thành một hiện tượng

xuyên quốc gia và những thực hành cụ thể của người hâm mộ có thể phản chiếu

những sự tiếp biến, tương tác, hòa trộn từ các nền văn hóa khác nhau. Qua các

phương tiện truyền thông, mỗi một diễn viên, ca sĩ hay cầu thủ nổi tiếng đều có

những FC riêng ở khắp nơi trên thế giới mà đôi khi chính họ cũng không biết đến sự

tồn tại của chúng. Người hâm mộ ở Việt Nam có thể kết nối với cộng đồng người

hâm mộ quốc tế, những chia sẻ thường xuyên của họ về thông tin, hình ảnh và cảm

xúc về thần tượng đã giúp gắn kết họ với nhau, bất chấp khoảng cách địa lí và bất

đồng ngôn ngữ (trường hợp fan của nhóm T-ara, BTS). Riêng với cộng đồng fan K-

Pop ở Việt Nam, những FC này được thành lập và hoạt động giống mô hình và cách

thức của các FC của những fan K-Pop, rất nhiều bạn trẻ vừa là fan của ngôi sao K-

Pop vừa là fan của các ngôi sao Việt Nam (trường hợp My, Hằng, Phương Anh như

125

đã nói ở 3.1, 3.2), họ chịu ảnh hưởng không nhỏ từ cách hâm mộ thần tượng của

giới trẻ Hàn Quốc. Chính họ là một nhân tố quan trọng trong việc định hình và phổ

biến những cách thức hâm mộ thần tượng của giới trẻ trong nước như chúng ta thấy

hiện nay (đu show, mua album, mua lightstick, chờ ở sân bay, thành lập các FC...).

Những thần tượng, người nổi tiếng liên tục xuất hiện trên truyền thông có tác

động không nhỏ đến việc định hướng, dẫn dắt thị hiếu, tư tưởng của công chúng nói

chung và giới trẻ nói riêng. Những thời kì trước đây ở Việt Nam, truyền thông được

sử dụng chủ yếu như một công cụ để tuyên truyền chủ trương của Đảng, Nhà nước

trong bối cảnh chiến tranh và xây dựng đất nước. Khi đó, sách báo, đài phát thanh...

đã khiến cả nước cùng chia sẻ chung ý nghĩa về những tấm gương anh hùng cách

mạng, anh hùng lao động. Đó là lí do thanh niên (cũng giống như mọi lứa tuổi khác)

đều ngưỡng mộ các anh hùng dân tộc, lãnh tụ cách mạng... và ý thức hệ thống trị

lúc bấy giờ là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa tập thể. Ngày nay,

giới trẻ có những thần tượng đặc trưng cho lứa tuổi của riêng mình, sự hâm mộ của

họ gắn với sự giải trí, tiêu dùng, gắn với hàng hóa, đặc biệt, sự phát triển của ngành

quảng cáo đã thúc đẩy công chúng tham gia vào các quá trình tiêu thụ và cập nhật

những xu hướng, lối sống theo những giá trị của phương Tây. Đầu những năm

2010, trên sóng của VTV liên tục phát các chương trình có format bản quyền mua

lại từ Mĩ, những người làm truyền hình cũng là những người đi học ở các nước

phương Tây… Nội dung và kĩ thuật hình ảnh, âm thanh của những chương trình

gameshow nhập khẩu (chẳng hạn như Vietnam Idol, X Factor, The Face, The

Debut,...) đã khiến khán giả nhập tâm hóa với những khái niệm, hình ảnh, tư duy,

lối sống phương Tây khiến chúng dần trở nên quen thuộc, len lỏi vào cuộc sống đời

thường của người dân, đặc biệt là giới trẻ. Đây cũng được coi là một con đường

khiến những giá trị theo kiểu phương Tây trở nên thống soát. Công nghệ truyền

thông mới đã khiến hàng triệu người trên thế giới trở nên quan tâm đến bản thân họ

hơn và xa rời những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc hay say mê với những sản

phẩm thương mại và cả văn hóa của Tây phương (mà cụ thể là Coca Cola,

Hollywood, Microsoft) hơn những sản phẩm của chính nước mình. Nó góp phần

vào việc thúc đẩy quá trình dân chủ hóa, mặt khác nó “làm cho toàn bộ thế giới nghĩ

và viết như người Mỹ” (Bùi Hoài Sơn) [52]. Việc Sơn Tùng được đánh giá cao và

được khán giả quốc tế biết đến nhiều hơn sau MV ca nhạc có sự hợp tác của các ca

sĩ, diễn viên người Mỹ, quay ở Mỹ; hay việc BTS được xuất hiện và ca tụng nhiều

126

lần trên truyền thông Mỹ như một nhóm nhạc Hàn Quốc hàng đầu là những minh

chứng cho việc họ đã vươn ra thế giới, họ đã đạt được thành công nhưng đồng thời

cũng là sự củng cố cho tính “bá quyền” của Mỹ bởi lẽ Mỹ đã trở thành một đích đến

cho mọi sự nỗ lực, là thước đo chuẩn mực của mọi thành công. Qua đó, văn hóa

truyền thông của Mỹ đang xâm nhập nền văn hóa trên toàn thế giới, tạo ra các hình

thức mới phổ biến trên toàn cầu.

Qua việc những người hâm mộ tích cực sử dụng cũng như tham gia vào quá

trình sáng tạo các nội dung truyền thông, có thể nói giới trẻ Việt Nam đã định danh

về họ là một thế hệ “đam mê công nghệ, ăn ngủ cùng internet” (Nguyễn Thị

Phương Châm) [5, tr. 242]. Họ luôn cập nhật những ứng dụng mới nhất về công

nghệ, luôn cố gắng bắt kịp các trào lưu mới mẻ trên truyền thông, có xu hướng kết

nối nhanh và mạnh mẽ trong không gian ảo, là những chủ thể góp phần thúc đẩy

truyền thông phát triển theo hướng ngày càng đa dạng hơn. Sự phổ biến của truyền

thông có thể coi là một trong những nhân tố cơ bản thúc đẩy những động năng mới

trong đời sống giới trẻ nói riêng và đời sống xã hội Việt Nam nói chung trong gần

30 năm trở lại đây, đặc biệt thúc đẩy quá trình dân chủ hoá, làm nảy sinh những xu

hướng và lối sống mới theo hướng cởi mở và đa chiều hơn.

5.3. Chủ nghĩa tiêu dùng và giới trẻ như một thị trường tiềm năng

5.3.1. Giới trẻ - một thế hệ người tiêu dùng mới

Như nhiều nghiên cứu đã chỉ ra, sự phổ biến của hiện tượng hâm mộ thần tượng

là do “thu nhập ngày càng tăng của người dân để duy trì việc mua các sản phẩm liên

quan đến hâm mộ thần tượng” (Dẫn theo Cheng &Yue [87, tr. 251]). Hâm mộ thần

tượng ở Việt Nam hiện nay không chỉ cho thấy mức độ cải thiện về kinh tế của đất

nước mà còn phản ánh sự gia tăng của thói quen tiêu thụ hàng hóa của những người trẻ

từ sau Đổi mới, khiến cho họ trở thành một thị trường nhiều tiềm năng.

Giới trẻ chiếm hơn 30% dân số và là “nhóm người tiêu dùng lớn nhất tại Việt

Nam hiện nay” [148, tr. 491]. Họ được sinh ra sau Đổi mới, họ lớn lên với sự gia tăng

của hàng hóa nước ngoài tại thị trường Việt Nam (đặc biệt phim nước ngoài, âm nhạc

và sách) cũng như sự xuất hiện của lối sống tiêu dùng toàn cầu. Cuộc cách mạng công

nghiệp trên thế giới đã khiến lượng hàng hóa gia tăng từng ngày, tuy nhiên, ở Việt

Nam, sự nhỏ giọt của hàng hóa thời kì quan hệ với Đông Âu không làm “cơn khát” về

hàng hóa, về nhu yếu phẩm dịu đi. Sau khi mở cửa năm 1986, sự khan hiếm hàng hóa

ở Việt Nam bắt đầu được khắc phục bởi sự bắt đầu của kinh tế thị trường. Đến 20 năm

127

trở lại đây, chúng ta được chứng kiến một khối lượng hàng hóa không ngừng gia tăng

mỗi ngày, người dân không chỉ ăn no mặc ấm mà đã được đáp ứng để ăn ngon mặc

đẹp, đặc biệt là ở các đô thị. Sự mọc lên như nấm của các trung tâm thương mại - nơi

được cho là tập trung mọi loại hàng hóa với đủ loại giá cả ngày càng là nơi lui đến để

mua sắm, vui chơi giải trí của mọi người, nhất là giới trẻ. Không chỉ tiêu thụ để đáp

ứng nhu cầu thiết yếu, giới trẻ giờ đây có xu hướng tiêu thụ mạnh mẽ những sản phẩm

văn hoá, giải trí để thoả mãn sở thích và cảm xúc cá nhân.

Sau giai đoạn phát triển công nghiệp thiên về sản xuất các sản phẩm phục vụ

nhu cầu vật chất thiết yếu của con người, thành tựu của các cuộc cách mạng 2.0 rồi

3.0 đã tạo nên một lượng hàng hóa khổng lồ và ngày càng dư thừa. Trước nguy cơ

bão hòa nhu cầu về hàng hóa, chủ nghĩa tiêu dùng đã tìm kiếm và khai thác những

nhu cầu liên quan đến cảm xúc, cảm giác của con người để mở rộng thị trường của

nó. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng tập trung phát triển các ngành công

nghiệp văn hóa, tạo ra các sản phẩm văn hóa để đáp ứng nhu cầu về giải trí, tinh

thần cho con người hiện đại. Trong bối cảnh đó, công nghiệp văn hóa trở thành một

ngành công nghiệp mũi nhọn ở các xã hội tư bản. Nó ngày càng cho thấy mức độ

ảnh hưởng của mình thông qua sự thúc đẩy tiêu thụ các sản phẩm văn hóa đại chúng

trên phạm vi toàn cầu, trong đó có sự tiêu thụ có liên quan đến thần tượng.

Công nghiệp văn hóa được coi là một ngành kinh tế, các dịch vụ và sản

phẩm văn hóa như một bộ phận của nền kinh tế toàn cầu (Phạm Văn Đức) [13, tr.

28]. Công nghiệp văn hóa ngày càng mở rộng sức ảnh hưởng của nó bằng các chiến

lược khác nhau nhằm khai thác tối đa thị trường và lợi nhuận. Chỉ trong thời đại của

ngành công nghiệp văn hóa, các thần tượng mới được coi là các hàng hóa như

chúng ta đang thấy hiện nay. Khác với cách hiểu về thần tượng ở các thời kì trong

quá khứ, thần tượng hiện nay như một “sản phẩm” văn hóa được “sản xuất” ra theo

những quy trình bài bản, với những “chất lượng” đặc biệt nhằm đáp ứng “nhu cầu”

của người tiêu dùng đồng thời cũng là những người hâm mộ trẻ. Quy trình sản xuất

một thần tượng với tư cách một sản phẩm đại chúng bao gồm: xây dựng thần tượng

dựa trên việc nắm bắt nhu cầu và thị hiếu của công chúng, quảng bá cho thần tượng

và tìm cách giữ chân công chúng. Quy trình này không có quá nhiều sự khác biệt so

với quy trình tạo ra và nâng cấp những hàng hóa công nghiệp khác chẳng hạn như

iphone, mĩ phẩm và thời trang hàng hiệu... Cách giới trẻ tiêu thụ hàng hóa có liên

quan đến thần tượng như đã trình bày ở mục 3.3. cho thấy những ảnh hưởng của

128

công nghiệp văn hóa, đặc biệt là quá trình hàng hóa hóa văn hóa và chiến lược của

nền kinh tế cảm xúc trên phạm vi toàn cầu, mà Việt Nam không phải là ngoại lệ.

Tiến trình “hàng hóa hóa văn hóa” (The process of cultural

commodification) (Horkheimer và Adorno [120]) đã biến văn hóa trở thành các sản

phẩm đại chúng bán chạy: một chú mèo máy Đô rê mon - một biểu tượng về sự toàn

năng, hiện thực hoá các ước mơ và tưởng tượng viển vông gắn liền với tuổi thơ của

nhiều trẻ em trên toàn thế giới, máy nghe nhạc “riêng tư hóa” sự giải trí của giới trẻ

Sony Walkman, biểu tượng của sự sexy Manrylin Monroe, nhóm Beatles huyền

thoại... Như Turner đã viết: “Nếu người nổi tiếng là một loại hàng hóa thì tôi muốn

biết thêm về các ngành sản xuất hàng hóa đó” [175, tr. 18]. Trong thời đại của văn

hóa đại chúng, thần tượng hay người nổi tiếng nói chung được “sản xuất hàng loạt”

như là các sản phẩm đại chúng được tiêu dùng rộng rãi, đều đặn, mang lại lợi nhuận

cho các công ty truyền thông và các nhà sản xuất tư bản. Không những thế, tính

năng sản của thần tượng còn khiến họ được coi là những siêu hàng hoá. Chính nền

kinh tế tư bản toàn cầu đã làm nảy sinh những thần tượng và cách thức hâm mộ thần

tượng như hiện nay. “Người ta phải tiêu dùng thì mới tiêu thụ hết được những cái

mà chủ nghĩa tư bản sản xuất ra” bởi lẽ “sản xuất là trung tâm” còn “tiêu dùng hàng

hóa là nguyên lí của chủ nghĩa tư bản” (Tomlinson) [174], trong đó, cái tôi, tính chủ

thể là một sản phẩm có thể “bán” được. Những người nổi tiếng là những hình ảnh

được bán, theo những gì đám đông cần, do vậy, họ ngày càng trở thành những “sản

phẩm văn hóa” đầy sức hút.

Các thực hành tiêu dùng ồ ạt của những người hâm mộ trẻ còn cho thấy sự

nổi lên của nền kinh tế cảm xúc (affective economy) (Ahmed [70], Jenkins [127]).

Khi đã đáp ứng tương đối đầy đủ các nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống con người,

nền sản xuất công nghiệp thời hiện đại muộn buộc phải tìm ra và tạo ra những thị

trường tiêu thụ mới, một “lãnh địa màu mỡ” giúp họ tránh được nguy cơ bão hoà,

đó là cảm xúc của con người. Các sản phẩm của ngành công nghiệp văn hóa được

tạo ra và trở nên phổ biến, thúc đẩy người tiêu dùng trẻ không phải bởi nhu cầu

hàng hóa vật chất mà bởi nhu cầu về cảm xúc. Ở chừng mực nào đó, giải trí

(leisure), cảm xúc (emotion) và tiêu dùng (consumption) nhiều khi khó tách biệt.

Liên quan đến các nhu cầu về cảm xúc, tiêu dùng mang lại cho con người hiện đại

một cảm thức rằng thông qua việc mua sắm hàng hóa, họ đồng thời cũng tiêu thụ

một phong cách, một lối sống và cả tính hiện đại... Đó cũng là cách thức mà chủ

129

nghĩa tiêu dùng (đằng sau nó là các cỗ máy của chủ nghĩa tư bản) tạo ra để kích

thích mọi hình thức tiêu dùng nhằm thu lợi nhuận. Theo Jenkins, nền kinh tế cảm

xúc tìm cách tạo ra một kết nối sâu sắc hơn, nhiều cảm xúc hơn giữa người tiêu

dùng và sản phẩm. Đây được coi là một phương thức tiếp thị mới dựa trên động lực

cảm xúc để thu hút mọi người và ảnh hưởng đến việc tiêu thụ một sản phẩm mới,

nhấn mạnh những cam kết cảm xúc mà người tiêu dùng thực hiện đối với thương

hiệu như một động lực trung tâm cho quyết định mua hàng của họ. Theo đó, các

nhóm tiếp thị có thể trang bị lại các chiến dịch quảng cáo của họ và sáng tạo lại sản

phẩm của họ như một thứ gì đó hơn là một mặt hàng và khiến nó trở nên hấp dẫn

hơn nhiều đối với người tiêu dùng tiềm năng [127, tr. 61-62].

Để người hâm mộ/ người tiêu dùng tự nguyện mua các sản phẩm đại chúng,

chủ nghĩa tiêu dùng đã kiến tạo một loạt những “diễn ngôn” về tiêu dùng và kích

thích tiêu dùng thông qua các ngôi sao - những tuyên ngôn, minh chứng sống,

những biểu tượng về thời trang, phong cách và lối sống hiện đại, sành điệu, hợp thời

cũng như nhắm vào sự gắn bó, trung thành của người hâm mộ. Những ngôi sao,

người nổi tiếng dần được coi là những người dẫn đầu, định hướng phong cách sống

cho công chúng, đặc biệt là công chúng trẻ, những người dễ chịu ảnh hưởng từ

những hình mẫu nổi bật trên truyền thông. Sự ảnh hưởng của người nổi tiếng đến

giới trẻ/ người tiêu dùng phụ thuộc ba yếu tố: mức độ nổi tiếng (quen thuộc, quen

mặt) của người nổi tiếng, hình ảnh tích cực của người nổi tiếng, và sự tương đồng

giữa người nổi tiếng và các nhãn hàng mà họ đại diện/ quảng cáo. Việc sử dụng một

người nổi tiếng trong một quảng cáo sẽ làm tăng thương hiệu nhận biết, thu hút

người hâm mộ của người nổi tiếng đó, “khuyến khích họ thử nghiệm và tăng cường

sự tự tin khi mua hàng” (Chan và cộng sự) [86]. Việc nhà quảng cáo và các nhà bán

lẻ thường sử dụng những người nổi tiếng trên truyền thông như người phát ngôn

cho các sản phẩm và dịch vụ mà mục tiêu nhắm đến những người trẻ tuổi xuất phát

từ sự gắn bó (attachment) của người trẻ tuổi với các nhân vật truyền thông bên cạnh

mối quan hệ gia đình và bạn bè. Việc các fan của Sơn Tùng, BTS thường xuyên

“bóc giá”, kể ra vanh vách thương hiệu của các món đồ được thần tượng của họ sử

dụng cho thấy họ có một sự quan tâm sâu sắc đến những thương hiệu được bảo đảm

bằng danh tiếng của các thần tượng, đồng thời cũng cho thấy họ rất có thể là những

khách hàng của các thương hiệu nổi tiếng này trong tương lai không xa.

130

Trường hợp Sơn Tùng trong những phân tích về những thực hành tiêu dùng

có liên quan đến thần tượng ở mục 3.3. có thể coi là một ví dụ tiêu biểu cho cách

thức xây dựng giá trị thương mại của một người nổi tiếng - một “sản phẩm” đại

chúng. Ngoài việc tiếp thị cho các sản phẩm âm nhạc của chính mình, Sơn Tùng

còn đã và đang là đại diện quảng cáo cho rất nhiều thương hiệu khác: Viettel, Oppo,

Biti’s Hunter, Miniso, Goviet, Pepsi, Gogi, TP bank,... Tên tuổi của Sơn Tùng là

một thứ chứng thực đáng tin cậy đối với các nhãn hàng để thu hút công chúng và

người tiêu dùng. Sự tiêu thụ dựa trên cảm xúc ở nhóm người hâm mộ Sơn Tùng

mạnh mẽ đến mức giúp làm tăng doanh số bán hàng của Biti’s lên 300%, giúp hồi

sinh thương hiệu này sau MV Lạc trôi vào tháng 1/2017, hoặc thậm chí khiến Oppo

ra mắt riêng một dòng sản phẩm theo tên chính nam ca sĩ này: Sơn Tùng M-TP

Limited Edition F3 vào tháng 6/2017.

Giống như quy luật của kinh doanh, khi nào người tiêu dùng mua sản phẩm

dựa trên tình yêu và niềm tin dành cho sản phẩm thì khi đó doanh nghiệp/nhãn hàng

đã thành công. Một khi nhà sản xuất, sản phẩm xây dựng được niềm tin, tình yêu

với khách hàng thì những hành vi tiêu dùng của khách hàng sau đó là tất yếu và dễ

dàng. Vận hành theo nguyên tắc này, các ngôi sao âm nhạc, thể thao, điện ảnh -

những người thường xuyên có sự xuất hiện và sự tái trình hiện (representation) chỉn

chu, đẹp đẽ trước công chúng dễ dàng thu hút số lượng khổng lồ fan hâm mộ. Điều

này cũng lí giải vì sao việc giữ gìn hình ảnh là quan trọng bậc nhất đối với họ. Sự

nổi tiếng, thành công, những phẩm chất tốt đẹp được người hâm mộ “gán” cho Sơn

Tùng đã giúp ca sĩ này trở thành một biểu tượng văn hóa, một biểu tượng của giới

trẻ. Khi trở thành một biểu tượng, nhất cử nhất động của ca sĩ này đều có tính dẫn

dắt, hướng đạo và cả sức cưỡng chế, có quyền lực lớn đối với những người yêu

thích. Đó là lí do vì sao Sơn Tùng ra ca khúc gì mới cũng tạo nên cơn sốt, “cơn địa

chấn” trong làng nhạc Việt. Vì sùng bái thần tượng của mình, các fan mặc nhiên cày

view, “automatic” hưởng ứng và ra sức kêu gọi mọi người bình chọn, mua vé

concert, mua các sản phẩm để ủng hộ cho thần tượng, các hàng hóa mà thần tượng

làm đại diện quảng cáo cũng nhanh chóng được tiêu thụ.

Ngoài việc nhắm vào cảm giác về lòng trung thành, sự ủng hộ của fan đối

với thần tượng, nền kinh tế cảm xúc còn thúc đẩy người hâm mộ tiêu thụ sản phẩm

bằng việc cấp cho họ cảm giác về vị thế, quyền lực. Họ được coi như “những người

tiêu dùng chuyên nghiệp” (consumers), “người tiêu dùng truyền cảm hứng”

131

(inspirational consumers) (Jenkins) [128] hay “khán giả năng suất” (Fiske) [101].

Các hoạt động của người hâm mộ đã gián tiếp mang lại lợi ích cho các tập đoàn

hùng mạnh (Kozinets) [135]. Việc tiêu thụ mạnh mẽ của fan BTS như đã trình bày

ở mục 3.3. cho thấy người hâm mộ hiện nay trở nên tin rằng số lượng và tốc độ tiêu

thụ của họ đối với các sản phẩm của thần tượng là cách mà họ có thể thể hiện “đẳng

cấp” và “quyền lực” của mình so với những cộng đồng người hâm mộ khác. Sự

ganh đua về vị thế của thần tượng thực chất là quá trình tiêu thụ của người hâm mộ.

Như vậy, nền công nghiệp văn hoá đã thúc đẩy việc hình thành quan niệm cho rằng

tình cảm của một fan phải được quy đổi ra bằng số tiền mà họ tiêu cho thần tượng ở

những người hâm mộ trẻ hiện nay.

Không chỉ “bán” cảm xúc, chủ nghĩa tiêu dùng đã “bán” cho người hâm mộ

những “ý nghĩa liên quan đến bản sắc” (Ka Ki Cheung) [89]. Có thể thấy các sản

phẩm hiện nay đều là những hàng hóa được gắn với những diễn ngôn về thị hiếu,

phong cách. Khi chúng ta mua một hàng hóa, đó cũng là lúc chúng ta mua về những

ý nghĩa biểu trưng và những hình ảnh liên quan mà chúng ta tìm thấy trong các sản

phẩm. Việc tiêu thụ hàng hóa đã “cung cấp một khái niệm độc đáo cho bản sắc của

người tiêu thụ, giúp họ xây dựng một bản sắc nhất định khác với các nhóm khác”

(Purnama) [158]. Càng ngày, tiêu dùng càng được coi là một phương tiện để các cá

nhân và các nhóm thể hiện bản sắc của họ thông qua biểu tượng tượng trưng trong

thị hiếu và lối sống, với mong muốn tập trung vào các “ý nghĩa biểu tượng hơn là

phần thưởng vật chất” (AlanWarde) [178, tr. 282].

Nếu như trước đây, “cái tôi” (the self) và những vấn đề về căn tính chưa từng

là một khả thể được nghĩ đến ở Việt Nam, thì hiện nay, căn tính được kiến tạo gắn

với những diễn ngôn mới, gắn với những bối cảnh nhất định đã trở nên nổi bật và

trở thành một thứ “hàng hoá” bán chạy cho những đối tượng khách hàng trẻ tuổi

thông qua những sản phẩm cụ thể phù hợp với lứa tuổi của họ. Thời trang, đồ uống,

âm nhạc đều được “thổi” vào những ý nghĩa về một căn tính và người tiêu dùng

mua những sản phẩm đó, thực chất là mong muốn có thể “mua” về được một căn

tính nào đó mà họ cho là phù hợp với họ ở thời điểm nhất định, chẳng hạn cool

ngầu, chất chơi, sành điệu, thời thượng...

Ngay cả những căn tính từng được coi là đối ngược với văn hóa chính thống

(mainstream) trước đây cũng đã được khai thác triệt để nhằm khai thác tối đa thị

trường. Duffett cho rằng từ những năm 1960, các doanh nhân văn hóa thâm nhập

132

sâu hơn vào phần cuối của thị trường. Trong khi đó, các thành phần nổi bật nhất của

văn hóa giới trẻ đã tránh xa cuộc nổi loạn của tuổi vị thành niên và hòa nhập nhiều

hơn với chủ nghĩa khoái lạc và giải trí: thiên thần tuổi teen, âm thanh lướt sóng và

phim bên bãi biển giải trí cho khán giả trẻ phương Tây [95, tr. 33]. Cho đến hiện tại,

chủ nghĩa tư bản đã khai thác cả những phần nổi loạn của thanh niên để kích thích

mua bán và bành trướng sự thống soát của mình, khiến cho tiểu văn hóa giới trẻ đã

có những phần nhập vào dòng chính. Một ví dụ tiêu biểu là nếu như trước kia, hip -

hop được coi là một tiểu văn hóa bởi những thông điệp phản kháng mạnh mẽ đối

với văn hóa thống trị phương Tây thì hiện nay, nó lại được coi trọng và như một

công cụ đầy tính năng sản bởi khả năng kích thích tiêu thụ ở giới trẻ dựa trên tính

chất ca tụng “cá tính”, “tài năng”, “khác biệt”, “sống chất” của một loạt những sản

phẩm mang hơi hướng hip hop như: thời trang, âm nhạc, phụ kiện... “Đối văn hoá”

(counter-culture) sẽ được “chính thống hoá”, được nhập vào “dòng chính”

(mainstream) một khi nó tạo ra được lợi nhuận. Ở Việt Nam cũng vậy, những phần

nổi loạn của giới trẻ đang dần được khai thác mạnh mẽ và trở thành hàng hoá có thể

bán cho những khách hàng muốn mua “tính trẻ”, “tính nổi loạn” ấy và nhờ thế,

“giới trẻ” ngày càng không phải là một từ bị giới hạn bởi độ tuổi. Những mẫu quần

jean mài rách, những trang phục đậm chất hip hop, những hình xăm và màu tóc

sáng rực... được ưa chuộng không chỉ ở giới trẻ.

Tuy vậy, từ những quan sát thực tế, chúng tôi cũng nhận thấy rằng, việc tiêu

thụ các sản phẩm vì thần tượng theo cách như hiện nay có thể nói là một thực hành

của những người trẻ có mức sống trung bình-khá trở lên. Để mua những sản phẩm

của thần tượng hoặc do thần tượng làm đại diện, những người hâm mộ cần phải có

tiền, trong khi các đa số họ là những người trẻ tuổi, chính vì vậy, khi bị cuốn vào

vòng xoáy của nền kinh tế cảm xúc này, giới trẻ đã buộc phải tham gia vào thị

trường lao động sớm hơn dự kiến và đương nhiên, họ bị bóc lột sớm hơn và triệt để

hơn. Điều này cũng góp phần dẫn đến những thay đổi về quan niệm và lí tưởng

sống cũng như những giá trị được coi trọng trong xã hội Việt Nam hiện nay mà

chúng tôi sẽ bàn kĩ hơn ở phần sau.

5.3.2. Sự thẩm thấu ý thức hệ thị trường

Các thần tượng gắn với nền công nghiệp giải trí và văn hóa tiêu dùng trong

bối cảnh xã hội sau Đổi mới đã ngày càng xâm nhập sâu vào đời sống thường ngày

của giới trẻ Việt Nam là một biểu hiện của ý thức hệ thị trường trong đời sống giới

133

trẻ nói riêng và xã hội Việt Nam nói chung. Nếu sự tôn vinh các trung thần là một

sự củng cố ý thức hệ Nho giáo, tôn vinh các anh hùng cách mạng là một sự củng cố

ý thức hệ cộng sản thì việc hâm mộ các ngôi sao giải trí hiện nay cho thấy sự thẩm

thấu của ý thức hệ thị trường. Trong đời sống xã hội phi quan phương hiện nay, ý

thức hệ của chủ nghĩa cộng sản thời kì trước đây đã không còn chiếm vị trí độc tôn,

duy nhất mà có sự cạnh tranh và ảnh hưởng bởi những ý thức hệ khác. Những đổi

mới trong chính sách về kinh tế và văn hóa, đặc biệt là quá trình toàn cầu hóa và hội

nhập đã làm “biến đổi diễn ngôn cho và về thanh thiếu niên ở Việt Nam” từ chỗ là

một “đối tượng để phổ biến và giáo dục lí tưởng cộng sản” thành một “thị trường

đầy tiềm năng” (Huong Nguyen) [122, tr. 14].

Một trong những lí do chính khiến những thần tượng giải trí trở nên nổi

tiếng, được giới trẻ “tiêu thụ” một cách vô thức và có ý thức như đã thấy là vì

những hình ảnh về họ hợp thời và trùng khít với những ý nghĩa biểu tượng của ý

thức hệ thị trường ở những người hâm mộ trẻ nói riêng cũng như giới trẻ Việt Nam

hiện nay nói chung. Theo Huong Nguyen, khái niệm thanh thiếu niên (Youth) đã

phá vỡ quỹ đạo cuộc sống liên tục thành các giai đoạn riêng biệt và đánh dấu bước

chuyển từ một thanh niên có ý thức hệ theo định hướng của Đảng Cộng sản Việt

Nam sang một thanh niên chịu ảnh hưởng của định hướng thị trường mà bản sắc cá

nhân được nuôi dưỡng thông qua tiêu dùng tư bản [122, tr. 4]. Nền kinh tế thị

trường và các tư tưởng phương Tây có liên quan đã “phá vỡ quan niệm sống truyền

thống của người Việt từ một quỹ đạo liên tục thành một trong những giai đoạn phát

triển riêng biệt”, với nhu cầu phát triển và nhu cầu tiêu dùng riêng biệt (Huong

Nguyen) [122, tr. 4].

Thời đại hiện nay là thời đại mà con người ý thức rõ ràng về “sự thống soát

của hàng hóa, kinh tế thị trường và chủ nghĩa tiêu dùng ở khắp nơi trên thế giới”

(Phạm Quỳnh Phương) [47, tr. 11]. Việc tiêu thụ hàng hóa ở những người trẻ tuổi

được thúc đẩy bởi sự nổi lên của các diễn ngôn, đặc biệt phổ biến trên truyền thông,

về lối sống/phong cách sống, như một phương thức giúp giới trẻ kiếm tìm bản sắc

và đối mặt với sự biến đổi mạnh mẽ của môi trường và xã hội (Phạm Quỳnh

Phương) [46, tr. 27]. Khác với thế hệ cha mẹ, giới trẻ Việt Nam hiện nay tiêu dùng

hàng hóa không chỉ vì những nhu cầu thiết yếu, mà còn là mua về sự phong phú của

các mặt hàng, mua cảm giác về sự hưởng thụ và sung túc, nhằm giải phóng các nhu

cầu và thoả mãn thú vui cá nhân, hoặc niềm đam mê với hàng hoá. Giới trẻ Việt

134

Nam - một bộ phận không nhỏ là những người ở độ tuổi mà vốn kinh tế còn hạn chế

nhưng lại là đối tượng khách hàng rộng lớn - đã tiêu dùng một khối lượng lớn hàng

hóa với sự phổ biến của các chương trình quảng cáo trên ti vi, internet. Cứ mỗi

trung tâm thương mại, cửa hàng mới khai trương, với những quảng cáo hoa mĩ và

đầy kích thích, giới trẻ lại đua nhau tới xếp hàng “check in”. Ai cũng có thể mua

sắm hàng hóa dù họ ở giai cấp, tầng lớp nào, các nhà bán lẻ có đủ các sản phẩm với

đủ các mức giá để “giữ chân” bằng được khách hàng của mình. Tiêu dùng được coi

là một trong những cách để “giải giai cấp”, người giàu hay nghèo đều có thể tham

gia vào việc mua hàng. Việc tiêu thụ hàng hóa khiến người tiêu dùng cảm thấy cuộc

sống của họ ổn định và có ý nghĩa hơn. Tuy nhiên, cũng chính vì vậy mà lối sống,

lối tiêu dùng của những người thuộc tầng lớp thượng lưu ngày càng trở thành đích

đến của đa số người trong xã hội. Điều này có thể được giải thích do xã hội của con

người ở đô thị “ngày càng được liên kết với các dấu hiệu về địa vị như: nhà ở, các

tiện nghi, điện thoại di động, ô tô, xe máy và quần áo hàng hiệu” (Pam Nilan) [149].

Giới trẻ sẽ không thể ngừng nghĩ về hàng hoá và ham muốn mua hàng hoá khi mà

hàng hoá có mặt khắp nơi, bủa vây xung quanh họ. Chưa kể những hàng hoá này lại

được các nhà sản xuất tiếp thị bằng nhiều cách thức tinh vi như thông qua cảm xúc

và những ý nghĩa liên quan đến bản sắc như đã nói ở trên.

Thêm vào đó, người trẻ hiện nay trải qua những nỗi lo lắng khác với thời mà

bố mẹ họ sống. Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh kinh tế thị trường và nền sản xuất

hàng hóa gia tăng trong 20 năm trở lại đây, giới trẻ không lấy tiết kiệm làm mục

tiêu hàng đầu mà coi sự tiện nghi, trải nghiệm mới là mục đích của việc kiếm tiền

của họ. Tiêu dùng đóng một vai trò quan trọng trong việc “cá nhân hóa và xã hội

hóa giới trẻ” (Nhat Nguyen Nguyen và cộng sự) [148, tr. 490]. Những người tiêu

dùng trẻ này được biết đến như “những người tìm kiếm niềm vui, người tiêu dùng

văn hóa và những người định hướng sáng tạo” (Nhat Nguyen Nguyen và cộng sự)

[148]. Tham gia vào các thực hành tiêu dùng cũng là một cách thức giúp giới trẻ

hình thành các nhóm của họ (nhóm ngang hàng, nhóm theo sở thích mà các FC như

đã trình bày là một ví dụ điển hình) và phân biệt với các nhóm khác.

Ý thức hệ thị trường đã len lỏi và chi phối nhiều khía cạnh trong đời sống

văn hóa giới trẻ hiện nay bởi lẽ “những ý nghĩa biểu tượng, ý tưởng văn hóa và ý

thức hệ được mã hóa trong các văn bản văn hóa đại chúng” (Phạm Quỳnh Phương)

[47, tr. 10] khiến cho giới trẻ nhìn đâu cũng thấy những ý nghĩa biểu tượng và thông

135

điệp từ các hàng hóa xung quanh họ. Theo Nguyễn Thu Giang, nếu như trong giai

đoạn chiến tranh, báo chí Việt Nam thường đưa tin về người anh hùng cách mạng

như một cách củng cố ý thức hệ khá hiển ngôn và có dụng ý rõ ràng (còn gọi là

“nêu gương”), thì hiện tượng người nổi tiếng trên truyền thông hiện nay lại khá “tự

nhiên” và trong nhiều trường hợp, bản thân người nổi tiếng, người đưa tin lẫn công

chúng đều không có ý thức rõ ràng về sự tham gia của họ vào không gian của chủ

nghĩa tiêu dùng. Người nổi tiếng lại củng cố và quan trọng hơn cả, biến những giá

trị mang tính ý thức hệ trở nên “tự nhiên” và khó phát hiện đối với công chúng [16,

tr. 159]. Các văn bản văn hoá đại chúng (quảng cáo, chương trình truyền hình,

phim…) được coi như là “những định hướng về lối sống và căn tính, hàm chứa

trong nó những ý hệ thị trường (marketplace ideologies) và lý tưởng hoá các dạng

thức người tiêu dùng” (Phạm Quỳnh Phương) [47, tr. 10]. Những người nổi tiếng,

những thần tượng hút fan được truyền thông mà đặc biệt là các chương trình quảng

cáo của các nhãn hàng tôn vinh là “biểu tượng đương đại” chẳng hạn như Sơn Tùng

M-TP, như BTS chính là những “văn bản văn hóa đại chúng” như thế. Họ không chỉ

là những “hàng hoá đặc biệt” mà từ hình ảnh và biểu tượng của các thần tượng âm

nhạc này, chúng ta có thể nhìn ra những thông điệp của chủ nghĩa tiêu dùng: tiêu

thụ không ngừng, với niềm tin rằng họ sẽ mua được một phong cách, cá tính, cuộc

sống của họ sẽ ổn định, tươi vui và có ý nghĩa hơn.

Theo Phạm Quỳnh Phương, “việc áp đặt ý hệ thị trường đại chúng xảy ra ở

cả cấp độ toàn cầu và trong nước: ở mức độ vĩ mô, toàn cầu hoá văn hoá và kinh tế

đã áp những dự án căn tính tiêu dùng (consumer identity projects) và hình thái tiêu

dùng lên các bối cảnh xã hội cụ thể; ở trong nước, các hệ thống sản xuất, như truyền

thông marketing hay công nghiệp thời trang, đã áp đặt một cách có hệ thống, khiến

khách hàng hướng theo những ý tưởng căn tính nhất định” [47, tr. 9]. Hiện tượng

hâm mộ thần tượng ở giới trẻ như đã phân tích có thể coi là một biểu hiện sống

động cho việc truyền thông và văn hóa tiêu dùng đã “áp đặt một cách có hệ thống”

ý thức hệ thị trường tới thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay. Qua những biểu hiện cụ thể

như đã mô tả ở mục 3.3. có thể thấy việc hâm mộ thần tượng ngày càng mang màu

sắc của một thực hành tiêu dùng, mối quan hệ giữa người hâm mộ và thần tượng

ngày càng mang đặc trưng của mối quan hệ thị trường, giữa người mua và người

bán. Điều này cho thấy ý thức hệ thị trường (thực chất là ý thức hệ tiêu dùng, ý thức

hệ của chủ nghĩa tư bản) đã trở nên “tự nhiên nhi nhiên” ở giới trẻ hiện nay. Đáng

136

chú ý, ý thức hệ này ngày càng len lỏi và được tô đậm một cách có hệ thống ở Việt

Nam, gắn liền với sự bao trùm của truyền thông, với việc gia tăng của chủ nghĩa cá

nhân. Ở một đất nước vốn ưa bình quân chủ nghĩa, đề cao con người làng xã, con

người sống hòa vào cộng đồng và tập thể như Việt Nam, việc tìm kiếm và làm nổi

bật những căn tính và giá trị mang tính cá nhân của giới trẻ cho thấy ý thức hệ thị

trường đã được đan cài tinh vi trong những diễn ngôn thường ngày về những giá trị mới.

5.4. Định vị bản thân và khao khát toàn cầu: giới trẻ và những giá trị mới

5.4.1. Định vị bản thân

Như đã chỉ ra ở chương 2, sự theo đuổi và tôn vinh các hình mẫu lí tưởng là

hiện tượng được nhìn thấy ở mọi thời kì, do đó, việc hâm mộ những ngôi sao giải trí ở

giới trẻ Việt Nam hiện nay chỉ là một trong vô vàn những chiều cạnh đa dạng của hâm

mộ thần tượng. Đặt trong bối cảnh xã hội đương đại, việc hâm mộ các thần tượng giải

trí của giới trẻ hiện nay phản ánh mong muốn định vị bản thân của giới trẻ cũng như

những nhân tố có tác động đến mong muốn này. Giới trẻ Việt Nam hiện nay là những

người được tuyên truyền và giáo dục về việc cần phải kế thừa và phát huy những giá trị

văn hóa lâu đời của dân tộc nhưng đồng thời họ cũng buộc phải vượt thoát khỏi những

rào cản của truyền thống để phù hợp với yêu cầu ngày càng khắt khe của thời đại.

Trong quá trình từ trẻ con thành người trưởng thành, giới trẻ Việt Nam không ngừng

va đập giữa những giá trị cũ và giá trị mới, giữa ý thức hệ cũ với ý thức hệ mới đang

hình thành, trong đó có những kế thừa, thỏa hiệp nhưng cũng có cả những phản kháng

và nỗ lực kiến tạo bản sắc riêng của nhóm tuổi này.

Sự đề cao các khía cạnh cá nhân và những quan niệm khác biệt

Qua những cách thức mà những người hâm mộ trẻ diễn giải về thần tượng đã

được phân tích ở phần 4.2., có thể thấy phần nào những ý nghĩa, giá trị được họ coi

trọng và chia sẻ. Trong bối cảnh xã hội kể từ sau Đổi mới với những biến đổi mạnh

mẽ về cơ cấu kinh tế, xã hội, cấu trúc gia đình, cùng với đó là sự giao lưu văn hóa

và toàn cầu hóa ngày càng rộng lớn, sự ảnh hưởng của truyền thông, hệ giá trị của

giới trẻ Việt Nam có những thay đổi căn bản so với những thế hệ trước. Sự chú ý

vào các khía cạnh cá nhân ngày càng trở thành những vấn đề nổi bật trong hệ giá trị

của những người trẻ. Nếu con người thời kì chiến tranh và xây dựng chủ nghĩa xã

hội luôn được tắm mình trong chủ nghĩa anh hùng cách mạng (gắn với truyền thống

đề cao con người vô ngã, con người tập thể) thì đến nay, những cái gần gũi, thiết

thực, đời thường nhất của con người (tình yêu, sự ghen tuông, nỗi cô đơn, sự khác

137

biệt...) lại được đề cao, được khai thác và dễ dàng được đồng cảm không chỉ trong

âm nhạc, văn học mà trong hầu hết mọi khía cạnh, lĩnh vực của cuộc sống. Sống ở

thời bình, khi lí tưởng cộng sản không còn là một đòi hỏi cấp thiết về mặt tư tưởng,

lại liên tục va đập với những giá trị mới trong quá trình tiếp nhận những làn sóng

văn hóa nước ngoài, các tầng lớp xã hội đặc biệt là giới trẻ Việt Nam nhanh chóng

tiếp thu những trào lưu, lối sống mới, trong đó có hệ tư tưởng tiêu dùng và chủ

nghĩa cá nhân - những đặc trưng của xã hội phương Tây. Mọi khía cạnh trong đời

sống của giới trẻ từ cách ăn mặc, giải trí, sử dụng ngôn ngữ, giao tiếp... của thanh

thiếu niên đều mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa cá nhân. Thay vì tập trung vào các

đại tự sự thì hiện nay, xã hội nói chung và giới trẻ nói riêng chú ý nhiều hơn đến các

tiểu tự sự, mà các nhà lí thuyết gọi là “văn hóa thường ngày” (Phạm Quỳnh

Phương) [46]. Đây cũng là lí do khiến nhạc trẻ lên ngôi với những tự sự về tình yêu,

sự cô đơn, sự thất vọng... thay vì là không khí tập thể hừng hực lửa như nhạc cách

mạng trước kia. Đặc biệt, những ca sĩ nổi tiếng, có sự nghiệp thành công, có tầm

ảnh hưởng với những câu chuyện vượt khó vươn lên được xuất hiện đều đặn trên

truyền thông với diễn ngôn về hiện đại, tự do đã khiến họ ngày càng có xu hướng bộc

lộ các quan điểm cá nhân, lối sống cá nhân đa dạng.

Cách mà giới trẻ tiêu thụ và giải mã thần tượng của mình như đã được trình

bày ở chương 3, 4 cho thấy giới trẻ Việt Nam hiện nay đã bộc lộ sự khác biệt thậm

chí đối lập với thế hệ cha mẹ trong những quan niệm về vẻ đẹp, về sự thành công,

về nghề nghiệp, về gia đình... mà họ hướng tới hoặc theo đuổi. Nếu như thế hệ trước

đây chú trọng “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” thì giới trẻ ngày nay quan tâm nhiều hơn

đến hình thức, vẻ bề ngoài và coi đó như một nhân tố góp phần không nhỏ làm nên

sự thành công, sự nổi bật của cá nhân (đẹp cũng là một tài nguyên, một giá trị),

mang lại sự thuận lợi cho công việc, giao tiếp.

Việc hâm mộ những ngôi sao giải trí nổi tiếng cho thấy sự chú ý đến danh

tiếng, sự nổi trội, khát vọng giàu có của giới trẻ hiện nay. Không phải tự nhiên mà

các mẫu hình thần tượng của số đông giới trẻ hiện nay đều là những ngôi sao, người

nổi tiếng thành danh nhanh chóng dựa vào tài năng, ngoại hình và cả sự lăng xê của

truyền thông. “Vịt hoá thiên nga” cũng không phải tự nhiên mà trở thành mô tip

tưởng bất ngờ nhưng quen thuộc của đa phần các chương trình gameshow thực tế

thịnh hành từ Mỹ cho đến Việt Nam (Vietnam Idol, The Face, Next Top Model...).

Một người nổi tiếng, một người thành công từ “hai bàn tay trắng” đã trở thành một

138

mô típ chung, một “tấm gương” về sự đổi đời - khát vọng của giới trẻ trong thời của

khởi nghiệp hiện nay, đặc biệt ở giới trẻ thuộc tầng lớp bình dân - những người mới

chập chững bước vào đời, gặp nhiều trở ngại về vốn văn hoá, vốn xã hội và cả nhiều

thất bại. Khát vọng này là kết quả của sự nhập tâm hoá đối với diễn ngôn về thành

đạt và giàu có trước sự phồn thịnh của hàng hoá ở khắp nơi. Và những thần tượng,

những người nổi tiếng dễ dàng thuyết phục được giới trẻ - những người lớn lên

trong bối cảnh kinh tế thị trường sau mở cửa. Hình ảnh người nổi tiếng đã cấp cho

người hâm mộ của họ những khao khát mãnh liệt về sự thành công, giàu có nhanh

chóng. Một trong những lí do khiến Sơn Tùng M-TP được đông đảo bạn trẻ ngưỡng

mộ, khâm phục là bởi ca sĩ này xuất thân là một chàng trai tỉnh lẻ (Thái Bình), trong

gia đình bình thường, không phải con nhà nòi, cũng không giàu có (bố làm lái xe,

mẹ bán quần áo), nhưng chàng trai này đã tự mày mò và tìm kiếm lối đi riêng từ

việc tận dụng một chiếc máy tính rẻ tiền, những beat nhạc (nhạc nền) có sẵn trên

mạng để khám phá phát triển đam mê của bản thân và trở nên nổi tiếng, trở thành

một nghệ sĩ hàng đầu của Vbiz; biết nắm bắt các cơ hội, nhanh nhạy trước các xu

hướng để luôn hâm nóng tên tuổi của bản thân, thậm chí dám thử sức và vươn ra

quốc tế bằng việc hợp tác với huyền thoại nhạc Rap của Mỹ. Việc Sơn Tùng tự tách

ra để thành lập công ty giải trí của chính mình khi chỉ mới 23 tuổi là một bước

ngoặt thể hiện sự táo bạo, đột phá của ca sĩ này. Sự thành công của Sơn Tùng như

một tấm gương rực rỡ về khởi nghiệp, là ý nghĩa biểu tượng lớn lao làm nên sức hút

mạnh mẽ đối với người hâm mộ. Nhờ thế, từ một thần tượng giải trí, Sơn Tùng M-

TP đã trở thành thần tượng nói chung của một bộ phận không nhỏ giới trẻ Việt Nam

trong những năm vừa qua.

Sự nổi tiếng và giàu có của các thần tượng giải trí tạo ra những diễn ngôn có

sức tác động lớn đến suy nghĩ, quan điểm của giới trẻ về khả năng cá nhân, sự thể

hiện bản thân, về sự thành đạt. Nhu cầu nổi tiếng và tìm kiếm cơ hội để khẳng định

năng lực bản thân trở thành một nhu cầu chính đáng và được cổ vũ của giới trẻ hiện

nay. Ngày càng nhiều bạn trẻ ước mơ trở thành ca sĩ, thành diễn viên, thành người

38 Báo chí 10 năm trở lại đây đã đăng không ít bài về các hiện tượng một số bạn trẻ tự lăng xê mình để nối tiếng, thậm chí bất chấp sự phê phán của công chúng để trở nên nổi tiếng theo cách mà họ nghĩ là được nhiều người biết tới, nếu không bằng tài năng thì bằng tai tiếng - cũng là một cách nổi tiếng. Chẳng hạn như Bà Tưng, Thuý Vy, Lệ Rơi, Khá Bảnh… Đặc biệt trên không gian mạng, việc nổi tiếng bằng tai tiếng lại càng trở nên dễ dàng hơn.

nổi tiếng, thậm chí tìm mọi cách để nổi tiếng38. Nếu như thế hệ cha mẹ hướng tới sự

139

ổn định, lâu dài thì giới trẻ hiện nay hướng tới sự bứt phá, nổi trội, không chỉ khám

phá mà còn nỗ lực tạo dựng nên các năng lực mới của bản thân. Họ tìm kiếm các cơ

hội để thể hiện bản thân và toả sáng. Đây là lí do vì sao các cuộc thi tìm kiếm tài

năng, các cuộc thi khởi nghiệp... liên tục thu hút được sự tham gia của những người

trẻ trong thời gian qua. Thêm vào đó, những nghề nghiệp mà họ theo đuổi không

phải chỉ bó hẹp trong quan niệm nghề danh giá của cha mẹ mà có xu hướng theo

đuổi những ngành nghề mới, đặc biệt những nghề nghiệp đòi hỏi tính sáng tạo và

ứng dụng cao. Những thay đổi này ở giới trẻ phản ánh những chuyển dịch, những

động năng về kinh tế, văn hoá, xã hội của bối cảnh Việt Nam hiện nay. Những phê

phán và định kiến của thế hệ cha mẹ về việc giới trẻ hâm mộ thần tượng giải trí

được phản ánh trên báo chí thời gian qua là hệ quả của việc mong muốn của những

người trẻ tuổi nhiều khi không trùng khít, thậm chí đối lập với những mong muốn

hoặc định hướng của thế hệ cha mẹ. Theo Huong Nguyen, các hình mẫu vai trò

(role models) mà họ theo đuổi khác biệt đáng kể với các hình mẫu từng được các

thế hệ trước nuôi dưỡng và ấp ủ (hình mẫu tuổi trẻ lý tưởng ở Việt Nam trước đây):

sự trưởng thành về ý thức chính trị; kết quả học tập tốt; tham gia vào các hoạt động

của trường, các phong trào Đoàn Thanh niên và các hoạt động cộng đồng; và là đứa

con ngoan trong gia đình [122, tr. 9].

Sự thành đạt - giàu có - địa vị xã hội luôn là đích đến của một bộ phận không

nhỏ những người trẻ. Điều này phản chiếu bức tranh xã hội đương đại khi thời đại

hiện nay được coi là thời đại của start up, của khởi nghiệp. Đây là một sản phẩm

của quá trình toàn cầu hoá và va đập với thế giới bên ngoài, khi mà cả xã hội sục sôi

tinh thần “làm giàu”, coi giàu có như một giá trị quan trọng. Làm sao để trở nên

giàu có là điều mà cả xã hội hiện nay quan tâm. Bằng chứng là một loạt các lớp học

“dạy làm giàu” liên tục được mở ra, thu hút không ít người tham dự; các sách dạy

làm giàu, thúc đẩy tinh thần làm giàu cũng được ưa chuộng hơn bao giờ hết (Ví dụ: Cha giàu

cha nghèo); các bậc phụ huynh cũng có xu hướng định hướng con em mình theo những nghề

nghiệp có thu nhập cao (công nghệ, kinh tế...). Như vậy, việc hâm mộ các thần tượng giải trí

nổi tiếng đã góp phần soi chiếu những thay đổi của ý thức xã hội trong bối cảnh đương đại.

Để hiểu rõ hơn những thay đổi này ở giới trẻ, cần phải đặt chủ nghĩa cá nhân

trong những tương quan với văn hoá truyền thống của Việt Nam. Thời phong kiến,

cái tôi không có một diện mạo cụ thể và việc không có ý thức cá nhân cụ thể đó tạo

nên “sự cộng cảm có tác dụng củng cố, giáo dục ý thức cộng đồng” (Đỗ Lai Thúy)

140

[56, tr. 457]. Ý thức cộng đồng này bao trùm và xuyên thấm toàn bộ ý thức xã hội,

tạo thành một cơ tầng vững chắc khiến mọi hệ thống tư tưởng ngoại nhập, dù hùng

mạnh đến đâu cũng không làm thay đổi được cấu trúc xã hội. Trong các xã hội tiền

công nghiệp, “cá nhân không đại diện cho chính bản thân nó mà đại diện cho các

tập đoàn xã hội bao gồm những cá thể như nó, có chung quyền lợi kinh tế, xã hội,

chung nếp cảm, nếp nghĩ. Cá nhân, bởi thế lấy bản tính chung của nhóm làm bản

tính riêng của mình một cách tự nhiên nhi nhiên” (Đỗ Lai Thúy) [56, tr. 451]. Điều

này giải thích cho việc các mẫu người tiêu biểu được kết tinh lại trong các giai đoạn

văn hóa - xã hội như người quân tử, người anh hùng, tấm gương lao động sản xuất...

được tôn vinh và đề cao. Trong nền văn minh công nghiệp, cá nhân vấp phải một

mâu thuẫn là càng phát triển cao (công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyên môn hóa,

rồi đô thị hóa, số hóa), cá nhân càng rơi vào trạng thái cô đơn, biệt lập, tách rời với

tập thể. Đến thời hậu hiện đại, trước ảnh hưởng của toàn cầu hóa, giao lưu quốc tế

ngày càng mạnh, trong bối cảnh truyền thông và tiêu dùng, khi có quá nhiều bản sắc

và giá trị được phô bày, thậm chí bản sắc còn trở thành “hàng hóa” được “bán”, khi

có quá nhiều thứ để so sánh và lựa chọn, thì việc xác định mình cần gì, muốn gì

càng trở nên khó khăn hơn với những người trẻ tuổi; sự khủng hoảng về căn tính, cá

tính lại trở thành một vấn đề đối với con người đương đại. Những phương thức

truyền thống để hình thành bản sắc có tính chi phối, khắt khe và độc đoán dựa trên

nền tảng giai cấp, tuổi tác, giới tính, chủng tộc... đã tan rã và thay vào đó là những

nguồn hình thành bản sắc khác nhau dựa trên chủ nghĩa tiêu dùng. Con người tự do

hơn nhưng lại dễ trở thành “nô lệ của sự hỗn mang” (Lê Thu Hường, Lê Duy Thể)

[32]. Bản sắc trong giai đoạn này được mô tả là vụn vặt và rời rạc, không ổn định,

mong manh, nông cạn và viển vông (Lê Thu Hường, Lê Duy Thể [32], Nguyễn Đức

Lộc [38]). Trong bối cảnh ấy, mỗi cá nhân nói chung và giới trẻ nói riêng luôn phải

tìm cách để định vị bản thân mình. Họ muốn trở thành người như thế nào và đâu là

những căn tính họ muốn tạo dựng đã trở thành câu hỏi thường trực.

Khủng hoảng niềm tin và sự thay đổi hệ giá trị

Bối cảnh Việt Nam 30 năm trở lại đây đã có những thay đổi nhanh chóng cả

về chính trị, kinh tế, văn hóa. Toàn cầu hóa với sự du nhập của các dòng chảy văn

hóa nước ngoài, truyền thông đại chúng đặc biệt là internet là một bước ngoặt văn

hóa trong đời sống tinh thần của xã hội, là điều kiện để nổi bật những mâu thuẫn

giữa cũ và mới, truyền thống và hiện đại. Sự phát triển nhanh chóng của các phương

141

tiện khoa học kĩ thuật mà đặc biệt là cuộc cách mạng trong thông tin liên lạc với sự

ra đời của internet và mạng xã hội đã giúp con người vượt qua những rào cản về địa

lí, truyền thống để hoà nhập vào một thế giới phẳng. Tuy nhiên, cũng chính trong

bối cảnh đó, con người lại chịu những va đập mạnh mẽ từ các nền văn hoá, tư tưởng

bên ngoài khiến cho họ vừa đứt gãy với những giá trị truyền thống vừa lạ lẫm trước

những cái mới chưa định hình rõ. Cấu trúc và trật tự xã hội truyền thống đã có nhiều

rạn vỡ và đang được thay thế bởi các hệ thống mới, trong khi đó các cơ hội và lựa

chọn mới đang nổi lên, các cá nhân luôn phải vật lộn trong việc tìm kiếm cách thức

để đối phó với những thay đổi về cấu trúc xã hội này. Thêm vào đó, quá trình hiện

đại hoá dẫn đến những đứt đoạn với truyền thống gây ra những bất ổn đối với tinh

thần của các cá nhân. Điểm tựa tinh thần cho quá trình tự nhận dạng của các cá

nhân từ các thiết chế truyền thống (tôn giáo, tầng lớp xã hội, cộng đồng địa

phương...) đã trở nên không ổn định, thậm chí suy giảm, kinh tế phát triển nhanh

trong khi nền tảng ý thức xã hội chưa có những chuyển biến kịp thời dẫn đến những

mâu thuẫn trong việc xác định hệ giá trị của con người. Con người Việt Nam đang

đứng trước sự giằng co, phân vân giữa hai lựa chọn: truyền thống hay hiện đại?,

theo đuổi những giá trị cá nhân hay cộng đồng?...

Bên cạnh đó, quá trình đô thị hóa và sự đứt gãy giao tiếp liên cá nhân do

những suy giảm của các thiết chế truyền thống như gia đình, trường học... đã khiến

một số cá nhân trở thành những cá thể đơn độc trong việc phải tự giải quyết những

rắc rối của mình. Những rủi ro, mong manh của bối cảnh đô thị, công nghiệp hóa -

hiện đại hóa, sự tôn sùng vật chất ngày càng gia tăng đã khiến “con người bắt đầu bị

khủng hoảng trong chính hệ giá trị văn hoá truyền thống của mình”, “ngày càng

hoang mang” và thậm chí là “chối bỏ tất cả những giá trị, hay nói cách khác, họ

không theo bất cứ một hệ giá trị nào nữa” (Quách Thuyên Nhã Uyên) [65, tr. 182].

Những “tấm gương” cũ tỏ ra không còn phù hợp với bối cảnh mới, thậm chí còn đổ

sụp trước những cám dỗ vật chất đương thời. Có những huyền thoại và tượng đài

từng được tôn vinh trong truyền thống dần bị giải hủy trong bối cảnh kinh tế thị

trường, khi vật chất lên ngôi (chẳng hạn những người từng anh dũng đi qua cuộc

kháng chiến chống Mỹ nhưng lại bị khuất phục trước tiền tài, danh vọng; những vụ

án quan chức tham nhũng; những giáo viên tham gia vào nâng điểm, mua điểm...).

Những hiện thực này dẫn đến sự khủng hoảng niềm tin ở những người trẻ và trên

thực tế cũng như trên mạng xã hội, chúng ta hay bắt gặp những tâm tư “biết tin vào

142

cái gì bây giờ” đầy bất mãn của nhiều bạn trẻ. Và khi những hình mẫu của thế hệ cũ

tỏ ra không còn phù hợp với bối cảnh hiện tại, giới trẻ tìm đến và vin vào những

mẫu hình mới mang đặc trưng của thời đại để tìm kiếm những phương thức định

dạng bản thân. Điều này cũng từng được nhà nghiên cứu Nguyễn Trung Kiên bàn đến khi lí giải về hiện tượng một số người trẻ hâm mộ Khá Bảnh39, nhìn Khá Bảnh

như một con người trượng nghĩa: “Khi rường cột bị mục ruỗng, người ta có xu

hướng tìm kiếm sự chống đỡ từ môi trường phi chính thống. Lúc đó, các nhân vật

xã hội trở thành người tạo ra và dẫn dắt các giá trị mong muốn cho đám đông. Đó

có thể là ca sĩ có năng lực, đó có thể là cô người mẫu biểu trưng của sắc đẹp, đó có thể là thiếu gia giàu có, và đó có thể là Khá - một nhân vật giang hồ”40. Tác giả này

cũng cho rằng trong bối cảnh các khuôn mẫu và hệ giá trị chính danh bị xói mòn,

một bộ phận sinh ra và lớn lên trong sự lung lay, không biết đặt niềm tin vào đâu thì

một nhân vật như Khá Bảnh lại có khả năng tạo ra giá trị lấp chỗ trống vào sự hụt

hẫng đó. Và đương nhiên, trong bối cảnh này, những nhân vật có tài năng, ngoại

hình và đã từng bước khẳng định được danh tiếng như Sơn Tùng là thần tượng của

không ít giới trẻ là điều dễ hiểu.

Việc Sơn Tùng được diễn giải là một người vừa đẹp trai, tài năng, dám nghĩ

dám làm, nhiều khao khát, sống bứt phá, vừa hiếu thảo, lễ phép, cư xử đúng mực

cũng cho thấy sự pha trộn giữa hiện đại và truyền thống trong quan niệm, suy nghĩ

của những người hâm mộ. Những fan là sinh viên tỉnh lẻ rời quê lên thành phố để

học tập nhìn thấy phần nào ước mơ và nỗ lực của mình ở Sơn Tùng; nhóm những

bạn trẻ đô thị lại tìm thấy sự mới mẻ, phá cách và khâm phục tư duy dám nghĩ dám

làm của ca sĩ này. Sơn Tùng đã đáp ứng được về mặt ý nghĩa và biểu tượng gắn với

nhu cầu về hình mẫu, định hướng lối sống, hệ giá trị của từng cá nhân những người

trẻ trong bối cảnh xã hội hoàn toàn khác so với thời của bố mẹ, ông bà họ trước đây.

Họ trở nên dễ dàng bị thu hút và tôn thờ các thần tượng hát hay, nhảy đẹp, ngoại

hình sáng, bởi trong mắt họ, đó là một hình mẫu hoàn hảo hay là một “miền thiêng

39 Khá Bảnh là một nhân vật được dư luận và báo chí gán cho cái mác “giang hồ mạng” với những video có nội dung gây sốc trên Youtube như đập nát xe máy 70 triệu đồng, châm lửa đốt để đổi lấy xe điện, tuyên truyền hành vi tiêu cực cho giới trẻ; clip cùng nhóm bạn dàn hàng ngang trên đường cao tốc, trừng phạt đàn em…Mỗi video có mặt thanh niên này thường có cả triệu người xem và bình luận. Khá Bảnh bị bắt vì tổ chức đánh bạc và nhiều tội danh khác. Trước khi bị khóa, kênh YouTube của Khá "bảnh" có khoảng 1,99 triệu người đăng ký và hơn 400 video. 40 [Góc nhìn] Người Việt giang hồ: Tại sao Khá BảnH lại hot thế? (Làm giang hồ thời nay là kiếm 100 triệu/tháng từ Youtube?). Nguồn: https://kiensociology.wordpress.com/tag/kha-banh/, (26/5/2019).

liêng” (từ dùng của Kozinets [135]), “chốn mộng mơ”, một chỗ dựa tinh thần.

143

Trong bối cảnh hậu hiện đại, thần tượng bị buộc phải là “tấm gương” vì con người

không thể tự làm tấm gương cho chính bản thân mình, hình ảnh và mong muốn của

mỗi người chính là hình ảnh mà thần tượng sẽ phải mang. Hâm mộ thần tượng, do

vậy, có thể nói còn là một trong những phương thức để thích nghi với bối cảnh khi

mà các hệ giá trị đan xen nhau, cũng là phương thức để giới trẻ hình thành nên căn

tính của mình. Tuy nhiên, cũng có một thực tế là một mặt, những người hâm mộ trẻ

luôn có xu hướng lí tưởng hóa, lãng mạn hóa các thần tượng (Đó cũng là lí do giải

thích vì sao họ ra sức bênh vực thần tượng, thậm chí tô vẽ thần tượng theo những

tưởng tượng, lí tưởng của mình và chia sẻ với những người hâm mộ khác cùng

nhóm tuổi); mặt khác, sự phổ biến nhanh chóng của thông tin trong thời đại truyền

thông kĩ thuật số cũng có thể là một nhân tố khiến niềm tin vào thần tượng dễ bị sụp

đổ, khi những scandal của ca sĩ, diễn viên, cầu thủ nổi tiếng liên tục nổ ra trên

mạng, và điều này có thể làm giới trẻ cảm thấy chênh vênh hơn. Một số người từ bỏ

mộng mơ vào thần tượng và chấp nhận thực tại, nhưng cũng có những cá nhân vẫn

lại tiếp tục đi tìm kiếm và đặt niềm tin ở những hình mẫu khác - những sản phẩm

vẫn được sản xuất đều đặn bởi ngành công nghiệp văn hóa và truyền thông. Trường

hợp scandal của Seungri - một thành viên của nhóm nhạc thần tượng nổi tiếng Hàn Quốc BigBang mới đây41 là một ví dụ. Khi scandal của ca sĩ này nổ ra, nhiều fan

đặc biệt là fan nữ vẫn ra sức bênh vực thần tượng của mình, cho rằng người mà họ

yêu quý và tin tưởng bao năm không thể có những hành vi đồi bại và vi phạm đạo

đức như báo chí đưa tin. Tuy vậy, khi những thông tin về vụ việc của ca sĩ này liên

tục được phơi bày và xử lí bởi các cơ quan chức năng của Hàn Quốc, nhiều fan đã

thừa nhận rằng họ sụp đổ niềm tin về thần tượng, tuy yêu quý thần tượng nhưng họ

không muốn là những người mù quáng.

Như vậy, trong bối cảnh các điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội liên tục có sự thay

đổi, xáo trộn, đan xen giữa cũ và mới, sự hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam hiện

nay đã phản ánh phần nào sự loay hoay của họ trong quá trình tìm kiếm những điểm tựa

về tinh thần, hình mẫu và những giá trị vừa hợp thời vừa hòa hợp với truyền thống.

5.4.2. Khao khát toàn cầu

Các thực hành hâm mộ, đặc biệt cách giải mã thần tượng như đã trình bày ở

41 https://kenh14.vn/nhin-lai-chuoi-scandal-lien-tiep-nhan-chim-seungri-trong-nhung-thang-dau-nam-2019- 20190228183440016.chn.

chương 4 không chỉ phản ánh nhu cầu định vị cá nhân mà còn phản chiếu khao khát

144

vươn ra toàn cầu - một khao khát chung của giới trẻ Việt Nam hiện nay. Có thể nói,

toàn cầu hóa đã có những tác động sâu sắc và toàn diện đến đời sống xã hội Việt

Nam những năm qua, mà một trong những biểu hiện của nó là đã tạo ra những khao

khát mới và những căn tính mới trong các tầng lớp xã hội. Những diễn giải của

người hâm mộ về sự hợp tác của Sơn Tùng với huyền thoại nhạc Rap của Mỹ

Snoop Dog ở chương 4, sự say mê của cộng đồng fan K-Pop đối với các thần tượng

Hàn Quốc và Âu Mỹ hiện nay cho thấy phần nào khao khát này. Việc tên tuổi của

Sơn Tùng được báo Mỹ nhắc đến được coi là kết quả khởi đầu cho nỗ lực trong việc

đưa âm nhạc Việt Nam ra thế giới của ca sĩ này. Giới trẻ coi đây như là một sự hiện

thực hóa ước mơ và khả năng vươn ra thế giới, hòa nhập vào dòng chảy văn hóa

toàn cầu. Sự kiện này không chỉ được đánh giá cao bởi người hâm mộ của Sơn

Tùng mà còn thu hút sự chú ý của truyền thông và được đánh giá cao từ các nhà

báo, nhà sản xuất âm nhạc trong nước. Điều này cho thấy khao khát toàn cầu là

khao khát chung của thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay. Nó không chỉ phản chiếu những

ám ảnh hậu thuộc địa, ám ảnh về tụt hậu, bị bỏ lại phía sau của người dân ở một

nước từng ít được biết đến trên bản đồ thế giới vốn tồn tại dai dẳng trong tâm thức

các thế hệ người Việt, mà đồng thời còn phản chiếu mong muốn hòa vào dòng

chung của văn hóa nhân loại, thực chất là văn hóa phương Tây, văn hoá Mỹ. Đây

cũng là khát khao đặc trưng của thế hệ trẻ hiện nay - những người được gán cho

trách nhiệm trở thành “công dân toàn cầu”. Nó cũng giống như việc được đi du học,

đạt được thành công hay được công nhận ở nước ngoài chưa từng là một giá trị, một

điều đáng ngưỡng mộ, danh giá trong quan niệm của người Việt 50 năm trước đây.

Các diễn ngôn về phát triển, về hội nhập quốc tế, về khả năng đuổi kịp các

nước phương Tây, về văn minh, hiện đại, phát triển dường như đã được thẩm thấu

dần ở mọi tầng lớp nhân dân nói chung và giới trẻ nói riêng, thậm chí từng được

phát biểu bởi chính những người lãnh đạo cấp cao của đất nước đã khiến cho việc

luôn luôn phải cập nhật, không bị tụt lại phía sau trở thành một đòi hỏi, một “phẩm

chất” đặc trưng cần có của giới trẻ thời hiện đại. Hệ quả của điều này có thể được

nhìn thấy ở tần suất và mức độ tiêu thụ văn hóa đại chúng, đặc biệt văn hóa đại

chúng nước ngoài như đã nói ở những người hâm mộ trẻ Việt Nam hiện nay. Giới

trẻ nước ngoài giải trí như thế nào, có các trào lưu gì mới... ngay lập tức sẽ được

giới trẻ Việt Nam tiếp nhận, chia sẻ, mà theo ngôn ngữ thường ngày của họ là “bắt

trend”. Giới trẻ ngày càng quan tâm nhiều đến các trò chơi trực tuyến, nhạc Pop,

145

truyện ngôn tình, phim Hollywood... Thậm chí, để quảng bá cho thần tượng với bạn

bè thế giới, không ít fan của Sơn Tùng đã kêu gọi nhau tải về và sử dụng các mạng

xã hội được ưa chuộng ở Mỹ như Twitter hay Instagram dù chúng không phổ biến ở

Việt Nam. Nói khác đi, các giá trị được gắn mác toàn cầu dễ dàng được “bán” cho

giới trẻ. Một mặt, nó phản ánh sự đa dạng trong đời sống văn hóa giới trẻ Việt Nam,

mặt khác cho thấy nguy cơ làm xa thêm khoảng cách giữa các thế hệ, đồng thời tạo

ra thách thức đối với văn hóa dân tộc cũng như khả năng cạnh tranh và phát triển

của nền công nghiệp văn hóa trong nước hiện nay.

Có thể nói, việc ưa chuộng những thần tượng âm nhạc, ngôi sao giải trí cũng

như những thực hành hâm mộ thần tượng ở giới trẻ như đã được phân tích phần nào

phản ánh sự thay đổi hệ giá trị ở giới trẻ. Nếu như đầu những năm 1990, thần tượng

chỉ đơn thuần là giải trí, là sự ngưỡng vọng đối với những người có ngoại hình đẹp,

có phẩm chất hoặc tài năng, thì giờ đây, thần tượng còn là nhiều thứ khác: là điểm

tựa tinh thần, là hàng hoá, là khát khao vật chất, là quyền lực, là đẳng cấp, là tính

hiện đại, là vươn ra thế giới... Tất cả những mong muốn đương thời và những dấu

vết của thời đại đã được gói ghém trong hình ảnh của các thần tượng. Những thay

đổi về hệ giá trị này cũng là một trong những nguyên nhân tạo ra khoảng cách giữa

các thế hệ người Việt hiện nay.

Tiểu kết chương 5

Trong bối cảnh nền công nghiệp giải trí, truyền thông và văn hóa tiêu dùng phát

triển, đời sống giới trẻ nói riêng và đời sống xã hội Việt Nam trong 30 năm trở lại đây

đã có những biến đổi sâu sắc. Việc giới trẻ lựa chọn hâm mộ ai và cách thức mà họ thể

hiện sự hâm mộ là kết quả của quá trình tương tác giữa giới trẻ với những yếu tố thuộc

bối cảnh xã hội này. Sự phát triển của kinh tế thị trường đã kéo theo sự gia tăng của

hàng hóa, hình thành thói quen tiêu thụ trong các tầng lớp nhân dân, mở đường cho các

dòng chảy văn hóa cũng như hàng hóa du nhập vào Việt Nam. Cùng với đó, sự phát

triển đa dạng của các phương tiện truyền thông đại chúng đã góp phần không nhỏ vào

việc khiến văn hóa đại chúng, công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí ăn sâu vào đời

sống xã hội, đặc biệt những người trẻ tuổi, hình thành nên thói quen tiêu thụ thông tin

và các nội dung truyền thông, trong đó có những thông tin và nội dung về những ngôi

sao giải trí nổi tiếng ở nhóm công chúng này. Những yếu tố này đã từng bước hình

thành nên bức tranh đời sống đương đại của xã hội Việt Nam nói chung và giới trẻ nói

146

riêng thông qua việc chia sẻ những cảm nghiệm, ý nghĩa, quan niệm và thói quen

chung, mặt khác cũng dẫn đến những thay đổi mang tính nền tảng về hệ giá trị, hệ tư

tưởng của con người sống trong bối cảnh hiện nay.

Giới trẻ Việt Nam được tiếp cận với khối lượng thông tin đồ sộ, đa chiều, đa

hướng; cách suy nghĩ, giao tiếp, nói năng, cách thực hành văn hóa của họ cũng khác

với thế hệ cha mẹ họ. Trong quá trình kiến tạo “bộ nhận diện” của riêng mình, giới

trẻ Việt Nam cũng đã dần xác lập một hệ thống giá trị, quan niệm mới, biểu lộ sự

khác biệt trong cách họ nhìn nhận về cuộc sống, về thế giới so với các thế hệ trước.

Họ dễ dàng thể hiện quan điểm, cá tính, bản sắc của mình, ngày càng năng động

hơn trong cuộc sống và chủ động hơn trong các mối quan hệ xã hội. Họ lựa chọn

tôn vinh những giá trị mà họ cho là cần thiết trong bối cảnh họ đang sống, gắn với

nhu cầu thực tế của họ. Cách giới trẻ Việt Nam thể hiện sự hâm mộ và ảnh hưởng từ

thần tượng của họ ngày càng cho thấy sự chú ý của họ vào việc khám phá và định vị

bản thân, nuôi dưỡng giấc mơ khởi nghiệp, ưa thử sức và trải nghiệm thay vì xu

hướng tìm kiếm sự ổn định của thế hệ cha mẹ họ. Các giá trị mà họ ưu tiên lựa chọn

là những giá trị mang tính cá nhân chứ không bắt buộc phải là những giá trị mang

tính tập thể như các thế hệ trước đây từng lựa chọn. Theo dòng chảy của toàn cầu

hoá, cùng với các diễn ngôn về văn minh và hiện đại hoá, mà trên thực tế là

“phương Tây hoá” và “tư bản hoá”, lối sống phương Tây đã có điều kiện len lỏi

trong các xã hội phi phương Tây, đặc biệt ở những người trẻ - những người có điều

kiện tiếp nhận các giá trị mới mẻ, lạ lẫm, bóng bẩy và giàu sức hút. Sự khác biệt

này nói lên nhiều điều về thời đại mà họ sinh ra, lớn lên và sống trong đó. Với

những ý nghĩa này, hâm mộ thần tượng không chỉ là một hiện tượng nổi bật trong

văn hóa thường ngày của giới trẻ mà còn là một lát cắt giúp chúng ta khám phá

những chiều kích, những sự vận động không ngừng của xã hội Việt Nam đương đại.

Chúng tôi nhận thấy rằng những người hâm mộ thần tượng (đặc biệt nhóm

người hâm mộ được nghiên cứu trong trường hợp của luận án này) chỉ là một nhóm

đặc thù trong rất nhiều nhóm giới trẻ hiện nay và do vậy, nó chỉ giúp nhận diện một

số khía cạnh quan trọng trong đời sống giới trẻ. Trên thực tế, giới trẻ Việt Nam

chưa khi nào đa dạng như hiện nay, các vấn đề của đời sống giới trẻ cũng sẽ rộng

lớn hơn nhiều so với những gì mà hâm mộ thần tượng có thể soi chiếu. Tuy nhiên,

hâm mộ thần tượng như đã phân tích có thể nói đã phản chiếu được các chiều kích

và những động năng cơ bản của bối cảnh xã hội Việt Nam đương đại.

147

KẾT LUẬN

Hâm mộ thần tượng là một trong số những thực hành văn hóa nổi bật của

giới trẻ Việt Nam hiện nay khi những làn sóng văn hóa nước ngoài được du nhập và

có tác động mạnh mẽ. Từ thói quen hiếm khi bộc lộ cảm xúc cá nhân, giới trẻ Việt

Nam đến nay đã không ngại ngần bày tỏ tình yêu, sự say mê với những người nổi

tiếng mà họ yêu thích, ngưỡng mộ. Những hoạt động hâm mộ thần tượng trở nên

rầm rộ và phổ biến trong những năm gần đây cho thấy sự tự do, dân chủ, cởi mở

trong việc tiếp cận, sáng tạo và hưởng thụ các sản phẩm văn hoá giải trí, trong các

biểu đạt văn hoá của giới trẻ nói riêng và xã hội Việt Nam nói chung sau Đổi mới.

Hâm mộ một ai đó và ảnh hưởng từ họ là một mắt xích quan trọng trong quá

trình chuyển tiếp của giới trẻ. Những ngôi sao giải trí, những thần tượng âm nhạc

không chỉ góp phần làm đời sống tinh thần của giới trẻ phong phú, mới mẻ hơn mà còn

có vai trò như một hình mẫu, một điểm tựa tinh thần của giới trẻ trước những loay hoay

tìm kiếm và ướm thử những căn tính phù hợp. Sự thay đổi hình mẫu thần tượng từ các

anh hùng, các nhà khoa học, lãnh tụ… sang các ngôi sao giải trí và những thực hành

hâm mộ thần tượng cụ thể của giới trẻ Việt Nam hiện nay không chỉ phản ánh những

biến đổi và đặc trưng của tiểu văn hóa này, không chỉ là một phương thức giúp giới trẻ

nhận diện được “họ là ai” mà đồng thời còn có thể cho thấy những thay đổi của bối

cảnh đặc thù của xã hội Việt Nam từ sau Đổi mới. Người trẻ ngày càng có điều kiện và

cơ hội để dành nhiều sự quan tâm hơn đối với các loại hình giải trí, văn hóa văn nghệ,

thể thao, sự đổi mới của công nghệ và xu hướng giao lưu với thế giới. Tuy không phải

là một hiện tượng văn hóa mới mẻ, nhưng trong bối cảnh đương đại khi mà truyền

thông đại chúng và công nghệ thông tin phát triển rộng rãi, hâm mộ thần tượng nổi lên

như một hiện tượng đặc thù của văn hóa giới trẻ.

Hâm mộ thần tượng còn là một hiện tượng giúp nhận biết những thay đổi căn

bản trong đời sống giới trẻ nói riêng và bức tranh xã hội Việt Nam đương đại nói

chung. Những thực hành hâm mộ như đã được mô tả và phân tích trong luận án đã

phần nào phản ánh sự chuyển dịch về thị hiếu, thẩm mĩ, thói quen, quan niệm và lối

sống của một bộ phận không nhỏ giới trẻ Việt Nam hiện nay. Trước những vận

động không ngừng của các nhân tố thuộc bối cảnh trong và ngoài nước như toàn

cầu hóa với sự du nhập của các dòng chảy văn hóa nước ngoài, sự phát triển như vũ

bão của truyền thông đại chúng đặc biệt là internet, quá trình đô thị hóa và sự đứt

gãy giao tiếp liên cá nhân, giới trẻ đã tìm đến và tham gia vào những hình thức giao

148

tiếp khác để thỏa mãn nhu cầu giao lưu và xã hội hóa của lứa tuổi: các cộng đồng

người hâm mộ online và offline. Đặc biệt, hiện tượng hâm mộ thần tượng còn cho

thấy giới trẻ Việt Nam hiện nay cũng là những công chúng truyền thông tích cực và

những người tiêu dùng đầy tiềm năng. Một mặt, những người hâm mộ trẻ chịu

những ảnh hưởng sâu sắc bởi truyền thông từ thị hiếu, thói quen, giải trí, tiêu dùng

đến lối sống, phong cách... Mặt khác, họ cũng có một vai trò quyết định trong việc

tuyên truyền các sản phẩm văn hóa thông qua tiêu dùng của họ, là những nhân tố

thúc đẩy không ngừng các khả năng sáng tạo, đặc biệt là sáng tạo văn hóa. Các cộng

đồng người hâm mộ có mặt trong hầu khắp các lĩnh vực của văn hóa đại chúng, văn

hóa tiêu dùng với những thực hành hâm mộ thần tượng đa dạng, ngày càng tham gia

tích cực vào dòng chảy chung của đời sống xã hội (tiêu biểu nhất là các hoạt động

từ thiện, các trào lưu mới về giải trí và tiêu dùng trên mạng xã hội) đã tạo ra sự tác

động trở lại đối với văn hóa dòng chính (mainstream) và dần trở nên được chấp

nhận, chiếm được cảm tình của những thế hệ lớn hơn.

Những thực hành giải trí và tiêu dùng liên quan đến hâm mộ thần tượng của

các cá nhân và hội nhóm người hâm mộ hiện nay cũng cho thấy những khả năng và

nỗ lực của giới trẻ trong việc thích ứng với những thay đổi liên tục của bối cảnh

trong nước và thế giới. Họ cập nhật và hội nhập rất nhanh trước những trào lưu, xu

hướng, lối sống mang tính hiện đại, toàn cầu nhưng cũng loay hoay, đầy ám ảnh và

trăn trở với tâm thức của một người dân ở một đất nước nhỏ bé đang vươn ra ngoài

với mong muốn khẳng định mình rõ nét và mạnh mẽ. Sự va đập giữa cái cũ và cái

mới, giữa các “bể nghĩa” ngược chiều đan xen nhau mà giới trẻ đang chia sẻ, kiến

tạo đồng thời còn phản ánh quá trình vận động và dịch chuyển không ngừng của xã

hội Việt Nam đương đại trong đó nổi bật là xu hướng cởi mở, dân chủ, tự do, hoà

nhập nhanh vào tiến trình toàn cầu hoá, sự gia tăng của hàng hoá và thói quen tiêu

dùng ở các tầng lớp xã hội, sự can thiệp của truyền thông vào mọi lĩnh vực của đời

sống... Do vậy, việc nghiên cứu về hâm mộ thần tượng không chỉ có ý nghĩa trong

việc nhìn nhận những hiện tượng, thực hành văn hóa ở giới trẻ Việt Nam mà còn có

ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá những ảnh hưởng, tác động của toàn cầu

hoá, của văn hoá đại chúng và truyền thông tới việc kiến tạo, chi phối hệ tư tưởng,

hệ giá trị của giới trẻ Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Với những ý nghĩa này,

hâm mộ thần tượng tuy không phải là một hiện tượng bao trùm mọi khía cạnh về

văn hóa giới trẻ Việt Nam, nhưng là một trường hợp đủ thú vị, có giá trị như một

149

“lát cắt”, một chiều kích giúp chúng ta có thể hiểu về những động năng của đời sống

giới trẻ và rộng hơn là những động năng của đời sống xã hội Việt Nam đương đại.

Mặc dù các cá nhân những người trẻ tuổi có thể được xem là đã và đang

“kiến tạo ra” các hệ thống ý nghĩa của họ và của thế giới họ sống, tuy nhiên điều

này không có nghĩa là giới trẻ hiện nay hoàn toàn có khả năng định nghĩa hoặc xây

dựng bản thân giống như cách mà họ muốn. Toàn cầu hóa vừa là cơ hội đối với giới

trẻ trong việc có thể phát triển đa dạng bản sắc, lại vừa là thách thức đối với họ bởi

sự can thiệp ngày càng sâu của chủ nghĩa tiêu dùng và truyền thông khiến quá trình

chuyển đổi thành người trưởng thành ngày càng khó khăn hơn. Tuy vậy, với đặc

tính nổi bật là “tính trẻ” và nhu cầu vô tận về những ý nghĩa mới mẻ, giới trẻ sẽ liên

tục tạo ra các nghĩa mới, kiến tạo những căn tính mới với tinh thần phản kháng và

sáng tạo không ngừng.

Với hệ thống ý nghĩa biểu trưng riêng, những thực hành văn hoá khác biệt,

văn hóa giới trẻ cần phải được nhìn nhận như là một tiểu văn hóa riêng biệt, chứ

không phải chỉ là một nhóm dân số “chưa trưởng thành” và “chỉ đang tập làm người

lớn”. Hâm mộ thần tượng tuy chỉ là một hiện tượng, một lát cắt không mang tính

bao quát cho toàn bộ văn hoá giới trẻ nhưng đã cho thấy những mong muốn, giá trị,

ý nghĩa đặc thù - những chất liệu hình thành nên căn tính của một bộ phận thuộc

tiểu văn hóa này. Sự thay đổi ý thức hệ cho thấy khó có thể đòi hỏi những người trẻ

sống trong bối cảnh xã hội này phải theo đuổi những tượng đài cũ, những hình mẫu

cũ cũng như duy trì và tuân phục theo những hệ giá trị cũ. Những định kiến cho

rằng giới trẻ hiện nay cuồng thần tượng, a dua, đua đòi, chạy theo những thứ vô bổ

một cách mù quáng mà không quan tâm đến hệ giá trị mà lứa tuổi này theo đuổi sẽ

chỉ làm gia tăng những mâu thuẫn và giãn ra xa thêm “khoảng cách thế hệ”.

Những người hâm mộ trẻ được đề cập đến trong luận án này chỉ là một nhóm

giới trẻ, cụ thể là nhóm người hâm mộ các thần tượng giải trí (chủ yếu là học sinh,

sinh viên, những bạn trẻ mới ra trường). Các bàn luận và kết luận được chỉ ra trong

luận án dựa trên những phân tích từ nghiên cứu trường hợp này có thể không đúng

hết và bao quát hết mọi đối tượng giới trẻ Việt Nam hiện nay. Nghiên cứu về hiện

tượng hâm mộ thần tượng trong đời sống giới trẻ, do vậy, cũng chỉ là một nỗ lực

góp phần làm rõ thêm sự đa dạng và không đồng nhất này của giới trẻ Việt Nam,

đặc biệt trong bối cảnh không ngừng biến động như hiện nay.

150

DANH MỤC CÁC BÀI ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Đinh Việt Hà (2017), “Văn hóa giải trí của giới trẻ Việt Nam trong bối cảnh toàn

cầu hóa”, Tạp chí Văn hóa dân gian, Hà Nội, số 5, tr. 20-27.

2. Đinh Việt Hà (2018), “Một số nội dung nghiên cứu về văn hóa giới trẻ”, Tạp chí

Văn hóa dân gian, Hà Nội, số 5, tr. 67-74.

3. Đinh Việt Hà (2019), “Hiện tượng hâm mộ thần tượng ở giới trẻ Việt Nam hiện

nay”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, số tháng 2, tr. 54-57.

4. Đinh Việt Hà (2020), “Ảnh hưởng của truyền thông đại chúng tới hâm mộ thần

tượng ở giới trẻ Việt Nam”, in trong sách Văn hoá Việt Nam đương đại đa dạng

biểu đạt và tương tác, Viện Nghiên cứu Văn hoá, Nguyễn Thị Phương Châm –

Hoàng Cầm đồng chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 71-91.

5. Đinh Việt Hà (2020), “Hâm mộ thần tượng: một thực hành tiêu dùng ở giới trẻ

Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Văn hoá Việt Nam, Hà Nội, số 5, tr. 46-56.

151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Barker, Chris. 2011. Nghiên cứu văn hóa lí thuyết và thực hành, Đặng Tuyết

Anh dịch, Nguyễn Thị Hiền và Đoàn Thị Tuyến hiệu đính, Nxb Văn hóa -

Thông tin.

2. Nguyễn Duy Bắc. 2004. “Thông tin đại chúng với việc đáp ứng nhu cầu giải

trí”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 4, tr. 34-39, 46.

3. Phillip Cam. 2006. “Toàn cầu hóa và dân chủ”, Tạp chí Triết học, số 2 (177),

tr. 39 - 45.

4. Nguyễn Thị Phương Châm, Trương Thị Minh Hằng đồng chủ nhiệm. 2010.

Những xu hướng biến đổi văn hóa ở nông thôn và đô thị Việt Nam thập niên

đầu thế kỉ XXI, Đề tài khoa học cấp bộ, lưu tại Viện Nghiên cứu văn hóa.

5. Nguyễn Thị Phương Châm. 2013. Internet: mạng lưới xã hội và sự thể hiện

bản sắc, Nxb Khoa học xã hội.

6. Đinh Thị Vân Chi. 2003. Nhu cầu giải trí của thanh niên, Nxb Chính trị quốc gia.

7. Nguyễn Đức Chiện. 2011. Sống chung trước hôn nhân của nam, nữ sinh viên

hiện nay (nghiên cứu trường hợp Đại học Nông nghiệp Hà Nội)”, Luận án

tiến sĩ Xã hội học, Học viện Khoa học xã hội.

8. Đoàn Văn Chúc. 1997. Xã hội học văn hóa, Nxb Văn hóa - Thông tin.

9. Phạm Văn Chúc. 2006. “Toàn cầu hóa cho mọi người: Điều tốt đẹp chưa có

trong hiện thực, Tạp chí Triết học, số 2 (177), tr. 33 - 38.

10. Trần Đức Cường. 2006. “Toàn cầu hóa một số vấn đề triết học đặt ra ở châu Á

- Thái Bình Dương hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 1, tr. 19-21.

11. Nguyễn Văn Dân. 2008. “Đời sống văn hóa của người Việt Nam sau hai mươi

năm đổi mới”, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 9 (309), tr. 13-22.

12. Phạm Duy Đức chủ biên. 2004. Hoạt động giải trí ở đô thị Việt Nam hiên nay:

Những vấn đề lý luận thực tiễn, Nxb Văn hóa - Thông tin.

13. Phạm Văn Đức. 2006. “Toàn cầu hóa và sự tác động của nó đối với Việt Nam

hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 3 (178), tr. 22 - 31.

14. Trần Thị Minh Đức. 2007. “Phân tích từ góc nhìn của Tâm lý học: Vì sao giới

trẻ thích game online?”, Tạp chí Tâm lý học, số 10, tr. 12-18.

152

15. Friedman, Thomas. 2006. Thế giới phẳng, Nguyễn Quang A và cộng sự dịch

và hiệu đính, Nxb Trẻ, Tp. HCM.

16. Nguyễn Thu Giang. 2011. “Hiện tượng người nổi tiếng và chức năng xã hội

của nó”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 27, tr.

151-162.

17. Nguyễn Thu Giang. 2015. “Truyền hình bình dân ở Việt Nam: Giữa dân chủ

hóa và thị trường hóa”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và

Nhân văn, tập 31, số 3, tr. 1-14.

18. Hoàng Thị Thu Hà. 2016. “Bước đầu nhận diện nhóm người hâm mộ”, trong:

25 năm nghiên cứu và đào tạo báo chí truyền thông 1990 - 2015, Nxb Đại học

quốc gia Hà Nội, tr. 252 - 264.

19. Tô Thúy Hạnh. 2013. “Nhịp sống của thanh niên hiện nay”, Tạp chí Tâm lí

học, số 5, tr. 74-83.

20. Tô Thúy Hạnh. 2014. “Thực trạng nhu cầu giải trí của thanh niên dân tộc thiểu

số vùng Tây Nam Bộ”, Tạp chí Tâm lí học, số 5, tr. 80-90.

21. Lư Tư Hạo. 2019. Dám mơ lớn, đừng hoài phí tuổi trẻ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

22. Nguyễn Trung Hiếu. 2018. “Hacker sự diễn giải căn tính trong trò chơi ngôn

ngữ hậu hiện đại”, trong sách: Nguyễn Đức Lộc chủ biên. Đời sống xã hội

Việt Nam đương đại, (Tập 3) Người trẻ trong xã hội hiện đại, Nxb Văn hoá

văn nghệ, Tp. HCM, tr. 107-171.

23. Vũ Hoàng Hiếu. 2019. Người đồng tính trong xã hội Việt Nam đương đại: Từ

ẩn ức đến tự sự, Luận án tiến sĩ Văn hoá học, Học viện Khoa học xã hội.

24. Lương Thị Minh Hoa. 2015. Hiện tượng Fashionista ở giới trẻ Thành phố Hồ

Chí Minh hiện nay, Luận văn thạc sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học xã hội.

25. Lê Như Hoa. 1998. Văn hóa tiêu dùng, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

26. Nguyễn Thị Phương Hoa. 2014. “Bàn về đạo đức, lối sống của thanh niên trí

thức nước ta hiện nay”, Tạp chí Tâm lí học, số 4, tr. 50-63.

27. Nguyễn Ánh Hồng. 2002. Phân tích về mặt tâm lí học lối sống của sinh viên

Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ tâm lí học,

Tài liệu lưu tại Thư viện quốc gia.

28. Nguyễn Văn Huyên. 2003. “Lối sống người Việt Nam trước tác động của toàn

cầu hóa hiện nay”, Tạp chí Triết học, số tháng 12, tr. 29-34.

153

29. Lê Hương. 2000. “Một số nét tâm lí đặc trưng của lứa tuổi thanh niên”, Tạp

chí Tâm lí học, số 2, tr. 5-9.

30. Lê Thị Thanh Hương. 2014. “Một số nhân tố khách quan tác động đến thực

trạng thái độ chính trị và trách nhiệm xã hội của thanh niên trong giai đoạn

hiện nay”, Tạp chí Tâm lí học, số 3, tr. 1-14.

31. Đặng Thị Thu Hương chủ biên. 2016. Văn hoá truyền thông đại chúng ở Việt

Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và toàn cầu hoá, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

32. Lê Thu Hường, Lê Duy Thể. 2013. “Một số vấn đề về văn hóa của giới trẻ”, in

trong: Những vấn đề Khoa học xã hội & nhân văn - Chuyên đề Văn hoá học,

Nxb Đại học Quốc gia.

33. Nguyễn Mai Kiên. 2012. Văn hóa Hip Hop trong giới trẻ ở Hà Nội, luận văn

thạc sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học xã hội.

34. Nguyễn Mai Kiên. 2016. “Sự phát triển của B-Boying ở Hà Nội”, Tạp chí Văn

hóa dân gian, số 3, tr. 54 - 59.

35. Đặng Cảnh Khanh. 2006. Xã hội học thanh niên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Đỗ Nam Liên chủ biên. 2005. Văn hoá nghe nhìn và giới trẻ, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

37. Từ Thị Loan. 2004. “Mấy vấn đề về tiểu văn hóa thanh niên”, Tạp chí Xã hội

học, số 3, tr. 87 - 92.

38. Nguyễn Đức Lộc chủ biên. 2018. Đời sống xã hội Việt Nam đương đại (tập 3).

Người trẻ trong xã hội hiện đại, Nxb Văn hóa văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.

39. Mattelart, Armand & Mattelart, Michèle. 2017. Lịch sử các lý thuyết truyền

thông, Hồ Thị Hòa dịch, Trần Hữu Quang hiệu đính, Nxb Tri thức.

40. Đỗ Hạnh Nga. 2015. “Ảnh hưởng của thần tượng đến học sinh trung học cơ sở

tại Thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Tâm lý học, số 1 (190), tr. 45-56.

41. Đặng Thiếu Ngân. 2017. Hiện tượng Hallyu ở Việt Nam hay sự ảnh hưởng

của phim Hàn Quốc tới văn hóa Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Văn hóa

học, Học viện Khoa học xã hội.

42. Trần Đức Ngôn. 2017. “Khái niệm và cấu trúc đời sống văn hoá”, Tạp chí

Nghiên cứu văn hoá, số 21 (tháng 9), tr. 5 - 12.

43. Nhiều tác giả. 2014. Toàn cầu hóa, văn hóa địa phương và phát triển: cách

tiếp cận nhân học, Nxb Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh.

154

44. Phan Thị Oanh. 2013. Ảnh hưởng của làn sóng văn hóa Hàn Quốc tới văn hóa

tiêu dùng của giới trẻ Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trung tâm Nghiên cứu Hàn

Quốc - Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á.

45. Phạm Quỳnh Phương. 2013a. “Ngành Nghiên cứu văn hóa (Cultural Studies)

Lược sử hình thành và cách tiếp cận”, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa, số 6

(tháng 12), tr. 85-91.

46. Phạm Quỳnh Phương. 2013b. Văn hóa thường ngày từ góc độ lí thuyết, Đề tài

cấp cơ sở, Viện Nghiên cứu văn hóa.

47. Phạm Quỳnh Phương. 2018. “Các hướng tiếp cận lí thuyết về tiêu dùng và văn

hóa tiêu dùng”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4, tr. 3-13.

48. Phạm Quỳnh Phương. 2019. “Từ khám phá quy luật đến kiếm tìm nghĩa: Một

hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu văn hoá Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu

Văn hóa Việt Nam, số 4, tr. 92-104.

49. Lê Minh Quý. 2008. “Phát triển dịch vụ vui chơi giải trí tại Hà Nội”, Tạp chí

Du lịch Việt Nam, số 3, tr. 26-27, 29; số 4, tr. 39-41.

50. Siebert, Fred S. - Theodore, Peterson - Schramm, Wilbur. 2013. Bốn học

thuyết truyền thông, Lê Ngọc Sơn dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội.

51. Bùi Hoài Sơn. 2006. Ảnh hưởng của Internet đối với thanh niên Hà Nội, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

52. Bùi Hoài Sơn. 2008. Phương tiện truyền thông và những thay đổi văn hoá - xã

hội ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

53. Nguyễn Quý Thanh. 2011. Internet - Sinh viên - Lối sống một nghiên cứu xã

hội học về phương tiện truyền thông kiểu mới, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội.

54. Lê Thị Phước Thảo. 2015. Hình ảnh người nổi tiếng trên báo chí và việc hình

thành hệ giá trị cho giới trẻ Việt Nam, Luận văn Báo chí học, Trường Đại học

KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội.

55. Trần Nho Thìn. 2008. Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

56. Đỗ Lai Thúy. 2005. Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa, Nxb Văn

hóa thông tin và Tạp chí Văn hóa nghệ thuật xb, Hà Nội.

57. Bùi Thị Tỉnh. 2013. “Tìm hiểu thực trạng lối sống thực dụng của sinh viên

Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Giáo dục, số 310 (tháng 5), tr. 20-21, 26.

155

58. Đặng Thị Diệu Trang. 2015. “Ngôn ngữ teen trong giao tiếp của giới trẻ hiện

nay”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số tháng 10 (376), tr. 20-26.

59. Hồng Trân. 2019. Dành cả thanh xuân để chạy theo idol, Nxb Lao động.

60. Phạm Hồng Tung. 2011. Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt Nam

trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật.

61. Sơn Tùng M-TP. 2017. Chạm tới giấc mơ, Nxb Hà Nội.

62. Đoàn Thị Tuyến. 2014. Bản sắc văn hóa - từ góc độ lí thuyết, Đề tài cấp cơ sở,

Viện Nghiên cứu Văn hóa.

63. Vũ Thị Thanh Trà. 2017. Ghi ta trong đời sống giới trẻ Hà Nội, Luận án tiến

sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học xã hội.

64. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia. 1996. Văn hóa trong phát

triển và toàn cầu hóa, Kỷ yếu hội thảo tại Hà Nội, Tokyo và Noongkhai.

65. Quách Thuyên Nhã Uyên. 2018. “Người trẻ khởi nghiệp một phân tích về vấn

đề xây dựng chủ thể tính đương đại nơi người trẻ ở đô thị”, in trong: Nguyễn

Đức Lộc chủ biên. Đời sống xã hội Việt Nam đương đại, (Tập 3) Người trẻ

trong xã hội hiện đại, Nxb Văn hoá văn nghệ, Tp. HCM, tr. 172-222.

66. Viện Ngôn ngữ học. 2003. Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm Từ

điển học xb., Hà Nội - Đà Nẵng, tr. 913.

67. Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Thị Hậu chủ

biên. 2013. Thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Văn

hóa văn nghệ.

68. Trần Ngọc Vương. 1995. Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

69. Adorno, T.W. 1991. “The Culture Industry Reconsidered”, The Culture

Tài liệu tiếng Anh

70. Ahmed, Sara. 2004, “Affective Economies”, Social Text, 79 (Vol 22, Number

Industry, Ed. J. M. Bernstein, London: Routledge, pp. 61 - 106.

2), pp. 117-139.

71. Anderson, Benedict. 1991. Imagined Communities: reflections on the origin

and spread of nationalism, Verso, London.

72. Anderson, Tonya. 2012. “Still kissing their posters goodnight: Female fandom

and the politics of popular music”, Participations Journal of Audience and

Reception Studies, Vol 9(2), pp. 239-264.

156

73. Austin, D. M.; Gagne, Patricia; Orend, Angela (2010), “Commodification and

Popular Imagery of the Biker in American Culture”, The Journal of Popular

Culture, Vol 43(5), pp. 942 - 963.

74. Barker, Chris. 2011. Nghiên cứu văn hóa lí thuyết và thực hành, Đặng Tuyết

Anh dịch, Nguyễn Thị Hiền và Đoàn Thị Tuyến hiệu đính, Nxb Văn hóa -

Thông tin.

75. Bennett, Andy. 2002. “Researching youth culture and popular music: a

methodological critique”, The British journal of sociology, Vol 53(3), pp. 451-

466.

76. Bird, Sara & Alan, Tapp. 2008. “Social Marketing and the Meaning of Cool”,

Social Marketing Quarterly, journals.sagepub.com,

77. Boon, S.D. and Lomore, C.D. 2001. “Admirer-celebrity relationships among

young adults: explaining perceptions of celebrity influence on identity”,

Human Communication Research, Vol. 27 (3), pp. 432 - 465.

78. Bourdieu, Pierre. 1984. “Distinction A Social Critique of the Judgement of

Taste”,

Judgement-of-Taste/Bourdieu/p/book/9780415567886>

79. Brake, Michael. 1985. Comparative The Sociology of Youth Cultures and

Youth Subcultures in America, Britain and Canada, Routledge and Kegan Paul,

London.

80. Bucholtz, Mary. 2002. “Youth and cultural practices”, Annual Review, Vol 31,

pp. 525-552.

81. Buckingham, David. 2008. Youth Identity and Digital media, MIT Press.

82. Busse, Kristina & Hellekson, Karen. 2006. “Work in Progres” Introduction

to Fan Fiction and Fan Communities in the Age of the Internet: New

Essays, edited by Karen Hellekson and Kristina Busse, pp. 5–32. Jefferson,

NC: McFarland.

83. Caldwell, M & Henry, P. 2005. “Celebrity worship, micro-communities and

consumer well-being”, 8th International Conference on Arts and Cultural

Management, Montreal, Canada, 6th July 2005.

84. Caughey, J.L. 1994. “Gina as Steven: The social and cultural demensions of a

media relationship”, Visual Anthroppology Review, Vol 10 (1), pp. 126 - 135.

157

85. Chan, Kara. 2011. “What pre-teen girls learn about gender roles from

celebrities”, Journalism and Mass Communication, Vol 1(2), pp. 79 - 87.

86. Chan, Kara, Yu-leung Ng, Edwin K. Luk. 2013. “Impact of Celebrity

endorsement in advertising on brand image among Chinese adolescents”,

Young Consumers, Vol 14 (2), pp. 167 - 179.

87. Cheung, C. & Yue, X. D. 2003a. Adolescent modeling after luminary and star

idols and development of self-efficacy, International Journal of Adolescence

88. Cheung, C. & Yue, X. D. 2003b. “Identity Achievement and Idol Worship

and Youth, Vol 11(3), pp. 251 - 267.

among Teenagers in Hong Kong”, International Journal of Adolescence and

Youth, Vol 11(1), pp. 1-26.

89. Cheung, Ka Ki. 2002. Idol Consumption and Identity Construction: A Study of

the Young Fans of Popular Singers in Hong Kong, Chinese University of

Hong Kong.

90. Chin, Bertha. 2013. “Towards a theory of transcultural fandom”, Journal of

Audience & Reception Studies, Vol 10(1).

91. Click, Lee & Holladay. 2013. “Making monsters: Lady Gaga, fan

identification, and social media”, Popular Music and Society, Vol 36(3), pp.

360-379.

92. Deen, Catherine. 2015. “Formation, Purpose and Gains: An Exploratory Study

of Hallyu Fanclubs in the Philippines”, Aiks Korean Studies Conference

Proceedings, Vol 1, pp. 25 - 33.

93. D’heer, Evelien, Courtois, Cesdric, Paulussen, Steve. 2012. “Everyday Life in

(front of) the Screen: The Comsumption of Multiple Screen Technologies in

the Living Room”, EuroITV'12 Proceedings of the 10th European Conference

on Interactive TV and Video, Berlin, Germany, pp. 195 - 198.

94. Du Gay, P., Hall, S, Mackay, H, Negus, K. 1997. Doing Cultural Studies: The

Story of the Sony Walkman (Culture, Media & Identities, Vol.1)

(Culture, Media and Identities series), citeulike.org.

95. Duffett, Mark. 2013. Understanding Fandom: An Introduction to the Study of

Media Fan Culture, Bloomsbury Publishing, New York.

96. Dyer, Richard. 1979 [1998]. Stars. Bristish Film Institute, London.

158

97. Dyson, Michael Eric. 2004. “Hip - Hop Culture”, in: Neal, Mc Anthony, That's

the Joint!: The Hip-hop Studies Reader, Routledge, New York, pp. 61-68.

98. Erikson, E. H. 1950. Childhood and society, Norton, New York.

99. Erikson, E. H. 1968. Identity, Youth, and Crisis, Norton, New York.

100. Fine, Lauren. 2014. “More than a feeling: The Transmissions of affect and

group identity”, ,

(15/9/2019).

101. Fiske. 1989. Understanding popular culture, Unwin Hyman, Boston.

102. Fung, A. 2002. “Women’s magazines: Construction of identities and cultural

consumption in Hong Kong”, Consumption, Markets and Culture, Vol 5(4),

103. Fung, A. 2009. “Fandom, youth and consumption in China”, European

pp. 321-336.

Journal of Cultural Studies, Vol 12(3), pp. 285-303.

104. Furlong, Andy & Cartmel, Fred. 2006. Young people and social change new

perspectives, Open University Press, New York.

105. Galuszka, Patryk. 2015. “New Economy of Fandom”, Popular Music and

Society, Vol 38 (1): Fandom, pp. 25-43.

106. Geertz, Clifford. 1973. Interpretion of Cultures, Basic Books.

107. Giddens, Anthony. 1991. Modernity and Self-identity: Self and society in the

late modern age, Stanford University Press, Stanford, California, pp. 1-10.

108. Gidley, Jennifer. 2001. “Globalization and Its Impact on Youth”, Journal of

Futures Studies, Vol 6 (1), pp. 89-106.

109. Goggin, Gerard. 2013. “Youth culture and Mobile”, Mobile Media &

Communication, Vol 1 (1), pp. 83-88.

110. Gray, J., Sandvoss, C. & Lee Harrington, C. 2007. “Why Study Fans?”

Introduction to Fandom: Identities and Communities in a Mediated

World, edited by Jonathan Gray, Cornel Sandvoss, and C. Lee Harrington, pp.

1-16, New York University Press, New York.

111. Green, A.L. & Adam-Price, Carolyn. 1990. “Adolescents’ Secondary

Attachments to Celebrity Figures”, Sex Roles, Vol 23, No 7/8, pp. 335-347.

112. Green, Julian Sefton ed. 1998. Digital Diversions: Youth Culture in the Age of

Multimedia, University College Press, London.

159

113. Ha Hoang. 2019. “K-Pop Male Androgyny, Madiated Intimacy, and

Vietnamese Fandom”, Chapter 12, in: J. V. A. Cabanes, C. S. Uy-Tioco (eds),

Mobile Media and Social Intimacies in Asia, Mobile Communication in Asia:

Local Insights, Global Implications, pp. 187-203.

94-024-1790-6_12>, (15/3/2020).

114. Hall, Stuart & Jefferson, Tony. 1993. Resistance Through Rituals: Youth

Subcultures in Post-war Britain, Routledge, London.

115. Hall, Stuart. 1997. Representation: cultural representations and signifying

practices, Open University, London.

116. Hebdige, Dick. 1979. Subculture: The meaning of style, Menthuen & Co,

London.

117. Henderson, K. A. et al. 2003. A Leisure of One’s Own: A Feminist Perspective

on Women’s Leisure, Venture Publishing, Inc, State College.

118. Hills, Matthew. 2002. Fan Cultures, Routledge, New York.

119. Hodkinson, Paul & Deicke, Wolfgang. 2007. Youth Cultures: Scenes,

120. Horkheimer, M.; Adorno, T.W. (2006), “The culture industry: Enlightenment

Subcultures and Tribes, Routledge Advances in Sociology.

as mass deception”, in: M.G. Durham and D.M. Kellner (ed), Media and

Cultural Studies, Blackwell Publishing, pp. 41-72.

121. Huang, Yu-an & Phau, Ian. 2015. “Idol attachment and Human Brand

Loyalty”, European Journal of Marketing, Vol. 4(7/8), pp. 1234-1255.

122. Huong Nguyen. 2015. “Globalizaton, consumerism, and the ergence of teens

in contemporary vietnam”, Journal Social History, Vol 49(1), pp. 4 - 19.

123. Huq, Rupa. 2006. Beyond Subculture Pop, Youth and Identity in a

Postcolonial World, Routledge, New York.

124. Ito, Mizuko et al. 2009. Living and learning with new media: summary of

Findings from the Digital Youth Project, MIT Press, Cambrige, pp. 1-46.

125. Jenkins, Henry. 1992. Textual Poachers: Television Fans and Participatory

Culture, Routledge, New York.

126. Jenkins, R. 1996. Social Identity, Routledge, London.

127. Jenkins, Henry. 2006. Convergence Culture: Where Old and New Media

Collide, New York University Press, New York, pp. 61-62.

160

128. Jenkins, Henry. 2007. “After word: The Future of fandom”, in: Fandom,

Harrington C., Gray Jonathan, Sandvoss Cornel, New York University Press,

pp. 357 – 364.

129. Jenkins, Henry, Sam Ford, and Joshua Green. 2013. Spreadable Media:

Creating Value and Meaning in a Networked Culture, New York University

Press, New York.

130. Jenson, J. 1992. “Fandom as pathology: The consequences of

characterization”, In: L. Lewis (ed.), The adoring audience: Fan culture and

popular media, Routledge, London.

131. Jia, Xinming; Hung, Kineta; Zhang, Ke. 2018. “Charging fandom in the Digital

Age: The Rise of Social Media” (Chapter 8), in: Exploring the Rise of Fandom

in Contemporary Consumer Culture, Cheung LuWang, IGI Global, USA.

132. Kidd, Warren. 2002. Culture and identity, Palgrave, Basingstoke.

133. Kotarba, Joseph A. 2009. “I’m just as Rock ‘n’ Roll fan” Popular music as a

meaning resource for aging, researchgate.net.

134. Koshar, Rudy (ed.). 2002. Histories of Leisure, Berg Publishers, Oxford.

135. Kozinets, Robert V. 2001. “Utopian Enterprise: Articulating the Meanings

of Star Trek's Culture of Consumption”, Journal of consumer research, Vol.

28(1), pp. 67-88.

136. Leung, L. K. 1999. Study on the influence of media on youth, Commission on

Youth, Hong Kong.

137. Liu, Jacky K. K. 2013. “Idol worship, religiosity, and self-esteem among

university and secondary students in Hong Kong”, Discovery - SS Student E-

journal, Vol 2, pp. 15 - 28.

138. Cheng Lu, Wang. 2018. Exploring the Rise of Fandom in Contemporary

Consumer Culture, University of New Haven, USA.

139. Lynxwiler, J. & Gay, D. 2000. “Moral boundaries and deviant music: Public

attitudes toward heavy metal and rap”, Deviant Behavior, Vol 21(1), pp. 63-85.

140. Maltby, J.; Houran, J.; Lange, R.; Ashe, D. & McCutcheon, L. E. 2002. “Thou

Shalt Worship No Other Gods - Unless They Are Celebrities”, Personality and

Individual Differences, Vol 32, pp. 1157-1172.

161

141. Maltby, J.; & Houran, J.; & McCutcheon, L. E. 2003. “A Clinical

Interpretation of Attitudes and Behaviors Associated with Celebrity Worship”,

The Journal of Nervous and Mental Disease, Vol 191(1), pp. 25 – 29.

142. Maltby, J.; Day, L.; McCutcheon, L. E.; Gillett, R., Houran, J. & Ashe, D.

2004. “Personality and coping: A context for examining celebrity worship and

mental health”, British Journal of Psychology, Vol 95(4), pp. 411-428.

143. Marshall, David P. 2014. Celebrity and Power: Fame in Contemporary

Culture, University of Minnesota Press.

144. McCulloch, Ken & Stewart, Alexis; Lovegreen, Nick. 2006. “‘We just hang

out together’: Youth Cultures and Social Class”, Journal of Youth Studies, Vol

9 (5), pp. 539 - 556.

145. McCutcheon; Lange, Rense & Houran, James. 2002.

“Conceptualization and measurement of celebrity worship”, British Journal of

Psychology, Vol 9(1), pp. 67-87.

146. McQuail, Denis. 2010. McQuail's mass communication theory, Sage

Publications.

147. Miles, Steven. 2000. Youth lifestyle in a Changing world, Open University

Press.

148. Nhat Nguyen Nguyen, Nil Özçaglar-Toulouse, Dannie Kjeldgaard. 2018.

“Toward an understanding of young consumers' daily consumption practices in

post-Doi Moi Vietnam”, Journal of Business Research, Vol 86, pp. 490-500.

149. Nilan, Pam. 1999. “Young People and Globalizing Trends in Vietnam”,

Journal of Youth Studies, Taylor & Francis,

,

(2/10/2019).

150. Nilan, Pam & Feixa, Carles. 2006. Global Youth? Hybric Identities, Plural

Worlds, Routledge, New York.

151. North, A. C., Hargreaves D. J. 2006. “Problem music and Self-harming”,

Suicide and Life-Threating Behavior, Vol 36 (5), pp. 582 – 590.

152. North, A. C., Sheridan, L. Maltby, J. & Gillett, R. 2007. “Attributional style,

self-esteem, and celebrity worship”, Media Psychology, Vol 9(2), pp. 291-308.

153. Nye, Joseph S. 1990. “Soft Power”, Foreign Policy, No. 80, Twentieth

Anniversary (Autumn), pp. 153-171.

162

154. Oh Ingyu, Lee Hyo-Jung. 2013. “Mass Media Technologies and Popular

Music Genres: K-Pop and Youtube”, Korea Journal, Vol 53(4), pp. 34-58.

155. Parker, Elizabeth. 2015. “The rise of the hip hop idol: Authenticity and new

masculinities in Korean popular music”, academia.edu.

156. Pearson, Roberta. 2010. “Fandom in the Digital Era”, The International

Journal of Media and Culture, Vol 8(1): Digitizing Audiovisual Production,

pp. 84-95.

157. Duong Nguyen Hoai Phuong. 2016. “Korean Wave as Cultural Imperialism: A

study of K-pop Reception in Vietnam”, Leiden University MA Thesis Asian

Studies, , (25/3/2019).

158. Purnama, Finsensius Yuli. 2012. “Leisure time, social media, and youth

identity”, International Communication Research Conference, "Youth, Media,

and Social Change"/ London School of Public Relations-Jakarta,

academia.edu.

159. Robert, Ken. 2006. “Youth Transitions and Generations: A Response to Wyn

and Woodman”, Journal of Youth Studies, Vol 10(2), pp. 263-269.

160. Rojek, Chris. 1989. Leisure for Leisure, The Macmillan Press Ltd, London.

161. Rojek, Chris. 2001. Celebrity, Reaktion Books.

162. Rojek, Chris; Shaw, Susan M; Veal A. J. 2006. A Handbook of Leisure

Studies, Palgrave Macmillan Ltd, New York.

164. Scott, Suzanne. 2009. “Repackaging fan culture: The regifting economy of

163. Sandvoss, Cornel. 2005. Fans: The Mirror of Consumption. Malden, Polity, MA.

ancillary content models”, Transfomative works and cultures, Vol 3.

165. Shary, Timothy & Seibel, Alexandra. 2007. Youth Culture in Global Cinema,

University of Texas Press.

166. Shildrick, Tracy & MacDonald, Robert. 2006. “In Defence of Subculture:

Young People, Leisure and Social Division”, Journal of Youth Studies, Vol

9(2), pp. 125 - 140.

167. Slate, Don. 1997. Consumer Culture and Modernity, Published by Polity

Press, United Kingdom, pg. 37.

168. Stebbins, Robert A. 2015. Leisure and The Motive To Volunteer: Theories of

Serious, Casual and Project - Based on Leisure, Palgrave Macmillan.

163

169. Stever, Gayle. 2009. “Fan/Celebrity symbiotic social relationships: A

participant-observer ethnography of fan clubs”, Conference: International

Communications Association: Theme: Keywords in Communication, Chicago,

IL, May 22-26, 2009, , (22/7/2017).

170. Tapscott, Don. 2008. Grown Up Digital: How the Net Generation Is Changing

Your World, McGraw Hill.

171. Phan Thanh Thanh. 2014. “Asianization, Imagination, Fan Culture and

Cultural Capital of Vietnamese Youth: A Case Study of K-pop Cover Dance

Groups in Hanoi Vietnam”,

files/Hallyu%20Proceedings_Draft1b_2014-Sept-25.pdf#page=162>

(23/12/2019).

172. Thomas, M. 2004. “Transitions in taste in Vietnam and the diaspora”, The

Australian journal of anthropology, Wiley Online Library.

173. Thomson, Matthew. 2006. “Human brands: Investigating antecedents to

consumers' strong attachments to celebrities”, Journal of Marketing, Vol 70,

pp. 104-119.

174. Tomlinson, John. 1991. Cultural Imperialism: A Critical Introduction,

Continuum, London.

175. Turner, Graeme. 2010. “Approaching Celebrity”, Celebrity Studies Journal,

Vol 1(1), pp. 11-20.

176. Turner, Graeme. 2013. Understanding Celebrity, SAGE Publications Ltd,

London.

177. Wang, Jing. 2005. “Youth culture, music, and cell phone branding in China”,

178. Warde, Alan. 2014. “After taste: Culture, consumption and theories of

Global Media and Communication, Vol 1(2), pp. 185 - 201.

practice”, Journal of Consumer Culture, Vol 14(3), pp. 279-303.

179. Wyn, Johanna & Woodman, Dan. 2006. “Generation, Youth and Social

Change in Australia”, Journal of Youth Studies, Vol 9(5), pp. 495-514.

180. Wyn, Johanna & Woodman, Dan. 2007. “Researching Youth in a Context of

Social Change: A Reply to Roberts”, Journal of Youth Studies, Vol 10(3), pp.

373-381.

181. Yue, Xiao Dong and Cheung, Chau-kiu. 2000. “Selection of favourite idols

and models among Chinese young people: A comparative study in Hong Kong

164

and Nanjing”, International Journal of Behavioral Development, Vol 24(1),

pp. 91 - 98.

182. Yue, X. D., Cheung, C. & Wrong, D. S. W. 2010. “From glamour-oriented

idolatry to achievement-oriented idolatry: A framing experiment among

adolescents in Hong Kong and Shenzhen”, Asian Journal of Social

Psychology, Vol 13(1), pp. 1-8.

Tài liệu mạng

183. Nguyễn Hoàng Ánh. 2016. “Giải mã Hallyu và chủ nghĩa thần tượng ở Việt

Nam”,

than-tuong-o-viet-nam-300415.html>, (15/5/2017).

184. Hà Hữu Nga. 2017. “Văn hóa tiêu dùng”,

goc-nhin-van-hoa/van-hoa-tieu-dung>, (11/9/2019).

185. Nguyên Trang. 2012. “Bàn về thần tượng và người hâm mộ”,

nguoi-ham-mo.html>, (7/9/2017).

186. Lê Thị Trang. 2017. Văn hóa tiêu dùng - từ góc nhìn lí luận,

dung-mot-goc-nhin-ly-luan.html>, (11/9/2019).

187. “How It All Began- A Cultural Revolution”, nguồn:

, (7/9/2017).

165

PHỤ LỤC

166

MỤC LỤC PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Phiếu hỏi ý kiến 168

Phụ lục 2: Các thực hành hâm mộ thần tượng cụ thể 172

2.1. Like, share các thông tin liên quan đến thần tượng và cộng đồng fan 172 179 2.2. Các hình thức quảng bá cho thần tượng 185 2.3. Các fan sân bay 187 2.4. Hoạt động off fan của các FC 193 2.5. Cổ vũ thần tượng tại các chương trình, show diễn 196 2.6. Các hoạt động từ thiện và các hoạt động cộng đồng 2.7. Các hoạt động tiêu thụ có liên quan đến thần tượng 201

167

I. Phụ lục 1:

PHIẾU HỎI Ý KIẾN Hiện chúng tôi đang thực hiện một nghiên cứu về hâm mộ thần tượng ở giới trẻ hiện nay. Rất mong các bạn cung cấp thông tin bằng cách trả lời các câu hỏi sau đây. Chúng tôi cam kết mọi thông tin sẽ được giữ kín và chỉ phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này. Chân thành cảm ơn!

1. Em vui lòng cho biết tên, tuổi, quê quán, nghề nghiệp hoặc ngành học

2. Em hâm mộ thần tượng giải trí nào?

3. Em hâm mộ thần tượng đó lâu chưa?

4. Em hâm mộ họ vì điều gì?

a. Tài năng b. Tính cách, phẩm chất c. Ngoại hình d. Khác

5. Em biết đến thần tượng qua “kênh” nào?

a. Mạng xã hội b. Ti vi c. Bạn bè d. Báo in e. Báo điện tử

6. Các em dành bao nhiêu thời gian trong một ngày để theo dõi, chia sẻ

những thông tin về thần tượng?

7. Ngoài thần tượng này, em còn thích ai nữa?

8. Em thể hiện sự hâm mộ idol của mình như thế nào trên mạng xã hội?

(có thể chọn nhiều câu trả lời) a. Like, share, comment b. Chỉ nghe/xem chứ không like, share, comment

168

c. Kết nối với những fan khác d. Khác

9. Suy nghĩ và cảm xúc của em thế nào trước những tin đồn hay scandal

về thần tượng? a. Tẩy chay idol vì cảm thấy bị lừa dối b. Rất sốc và buồn bã c. Buồn nhưng vẫn tin idol d. Không quan tâm vì tuyệt đối tin tưởng idol

10. Em có từng tham gia vào các cuộc tranh cãi để bảo vệ thần tượng trên

mạng xã hội hoặc các diễn đàn hay không? Tại sao? a. Có b. Không

11. Cách em thể hiện sự hâm mộ idol của mình ở ngoài đời có giống như

trên mạng xã hội không? (Nếu không, hãy cho biết lí do) a. Có b. Không

12. Sự hâm mộ này của em ảnh hưởng đến những khía cạnh nào trong cuộc

sống của em? a. Việc học b. Quan niệm về nghề nghiệp c. Tính cách d. Các mối quan hệ xã hội e. Thời trang f. Giải trí g. Tiêu dùng hàng hóa

13. Mức độ ảnh hưởng như thế nào?

a. Rất ảnh hưởng b. Ảnh hưởng ít c. Không ảnh hưởng

169

14. Em có tham gia hội nhóm fanclub nào không? Nếu có, thì hoạt động của các fanclub đó như thế nào? Em có thể nói rõ được không? Nếu không thì vì sao? a. Có b. Không

15. Gia đình em đồng tình hay phản đối việc em hâm mộ thần tượng? Tại

sao? a. Có b. Không

16. Em có biết những thương hiệu mà idol của em làm đại diện? (Nếu biết,

trả lời tiếp câu 17 và 19, nếu không, chuyển sang câu 19) a. Biết tất cả b. Biết một số c. Không rõ

17. Em hãy kể tên các sản phẩm mà idol là đại diện quảng cáo?

18. Em có sở hữu sản phẩm nào trong số những thương hiệu đó không?

(nếu có, trả lời tiếp câu 19; nếu không, chuyển sang câu 20) a. Có b. Không

19. Em có hài lòng với sản phẩm ấy không?

a. Có b. Không

20. Tại sao em mua (hoặc không mua) những sản phẩm đó?

a. Vì thích hình dáng, mẫu mã b. Vì chất lượng tốt c. Vì idol làm đại diện quảng cáo d. Vì bạn bè đều mua e. Khác

170

21. Các idol thường được xây dựng rất hoàn mĩ qua truyền thông, em có

nghĩ rằng đó là tính cách và phẩm chất thật sự của họ? a. Có b. Không

22. Trong thành công của một idol, em nghĩ yếu tố nào là quan trọng nhất

(mức độ từ lớn đến nhỏ)? a. Truyền thông b. Tài năng c. Ngoại hình d. Tính cách e. Khác

171

II. Phụ lục 2: Các thực hành hâm mộ thần tượng cụ thể

1. Like, share các thông tin liên quan đến thần tượng và cộng đồng fan

Ảnh 1:

172

Ảnh 2:

Ảnh 3:

173

Ảnh 4:

Ảnh 1, 2, 3, 4: Các bức ảnh kèm các dòng chữ, con số “khoe” thành tích mà cộng đồng fan giành được cho thần tượng: cày view, lọt top trending Việt Nam và thế giới nhân dịp phát hành MV Hãy trao cho anh 7/2019 (Nguồn: kenh14.vn), MV Skyler 1/2021 (Nguồn: MTP Stories)

174

Ảnh 5:

175

Ảnh 6:

Ảnh 5, 6: Fan “bóc giá” quần áo, trang sức, đồ dùng của thần tượng

(Nguồn: Sky Confession)

176

Ảnh 7: Chia sẻ về thành tích của idol (Nguồn: ME meme)

177

Ảnh 8: Chia sẻ cảm giác tự hào, quyền lực của cộng đồng fan Sơn Tùng

(Nguồn: M-TP stories)

178

2. Các hình thức quảng bá, lăng xê cho thần tượng

- Thuê phát hình ảnh thần tượng trên các màn hình lớn

Ảnh 1: Chiến dịch quảng bá nhân dịp sinh nhật diễn viên Hàn Quốc Lee Min Ho (Nguồn: FC cung cấp)

179

Ảnh 2: Fan chúc mừng sinh nhật Jung Kook (nhóm BTS - Hàn Quốc) trên màn hình của tòa nhà TNR 54 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội ngày 1/9/2019 (Nguồn: https://www.yan.vn/army-viet-choi-lon-mung-sinh-nhat-jungkook-voi-man-hinh- led-khung-209765.html)

180

Ảnh 3: Các chiến dịch quảng cáo nhân kỉ niệm sinh nhật của Jungkook và RM (nhóm BTS) do fan BTS ở Việt Nam quyên góp thực hiện. (Nguồn ảnh: yan.vn)

181

Ảnh 4: Sky thuê Roadshow để thu hút sự chú ý của cộng đồng 1 ngày trước khi MV Hãy trao cho anh của Sơn Tùng phát hành (1/7/2019). Nguồn: https://bestie.vn/2019/07/ro-ri-hinh-anh-fandom-son-tung-chieu- qua-de-keu-goi-ung-ho-than-tuong

182

- Hưởng ứng các cuộc thi, chương trình do các nhãn hàng phát động

CUỘC THI ẢNH "CHÚNG TA CỦA HIỆN TẠI" CÙNG VINFAST

CHỤP ẢNH CHẤT NGAY - RINH QUÀ LIỀN TAY Thể lệ cuộc thi chi tiết tại đây: https://id.vin/cDR Chỉ với 03 bước đơn giản sau:

- Bước 1: Đến check-in cùng 1 trong 2 chiếc xe Ludo Mint To Be và Impes Milky Sky tại Showroom VinFast trên toàn quốc. - Bước 2: Nộp ảnh dự thi trước 23h59’ ngày 27/12/2020 qua: https://id.vin/csD - Bước 3: Kêu gọi bạn bè tương tác với ảnh dự thi của bạn bằng cách like, share, comment. Cổng bình chọn sẽ đóng vào 23h59’ ngày 30/12/2020. Đặc biệt hơn, VinFast có rất nhiều quà tặng giá trị đang chờ bạn: GIẢI CÁ NHÂN:

- 01 Giải Nhất: 01 xe máy điện Impes Milky Sky trị giá 14,900,000 VNĐ. - 01 Giải Nhì: 01 xe máy điện Ludo Mint To Be trị giá 12,900,000 VNĐ. GIẢI NHÓM:

3 group cộng đồng/ fanpage có số bài dự thi nhiều nhất sẽ nhận được tài trợ từ BTC với giá trị cụ thể như sau: - 01 Giải Nhất: 15,000,000 VNĐ - 01 Giải Nhì: 10,000,000 VNĐ - 01 Giải Ba: 5,000,000 VNĐ ------------------- Hotline: 1900 23 23 89

Bài đăng của admin 1 FC nhằm quảng bá, ủng hộ cho sản phẩm mà Sơn Tùng hợp tác với Vinfast

183

- Vote cho thần tượng tại các chiến dịch, chương trình và bảng xếp

hạng

PROJECT COMEBACK No.1

VOTE GIÀNH BẢNG QUẢNG CÁO TẠI NHẬT BẢN CHO SƠN TÙNG M-

TP Theo dự kiến, 01/05/2021 Tùng sẽ ra Album CHÚNG TA. Để chào đón Album lần này của Tùng, Group SKY M-TP tổ chức hoạt động vote cho Tùng trên ứng dụng Idolpick để giành bảng quảng cáo. Người có lượt vote nhiều nhất sẽ được trình chiếu đoạn video quảng cáo trên màn hình LED siêu lớn tại Tokyo, Osaka - Nhật Bản

Thời gian bình chọn: 02/04/2021 đến 18/04/2021 Video sẽ được trình chiếu Led: 30/4/2021 đến 06/05/2021 (Có thể thay đổi theo lịch trình địa phương) HƯỚNG DẪN VOTE :

1. Mở ứng dụng và đi đến tab cuối cùng và chọn ngôn ngữ / bản dịch 2. Đăng nhập / Đăng ký (sử dụng Twitter, Naver, Kakaotalk,Facebook) 3. Nhập nick name ( mọi người NHỚ ấn vào nút màu hồng chỗ nhập nick name để kiểm tra xem nick name đã có ai dùng hay chưa) và thần tượng yêu thích đặt "Son Tung M-TP” 4. Chọn tab 4 có hình “Sạc Pin” để điểm danh và nhận 5 pick vote (5 phiếu miễn phí hàng ngày) 5. Đi đến tab thứ 3 hình "Trái Tim" hoặc tìm banner chương trình vote "The Best Pop Star In Asia" để vote cái nút để vote. Như vậy bạn hoàn thành việc 6. Tìm tới "Son Tung M-TP" Nhấp bỏ phiếu bầu chọn bầu chọn 1 PICK đã hoàn tất! Bạn nhớ ấn 5 lần để bầu hết 5 pick có mỗi ngày. 7. Bạn có thể mua sao để vote.

Lưu ý: Mỗi 1 thiết bị chỉ được điểm danh 1 lần cho 1 tài khoản trong 1 ngày để nhận được 5 pick để vote. Hôm sau mọi người vào điểm danh lại nhận 5 pick để vote tiếp nhá. Link Tải app Idol Pick

- Android: https://play.google.com/store/apps/details... - IOS: https://apps.apple.com/.../%EC%95%84%EC.../id1461429755...

Một bài đăng nhằm kêu gọi fan vote cho Sơn Tùng giành được bảng quảng cáo tại Nhật mới đây (Nguồn: FC cung cấp)

184

3. Các fan sân bay

Ảnh 1: Các fan T-ara đón Hyo Min ở sân bay năm 2019 (Nguồn: kenh14.vn)

Ảnh 2: Các fan đón T-ara tại sân bay 8/2012 (nguồn: kenh14.vn)

185

Ảnh 3: Hình ảnh Sơn Tùng được các fan sân bay chụp lại ngày 23/11/2019 (Nguồn: FC cung cấp)

186

4. Hoạt động Off fan của các FC

Ảnh 1: Off fan nhân dịp sinh nhật Sky ngày 26/11/2018 (Nguồn: Tác giả tự

chụp)

Ảnh 2: Các Sky biểu diễn giao lưu văn nghệ tại buổi off fan ngày 26/11/2018 tại bờ hồ (Nguồn: Tác giả tự chụp)

187

Ảnh 3: Các Sky diễu hành một vòng quanh bờ hồ nhân dịp off fan kỉ niệm sinh

nhật cộng đồng fan 26/11/2018 (Nguồn: tác giả tự chụp)

188

Ảnh 4: Các Sky tổ chức off fan kỉ niệm sinh nhật Sơn Tùng 5/7/2019

(Nguồn: FC cung cấp)

189

Ảnh 5: off fan ngày 30/12/2020 tại quán Sky Tea (chủ quán là admin của FC) để “Cày view” cho Sơn Tùng nhân dịp phát hành MV Chúng ta của hiện tại (Nguồn: FC cung cấp)

190

Ảnh 6: Off fan nhân dịp sinh nhật Sơn Tùng M-TP ngày 5/7/2018 (Nguồn: Tác giả tự chụp)

Ảnh 7: Sky off fan tổ chức sinh nhật Sơn Tùng M-TP (5/7/2020)

191

Ảnh 8: buổi off fan của FC T-ara miền Bắc nhân dịp kỉ niệm 10 năm nhóm T- ara debut (29/7/2012-29/7/2019) (Tác giả tự chụp ngày 28/7/2019).

Ảnh 9: Màn nhảy flasmob dưới mưa của FC T-ara miền Bắc (Tác giả tự chụp ngày 28/7/2019).

192

Ảnh 10: tác giả tự chụp ngày 28/7/2019.

5. Cổ vũ thần tượng tại các chương trình, show diễn

Ảnh 1: Fan Hyo Min (T-ara) cổ vũ ca sĩ này nhân dịp sang Việt Nam và tham dự chương trình Bữa trưa vui vẻ của VTV6 năm 2019 (Nguồn: FC T-ara miền Bắc)

193

Ảnh 2: Các fan tụ tập chuẩn bị check in một chương trình cổ vũ Sơn Tùng M- TP (Tác giả tự chụp 14/10/2018)

194

Ảnh 3, 4: Các fan trong lúc chờ check in Skytour tại Mỹ Đình, Hà Nội ngày 11/8/2019 (Nguồn: FC cung cấp)

195

6. Các hoạt động từ thiện và hoạt động cộng đồng

Ảnh 1: Chương trình nấu cháo từ thiện tại bệnh viện của FC Sơn Tùng M-TP Hà Nội for Trust team (Nguồn: FC cung cấp)

196

Anh 2,3: Quyên góp xây cầu Sky 1 ở Kiên Giang (Nguồn: FC cung câp)

197

̣ i kề̂u

̣n FC Sờn Tù ng M-TP Hà Nô

̣ p phả i khó kha n vờ́ i

̣ đề n bà o Miề n Trung đang ga

KÊU GỌI QUYÊN GÓP CHO MIỀN TRUNG Xin chà o mọ i ngườ̀ i, Miề n Trung thâ n thường củ a To quo c chú ng ta đang phả i hứ ng chịu nhữ ng cờn bã o lũ hoà nh hà nh hờn bao giờ̀ hề t, đề lạ i nhữ ng ma t má t na ̣ ng nề . Vờ́ i tinh tha n "lá là nh đù m lá rá ch" Mì̀nh xin dc đạ i diề̂ gọ i mọ i ngườ̀ i tham gia ủ ng hô những mất mát vật chất lẫn tinh thần. Mọi đóng góp của mọi người mình sẽ up công khai ạ! Stk : Chủ tài khoản : Ngân hàng : Techcombank Nội dung chuyển khoản : Họ và tên + FCHN Mọi người donatề xong có thể chụp lại màn hình và cmt vào bài viết này để mình notề lại thông tin tránh xót ạ Thời hạn nhận donatề: 14/10 - 16/10 Sau khi hề t hạ n mì̀nh sề̃ quyề̂n gó p dườ́ i tề̂n "Fc Sờn Tù ng M-TP " tờ́ i ca sì̃ Thủ y Tiề̂n gử i ta m lò ng a m á p đề n nhâ n dâ n Miề n Trung. Mong nhận được sự ủng hộ tích cực từ mọi người dù ít hay nhiều cũng đều đáng quý ạ

Cách thức nhận áo : Nhận tại Evềnt , show gần nhất , tại nhà qua ship, qua nhà mình

)

lấy (Láng Hạ _______________

Sắp tới sinh nhật ý nghĩa của chúng ta rồi!! Còn ai chưa có thì mau đặt để hoà chung

sắc với mọi người , với bầu trờii

Tháng 12 mình vừa nhận được thông tin show xong nhaa

Có áo FC cũng là có đc

quyền lợi thành viên như mình đã nói trc nhé!

Hẹn gặp tại HAPPY SKY'S DAY

Một bài đăng kêu gọi ủng hộ đồng bào lũ lụt 10/2020 của FC Hà Nội

198

Ảnh 4: Cộng đồng Sky hưởng ứng phong trào “stay home for” trong mùa dịch Covid-19 (Nguồn: FC Sơn Tùng M-TP Hà Nội for Trust team)

Ảnh 5: Một Slogan của cộng đồng Sky trong dự án chào mừng sinh nhật Sơn Tùng (6/2019)

199

Ảnh 6: Chiến dịch “kẻ trộm nhựa” được cộng đồng Sky ủng hộ, chia sẻ rộng rãi trên mạng xã hội để bảo vệ môi trường

200

6. Các hình thức tiêu thụ liên quan đến thần tượng:

Chibi Baek Hyun (nhóm EXO) Chibi 7 thành viên nhóm BTS

Chibi Sơn Tùng được các fan mang theo những dịp off fan (Ảnh: tác giả tự chụp)

Ảnh một số búp bê (chibi) mô phỏng thần tượng được bán cho fan

201

Ảnh 1:

Ảnh 2:

202

Ảnh 3:

Ảnh 1,2,3: Góc sưu tầm những sản phẩm liên quan đến thần tượngcủa fan Sơn Tùng M-TP ở Trà Vinh (Nguồn: FC cung cấp)

203

Ảnh 4: FC Sơn Tùng bao rạp nhân ngày công chiếu Skytour movie 13/6/2020 (Tác giả chụp cùng FC)

Ảnh 5: FC nhân ngày công chiếu Skytour movie (13/6/2020) (Tác giả chụp cùng FC)

204

Ảnh 6: Xếp hàng chờ xem Skytour movie (Nguồn: FC cung cấp)

205