1
------
ĐỀ TÀI
“Phát triển nguồn lực con
người trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
tỉnh Bến Tre”
2
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 3 Chương 1 NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC VÀ ĐẶC ĐIỂM CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH BẾN TRE.................................... 9 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở TỈNH BẾN TRE VÀ NHỮNG XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NÓ ............................................................................................................... 42 Chương 3 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH BẾN TRE ................ 84 KẾT LUẬN............................................................................................... 111
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, cuộc cạnh tranh giữa các nước có nền kinh tế phát triển đang
diễn ra gay gắt. Trong cuộc cạnh tranh này, phần chiến thắng sẽ thuộc về
quốc gia có nguồn lực con người chất lượng cao, có khả năng sáng tạo và
chiếm lĩnh đỉnh cao của tri thức khoa học tiên tiến. Vì vậy, phát triển NLCN
luôn được đặt ở vị trí trung tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển của
nhiều quốc gia, nhất là những quốc gia đang tiến hành công nghiệp hóa.
Quá trình phát triển kinh tế-xã hội nước ta diễn ra khi cuộc cách mạng
khoa học-công nghệ trên thế giới đã đạt tới đỉnh cao. Điều kiện lịch sử này
cho phép chúng ta có thể và cần phải vận dụng tiến bộ KH-CN để có cơ hội
phát triển nhanh CNH, HĐH đất nước theo con đường rút ngắn. Từ thực tế
đó, khi bước vào thời kỳ CNH, HĐH, Đảng ta xác định: “Lấy việc phát huy
nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”
[17, tr.85]. Sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta không đơn giản chỉ là công cuộc
xây dựng kinh tế, mà chính là quá trình biến đổi sâu sắc trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, nhằm đưa xã hội phát triển lên một trạng thái mới về
chất, do đó, đòi hỏi phải có NLCN mạnh về số lượng, phát triển cao về chất
lượng, thật sự là động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững. Từ nhận thức
đó, Đảng ta khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực
to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [17, tr.21]. Hiện nay, phát triển NLCN, đặc
biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, đang là một trong những hướng ưu tiên
và là khâu đột phá để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH và đổi mới
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bến Tre là tỉnh đồng bằng cuối nguồn sông Cửu Long, được hợp thành
bởi ba cù lao lớn. Trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, người Bến Tre đã
4
“Anh dũng Đồng khởi, thắng Mỹ, diệt Ngụy”. Nhưng trong công cuộc xây
dựng quê hương, mặc dù tiềm năng kinh tế, xã hội có thể nói không thua kém
các tỉnh bạn bao nhiêu, nhưng nhiều mặt đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của
Bến Tre vẫn chưa vươn lên ngang bằng với các tỉnh trong khu vực. Nhận thức
sâu sắc vấn đề này, Đại hội đại biểu lần thứ VI Đảng bộ tỉnh Bến Tre chỉ rõ:
“Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế đối với tỉnh ta so với các tỉnh trong khu
vực đồng bằng sông Cửu Long là điều mà chúng ta quan tâm nhất” [22, tr.44].
Trong những năm gần đây, nhờ biết khai thác thế mạnh kinh tế thuỷ
sản và kinh tế vườn, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Bến Tre đã đạt mức tăng
trưởng khá (giai đoạn 2000-2004, bình quân tăng 8,7%/năm). Tuy nhiên, so
với các tỉnh trong khu vực và cả nước, Bến Tre vẫn là tỉnh có tốc độ phát triển
chậm, đặc biệt là quá trình CNH, HĐH diễn ra với quy mô nhỏ bé và chậm
chạp. Để khai thác có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của mình, gần đây,
Bến Tre đã bắt đầu quan tâm phát triển NLCN của tỉnh và đã đạt được những
thành tựu quan trọng bước đầu. Nhưng đến nay, nhiều tiềm năng to lớn, nhất
là tiềm năng con người của Bến Tre, vẫn chưa được khai thác có hiệu quả và
chưa chuyển hóa thành nội lực cho sự phát triển nhanh và bền vững, chưa đáp
ứng yêu cầu thực tiễn của quá trình CNH, HĐH ở Bến Tre. Đây là một trong
những nguyên nhân chính cản trở sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Do đó,
việc nghiên cứu khoa học nhằm “Phát triển nguồn lực con người trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre” là vấn đề đang đặt ra
cấp thiết và có ý nghĩa thiết thực đối với tiến trình phát triển của Bến Tre
trong những năm tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, NLCN và phát triển NLCN là vấn đề đã
được đề cập nghiên cứu ở nhiều mức độ và góc độ khác nhau. Nhiều công
trình đã nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề về NLCN, về GD-ĐT,
về nâng cao chất lượng và sử dụng có hiệu quả NLCN, đáng chú ý là những
công trình sau:
5
- “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” do PTS. Mai Quốc Chánh chủ biên, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Cuốn sách đã phân tích vai trò của nguồn nhân lực
và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, từ đó đề xuất những
giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nước ta đáp ứng
yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
- “Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta”
của PGS. Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm (Viện Kinh tế thế giới), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1996. Quyển sách đã giới thiệu khái quát về vai trò của nguồn nhân
lực ở một số nước trên thế giới dưới tác động của GD-ĐT, đồng thời nêu bật vai
trò của GD-ĐT trong việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam.
- “Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam”, của TS. Bùi
Thị Ngọc Lan, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Tác giả đã phân tích rõ
vị trí, vai trò, chức năng của nguồn lực trí tuệ - bộ phận trung tâm, làm nên
chất lượng và sức mạnh ngày càng tăng của NLCN và là tài sản vô giá của
mỗi quốc gia, dân tộc và của toàn nhân loại. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra
những phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nguồn lực trí tuệ
Việt Nam trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
- “Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam” của TS.
Nguyễn Hữu Dũng, Nxb Lao động-xã hội, Hà Nội, 2003. Tác giả đã trình bày
có tính hệ thống một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến phát triển,
phân bố, sử dụng NLCN trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta; đồng thời đề xuất các chính sách và giải pháp nhằm phát
triển, phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu quả NLCN trong phát triển kinh tế-
xã hội ở nước ta.
Vấn đề con người và NLCN cũng là đề tài nghiên cứu của một số luận
văn, luận án, đáng chú ý như: Luận án tiến sĩ: “Nguồn lực con người trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của tác giả Đoàn Văn Khái
6
(2000); Luận án tiến sĩ: “Phát huy nguồn lực thanh niên trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Tú Oanh
(1999); Luận văn thạc sĩ: “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay” của tác giả
Vũ Thị Phương Mai (2004)... Nhìn chung, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu làm
rõ các vấn đề về NLCN, nguồn lực thanh niên, nguồn nhân lực chất lượng cao và
vai trò của những nguồn lực này trong sự nghiệp CNH, HĐH. Qua phân tích
thực trạng, các tác giả đã đề xuất nhiều giải pháp để phát huy, phát triển những
nguồn lực này trong thời gian tới.
Ngoài ra, nhiều nhà khoa học, nhà quản lý đã có những công trình, bài
viết về vấn đề NLCN và đã được đăng tải trên các tạp chí, các kỷ yếu khoa
học… Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có một công trình khoa học nào
nghiên cứu trực tiếp về phát triển NLCN ở tỉnh Bến Tre. Việc đánh giá đúng
thực trạng NLCN làm cơ sở thực tiễn quan trọng để tìm ra những phương
hướng, giải pháp phát triển và sử dụng hữu hiệu NLCN vẫn là một đề tài cần
tiếp tục nghiên cứu, nhất là từ góc độ chính trị - xã hội và từ thực tiễn của một
tỉnh như Bến Tre.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Mục tiêu
Trên cơ sở làm rõ thực trạng NLCN của tỉnh Bến Tre và xu hướng vận
động cơ bản của nó, luận văn xây dựng hệ thống những quan điểm cơ bản và
giải pháp chủ yếu nhằm phát triển NLCN trong sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh
Bến Tre trong thời gian tới.
Nhiệm vụ
- Làm rõ quan niệm về NLCN và tính tất yếu của việc phát triển NLCN
trong quá trình CNH, HĐH đất nước.
- Khảo sát và phân tích thực trạng NLCN và phát triển NLCN ở Bến
Tre hiện nay, trên cơ sở đó dự báo một số xu hướng vận động cơ bản của
nguồn lực này trong thời gian tới.
7
- Xây dựng hệ thống quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
NLCN ở Bến Tre trong thời kỳ CNH, HĐH.
Phạm vi nghiên cứu
Từ góc độ chính trị-xã hội, đề tài nghiên cứu quá trình phát triển
NLCN ở tỉnh Bến Tre từ năm 1996 đến nay và tập trung chủ yếu ở lực lượng
lao động (hay dân số hoạt động kinh tế thường xuyên) của tỉnh.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài
Luận văn được triển khai dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về
con người và NLCN, kết hợp với chủ trương, chính sách của Đảng bộ và Ủy
ban nhân dân tỉnh Bến Tre… về các vấn đề có liên quan đến đề tài. Ngoài ra,
những công trình nghiên cứu gần đây về vấn đề này được tác giả quan tâm,
coi trọng nghiên cứu và kế thừa.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật lịch sử, lôgic lịch sử, kết hợp
với các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, thống kê… để nghiên cứu
vấn đề phát triển NLCN ở tỉnh Bến Tre dưới góc độ chính trị - xã hội.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ thực trạng NLCN và phát triển NLCN ở
tỉnh Bến Tre trong sự nghiệp CNH, HĐH hiện nay.
- Luận văn đề xuất một hệ thống những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
NLCN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH ở Bến Tre trong những năm tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận của luận văn
Những quan điểm, những kết luận và những kiến nghị của luận văn có
thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy về
vấn đề NLCN nói chung, cũng như vấn đề phát triển NLCN ở tỉnh Bến Tre
nói riêng.
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
8
Những kết quả đạt được của luận văn có thể là cơ sở thực tiễn đáng tin
cậy để các cấp lãnh đạo, các ngành của tỉnh Bến Tre tham khảo trong quá
trình hoạch định các chủ trương, chính sách phát triển NLCN của tỉnh trong
sự nghiệp CNH, HĐH.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 7 tiết.
9
Chương 1 NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC VÀ ĐẶC ĐIỂM CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH BẾN TRE
1.1. NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VÀ TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
1.1.1. Quan niệm về nguồn lực con người và phát triển nguồn lực
con người
Quan niệm về nguồn lực con người “Nguồn lực con người” hay “nguồn nhân lực” là một khái niệm được hình thành trong quá trình nghiên cứu, xem xét nhân tố con người với tư cách là nguồn lực cơ bản thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Ngày nay, để phát triển nhanh và bền vững, bất cứ quốc gia nào cũng cần phải xác định đúng đắn và huy động có hiệu quả tất cả các nguồn lực. Những thành tựu to lớn mà loài người đạt được trong quá trình phát triển chính là do con người biết khơi dậy và phát huy tổng hợp các nguồn lực. Trong toàn bộ các nguồn lực của phát triển thì NLCN được xác định là quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực. Trong vài thập kỷ trở lại đây, vấn đề NLCN đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia trên thế giới. Vì vậy, những nghiên cứu về NLCN đã đạt những thành tựu đáng kể, đưa lại những quan niệm ngày càng đầy đủ và đúng đắn về NLCN. Tìm hiểu các công trình nghiên cứu gần đây cho thấy, quan niệm về NLCN khá đa dạng, được đề cập trên nhiều góc độ, theo nhiều nghĩa rộng, hẹp khác nhau.
Trong lý luận về lực lượng sản xuất, con người được coi là lực lượng sản xuất hàng đầu, là yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất, quyết định quá trình sản xuất và do đó, quyết định năng suất lao động và tiến bộ xã hội.
Trong lý luận về “vốn”, con người được đề cập đến như một loại vốn
(“vốn người”, “tư bản người”), một thành tố cơ bản, tất yếu của quá trình sản
10
xuất và kinh doanh. Từ cách tiếp cận này, Ngân hàng Thế giới cho rằng:
NLCN được hiểu là toàn bộ vốn người (thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp)
mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động được trong quá trình sản xuất kinh
doanh hay một hoạt động nào đó. Ở đây, NLCN được coi như một nguồn vốn
bên cạnh các loại vốn vật chất khác như tiền, tài nguyên thiên nhiên… Đầu tư
cho con người giữ vị trí trung tâm trong các loại đầu tư và được coi là cơ sở
chắc chắn cho sự phát triển bền vững.
Dựa trên cách tiếp cận này, Liên hợp quốc cho rằng NLCN là tất cả
những kiến thức, kỹ năng và năng lực của con người có quan hệ tới sự phát
triển của đất nước. NLCN ở đây được xem xét chủ yếu ở chất lượng con
người và vai trò, sức mạnh của nó đối với sự phát triển xã hội.
Ở nước ta khái niệm NLCN được sử dụng tương đối rộng rãi kể từ đầu
thập niên 90 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, trong Từ điển Bách khoa Việt Nam
cũng như các Từ điển Tiếng Việt chưa thấy đưa ra định nghĩa “Nguồn lực con
người”. Dù vậy, các nhà khoa học Việt Nam cũng đã đưa ra nhiều quan niệm
khác nhau khi bàn về NLCN, về nguồn nhân lực.
Giáo sư Viện sĩ TS. Phạm Minh Hạc cho rằng: “Nguồn lực con người
là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe
và trí tuệ, năng lực và phẩm chất” [25, tr.328]. Giáo sư TS. Hoàng Chí Bảo
cũng cho rằng: “Nguồn lực con người là sự kết hợp thể lực và trí lực, cho thấy
khả năng sáng tạo, chất lượng hiệu quả hoạt động và triển vọng mới phát triển
của con người” [4, tr.14]. Ngoài thể lực và trí lực, theo tác giả "cái làm nên
nguồn lực con người là kinh nghiệm sống, đặc biệt là những kinh nghiệm nếm
trải trực tiếp của con người, là nhu cầu và thói quen vận dụng tổng hợp tri
thức và kinh nghiệm của mình, của cộng đồng vào việc tìm tòi, sáng tạo” [4,
tr.15]. Xét theo ý nghĩa đó, NLCN bao hàm trong đó toàn bộ sự phong phú, sự
sâu sắc, đổi mới thường xuyên các năng lực trí tuệ, năng lực thực hành, tổ chức
và quản lý… Trong quan niệm này, tác giả nhấn mạnh đến kết cấu bên trong
của NLCN.
11
Trong lời phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa VIII), nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười khẳng định:
Nguồn lực con người là quý báu nhất... Nguồn lực đó là người
lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp,
được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến
gắn liền với một nền khoa học công nghệ hiện đại [18, tr.9].
Quan niệm này nêu lên một cách toàn diện những yếu tố cần có của
người lao động với tư cách là nguồn lao động - nguồn lực quan trọng nhất của
quốc gia.
Trong dịp gặp gỡ các nhà doanh nghiệp, các nhà KH-CN các tỉnh,
thành phố phía Bắc, Thủ tướng Phan Văn Khải đã khẳng định: “Nguồn lực
con người bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống
của dân tộc ta” [32, tr.2].
Từ một số cách tiếp cận và những nội dung đã dẫn trên, có thể hiểu:
Nguồn lực con người là phạm trù dùng để chỉ số dân, cơ cấu dân số, đặc biệt
là chất lượng người với tất cả những tiềm năng, năng lực và phẩm chất làm
nên sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội.
Với cách hiểu này, khái niệm “nguồn lực con người” có nội dung rộng,
đề cập đến những mặt cơ bản sau:
Thứ nhất, “nguồn lực con người” được biểu hiện ra là người lao động,
là lực lượng lao động (số người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao
động), là nguồn lao động (đội ngũ lao động hiện có và sẽ có). Nói đến NLCN
còn nói đến quy mô dân số và tốc độ tăng dân số trong một thời kỳ nhất định
của một quốc gia, một địa phương.
Thứ hai, “nguồn lực con người” phản ánh cơ cấu dân cư, nhất là cơ cấu
lao động trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế…
12
Thứ ba, “nguồn lực con người” chủ yếu nói lên chất lượng dân số, đặc
biệt là chất lượng của lực lượng lao động trong hiện tại và tiềm năng trong
tương lai.
Thứ tư, “nguồn lực con người” còn bao hàm cả sự liên hệ tác động lẫn
nhau giữa các yếu tố nội tại cấu thành nó cũng như sự tác động qua lại giữa
NLCN với các nguồn lực khác và với môi trường xung quanh. Đồng thời, nó
còn nói lên sự biến đổi về số lượng, chất lượng, cơ cấu dân cư và lực lượng
lao động.
Thứ năm, “nguồn lực con người” còn chỉ ra rằng: con người được xem
xét với tư cách là một nguồn lực, nguồn lực nội tại, cơ bản trong hệ thống các
nguồn lực của sự phát triển xã hội. Sức mạnh của NLCN thể hiện ở sức mạnh
của thể lực, trí lực, niềm tin, ý chí… ở sự thống nhất biện chứng giữa sức
mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần, của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng,
không chỉ có trong hiện tại mà còn ở dạng tiềm năng.
Như vậy, nói đến NLCN và vai trò của nó phải xem xét con người với
tư cách vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quá trình phát triển kinh tế-xã
hội. Là chủ thể bởi con người khai thác, sử dụng các nguồn lực khác, hơn nữa
còn tạo ra nguồn lực mới cho sự tồn tại và phát triển xã hội. Là khách thể, con
người trở thành đối tượng được khai thác, cả về trí lực và thể lực cho mục tiêu
phát triển xã hội. Với ý nghĩa đó, con người vừa là chủ thể, vừa là khách thể,
vừa là động lực, vừa là mục tiêu của các quá trình phát triển kinh tế-xã hội.
Bên cạnh khái niệm “nguồn lực con người”, các khái niệm “nguồn
nhân lực”, “tài nguyên con người” cũng được sử dụng phổ biến. Theo một số
tác giả thì đây là những khái niệm đều được dịch từ cụm từ Human
Resources. Theo TS. Đoàn Văn Khái thì trong thực tế, khái niệm “nguồn nhân
lực” ngoài nghĩa rộng được hiểu như “nguồn lực con người”, thường còn hiểu
theo nghĩa hẹp là nguồn lao động, có khi còn được hiểu là lực lượng lao động.
Khái niệm “tài nguyên con người” được sử dụng với ý nhấn mạnh phương
diện khách thể của con người, coi con người như một nguồn tài nguyên, một
13
loại của cải quý giá, cần được khai thác triệt để, hợp lý, có hiệu quả, nhất là
nguồn tiềm năng trí tuệ trong đó [10, tr.253].
Ngoài ra, còn có thể hiểu một cách đầy đủ hơn về NLCN thông qua
việc tìm hiểu mối quan hệ giữa NLCN với các nguồn lực khác và cấu trúc của
nguồn lực này.
Mối quan hệ giữa nguồn lực con người với các nguồn lực khác
Trong mối quan hệ với các nguồn lực khác, NLCN được xem như nguồn
lực cơ bản và quyết định các nguồn lực khác cũng như quyết định đối với sự
phát triển kinh tế-xã hội. NLCN là nguồn lực của mọi nguồn lực.
Khẳng định vai trò quyết định của NLCN đối với sự phát triển kinh tế-
xã hội, điều đó không có nghĩa là tách NLCN một cách biệt lập với các nguồn
lực khác. Ngược lại, khi khẳng định NLCN đóng vai trò quyết định thì điều
đó có nghĩa là đã đặt trên cơ sở và trong mối quan hệ với các nguồn lực khác.
Sự phát triển nhanh chóng của mỗi quốc gia, dân tộc, nhất là sự thành
công của quá trình CNH, HĐH đòi hỏi ngoài môi trường chính trị ổn định, cần
phải có nhiều nguồn lực. Các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn,
cơ sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa lý thuận lợi… đều vô cùng quan trọng, thiếu
chúng sẽ gặp rất nhiều khó khăn, gây ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát
triển kinh tế-xã hội. Song, các nguồn lực này dù phong phú, đa dạng và giàu có
đến mấy cũng chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng và tự nó không thể phát huy tác dụng.
Chúng chỉ thực sự có ý nghĩa và phát huy tác dụng thông qua hoạt động có ý
thức, sáng tạo của con người, nghĩa là được con người sử dụng. Như vậy, chỉ có
NLCN mới có khả năng khởi động và phát huy tác dụng của các nguồn lực khác.
Sở dĩ như vậy là vì con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý
chí, biết cải tạo, lợi dụng, khai thác các nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với
nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cùng phục vụ cho nhu cầu, lợi ích của con
người. Tất nhiên, quá trình đó phải phù hợp với quy luật khách quan. Với ý
nghĩa đó, con người trở thành yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố cấu thành
14
lực lượng sản xuất, là "lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại"
[37,tr.430].
Hơn nữa, các nguồn lực khác đều là hữu hạn và dần dần sẽ bị cạn kiệt
trong quá trình khai thác và sử dụng, thậm chí nếu khai thác bừa bãi sẽ gây
hậu quả nghiêm trọng, đe doạ sự sống còn của loài người. Trong khi đó,
NLCN mà bộ phận cốt lõi là trí tuệ, lại có tiềm năng vô tận, không bao giờ bị
cạn kiệt trong quá trình khai thác, sử dụng. Thậm chí, nó còn có khả năng
phục hồi và tái sinh, tự đổi mới, phát triển không ngừng nếu biết chăm lo, bồi
dưỡng và khai thác hợp lý.
Trong thời đại ngày nay, việc khẳng định vai trò quyết định của NLCN so
với các nguồn lực khác và xem nó là động lực quan trọng nhất thúc đẩy xã hội
phát triển là hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu không thấy vai trò
quan trọng của các nguồn lực khác đối với sự phát triển NLCN. Điều đó có
nghĩa là NLCN luôn bị quy định bởi các nguồn lực khác. Bởi lẽ, con người là
một thực thể tự nhiên - xã hội. Để tồn tại và phát triển, con người phải quan hệ
với tự nhiên, khai thác tài nguyên thiên nhiên, kết hợp với sức lao động và trí tuệ
của mình nhằm cải tạo tự nhiên tạo ra của cải vật chất nuôi sống con người. Mặt
khác, chính từ thực tiễn cuộc sống và hoạt động lao động sản xuất, con người
không ngừng phát triển trí tuệ cũng như hoàn thiện về thể chất. Như vậy, trong
mối quan hệ với các nguồn lực khác, NLCN giữ vai trò quyết định. Các nguồn
lực khác chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực xã hội khi được kết hợp
với NLCN. Xét đến cùng, nếu thiếu sự hiện diện của NLCN với trí tuệ và lao
động của họ, thì mọi nguồn lực đều trở nên vô nghĩa, thậm chí, khái niệm nguồn
lực cũng không còn ý nghĩa.
Cấu trúc của nguồn lực con người
Việc xác định cấu trúc của NLCN là quá trình xem xét từng bộ phận
cấu thành NLCN theo một hệ thống chỉnh thể, từ đó phát hiện ra cơ cấu và
mối quan hệ giữa chúng tạo thành hệ thống, cấu trúc của NLCN.
Nói đến NLCN là nói đến số lượng và chất lượng con người, là sự kết
hợp giữa trí lực, thể lực, đạo đức và những năng lực, phẩm chất khác của con
15
người như ý chí, tình cảm… Mỗi yếu tố có vị trí và vai trò nhất định trong cấu
trúc NLCN, song giữa chúng có mối quan hệ gắn bó, tác động qua lại với
nhau, tạo nên sự phát triển toàn diện của NLCN.
Trước hết, NLCN được xem xét ở mặt số lượng. Số lượng NLCN chính
là lực lượng lao động và khả năng cung cấp sức lao động cho xã hội. Các chỉ
số về số lượng NLCN của một quốc gia, một địa phương được xác định trên
qui mô dân số thông qua số lượng dân cư, tốc độ tăng dân số, cơ cấu dân cư,
cơ cấu lao động trong các ngành, các khu vực kinh tế… Trong đó, số dân
trong độ tuổi lao động là chỉ số phản ánh một cách rõ nhất về số lượng
NLCN. Số lượng NLCN đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-
xã hội. Nếu số lượng không tương xứng với tốc độ phát triển (hoặc thừa hoăc
thiếu) đều tác động xấu tới sự phát triển kinh tế-xã hội.
Yếu tố quan trọng nhất trong NLCN của một quốc gia được thể hiện ở
chất lượng của nó. Trước đây, có lúc chúng ta hiểu NLCN có phần đơn giản,
thường cho rằng: có nguồn lao động dồi dào, người lao động cần cù, chịu khó,
thông minh và sáng tạo là có thể tạo ra nhiều của cải vật chất, tăng năng suất
lao động xã hội. Từ thực tiễn công cuộc xây dựng đất nước ở Việt Nam, cũng
như sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại cho thấy, sự dồi dào nguồn lao động và sự cần cù của con người là
yếu tố quan trọng nhưng chưa thể tạo nên động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát
triển kinh tế-xã hội, nhất là trong thời kỳ CNH, HĐH. Vì vậy, hiểu một cách
đúng đắn và toàn diện về NLCN, không chỉ nói đến mặt số lượng mà chủ yếu
là nhấn mạnh mặt chất lượng của nó. Đây mới là yếu tố quyết định, nói lên
sức mạnh và tiềm năng to lớn của NLCN trong phát triển. Chất lượng NLCN
là một khái niệm tổng hợp bao gồm những yếu tố về thể lực, trí lực, trình độ
học vấn, chuyên môn kỹ thuật, năng lực, phẩm chất, về tâm lý, đạo đức… của
người lao động. Trong các yếu tố đó thì phẩm chất đạo đức và trình độ học
vấn, chuyên môn kỹ thuật là quan trọng nhất, nó phản ánh mức độ trưởng
thành của con người. Có thể nói, chất lượng NLCN được phản ánh ở hàm
16
lượng trí tuệ kết tinh trong sản phẩm làm ra trong quá trình sản xuất và năng
suất lao động xã hội. Giữa số lượng và chất lượng của NLCN có quan hệ chặt
chẽ với nhau. Nếu số lượng nguồn nhân lực quá ít sẽ gây khó khăn cho quá
trình phân công lao động xã hội và do vậy chất lượng lao động sẽ bị hạn chế.
Chất lượng NLCN nâng cao sẽ góp phần làm giảm số lượng người lao động
trong một đơn vị sản xuất, kinh doanh hay trong một tổ chức xã hội, và như
vậy là năng suất lao động xã hội sẽ được nâng cao. Ngược lại, nguồn nhân lực
đông nhưng không mạnh, chất lượng thấp, sẽ là gánh nặng cho xã hội và kìm
hãm xã hội phát triển.
Trong số các yếu tố làm nên chất lượng của NLCN, nguồn lực trí tuệ
được xem bộ phận sáng giá nhất, vì nó “bao gồm những tiềm năng, năng lực
và tập hợp các giá trị sáng tạo về tinh thần của mỗi cá nhân, của các tập thể,
của các cộng đồng người… trong một xã hội nhất định” và “có khả năng tạo
ra sức mạnh tổng hợp của quá trình phát triển tự nhiên, xã hội và bản thân con
người” [33, tr.35]. Thực vậy, xét ở cả phương diện cá thể cũng như xã hội, trí
tuệ đóng vai trò trung tâm chỉ đạo mọi hành vi và quyết định phần lớn khả
năng sáng tạo của con người trong quá trình hoạt động thực tiễn cũng như
trong việc lựa chọn phương pháp, giải pháp thích hợp nhằm phát huy tác dụng
của các yếu tố khác trong cấu trúc NLCN.
Cuộc cách mạng KH-CN hiện nay đang đặt ra những yêu cầu rất cao ở
trí tuệ của con người - những người lao động. Họ không chỉ có khả năng tiếp
thu tri thức mới, vận dụng có hiệu quả vào sản xuất mà còn phải biết thường
xuyên tự bổ sung, bồi dưỡng tri thức để không bị lạc hậu trước sự phát triển
như vũ bão của cuộc cách mạng KH-CN. Vì vậy, NLCN đáp ứng yêu cầu
CNH, HĐH phải bao gồm những người lao động có sự phát triển cao về năng
lực trí tuệ, đủ sức làm chủ và tiếp thu công nghệ mới, có khả năng làm việc
chủ động sáng tạo, có khả năng sử dụng các công cụ, phương tiện tiên tiến,
hiện đại. Nói cách khác, ngày nay tri thức trở thành yếu tố không thể thiếu
của người lao động.
17
Theo Tổng Bí thư Đỗ Mười: “Trí tuệ là tài sản quý giá nhất trong mọi
tài sản, nhưng chính sức khỏe là một tiền đề cần thiết để làm ra tài sản đó”
[42, tr.92]. Thực vậy, sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người. Vì vậy,
nói đến chất lượng NLCN, ngoài trí tuệ, sức khỏe (thể lực) là yếu tố hết sức
cần thiết. Sức khỏe là điều kiện để duy trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện
để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, biến tri thức thành sức mạnh
vật chất.
Với tư cách là một yếu tố cấu thành NLCN, sức khỏe là sự phát triển
hài hòa của con người cả về thể chất lẫn tinh thần.Vì vậy, yếu tố này bao gồm
sức khỏe cơ thể và sức khỏe tinh thần. Sức khỏe cơ thể là sự cường tráng,
phát triển cân đối hài hòa các cơ quan trong cơ thể theo quy luật “tạo hóa” của
tự nhiên, đồng thời, còn là sự hoạt động dẻo dai của cơ bắp, sự nhạy bén của
các giác quan. Các chỉ số sinh học biểu hiện trạng thái sức khỏe thể chất của
mỗi người như chiều cao, cân nặng, khả năng hoạt động của cơ bắp, của các
giác quan…
Tục ngữ Nga có câu: “Một tinh thần lành mạnh trong một cơ thể khoẻ
mạnh”. Sự khoẻ mạnh của cơ thể là tiền đề cho một tinh thần minh mẫn, sáng
suốt. Sức khỏe tinh thần là sự linh hoạt, khoẻ mạnh của hệ thống thần kinh, là
sức mạnh của sự sáng tạo, của niềm tin và ý chí. Như vậy, điều kiện vật chất
để hoạt động trí tuệ của con người nhạy bén, sâu sắc và hoạt động thực tiễn
hiệu quả đó chính là sự khoẻ mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần. Chính vì vậy,
chăm sóc sức khỏe cho con người là nhiệm vụ rất cơ bản để nâng cao chất
lượng NLCN, tạo tiền đề phát huy có hiệu quả tiềm năng trí tuệ của con
người.
Bên cạnh trí tuệ và sức khỏe, yếu tố góp phần quan trọng tạo ra chất
lượng toàn diện của NLCN chính là nhân cách. Xét ở phương diện cá thể,
trong cấu trúc nhân cách thì đạo đức và năng lực (đức và tài) là hai thành tố
cốt yếu tạo nên nhân cách một con người. Trong đó, đạo đức là cái gốc rất
quan trọng, là cơ sở hình thành và phát triển thế giới quan, nhân sinh quan của
18
mỗi người. Đức là sự nỗ lực cống hiến to lớn cho xã hội, là sự trung thành tận
tuỵ với chế độ xã hội mà họ phục vụ, trách nhiệm công dân, lương tâm nghề
nghiệp của mỗi người… Đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH còn đòi hỏi ở người
lao động những phẩm chất lao động và nghề nghiệp như: kỷ luật tự giác, tinh
thần hợp tác và tác phong lao động công nghiệp, tiết kiệm nguyên liệu và thời
gian… Tất cả những phẩm chất này được sử dụng trong một tiêu chí tổng hợp
là yếu tố văn hóa lao động công nghiệp. Đây cũng được xem là một yếu tố
quan trọng để đánh giá chất lượng NLCN. Như vậy, nhân cách đạo đức cùng
những phẩm chất lao động và nghề nghiệp góp phần tạo nên chất lượng toàn
diện của NLCN.
Việc xem xét cấu trúc NLCN một cách toàn diện gồm trí lực, thể lực và
nhân cách đã đặt ra yêu cầu đối với GD-ĐT là phải phát triển cân đối giữa dạy
chữ - dạy nghề - dạy người. Trong đó, dạy người phải xem là mục tiêu cuối cùng
nhằm “tạo ra những con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất,
phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức” [15, tr.5] đủ sức thực hiện
thành công sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta.
Quan niệm về phát triển nguồn lực con người
Cho đến nay, do xuất phát từ nhiều cách tiếp cận khác nhau nên khi bàn
về phát triển NLCN đã có nhiều cách hiểu khác nhau.
Phát triển NLCN hay phát triển nguồn nhân lực, hoặc phát triển nguồn
tài nguyên người là những cách dịch khác nhau từ cụm từ Human Resources
Development - HRD. Khái niệm này hình thành và phát triển từ những năm
70 của thế kỷ trước, dựa trên quan niệm mới của Liên hợp quốc về phát triển
và vị trí con người trong phát triển.
Liên hợp quốc sử dụng khái niệm “phát triển nguồn lực con người”
theo nghĩa rộng bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người
nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống.
UNESCO sử dụng khái niệm “phát triển nguồn lực con người” theo nghĩa
hẹp, đó là làm cho toàn bộ sự lành nghề của dân cư luôn luôn phù hợp trong
19
mối quan hệ với sự phát triển của đất nước. Còn tổ chức Lao động Quốc tế
(ILO) lại cho rằng phát triển nguồn nhân lực không chỉ là có sự chiếm lĩnh
trình độ lành nghề hoặc vấn đề đào tạo nói chung mà còn là phát triển năng lực
và sử dụng năng lực đó của con người để tiến tới có được việc làm hiệu quả,
cũng như thoả mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân.
Nhìn chung, cách hiểu của Liên hợp quốc bao quát hơn và nhấn mạnh
khía cạnh xã hội của vấn đề: NLCN vừa là yếu tố của sản xuất, của tăng
trưởng kinh tế vừa là mục tiêu của phát triển. Cách tiếp cận này xuất phát từ
lý thuyết mới về phát triển con người, trong đó phát triển NLCN thuộc phạm
trù phát triển con người.
Thuật ngữ “phát triển con người” được sử dụng từ lâu trong các ngôn ngữ
khác nhau. Nhưng phải đến năm 1990, khái niệm “phát triển con người”
(Human Development) mới xuất hiện trong báo cáo về phát triển con người
(HDR) được Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) công bố. Theo
UNDP “Của cải đích thực của một quốc gia là con người của quốc gia đó. Và
mục đích của phát triển là để tạo ra một môi trường thuận lợi cho phép con
người được hưởng cuộc sống lâu dài, khoẻ mạnh và sáng tạo” [26, tr.140].
Phát triển con người - là quan điểm về phát triển, trong đó lấy con
người làm trung tâm. Đó là phát triển của con người, vì con người và do con
người. Phát triển của con người có nghĩa là đầu tư vào phát triển tiềm năng
của con người như giáo dục, y tế, kỹ năng… để con người có thể làm việc
một cách sáng tạo và có năng suất cao nhất. Phát triển vì con người là bảo
đảm sự tăng trưởng kinh tế mà con người tạo ra phải được phân phối rộng rãi
và công bằng. Phát triển do con người là hướng vào việc tạo cho con người
có cơ hội tham gia vào mọi hoạt động của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội ).
Như vậy, theo quan điểm của Liên hợp quốc, khái niệm “phát triển con
người” nhấn mạnh đến mục tiêu hơn là phương tiện của sự phát triển. Mục tiêu
của sự phát triển không chỉ là phát triển xã hội mà chính là phát triển con
20
người. Bởi vì, trong xã hội hiện đại, sự phát triển xã hội chưa hẳn đã đồng nghĩa
với sự phát triển con người. Thực tế cho thấy, ở nhiều nước trên thế giới, xã hội
phát triển cao nhưng con người lại bị quên lãng, không được quan tâm. Ở những
nước này diễn ra nghịch lý: GDP tăng nhưng thất nghiệp và đói nghèo cũng
tăng, khoa học và công nghệ tiến bộ nhưng thất học và dốt nát lại trở nên phổ
biến, tiện nghi vật chất xã hội hiện đại hơn nhưng quyền con người lại bị vi
phạm nhiều hơn, nhiều người không được chăm sóc tối thiểu về y tế… Điều này
cách đây 2 thế kỷ, Sáclơ Phuriê (1772-1837) đã chỉ ra: trong xã hội tư bản “sự
nghèo khổ được sinh ra từ chính sự thừa thãi”.
Như vậy, mục đích thật sự của sự phát triển là cần phải tạo ra một
môi trường đảm bảo cho con người phát huy khả năng sáng tạo, được
hưởng một cuộc sống khoẻ mạnh, được học hành và trường thọ, các quyền
tự do chính trị, quyền con người và cá nhân được bảo đảm. Quan điểm phát
triển con người như vậy hoàn toàn phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin về phát triển con người toàn diện mà cách đây hơn 150 năm
C.Mác đã nói tới.
Ở nước ta, cho đến nay, thuật ngữ “Phát triển nguồn lực con người”
hay “Phát triển nguồn nhân lực” được các nhà khoa học Việt Nam nêu khá
nhiều trong các công trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
GS.VS.TS Phạm Minh Hạc cho rằng:
Phát triển nguồn nhân lực được hiểu về cơ bản là gia tăng giá
trị cho con người, trên các mặt như đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm
hồn, thể lực… làm cho con người trở thành những người lao động
có những năng lực phẩm chất mới và cao, đáp ứng được những yêu
cầu to lớn của sự phát triển kinh tế-xã hội, của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [25, tr.285].
TS. Nguyễn Hữu Dũng cho rằng: phát triển NLCN được coi là “quá
trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày
càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của phát triển kinh tế-xã hội” [14, tr.13]. Theo
21
tác giả, quá trình này bao gồm sự phát triển về thể lực, trí lực, khả năng nhận
thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề, tính năng động xã hội và sức sáng tạo của
con người. Trong đó, nền văn hóa truyền thống, lịch sử dân tộc góp phần quan
trọng hun đúc nên bản lĩnh, ý chí của mỗi người.
Như vậy, phát triển NLCN không phải là một khái niệm trừu tượng mà
nó gắn với phát triển con người cụ thể. Theo C.Mác, con người là yếu tố quan
trọng nhất, cách mạng nhất trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất.
Người lao động trong lực lượng sản xuất phải là con người ngày càng được
phát triển cao về trí tuệ, khoẻ mạnh về thể chất, trong sáng về đạo đức, linh
hoạt và văn minh trong ứng xử, có kinh nghiệm sản xuất và kỹ năng lao động
nhất định. Do đó phát triển NLCN có mối quan hệ biện chứng với phát triển
con người. Phát triển NLCN phải được hiểu là quá trình phát triển toàn diện
con người cả thể lực, trí lực, cả khai thác, sử dụng, tái tạo và phát triển tiềm
năng, năng lực của mỗi người, của cả cộng đồng người nhằm đóng góp nhiều
nhất vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội, bởi lẽ, NLCN được cấu thành từ
nguồn nhân lực của mỗi cá nhân cũng như nguồn nhân lực của cả cộng đồng.
Vì vậy, nếu cho rằng, phát triển NLCN chỉ là quá trình làm gia tăng tri thức,
kỹ năng và năng lực của mỗi người là chưa đầy đủ, mới chỉ đề cập ở khía
cạnh khai thác năng lực của con người mà thiếu đi quá trình tái tạo, phát triển và
sử dụng lâu dài tiềm năng con người, cũng như tạo ra giá trị đích thực cho cuộc
sống của con người.
Tóm lại, có thể hiểu: Phát triển nguồn lực con người là quá trình làm
biến đổi về số lượng, chất lượng, cơ cấu nguồn nhân lực, đồng thời làm gia
tăng các giá trị tinh thần, đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, thể chất… cho con người
nhằm đáp ứng những yêu cầu của sự phát triển kinh tế-xã hội.
Mỗi một giai đoạn lịch sử đều có nhu cầu về NLCN phù hợp giai đoạn
lịch sử đó. Quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay đang đặt ra yêu cầu
khách quan về sự phát triển số lượng, cơ cấu, chất lượng, cũng như những
năng lực, phẩm chất cần thiết của NLCN. Do đó, phát triển NLCN là một đòi
hỏi tất yếu hiện nay ở nước ta.
22
1.1.2. Tính tất yếu của việc phát triển nguồn lực con người trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Trong điều kiện cuộc cách mạng KH-CN hiện đại đang diễn ra như vũ
bão, CNH, HĐH được coi là phương thức cơ bản, con đường tất yếu để cải
biến một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp văn minh.
CNH, HĐH là quá trình tạo ra những biến đổi về chất trong toàn bộ các hoạt
động của đời sống xã hội, trước hết là hoạt động sản xuất vật chất. Hội nghị lần
thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1994) đã thông qua đường
lối CNH, HĐH đất nước, trong đó Đảng ta xác định:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản,
toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý
kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng
một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện
và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học-công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã
hội cao [16, tr.65].
Quan điểm này, về cơ bản, đã phản ánh được phạm vi rộng lớn, lâu dài,
phức tạp cũng như chỉ ra cốt lõi của quá trình CNH, HĐH ở nước ta là cải
biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện
đại để đạt tới năng suất lao động xã hội cao. Trên cơ sở quan điểm này, Đảng
ta chỉ rõ, sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay là một cuộc cách mạng
toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội,
nhằm mục tiêu:
Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất
- kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật
chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh [17, tr.80].
23
Như vậy, đặc điểm của quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam là hướng tới
mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính điều này đã quy định sự khác biệt
cả về nội dung, hình thức, quy mô, cách thức tiến hành CNH, HĐH ở nước ta
so với nhiều nước tư bản chủ nghĩa đã tiến hành trước đây. Sự khác biệt này
đã làm nên đặc trưng của CNH, HĐH ở nước ta, đồng thời tự nó cũng đặt ra
những yêu cầu khách quan về số lượng và chất lượng đối với NLCN Việt
Nam - nhân tố quyết định thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Trong mối quan hệ tác động qua lại với quá trình CNH, HĐH, NLCN
luôn giữ vị trí, vai trò quyết định. Mặt khác, NLCN cũng không ngừng biến
đổi, phát triển dưới tác động của quá trình CNH, HĐH đất nước. Phát triển
NLCN Việt Nam là một yêu cầu khách quan trong quá trình CNH, HĐH.
Thứ nhất, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đảng ta đã khẳng định: đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm hướng tới mục
tiêu “tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội” [19, tr.89]. Như vậy, trong quá trình phát triển đất nước theo định hướng
XHCN, CNH, HĐH là phương tiện, phương thức để đạt đến mục tiêu cao cả, đó
là vì cuộc sống hạnh phúc ngày càng tốt đẹp của con người, vì sự giải phóng và
phát triển toàn diện của con người.
Trong sự nghiệp đổi mới và thực hiện CNH, HĐH đất nước, quan niệm
coi con người là “vừa là mục tiêu,vừa là động lực” của sự phát triển kinh tế-
xã hội đã trở thành quan niệm phổ biến. Phát triển NLCN được coi là một bộ
phận quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất
nước. Bởi vì, con người là động lực cơ bản của sự nghiệp CNH, HĐH ở nước
ta hiện nay.
Động lực của sự nghiệp CNH, HĐH được hiểu là những gì thúc đẩy
quá trình này vận động và phát triển. Khi nói con người là động lực của quá
trình CNH, HĐH là chủ yếu nói đến sức mạnh, năng lực sáng tạo to lớn của
24
con người trong việc thực hiện CNH, HĐH và thúc đẩy quá trình này phát
triển.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ không thể thành công nếu thiếu vai
trò động lực của con người. Chính con người với tri thức, trí tuệ, có khả năng
hoạch định chiến lược, đề ra mục tiêu, lựa chọn phương thức tiến hành CNH,
HĐH cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của mình. Con người còn sáng
tạo ra những thành tựu KH-CN hiện đại và ứng dụng chúng vào quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sản xuất vật chất, quản lý kinh tế, xã hội. Trong
quá trình CNH, HĐH, những giải pháp do con người đề ra cho phép điều
chỉnh và giải quyết các mâu thuẫn phát sinh, cũng như dự báo những nguy cơ,
hậu quả có thể xảy ra và khuynh hướng phát triển trong tương lai để từ đó
thúc đẩy quá trình CNH, HĐH tiến lên.
Bài học kinh nghiệm rút ra từ những thành công trong quá trình phát
triển của Nhật Bản và các nước công nghiệp mới (NICs) ở châu Á cho thấy,
người ta không chỉ chú trọng ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công
nghệ mới hoặc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, mà vấn đề then chốt hơn cả là
biết khơi dậy và phát huy năng lực trí tuệ và sức sáng tạo to lớn của con
người. Trong xu thế toàn cầu hóa và mở rộng giao lưu quốc tế như hiện nay,
các quốc gia có thể khắc phục sự yếu kém về kỹ thuật, công nghệ thông qua
con đường chuyển giao, nhập khẩu. Nhưng người ta không thể nhập khẩu hay
vay mượn được khả năng sáng tạo của con người. Vì thế, có thể khẳng định
rằng, năng lực sáng tạo nói riêng và chất lượng NLCN nói chung là yếu tố nội
sinh, là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển xã hội, đưa sự nghiệp CNH,
HĐH đến thành công.
Nếu con người là động lực, là phương tiện để tiến hành CNH, HĐH, thì
những thành quả do CNH, HĐH tạo ra phải nhằm phục vụ cho nhu cầu con
người. Nói cách khác, con người có quyền thụ hưởng những thành quả do
chính tài năng và sức sáng tạo của mình tạo ra. Vì vậy, phát triển NLCN phải
nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi để con người được thụ hưởng những thành
25
quả của mỗi bước CNH, HĐH. Nghĩa là con người có được đời sống vật chất
và tinh thần ngày càng cao, môi trường và điều kiện làm việc thuận lợi, có
điều kiện học tập, lao động sáng tạo và cống hiến tài năng cho sự phát triển
của xã hội và hạnh phúc của con người.
Thứ hai, con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Giữa CNH, HĐH và phát triển NLCN có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ
nhau, trong đó NLCN luôn giữ vị trí, vai trò quyết định trình độ, tốc độ phát
triển của tiến trình CNH, HĐH. Đến lượt mình, NLCN cũng không ngừng
biến đổi và phát triển dưới tác động của quá trình CNH, HĐH. Nói cách khác,
CNH, HĐH đặt ra yêu cầu khách quan đối với việc phát triển NLCN ở trình
độ ngày càng cao, bởi vì con người vừa là sản phẩm của tự nhiên, của xã hội
vừa là chủ thể cải biến tự nhiên và xã hội, đồng thời, là chủ thể của các quá
trình phát triển kinh tế-xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người đã
để lại dấu ấn sâu đậm trong tiến trình phát triển và sáng tạo ra lịch sử của
mình.
Xét dưới gốc độ kinh tế, xã hội hay kỹ thuật, công nghệ, yếu tố con
người vẫn luôn là chủ thể của quá trình CNH, HĐH. Từ thực tế cho thấy, quá
trình CNH, HĐH sẽ không thể thành công nếu thiếu NLCN với số lượng và
chất lượng ngày càng cao, cơ cấu hợp lý. Bởi vì, chính con người là lực lượng
duy nhất có khả năng phát hiện, xác định mục tiêu, nội dung, hình thức, bước
đi và những giải pháp thích hợp để tiến hành CNH, HĐH. Từ thực tiễn của
các nước đi trước cũng như ở nước ta đã cho thấy, quá trình CNH, HĐH diễn
ra với tốc độ nhanh hay chậm, đạt hiệu quả cao hay thấp là do sự quy định của
nhiều yếu tố, trong đó, trước hết và chủ yếu tuỳ thuộc vào năng lực của con
người, vào chất lượng của NLCN. Vì vậy, phát triển NLCN trở thành yếu tố
quan trọng nhất có tính chất quyết định đối với sự thành bại của sự nghiệp
CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
26
Trong khi nhấn mạnh vai trò và sự tác động có tính chất quyết định của
phát triển NLCN đối với tiến trình CNH, HĐH, cần khẳng định rằng CNH,
HĐH cũng tác động trở lại đối với mục tiêu phát triển NLCN.
Thực tế cho thấy, mặc dù nước ta hiện nay không còn là một nước
thuần nông, nhưng có lẽ còn khá xa so với những tiêu chí, đặc trưng của một
xã hội công nghiệp hiện đại. Trong điều kiện ấy con người Việt Nam còn chịu
ảnh hưởng nặng nề bởi tư duy, thói quen của người sản xuất nhỏ tiểu nông. Vì
thế, tiến hành CNH, HĐH là tiền đề, điều kiện vật chất cần thiết để từng bước
cải biến nếp nghĩ, cách làm vốn còn mang nặng dấu ấn tiểu nông, sản xuất
nhỏ của một bộ phận đáng kể trong lực lượng lao động xã hội. Chính sự hình
thành và phát triển của các yếu tố hiện đại trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội, trước hết là trong sản xuất do đẩy mạnh CNH, HĐH, sẽ tạo nên một cuộc
cách mạng đối với lực lượng lao động xã hội. Hơn nữa, trong mỗi giai đoạn
cũng như trong suốt tiến trình, CNH, HĐH vừa tạo ra điều kiện và cơ hội phát
triển, vừa đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với người lao động, trước
hết là ở trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng lao động công nghiệp
hiện đại. Điều này thể hiện ở chỗ, quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH sẽ tạo ra
những điều kiện, cơ hội thuận lợi cho người lao động được tiếp cận với những
dịch vụ xã hội ngày càng đầy đủ và hoàn thiện như giáo dục, đào tạo, chăm sóc
sức khỏe, nâng cao mức sống… đồng thời, CNH, HĐH lại đặt ra những yêu cầu
mới về phương thức lao động, kỹ năng lao động, buộc người lao động phải
thường xuyên, không ngừng học tập, bồi dưỡng cả về trình độ học vấn, chuyên
môn kỹ thuật, nhân cách đạo đức, năng lực sáng tạo và khả năng thích nghi với
những điều kiện lao động mới. Như vậy, CNH, HĐH tạo ra môi trường mà ở đó
con người được phát triển toàn diện, thể hiện năng lực sáng tạo cũng như khẳng
định vai trò quyết định sự phát triển kinh tế-xã hội của mình.
Thứ ba, phát triển NLCN là vấn đề chiến lược hàng đầu của Đảng
và Nhà nước ta nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
27
Trong lịch sử dân tộc, nhất là trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại
xâm, ông cha ta luôn thực hiện phương châm “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch
nhiều”. Sức mạnh của Việt Nam là con người, do đó khâu then chốt là phải
biết phát huy trí tuệ con người. Chính tài năng trí tuệ, sự thông minh và sức
sáng tạo to lớn của con người Việt Nam đã làm nên những thắng lợi vẻ vang
trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, ngày nay là trong sự nghiệp
đổi mới. Vì vậy, ngay khi khởi xướng công cuộc đổi mới, Đảng ta đã nhấn
mạnh tầm quan trọng đặc biệt của nhân tố con người và xác định: “Con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội”. Ngày nay,
để đẩy mạnh CNH, HĐH, đi vào kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế,
Việt Nam càng phải đi lên chủ yếu bằng con đường phát triển NLCN, bằng trí
tuệ của con người Việt Nam.
Trên cơ sở nhận thức rõ vai trò có ý nghĩa quyết định của NLCN và
tiềm năng to lớn của con người Việt Nam, tại các kỳ Đại hội VIII, IX và các
Hội nghị Trung ương, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định: “Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân” [17, tr.85], “Nâng cao dân
trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố
quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [17, tr.21].
Tổng kết thực tiễn 15 năm đổi mới và nghiên cứu lý luận, một lần nữa trong
Nghị quyết Đại hội IX, Đảng ta khẳng định: “Con người và nguồn nhân lực là
nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa” [19, tr.201]. Vì vậy, “Phát triển mạnh nguồn lực con người Việt Nam
với yêu cầu ngày càng cao” [19, tr.165] là vấn đề có tính chiến lược trong
công cuộc đổi mới và là yêu cầu cấp bách của sự nghiệp CNH, HĐH ở nước
ta hiện nay.
Thực hiện vai trò chủ thể, động lực của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH
theo định hướng XHCN, NLCN nước ta phải đủ về số lượng, hợp lý về cơ
cấu, đảm bảo về chất lượng. Muốn vậy, phát triển NLCN phải được xác định
là vấn đề chiến lược và tập trung mọi nguồn lực để đầu tư mạnh vào “vốn con
28
người”. Phải xem đây là bước chuẩn bị quan trọng và là khâu đột phá để thực
hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế-xã hội và thực hiện mục tiêu: dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Như vậy, phát triển NLCN là vấn đề có tính chiến lược, điều đó không
chỉ xác định trên phạm vi cả nước mà phải được nhận thức và chủ động thực
hiện ở từng địa phương, đơn vị cụ thể. Đối với Bến Tre, để xây dựng chiến
lược phát triển NLCN phù hợp, nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH
của tỉnh trong những năm tới, trước hết cần phải xác định rõ đặc điểm của
CNH, HĐH cũng như chỉ ra những yêu cầu cơ bản về phát triển NLCN ở tỉnh
Bến Tre hiện nay.
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH BẾN
TRE VÀ NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON
NGƯỜI BẾN TRE
1.2.1. Đặc điểm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre
Cũng như nhiều địa phương trong vùng, Bến Tre bắt tay xây dựng lại
quê hương từ sau ngày thống nhất đất nước, thực hiện CNH, HĐH theo chủ
trương của Đảng. Ngoài những điểm chung như CNH, HĐH ở các tỉnh trong
vùng, do vị trí địa lý, điều kiện kinh tế-xã hội có nhiều đặc thù, điều đó đã
làm cho nội dung, hình thức, quy mô, tốc độ CNH, HĐH ở Bến Tre có nhiều
điểm khác biệt. Sự khác biệt này đã nói lên đặc điểm CNH, HĐH ở Bến Tre.
Trên thực tế, CNH, HĐH ở Bến Tre tiến hành trong điều kiện nền kinh
tế chậm phát triển, cơ sở hạ tầng yếu kém, sản xuất nông nghiệp lạc hậu, công
nghiệp chưa phát triển, đầu tư nước ngoài còn hạn chế… Vì vậy, CNH, HĐH
ở Bến Tre mà trọng tâm là CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là yêu cầu cấp
bách để giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiep trong
cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ đang phát triển theo hướng CNH,
HĐH. Từ thực tế đó, có thể thấy CNH, HĐH ở Bến Tre có những đặc điểm
sau:
29
Thứ nhất, CNH, HĐH ở Bến Tre tập trung chủ yếu vào CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn
Trước yêu cầu phải rút ngắn thời gian tiến hành CNH, HĐH, phấn đấu
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, Đại hội IX của Đảng chủ trương: "Tăng cường sự chỉ đạo và huy
động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn" [19, tr.86].
Trên cơ sở vận dụng quan điểm, mục tiêu, nội dung Nghị quyết của
Đảng, Tỉnh ủy Bến Tre đã đề ra Chương trình hành động nhằm xác định
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn ở Bến Tre thời kỳ 2001-2010. Trong đó chỉ rõ nhiệm vụ CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre là:
Xây dựng và phát triển một nền nông nghiệp sản xuất hàng
hóa, hiệu quả, bền vững có sức cạnh tranh trên cơ sở ứng dụng các
thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến vào sản xuất; xây dựng
nông thôn giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh
tế hợp lý, lực lượng sản xuất năng động, quan hệ sản xuất phù hợp,
kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội phát triển và an ninh nông thôn được
bảo đảm [53, tr.2].
Tỉnh Bến Tre là vùng đất hẹp, người đông, sản xuất nông nghiệp là chủ
yếu, diện tích đất nông nghiệp chiếm 70%, do đó việc khai thác tiềm năng đất
đai và lao động nông thôn là vấn đề có tính chiến lược trong quá trình phát
triển. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là con đường ngắn nhất để “đưa Bến
Tre đi lên từ kinh tế nông nghiệp toàn diện thành một trong những tỉnh sản xuất
hàng hóa có tỷ trọng cao trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long” [22, tr.45].
Thứ hai, so với các tỉnh trong khu vực và cả nước, CNH, HĐH ở Bến Tre
diễn ra với tốc độ chậm, quy mô nhỏ bé, công nghệ, trang thiết bị còn lạc hậu
30
Năm 1996, cùng với cả nước, theo chủ trương của Đảng, Bến Tre thực
hiện CNH, HĐH trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều khó khăn. Cùng với
chủ trương coi trọng phát triển nông nghiệp toàn diện, lãnh đạo tỉnh luôn xác
định công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp là lĩnh vực phải được tập trung đầu tư
để Bến Tre vươn lên sánh vai với các tỉnh bạn trong khu vực. Sau hơn 7 năm
thực hiện Nghị quyết 03 của Tỉnh ủy Bến Tre “Về phát triển công nghiệp -
tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh 1996-2000-2010”, đến nay, công nghiệp
- tiểu thủ công nghiệp ở Bến Tre có bước phát triển đáng kể, góp phần quan
trọng đưa nền kinh tế của tỉnh phát trien, tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Từ chỗ chưa có gì, đến nay (2004) toàn tỉnh
có 14 doanh nghiệp Nhà nước, 4 công ty đầu tư nước ngoài, 39 hợp tác xã, 94
doanh nghiệp tư nhân và 7182 hộ sản xuất cá thể, giải quyết việc làm cho trên
31.000 lao động [13]. Năng lực chế biến thủy, hải sản hiện tăng gấp 3 lần so
với năm 1996 với một hệ thống các nhà máy chế biến thủy sản trang thiết bị
khá hiện đại. Công nghiệp ở Bến Tre phát triển đã tác động tích cực đến
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, nhiều làng nghề được sắp xếp, củng cố
và không ngừng phát triển; đã cơ giới hóa 90% khâu làm đất, 80% khâu tưới
tiêu trong sản xuất nông nghiệp. Việc sử dụng máy móc thay thế lao động
chân tay trong kinh tế vườn khá phổ biến. Đến năm 2000, 160/160 xã,
phường trong tỉnh đều có lưới điện quốc gia về đến trung tâm xã, nâng số hộ
sử dụng điện lên 81% vào cuối năm 2004 [54, tr.4].
Tuy nhiên, so với mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại, thì CNH, HĐH ở Bến tre cần phải đẩy
nhanh với tốc độ và quy mô rộng lớn hơn. Hiện nay, tỷ trọng công nghiệp
trong GDP toàn tỉnh còn nhỏ và chuyển biến chậm, chưa đủ sức đóng vai trò
động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển và chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế.
Năm 1996, tỷ trọng công nghiệp chiếm 7,66% trong GDP; năm 2000 là 12,09%
và năm 2004 là 15,65 % [13]. Ngoài ra, do kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển
công nghiệp đầu tư chưa đồng bộ, nguồn nhân lực yếu và thiếu... chưa đáp ứng
31
yêu cầu các nhà đầu tư trong và ngoài nước, do đó, nhiều dự án khu, cụm công
nghiệp đã được xác định nhưng chỉ dừng lại ở quy hoạch.
Thực trạng trên phần nào cho thấy CNH, HĐH ở Bến Tre hiện còn nhỏ
bé và tốc độ khá chậm, vì vậy đang rất cần sự tác động tích cực của nhiều
nhân tố nhằm tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy quá trình này diễn ra nhanh
hơn. Một trong những nhân tố quyết định đó là Bến Tre cần gấp rút chuẩn bị
NLCN, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao có khả năng làm cuộc “bứt
phá” đưa Bến Tre phát triển nhanh và bền vững hơn, tiến tới thực hiện thắng
lợi mục tiêu CNH, HĐH ở tỉnh.
Thứ ba, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở gắn bó chặt chẽ
giữa nông nghiệp với công nghiệp, phát triển mạnh công nghiệp chế biến
Xây dựng và phát triển một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa hiệu
quả, bền vững, có sức cạnh tranh là một nội dung và cũng là nhiệm vụ quan
trọng của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre. Nông nghiệp có
một vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế, hiện chiếm trên 60% trong
tổng sản phẩm toàn tỉnh. Thế nhưng, tự bản thân nông nghiệp cũng không thể
phát triển nhanh được nếu thiếu sự tác động tích cực của công nghiệp. Địa vị
của nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế tùy thuộc vào trình độ phát triển và tốc
độ CNH, HĐH. Với tư cách là một bộ phận hợp thành trong cơ cấu kinh tế
thống nhất, sự phát triển của nông nghiệp có mối quan hệ tương hỗ với sự
phát triển của công nghiệp và dịch vụ. Trong mối quan hệ đó, công nghiệp hỗ
trợ đắc lực và phục vụ cho nông nghiệp phát triển theo hướng CNH, HĐH.
Đảng ta đã chỉ rõ: “Phát triển công nghiệp, dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ
đắc lực và phục vụ có hiệu quả cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn” [20, tr.94].
Trong những năm gần đây, Bến Tre đã chọn và đầu tư đúng hướng cho
lĩnh vực công nghiệp chế biến, nâng cao năng lực chế biến hàng nông sản,
đưa công nghiệp chế biến dừa và thủy sản lên trình độ tiên tiến. Việc phát
triển công nghiệp chế biến và các hoạt động dịch vụ trên địa bàn nông thôn đã
32
tạo điều kiện cho trồng trọt, đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản đạt năng suất
chất lượng cao và phát triển mạnh, tăng nhanh sản phẩm và thu nhập cho nền
kinh tế. Trạng thái khép kín, trì trệ, lạc hậu vốn có của nền nông nghiệp nhỏ
từng bước bị phá vỡ. Hơn nữa, đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến,
ngoài việc tạo ra giá trị gia tăng cho nông sản hàng hóa, còn tạo thêm nhiều
việc làm tại chỗ và tăng thu nhập cho dân cư nông thôn. Song song với quá
trình đó, các hoạt động dịch vụ ở nông thôn, bao gồm cả các hoạt động dịch
vụ cho sản xuất và dịch vụ đời sống cũng phát triển, tạo điều kiện đáp ứng tốt
yêu cầu phát triển kinh tế hàng hóa, đồng thời là điều kiện để từng bước giảm
dần tỷ trọng sản xuất nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng sản xuất công nghiệp và
dịch vụ ở Bến Tre.
Như vậy, sự gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau giữa nông nghiệp với
công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến trong quá trình phát triển là
điều kiện bảo đảm tính ổn định và phát triển bền vững của nền kinh tế nói
chung, cũng như kinh tế nông nghiệp nói riêng, đặc biệt là phát triển mạnh
một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa như ở Bến Tre hiện nay.
Thứ tư, phát huy truyền thống cách mạng của quê hương, người dân Bến
Tre tiến hành CNH, HĐH trong khí thế của phong trào “Đồng khởi mới”
Tháng 1 năm 1960, phong trào Đồng khởi của quân và dân Bến tre nổ
ra và nhanh chóng trở thành phong trào đấu tranh cách mạng lan rộng khắp
các tỉnh Nam Bộ. “Đồng khởi” đã trở thành dấu ấn lịch sử, tạo mốc quan
trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, được nhân dân
cả nước khâm phục. Chiến tranh đã đi qua, phát huy phong trào Đồng khởi
“huyền thoại” với ý nghĩa và tinh thần mới, cuối năm 1999, Tỉnh ủy Bến Tre
đã ra Nghị quyết 08 phát động phong trào "Đồng khởi mới" đẩy mạnh công
cuộc CNH, HĐH, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội
của tỉnh.
Như luồng gió mới, phong trào "Đồng khởi mới" đã khơi dậy truyền
thống Đồng khởi năm xưa, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, vươn lên
33
không cam chịu đói nghèo lạc hậu, người dân Bến tre đã làm bật dậy những
tiềm năng của một miền quê ven biển còn nghèo khó này.
Kết quả từ phong trào Đồng khởi mới đã làm thay đổi bộ mặt nông
thôn Bến Tre với hơn 1.500 km (chiếm 46%) đường giao thông nông thôn
được nhựa hóa, bê tông hóa với phương thức “Nhà nước và nhân dân cùng
làm”. Xây dựng mới 1.240 cây cầu (trong tổng số 2.495 cầu toàn tỉnh) tạo
điều kiện giao thông thuận lợi trên địa bàn của tỉnh. Tỉnh đã hình thành được
các vùng kinh tế trọng điểm gắn với điều kiện tự nhiên và tiềm năng từng
vùng như đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thủy sản và vườn cây ăn quả. Các
huyện Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú tập trung phát triển nuôi trồng thủy sản,
đánh bắt xa bờ và chế biến thủy sản xuất khẩu; các huyện Mỏ Cày, Châu
Thành và Chợ Lách nổi trội với những vườn chuyên cây ăn quả chất lượng
cao và du lịch sinh thái, làng nghề thủ công, mỹ nghệ. Năm 2004, cũng là
năm đầu tiên tỉnh Bến Tre đạt tỷ lệ tăng trưởng vượt hai con số: 10,08%, xuất
khẩu đạt 80 triệu đôla (tăng 44,9% so với năm 2003), nuôi hơn 42.000 ha thủy
sản, giảm tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 5% (theo chuẩn cũ).
Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, những thành tựu đó chính là kết
quả của tinh thần cách mạng tiến công, ý chí vươn lên của người dân “quê
hương Đồng khởi” quyết tâm tiến kịp và hội nhập với xu thế phát triển chung
của khu vực và cả nước trong sự nghiệp CNH, HĐH.
Tóm lại, công cuộc CNH, HĐH ở một tỉnh nông nghiệp giàu tiềm năng
nhưng cũng lắm khó khăn, dẫu còn chậm phát triển, nhưng đang trên đà tăng
trưởng kinh tế như hiện nay, cùng với việc chuẩn bị một nguồn nhân lực đủ
về số lượng, mạnh về chất lượng, Bến Tre sẽ tiến nhanh hơn trong sự nghiệp
CNH, HĐH, xây dựng Bến Tre văn minh, giàu mạnh hơn.
1.2.2. Những yêu cầu cơ bản về phát triển nguồn lực con người
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tự bản thân nó luôn đặt ra những đòi hỏi
khách quan về số lượng, cơ cấu và chất lượng NLCN với những năng lực và
34
phẩm chất cần thiết. Sự nghiệp CNH, HĐH ở Bến Tre trong điều kiện còn
nhiều khó khăn, trình độ công nghệ lạc hậu, quy mô, tốc độ nhỏ bé, chậm
chạp, vì thế, phát triển NLCN ở Bến Tre càng là yêu cầu cấp thiết, nhằm tạo
động lực mạnh mẽ thúc đẩy nhanh quá trình này. Quá trình phát triển NLCN
phục vụ CNH, HĐH ở một tỉnh như Bến Tre cần phải đáp ứng những yêu cầu
cơ bản sau:
Thứ nhất, phát triển mạnh NLCN của Bến Tre cả về số lượng và
chất lượng, đủ sức đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH với quy mô, tốc độ
nhanh và rộng lớn hơn
Nguồn lực con người Bến Tre chính là nhân tố quyết định thắng lợi sự
nghiệp CNH, HĐH ở Bến Tre. Nhưng nếu chỉ với một lực lượng lao động
đông, đầy lòng nhiệt tình và ý chí cách mạng thì chưa đủ để người Bến Tre
thành công trong công cuộc CNH, HĐH. Trước yêu cầu ngày càng cao của
nhiệm vụ CNH, HĐH, đòi hỏi Bến Tre phải gấp rút đào tạo ngay lực lượng lao
động có tri thức khoa học, nắm vững chuyên môn kỹ thuật, năng động sáng tạo,
có phẩm chất đạo đức tốt... Bến Tre có nguồn lao động khá dồi dào (trên 60%
dân số), nhưng nguồn nhân lực - với tư cách là động lực của CNH, HĐH, xét ở
số lượng, cơ cấu nghề nghiệp và cả chất lượng đều chưa đáp ứng được yêu cầu
của quá trình này. Tình trạng thiếu và yếu trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán
bộ quản lý kinh tế, sản xuất kinh doanh và nhất là cán bộ KH-CN là một thực
tế. Đây lại là lực lượng nòng cốt tham gia vào quá trình hoạch định chiến lược,
đề ra mục tiêu, phương hướng, giải pháp cũng như tổ chức, triển khai quá trình
CNH, HĐH. Có thể nói, CNH, HĐH diễn ra với tốc độ nhanh hay chậm, hiệu
quả cao hay thấp... là do sự quy định của nhiều yếu tố, trong đó trước hết tùy
thuộc vào năng lực của đội ngũ cán bộ này. Trong tổng số lực lượng lao động
của toàn tỉnh, đến nay chỉ có 22,12% lao động qua đào tạo. Trong đó, lực lượng
lao động có trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật cao phần lớn tập trung ở các
ngành y tế, GD-ĐT, quản lý nhà nước. Trong các ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh
35
như nông - ngư nghiệp, đội ngũ lao động có trình độ còn rất hạn chế, đa số là
lao động phổ thông, chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật.
Trong những năm tới, tỉnh Bến Tre phấn đấu: “Đẩy mạnh tốc độ phát
triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững, tạo sự chuyển động mới mạnh mẽ trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [23, tr.108]. Để đạt được mục tiêu đề
ra, vấn đề cấp bách là phải nhanh chóng đào tạo nguồn nhân lực mạnh cả về số
lượng và chất lượng, hợp lý về cơ cấu đủ khả năng đưa Bến Tre vượt ra khỏi tình
trạng "tụt hậu", vươn lên sánh vai cùng các tỉnh bạn, góp phần cùng cả nước
thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH.
Thứ hai, yêu cầu thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với
chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH
Trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm (2001-2010), Đảng
ta chỉ rõ: “Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [19,
tr.92]. Hiện nay, nước ta đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH, HĐH. Đó là quá trình tăng dần tỷ trọng của các ngành công
nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu nền
kinh tế.
Bến Tre hiện đang phát triển toàn diện kinh tế-xã hội theo cơ cấu nông
- công nghiệp - dịch vụ, trong đó kinh tế thủy sản và kinh tế vườn là hai
ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Trong những năm gần đây, mặc dù còn
chậm, song, cơ cấu kinh tế của Bến Tre đang dần chuyển dịch theo hướng
CNH, HĐH. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một tỉnh có cơ cấu nông - công
nghiệp - dịch vụ theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, thực
chất là quá trình chuyển từ nền kinh tế truyền thống, trình độ thấp dựa vào
nông nghiệp là chủ yếu, sang nền kinh tế hiện đại, trình độ cao. Sự chuyển
dịch này đã tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu lao động và tạo ra mối
quan hệ tác động giữa chúng với nhau. Chuyển dịch cơ cấu lao động là quá trình
giảm dần số lượng lao động nông nghiệp, tăng số lượng lao động công nghiệp và
36
dịch vụ, theo hướng nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng
lao động của lực lượng lao động. Nói cách khác, đó là quá trình phân công lại
lao động trong toàn xã hội phù hợp với cơ cấu kinh tế đang chuyển đổi theo
hướng CNH, HĐH. Thực tế đó đặt ra yêu cầu phát triển NLCN ở Bến Tre phải
hướng tới đào tạo lực lượng lao động lành nghề, nắm vững chuyên môn kỹ
thuật, đồng bộ về cơ cấu, thích ứng với nghề nghiệp, phục vụ tốt yêu cầu phân
công lại lao động trong toàn tỉnh.
Bến Tre là tỉnh có ngành công nghiệp chưa phát triển, tốc độ đô thị hóa
chậm, do đó không thể hy vọng giải quyết hết lao động trong nông nghiệp bằng
cách chuyển sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Vấn đề này cũng đặt ra yêu
cầu trong phát triển NLCN của tỉnh cần chú trọng đào tạo ngành nghề phù hợp,
nhằm cung cấp lao động cho các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ ngay tại địa bàn nông thôn. Ngoài ra, Bến Tre còn là vùng đất giàu
ngành nghề truyền thống, đặc biệt những nghề chế biến các sản phẩm từ dừa và
hàng thủ công mỹ nghệ. Do đó, khôi phục và phát triển các làng nghề truyền
thống, kết hợp với việc "cấy ghép" nghề mới trong nông thôn là một hướng đi
quan trọng và là cơ sở để đi vào CNH, HĐH. Từ đây mở ra hướng mới cho việc
phát triển NLCN trong lĩnh vực mở rộng hình thức truyền nghề, bồi dưỡng, kèm
cặp nghề... nhằm nâng cao tay nghề và giải quyết việc làm cho lao động ở nông
thôn trong các làng nghề.
Nằm trong khu vực ĐBSCL, Bến Tre có thế mạnh về kinh tế thuỷ sản
và kinh tế vườn. Những năm gần dây, phong trào nuôi thuỷ sản và cải tạo
vườn tạp để trồng cây ăn quả ở Bến Tre phát triển mạnh, hình thành những
vùng kinh tế trọng điểm về đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thuỷ hải sản và
vườn cây ăn quả tập trung chất lượng cao. Hiện nay, thuỷ sản đang là mặt
hàng xuất khẩu chủ lực, đem lại nguồn ngoại tệ lớn cho tỉnh và góp phần xoá
đói giảm nghèo cho một bộ phận đông đảo dân cư các huyện vùng biển. Kinh
tế vườn với mô hình trồng cây ăn quả và sản xuất cây giống đem lại hiệu quả
kinh tế cao cho các nhà vườn. Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm môi trường do
37
mở rộng diện tích nuôi thuỷ sản, nhất là nuôi tôm công nghiệp đã làm cho
ngành này trở nên kém bền vững do phụ thuộc nhiều vào điều kiện sinh thái.
Các mặt hàng trái cây của Bến Tre mặc dù được thị trường trong nước ưa
chuộng, nhưng do dư lượng thuốc bảo vệ thực vật cao và chất lượng trái cây
chưa cao làm hạn chế năng lực cạnh tranh, nên chưa tìm được chỗ đứng vững
chắc trên thị trường các nước.
Để tiếp tục khẳng định là những ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh và
phát triển bền vững, việc nâng cao chất lượng hàng nông, thuỷ sản nhằm tăng
năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế là nhu cầu cấp thiết
đặt ra. Đáp ứng nhu cầu này, ngoài việc đầu tư công nghệ mới, vấn đề quan
trọng nhất trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực của tỉnh là nhanh chóng
đào tạo một đội ngũ chuyên gia KH-CN trong các lĩnh vực công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học, công nghệ chế biến đủ khả năng nắm vững, ứng dụng
và sáng tạo những thành tựu khoa học tiên tiến để cải tiến kỹ thuật, nâng cao
năng suất, chất lượng, bảo đảm nông sản "sạch" đáp ứng yêu cầu thị trường
trong và ngoài nước. Mặt khác, phải nâng cao trình độ, kiến thức cho người
sản xuất để họ nắm vững kỹ thuật nuôi, trồng, bảo vệ, chăm sóc cây trồng vật
nuôi, nhằm bảo đảm qui trình nuôi thuỷ sản sạch, trái cây sạch có giá trị xuất
khẩu cao.
Tóm lại, phát triển NLCN cho CNH, HĐH một mặt phải đáp ứng yêu
cầu chuyển đổi cơ cấu lao động, mặt khác phải thúc đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Điều đó đòi hỏi trong chiến
lược phát triển NLCN cần phải có quy hoạch trong đào tạo, định hướng ngành,
nghề phù hợp với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, trong
đó, giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực nói chung, đào tạo lao đong kỹ thuật, công
nhân lành nghề nói riêng phải đi trước một bước.
Thứ ba, quá trình CNH, HĐH đặt ra yêu cầu phải tập trung phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao - bộ phận quan trọng nhất, tinh túy
nhất trong NLCN của tỉnh Bến Tre
38
Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một lực lượng lao
động có học vấn, có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, có kỹ năng lao động và
nhất là có khả năng thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ
sản xuất. Có thể hiểu nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm: đội ngũ công
nhân kỹ thuật lành nghề; những nông dân được trang bị tri thức khoa học - kỹ
thuật và có khả năng ứng dụng những tri thức đó vào sản xuất nông nghiệp,
giàu kinh nghiệm trong sản xuất; nòng cốt là đội ngũ trí thức khoa học và công
nghệ, quản lý kinh tế-xã hội, văn hóa - văn nghệ...
Hiện nay, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua con
đường phát triển GD-ĐT, khoa học và công nghệ được xem là khâu then chốt
để đưa nước ta vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, đạt mục
tiêu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Điều này được khẳng định bởi vai trò to lớn của nguồn nhân lực này đối với
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trước yêu cầu phải “rút ngắn thời gian” tiến
hành CNH, HĐH so với các nước đi trước, nguồn nhân lực chất lượng cao ở
nước ta có vai trò xung kích đi đầu trong việc tiếp nhận, chuyển giao công
nghệ tiên tiến; lựa chọn hướng đi cho những lĩnh vực KH-CN then chốt; đặc
biệt họ là hạt nhân trong việc ứng dụng các thành tựu KH-CN hiện đại vào
các lĩnh vực kinh tế-xã hội... Có thể nói, nguồn nhân lực chất lượng cao ở
nước ta là lực lượng trực tiếp thực hiện “đi tắt” “đón đầu” trong quá trình CNH,
HĐH, rút ngắn dần khoảng cách tụt hậu của nước ta so với các nước tiên tiến.
Hơn nữa, chính nguồn nhân lực tinh hoa này góp phần cực kỳ quan trọng vào
quá trình đào tạo, bồi dưỡng, thu hút các tài năng khoa học trẻ, tạo ra lực lượng
chuyên gia, các nhà khoa học giỏi, bổ sung vào đội ngũ kế cận, cung cấp cho yêu
cầu CNH, HĐH.
Như các tỉnh ở vùng ĐBSCL, Bến Tre tiến hành CNH, HĐH ở một vùng
đất giàu tiềm năng kinh tế, nhưng vẫn còn nghèo và chậm phát triển. Điều đó có
nhiều nguyên nhân, mà một trong những nguyên nhân chính là thiếu một nguồn
nhân lực chất lượng cao đủ sức làm bật dậy những tiềm năng to lớn để đưa vào
phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Vì vậy, Bến Tre đang rất cần tài năng và trí tuệ
39
của những cán bộ KH-CN giỏi, cán bộ lãnh đạo, quản lý tài năng và một lực
lượng lao động có trình độ lành nghề. Nhu cầu đó đang đặt ra cho chiến lược
phát triển NLCN của tỉnh phải chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao và coi đó là chính sách ưu tiên hàng đầu, bởi chính nguồn nhân lực này sẽ
tạo ra động lực to lớn thúc đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH ở Bến Tre trong
những năm tới.
Như vậy, thực tiễn đang đặt ra nhu cầu cấp bách đối với Bến Tre trong
việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp với điều
kiện của tỉnh, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và đẩy nhanh CNH,
HĐH lên quy mô và tốc độ mới cao hơn.
Thứ tư, phát triển NLCN ở Bến Tre trên nền tảng kế thừa, phát huy
truyền thống văn hóa, giá trị đạo đức tốt đẹp của con người vùng ĐBSCL
nói chung, người dân Bến Tre nói riêng
Đảng ta khẳng định: văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy
sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội. Với tư cách là động lực, văn hóa là yếu tố
tinh thần tạo nên chất lượng nguồn nhân lực. Sự thành công của Nhật Bản là
kết quả của sự kết hợp giữa văn hóa truyền thống dân tộc với việc khơi dậy và
phát huy có hiệu quả NLCN.
Ở nước ta, văn hóa truyền thống dân tộc có sức sống mãnh liệt, nuôi
dưỡng ý chí và sức mạnh con người Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ
nước. Ngày nay, coi trọng, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, gắn với tinh hoa
văn hóa nhân loại, đó chính là môi trường văn hóa lành mạnh của quá trình
CNH, HĐH đất nước. Môi trường văn hóa là cơ sở phát triển con người, phát
triển NLCN đúng hướng, hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị
trường đối với NLCN.
Cũng như con người vùng ĐBSCL, con người Bến Tre vốn có truyền
thống quý báu, từng được thử thách trong lịch sử khai phá và chiến đấu chống
ngoại xâm. Lòng yêu nước, tinh thần bất khuất kiên cường, không khuất phục
trước mọi kẻ thù đã được con người Bến Tre chứng thực qua những chiến công
oanh liệt trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc. Sự khắc nghiệt
40
của điều kiện tự nhiên trong những ngày đầu đi khai phá vùng đất mới cùng với
những gian khổ trong chiến tranh ác liệt đã hình thành trong mỗi con người nơi
đây tính sáng tạo, ý chí tự lực tự cường và tinh thần đoàn kết gắn bó, tương trợ
nhau để vượt qua muôn vàn thử thách. Một đặc tính văn hóa nổi trội của con
người vùng đất này là tinh thần tự chủ, phong cách giao lưu cởi mở, nhạy cảm
với cái mới và không bị gò bó trong những khuôn mẫu giáo điều khô cứng. Có
thể nói, ngoài kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của con người
Việt Nam, con người Bến Tre nói riêng, con người vùng ĐBSCL nói chung, còn
có những nét văn hóa truyền thống và đức tính tốt đẹp được hình thành từ chính
điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử của vùng đất đồng bằng sông nước
phương Nam này.
Bước vào thời kỳ CNH, HĐH, sức mạnh NLCN Bến tre không chỉ ở
lực lượng lao động dồi dào, mà còn ở sức mạnh tinh thần, sức mạnh của
truyền thống văn hóa được hình thành và củng cố qua chiều dài lịch sử. Sự
nghiệp CNH, HĐH đang rất cần ở con người Bến Tre tinh thần dũng cảm,
dám nghĩ dám làm, ý chí quyết tâm vượt khó vươn lên nắm lấy những cơ hội
để đưa nền kinh tế vượt qua nguy cơ tụt hậu. Trong điều kiện địa lý, kinh tế-
xã hội không thuận lợi, đòi hỏi con người Bến Tre càng phải năng động sáng
tạo, tìm tòi ra những thế mạnh, cách đi và mô hình phù hợp với hoàn cảnh đặc
thù của địa phương. Thực tế đó đã đặt ra yêu cầu khách quan phải biết kế thừa
và phát huy những giá trị truyền thống quý báu của con người Bến Tre trong
quá trình phát triển NLCN của tỉnh. Phát triển NLCN Bến Tre ngày nay
không chỉ là gia tăng về số lượng, đồng bộ về cơ cấu lực lượng lao động, mà
trong chất lượng NLCN phải bao hàm cả việc khơi dậy, vun bồi và phát triển
những giá trị truyền thống tốt đẹp trong mỗi con người và cả cộng đồng người
Bến Tre cho sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội và CNH, HĐH tỉnh nhà.
NLCN Bến Tre hôm nay chỉ có thể và phải phát triển trên nền tảng truyền
thống quý báu ấy, chính đó là nguồn sức mạnh tinh thần vượt lên mọi khó
khăn, thử thách, thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH.
41
Tóm lại, yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH, HĐH đòi hỏi phải
phát triển NLCN Bến Tre mạnh về số lượng, cao về chất lượng, đồng bộ về
cơ cấu và trên nền tảng kế thừa, phát triển những giá trị văn hóa truyền thống
tốt đẹp của con người vùng ĐBSCL, nhằm tạo ra nguồn nội lực mạnh mẽ thúc
đẩy Bến Tre vươn lên sánh vai cùng các tỉnh bạn trong khu vực, hội nhập
cùng cả nước trong sự nghiệp CNH, HĐH.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Ở nước ta, phát triển NLCN là tất yếu nhằm thực hiện thắng lợi sự
nghiệp CNH, HĐH. Sức mạnh của NLCN không chỉ ở số lượng đông mà chủ
yếu là ở chất lượng cao, đó là sự kết hợp hài hòa giữa thể lực, trí lực với
những phẩm chất tốt đẹp của con người. Việc phân tích cấu trúc NLCN và
mối quan hệ của nó với các nguồn lực khác đã khẳng định vai trò to lớn, có ý
nghĩa quyết định của NLCN đối với quá trình phát triển kinh tế-xã hội, đó chính
là nguồn nội lực mạnh mẽ thúc đẩy xã hội phát triển.
Phát triển NLCN trong quá trình CNH, HĐH ở Bến Tre là yêu cầu khách
quan. Tuy nhiên, quá trình phát triển này vừa phải đáp ứng những đòi hỏi của sự
nghiệp CNH, HĐH, vừa phải bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế và yêu cầu
phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Sự nghiệp CNH, HĐH ở Bến Tre đang tiến
hành với nhiều khó khăn, thách thức, đang rất cần tài năng, trí tuệ và sức lực của
con người Bến Tre, trước hết là lực lượng lao động - lực lượng đã và đang đóng
góp to lớn vào sự phát triển của tỉnh. Có thể nói, sự nghiệp CNH, HĐH ở Bến
Tre tiến hành nhanh hay chậm, thu được thắng lợi hay không, phần lớn tuỳ thuộc
vào sức mạnh NLCN. Điều đó đã đặt ra yêu cầu cần nhanh chóng phát triển
mạnh NLCN Bến Tre về số lượng và chất lượng, chú trọng phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, coi đó là khâu đột phá đưa Bến Tre vượt qua nguy cơ
tụt hậu hiện nay.
42
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở TỈNH BẾN TRE VÀ NHỮNG XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NÓ
Phát triển NLCN là yêu cầu cấp bách trong quá trình CNH, HĐH ở tỉnh
Bến Tre. Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế -xã hội, truyền
thống lịch sử văn hóa, con người Bến Tre… có những nét đặc thù riêng nên
đã ảnh hưởng đến quy mô, tốc độ cũng như xu hướng vận động của quá trình
phát triển NLCN của tỉnh. Điều đó đòi hỏi các cấp, các ngành cần nhận thức
rõ, để xây dựng kế hoạch, chính sách phát triển NLCN phù hợp, nhằm tạo ra
lực lượng lao động mạnh về số lượng, cao về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu
đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH ở Bến Tre trong thời gian
tới.
2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI, VĂN HÓA
VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON
NGƯỜI CỦA TỈNH BẾN TRE HIỆN NAY
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và những đặc điểm kinh tế-xã hội, lịch sử
văn hóa của tỉnh Bến Tre
Điều kiện tự nhiên
Bến Tre là một tỉnh đồng bằng cuối nguồn sông Cửu Long, nằm về
phía Đông Nam của khu vực châu thổ ĐBSCL. Địa hình Bến Tre là vùng đất
bằng phẳng, do phù sa của bốn nhánh sông Cửu Long (Tiền Giang, Ba Lai,
Hàm Luông và sông Cổ Chiên) bồi tụ qua nhiều thế kỷ, hình thành ba dải cù
lao: An Hóa, Bảo và Minh. Nhìn trên bản đồ, tỉnh Bến Tre có hình rẻ quạt mà
cán quạt nằm về phía thượng nguồn, các nhánh sông lớn giống như những nan
quạt xoè rộng ra phía biển Đông bao bọc ba dải đất cù lao. Phía Bắc của Bến
Tre giáp tỉnh Tiền Giang, có ranh giới chung là sông Tiền, phía Tây và phía
Nam giáp tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh, có ranh giới chung là sông Cổ Chiên,
phía Đông giáp biển Đông với chiều dài 65km bờ biển. Đến nay, Bến Tre là
43
tỉnh duy nhất ở ĐBSCL còn bị tách biệt với cả nước bởi những con sông lớn,
khiến cho Bến Tre giống như một ốc đảo. Chính điều kiện tự nhiên này là một
trong những nguyên nhân làm cản trở sự phát triển của Bến Tre. Do vậy, khi
nào cầu Rạch Miễu được hoàn thành mới có thể hạn chế được phần nào sự tách biệt này. Diện tích tự nhiên của Bến Tre là 2.315km2, vùng lãnh hải rộng khoảng 20.000 km2, dân số 1.345.637 người (tính đến cuối năm 2004). Tỉnh
Bến Tre có 1 thị xã, 7 huyện và 160 xã, phường, thị trấn. Thị xã Bến Tre là
trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa và khoa học kỹ thuật của tỉnh, cách
Thành phố Hồ Chí Minh 87km về phía Tây. Là một tỉnh có diện tích không lớn
nhưng đông dân, lại bị cách biệt về mặt địa lý, do đó, lao động và việc làm đã và
đang là những vấn đề bức xúc đặt ra trong quá trình phát triển của Bến Tre.
Thành phần dân tộc ở Bến Tre chủ yếu là người Kinh, dân tộc thiểu số
rất ít và hầu như hòa nhập với người Kinh. Trong suốt chiều dài lịch sử, các
dân tộc anh em sinh sống nơi đây đã đoàn kết chiến đấu và chiến thắng ngoại
xâm, cùng nhau xây dựng lại quê hương.
Bến Tre là tỉnh có hệ thống sông ngòi chằng chịt vào loại bậc nhất khu
vực ĐBSCL, với tổng chiều dài hơn 6.000 km [43, tr.1366], bao bọc và chia
cắt làm cho Bến Tre thành vùng đất cù lao bốn bề sông biển. Bến Tre có địa
hình thấp, lại có nhiều sông và kênh, rạch, do đó nước sông bị nhiễm mặn
nghiêm trọng vào mùa khô. Trong những năm gần đây, nước mặn xâm nhập
sâu, bao phủ phần lớn diện tích của tỉnh, gây nên tình trạng thiếu nước ngọt
gay gắt. Đây là vấn đề bức xúc, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của
nhân dân trong tỉnh.
Về vị trí địa lý kinh tế
Trong tương lai, tỉnh Bến Tre có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh
tế-xã hội do nằm trong vòng cung các địa bàn và trung tâm phát triển: Cần
Thơ, Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu và địa bàn kinh tế trọng
điểm phía Nam. Tuy có khó khăn về đường bộ, song đường thuỷ nối Bến Tre
với các trung tâm này khá thuận lợi. Hiện nay, nhiều tuyến đường bộ được
44
xây dựng nối Bến Tre với các tỉnh lân cận, một số cảng trung chuyển đang
được đầu tư mới và nâng cấp theo hướng hiện đại. Đặc biệt, cầu Rạch Miễu
bắc qua sông Tiền sắp hoàn thành, phà Cổ Chiên đang xây dựng, cầu Hàm
Luông đang có kế hoạch thi công sẽ nối liền các dải cù lao của Bến Tre với
các tỉnh lân cận. Vài năm tới đây, sự giao lưu thông suốt về đường bộ và
đường thuỷ giữa Bến Tre và các tỉnh trong vùng sẽ tạo cho Bến Tre lợi thế về
vị trí giao thông quan trọng từ ĐBSCL đi Đông Nam bộ và ngược lại.
Tài nguyên thiên nhiên của Bến Tre rất đa dạng và phong phú (đất đai,
sông nước, các hệ sinh thái cửa sông, ven biển…) thuận lợi cho việc phát triển
một nền nông nghiệp toàn diện, đặc biệt là việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản
và đang là tỉnh trọng điểm cây ăn quả của ĐBSCL. Đó là những lợi thế tuyệt
đối không chỉ trước mắt mà còn có tính lâu dài, cung cấp sản phẩm cho thị
trường trong nước và xuất khẩu, tạo nền tảng phát triển các ngành công
nghiệp chế biến và dịch vụ đi kèm.
Bên cạnh đó, điều kiện tự nhiên tạo cho Bến Tre cảnh sắc thiên nhiên
đặc trưng của vùng Nam Bộ với nhiều khu di tích lịch sử, văn hóa, thích hợp
cho việc phát triển các loại hình du lịch sinh thái, du lịch miệt vườn và đang
là lĩnh vực có nhiều triển vọng cho phát triển ngành du lịch nếu được tỉnh tập
trung đầu tư.
Điều kiện tự nhiên như trên, một mặt thích hợp cho sản xuất nông
nghiệp, lưu thông thuận tiện bằng đường thuỷ, nhưng mặt khác, cũng tạo cho
Bến Tre không ít khó khăn trong sản xuất nông nghiệp và đời sống, do diện
tích đất nhiễm mặn lớn vào mùa khô. Mặt khác, do địa thế cù lao, cách trở lưu
thông bằng đường bộ, nên Bến Tre khó thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước.
Vì thế, để đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH, hội nhập với các tỉnh trong vùng
và cả nước, tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, Bến Tre phải thật
sự chú trọng phát triển NLCN của mình, coi đó là nguồn nội lực quyết định
cho sự phát triển nhanh và bền vững. Vấn đề là phải nâng cao chất lượng
NLCN, khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng to lớn con người Bến Tre,
45
nhằm biến NLCN thành nội lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế -xã hội phát triển.
Do đó, phát triển NLCN phải được đặt ở vị trí trung tâm hàng đầu trong chính
sách phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh. Trong lần về thăm Bến Tre (tháng 8-
1998), Thủ tướng Phan Văn Khải có nhấn mạnh: “Để giúp Bến Tre đi nhanh
hơn, không bị tụt hậu so với các địa phương khác, cần tiếp tục phát huy
truyền thống cách mạng của Bến Tre trong thời kỳ xây dựng, khai thác tốt
những lợi thế của tỉnh, nhất là về lực lượng lao động” [2, tr.47].
Đặc điểm kinh tế-xã hội
Với 70% diện tích là đất nông nghiệp, 65km bờ biển và hệ thống sông
ngòi chằng chịt, Bến Tre có lợi thế phát triển sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là
kinh tế thuỷ sản và kinh tế vườn. Trong những năm gần đây, nền kinh tế Bến Tre
có mức tăng trưởng khá, giai đoạn 2001 - 2004 GDP bình quân đạt 8,7%/ năm,
nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc chủ yếu vào tốc độ tăng của khu
vực I (nông - lâm - thủy sản), chiếm 60,82% GDP của tỉnh (năm 2004), vì vậy,
đây là sự tăng trưởng không bền vững. Mặt khác, nền kinh tế của Bến Tre đang
đứng trước những khó khăn, thách thức: trình độ phát triển còn thấp, qui mô sản
xuất còn nhỏ bé, vấn đề đổi mới thiết bị, công nghệ sản xuất triển khai chậm.
Nhiều vấn đề bức xúc đặt ra trên lĩnh vực kinh tế-xã hội ngày càng gay gắt, nổi
lên là vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động, đời sống một bộ phận dân
cư ở nông thôn còn khó khăn, tiêu thụ sản phẩm sản xuất của nông dân không ổn
định; tệ nạn xã hội chưa có chiều hướng giảm… đã làm hạn chế động lực phát
triển kinh tế của tỉnh.
Có thể thấy, mặc dù nền kinh tế Bến Tre đang từng bước phát triển, cơ
cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng nhưng còn rất chậm. Do đó, muốn đẩy
nhanh CNH, HĐH, phát triển ngành nghề, ứng dụng KH-CN vào sản xuất,
nâng cao chất lượng hàng nông sản, đòi hỏi Bến Tre phải chú trọng phát triển
mạnh NLCN cả về số lượng và chất lượng, đủ sức thực hiện nhiệm vụ trong
giai đoạn mới.
46
Bến Tre có nguồn nhân lực dồi dào, lực lượng lao động trẻ chiếm số
đông, người lao động cần cù, chịu khó, thông minh, hiếu học, đó là những lợi
thế nhất định về NLCN trong sự nghiệp CNH, HĐH. Đời sống người dân Bến
Tre từng bước được cải thiện, tỷ lệ hộ khá, giàu có tăng, hộ nghèo giảm dần,
nhưng vẫn còn nhiều (4,62% năm 2004). Thu nhập bình quân đầu người đạt
6,2 triệu đồng (năm 2004). Như vậy, so với mức bình quân của cả nước, mức
thu nhập bình quân đầu người của Bến Tre hiện nay còn thấp.
Bến Tre là một trong những tỉnh gánh chịu hậu quả chiến tranh rất nặng
nề, với hơn 35.000 liệt sĩ, trên 18.000 thương binh và 2.067 mẹ được Nhà
nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng [2, tr.9].
Truyền thống lịch sử, văn hóa và con người Bến Tre
Cả nước biết Bến Tre “quê hương Đồng khởi” với tám chữ vàng
“Anh dũng Đồng khởi, Thắng Mỹ, diệt Nguỵ”. Những chiến công oanh liệt
của quân và dân Bến Tre đã góp phần viết nên trang sử vẻ vang, chói lọi
của dân tộc Việt Nam. Những tên đất, tên người đã trở thành niềm tự hào
của bao thế hệ người dân Bến Tre hôm nay và cả mai sau. Trong hai cuộc
kháng chiến vừa qua, quân và dân Bến Tre đã kiên cường chiến đấu và
chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, góp phần to lớn vào
thắng lợi vẻ vang của dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất
đất nước. Nhưng sự hy sinh của nhân dân Bến Tre là hết sức lớn lao. Bến
Tre trở thành mảnh đất chịu nhiều đau thương vào loại nhất, nhì của cả
nước. Lịch sử và những chiến công của quân và dân Bến Tre là bản anh
hùng ca bất diệt, biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng,
ý chí quật cường quyết chiến và quyết thắng quân xâm lược.
Từ lâu, Bến Tre đã là vùng đất "địa linh nhân kiệt", nơi sản sinh ra
những nhân vật có trình độ học vấn uyên thâm. Vị Tiến sĩ đầu tiên của sứ
Nam kỳ lục tỉnh, quê vùng biển Ba Tri, Bến Tre - Phan Thanh Giản, thi đỗ
Tiến sĩ năm 30 tuổi. Trương Vĩnh Ký - quê vùng trái cây nổi tiếng Chợ Lách,
con người “học vấn uyên bác” thông thạo hơn mười thứ tiếng, chỉ trong 40
47
năm hoạt động đã để lại 118 tác phẩm thuộc đủ thể loại. Sau ngọn cờ thơ văn
yêu nước tiêu biểu nửa sau thế kỷ XIX - Nguyễn Đình Chiểu, phải kể đến
Phan Văn Trị mà tên tuổi gắn với cuộc bút chiến sôi nổi nhất thời bấy giờ
đánh vào một nho sĩ bán mình cho giặc - Tôn Thọ Tường. Ba chủ bút của ba
tờ báo buổi đầu trong lịch sử báo chí ở Nam kỳ đầu thế kỷ XX đều là người
Bến Tre, trong đó có chủ bút tờ báo phụ nữ sớm nhất nước ta là “bà đồ”
Nguyễn Thị Ngọc Khuê, bút danh Sương Nguyệt Anh, con gái nhà thơ yêu
nước Nguyễn Đình Chiểu.
Trong lịch sử, người dân nơi đây vừa kế thừa những giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, vừa mang đậm những nét độc đáo riêng
của con người vùng đất cù lao. Cũng như nhiều tỉnh vùng ĐBSCL, Bến Tre
vốn là vùng đất hoang vu mới được khai phá theo bước chân “người mang
gươm đi mở đất” của cha ông người Việt từ miền ngoài đến, vào cuối thế kỷ
XVII, đầu thế kỷ XVIII. Gần ba thế kỷ đấu tranh chống giặc ngoại xâm và
ách áp bức bóc lột của phong kiến, người dân Bến Tre đã phải đổ biết bao xương
máu, mồ hôi để gìn giữ và biến mảnh đất hoang vu, rừng thiêng nước độc thành
vùng đất trù phú, giàu tiềm năng như hôm nay.
Từ trong gian khổ và đau thương của chiến tranh, đã xuất hiện ở Bến
Tre những kỳ tích lịch sử gắn liền với những người con anh hùng, vùng đất
anh hùng. Gần như tay không, người Bến Tre đã vùng lên, với ngọn đuốc lá
dừa từ Mỏ Cày đã cháy bùng lên phong trào Đồng khởi “diệt ác, phá kìm” lan
rộng khắp miền Nam. Phong trào đấu tranh chính trị của “Đội quân tóc dài”,
của những người phụ nữ Bến Tre như một huyền thoại đẹp đã đi vào lịch sử
dân tộc. Vị nữ tướng đầu tiên thời chống Mỹ, nhà lãnh đạo cách mạng tài
năng của đất Bến Tre - Phó tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng
miền Nam - Nguyễn Thị Định. Tiếng bom tận sào huyệt báo hiệu sự sụp đổ
chế độ Mỹ - Nguỵ Sài Gòn năm 1975 cũng do người con của Bến Tre, anh
hùng phi công Nguyễn Thành Trung.
48
Những sự kiện điển hình đó đã cho thấy con người Bến Tre có đầy đủ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam: yêu nước nồng nàn, kiên
cường bất khuất, thông minh, sáng tạo… Đó là niềm tự hào, là nguồn sức mạnh tinh thần góp phần hun đúc nên bản lĩnh, ý chí để các thế hệ người Bến Tre hôm nay vững bước tiến lên trên con đường CNH, HĐH và đổi mới đất
nước theo định hướng XHCN.
Cùng với lòng yêu nước, con người Bến Tre còn "được pha đậm thêm
tính ngang tàng, nghĩa hiệp, phóng khóang, dường như không bị ràng buộc bởi những quan niệm hẹp hòi, công thức, xơ cứng của Nho giáo" [43, tr.1011], kết hợp với tinh thần tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính, không trông
chờ, ỷ lại. Tinh thần đó không chỉ thể hiện trong sản xuất, mà còn trong chiến
đấu. Từ “quê dừa” đến “quê hương Đồng khởi”, từ “Đội quân tóc dài” đến “Đội đặc công thuỷ” là biểu tượng của tinh thần sáng tạo, ý chí tự vươn lên
mãnh liệt của con người Bến Tre.
Sẽ không đầy đủ và toàn diện khi nói về nét đặc trưng của con người Bến Tre mà không đề cập đến những hạn chế, tiêu cực của họ. Phải chăng do
điều kiện lịch sử luôn phải đương đầu với các thế lực phong kiến và thực dân đế quốc xâm lược, chịu nhiều đau thương trong chiến tranh và vốn có một
chút “ngang tàng, phóng khóang”, mà người dân trên vùng đất này cho đến nay vẫn còn tư tưởng “tự do” luôn muốn thóat khỏi sự quản lý của pháp luật. Mặt khác, với nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu từ lâu đời, lại bị cách biệt với
bên ngoài nên một bộ phận người dân Bến Tre có lối sống khép kín, ít quan
tâm đến “bên ngoài”, bảo thủ trì trệ, cục bộ địa phương, không dễ chấp nhận những giá trị mới.
Việc chỉ ra những hạn chế này có ý nghĩa quan trọng trong công tác
giáo dục, bồi dưỡng những thế hệ người Bến Tre hôm nay. Đó là, một mặt
chú trọng giáo dục truyền thống cách mạng, khơi dậy tinh thần tự lực, tự
cường vượt khó khăn thách thức và quyết tâm đi lên, không cam chịu đói
nghèo, mặt khác, coi trọng giáo dục ý thức pháp luật, quyền và nghĩa vụ công
dân, tuân thủ kỷ luật, biết chọn lọc và tiếp thu những giá trị mới, tiến bộ. Đó
49
chính là cơ sở hình thành những phẩm chất tốt đẹp của người lao động mới
trong nền sản xuất công nghiệp hiện đại.
2.1.2. Những yếu tố cơ bản tác động đến quá trình phát triển
nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
tỉnh Bến Tre
Quá trình phát triển NLCN ở Bến Tre đang diễn ra dưới tác động nhiều
chiều của nhiều yếu tố cả khách quan lẫn chủ quan. Việc nhận rõ sự tác động
của các yếu tố này là cơ sở để xây dựng phương hướng, giải pháp nhằm phát
triển NLCN ở Bến Tre đúng hướng, để bảo đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp
CNH, HĐH ở tỉnh Bến Tre.
Thứ nhất, quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh vừa thúc đẩy, vừa
đòi hỏi phải nhanh chóng phát triển nguồn lực con người để đáp ứng yêu
cầu của quá trình này
Thực chất của CNH, HĐH ở Bến Tre là quá trình cải biến một cách căn
bản nền kinh tế cũ, lạc hậu, dựa trên lao động thủ công, năng suất lao động
thấp sang nền kinh tế hiện đại, năng suất lao động và tổng sản phẩm xã hội
tăng cao. Vì thế, đẩy mạnh CNH, HĐH chính là quá trình từng bước tạo ra
tiền đề, điều kiện vật chất cần thiết để người lao động có cơ hội thuận lợi
được tiếp cận những dịch vụ ngày càng hoàn thiện về giáo dục, đào tạo, chăm
sóc sức khỏe tạo nhiều việc làm và nâng cao mức sống… Với ý nghĩa đó,
CNH, HĐH tạo điều kiện thúc đẩy quá trình phát triển NLCN, đặc biệt là
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong quá trình đó, CNH, HĐH đặt ra
những yêu cầu cao và mới đối với lực lượng lao động về trình độ chuyên môn
kỹ thuật, kỹ năng lao động, khả năng thích nghi với phương thức lao động
mới… Đáp ứng những yêu cầu đó, người lao động - với tư cách là lực lượng
sản xuất hàng đầu trong nền kinh tế hiện đại - phải không ngừng học tập, bồi
dưỡng nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn tay nghề và cả nhân cách đạo
đức, năng lực tư duy sáng tạo. Có thể nói, quá trình CNH, HĐH khách quan
tạo ra môi trường và điều kiện, mà ở đó người lao động phải luôn tự đổi mới
50
không ngừng, tự đào tạo, bồi dưỡng về mọi mặt. Như vậy, CNH, HĐH là yếu
tố tác động mạnh mẽ đến NLCN và là “đòn bẩy” trực tiếp thúc đẩy NLCN
phát triển, đồng thời đặt ra những yêu cầu mới để người lao động không
ngừng phấn đấu. Đến lượt nó, NLCN phát triển cao về số lượng và chất lượng
lại là động lực mạnh mẽ đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH.
Bên cạnh thúc đẩy quá trình đào tạo ra một lớp người lao động mới có
năng lực và phẩm chất ngày càng cao đáp ứng yêu cầu chuyển đổi cơ cấu lao
động, trong quá trình CNH, HĐH, một bộ phận không nhỏ trong lực lượng
lao động, chủ yếu ở nông thôn, vốn quen với tác phong lao động nông nghiệp,
thiếu năng động sáng tạo, chậm đổi mới... sẽ là nhóm đối tượng dễ bị gạt ra
ngoài quá trình CNH, HĐH nền sản xuất; không ít người lao động khó làm
quen với cường độ và nhịp độ nhanh chóng của lao động công nghiệp; nhiều
người lao động trình độ thấp dễ bị gạt ra khỏi guồng máy sản xuất. Tình trạng
người lao động phải bỏ việc sau thời gian thử việc tại các khu công nghiệp,
nhà máy… là một thực tế phản ánh điều đó. Mặt khác, việc ứng dụng nhanh
những thành tựu KH-CN vào sản xuất, vào quản lý kinh tế-xã hội cũng làm
cho người lao động nhanh chóng bị lạc hậu, tụt lại phía sau, nếu họ không tự
nỗ lực học tập, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao tay nghề.
Như vậy, tác động của CNH, HĐH đến quá trình phát triển NLCN ở
Bến Tre có cả mặt tích cực lẫn hạn chế. Trên thực tế, CNH, HĐH ở Bến Tre
chưa đủ mạnh để thúc đẩy nhanh sự ra đời một đội ngũ trí thức, các nhà kinh
doanh, nhà quản lý, chuyên gia công nghệ và công nhân lành nghề, đủ sức tạo
ra động lực đưa Bến Tre phát triển vượt bậc. Mặt khác, phần lớn lực lượng
lao động của tỉnh chưa qua đào tạo, chưa được trang bị đủ những năng lực và
phẩm chất để hội nhập vào xu thế chuyển đổi nền kinh tế theo hướng HĐH.
Đây là lực cản lớn trong quá trình CNH, HĐH và tiến trình phát triển của Bến
Tre hiện nay. Vì vậy, để thúc đẩy phát triển NLCN, một mặt Bến Tre cần phải
đẩy mạnh hơn nữa quá trình CNH, HĐH để làm xuất hiện nhu cầu phát triển về số
51
lượng và nâng cao về chất lượng nguồn nhân lực, mặt khác cần có kế hoạch và tập
trung mọi nguồn lực gấp rút:
Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực theo diện rộng để đáp ứng
yêu cầu, đồng thời lựa chọn, đào tạo nhân tài để có khả năng tiếp thu
những công nghệ hiện đại, tập trung trước hết vào xây dựng đội ngũ
các nhà kinh doanh giỏi, công nhân lành nghề, đội ngũ công chức,
hành chính thạo việc, công tâm [22, tr.56].
Thứ hai, sự tác động của cơ chế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế
đến quá trình phát triển NLCN ở tỉnh Bến Tre
Cùng với quá trình CNH, HĐH, cơ chế thị trường đã có những tác
động không nhỏ đến quá trình phát triển NLCN ở Bến Tre.
Trước hết, cơ chế thị trường tạo ra những cơ hội thuận lợi cho con
người phát triển. Dưới tác động của cơ chế thị trường, những quan niệm, thói
quen, tâm lý cũ gắn liền với nền sản xuất tự cấp, tự túc của con người sẽ dần
dần được thay đổi. Thay vào đó, tính năng động, tư duy sáng tạo được khơi
dậy và phát huy; năng lực, tài năng của mỗi người có cơ hội được thể hiện và
khẳng định; cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh được đặt ra. Trong môi
trường đó, đòi hỏi người lao động phải tự vươn lên không ngừng, tự nâng cao
trình độ mọi mặt như tri thức, kỹ năng tay nghề, khả năng thích nghi, tính kỷ
luật, phẩm chất đạo đức… Nói cách khác, cơ chế thị trường đặt ra nhu cầu tự
đào tạo, bồi dưỡng của chính người lao động vì lợi ích thiết thân của họ. Thực
tế cho thấy, sự vươn lên của hàng chục ngàn nông dân từ nghèo khó trở thành
những triệu phú, tỷ phú miệt vườn ở Bến Tre đã chứng minh rằng cơ chế thị
trường tạo ra cơ hội làm giàu chính đáng cho những ai năng động sáng tạo,
quyết chí vươn lên, chịu khó học hỏi, chăm chỉ lao động. Năm 2004 toàn tỉnh
có 21.018 nông dân sản xuất kinh doanh giỏi các cấp, trong đó có 260 nông
dân giỏi cấp tỉnh và 10 nông dân giỏi cấp trung ương với các mô hình nuôi
thuỷ sản, trồng cây ăn trái, chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp… [64, tr.5].
52
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường lao động ở Bến Tre từng bước
hình thành và phát triển. Quan hệ giữa cung và cầu lao động góp phần tạo ra
sự cân đối về nhu cầu và đào tạo nguồn nhân lực, từng bước đáp ứng về cơ
cấu lao động theo các cấp và các trình độ, về cơ cấu theo ngành nghề, khu vực
sản xuất. Ngoài ra, nó còn tạo ra sự dịch chuyển lao động từ khu vực nông
thôn, vùng sâu có thu nhập thấp sang khu vực thành thị có thu nhập cao hơn;
từ thành phần kinh tế này sang các thành phần kinh tế khác, mà chủ yếu
hướng vào các khu công nghiệp, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chỉ
trong vòng 4 năm (từ năm 2000 đến năm 2004) số lao động trong khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng vọt gần 30 lần. Nếu năm 2000 chỉ có
24 người thì đến năm 2004 tăng lên 715 người [13]. Như vậy, sự hình thành
và phát triển của thị trường lao động đã góp phần đánh thức tiềm năng lao
động to lớn của NLCN ở tỉnh Bến Tre.
Bên cạnh đó, mặt trái của thị trường lao động cũng gây không ít khó
khăn cho việc quản lý, sử dụng NLCN, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao
của tỉnh. Biểu hiện rõ ở tính tự phát trong đào tạo, sử dụng người lao động. Ở
Bến Tre, trong nhiều năm qua, việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực bị “thả
nổi”, không được quy hoạch và thống nhất quản lý, chưa gắn đào tạo với sử
dụng, gây mất cân đối giữa các bậc và các ngành đào tạo. Do đó, tình trạng
học sinh, sinh viên tốt nghiệp không tìm được việc làm ở tỉnh hoặc phải làm
công việc không được đào tạo, gây lãng phí chất xám rất lớn. Một bộ phận
không nhỏ cán bộ, công chức, trí thức khoa học- công nghệ có năng lực, sinh
viên Bến Tre… có xu hướng chuyển đến những thành phố lớn để có điều kiện
phát triển và thu nhập cao. Tình hình trên gây không ít khó khăn cho công tác
quản lý, đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực, ảnh hưởng đến chất lượng
NLCN của tỉnh trong nhiều năm qua.
Cùng với cơ chế thị trường, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng có
những tác động đến quá trình phát triển NLCN ở tỉnh Bến Tre.
53
Về mặt tích cực, trong quá trình mở rộng giao lưu, hợp tác, trao đổi
hàng hóa, vốn, công nghệ mới… với các nước trên thế giới, Bến Tre có điều
kiện khai thác những lợi thế sẵn có, trong đó có tiềm năng to lớn của lực
lượng lao động.
Hiện nay, tỉnh Bến Tre đang đẩy mạnh thu hút đầu tư từ nhiều nguồn,
đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực là thế mạnh kinh tế của tỉnh.
Qua đó, NLCN ở Bến Tre có điều kiện và cơ hội phát triển. Thứ nhất, việc
mở rộng và phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tác dụng thúc đẩy
phát triển kinh tế, tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập cho lực lượng lao động ở
Bến Tre, góp phần tạo sự ổn định về mặt xã hội. Thứ hai, khi công nghệ mới
được trang bị vào sản xuất, một mặt góp phần hiện đại hóa nền kinh tế, tác
động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH. Mặt khác, cơ
cấu lao động cũng biến đổi, một bộ phận lao động ở khu vực nông nghiệp
chưa qua đào tạo sẽ dần chuyển sang lao động trong khu vực dịch vụ, công
nghiệp với yêu cầu trình độ tay nghề ngày càng cao. Thứ ba, trong quá trình
lao động, để thích ứng với công nghệ sản xuất hiện đại, người lao động phải
luôn học hỏi nâng cao trình độ tay nghề, có ý thức kỷ luật trong lao động, rèn
luyện tác phong công nghiệp… xoá dần được lối trì trệ, tự do vô kỷ luật trong
lao động. Thứ tư, để mở rộng, trao đổi hàng hóa, đòi hỏi sản phẩm của Bến
Tre phải có sức cạnh tranh cao mới có thể thâm nhập sâu vào thị trường thế
giới. Muốn nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, ngoài việc đầu tư đổi
mới công nghệ sản xuất, điều quan trọng nhất là phải đào tạo đội ngũ lao động
có trình độ cao, có khả năng làm chủ công nghệ mới, sáng tạo và ứng dụng
thành tựu khoa học tiên tiến, để cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất, chất
lượng sản phẩm. Thứ năm, thông qua hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo ra sự
gắn kết giữa thị trường lao động trong tỉnh với thị trường lao động trong khu
vực và trên thế giới. Vài năm gần đây, xuất khẩu lao động đã trở thành địa chỉ
tin cậy và thu hút sự quan tâm của nhiều người lao động ở Bến Tre. Số người
đi lao động ở nước ngoài ngày càng nhiều, năm 2003 chỉ có 480 người, năm
54
2004 có 971 người. Xuất khẩu lao động không chỉ mở ra khả năng cạnh tranh
cho người lao động mà còn tạo cơ hội cho họ tiếp cận với KH-CN tiên tiến của
thế giới, nâng cao trình độ tay nghề, từ đó, góp phần chuẩn bị đội ngũ lao động
thích ứng với nền sản xuất lớn XHCN.
Việc "mở cửa" giao lưu, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ có tác động
tích cực đến quá trình phát triển NLCN của Bến Tre mà còn có những tác động
tiêu cực. Cùng với việc mở cửa hội nhập kinh tế thì những yếu tố văn hóa, lối
sống "phương Tây" cũng du nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống xã hội, làm
"biến đổi" đạo đức, lối sống của một phận không nhỏ người lao động. Xu hướng
đề cao văn hóa ngoại lai, chạy theo lối sống "hiện đại", hạ thấp hoặc phủ nhận
những giá trị đạo đức, truyền thống văn hóa dân tộc có chiều hướng gia tăng,
nhất là trong tầng lớp thanh, thiếu niên - lực lượng lao động chủ yếu và đông đảo
trong xã hội. Lối sống thực dụng, hưởng thụ, đề cao chủ nghĩa cá nhân, lạnh
lùng chà đạp lên lợi ích người khác... trở nên phổ biến ở nhiều người. Chẳng hạn
hội chứng "lấy chồng Đài Loan" đang lan rộng đến nhiều vùng nông thôn ở Bến
Tre và các tỉnh khu vực ĐBSCL. Trong năm 2001, ở Bến Tre có 203 cuộc hôn
nhân với người nước ngoài, trong đó trên 70% kết hôn với người Đài Loan. Có thể
nói, phần lớn những cuộc hôn nhân này bất chấp thành phần, nghề nghiệp, tuổi tác
trên cơ sở tính toán đổi trao. Hậu quả là rất nhiều cô gái trong những cuộc hôn nhân
đó không hề có hạnh phúc, thậm chí có những người bị đẩy vào bước đường cùng
trở thành gái mại dâm. Đây là lối sống hoàn toàn xa lạ với những giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc.
Thứ ba, hệ thống giáo dục - đào tạo tỉnh Bến Tre là nhân tố trực tiếp
tác động đến quá trình phát triển NLCN của tỉnh
Để phát triển nguồn nhân lực, GD-ĐT được xem là con đường cơ bản
nhất, vừa có tính lâu dài, vừa có tính đột phá nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, tạo nên và tăng cường năng lực nội sinh để đẩy mạnh CNH,
HĐH.
55
Thực hiện nhiệm vụ “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài”, ngành GD-ĐT Bến Tre góp phần quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng NLCN, tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội. Hiện nay, về cơ bản,
Bến Tre đã hoàn thành chỉ tiêu xóa nạn mù chữ, phổ cập tiểu học và đang
triển khai thực hiện phổ cập THCS (dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2006).
Không chỉ coi trọng việc nâng cao trình độ học vấn cho nguồn nhân lực của
mình, những năm gần đây, tỉnh rất chú trọng công tác đào tạo nghề cho lực
lượng lao động, xem đây là bước đột phá, hình thành nên động lực mới về
nguồn nhân lực, góp phần làm biến đổi về chất đối với sự nghiệp phát triển
kinh tế-xã hội, nhằm đạt mục tiêu chung là khắc phục sự tụt hậu về kinh tế.
Sự phát triển khá mạnh và đồng bộ hệ thống GD-ĐT của tỉnh đã góp phần
quan trọng tạo nên sự chuyển biến về số lượng và chất lượng NLCN của Bến
Tre trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, trong tình hình chung của ngành Giáo dục cả nước, GD-ĐT
tỉnh Bến Tre vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém và hạn chế. Chất lượng và hiệu
quả GD-ĐT còn thấp so với yêu cầu phát triển và chưa đáp ứng nhu cầu lao
động của các ngành, nghề ở địa phương và thị trường lao động. Hiện chưa có
đánh giá cụ thể về hiệu quả đào tạo của các cơ sở dạy nghề trong tỉnh. Tuy
nhiên, qua kết quả Hội chợ việc làm - xuất khẩu lao động tỉnh Bến Tre lần thứ
I (từ 29 đến 31/8/2003) cho thấy, trong 8.252 hồ sơ đăng ký xin việc, sơ tuyển
được 670 lao động (chiếm 8,12%), tuyển dụng chính thức được 156 lao động
(chiếm 1,9%) [59]. Con số này phần nào nói lên chất lượng của lực lượng lao
động ở Bến Tre chưa đáp ứng yêu cầu thị trường lao động, vì vậy, cơ hội tìm
việc làm của họ bị hạn chế.
Việc mở rộng và đa dạng hóa các loại hình đào tạo, nhất là mô hình liên
kết đào tạo tại chức, nhằm đáp ứng yêu cầu học tập, nâng cao trình độ cho người
lao động là rất cần thiết. Nhưng do sự yếu kém của công tác quản lý và tác động
bởi mặt trái của cơ chế thị trường đã dẫn đến tình trạng khó kiểm soát về mặt
56
chất lượng đào tạo. Kết quả là không ít người đã qua đào tạo có bằng cấp, nhưng
trình độ và khả năng thực tế không tương xứng, không đáp ứng được yêu cầu
của quá trình lao động sản xuất. Tình trạng “học giả, bằng thật” không chỉ ảnh
hưởng đến chất lượng đào tạo, mà còn tác động xấu đến nhân cách của người lao
động. Đây là điều đáng lo ngại nhất trong chất lượng GD-ĐT hiện nay ở nước ta
nói chung, ở Bến Tre nói riêng.
Ngoài ra, sự mất cân đối trong cơ cấu ngành nghề đào tạo và hình thức
đào tạo (dài hạn, ngắn hạn) cũng ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng và chất
lượng nguồn lao động của tỉnh. Hiện nay, phần lớn học sinh, sinh viên của
tỉnh tập trung ở các ngành: kinh tế tài chính, ngoại ngữ, công nghệ thông tin,
luật, sư phạm... Các ngành phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế địa phương
như nông học, thuỷ sản số sinh viên theo học rất ít. Công tác đào tạo nghề ở
tỉnh chủ yếu là đào tạo ngắn hạn hoặc bồi dưỡng dưới nhiều hình thức, chất
lượng chưa cao. Đào tạo dài hạn còn ít (chủ yếu là liên kết đào tạo), chưa đáp
ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho CNH, HĐH.
Đây là một trong những vấn đề gây khó khăn cho công tác giải quyết việc làm
hiện nay, bởi trình độ người lao động không đáp ứng yêu cầu tuyển dụng. Tới
đây, khó khăn này sẽ càng gay gắt khi mà các khu công nghiệp được hình
thành, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp - dịch vụ, các
ngành công nghiệp, xây dựng có nhu cầu lớn về công nhân kỹ thuật có trình
độ tay nghề cao. Do vậy, khả năng thiếu lao động lành nghề sẽ xảy ra và trở
thành áp lực lớn cho ngành GD-ĐT của tỉnh trong những năm tới.
Tóm lại, GD-ĐT là yếu tố cơ bản tác động trực tiếp đến quá trình nâng
cao chất lượng NLCN trên phương diện học vấn, chuyên môn, nhân cách đạo
đức. Tuy nhiên, chất lượng hiệu quả GD-ĐT thấp, mất cân đối trong đào tạo
là những vấn đề nổi cộm ảnh hưởng lớn đến chất lượng NLCN của tỉnh. Khắc
phục vấn đề này là yêu cầu cấp bách, có ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, tạo nguồn nội lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã
hội, đẩy nhanh CNH, HĐH ở Bến Tre.
57
Thứ tư, mức sống của người dân cũng là yếu tố tác động đến quá
trình phát triển NLCN ở tỉnh Bến Tre
Cùng với những thành tựu đạt được trong quá trình đổi mới, những
năm qua, mức sống của dân cư Bến Tre từng bước được nâng lên, tỷ lệ hộ
khá, giàu tăng lên. Thu nhập bình quân đầu người nâng dần từ 4.115.000 đồng
năm 2000 lên 6.119.000 đồng năm 2004 [12, tr.26]. Đây chính là điều kiện vật
chất tác động tích cực đến chất lượng NLCN. Những nhu cầu về: ăn, mặc, ở, nhu
cầu học tập, chăm sóc sức khỏe, vui chơi giải trí… từng bước được cải thiện.
Đến nay, toàn tỉnh tuy chỉ còn 4,62% hộ nghèo (theo chuẩn cũ), nhưng
mức thu nhập bình quân đầu người ở Bến Tre chỉ mới đạt xấp xỉ 6,2 triệu
đồng/ năm (chưa quá 400 USD), thấp hơn so với mức bình quân đầu người
của cả nước. Qua thực tế cho thấy, NLCN ở Bến Tre đông nhưng không
mạnh, tiềm năng to lớn nhưng chưa được khai thác và sử dụng có hiệu quả.
Tình trạng này có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính vẫn là do
nền kinh tế của tỉnh chưa phát triển, thu nhập của người lao động chưa được
cải thiện đáng kể. Những đầu tư của Nhà nước cho con người trong giới hạn
nền kinh tế một tỉnh nghèo, chưa thể thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của
người lao động. Có lẽ đây là lý do mà nhiều sinh viên Bến Tre sau khi tốt
nghiệp ra trường không muốn trở về tỉnh công tác; nhiều trí thức, cán bộ KH-
CN có trình độ, năng lực nhưng không ở lại phục vụ quê hương; người lao
động có tay nghề có xu hướng đi ra ngoài tỉnh làm việc để có thu nhập cao
hơn… Điều này gây ra sự hụt hẫng trong đội ngũ nhân lực chất lượng cao của
tỉnh trong nhiều năm qua.
Thứ năm, chính sách phát triển NLCN của tỉnh Bến Tre là yếu tố tác
động trực tiếp đến quá trình phát triển NLCN của tỉnh
Bước vào thế kỷ XXI, thời kỳ cả nước đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh
tế, đẩy nhanh CNH, HĐH, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII
khẳng định, Bến Tre quyết tâm “khai thác mọi nguồn lực, đẩy mạnh tốc độ
phát triển nền kinh tế tỉnh nhà nhanh và bền vững” [23, tr.47]. Trong các nguồn
58
lực, NLCN được xác định là nguồn lực quan trọng nhất thúc đẩy kinh tế-xã hội
phát triển. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh đề ra
Chương trình “Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, dạy nghề - giải quyết
việc làm và chăm sóc sức khỏe nhân dân giai đoạn 2001-2005”. Chương trình
đã thể hiện rõ quan điểm phát triển NLCN trên tất cả các mặt: giáo dục - đào
tạo nghề, chăm sóc sức khỏe và giải quyết việc làm cho người lao động. Đây là
chính sách lớn của tỉnh với mục tiêu tạo ra bước đột phá, hình thành nên động
lực mới về NLCN cho phát triển kinh tế-xã hội. Sau gần 5 năm triển khai,
chương trình đã tạo ra sự chuyển biến tích cực, nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện, phát triển đào tạo nghề kết hợp sử dụng, giải quyết việc làm cho
người lao động, bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân tốt hơn. Từ đó đã tác động
tích cực, thúc đẩy phát triển toàn diện con người cả về trí tuệ, thể lực, nhân
cách,… nâng cao chất lượng NLCN từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế-xã hội của tỉnh.
Chăm lo phát triển đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước là một ưu tiên
trong chính sách phát triển NLCN của tỉnh từ nay đến 2010. Tuy nhiên, “Đội
ngũ cán bộ vẫn còn hụt hẫng, chưa đồng bộ, thiếu cán bộ giỏi về quản lý kinh
tế, sản xuất kinh doanh, khoa học kỹ thuật” [23,tr.38]. Nhằm tập trung xây
dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, thu hút nhân tài về cho tỉnh, Ủy
ban nhân dân tỉnh đã ban hành một số chính sách ưu đãi đối với cán bộ, công
chức, sinh viên có trình độ, như Quyết định số 4051/2001/QĐ-UB ngày
4/9/2001. Quyết định có tính đột phá này đã tạo động lực thu hút, thúc đẩy
phát triển về chất trong nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh. Qua hơn 3
năm thực hiện, hàng trăm cán bộ, công chức của tỉnh đã được tạo điều kiện
học tập và đạt trình độ tiến sĩ, thạc sĩ; hàng ngàn cán bộ có trình độ đại học,
trung cấp; nhiều cán bộ, công chức được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ.
Ngoài ra, chính sách này còn thu hút được nhiều sinh viên có trình độ đại học về
59
tỉnh công tác. Đội ngũ cán bộ, công chức này đang từng bước phát huy năng lực,
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ trong thời kỳ CNH, HĐH.
Với chính sách trợ cấp, đãi ngộ trên, tỉnh đã kịp thời đáp ứng phần nào
yêu cầu xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh trong
thời gian qua. Tuy vậy, chính sách chưa thật sự là động lực mạnh mẽ tạo sự
chuyển biến rõ nét về chất lượng trong đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh.
Tuy số lượng có tăng, nhưng cán bộ được đào tạo trình độ sau đại học còn ít,
nhất là trình độ tiến sĩ. Phần đông cán bộ, công chức được đào tạo đại học chủ
yếu là hệ tại chức nên hạn chế về chất lượng và hiệu quả công tác. Chính sách
chưa tạo ra sức hấp dẫn đủ mạnh để có thể thu hút được nhiều người tài,
chuyên gia giỏi, cán bộ có năng lực về tỉnh công tác. Chính sách cũng chưa
tạo ra sự ràng buộc nhất định, nên còn một số cán bộ được tỉnh đưa đi đào tạo,
sau khi ra trường đã chuyển đi nơi khác làm việc, nhất là cán bộ trẻ có năng
lực.
Có thể nói, thu nhập thấp, điều kiện, môi trường làm việc còn khó khăn
đã hạn chế khả năng và cơ hội thăng tiến của nhiều người. Đây là nguyên
nhân chính làm cho Bến Tre mất đi một đội ngũ lao động trẻ, có khả năng tiếp
cận những thành tựu KH-CN hiện đại. Vì vậy, chính sách phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao của tỉnh chưa thật sự phát huy tác dụng. Điều này đòi
hỏi Bến Tre cần chú trọng nhiều hơn đến chiến lược nhân tài của tỉnh trong
thời gian tới.
2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI CỦA TỈNH
BẾN TRE TỪ NĂM 1996 ĐẾN NAY
2.2.1. Thực trạng nguồn lực con người của tỉnh Bến Tre
Về số lượng nguồn lực con người của tỉnh Bến Tre
Số lượng nguồn lực con người của tỉnh Bến Tre trước hết thể hiện ở
quy mô và cơ cấu dân số mà trực tiếp là cơ cấu lực lượng lao động.
60
Bến Tre có quy mô dân số vào loại lớn. Năm 2004, Bến Tre có 1.345.637 người, mật độ dân số là 580 người/km2, cao gấp đôi mật độ dân số cả nước (234 người/km2). Trong nhiều năm qua, cơ cấu dân số theo giới tính ở Bến Tre khá cân bằng giữa nam và nữ. Năm 2004, tỷ lệ nam chiếm 48,49%
và tỷ lệ nữ chiếm 51,51%.
Tương tự như các tỉnh ĐBSCL, dân số của Bến Tre hầu hết tập trung ở
nông thôn (năm 2004: 90,30%). Tỷ lệ dân số thành thị là rất thấp (9,70%).
Trong 4 năm qua, tỷ lệ dân số thành thị tăng chậm, từ 8,95% (năm 2000) lên
9,70% (năm 2004). Điều này phản ánh quá trình đô thị hóa ở Bến Tre tương
đối chậm (xem phụ lục 1).
Dân số trong độ tuổi lao động ở Bến Tre chiếm tỷ lệ cao trong dân số.
Dân số Bến Tre thuộc dân số trẻ và đang có xu hướng chuyển dần sang “dân
số trưởng thành”. Cụ thể là: năm 2003, nhóm 0-14 tuổi chiếm 23,78%; nhóm
15- 60 tuổi chiếm 66,25% và nhóm người trên 60 tuổi chiếm 9,97% [57,
tr.13]. Như vậy, dân số Bến Tre đang trong thời kỳ “dân số vàng”, với tỷ lệ
dân số trong độ tuổi lao động cao.
Nhìn tổng thể, dân số Bến Tre có quy mô lớn, tập trung chủ yếu ở nông
thôn và đang phát triển theo xu hướng giảm tỷ lệ trẻ em, tăng tỷ lệ dân số
trong độ tuổi lao động, tỷ lệ lực lượng lao động trẻ chiếm đa số. Với quy mô
và cơ cấu dân số như trên, cho thấy Bến Tre đang “sở hữu” tiềm năng to lớn
về NLCN. Nếu tiềm năng to lớn này được bồi dưỡng, khai thác và sử dụng có
hiệu quả sẽ là nguồn nội lực mạnh mẽ thúc đẩy nền kinh tế Bến Tre tăng
trưởng nhanh. Ngược lại, nếu không có kế hoạch đào tạo, khai thác và sử
dụng hợp lý nguồn lao động dồi dào này, thì đây sẽ là nhân tố kìm hãm tốc độ
tăng trưởng kinh tế, thậm chí là nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến mất ổn định xã hội,
bởi vì, dân số đông nhưng không mạnh, chất lượng thấp sẽ là sức ép to lớn
đối với quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Do đó, lực lượng lao động đông
vừa là cơ hội, vừa là thách thức trong quá trình phát triển ở Bến Tre hiện nay.
Về chất lượng nguồn lực con người của tỉnh Bến Tre
61
Nguồn lực con người của Bến Tre được phản ánh chủ yếu ở phương
diện chất lượng dân số, trước hết là chất lượng lực lượng lao động - bộ phận
quan trọng nhất trong dân số. Chất lượng dân số vừa nói lên tiềm năng sức
mạnh to lớn của NLCN,vừa là tiêu chí xác định các chỉ số phát triển của một
địa phương.
Chất lượng NLCN được biểu hiện ở chất lượng lực lượng lao động qua
hàng loạt yếu tố: trình độ học vấn; trình độ chuyên môn kỹ thuật; phẩm chất
đạo đức, lối sống; mức thu nhập; sức khỏe, tuổi thọ... Nghĩa là, nói đến
NLCN là nói đến sức lao động (thể lực và trí lực) của con người, nói đến chất
lượng con người với tư cách là người lao động có trình độ và phẩm chất đạo
đức tốt đẹp.
Trình độ học vấn của lực lượng lao động ở Bến Tre đạt khá cao. Tỷ lệ
biết chữ trong lực lượng lao động chiếm 96,69% (năm 2003). Đến cuối
2004, toàn tỉnh đã có 4/8 huyện, thị, 137/160 xã, phường (85,6%) đạt chuẩn
phổ cập giáo dục THCS và đang phấn đấu hoàn thành mục tiêu này vào cuối
năm 2006. Những thành quả đó đã góp phần nâng chỉ số giáo dục của tỉnh
lên 0,89 (năm 2004), xếp trong nhóm các tỉnh, thành có trạng thái phát triển
giáo dục tốt [5, tr.277] (xem phụ lục 2). Đây là tín hiệu đáng mừng, tạo tiền
đề phát triển NLCN của tỉnh, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Hàng năm, Bến Tre có từ 25.000 - 30.000 học sinh tốt nghiệp THPT và
THCS. Đây là nguồn lao động dự trữ dồi dào, trẻ, khoẻ, có trình độ học vấn
và trình độ chuyên môn (nếu được tiếp tục đào tạo), sẽ là nguồn bổ sung lực
lượng lao động có chất lượng cho tỉnh trong những năm tới.
Nhìn chung, trình độ học vấn của dân cư ở Bến Tre đang tiếp tục được
nâng lên. Tuy nhiên, số liệu thống kê năm 2003 cho thấy ở Bến Tre có
68,91% lực lượng lao động tốt nghiệp tiểu học trở lên; số chưa biết chữ và
chưa tốt nghiệp tiểu học là 31,09%. So với cả nước, tỷ lệ lao động chưa biết
chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học của Bến Tre còn khá cao (tỷ lệ này của cả
nước năm 2003 là 19,72%, vùng ĐBSCL là 34,75%). Trong 68,91% lao động
62
tốt nghiệp tiểu học trở lên, số người tốt nghiệp THPT chỉ chiếm 9,56% và tốt
nghiệp THCS là 15,04% [8]. Đặc biệt còn có sự cách biệt khá lớn về trình độ
học vấn của lực lượng lao động giữa khu vực thành thị và nông thôn. Ở thành
thị tỷ lệ tốt nghiệp THPT (27,26%) cao gấp 3,5 lần so với khu vực nông thôn
(7,77%), trong khi đó lực lượng lao động ở nông thôn chiếm tỷ lệ trên 90%.
Đây quả là một bất lợi của lực lượng lao động Bến Tre, vì phần lớn lực lượng
này ở nông thôn, lại có trình độ thấp.
Trình độ học vấn là chỉ tiêu hết sức quan trọng phản ánh chất lượng
NLCN về mặt trí lực, nó là "chìa khóa" mở ra khả năng tư duy sáng tạo, năng
lực nhận thức, tiếp thu khoa học - kỹ thuật của người lao động. Ở Bến Tre, tỷ
lệ lao động chưa biết chữ, chưa tốt nghiệp tiểu học và tốt nghiệp tiểu học còn
rất cao (75,4%). Điều này đã làm cho người lao động gặp nhiều khó khăn, trở
ngại trong việc tiếp thu và ứng dụng những thành tựu khoa học-kỹ thuật vào
sản xuất và đời sống. Như vậy, trình độ học vấn của lực lượng lao động Bến
Tre hiện nay chưa thể đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất, yêu cầu khách
quan của quá trình CNH, HĐH.
Hiện nay, tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở Bến Tre có
xu hướng tăng, nhưng chậm và thấp hơn so với các địa phương khác, chưa
đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH. Theo báo cáo của Sở Lao động-
Thương binh và Xã hội, năm 2004 tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 22,12%
trong tổng lực lượng lao động trong toàn tỉnh, tăng 4,12% so với 2003. Nhưng
nhìn chung, chất lượng lực lượng lao động chưa nâng lên tương xứng. Điều
này thể hiện rõ ở tỷ lệ lao động có trình độ từ công nhân kỹ thuật có bằng trở
lên còn rất ít. Năm 2003, trong 18% lao động qua đào tạo có 7,56% có trình
độ từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên, trong đó có 2,19% có trình độ cao
đẳng, đại học trở lên. Những năm gần đây, tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng khá
nhanh, nhưng chủ yếu là do tăng tỷ lệ lao động đào tạo ở trình độ sơ cấp,
chứng chỉ nghề (đào tạo ngắn hạn) và tập trung các ngành nghề phục vụ lao
63
động tại tỉnh, chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu của các ngành đòi
hỏi kỹ thuật cao và xuất khẩu lao động.
Cũng giống như cả nước, Bến Tre cũng có sự mất cân đối về cơ cấu
trình độ giữa đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và lao động có
nghề. Năm 2003, cơ cấu đó là:1 (đại học, cao đẳng)/1,02 (trung học chuyên
nghiệp)/1,21 (công nhân kỹ thuật) [47, tr.12]. Tỷ lệ này ở nước ta năm 2000
là: 1/1,33/ 4,17, theo kinh nghiệm các nước có nền kinh tế phát triển thì tỷ lệ
hợp lý phải là 1/4/10 [41, tr.61]. So sánh này cho thấy, ở Bến Tre lực lượng
lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp và lành nghề ít, chưa thể cung
ứng cho các ngành kinh tế, khu công nghiệp và xuất khẩu lao động trong
những năm tới. Trong khi đó quy mô đào tạo đại học, cao đẳng tăng nhanh
hơn (nhất là loại hình đào tạo tại chức). Số cán bộ có trình độ cao (sau đại
học) ít và tập trung chủ yếu ở các ngành giáo dục và y tế. Có những ngành là
lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của tỉnh nhưng đội ngũ cán bộ vừa yếu vừa thiếu.
Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bến Tre, tính đến
nay, đội ngũ cán bộ của ngành có 457 người, trong đó có trình độ từ đại học
trở lên là 142 người (31%), trên đại học chỉ có 2 người; trình độ trung cấp là
152 người (32,26%), số còn lại là sơ cấp. Với đội ngũ cán bộ ngành nông
nghiệp như hiện nay, nhìn chung chưa thể đáp ứng yêu cầu phát triển một nền
nông nghiệp toàn diện và mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn sẽ còn
nhiều khó khăn, thách thức nếu tỉnh không nhanh chóng tăng cường đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật, cán bộ quản lý cho lĩnh vực
này.
Tóm lại, chất lượng lực lượng lao động ở Bến Tre xét ở trình độ học
vấn và chuyên môn kỹ thuật còn thấp so với yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH.
Đây là nguyên nhân chính làm hạn chế cơ hội phát triển và khả năng lao động
sáng tạo của người lao động, từ đó làm hạn chế tốc độ CNH, HĐH của tỉnh.
Vì vậy, nâng cao chất lượng NLCN Bến Tre trên các mặt học vấn, chuyên
môn kỹ thuật đang là yêu cầu cơ bản và có tính cấp bách nhằm bảo đảm tính
64
bền vững và hiệu quả của quá trình phát triển kinh tế-xã hội và là điều kiện
đẩy nhanh CNH, HĐH trong thời gian tới.
Về tư tưởng, phẩm chất đạo đức và lối sống của người lao động Bến
Tre. Trong bối cảnh hiện tại, do nhiều nguyên nhân khác nhau, tư tưởng đạo
đức, lối sống của người lao động Bến Tre, bên cạnh những giá trị mới tích cực
còn đan xen những hạn chế tồn tại.
Bến Tre là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, con người nơi đây
chịu nhiều đau thương. Vì vậy, hơn ai hết, họ là người cảm nhận hết bản chất
tốt đẹp của chế độ chính trị - xã hội mới. Đó là cơ sở để nhận thức và thực
hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tinh thần đoàn
kết, tương thân tương ái, lòng yêu quê hương, truyền thống cách mạng…
được gìn giữ và phát huy. Ý chí vươn lên thóat khỏi đói nghèo, lạc hậu cũng
thể hiện rất rõ trong phẩm chất của người lao động, nhất là ở lực lượng lao
động trẻ. Tính tích cực, năng động, sáng tạo của người lao động ngày càng thể
hiện rõ trong lĩnh vực kinh tế. Nhiều mô hình mới xuất hiện như: trang trại
chăn nuôi, cải tạo vườn tạp, sản xuất cây giống, chuyển đổi cây trồng, nuôi
thuỷ sản… đang là phong trào thi đua sôi nổi, thu hút nhiều người lao động ở
Bến Tre mạnh dạn đầu tư sản xuất, chịu khó học hỏi, vươn lên làm giàu.
Tuy nhiên, Bến Tre vốn là tỉnh thuần nông, lực lượng lao động phần
lớn đều xuất thân từ nông dân, sống chủ yếu ở nông thôn, do đó, tâm lý của
người sản xuất nhỏ, thiếu tư duy năng động, chưa có tác phong công nghiệp,
chưa biết cách làm ăn lớn… là những hạn chế không tránh khỏi của một bộ
phận không nhỏ người lao động. Ngoài ra, mặt tiêu cực của cơ chế thị trường
đang tác động không nhỏ đến đạo đức, lối sống của một bộ phận người lao
động, nhất là lao động trẻ. Lối sống thực dụng, coi trọng giá trị đồng tiền,
xem nhẹ các giá trị đạo đức truyền thống, thậm chí suy thóai về đạo đức trong
một bộ phận người lao động, kể cả cán bộ đảng viên, đang là điều đáng lo
ngại hiện nay. Đặc biệt, tội phạm và các tệ nạn xã hội còn nhiều và có lúc nổi
lên khá phức tạp. Năm 2004, đã phát hiện 662 vụ phạm pháp hình sự; 1.322
65
vụ tệ nạn xã hội [60, tr.13]. Có thể nói, những hạn chế này đã và đang cản trở
quá trình phát triển, làm suy giảm chất lượng và sức mạnh NLCN của tỉnh
trong thời gian qua.
Sức khỏe, thể lực của người lao động là điều kiện quan trọng cho lao
động sáng tạo và nâng cao năng suất lao động. Hiện nay, chưa có một cuộc
điều tra mang tính chất khá toàn diện về thể lực và tình trạng sức khỏe của
người Bến Tre. Tuy nhiên, qua các chỉ số về tuổi thọ bình quân, tỷ lệ trẻ em
suy dinh dưỡng, môi trường sống và hệ thống chăm sóc sức khỏe… phần nào
cho thấy tình trạng sức khỏe NLCN ở Bến Tre.
Hiện nay, mạng lưới y tế toàn tỉnh được kiện toàn, 100% xã, phường có
trạm y tế ; 90,3% trạm y tế có bác sĩ, do đó, nhu cầu khám, chữa bệnh của
nhân dân được đáp ứng tốt hơn, ngăn chặn các dịch bệnh lớn trong cộng
đồng. Tỷ lệ trẻ (0-5 tuổi) suy dinh dưỡng giảm từ 31,8% (năm 2000) xuống
còn 25,1% (năm 2004). Tuổi thọ trung bình của người dân Bến Tre là 75,89
[50, tr.7]. Tuy nhiên, do mật độ dân số cao, trên 90% dân số sống ở nông thôn
với phương thức lao động thủ công, phân tán, cơ sở hạ tầng chưa phát triển,
kinh tế nông nghiệp thu nhập thấp… do đó đời sống vật chất và tinh thần của
người lao động chưa được nâng cao làm hạn chế chất lượng NLCN của tỉnh.
Đánh giá chung về mặt chất lượng NLCN Bến Tre, theo “Báo cáo phát
triển con người Việt Nam năm 2001”, chỉ số phát triển con người (HDI) của
Bến Tre là 0,668 điểm xếp hạng thứ 27/ 61 tỉnh thành cả nước và đứng hàng
thứ 7 trong tổng số 12 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long [57, tr.4]. Chỉ số trên cho
thấy chất lượng NLCN Bến Tre hiện nay chưa cao, đứng ở mức trung bình
trong cả nước. Vì vậy, để phát triển và khai thác tiềm năng NLCN, Bến Tre
cần chú trọng đầu tư mạnh hơn vào vốn con người, trước hết là GD-ĐT, giải
quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động nhằm nâng cao chất lượng
NLCN, tạo ra lực lượng lao động mới, có trình độ và năng lực đáp ứng yêu
cầu đẩy mạnh CNH, HĐH.
Về phân bố nguồn lực con người của tỉnh Bến Tre
66
Phân bố NLCN theo ngành kinh tế: Hiện nay, phân bố NLCN ở Bến
Tre được thực hiện trong mối quan hệ với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cùng
với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, cơ cấu lao
động theo ngành nghề ở Bến Tre cũng từng bước chuyển đổi theo hướng tăng
dần tỷ lệ lao động trong khu vực công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ lệ lao động
nông nghiệp. Tuy nhiên, sự chuyển dịch này diễn ra chậm chạp, phản ánh tốc
độ CNH, HĐH ở Bến Tre diễn ra khá chậm. Theo số liệu của Cục thống kê
của tỉnh, năm 2004, số lao động đang làm việc trong nền kinh tế là 673.784
người, trong đó, số lao động trong ngành nông - lâm - ngư nghiệp là 539.706
người, chiếm tỷ lệ cao nhất (80,1%). Trong 5 năm, tỷ lệ lao động trong nông -
lâm - ngư nghiệp giảm từ 82,02% (năm 2000) xuống 80,1% (năm 2004), tức
giảm 1,92% (khoảng hơn 10.000 người). Số lao động trong ngành công
nghiệp, dịch vụ là 134.078 người, chiếm tỷ lệ 19,9% trong tổng số lao động
đang làm việc trong nền kinh tế. Từ năm 2000 đến 2004, tỷ lệ lao động trong
nhóm ngành công nghiệp, dịch vụ tăng từ 17,23% lên 19,9%, tức tăng 2,67%
(khoảng 18.000 người). Có những ngành số lao động rất ít, như trong lĩnh vực
hoạt động KH-CN, năm 2004 chỉ có 37 người (mặc dù đã tăng so với các năm
trước). Có thể nói, hoạt động KH-CN là một trong những lĩnh vực đầu tàu,
nhằm cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, tạo ra sự tăng trưởng kinh tế
nhanh. Nhưng ở Bến Tre, lực lượng này còn hết sức nhỏ bé. Điều đó cho thấy,
Bến Tre khó có được bước nhảy vọt, nếu không đầu tư cho phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực hoạt động KH-CN.
Phân bố NLCN trong các thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh: Sự
phân bố lao động theo thành phần kinh tế là rất quan trọng trong phân bố
nguồn nhân lực, nó cho phép khai thác tiềm năng, thế mạnh của các thành
phần kinh tế trong một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Năm 2004,
lực lượng lao động làm việc trong khu vực nhà nước là 35.817 người (chiếm
5,31%); khu vực tập thể là 10.174 người (chiếm 1,50%); khu vực kinh tế tư
nhân 9.437 người (chiếm 1,40%); còn lại đại bộ phận người lao động ở Bến
67
Tre hiện đang làm việc trong khu vực kinh tế cá thể, kinh tế hộ gia đình
617.641 người (chiếm hơn 91%). Lực lượng lao động làm việc trong khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm một tỷ lệ nhỏ bé, chỉ có 715 người
(chiếm 0,11%), mặc dù so với năm 2000 số lao động làm việc trong khu vực
kinh tế này đã tăng gần 30 lần (năm 2000 chỉ có 24 người) [13] (xem phụ lục
3). Qua sự phân tích trên cho thấy, các thành phần kinh tế của tỉnh hiện nay
phát triển không đồng bộ, khu vực kinh tế tư nhân phát triển chưa tương xứng
với tiềm năng, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn rất nhỏ bé. Đây lại là khu
vực kinh tế có tiềm năng lớn và đóng vai trò khá quan trọng trong thu hút
nhiều lao động, góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu lao động. Vì
vậy, coi trọng phát triển mạnh các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
không chỉ là chính sách phát triển kinh tế mà còn là một giải pháp cho phép
sử dụng có hiệu quả và phát triển NLCN ở Bến Tre hiện nay.
Về sử dụng nguồn lực con người của tỉnh Bến Tre
Theo số liệu Cục thống kê tỉnh, năm 2004, dân số trong độ tuổi lao
động của tỉnh là 867.253 người, trong đó 673.784 người đang làm việc trong
nền kinh tế, chiếm 77,69% dân số trong độ tuổi. Số người tham gia hoạt động
kinh tế có xu hướng tăng qua các năm, bình quân tăng khoảng 7.000 người/
năm thời kỳ 2000-2004. Số người trong độ tuổi lao động tăng bình quân mỗi
năm khoảng 15.000 - 17.000 người. Hàng năm, có hơn 26.000 người ngoài độ
tuổi thực tế có tham gia lao động.
Từ năm 2000 đến nay, hàng năm tỉnh giải quyết cho khoảng 25.000 -
30.000 lao động (năm 2001: 26.500 người, năm 2004: 31.289 người ) có việc
làm thông qua phát triển kinh tế, các giải pháp hỗ trợ (đi kinh tế mới, quỹ
quốc gia hỗ trợ việc làm), xuất khẩu lao động... Quá trình chuyển dịch cơ cấu
lao động trong nông nghiệp, nông thôn thông qua giải quyết việc làm, đã có
tác dụng tăng tỷ lệ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn, từ 76% (năm
2001) tăng lên 79% (năm 2004), tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị giảm từ
5,48% (năm 2001) xuống còn 4,8% (năm 2004) [48]. Hiện nay Bến Tre là
68
tỉnh có tỷ lệ thất nghiệp thấp so với các tỉnh lân cận. Tuy nhiên, do tính chất
lao động nông nghiệp làm theo thời vụ, nên hàng năm một bộ phận không nhỏ
lao động của tỉnh phải đi làm thuê những công việc giản đơn thu nhập thấp
ngoài thời vụ ở các tỉnh An Giang, Đồng Tháp hoặc làm việc ở vùng Đông
Nam bộ để tăng thêm thu nhập. Ngoài ra, thiếu việc làm phù hợp và thu nhập
thấp là hai nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng một bộ phận lao động của
Bến Tre di chuyển đến nhiều địa phương khác, nhất là Thành phố Hồ Chí Minh.
Đây là xu hướng tất yếu vì người lao động thường dịch chuyển đến những nơi có
điều kiện thuận lợi để phát triển bản thân. Tuy nhiên, việc di cư của người lao
động Bến Tre cần được quan tâm đúng mức để bộ phận lao động này có điều kiện
đóng góp chung vào sự phát triển của tỉnh, góp phần xoá đói giảm nghèo ở địa
phương. Có thể nói, trong những năm gần đây, Bến Tre có nhiều nỗ lực trong tìm
kiếm giải pháp cho việc sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động dồi dào của tỉnh.
Nhưng do lực lượng lao động phần lớn tập trung ở khu vực nông nghiệp, năng
suất lao động thấp, nên thu nhập bình quân của người lao động chưa cao. Vì vậy,
thực chất quá trình sử dụng NLCN ở Bến Tre chưa thật sự có hiệu quả.
Mặc dù NLCN của tỉnh dồi dào, nhưng chất lượng lại hạn chế, nên quá
trình khai thác và sử dụng NLCN phục vụ cho CNH, HĐH đang gặp phải mâu
thuẫn giữa hai xu hướng: Một là, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH cần sử dụng
NLCN có chất lượng cao, tạo ra việc làm chất lượng, năng suất lao động cao,
điều chỉnh cơ cấu lao động phù hợp vơi cơ cấu của nền kinh tế, tổ chức lại lao
động trên phạm vi toàn tỉnh. Điều này tất yếu dẫn đến hiện tượng dư thừa lao
động. Hai là, nếu chú trọng đến yêu cầu toàn dụng nguồn nhân lực, cố gắng giải
quyết việc làm đầy đủ cho người lao động, mà ít chú ý đến chất lượng và hiệu
quả sử dụng thì sẽ không khơi dậy và phát triển được năng lực và sức sáng tạo
của con người cho mục tiêu CNH, HĐH.
Tình hình thực tế ở Bến Tre hiện nay, khó có thể giải quyết đồng thời
cả hai mục tiêu: vừa đảm bảo được nhu cầu sử dụng NLCN cho CNH, HĐH,
vừa bảo đảm yêu cầu toàn dụng nguồn nhân lực. Do đó, cần có sự lựa chọn
69
dành sự ưu tiên hơn cho một trong hai mục tiêu này theo hướng bảo đảm phát
triển bền vững. Với tinh thần đó, chỉ có thể ưu tiên đến mục tiêu nâng cao
chất lượng và hiệu quả sử dụng NLCN cho CNH, HĐH. Bởi vì, mục tiêu này
có lợi hơn cho quá trình CNH, HĐH và còn là tiền đề để giải quyết việc làm
đầy đủ cho người lao động. Do đó, trong thực tế, không nên vì sức ép việc
làm quá lớn mà chạy theo số lượng, coi nhẹ mặt chất lượng trong sử dụng,
cũng như không nên vì chất lượng NLCN còn hạn chế mà hạ thấp hoặc coi
nhẹ tiêu chuẩn về yêu cầu sử dụng như đã xảy ra trong thời gian qua. Cách
giải quyết hợp lý là lấy mục tiêu chất lượng làm tiền đề, làm cơ sở cho việc
thực hiện mục tiêu số lượng. Cùng với giải quyết việc làm, GD-ĐT nghề cho
người lao động là công việc cấp thiết, là khâu “trung gian” chuyển hóa nguồn
nhân lực thành động lực thúc đẩy CNH, HĐH phát triển.
2.2.2. Thực trạng phát triển nguồn lực con người trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre
Bước vào thời kỳ CNH, HĐH, Bến Tre đã bắt đầu coi trọng và có nhiều
cố gắng trong phát triển NLCN của tỉnh. Đại hội đại biểu lần thứ VI Đảng bộ
tỉnh Bến Tre (5-1996) đã chỉ rõ:
Phát triển nguồn lực con người là nội dung có ý nghĩa quyết
định trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Một
mặt phải tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực theo diện rộng
để đáp ứng yêu cầu, mặt khác phải lựa chọn, đào tạo nhân tài để có
khả năng tiếp thu những công nghệ hiện đại, tập trung trước hết vào
xây dựng đội ngũ các nhà kinh doanh giỏi, công nhân lành nghề,
đội ngũ công chức hành chính thạo việc, công tâm. Đồng thời thu hút
chất xám của cộng đồng người Bến Tre ở ngoài tỉnh và nước ngoài [22,
tr.56].
Nội dung trên thể hiện rõ quan điểm phát triển NLCN của tỉnh là vừa phát
triển theo “diện rộng”, vừa tập trung đào tạo nhân tài, phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao, chú trọng thu hút “chất xám” trong và ngoài tỉnh.
70
Thực trạng phát triển giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre trong thời kỳ CNH, HĐH
Để từng bước nâng cao chất lượng NLCN, tỉnh Bến Tre đã tập trung
phát triển GD-ĐT cả về quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục. Mạng lưới
trường lớp ở các ngành học, bậc học ngày càng được mở rộng theo hướng đa
dạng hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập của mọi lứa tuổi, nhất là ở
vùng sâu, vùng xa. Theo thống kê của ngành GD-ĐT, năm học 2004-2005,
toàn tỉnh có 134 trường Mẫu giáo; 203 trường Tiểu học; 133 trường THCS;
41 trường THPT; 1 trường Cao đẳng; 2 trường Trung học chuyên nghiệp; 8
trung tâm giáo dục thường xuyên. Trong đó có 3 trường Mầm non, 40 trường
Tiểu học và 2 trường THCS đạt chuẩn quốc gia. So với năm học 2000 - 2001,
năm học 2004 - 2005 mạng lưới giáo dục toàn tỉnh phát triển thêm 118 trường
và 3 trung tâm giáo dục thường xuyên. Việc mở rộng mạng lưới trường lớp
hợp lý theo địa bàn tạo điều kiện thuận lợi phát triển quy mô ở các cấp, bậc
học, ngành học. Quy mô học sinh các cấp ở Bến Tre không ngừng tăng lên.
Từ năm học 2001-2002 đến nay, bình quân mỗi năm, quy mô học sinh THPT
tăng 6 - 8%, học sinh THCS tăng 4 - 5%. Riêng học sinh tiểu học có xu hướng
giảm 5 - 6%/ năm, do tác động tích cực của chính sách Dân số - Kế hoạch hóa
gia đình [44, tr.5]. Số học sinh tốt nghiệp THCS tăng từ 15.284 (năm 2000)
lên 20.389 (năm 2004), học sinh tốt nghiệp THPT tăng từ 6.598 (năm 2000)
lên 11.163 (năm 2004) [13]. Đây là nguồn bổ sung vào nguồn nhân lực có
trình độ của tỉnh trong những năm tiếp theo.
Thực trạng công tác đào tạo nguồn nhân lực cho CNH, HĐH ở Bến Tre
Hiện nay, tỷ lệ lao động qua đào tạo ở Bến Tre có xu hướng tăng
nhanh. Trước năm 2000, công tác đào tạo nghề cho người lao động chưa được
quan tâm đúng mức, cho đến năm 2000 tỷ lệ lao động qua đào tạo chỉ chiếm
8,6% lực lượng lao động toàn tỉnh. Đến cuối năm 2004, tỷ lệ này tăng lên
22,12%, trong đó lao động đã qua đào tạo nghề là 6,15%. Hiện nay, hệ thống
trường Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề trong toàn tỉnh tiếp
71
tục được củng cố, kiện toàn về cơ sở vật chất cũng như đội ngũ giáo viên
nhằm mở rộng quy mô, nâng cao năng lực, đa dạng hóa ngành nghề đào tạo,
từng bước đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế- xã
hội và CNH, HĐH. Trong giai đoạn 2001-2005, quy mô đào tạo (hệ chính
quy) của các trường Trung học chuyên nghiệp tăng bình quân 12-14%/ năm.
Bình quân mỗi năm có trên 1000 cán bộ trung cấp kỹ thuật, công nhân kỹ
thuật và trên 8.000 lao động được đào tạo nghề, riêng trường Cao đẳng Sư
phạm đào tạo 1.934 giáo viên Tiểu học và THCS, đáp ứng cơ bản nhu cầu
giáo viên của tỉnh [45, tr.3]. Tháng 11 năm 2004, trường Cao đẳng Bến Tre
được thành lập trên cơ sở hợp nhất trường Cao đẳng sư phạm với 2 trường
Trung học chuyên nghiệp: Kinh tế kỹ thuật và Kỹ thuật công nghiệp. Việc
thành lập trường Cao đẳng Bến Tre đào tạo đa ngành, đa hệ với quy mô 3000
- 4000 học sinh, sinh viên cho thấy nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao của tỉnh đang là yêu cầu bức xúc. Hệ thống GD-ĐT nghề cũng
không ngừng mở rộng quy mô theo hướng đa dạng hóa ngành nghề và hình
thức đào tạo, vừa đáp ứng yêu cầu học nghề của người lao động, vừa phù hợp
với yêu cầu phát triển kinh tế của tỉnh và cung cấp cho thị trường lao động.
Toàn tỉnh hiện có 27 trung tâm, cơ sở dạy nghề (trước năm 2000 chỉ có 14 cơ
sở), trong đó có 14 cơ sở dạy nghề tư nhân. Số người được đào tạo nghề từ
5.859 người (năm 2001) đã tăng lên 8.772 người (năm 2004). Ngoài ra, các
doanh nghiệp, làng nghề, hội nghề ở các địa phương đã tổ chức truyền nghề
và dạy nghề tại chỗ cho 10.000 đến 12.000 lao động mỗi năm [61].Với năng
lực đào tạo như hiện nay, ước tính đến cuối năm 2005, tỷ lệ lao động qua đào
tạo của tỉnh sẽ đạt được chỉ tiêu đề ra là 25%.
Nhìn chung, công tác đào tạo nghề cho người lao động những năm
qua đã được coi trọng, mỗi năm các cơ sở dạy nghề cung cấp 8000 - 9000
lao động được đào tạo với nhiều ngành nghề khác nhau cho các cơ sở sản
xuất. Tuy nhiên, so với nhu cầu xã hội, mạng lưới dạy nghề của tỉnh còn
mỏng và nhỏ cả về quy mô đầu tư và tuyển sinh, lại chưa có chính sách thu
72
hút học sinh học nghề thông qua học bổng, học phí, ưu tiên bố trí việc
làm… nên công tác dạy nghề ở Bến Tre còn nhiều hạn chế. Một trong
những khó khăn của công tác dạy nghề ở Bến Tre hiện nay là vấn đề nhận
thức chưa đầy đủ của xã hội về nghề nghiệp. Vào các trường trung học
chuyên nghiệp hay trường nghề chưa phải là con đường được nhiều học
sinh phổ thông lựa chọn. Việc coi trọng bằng cấp đã tạo ra dư luận xã hội
không coi trọng việc học nghề, vì thế, nhiều học sinh không muốn vào
trường nghề. Hơn nữa, ở Bến Tre, thói quen lao động kỹ thuật theo kiểu
truyền nghề mà không cần bằng cấp hoặc chưa có chính sách khuyến khích
xã hội sử dụng người có bằng nghề, dẫn đến nhiều cơ sở dạy nghề chưa
tích cực đầu tư đúng mức cho việc dạy nghề cả về cơ sở vật chất lẫn giáo
trình, giáo án. Vì vậy, nếu không nhanh chóng khắc phục những hiện tượng
này, sẽ là trở ngại không nhỏ trong công tác đào tạo nghề cho người lao
động - một nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển NLCN của tỉnh
hiện nay.
Thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Nhận thức được vai trò nòng cốt của nguồn nhân lực chất lượng cao trong
phát triển kinh tế-xã hội và đẩy mạnh CNH, HĐH, tỉnh Bến Tre đã và đang rất
chú trọng phát triển nguồn nhân lực này bằng nhiều loại hình đào tạo: chính quy,
không chính quy (tại chức, đào tạo từ xa) với các trình độ: cao đẳng, đại học và
trên đại học. Nguồn đào tạo trình độ này không chỉ có học sinh phổ thông mà
còn là cán bộ, công chức đang công tác tại tỉnh.
Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH, HĐH, tỉnh đã có
nhiều nỗ lực trong chuẩn bị nguồn nhân lực có trình độ đại học, cao đẳng. Số
học sinh Bến Tre trúng tuyển vào các trường đại học, cao đẳng trong cả nước
ngày càng nhiều, năm 2000 có 1.871 sinh viên, năm 2003 là 2.520 sinh viên
và năm 2004 là 2.068 sinh viên. Theo số liệu thống kê của Bộ GD-ĐT, tính
đến 2/2005, tỉnh Bến Tre có 10.409 sinh viên đang theo học tại 83 trường đại
học, cao đẳng trong cả nước [7].
73
Ngoài lực lượng sinh viên đang học tại các trường đại học, cao đẳng
trên cả nước, Bến Tre còn rất chú trọng phát triển nguồn nhân lực có trình độ
cao tại tỉnh bằng các hình thức liên kết đào tạo, đào tạo từ xa với các trường
đại học, cao đẳng trên toàn quốc ở các ngành, nghề đang là mũi nhọn kinh tế
của tỉnh và cả các ngành đang là nhu cầu của người học. Đối tượng theo học
các lớp này bao gồm học sinh phổ thông và cán bộ, công chức đang làm việc
tại tỉnh. So với giai đoạn 1996 - 2000, loại hình đào tạo không chính quy hiện
nay tăng 3,9 lần. Trong giai đoạn 2001 - 2005 đã có 1.724 sinh viên cao đẳng
và 918 sinh viên đại học được cấp bằng tốt nghiệp. Hiện có 2.688 sinh viên
đang theo học hệ đại học với 8 ngành đào tạo [45, tr.3]. Những số liệu trên
cho thấy nguồn nhân lực chất lượng cao có trình độ cao đẳng, đại học của tỉnh
đang phát triển nhanh về số lượng. Có thể xem đây là bước chuẩn bị nguồn
nhân lực cho giai đoạn phát triển nhanh hơn trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH ở Bến Tre, giai đoạn 2006 - 2010 và những năm tiếp theo.
Để khuyến khích, tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao về số lượng, giỏi về chuyên môn, có đạo đức cách mạng, trung thành với
Đảng và yên tâm phục vụ lâu dài tại tỉnh, tỉnh Bến Tre đã ra quyết định số
4051/2001/QĐ-UB ngày 4-9-2001 quy định cụ thể về chế độ trợ cấp đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức và sinh viên đi học đại học và sau đại học (xem
phụ lục 4). Hơn 3 năm thực hiện chính sách trợ cấp cho các đối tượng sinh
viên, đã có 76 sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, 269 tốt nghiệp loại khá, 583 sinh
viên học giỏi, 812 sinh viên con liệt sĩ, thương binh và 84 sinh viên diện gia đình
nghèo được hưởng trợ cấp. Tổng kinh phí trợ cấp cho sinh viên thuộc các đối
tượng trên là 3.325 triệu đồng [49, tr.2-3]. Trong điều kiện kinh tế của Bến Tre,
chính sách trợ cấp đào tạo sinh viên những năm qua, có thể nói là một sự ưu tiên
trong phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao. Chính sách đã có tác dụng
khuyến khích sinh viên phấn đấu học tập, rèn luyện đạt kết quả tốt và có ý thức
trở về phục vụ tỉnh nhà.
74
Công tác phát hiện và bồi dưỡng nhân tài được tỉnh chú trọng hơn
trong những năm gần đây. Năm 2003, tỉnh đã mở hội thảo và giới thiệu rộng
rãi về việc du học, tạo điều kiện thu hút tài trợ và đưa học sinh của tỉnh đi học
nước ngoài. Số học sinh đi học nước ngoài ngày càng nhiều, nếu những năm
1996 - 2000 mới chỉ có 8 học sinh Bến Tre đi du học, thì giai đoạn 2001 -
2005 có đến 44 em đi học ở 10 nước (có 15 em được cấp học bổng) [45, tr.3].
Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ cán bộ, công chức
có nhiều chuyển biến rõ nét
Trước những năm 1996, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
chủ yếu do các ngành và Trung ương tổ chức, nên đội ngũ cán bộ, công chức
hàng năm được cử đi đào tạo, bồi dưỡng số lượng còn hạn chế, chủ yếu theo quy
hoạch và kế hoạch được phân bổ. Bước vào thời kỳ CNH, HĐH, tỉnh đã có
những chủ trương, chính sách cụ thể về tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức, từng bước nâng cao nhận thức chính trị, trình độ văn hóa,
chuyên môn nghiệp vụ, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh đủ
trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Năm 1998, Ủy
ban nhân dân tỉnh đã xây dựng “Đề án tổng quan quy hoạch đào tạo cán bộ đến
năm 2000 và 2010”. Ban Tổ chức chính quyền tỉnh cùng với các ngành, các cấp
tiến hành rà soát, thống kê, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức các ngành, các
cấp. Trên cơ sở đó, đề án đã xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo và mục tiêu
đào tạo từng loại cán bộ, ở từng cấp, từng ngành hàng năm. Tuy nhiên, qua một số
năm thực hiện đề án, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa thực sự phát huy
hiệu quả. Do vậy, “đội ngũ cán bộ vẫn còn hụt hẫng, chưa đồng bộ, thiếu cán bộ
giỏi về quản lý kinh tế, sản xuất kinh doanh, khoa học kỹ thuật” [23, tr.38].
Trước yêu cầu thực tiễn, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ra Quyết định số
2103/2003/QĐ-UB ngày 31/7/2003 “Về việc sửa đổi, bổ sung quy định về chính
sách trợ cấp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và thu hút cán bộ, công chức
có trình độ, năng lực tốt” (xem phụ lục 4). Theo quyết định này, cán bộ, công
chức đi học sau đại học có bằng tốt nghiệp được thưởng: 7 triệu đồng cho bằng
75
bác sĩ, dược sĩ chuyên khoa cấp 1; 10 triệu đồng cho người có bằng thạc sĩ, bác
sĩ, dược sĩ chuyên khoa cấp 2 và 20 triệu đồng với bằng tiến sĩ. Đặc biệt, để thu
hút cán bộ, công chức có trình độ, năng lực tốt về công tác tại tỉnh, Quyết định
đã quy định chế độ ưu đãi như sau: Tốt nghiệp đại học hệ chính quy được trợ cấp
3 triệu đồng/người. Đối với những chức danh, ngành nghề mà tỉnh ưu tiên thu hút
(theo danh mục tỉnh công bố hàng năm), được trợ cấp một lần 6 triệu đồng/ người.
Người có học hàm, học vị có năng lực thật sự, cam kết công tác lâu dài ít nhất
là 5 năm, được trợ cấp một lần: Thạc sĩ 15 triệu đồng/ người ; tiến sĩ 30 triệu
đồng/ người ; phó giáo sư - tiến sĩ 35 triệu đồng/ người và giáo sư - tiến sĩ là
40 triệu đồng/ người và được tạo điều kiện thuận lợi về nhà ở trong thời gian
công tác tại tỉnh.
Những quy định trong Quyết định số 4051 và số 2103 thật sự là bước
ngoặt trong nhận thức của tỉnh Bến Tre về vai trò của nguồn nhân lực chất
lượng cao trong tiến trình CNH, HĐH. Sau hơn 3 năm thực hiện quyết định
trên, đã có 171 cán bộ, công chức của tỉnh được đào tạo trình độ tiến sĩ, thạc
sĩ (trong đó có 7 tiến sĩ), 1.841 người có trình độ đại học, 1.714 người có trình
độ trung cấp và hơn 4.200 người được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tin
học, ngoại ngữ. Ngoài ra, thu hút được 628 sinh viên có trình độ đại học về
tỉnh công tác. Tổng kinh phí thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng và thu
hút cán bộ, công chức của tỉnh từ 9/2001 đến nay (3/2005) là 21.130 triệu
đồng từ ngân sách của tỉnh (17.020 triệu đồng) và Trung ương phân bổ (4.110
triệu đồng) [49, tr.3].
Những kết quả đạt được trong công tác đào tạo, bồi dưỡng và thu hút
cán bộ, công chức có năng lực, có trình độ những năm qua đã góp phần to lớn
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức - bộ phận quan trọng trong
nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách
trợ cấp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, do mới chú trọng phát triển về
số lượng, ít chú ý mặt chất lượng nên hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng
chưa cao. Tình trạng tăng nhanh số lượng bằng cấp nhưng chất lượng đội ngũ
76
cán bộ, công chức chưa được nâng lên ngang tầm do tác động ngoài mong
muốn của việc thực hiện chính sách trợ cấp ưu đãi trong đào tạo, bồi dưỡng ở
Bến Tre là một thực tế. Thực trạng này là nguyên nhân dẫn đến tình trạng
thừa nhân lực có bằng cấp nhưng lại thiếu người tài, có năng lực thực sự phục
vụ sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Bến Tre.
Những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến quá trình phát triển
nguồn lực con người ở tỉnh Bến Tre trong thời gian qua
Nguyên nhân khách quan
Một là, Bến Tre bước vào thời kỳ đổi mới, tiến hành CNH, HĐH trong
hoàn cảnh tỉnh nghèo, nền kinh tế chưa kịp khôi phục sau chiến tranh, trình
độ phát triển còn thấp (chủ yếu là nông nghiệp), cơ sở hạ tầng yếu kém, vị trí
địa lý “cù lao” cách trở… nền kinh tế chậm phát triển, sản xuất nông nghiệp
năng suất thấp, đời sống nhân dân chưa được nâng cao. Những yếu kém đó đã
ảnh hưởng đến việc đầu tư, chăm lo phát triển NLCN của tỉnh. Do đó, mặc dù
đã có những chuyển biến tích cực, nhưng so với yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp
CNH, HĐH, NLCN của Bến Tre còn nhiều hạn chế, nhất là về chất lượng.
Hai là, Bến Tre là tỉnh đất hẹp, người đông, lực lượng lao động dồi
dào, do đó, đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động đã và
đang là vấn đề gay gắt mà Bến Tre phải đối mặt trong nhiều năm. Trong bối
cảnh hiện tại, giải quyết việc làm đầy đủ cho người lao động được coi là vấn
đề bức xúc và gặp không ít khó khăn, do đó, yêu cầu nâng cao chất lượng việc
làm nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển NLCN chưa thể là mục tiêu được ưu
tiên hàng đầu, mặc dù đây là mục tiêu có tính cấp bách cần hướng tới trong
quá trình CNH, HĐH.
Ba là, Bến Tre có vị trí địa lý kinh tế không thuận lợi, khó thu hút các
nguồn đầu tư từ bên ngoài, do đó, nhiều tiềm năng to lớn của tỉnh chưa được
khai thác, nhất là tiềm năng lao động dồi dào. Mặt khác, nền kinh tế có tăng
trưởng nhưng còn chậm và chưa vững chắc, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH, HĐH cũng rất chậm, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu GDP
77
còn cao. Lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ phát triển chậm và đạt tỷ trọng thấp,
nhu cầu thu hút và sử dụng lao động có tay nghề còn nhỏ bé, chưa thôi thúc
người lao động học tập nâng cao trình độ hướng đến lĩnh vực này. Do đó, quá
trình chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra khá chậm chạp, ảnh hưởng đến quá
trình phát triển NLCN của tỉnh.
Nguyên nhân chủ quan
Một là, về nhận thức. Do nền kinh tế chậm phát triển, sản xuất nông
nghiệp lạc hậu, phần lớn phụ thuộc vào tự nhiên nên con người Bến Tre có
thói quen dựa vào sức mạnh cơ bắp và sản xuất bằng kinh nghiệm là chủ yếu,
chưa nhận thấy được giá trị to lớn của tri thức khoa học và vai trò của trí tuệ
trong việc thúc đẩy phát triển sản xuất. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến
việc nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật cho lực lượng lao động.
Mặt khác, con người Bến Tre còn bị ảnh hưởng bởi tâm lý coi trọng bằng cấp,
xem việc học như một phương tiện để tiến thân, cầu an, hưởng lợi, để có cơ
may thóat ra khỏi vòng luẩn quẩn của nghèo khó ở thôn quê. Vì vậy, có thể
hiểu vì sao Bến Tre là vùng đất có truyền thống hiếu học, nhưng lại hiếm
người tài. Bởi Bến Tre chưa tạo ra được môi trường và điều kiện thuận lợi để
nhân tài bộc lộ tài năng để thăng tiến và thành đạt. Chính điều này ảnh hưởng
không nhỏ đến số lượng cũng như chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao
của tỉnh.
Hai là, phần lớn đội ngũ cán bộ của tỉnh xuất thân từ nông dân, được
rèn luyện qua khói lửa chiến tranh, nhưng còn hạn chế về trình độ văn hóa,
khoa học - kỹ thuật, nhất là năng lực quản lý nền kinh tế trong cơ chế thị
trường. Xét cho cùng, chất lượng đội ngũ cán bộ là nhân tố quan trọng, góp
phần thực hiện thắng lợi những chủ trương, chính sách của Đảng. V.I.Lênin
đã từng chỉ rõ: Vấn đề then chốt là phải phát hiện ra "những cán bộ có bản
lĩnh, có thực tài, nếu không thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là
một mớ giấy lộn" [40. tr.449]. Vì vậy, từ thực tiễn, Bến Tre đã rút ra bài học
có ý nghĩa lớn lao là phải kiên quyết đầu tư để xây dựng đội ngũ cán bộ kế
78
cận mạnh và đồng bộ, tập trung khắc phục sự hụt hẫng lớn về cán bộ cơ sở,
đồng thời có chính sách đào tạo cán bộ giỏi, sử dụng và trọng dụng nhân tài,
tạo điều kiện để cán bộ phát huy thế mạnh, có nhiều cống hiến và hoàn thành
nhiệm vụ, bởi vì "cán bộ là cái gốc của mọi công việc". Như vậy, chất lượng
đội ngũ cán bộ của tỉnh hạn chế cũng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc
chưa chú trọng và thực hiện sớm chính sách phát triển nguồn nhân lực của
tỉnh, trong đó có sự chậm trễ trong chính sách cán bộ và chiến lược nhân tài.
Ba là, về cơ chế chính sách. Trong những năm qua, nhiều chính sách
của tỉnh, trong đó có chính sách phát triển NLCN, đang từng bước được bổ
sung, điều chỉnh. Song, một số chính sách đã tỏ ra không còn phù hợp, chưa
khơi dậy tiềm năng, tạo ra động lực kích thích tính tích cực, năng động sáng
tạo của nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Hiện nay,
việc giao chỉ tiêu và cấp kinh phí cho GD-ĐT; việc phân bổ đề tài và cấp kinh
phí cho các đề tài còn mang tính bình quân, bao cấp. Do đó, không những
không kích thích tạo ra động lực lao động khoa học sáng tạo, mà còn tạo điều
kiện nảy sinh những tiêu cực trong lĩnh vực này.
Đến nay, tỉnh chưa xây dựng được chương trình tổng thể về phát triển
nguồn nhân lực, chưa có quy hoạch cụ thể, đồng bộ cho việc phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, và cũng chưa có sự điều tra đầy đủ về nguồn nhân
lực này. Đây là những nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng vừa yếu vừa
thiếu, vừa thừa nguồn nhân lực chất lượng cao trong nhiều năm qua. Tình
trạng chưa mạnh dạn đổi chất cán bộ, công chức, "đông cứng" về biên chế
trong các cơ quan hành chính sự nghiệp cũng chính là nguyên nhân làm hạn
chế cơ hội cống hiến của đội ngũ lao động trẻ, có năng lực, được đào tạo cơ
bản. Điều này đã làm giảm tính hiệu quả trong việc sử dụng nguồn nhân lực
chất lượng cao của tỉnh.
Trong công tác đào tạo nghề, chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo
với sử dụng, sử dụng với đào tạo; đào tạo chưa xuất phát từ nhu cầu của thị
trường lao động, chưa tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa công tác đào tạo nghề
79
với nhu cầu thị trường lao động. Đặc biệt, chưa có chính sách khuyến khích
các doanh nghiệp, các cơ sở sử dụng lao động có trách nhiệm tham gia tích
cực vào công tác đào tạo nghề. Đầu tư cho công tác đào tạo nghề chưa thỏa
đáng, các mô hình đào tạo theo địa chỉ, đào tạo tại doanh nghiệp, đào tạo theo
hợp đồng... chưa phát triển mạnh.
Bước vào thời kỳ CNH, HĐH, tỉnh Bến Tre đã có nhiều nỗ lực nhằm
thúc đẩy NLCN của tỉnh phát triển cả về số lượng và chất lượng. Nhưng do
nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, NLCN của tỉnh trong những năm
qua phát triển chưa đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Điều này đã ảnh
hưởng không nhỏ đến tốc độ phát triển kinh tế-xã hội và tiến trình CNH,
HĐH ở tỉnh. Việc dự báo xu hướng vận động của NLCN Bến Tre trong
những năm tới có ý nghĩa thiết thực trong việc đề ra chính sách, giải pháp tác
động thúc đẩy quá trình phát triển NLCN, đồng thời khắc phục những xu
hướng tiêu cực để chất lượng NLCN Bến Tre ngày càng nâng cao đáp ứng
yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
2.3. NHỮNG XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NGUỒN LỰC CON
NGƯỜI Ở TỈNH BẾN TRE TRONG THỜI GIAN TỚI
Trước sự tác động mạnh mẽ của quá trình CNH, HĐH, của cơ chế thị
trường, hội nhập kinh tế thế giới… NLCN của tỉnh Bến Tre vận động biến đổi
theo những chiều hướng khác nhau. Xuất phát từ thực trạng NLCN trong
những năm gần đây, có thể dự báo trong những năm tới NLCN Bến Tre sẽ
vận động theo những hướng cơ bản sau:
Thứ nhất, trong những năm tới, NLCN Bến Tre sẽ tiếp tục biến đổi
về số lượng theo hướng tăng dân số trong độ tuổi lao động
Do tác động tích cực của chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình,
dân số Bến Tre từ 10 năm qua tăng chậm và ở mức ổn định. Tỷ lệ tăng dân số
tự nhiên giảm từ 1,62% (năm 1993) xuống còn 1,021% (năm 2004). Kết quả
này đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến động quy mô học sinh các cấp trong
nhiều năm gần đây và hệ quả là dân số trong độ tuổi lao động gia tăng. Quy
80
mô học sinh tiểu học có xu hướng giảm mạnh trong nhiều năm, nếu năm học
2000-2001 có 141.386 học sinh tiểu học thì năm học 2004-2005 chỉ còn
107.760 học sinh. Ngược lại, số học sinh THPT tăng nhanh từ 35.128 (năm
2001) lên 43.476 học sinh (năm 2005) [13]. Đào tạo nghề và giải quyết việc làm
cho người lao động đang và sẽ còn là vấn đề thu hút sự quan tâm của các cấp,
các ngành tỉnh Bến Tre trong nhiều năm tới đây. Sử dụng có hiệu quả tiềm năng
lao động dồi dào này sẽ tạo ra cho Bến Tre nguồn nội lực mạnh mẽ để đẩy nhanh
tốc độ phát triển kinh tế- xã hội, thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH.
Hiện nay, tỉnh Bến Tre đã và đang nỗ lực tập trung cao độ các nguồn lực cho
GD-ĐT, nhất là phát triển mạnh giáo dục, đào tạo nghề nhằm tạo ra bước đột
phá về phát triển NLCN, nhằm biến tiềm năng thành sức mạnh nội lực cho quá
trình phát triển.
Thứ hai, NLCN Bến Tre sẽ biến đổi về chất lượng theo hướng tăng
nhanh lao động qua đào tạo, trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật ngày
càng nâng cao đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH
Trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, Bến Tre chú trọng
thu hút các nguồn vốn đầu tư nhằm nhanh chóng hiện đại hóa nền kinh tế,
thực hiện chiến lược tăng tốc kinh tế. Điều đó chỉ trở thành hiện thực khi NLCN
của tỉnh không ngừng phát triển về chất lượng, trong đó quan trọng nhất là nâng
cao trình độ học vấn, kỹ năng lao động, chuyên môn nghiệp vụ cho lực lượng lao
động. Tới đây khi các khu, cụm công nghiệp lớn như Giao Long, An Hiệp, Bình
Phú... đi vào hoạt động thì nhu cầu sử dụng công nhân kỹ thuật, công nhân có
trình độ tay nghề cao là rất lớn. Tỉnh đã có kế hoạch chuẩn bị phát triển nguồn
nhân lực có trình độ cao qua việc đầu tư, nâng cấp các trường, trung tâm dạy
nghề trọng điểm, nhất là đầu tư, củng cố trường Cao đẳng Bến Tre để mở rộng
ngành nghề, nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo và đẩy mạnh liên kết, liên
thông đào tạo (kể cả liên kết đào tạo đại học chính quy và đào tạo với các trường
quốc tế). Một tín hiệu vui cho ngành GD-ĐT Bến Tre là tỉnh đang tiếp tục đề
nghị Trung ương cho thành lập trường Đại học Bến Tre và đi vào hoạt động
81
muộn nhất vào năm 2010. Sự thành lập trường Đại học đa ngành tại địa phương
sẽ tiết kiệm rất nhiều kinh phí đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho tỉnh,
góp phần thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển, thực hiện thành công CNH,
HĐH. Với sự chuẩn bị tích cực này, xu hướng NLCN Bến Tre tăng nhanh
trình độ và kỹ năng nghề nghiệp sẽ là hiện thực trong vài năm tới đây.
Thứ ba, nguồn lực con người Bến Tre sẽ biến đổi theo hướng tăng
lao động trong lĩnh vực công nghiệp - dịch vụ, giảm lao động trong nông-
lâm-ngư nghiệp dưới tác động của quá trình CNH, HĐH
Đây là xu hướng tất yếu trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta nói
chung, Bến Tre nói riêng. Quá trình CNH, HĐH dưới tác động của cuộc cách
mạng KH-CN hiện đại tất yếu dẫn đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo
hướng tăng nhanh lao động có trình độ cao trong lĩnh vực công nghiêp - dịch vụ,
giảm lao động ở khu vực nông nghiệp. Đặc biệt, sự xuất hiện của nhiều nghề
mới với yêu cầu trí tuệ ngày càng cao, đồng thời, mất dần những nghề dựa
trên công nghệ giản đơn, năng suất thấp, cũng tác động đến sự chuyển đổi
nghề nghiệp của người lao động. Cùng với quá trình chuyển đổi cơ cấu lao
động dưới tác động của CNH, HĐH, quá trình “trí tuệ hóa” lao động xã hội sẽ
diễn ra nhờ việc nâng cao và làm đồng đều trình độ học vấn, chuyên môn
nghiệp vụ của người lao động nhằm tăng thêm cơ hội tìm việc làm, giải quyết
nạn thất nghiệp và là cơ sở bảo đảm cho xã hội phát triển nhanh và bền vững.
Đẩy mạnh CNH, HĐH là điều kiện cho xu hướng này nhanh chóng diễn ra,
tạo ra khả năng thực tế cho con người phát triển toàn diện.
Thứ tư, xu hướng suy giảm chất lượng của một bộ phận NLCN Bến
Tre do tác động tiêu cực của cơ chế thị trường
Nguồn lực con người của Bến Tre hiện đang vận động cùng với xu
hướng phát triển nhanh về số lượng và chất lượng là xu hướng suy giảm về
phẩm chất đạo đức, lối sống do tác động bởi mặt trái của cơ chế thị trường ở
một bộ phận không nhỏ trong lực lượng lao động. Đây là xu hướng vừa là
hiện thực, vừa là nguy cơ tiềm ẩn bởi nó đang ngấm ngầm, ăn sâu vào mọi đối
82
tượng trong xã hội. Những tiêu cực của cơ chế thị trường đang tác động trực
tiếp hàng ngày, hàng giờ đến người lao động, nhất là lực lượng lao động trẻ,
gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng NLCN. Đó là lối sống thực dụng, đề cao
giá trị đồng tiền, xem nhẹ các giá trị đạo đức, thậm chí đạo đức bị băng
hoại dẫn đến sự suy thóai, biến chất trong một bộ phận người lao động và
cả cán bộ đảng viên. Nguy hại hơn là xu hướng này đang có nguy cơ bùng
phát trong lĩnh vực GD-ĐT. Tình trạng giáo dục không toàn diện, thương
mại hóa giáo dục, xem nhẹ giáo dục truyền thống, lịch sử, giáo dục đạo
đức… trong nhà trường đã và đang làm suy giảm chất lượng GD-ĐT, ảnh
hưởng xấu đến chất lượng NLCN trong hiện tại và tương lai. Sản phẩm của
tình trạng giáo dục này là người lao động yếu kiến thức, kém kỹ năng thực
hành, ít khả năng thích nghi, thiếu năng động sáng tạo, đó là những đặc
trưng của chất lượng lao động yếu kém. Vì vậy, hơn lúc nào hết, “chấn
hưng giáo dục” đã trở thành mệnh lệnh của cuộc sống, nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển mới.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Từ thực trạng và xu hướng vận động của NLCN Bến Tre, có thể rút ra
một số kết luận sau:
Một là, NLCN Bến Tre tồn tại và phát triển trên vùng đất có nhiều khác
biệt về vị trí địa lý, hoàn cảnh kinh tế, đặc điểm văn hóa, xã hội mang những
sắc thái riêng có cả thuận lợi và khó khăn. Mặt khác, dưới tác động của quá
trình CNH, HĐH, cơ chế thị trường, cơ chế chính sách... NLCN Bến Tre vận
động, biến đổi theo những xu hướng trái ngược nhau.
Hai là, trong những năm tới đây, cùng với tốc độ phát triển kinh tế-xã
hội của tỉnh, NLCN Bến Tre tiếp tục có nhiều biến đổi phức tạp cả về số
lượng và chất lượng. Nhưng nhìn chung, NLCN của tỉnh sẽ phát triển ngày
càng mạnh thêm về số lượng và cao hơn về chất lượng, phù hợp với xu thế phát
triển và yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của quá trình CNH, HĐH. Điều đó tạo
83
cho Bến Tre nguồn nội lực mới, mạnh mẽ thúc đẩy nhanh quá trình phát triển và
hội nhập với xu thế phát triển của vùng và cả nước.
Ba là, việc phân tích thực trạng và xu hướng phát triển của NLCN của
tỉnh, giúp cho các cấp, các ngành đánh giá đầy đủ hơn về nguồn nội lực của
mình, từ đó có những chính sách và giải pháp tác động hạn chế mặt tiêu cực,
thúc đẩy NLCN phát triển mạnh hơn nhằm tăng sức mạnh nội lực cho sự
thành công của sự nghiệp CNH, HĐH ở Bến Tre.
84
Chương 3 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM
PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH BẾN TRE
3.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN
Phát triển NLCN, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao được Đảng ta
xác định là khâu đột phá để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH và
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để có chính sách, giải
pháp phát triển NLCN ở Bến Tre phù hợp và có hiệu quả, cần xác định những
quan điểm cơ bản làm cơ sở thống nhất nhận thức và hành động cho các cấp,
nhất là những cơ quan có trách nhiệm trực tiếp đối với quá trình này ở tỉnh
Bến Tre.
Một là, phát triển nguồn lực con người phải được xem là chiến lược
ưu tiên nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp
CNH, HĐH ở tỉnh Bến Tre
Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp CNH, HĐH.
Vì vậy, con người phải được phát triển cao về trí tuệ, có phẩm chất đạo đức
tốt, có trình độ học vấn và tay nghề cao. Vì thế, đầu tư phát triển NLCN được
xem là đầu tư quan trọng nhất và có hiệu quả nhất, là yếu tố quyết định thắng
lợi của sự nghiệp CNH, HĐH. NLCN Bến Tre dồi dào, nhưng trước yêu cầu
thực tiễn đã bộc lộ nhiều hạn chế, nhất là về mặt chất lượng. Vì vậy, để phát
triển kinh tế-xã hội, đẩy nhanh CNH, HĐH, không có con đường nào khác là
Bến Tre phải phát triển mạnh và khai thác có hiệu quả nguồn vốn quý giá nhất,
đó là tiềm năng trí tuệ, sức sáng tạo, trình độ, kỹ năng lao động và cả sức mạnh
truyền thống của NLCN của mình.
Trước mắt, để đạt các chỉ tiêu kinh tế-xã hội năm 2005 và nhằm thực
hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết Đại hội lần thứ VII Đảng bộ tỉnh giai đoạn
2001-2005, Bến Tre cần tập trung mọi nguồn lực cho phát triển NLCN - nhân
tố quyết định mọi thắng lợi. Trên nền tảng những thắng lợi đó, tạo đà đẩy
85
mạnh CNH, HĐH trong những năm tiếp theo, phấn đấu để hoàn thành sự
nghiệp CNH, HĐH vào năm 2020, theo chủ trương của Đảng. Những nhiệm
vụ của giai đoạn này rất nặng nề nhưng tất yếu phải vượt qua để Bến Tre
vươn lên, góp phần cùng với các tỉnh trong khu vực và cả nước đưa nước ta
trở thành nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại. Tất cả những mục
tiêu đó chỉ có thể thực hiện được bằng chính sức mạnh của NLCN Bến Tre,
trước hết là sức mạnh của tài năng và trí tuệ, sức sáng tạo của lực lượng lao
động, những người đã và đang đóng góp to lớn cho sự phát triển của tỉnh. Vì thế,
hơn lúc nào hết, phát triển NLCN ở Bến Tre phải được xác định là nhiệm vụ
hàng đầu và là khâu đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, nhằm tạo
ra sự phát triển vượt bậc của NLCN, nguồn sức mạnh thực hiện thắng lợi các
mục tiêu kinh tế-xã hội.
Hai là, phát triển NLCN của tỉnh Bến Tre là trách nhiệm của Nhà
nước, các cấp, các ngành và của mọi người dân trong tỉnh
Phát triển NLCN phải là sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước cùng với
các cấp, các ngành và mọi người dân Bến Tre. Bởi NLCN chỉ thực sự phát
triển khi được đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ phù hợp, tạo ra những
điều kiện thuận lợi để người lao động phát triển cả về thể lực, trí tuệ và nhân
cách, phát triển hài hòa cả về thể chất lẫn tinh thần. Phát triển NLCN phải bắt
đầu từ nâng cao chất lượng người lao động về mọi mặt: sức khỏe, tri thức, tay
nghề, đạo đức. Điều đó, trước hết đòi hỏi mỗi cá nhân người lao động luôn tự
ý thức nâng cao trình độ, tự bồi dưỡng nhân cách đạo đức, rèn luyện kỹ năng
nghề nghiệp, sứckhỏe... nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của xã hội
và công việc đòi hỏi.
Xuất phát từ điều kiện kinh tế-xã hội của địa phương, tỉnh Bến Tre cần
xây dựng chiến lược phát triển NLCN làm cơ sở định hướng thực hiện kế
hoạch hóa sự phát triển các ngành: GD-ĐT, chăm sóc sức khỏe, dân số…
nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu trong từng giai đoạn
CNH, HĐH. Trên cơ sở đó, tỉnh ban hành và thực hiện các cơ chế, chính sách,
tăng cường đầu tư phát triển GD-ĐT và các lĩnh vực phúc lợi xã hội, dịch vụ
86
cơ bản để chăm lo cho con người, quản lý và sử dụng tốt tiềm năng lao động.
Đặc biệt, Nhà nước, trước hết là tỉnh Bến Tre cần tạo môi trường, hành lang
pháp lý và điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế đầu tư phát triển,
mở mang ngành nghề, cơ sở sản xuất, dịch vụ có khả năng tạo nhiều việc làm
mới, đồng thời có chính sách hình thành và phát triển nhanh thị trường lao
động, thị trường KH-CN… nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình
đẳng để người lao động có cơ hội phát triển. Bên cạnh đó, cần phát huy vai
trò to lớn của các cơ quan, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, mọi
người lao động, kể cả các cá nhân, tổ chức trong và ngoài tỉnh tham gia cùng
với Nhà nước phát triển sự nghiệp GD-ĐT, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, tạo việc làm và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động xã hội.
Ba là, phát triển NLCN phải tôn trọng quy luật khách quan của nền
kinh tế thị trường và của thị trường lao động, đồng thời phải bảo đảm giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa
Quan điểm này yêu cầu phát triển NLCN ở Bến Tre, một mặt, phải tôn
trọng các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường, của thị trường lao
động (quy luật cạnh tranh, quy luật về mối quan hệ giữa cung và cầu lao
động,…) mặt khác, phải bảo đảm thị trường phát triển đúng hướng, cạnh
tranh bình đẳng, tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi để mọi người lao động đều
được giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe và có việc làm thu nhập ổn định,
nghĩa là cần có sự quản lý, kiểm soát và điều tiết của Nhà nước, trước hết là
của tỉnh. Điều này đảm bảo quá trình phát triển NLCN của Bến Tre vừa đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, vừa nhằm phát triển toàn diện
con người, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong quá trình phát triển.
Trên thực tế, cũng như cả nước, Bến Tre đang trong quá trình chuyển
từ nền kinh tế tự cấp tự túc theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị
trường, thị trường lao động ở Bến Tre (tuy còn sơ khai) nhưng cũng đang
hình thành, phát triển và hoạt động theo những quy luật khách quan, do đó,
87
phát triển NLCN ở Bến Tre cũng phải tuân thủ các quy luật khách quan của
kinh tế thị trường, của thị trường lao động. Điều đó đòi hỏi các chính sách đào
tạo và phát triển NLCN phải hướng theo nhu cầu của thị trường lao động.
Cơ chế hoạt động của thị trường lao động là cơ chế cạnh tranh, do đó,
người lao động phải được đào tạo để nâng cao khả năng cạnh tranh mới có cơ
hội và hy vọng có được việc làm thích hợp. Mặt khác, trên thị trường lao
động, nhu cầu lao động luôn biến động, thay đổi và đặt ra những yêu cầu mới
về số lượng, chất lượng, cũng như cơ cấu lao động. Vì vậy, gắn đào tạo với
nhu cầu thị trường lao động nhằm giúp người lao động có nhiều cơ hội tìm
được việc làm sau khi đào tạo. Có thể nói, phát triển NLCN trong nền kinh tế thị
trường là phải nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cho người lao động để họ có
nhiều cơ hội tìm được việc làm thích hợp.
Bốn là, quán triệt quan điểm phát triển, chất lượng và sử dụng có
hiệu quả NLCN của tỉnh phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH
Qua gần 10 năm tiến hành CNH, HĐH, tỉnh Bến Tre đã có những bước
tiến khá vững chắc, nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển, tăng tốc. Để
bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, đẩy mạnh CNH, HĐH với quy mô và
tốc độ nhanh hơn, Bến Tre cần thật sự coi trọng khai thác và sử dụng có hiệu
quả NLCN của mình. Quan điểm phát triển, chất lượng và sử dụng có hiệu
quả NLCN phải được coi là tiêu chí cơ bản và chi phối các chủ trương, chính
sách, cơ chế và giải pháp phát triển NLCN của tỉnh.
Để phát triển và sử dụng có hiệu quả NLCN của tỉnh phục vụ sự nghiệp
CNH, HĐH trong những năm tới, Bến Tre cần xây dựng một hệ thống chính
sách và cơ chế tiếp tục giải phóng sức sản xuất, tạo ra bầu không khí đầu tư
lành mạnh trong toàn xã hội để thu hút mọi nguồn lực đầu tư phát triển sản
xuất, nâng cao năng suất lao động xã hội. Mặt khác, nâng cao chất lượng và
khả năng đáp ứng yêu cầu sản xuất của lực lượng lao động thông qua phát
triển GD-ĐT. Điều đó có nghĩa là phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn
“vốn con người” phải kết hợp được tăng trưởng việc làm với không ngừng
88
nâng cao chất lượng việc làm, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân
dân trong tỉnh.
Năm là, giáo dục - đào tạo phải giữ vai trò quyết định trong chiến
lược phát triển NLCN nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao đáp
ứng yêu cầu CNH, HĐH ở tỉnh Bến Tre
Khi NLCN được coi là yếu tố quyết định sự phát triển nhanh và bền
vững của mỗi quốc gia, thì GD-ĐT là phương tiện chủ yếu quyết định chất
lượng NLCN, là nền tảng của chiến lược con người. Trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH, cùng với khoa học và công nghệ, GD-ĐT được Đảng ta coi là
quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài. Quan điểm đó cho thấy rõ GD-ĐT được Đảng ta xác định là con đường cơ
bản để phát triển NLCN, nguồn lực do chính chúng ta tạo nên và tăng cường
để đẩy mạnh CNH, HĐH.
Cùng với nhận thức đúng vị trí và vai trò của GD-ĐT, vấn đề quan
trọng hiện nay là cần đổi mới hệ thống GD-ĐT của Bến Tre ở tất cả các
bậc học, đổi mới từ nội dung đến phương pháp, để sản phẩm đào tạo ra có
chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH. Mục tiêu tổng quát
mà GD-ĐT của tỉnh đề ra không chỉ là nâng cao dân trí, cũng không chỉ là
dạy nghề, mà còn tạo ra một nền tảng văn hóa cần thiết cho mọi người dân
của tỉnh, phát triển trí tuệ nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế-xã hội, đồng thời phát hiện, bồi dưỡng và đào tạo nhân tài, xây dựng đội
ngũ chuyên gia giỏi về khoa học kỹ thuật, công nghệ, quản lý, kinh doanh.
Có thể nói, mục tiêu cuối cùng, cao nhất của GD-ĐT là dạy người. Và vì
vậy, khi coi GD-ĐT là con đường cơ bản phát triển NLCN thì gắn dạy chữ,
dạy nghề với dạy người phải trở thành tư tưởng xuyên suốt, chỉ đạo mọi
hoạt động, mọi lĩnh vực liên quan tới GD-ĐT.
Sáu là, phát triển NLCN ở Bến Tre cần đặc biệt coi trọng chính sách
thu hút và đãi ngộ nhân tài
89
Thu hút và trọng đãi nhân tài là một trong những chính sách quan trọng
đã và đang được thực hiện ở Bến Tre nhằm phát triển nhanh nguồn nhân lực
chất lượng cao phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH. Để cho chính sách này thực sự
có hiệu quả, trong thời gian tới cần cải thiện điều kiện và môi trường làm việc
tốt hơn, tạo cơ hội cho đội ngũ này tiếp cận những thành tựu KH-CN mới, có
điều kiện để nâng cao trình độ chuyên môn, nhằm phát triển năng lực sáng
tạo, vươn lên làm chủ KH-CN. Đặc biệt, chú trọng bố trí, sử dụng theo đúng
chuyên môn được đào tạo, lấy hiệu quả công việc làm thước đo năng lực cán
bộ. Tóm lại, thực hiện chính sách “chiêu hiền đãi sĩ” bao gồm nhiều yếu tố,
trong đó chế độ đãi ngộ thỏa đáng vật chất, tinh thần và tạo ra môi trường,
điều kiện, phương tiện làm việc thuận lợi có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, đối với lao động trí tuệ, người làm khoa
học, lợi ích vật chất, lợi ích kinh tế tuy rất quan trọng nhưng không phải là tất
cả. Họ còn quan tâm đến lợi ích tinh thần, đó là nhu cầu tự khẳng định nhân
cách thông qua lao động sáng tạo, là nhu cầu được làm việc trong môi trường
dân chủ - nhân văn, được xã hội thừa nhận, được động viên khen thưởng kịp
thời. Do vậy, để thu hút và khai thác tiềm năng lao động trí tuệ, ngoài quan
tâm đúng mức đến lợi ích vật chất và tinh thần cũng như điều kiện làm việc,
vấn đề cơ bản nhất vẫn là thái độ thật sự quý trọng nhân tài, trọng tri thức
khoa học. “Tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài - kế lớn trăm năm chấn hưng
đất nước” là bài học lớn của Trung Quốc rất đáng để chúng ta nghiên cứu, học
tập và vận dụng. Sự tôn vinh địa vị xã hội đúng với sự cống hiến của người tài
sẽ có ý nghĩa lớn lao trong việc thu hút và sử dụng họ.
Những quan điểm trên có ý nghĩa chỉ đạo trong quá trình xây dựng hệ
thống các giải pháp phát triển NLCN ở Bến Tre hiện nay.
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC
CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở
TỈNH BẾN TRE
90
Xuất phát từ thực trạng phát triển, xu hướng vận động của NLCN ở
tỉnh Bến Tre và dựa vào những quan điểm nêu trên, luận văn xin nêu lên một
số giải pháp chủ yếu góp phần thúc đẩy quá trình phát triển NLCN nhanh và
hiệu quả hơn, nhằm tạo ra động lực mới đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH ở
tỉnh Bến Tre.
3.2.1. Nhóm giải pháp kinh tế
Một là, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH làm xuất hiện nhu cầu phát
triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre
Sau thời kỳ phát triển với quy mô và tốc độ khá chậm, hiện nay nền
kinh tế Bến Tre đang bước vào giai đoạn phát triển tăng tốc. Trước yêu cầu
thực tiễn, đòi hỏi Bến Tre đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, đưa nền kinh tế
của tỉnh phát triển nhanh và bền vững hơn, thực tế đó đặt ra nhu cầu phát triển
mạnh NLCN của tỉnh.
Bến Tre đang tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH, HĐH, chính quá trình này sẽ tác động tích cực đến chuyển đổi cơ cấu
lao động của tỉnh. Thứ nhất, cơ cấu lao động sẽ biến đổi theo hướng chất
lượng lao động ngày càng nâng lên. Sự phát triển nhanh và nhu cầu sử dụng
nhiều lao động của các ngành công nghiệp, dịch vụ đã dẫn đến tăng nhanh đội
ngũ lao động, nhất là lao động lành nghề, có trình độ kỹ thuật cao. Từ đó, tỷ
lệ lao động qua đào tạo cũng không ngừng tăng lên, đáp ứng yêu cầu hiện đại
hóa nền sản xuất. Thứ hai, cơ cấu ngành nghề của tỉnh cũng thay đổi cùng với
quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH. Lao động nông nghiệp giảm về số lượng,
nhưng chất lượng ngày càng được nâng cao. Hiện nay, nhu cầu lao động qua
đào tạo ở nhóm ngành nông nghiệp - thủy sản tăng cao do yêu cầu phát triển
các ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Việc thành lập trường Cao đẳng Bến Tre
đào tạo đa ngành, đa hệ là hết sức cần thiết, giúp tỉnh có điều kiện để chủ
động tăng nhanh số lượng lao động được đào tạo ở trình độ thích ứng, nhằm
đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn. Sự ra đời và phát triển nhiều khu, cụm công nghiệp mới cũng đòi
91
hỏi tăng nhanh đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật tại chỗ, đủ sức cung ứng cho
các nhà máy, xí nghiệp mới hình thành. Thực tế đó không chỉ tạo ra nhu cầu
phát triển nguồn nhân lực về mặt số lượng mà còn đặt ra yêu cầu quy hoạch
mạng lưới đào tạo nghề của tỉnh với quy mô, ngành nghề thích hợp để kịp
thời cung ứng lao động kỹ thuật, lao động chất lượng cao cho nhu cầu phát
triển sản xuất, phát triển kinh tế của địa phương.
Hiện nay, Bến Tre đang bằng mọi cố gắng mời gọi, thu hút đầu tư từ
bên ngoài để nhanh chóng hiện đại hóa nền kinh tế. Một trong những yếu tố
hấp dẫn các nhà đầu tư là Bến Tre cần gấp rút chuẩn bị một nguồn nhân lực
đủ về số lượng, có trình độ chuyên môn kỹ thuật, đủ sức đáp ứng yêu cầu mở
rộng và phát triển sản xuất.
Trước mắt, tỉnh cần tiến hành điều tra cơ bản và chuẩn xác những tiềm
năng, thế mạnh, lợi thế về phát triển kinh tế của tỉnh, xác định đúng "mũi
nhọn" đột phá của CNH, HĐH. Trên cơ sở đó lập kế hoạch tổng thể về phát
triển nguồn nhân lực phù hợp, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Bến Tre là tỉnh đồng bằng ven biển, hệ thống sông ngòi chằng chịt, là
lợi thế để phát triển mạnh ngành kinh tế thủy sản và kinh tế vườn. Hiện nay
và trong những năm tới, tỉnh Bến Tre xác định đây là hai ngành kinh tế mũi
nhọn và tập trung phát triển đi vào chiều sâu. Đặc biệt, ngành nuôi thủy sản
phát triển nhanh và toàn diện về quy mô, chủng loại và trình độ thâm canh,
ngành khai thác thủy sản phát triển trên lĩnh vực khai thác biển, theo xu
hướng chuyển từ khai thác ven bờ sang khai thác hải sản xa bờ. Trong lương
lai, khi ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào ngành nuôi trồng và khai
thác thủy hải sản, đòi hỏi lao động ngành này phải có trình độ văn hóa và
chuyên môn kỹ thuật nhất định, phải được đào tạo mới có khả năng tiếp thu
và ứng dụng những thành tựu khoa học. Vì vậy, trong chính sách phát triển
nguồn nhân lực của tỉnh hiện nay cần có kế hoạch mở rộng đào tạo nghề cho
người lao động trong các ngành nuôi trồng, chế biến thủy sản và khai thác
92
hàng hải. Hiện nay, tỉnh cũng đã có bước chuẩn bị nguồn nhân lực cho lĩnh
vực kinh tế này, Bến Tre đang liên kết với trường Đại học Thủy sản Nha
Trang đào tạo 691 sinh viên theo học ngành thủy sản (xem phụ lục 5.1). Tuy
nhiên, để đáp ứng nhu cầu nhân lực ngày càng cao cho các ngành kinh tế mũi
nhọn, tỉnh nên lập ngay kế hoạch đào tạo ở các ngành thủy sản, nông học ở
trình độ trung cấp, đại học và sau đại học để kịp thời cung cấp nguồn nhân lực
trong những năm tới.
Bên cạnh đó, tỉnh tiếp tục đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo theo
chuẩn mới, đồng thời xây dựng những chương trình, dự án kinh tế - kỹ thuật
lớn với yêu cầu và quy mô ngày càng cao để thực hiện CNH, HĐH ở tỉnh.
Trên cơ sở đó có chiến lược phát triển mạnh nguồn nhân lực của tỉnh phục vụ
CNH, HĐH.
Vì vậy, đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH, nhằm tạo ra đòn bẩy trực tiếp
thúc đẩy NLCN của tỉnh phát triển cả về số lượng và chất lượng là vấn đề cấp
thiết đối với Bến Tre hiện nay.
Hai là, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, xây dựng môi
trường đầu tư thuận lợi, tạo sức hấp dẫn thu hút đầu tư từ bên ngoài
So với các tỉnh lân cận, Bến Tre là tỉnh khó thu hút đầu tư bên ngoài
không chỉ do điều kiện địa lý cách trở mà còn vì kết cấu hạ tầng yếu kém, đặc
biệt là hệ thống giao thông. Thực tế cho thấy, những địa phương có cơ sở hạ
tầng yếu kém rất khó thu hút nhà đầu tư, mà đã không thu hút được đầu tư thì
khả năng cải tạo kết cấu hạ tầng cũng hạn chế. Chính cái vòng luẩn quẩn này
tạo nên thực trạng vùng kinh tế đã phát triển thì càng phát triển thêm và
những vùng kinh tế kém phát triển như Bến Tre lại càng tụt hậu. Chính vì
vậy, phát triển kết cấu hạ tầng được tỉnh Bến Tre xác định là một trong những
khâu đột phá quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Để phát triển
mạnh kết cấu hạ tầng, đòi hỏi phải huy động tối đa các nguồn đầu tư, trong đó
chủ yếu là nhờ vào vốn đầu tư của Nhà nước. Bên cạnh đó, tỉnh cần huy động tối
đa các nguồn đầu tư từ các thành phần kinh tế, khuyến khích, kêu gọi các thành
93
phần kinh tế đầu tư phát triển mạnh kết cấu hạ tầng; tiếp tục thực hiện tốt
phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", từng bước nhựa hóa, bê tông
hóa hệ thống giao thông nông thôn trên địa bàn toàn tỉnh. Nhằm tạo sức hấp dẫn
và thu hút các nhà đầu tư, bên cạnh xây dựng kết cấu hạ tầng ngày càng hoàn
chỉnh, tỉnh cần chú trọng ban hành các chính sách ưu đãi đầu tư phù hợp nhằm
khắc phục những bất lợi về vị trí địa lý, để có thể làm hài lòng các nhà đầu tư khi
đến Bến Tre.
Đối với Bến Tre, công trình cầu Rạch Miễu (khởi công xây dựng ngày
30-04-2002) khi hoàn thành sẽ có ý nghĩa to lớn, góp phần phá thế cù lao, biệt
lập giữa Bến Tre với các tỉnh bạn, đồng thời bảo đảm giao thông thuận lợi giữa
các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng và giữa các tỉnh
này với thành phố Hồ Chí Minh. Đây là điều kiện quan trọng thúc đẩy phát triển
kinh tế-xã hội tỉnh Bến Tre và cả khu vực ĐBSCL. Vì vậy, tỉnh cần tiếp tục phối
hợp chặt chẽ với Bộ Giao thông vận tải đẩy nhanh tiến độ thi công cầu Rạch
Miễu hoàn thành và đưa công trình vào sử dụng đúng kế hoạch (dự kiến cuối
năm 2006). Đồng thời, tranh thủ sự hỗ trợ của các bộ, ngành Trung ương đẩy
nhanh tiến độ hoàn thành các hạng mục cải tạo, mở rộng nâng cấp quốc lộ 57, 60
và phà Cổ Chiên, hình thành tuyến giao thông huyết mạch, liên hoàn với các tỉnh
ven biển miền Tây Nam bộ. Dự án xây dựng cầu Hàm Luông nối liền các cù lao
của Bến Tre đã được phê duyệt, vì vậy, tỉnh cần tích cực xin Trung ương nhanh
chóng cho khởi công xây dựng nhằm phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng phục vụ
phát triển kinh tế-xã hội và đẩy mạnh CNH, HĐH. Về phía tỉnh, cần đầu tư đẩy
mạnh tiến độ xây dựng các tỉnh lộ, huyện lộ và tiếp tục triển khai phát triển
mạnh mẽ hệ thống giao thông nông thôn trên địa bàn tỉnh.
Trong tương lai không xa, khi cầu Rạch Miễu hoàn thành, hệ thống
giao thông hoàn chỉnh, Bến Tre sẽ không còn là ốc đảo, khép kín ngăn cách
với các tỉnh trong khu vực và cả nước. Đó không chỉ là ước mơ ngàn đời của
hàng triệu người dân trên đất cù lao xứ dừa, mà còn mở ra triển vọng phát
triển mạnh mẽ cho Bến Tre và cả khu vực giàu tiềm năng - ĐBSCL, trong
94
những năm tới đây. Đối với Bến Tre, việc mở rộng giao lưu, hội nhập với các
tỉnh, thành trong cả nước không chỉ là điều kiện thu hút mạnh đầu tư, phát
triển nhanh kinh tế-xã hội, mà còn giúp người dân Bến tre từng bước mở rộng
tầm nhìn ra "thế giới bên ngoài", "phá vỡ" nếp sống, lối suy nghĩ khép kín
hàng bao đời nay. Việc mở rộng hội nhập kinh tế với các tỉnh, thành phố lớn
trong cả nước sẽ tạo ra cơ hội cho người lao động Bến Tre được tiếp cận, giao
lưu, nắm bắt những thông tin thị trường, tiến bộ khoa học - kỹ thuật, ứng
dụng những mô hình mới vào sản xuất, kinh doanh, từ đó, năng lực và trình
độ người lao động từng bước được nâng lên, chất lượng NLCN Bến tre được
đổi mới.
Có thể nói, phát triển kết cấu hạ tầng, phá thế cù lao, biệt lập là một
trong những giải pháp cơ bản và cấp bách nhằm đưa nền kinh tế Bến Tre vượt
qua nguy cơ tụt hậu và tạo bước phát triển nhanh và bền vững trong tương lai.
Kinh tế phát triển chính là tạo ra điều kiện vật chất quan trọng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho người lao động, đầu tư có hiệu quả cho phát
triển mạnh NLCN của tỉnh.
3.2.2. Nhóm giải pháp chính trị
Một là, tiếp tục khơi dậy truyền thống cách mạng, ý chí tự lực tự
cường, quyết tâm vượt lên đói nghèo, tạo ra động lực mới thúc đẩy người
dân Bến tre nỗ lực vươn lên thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH
Nhân dân cả nước biết đến Bến Tre như một vùng đất cách mạng anh
hùng trong quá khứ. Nếu trong đấu tranh chống ngoại xâm, chính khát vọng
độc lập tự do tạo nên sức mạnh kỳ diệu để người dân Bến Tre làm nên những
chiến công oanh liệt, thì ngày nay cần làm cho mỗi người dân ý thức được
rằng nguy cơ tụt hậu về kinh tế cũng đáng sợ như nguy cơ mất nước. Ý chí
quyết tâm vươn lên không cam phận nghèo của người Bến Tre hôm nay xuất
phát từ truyền thống đó. Phát huy sức mạnh truyền thống quê hương, Bến Tre
đang khơi dậy một phong trào mới “Đồng khởi kinh tế”, đây sẽ là động lực
mới thúc đẩy người dân Bến Tre nỗ lực vượt lên mọi khó khăn, thách thức
95
đưa nền kinh tế tỉnh nhà phát triển, tiến kịp và hội nhập với các tỉnh trong
vùng và cả nước. Thực tế những năm qua ở Bến Tre cho thấy, sức mạnh của
NLCN trong quá trình CNH, HĐH không chỉ thể hiện ở số lượng, chất lượng
nguồn lao động, mà còn ở chỗ biết phát huy truyền thống cách mạng, khơi
dậy tinh thần tự lực tự cường, huy động sức mạnh tổng hợp toàn dân tham gia
phong trào “Đồng khởi mới”. Hơn 4 năm qua, phong trào “Đồng khởi mới”
đã thực sự khơi dậy được những tiềm năng và sức mạnh nội tại của một tỉnh
ven biển này. Năm 2004 là năm thể hiện rõ nét nhất những thành quả gặt hái
được từ phong trào Đồng khởi mới: tỷ lệ tăng trưởng kinh tế vượt 2 con số là
10,08%, giảm tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 5%. Năm 2005, tỷ lệ tăng trưởng kinh
tế có khả năng đạt 12%, thu nhập bình quân đầu người ước đạt 500 USD [55].
Những con số này đã chứng minh cho sức mạnh của khát vọng, ý chí quyết
tâm vươn lên của người dân quê hương Đồng khởi trong công cuộc xây dựng
kinh tế, CNH, HĐH tỉnh nhà. Có thể nói, một khi khơi dậy được nguồn sức
mạnh tinh thần, tập hợp được ý chí của toàn xã hội vào mục tiêu phát triển sẽ
tạo ra nhân tố quan trọng cho sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH.
Hai là, tiếp tục giữ vững ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn, giải
quyết tốt các “điểm nóng” về tranh chấp đất đai
Thành tựu nổi bật trong công cuộc đổi mới mà Đảng ta khẳng định là
tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Trong những năm đổi mới, tình
hình chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh Bến Tre được giữ vững. Thực tế cho
thấy, môi trường chính trị - xã hội ổn định là điều kiện quan trọng cho các
hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội diễn ra thuận lợi, đời sống vật chất và tinh
thần người lao động được ổn định và ngày càng được nâng cao. Trong môi
trường đó, con người thật sự yên tâm chăm lo phát triển kinh tế, ra sức học
tập, lao động sáng tạo, cống hiến tài năng vì sự phát triển phồn vinh của xã
hội và hạnh phúc của mỗi cá nhân. Vì vậy, giữ vững ổn định chính trị - xã hội
là điều kiện quan trọng hàng đầu bảo đảm môi trường cho con người phát
triển toàn diện. Con người được phát triển cao về trí tuệ, trong sáng về đạo
96
đức, yên ổn về tinh thần sẽ đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển kinh tế-xã
hội, tạo ra nguồn sức mạnh to lớn thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển. Chính vì
vậy, tiếp tục giữ vững ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn là điều kiện và
cũng là giải pháp thúc đẩy NLCN Bến Tre phát triển.
Tuy nhiên, trong những năm qua, ở Bến Tre tình hình tranh chấp đất đai
do hậu quả cải tạo nông nghiệp để lại còn phức tạp, số vụ khiếu kiện tranh chấp,
khiếu nại về đất đai còn nhiều. Từ năm 1999 đến năm 2004, có 11.372 vụ việc
khiếu kiện tranh chấp và khiếu nại về đất đai, chủ yếu là đòi lại đất (6.222 vụ).
Số lượt người tập hợp lại thành đoàn đông người đến các cơ quan của huyện,
tỉnh, trung ương để khiếu nại khá nhiều, năm 2001 có 4 đoàn, mỗi đoàn từ 60-80
người [51, tr.1-2]. Đây là một trong những nguyên nhân gây bất ổn trong đời
sống chính trị, xã hội của địa phương, cản trở quá trình phát triển kinh tế-xã hội,
làm suy giảm chất lượng và sức mạnh NLCN của tỉnh trong thời gian qua. Đến
nay, toàn tỉnh đã giải quyết được 97,17% đơn khiếu nại về đất đai (6.046/6.222
đơn), với các hình thức hỗ trợ vốn chuyển đổi ngành nghề, cho vay vốn phát
triển sản xuất và đi vùng kinh tế mới đã góp phần ổn định đời sống nhân dân và
hạn chế việc khiếu kiện đông người, vượt cấp [55]. Do đó, tiếp tục giải quyết tốt
các vụ việc tranh chấp, khiếu nại về đất đai là vấn đề có ý nghĩa quan trọng góp
phần ổn định tình hình an ninh trật tự trên địa bàn, ngăn chặn nguy cơ kẻ địch lợi
dụng vấn đề này gây rối làm mất ổn định chính trị, đồng thời còn tạo môi trường
chính trị - xã hội ổn định - điều kiện cơ bản thúc đẩy NLCN phát triển.
3.2.3. Nhóm giải pháp xã hội
Phát triển NLCN không chỉ làm gia tăng số lượng và chất lượng nguồn
nhân lực, mà còn thể hiện ở việc bồi dưỡng, khai thác và sử dụng có hiệu quả
nguồn nhân lực đó cho phát triển. Bến Tre có nguồn lao động dồi dào, do đó,
việc tìm ra giải pháp “đột phá” để khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực
này cho đẩy mạnh CNH, HĐH đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của các
cấp lãnh đạo tỉnh Bến Tre.
97
Một là, tạo nhiều việc làm cho người lao động, đặc biệt lao động trong
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nhằm sử dụng có hiệu quả NLCN của tỉnh
Trong điều kiện ở Bến Tre, giải quyết việc làm cho người lao động,
nhất là lực lượng lao động nông thôn - bộ phận hiện chiếm số đông trong dân
cư, đang là nhiệm vụ bức xúc và là nội dung quan trọng trong mục tiêu phát
triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Cần thống nhất nhận thức của người lao động về
“việc làm”, đó là tất cả các hoạt động kinh tế-xã hội tạo ra thu nhập mà không
vi phạm pháp luật. Với cách hiểu như vậy, tích cực tạo ra nhiều việc làm cho
người lao động bằng cách phát triển sản xuất, khôi phục và phát triển các làng
nghề truyền thống, phát triển dịch vụ và du lịch, khuyến khích mọi người, mọi
thành phần kinh tế tự tìm việc làm, tự đầu tư tạo việc làm. Trong đó chú ý
một số giải pháp cụ thể sau:
- Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Đây không chỉ là
chính sách giải phóng mọi năng lực sản xuất, mà còn là giải pháp quan trọng để
tạo nhiều việc làm cho người lao động. Hiện nay ở Bến Tre, trên 93% lao động
đang làm việc trong các thành phần kinh tế tư nhân và cá thể. Có thể nói, khu
vực kinh tế tư nhân đang đóng vai trò to lớn trong việc tạo ra và giải quyết nhiều
việc làm cho người lao động. Vì vậy, Nhà nước cần tạo môi trường sản xuất kinh
doanh thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế, nhất là thực hiện “chính sách
ưu đãi cụ thể và tạo mọi điều kiện dễ dàng để thành phần kinh tế tư nhân phát
triển sản xuất, kinh doanh trên mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực được pháp luật
bảo hộ” [23, tr.66]. Đặc biệt kinh tế hộ gia đình vẫn là đơn vị kinh tế cơ bản
tổ chức sản xuất, kinh doanh và thu hút nhiều lao động, do đó cần có chính
sách hỗ trợ phát triển mạnh kinh tế hộ gia đình. Theo kết quả điều tra về kinh tế
trang trại, đến tháng 7-2005 toàn tỉnh có trên 3.800 hộ sản xuất đạt tiêu chí trang
trại. Loại hình chủ yếu là trồng cây lâu năm, chăn nuôi và nuôi thủy sản, đang
mang lại hiệu quả kinh tế khá cao, nhưng phát triển chưa ổn định, nhất là nuôi
thủy sản [3, tr.7]. Vì vậy, tỉnh cần khuyến khích các hình thức tổ chức sản xuất
quy mô lớn theo kiểu trang trại và tạo lập môi trường kinh tế, xã hội và pháp luật
98
thuận lợi cho mô hình kinh tế này phát triển. Đây là mô hình sản xuất đem lại hiệu
quả kinh tế-xã hội lớn như tạo khả năng huy động vốn, khai thác tiềm năng sản
xuất, tạo nhiều việc làm và tăng thêm nông sản hàng hóa cho xã hội và xuất khẩu.
Tạo ra nhiều việc làm không chỉ giúp ổn định đời sống người lao động,
mà có việc làm ổn định, phù hợp, còn là điều kiện khơi dậy tính tích cực,
năng động sáng tạo, nâng cao kỹ năng tay nghề cho người lao động trong điều
kiện cạnh tranh quyết liệt của thị trường lao động.
- Đẩy mạnh khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, du
nhập và phát triển thêm nghề mới trong nông thôn là cơ sở để giải quyết việc
làm tại chỗ cho lao động nông nghiệp. Theo báo cáo của Sở Công nghiệp,
những năm qua ở Bến Tre nhiều làng nghề được sắp xếp, củng cố và được trợ
giúp vốn từ chương trình khuyến công, chương trình vốn mục tiêu, nên không
ngừng phát triển. Nhiều làng nghề điển hình phát triển mạnh như: sản xuất than
gáo dừa, chỉ xơ dừa An Thạnh - Khánh Thạnh Tân (Mỏ Cày); sản xuất kẹo dừa
Phường VII (Thị xã Bến Tre); sản xuất chiếu thảm, lưới xơ dừa, hàng thủ công
mỹ nghệ An Hiệp (Châu Thành)... [2, tr.72]. Việc phát triển nghề và làng nghề ở
nông thôn Bến Tre đã đem lai hiệu quả kinh tế, xã hội to lớn, tạo động lực thúc
đẩy NLCN phát triển. Trước hết, góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH, chuyển dịch
cơ cấu lao động theo hướng di chuyển “tại chỗ”. Một bộ phận không nhỏ lao
động nông nghiệp chuyển sang lĩnh
vực phi nông nghiệp, do đó đây là con đường nhanh chóng đến với mục tiêu
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Thứ hai, giải quyết được việc làm tại
chỗ cho người lao động, nhất là lao động dư dôi, lao động thời vụ ở nông
thôn, tăng thu nhập, góp phần thực hiện chủ trương xoá đói giảm nghèo, tạo
cơ hội vươn lên làm giàu tại địa phương. Thứ ba, nhiều lao động ở nông thôn
có việc làm thu nhập ổn định, không chỉ là điều kiện giữ gìn trật tự địa bàn
nông thôn, hạn chế tệ nạn xã hội, giảm bớt sức ép cho các đô thị và thành phố
lớn do dòng di cư từ nông thôn ra đô thị tìm việc làm, mà còn tạo ra môi
99
trường rèn luyện tác phong lao động công nghiệp, khơi dậy tính năng động,
sáng tạo, thích ứng nhanh nhạy với cơ chế thị trường, qua đó từng bước thay
đổi tâm lý, thói quen sản xuất nhỏ của một bộ phận người lao động. Với
những hiệu quả kinh tế, xã hội to lớn đó, phát triển nghề mới và khôi phục,
phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Bến Tre cần được quan tâm, hỗ
trợ nhiều hơn nữa từ phía Nhà nước. Bởi vì, trên thực tế, phần lớn các làng
nghề ở Bến Tre phát triển manh mún, mang tính tự phát và phân tán trong các
hộ gia đình, công nghệ lạc hậu, chủ yếu là thủ công truyền thống, thị trường
tiêu thụ sản phẩm hạn hẹp và bấp bênh. Nhiều làng nghề gây ô nhiễm môi
trường rất nặng, ảnh hưởng đến cuộc sống người dân trong khu vực các làng
nghề. Vì vậy, tỉnh cần sớm “triển khai đề án phát triển ngành nghề nông thôn,
củng cố và phát triển làng nghề truyền thống. Xây dựng các tiêu chí làng
nghề, hỗ trợ các làng nghề phát triển đạt các tiêu chí theo quy định và được
công nhận” [54, tr.4]. Nếu được tỉnh triển khai thực hiện phương án này sẽ tạo
điều kiện, cơ hội thuận lợi cho các cụm làng nghề ở Bến Tre hình thành và
phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, việc đầu tư công nghệ mới, hiện đại hóa
công nghệ truyền thống để xây dựng các làng nghề sản xuất chuyên môn hóa
tạo ra năng suất, chất lượng sản phẩm tốt, tăng sức cạnh tranh trên thị trường
phải được sự giúp đỡ về vốn, về cơ chế chính sách từ phía Nhà nước và chính
quyền các cấp ở địa phương. Đồng thời với quá trình này là sự giúp đỡ,
hướng dẫn, kỹ thuật chuyển giao và ứng dụng công nghệ mới vào quá trình
sản xuất của các nhà chuyên môn, cán bộ khoa học cho người lao động trong
các làng nghề. Việc dạy nghề cho người lao động tại các làng nghề cần được
tổ chức tập trung và khoa học, trong đó chú trọng kết hợp các hình thức
truyền nghề, dạy nghề tại cơ sở với sự hướng dẫn, kèm cặp trực tiếp của các
nghệ nhân.
Việc phát triển làng nghề ở Bến Tre đã thu hút nhiều lao động ở các lứa
tuổi, trong đó có cả trẻ em trong độ tuổi đi học. Vì muốn tăng thu nhập, không
ít gia đình cho phép hoặc ép buộc con em mình phải nghỉ học để tham gia lao
100
động. Điều này không chỉ vi phạm pháp luật lao động mà về lâu dài sẽ làm
suy giảm chất lượng nguồn nhân lực của địa phương và hạn chế cơ hội phát
triển bản thân của người lao động. Do đó, chính quyền các cấp cần tuyên
truyền vận động các gia đình và chủ sử dụng lao động ở các làng nghề coi
trọng và tạo điều kiện cho các em có điều kiện học tập, hạn chế tham gia lao
động để có thời gian tập trung học tập tốt.
Như vậy, khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống cũng như du
nhập thêm nghề mới ở nông thôn Bến Tre được xem là một trong những giải
pháp hữu hiệu trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Ngoài
hiệu quả kinh tế, xã hội to lớn như phát triển sản xuất, ổn định xã hội, phát triển
làng nghề còn tác động trực tiếp đến phát triển cá nhân người lao động, khai thác
và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động to lớn trong nông thôn Bến Tre.
- Xuất khẩu lao động cần được xem là hướng giải quyết việc làm có
hiệu quả ở Bến Tre hiện nay. Theo báo cáo của Sở Lao động- Thương binh và
Xã hội tỉnh, từ năm 2001 đến 2005, Bến Tre có hơn 3.000 người đi lao động
có thời hạn ở nước ngoài. Tính riêng năm 2004 đã có 971 người, năm 2005
ước đạt 1000 lao động đi làm việc ở nước ngoài, thị trường chủ yếu là
Malaysia, Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc. Công tác xuất khẩu lao động
không những giải quyết được việc làm, tăng thu nhập, người lao động còn tiết
kiệm gửi về cho người thân một khoảng tiền khá lớn để ổn định đời sống gia
đình, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh. Quy
mô xuất khẩu lao động của tỉnh có tăng so với các năm trước, nhưng chưa đáp
ứng nhu cầu xã hội. Nguyên nhân chủ yếu là hiện nay các trung tâm dịch vụ
việc làm của tỉnh không có chức năng xuất khẩu lao động, phải qua trung gian
là Thành phố Hồ Chí Minh. Mặt khác, phần đông lao động có nhu cầu xuất
khẩu là người nghèo không có tài sản thế chấp hoặc trình độ thấp. Vì vậy,
trong những năm tới tỉnh cần đẩy mạnh hơn nữa công tác xuất khẩu lao động,
xem đây là một trong những giải pháp quan trọng nhằm sử dụng có hiệu quả
nguồn lao động của tỉnh trong bối cảnh người lao động Bến Tre di cư nhiều.
101
Để công tác này có hiệu quả, tỉnh cần quy hoạch từ chỗ xuất khẩu lao động
giản đơn phải hướng đến xuất khẩu lao động kỹ thuật.
Xuất khẩu lao động giản đơn (chủ yếu là làm việc nhà, bốc xếp…)sẽ giảm
nhẹ được gánh nặng đào tạo và giảm bớt sức ép nhu cầu việc làm trong thời hạn
ngắn; giúp người lao động có thu nhập cao hơn so với nếu làm việc tại tỉnh. Tuy
nhiên, họ sẽ dễ bị bóc lột và không có điều kiện thăng tiến, cải thiện nghề
nghiệp. Tình trạng lao động Việt Nam bỏ trốn ở Malaysia và một số nước cho
thấy rõ điều đó. Vì vậy, tỉnh cần có những liên kết chặt chẽ về mặt pháp lý với
các đối tác ngoài tỉnh và nước ngoài nhằm bảo đảm quyền lợi cho người lao
động. Mặt khác, cần có kế hoạch chủ động hướng nghiệp, đào tạo cho người lao
động tham gia xuất khẩu lao động có trình độ nhất định trước khi ra nước ngoài
làm việc. Điều này giúp người lao động có một số kiến thức nhất định về công
việc, ngôn ngữ, văn hóa của nước sẽ đến lao động và nhất là hiểu biết và có ý
thức chấp hành pháp luật, hợp đồng lao động. Đồng thời tỉnh cũng cần hỗ trợ
kinh phí đào tạo nghề cho người lao động nghèo và tín dụng cho người tham gia
xuất khẩu lao động.
Xuất khẩu lao động kỹ thuật trong điều kiện tỉnh đang thiếu lực lượng
lao động này cũng làm hạn chế sự phát triển kinh tế của tỉnh. Tuy nhiên, cũng
không thể ngăn cản nguồn lao động có trình độ kỹ thuật này đi nơi khác khi
cơ hội việc làm và thu nhập tại tỉnh chưa được cải thiện. Số lao động này sẽ là
nguồn nhân lực có chất lượng của tỉnh sau khi hợp đồng làm việc với nước
ngoài được ký kết, vì ngoài thu nhập được cải thiện, họ có điều kiện tiếp cận
với thiết bị tiên tiến, tiếp nhận tri thức khoa học mới, rèn luyện tác phong công
nghiệp, ngoài ra còn chuyển một khoản thu nhập về cho gia đình, góp phần xóa
đói giảm nghèo, phát triển kinh tế địa phương.
Như vậy, tạo nhiều việc làm cho người lao động bằng phát triển sản
xuat, khôi phục và mở mang ngành nghề, xuất khẩu lao động,... đó là những giải
pháp nếu thực hiện tốt sẽ đem lại hiệu quả cho công tác giải quyết việc làm ở
102
Bến Tre hiện nay, nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả NLCN, chuyển thành
nguồn nội lực thúc đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH.
Hai là, có chính sách hữu hiệu để thu hút và trọng dụng nhân tài,
khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ
cho sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng KH-CN, mà sự phát
triển KH-CN đòi hỏi sự tích tụ “chất xám”. NLCN Bến Tre hiện tại trên nhiều
mặt chưa đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, đặc biệt, đội ngũ hoạt động KH-CN
của tỉnh còn quá nhỏ bé, vì vậy, nếu chỉ dựa vào NLCN hiện có, Bến Tre
chưa đủ sức đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH. Thấy được vấn đề này, trong
vài năm gần đây, Bến Tre đã và đang thực hiện các chính sách thu hút và đãi
ngộ nhân tài nhằm cải thiện chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh. Tuy nhiên,
trên thực tế các chính sách này chưa hướng tới lực lượng lao động có trình độ
và chuyên gia ngoài tỉnh, chưa thu hút được nhiều người tài giỏi và chuyên
gia trẻ tham gia vào các vị trí quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Đây
cũng là một trong những yếu tố làm hạn chế khả năng cạnh tranh của tỉnh
trong việc mời gọi các nhà đầu tư. Vì vậy, trong thời gian tới, ngoài việc tạo
ra sự khác biệt về chế độ đãi ngộ vật chất và tinh thần, cần tạo điều kiện và
môi trường làm việc thuận lợi cùng với sự tôn vinh đúng mức nhân tài, sẽ có
thể tạo ra “lực hút" mạnh hơn trong thực hiện chính sách “cầu hiền” của tỉnh
hiện nay. Về lâu dài, tỉnh cần có kế hoạch đầu tư đúng mức, tập trung và có
trọng điểm trong việc đào tạo những chuyên gia giỏi, chuyên gia “đầu đàn”
trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên mà tỉnh đang thu hút. Có thể nói, sự thành
công của phát triển kinh tế trước hết do thành công của sự phát triển KH-CN,
mà sự thành công của KH-CN lại phụ thuộc chủ yếu vào tính hiệu quả của
chính sách thu hút, khai thác và trọng dụng nhân tài. Hơn lúc nào hết, “Tôn
trọng trí thức, quý trọng nhân tài” cần được thể hiện một cách rõ nét trên thực
tế ở Bến Tre.
103
3.2.4. Nhóm giải pháp giáo dục - đào tạo
Mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và CNH, HĐH đất
nước chỉ có thể thành hiện thực khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động
nước ta được trang bị một nền tảng văn hóa vững chắc, một trình độ học vấn
và chuyên môn kỹ thuật cao. Điều này đã được V.I.Lênin chỉ rõ: “Không thể
xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa trong một nước có những người mù chữ”
[38, tr.374].
Ngày nay, để phát triển NLCN, hầu hết các quốc gia đều xem GD-ĐT là
giải pháp hữu hiệu, là con đường cơ bản và trực tiếp nhất. Bởi vì, phát triển
NLCN chủ yếu là làm cho con người ngày càng phát triển về trí tuệ, nâng cao
năng lực và phẩm chất, tức là con người đã qua GD-ĐT. Chính vì vậy, Đảng
ta luôn coi GD-ĐT, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Rõ ràng,
GD-ĐT là công cụ quan trọng nhất và trực tiếp nâng cao tri thức, trang bị
chuyên môn kỹ thuật và hình thành kỹ năng lao động, năng lực tư duy sáng
tạo cho người lao động. Nhằm đào tạo nguồn nhân lực có những năng lực và
phẩm chất cần thiết đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, trong điều kiện hiện nay,
GD-ĐT tỉnh Bến Tre cần tập trung thực hiện một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới và phát triển hệ thống giáo dục- đào tạo,
đặc biệt hệ thống đào tạo nghề của tỉnh Bến Tre
Trong những năm qua, GD-ĐT tỉnh Bến Tre có vai trò to lớn trong việc
nâng cao chất lượng NLCN, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh
tế-xã hội và CNH, HĐH của tỉnh. Điều đó được khẳng định qua thành tựu xoá
mù chữ, phổ cập giáo dục và nâng dần tỷ lệ lao động qua đào tạo hàng năm.
Tuy nhiên, để thật sự là công cụ đắc lực trong việc đào tạo nguồn nhân lực có
chất lượng phục vụ cho giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH, hệ thống GD-ĐT
Bến Tre cần phải tiếp tục đổi mới và phát triển “với tốc độ nhanh hơn, chất
lượng tốt hơn, hiệu quả lớn hơn” [18, tr.9 ], hướng tới các nội dung cụ thể
sau:
104
- Đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục nhằm phát huy tính tích
cực, sáng tạo của người học, tạo ra nguồn lao động có chất lượng, đáp ứng
yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Bến Tre
Nâng cao chất lượng GD-ĐT đang là vấn đề bức xúc, được Nhà nước và
toàn xã hội quan tâm và là nhiệm vụ trọng tâm của ngành GD-ĐT hiện nay. Để
sản phẩm GD-ĐT có chất lượng, cần đổi mới nội dung và phương pháp giáo
dục. Về nội dung, cần giáo dục cho thế hệ trẻ Bến Tre không chỉ có tri thức khoa
học cơ bản hiện đại, có kỹ năng nghề nghiệp, chuyên môn, mà còn có lòng tự
hào dân tộc, yêu quê hương, biết kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống,
đạo đức tốt đẹp, có ý chí vươn lên không cam chịu đói nghèo. Nội dung giáo dục
phẩm chất đạo đức, lý tưởng cách mạng phải được xem là yếu tố quyết định
trong việc tạo ra những con người có nhân cách đạo đức phù hợp với yêu cầu
của thời kỳ phát triển mới. Dạy người phải được xem là mục tiêu quan trọng, cần
hướng tới trong quá trình GD-ĐT.
Lối giáo dục kiểu nhồi nhét kiến thức, nặng về dạy chữ, ít chú ý rèn
luyện phương pháp tư duy đang là phương pháp phổ biến trong nhiều nhà
trường đã làm ảnh hưởng đến chất lượng GD -ĐT. Trong các cơ sở đào tạo ở
tỉnh hiện vẫn còn sự mất cân đối giữa dạy chữ và dạy nghề. Vì vậy, cần đổi
mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục theo hướng phát huy tính tích cực chủ
động, thúc đẩy sự phát triển trí tuệ và khơi dậy khả năng sáng tạo ở người
học, giúp họ hình thành năng lực và phương pháp tư duy khoa học, đồng thời
chú trọng đúng mức thực hành, rèn luyện kỹ năng, tay nghề cho người học.
Đặc biệt, cần hình thành năng lực phát hiện cái mới, bản lĩnh dám nghĩ, dám
làm trong nền kinh tế thị trường. Ngày nay, hiệu quả của giáo dục, đào tạo
không chỉ tính bằng lượng kiến thức tiếp thu, mà chủ yếu phải tính bằng sự
phát triển của năng lực sáng tạo, phương pháp tư duy khoa học, khả năng
thích nghi và năng lực biến tri thức thành kỹ năng của người lao động. Mặt
khác, yêu cầu mới trong điều kiện hiện nay, đòi hỏi người lao động cần phải
có kiến thức liên ngành, nhạy bén về thông tin, có tính cơ động về nghề
105
nghiệp. Giáo viên có vai trò quyết định trong đổi mới nội dung và phương
pháp giáo dục, do đó, điều quan trọng trước tiên là đổi mới nhận thức và nâng
cao năng lực vận dụng phương pháp giáo dục của người thầy trong quá trình
giáo dục.
- Mở rộng quy mô giáo dục- đào tạo, nâng cao chất lượng, hiệu quả
của giáo dục- đào tạo nghề cho người lao động
Để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH trong những năm tới, GD-ĐT
tỉnh Bến Tre cần có sự phát triển vượt bậc. Sự phát triển này phải là kết quả
của quá trình kết hợp đồng thời giữa mở rộng quy mô GD-ĐT với nâng cao
chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo. Xuất phát từ nhu cầu nguồn nhân
lực và với hiện trạng cơ cấu trình độ lao động của tỉnh như hiện nay, cần tập
trung phát triển mạnh giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề, giáo dục đại học,
cao đẳng cả quy mô, chất lượng và hiệu quả, để một mặt, phổ cập nghề
nghiệp cho người lao động ở tất cả các thành phần kinh tế, tạo điều kiện thuận
lợi cho mọi người lao động được học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề
nghiệp. Mặt khác, cần gấp rút đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề,
thợ bậc cao, kỹ thuật viên cao cấp nhằm cung cấp cho các thành phần kinh tế
đội ngũ nhân lực chất lượng cao, đủ năng lực tiếp cận và sử dụng thành thạo
các phương tiện kỹ thuật và công nghệ hiện đại, đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế, yêu cầu mở rộng phát triển sản xuất theo hướng CNH, HĐH.
Hệ thống giáo dục và đào tạo nghề của tỉnh tiếp tục củng cố và phát
triển theo hướng đa dạng hóa ngành nghề và loại hình đào tạo. Tuy nhiên, tỉnh
cần xác định rõ một số trường trọng điểm đào tạo những ngành nghề hoặc
nhóm nghề phục vụ lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của tỉnh và đáp ứng nhu cầu
của thị trường lao động. Để nâng chất lượng dạy nghề, trước mắt cần tập
trung xây dựng một số trường và trung tâm dạy nghề chất lượng cao như
trường Cao đẳng Bến Tre, trường Kỹ nghệ Bến Tre, trung tâm dạy nghề trọng
điểm ở các huyện Mỏ Cày, Ba Tri. Ngoài ra, hệ thống dạy nghề phổ thông
như các trung tâm dịch vụ việc làm, các trung tâm dạy nghề thuộc các tổ chức
106
chính trị - xã hội, cơ sở dạy nghề tư nhân, các làng nghề… cũng cần sắp xếp
đi vào nề nếp và nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên đạt chuẩn đào tạo, chú ý
nâng cấp trang thiết bị hiện đại phục vụ tốt công tác đào tạo. Hệ thống đào tạo
này phải thực hiện phương châm đào tạo nghề theo quy luật cung - cầu của thị
trường lao động trong và ngoài tỉnh.
Ngoài ra, nhằm đạt mục tiêu 25% lao động qua đào tạo vào năm 2005
và 40% vào năm 2010, trong những năm tới cần đa dạng hóa các loại hình
đào tạo và bồi dưỡng nghề, chú ý phát triển hình thức đào tạo nghề trực tiếp
tại cơ sở sản xuất hay trong các làng nghề truyền thống. Đây là hình thức khá
phổ biến và phù hợp với đối tượng người lao động có trình độ văn hóa thấp và
thời gian học nghề ngắn. Tuy không có giáo trình hay kiểm tra cụ thể, nhưng
“người thầy” trong các làng nghề chính là những nghệ nhân, những kỹ thuật
viên nên có tay nghề thành thạo, nhiều kinh nghiệm, người học nghề dễ tiếp
thu, thời gian học nghề cũng là thời gian thực hành nên người lao động thuần
thục sau khi ra nghề. Ngoài ra, cũng cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa các trung
tâm GD-ĐT nghề với các cơ sở sản xuất, với từng xí nghiệp. Khuyến khích
các thành phần kinh tế tham gia đào tạo nghề. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác
dạy nghề trên cơ sở nâng cao chất lượng đào tạo cũng được xem là một trong
những giải pháp nhằm nâng cao năng lực đào tạo nghề cho người lao động ở
Bến Tre.
Đi đôi với đào tạo lực lượng lao động mới, cần chú ý đào tạo lại, cập
nhật hóa kiến thức khoa học- kỹ thuật và công nghệ, nâng cao tay nghề cho
đội ngũ lao động hiện có, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nền kinh tế.
Để công tác đào tạo nghề cho người lao động thật sự có hiệu quả và
chất lượng cao, cần nhanh chóng nâng cao trình độ và năng lực sư phạm của
đội ngũ giáo viên dạy nghề. Bởi vì “Giáo viên là nhân tố quyết định chất
lượng giáo dục”, “giáo viên phải có đủ đức, tài” [18, tr.38]. Ngoài ra, cần cải
tiến nội dung đào tạo trên cơ sở tiếp thu những tiến bộ khoa học và công nghệ
hiện đại.
107
Nâng cao hiệu quả đào tạo bằng cách gắn đào tạo với sử dụng, điều này
vừa tránh được lãng phí vừa khắc phục tình trạng bất cập giữa đào tạo với thị
trường lao động. Muốn vậy, tỉnh cần định kỳ khảo sát nhu cầu lao động và
ngành nghề cần đào tạo, trên cơ sở đó lập kế hoạch và quy hoạch đào tạo hợp
lý theo lĩnh vực và theo bậc đào tạo.
Cùng với mở rộng quy mô đào tạo nghề, cần coi trọng công tác hướng
nghiệp và phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp trung học, chuẩn bị cho
thanh, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của tỉnh và nhằm khắc phục tình trạng bất hợp lý về cơ cấu trình
độ, ngành nghề hiện nay.
Tóm lại, mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo
nghề để ngày càng có nhiều người lao động có nghề và giỏi nghề sẽ tăng
nhanh lực lượng lao động có trình độ, đó là nguồn gốc làm tăng năng suất lao
động xã hội, đưa nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Mặt khác, việc
phát triển đào tạo nghề và dạy nghề cho người lao động còn có khả năng thu
hút và đào tạo nghề cho gần 80% học sinh trong toàn tỉnh không đỗ đại học mỗi
năm có nghề nghiệp và tham gia lao động xã hội, đóng góp to lớn sức lao động
sáng tạo cho công cuộc xây dựng kinh tế tỉnh nhà.
Thứ hai, phát hiện, đào tạo và bồi dưỡng tài năng nhằm tạo ra đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, chuyên gia KH-CN, nhà doanh nghiệp giỏi - những
nhân tài, phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh
Trong thời đại ngày nay, nhân tài thực sự là tài sản quý hiếm của mỗi
quốc gia. Tài sản đó có được phải bằng một chiến lược lâu dài, đồng bộ từ
khâu phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, đến sử dụng, đãi ngộ nhằm tạo ra điều
kiện và môi trường thuận lợi nhất cho tài năng phát triển.
Cùng với cả nước, Bến Tre tiến hành CNH, HĐH với rất nhiều yêu cầu
mới, ngày càng cao và phức tạp nên đang rất cần nhiều chuyên gia giỏi trên
tất cả các lĩnh vực. Trong vài năm trở lại đây, Bến Tre bắt đầu coi trọng và có
chính sách thu hút, sử dụng và đãi ngộ nhân tài, nhưng vẫn đang thiếu nghiêm
108
trọng cán bộ có thực tài. Chính sự chậm chạp trong chiến lược nhân tài, bỏ
rơi, quên lãng làm mất mát nhân tài, đồng nghĩa với việc làm mất đi nguồn tài
sản quý giá nhất mà tỉnh đang thiếu hụt. Vì vậy, hơn lúc nào hết, “chiến lược
nhân tài” trở thành vấn đề cấp bách đối với Bến Tre trên đường phát triển.
Đội ngũ nhân tài phải được xây dựng một cách đồng bộ.
Trước hết, quyết định nhất là cần đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý giỏi. Đó phải là những người có tư duy chiến lược, trí
tuệ sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng, giỏi nắm bắt thực tiễn, đủ sức hoạch
định và dự báo xu hướng phát triển cũng như nhạy bén giải quyết thành công
những rủi ro, biến động có thể xảy ra. Đặc biệt, họ còn biết tập hợp và sử
dụng có hiệu quả một tập thể chuyên gia giỏi làm tham mưu đắc lực và kịp
thời thay thế những người không đáp ứng yêu cầu. V.I.Lênin đã chỉ ra rằng:
"Người cộng sản lãnh đạo chỉ có một cách duy nhất để chứng minh quyền
lãnh đạo của mình, đó là tìm cho mình được nhiều, càng ngày càng nhiều,
những người phụ tá... biết giúp đỡ họ làm việc, biết đề bạt họ, biết giới thiệu
và chú ý đến kinh nghiệm của họ" [39, tr.407]. Có thể nói, có được đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi là nhân tố quyết định thực hiện thành công chiến
lược nhân tài.
Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học- công nghệ có trình độ cao, đủ sức
tiếp cận và làm chủ những thành tựu KH-CN cũng như có thể ứng dụng nó
vào sản xuất, quản lý. Bến Tre hiện đang thiếu nghiêm trọng đội ngũ cán bộ
này. Vì vậy, ngoài chính sách thu hút, sử dụng và đãi ngộ đội ngũ này, tỉnh
cần chú trọng phát hiện, tuyển chọn học sinh giỏi để đào tạo thành nhân tài
phục vụ cho tỉnh. Việc này cần phải có cơ chế, chính sách ràng buộc, bởi vì,
cũng đã có không ít học sinh giỏi của tỉnh được đưa đi đào tạo tại những
trường danh tiếng trong và ngoài nước, nhưng sau khi thành đạt trở thành
những nhân tài, chuyên gia giỏi lại từ chối không trở về phục vụ quê hương.
Bên cạnh đó, tỉnh cần tiến hành rà soát ngay đội ngũ lao động có tay nghề,
chuyên môn giỏi đang làm việc tốt trong các cơ quan, đơn vị sản xuất, ban
109
ngành của tỉnh để có chính sách khuyến khích phát huy năng lực của họ và
tạo điều kiện để họ được đào tạo lại theo những yêu cầu mới của CNH, HĐH
đặt ra.
Xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp giỏi. Đây là lực lượng giữ vai
trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế, nhất là trong bối cảnh tỉnh
đang thực hiện chính sách thu hút các nguồn vốn đầu tư. Nếu đầu tư nhiều
vốn và công nghệ hiện đại mà chúng ta không có những chuyên gia KH-CN
giỏi, nhà doanh nghiệp tài năng thì mọi đầu tư đều kém hiệu quả và nền kinh
tế cũng không mạnh, khả năng cạnh tranh cũng hạn chế. Trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, các nhà doanh nghiệp có vai trò hết sức quan
trọng. Bởi họ là "cầu nối" giữa quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của
người lao động thông qua hoạt động dịch vụ đầu vào và đầu ra cho quá trình sản
xuất. Trong tình hình khó khăn về "đầu ra" của những vùng chuyên canh nông
sản của Bến Tre, việc đào tạo, xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp giỏi là hết
sức cần thiết. Chính họ sẽ cung cấp những thông tin về thị trường như giá cả,
mẫu mã, chủng loại, chất lượng để từ đó người sản xuất điều chỉnh, cải tiến trong
quá trình sản xuất, đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu người tiêu dùng. Sự liên hệ,
hợp tác giữa nhà doanh nghiệp với người sản xuất (chủ yếu là nhà nông) là một
biểu hiện thực tế sinh động của tăng cường liên minh công - nông - trí thức ở
nước ta hiện nay.
Tóm lại, để vượt ra khỏi nguy cơ tụt hậu, đưa nền kinh tế phát triển
nhanh và bền vững, Bến Tre cần nhanh chóng phát triển mạnh NLCN, trong
đó thật sự coi trọng chiến lược đào tạo và sử dụng nhân tài, xây dựng đội ngũ
nhân tài đồng bộ, có tâm huyết, đủ sức phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH
của tỉnh Bến Tre.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Phát triển NLCN ở Bến Tre đang là vấn đề cấp bách trước yêu cầu
khách quan của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Tuy nhiên, NLCN Bến Tre
110
phát triển theo hướng nào, nhanh hay chậm và đến mức độ nào phần lớn tuỳ
thuộc vào hệ thống chính sách và giải pháp mà tỉnh Bến Tre đề ra có nhằm
khơi dậy tiềm năng, bồi dưỡng, khai thác và sử dụng có hiệu quả NLCN cho
CNH, HĐH hay không.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng NLCN và phân tích quá trình phát triển
NLCN của tỉnh Bến Tre trong những năm qua, xuất phát từ tình hình kinh tế-
xã hội của tỉnh, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản có tính cấp bách
nhằm thúc đẩy NLCN Bến Tre phát triển mạnh hơn. Quá trình phát triển
NLCN ở Bến Tre phải là kết quả của việc thực hiện đồng bộ những giải pháp
trên. Trong những năm tới, ngoài việc chú trọng thực hiện nhóm giải pháp
GD-ĐT, luận văn nhấn mạnh đến các giải pháp phát triển kết cấu hạ tầng kinh
tế-xã hội và giải quyết việc làm cho người lao động. Bởi đây là những vấn đề
bức xúc nếu được quan tâm đầu tư và giải quyết tốt sẽ mở ra cho Bến Tre
triển vọng phát triển nhanh trong tương lai.
111
KẾT LUẬN
Qua 3 chương, luận văn đã phân tích và giải quyết những vấn đề cơ bản
sau:
1. Việc phân tích cấu trúc của NLCN và mối quan hệ của nó với các
nguồn lực khác cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về NLCN và vai trò của nó
trong phát triển xã hội, nhất là trong thời kỳ CNH, HĐH, qua đó càng làm rõ
tính tất yếu phát triển NLCN trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta
nói chung, ở Bến Tre nói riêng.
2. Sự nghiệp CNH, HĐH mà Bến Tre đang tiến hành ngoài những đặc
điểm chung, còn mang đậm những nét đặc trưng riêng của một tỉnh “cù lao”
chậm phát triển. Những đặc điểm riêng đó đã đặt ra cho Bến Tre yêu cầu phải
phát triển nhanh và mạnh hơn nữa NLCN, nhằm tạo ra nguồn nội lực mạnh
mẽ nhanh chóng đưa tỉnh vượt qua khỏi nguy cơ tụt hậu về kinh tế, phát triển
nhanh và bền vững hơn, hòa nhập với các tỉnh trong vùng và cùng cả nước
thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước vào năm 2020.
3. Luận văn phân tích làm rõ những đặc điểm về vị trí địa lý, kinh tế-
xã hội, cũng như truyền thống lịch sử, văn hóa, con người Bến Tre. Tất cả
những yếu tố đó đều có ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng NLCN, ảnh
hưởng đến quy mô, tốc độ phát triển NLCN của tỉnh trong nhiều năm qua. Từ đó,
luận văn đặt ra yêu cầu phải tìm kiếm giải pháp nhằm phát triển NLCN phục vụ sự
nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH của tỉnh trong những năm tới.
4. Phân tích thực trạng về số lượng, cơ cấu và chất lượng NLCN cũng
như thực trạng phát triển NLCN của tỉnh trong những năm qua, luận văn đã
đưa ra những đánh giá khái quát về chất lượng NLCN của tỉnh. Có thể khẳng
định: NLCN của tỉnh hiện tại còn nhiều bất cập, thiếu về số lượng, yếu về
chất lượng, mất cân đối về cơ cấu ngành nghề và cấp bậc đào tạo, nhất là việc
sử dụng chưa thật sự có hiệu quả. Từ thực trạng đó, luận văn chỉ ra một số
112
nguyên nhân chính ảnh hưởng đến quá trình phát triển NLCN của tỉnh và dự
báo những xu hướng vận động cơ bản của NLCN của Bến Tre trong những
năm tới.
5. Xuất phát từ những quan điểm cơ bản chỉ đạo phát triển NLCN, luận
văn xây dựng một hệ thống giải pháp để tỉnh Bến Tre có thể nghiên cứu, tham
khảo trong quá trình hoạch định chiến lược, chính sách phát triển NLCN, đặc
biệt nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp với thực tiễn công cuộc CNH,
HĐH của tỉnh.
Phát triển NLCN ở nước ta nói chung, ở Bến Tre nói riêng đang là yều
cầu cấp bách, được Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và các địa phương
rất quan tâm thực hiện, xem đó là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội. Mục tiêu CNH, HĐH và công cuộc đổi mới đất nước chỉ
trở thành hiện thực khi chúng ta có được NLCN đủ mạnh, thật sự là động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững.
Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn đối với nước ta,
nhất là đối với một tỉnh như Bến Tre hiện nay. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên
cứu sâu hơn vấn đề này là rất cần thiết. Luận văn sẽ còn tiếp tục mở rộng
phạm vi nghiên cứu đề tài này.
Một số kiến nghị với tỉnh Bến Tre:
Thứ nhất, tỉnh nên giao cho một cơ quan cấp sở (như Sở Nội vụ) chịu
trách nhiệm tổ chức điều tra, đánh giá một cách khá đầy đủ, toàn diện về số
lượng và chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh, ít nhất 2 năm
một lần. Trên cơ sở đó, tham mưu cho tỉnh lập kế hoạch sử dụng, đào tạo và
đào tạo lại, nhằm khai thác tiềm năng nguồn nhân lực hiện có này một cách
có hiệu quả. Đồng thời có cơ chế, chính sách phù hợp nhằm “bảo toàn” nguồn
nhân lực quý giá này của tỉnh, ngăn chặn tình trạng “chảy chất xám” có nguy
cơ gia tăng do tác động của thị trường lao động và do điều kiện làm việc ở
tỉnh chưa được cải thiện.
113
Thứ hai, tỉnh nên giao cho một cơ quan cấp sở (như Sở Lao động-
Thương binh và Xã hội kết hợp với Sở GD-ĐT) chịu trách nhiệm điều tra rõ
thực trạng NLCN của tỉnh cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu để có kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng có hiệu quả hơn tiềm năng to lớn nguồn
lao động dồi dào của tỉnh.
Thứ ba, xây dựng chương trình trên sóng phát thanh, truyền hình của
tỉnh về chủ trương, chính sách phát triển NLCN, nhất là chính sách phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, cũng như những chính sách thu hút ưu đãi, trọng
dụng nhân tài mà tỉnh đang thực hiện. Qua đó, tuyên truyền và khuyến khích
người lao động tích cực học tập nâng cao trình độ và ra sức lao động cống hiến
vì sự nghiệp CNH, HĐH và phát triển bền vững của tỉnh Bến Tre.
114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Khoa giáo Trung ương (2001), Triển khai Nghị quyết Đại hội IX
trong lĩnh vực khoa giáo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Báo Đồng Khởi (2005), số đặc biệt kỷ niệm 30 năm ngày miền Nam
hoàn toàn giải phóng (30/4/1975 – 30/4/2005).
3. Báo Đồng Khởi ngày 19-8-2005.
4. Hoàng Chí Bảo (1993), “Ảnh hưởng của văn hóa đối với việc phát huy
nguồn lực con người”, Tạp chí Triết học (1), tr.13-17.
5. Đặng Quốc Bảo-Nguyễn Đắc Hưng (2004), Giáo dục Việt Nam hướng tới
tương lai - vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Huỳnh Văn Be (2005), "Phát huy tinh thần Đồng khởi, Bến Tre đổi mới
công tác xây dựng Đảng để thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển", Tạp
chí Cộng sản, (7), tr.7-10.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ Đại học và Sau đại học (2005), Báo cáo
tổng kết công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy năm
2004 và báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện đề án cải tiến tuyển sinh
đại học, cao đẳng, Hà Nội.
8. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Thực trạng lao động -
việc làm ở Việt Nam 2003, Nxb Thống kê.
9. Mai Quốc Chánh (chủ biên) (1999), Nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn (đồng chủ
biên) (2002), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam - lý luận
và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Cục Thống kê Bến Tre (2004), Niên giám thống kê 2003, Bến Tre.
12. Cục Thống kê Bến Tre (2004), Báo cáo khoa học: Tăng trưởng kinh tế và chỉ
số mức sống dân cư tỉnh Bến Tre giai đoạn 2000-2004, Bến Tre.
13. Cục Thống kê Bến Tre (2005), Niên giám thống kê 2004, Bến Tre.
115
14. Nguyễn Hữu Dũng (2003), Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt
Nam, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban
Chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khóa VII (Lưu hành nội bộ), Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương khóa IX (Lưu hành nội bộ), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội
22. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Bến Tre (1996), Văn kiện Đại
hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ VI.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam, Tỉnh ủy Bến Tre (2000), Văn kiện Đại hội đại
biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ VII.
24. Nguyễn Thị Như Hà (2005), "Đầu tư nước ngoài với việc phát triển và khai
thác nguồn nhân lực Việt Nam", Tạp chí Lý luận chính trị, (4), tr.80-
84.
25. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Phạm Minh Hạc, Hồ Sĩ Quý (chủ biên) (2002), Nghiên cứu con người -
đối tượng và những hướng chủ yếu, Niên giám số 1, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
116
27. Thẩm Vinh Hoa - Ngô Quốc Diệu (chủ biên)(1996), Tôn trọng trí thức,
tôn trọng nhân tài - kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước (Sách
tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Nguyễn Đình Hoà (2004), “Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Triết học, (1), tr.14-
19.
29. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam
(1995), Từ điển bách khoa Việt Nam, quyển số 3, Trung tâm biên
soạn từ điển bách khoa Việt Nam, Hà Nội.
30. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn
khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình
Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đoàn Văn Khái (1995), “Nguồn lực con người - yếu tố quyết định sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Triết học,
(4), tr.20-23.
32. Phan Văn Khải (1998), "Tăng cường sự hợp tác giữa các doanh nghiệp
với các nhà khoa học-công nghệ và các cơ quan Chính phủ để nâng
cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế", Báo Nhân dân,
(15538), tr.1-2.
33. Bùi Thị Ngọc Lan (2002), Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Bùi Thị Ngọc Lan (2004), Tư tưởng của V.I.Lênin về nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Kỷ yếu
đề tài khoa học “Tư tưởng của V.I. Lênin về kế thừa những thành tựu
của chủ nghĩa tư bản vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga
và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam”, Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học.
35. Bùi Thị Ngọc Lan (2004), “Vai trò của giáo dục và đào tạo trong việc
phát triển nguồn nhân lực vùng đồng bằng sông Hồng”, Tạp chí Lý
luận chính trị, (6), tr.84-88.
117
36. Bùi Thị Ngọc Lan (2005), “Phát triển làng nghề với giải quyết việc làm
cho nông dân vùng đồng bằng sông Hồng”, Thông tin Chủ nghĩa xã
hội – Lý luận và thực tiễn, (5), tr.32-35.
37. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
38. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
39. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
40. V.I. Lênin (1977), Toàn tập,Tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
41. Vũ Thị Phương Mai (2004), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Quảng Ninh
hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
42. Đỗ Mười (1995), Trí thức Việt nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng
đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Thạch Phương - Đoàn Tứ (chủ biên) (2001), Địa chí Bến Tre, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
44. Sở Giáo dục- Đào tạo Bến Tre (2004) Báo cáo khoa học: nghiên cứu
thực trạng giáo dục - tính chỉ số giáo dục tỉnh Bến Tre giai đoạn
2000- 2003, Bến Tre.
45. Sở Giáo dục- Đào tạo Bến Tre (2005) Báo cáo kết quả thực hiện Nghị
quyết Đại hội VII tỉnh Đảng bộ về giáo dục - đào tạo.
46. Sở Khoa học và Công nghệ Bến Tre (2005), Báo cáo tình hình hoạt
động khoa học và công nghệ giai đoạn 2001-2004 và kế hoạch hoạt
động giai đoạn 2006-2010, Bến Tre.
47. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Báo cáo tổng kết: Đề án
quy hoạch mạng lưới đào tạo nghề tỉnh Bến Tre đến năm 2010 và
tầm nhìn đến năm 2020, Bến Tre.
48. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Báo cáo Công tác Lao động-
Thương binh và Xã hội năm 2004 và định hướng công việc 2005.
118
49. Sở Nội vụ (2005), Báo cáo việc thực hiện chính sách trợ cấp đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức và thu hút cán bộ, công chức có trình
độ, năng lực tốt từ tháng 09/2001 đến 2004 (Thực hiện Quyết định
số 4051/ 2001/ QĐ-UB).
50. Sở Y tế Bến Tre (2004), Báo cáo khoa học: Tuổi thọ trung bình và chỉ số
tuổi thọ của người dân Bến Tre giai đoạn 2001-2003, Bến Tre
51. Thanh tra tỉnh Bến Tre (2005), Báo cáo tình hình tiếp dân, nhận đơn, thư
và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân (từ 1999 đến ngày 30-
12-2004).
52. Song Thành (2004), “Chiến lược nhân tài - một vấn đề cấp bách của Việt
Nam trên đường phát triển và hội nhập”, Tạp chí Lý luận chính trị,
(8), tr.67-71.
53. Tỉnh ủy Bến Tre (2002), Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết
số 15-NQ/TW (Hội nghị Trung ương 5 khóa IX) “Về đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ
2001-2010”.
54. Tỉnh ủy Bến Tre (2004), Kết luận Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 18 (khóa VII)
về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 03 của tỉnh uỷ (khóa VI) “Phát
triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bến Tre
1996- 2000- 2010”.
55. Tỉnh ủy Bến Tre (2005), Báo cáo Chính trị tại Đại hội tỉnh lần thứ VIII
(nhiệm kỳ 2006-2010) (Dự thảo 3).
56. Trần Văn Tùng, Lê Ai Lâm (1996), Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm
thế giới và thực tiễn nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em tỉnh Bến Tre (2005), Báo cáo tổng
hợp đề tài nghiên cứu khoa học: Điều tra, đánh giá thực trạng chất
lượng dân số Bến Tre - Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng
dân số, Bến Tre.
58. Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre - Ban Chỉ đạo điều tra lao động việc làm
(2002), Thực trạng lao động - việc làm ở Bến Tre.
119
59. Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre - Ban Tổ chức Hội chợ việc làm - xuất
khẩu lao động (2003), Báo cáo kết quả Hội chợ việc làm - xuất
khẩu lao động năm 2003 tỉnh Bến Tre.
60. Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre (2004), Báo cáo Tình hình thực hiện Nghị
quyết Hội đồng nhân dân tỉnh về phát triển kinh tế-xã hội năm 2004
và phương hướng, nhiệm vụ năm 2005.
61. Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre (2005), Báo cáo tổng kết Chương trình
nâng cao chất lượng giáo dục- đào tạo, dạy nghề - giải quyết việc
làm và chăm sóc sức khỏe nhân dân giai đoạn 2001-2005.
62. Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục - Trung tâm nghiên cứu phát triển
nguồn nhân lực (2002), Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính
sách phát triển nguồn nhân lực, Nxb Giáo dục.
63. Viện Ngôn ngữ học (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
64. Huỳnh Thị Nguyệt Yến (2004), "Những kinh nghiệm trong lãnh chỉ đạo
công tác xây dựng Hội và phong trào thi đua năm 2004", Bản tin
Nông dân Bến Tre, (4), tr.4-5.