1

------

ĐỀ TÀI

“Phát triển nguồn lực con

người trong sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở

tỉnh Bến Tre”

2

MỞ ĐẦU....................................................................................................... 3 Chương 1 NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC VÀ ĐẶC ĐIỂM CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH BẾN TRE.................................... 9 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở TỈNH BẾN TRE VÀ NHỮNG XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NÓ ............................................................................................................... 42 Chương 3 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH BẾN TRE ................ 84 KẾT LUẬN............................................................................................... 111

3

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiện nay, cuộc cạnh tranh giữa các nước có nền kinh tế phát triển đang

diễn ra gay gắt. Trong cuộc cạnh tranh này, phần chiến thắng sẽ thuộc về

quốc gia có nguồn lực con người chất lượng cao, có khả năng sáng tạo và

chiếm lĩnh đỉnh cao của tri thức khoa học tiên tiến. Vì vậy, phát triển NLCN

luôn được đặt ở vị trí trung tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển của

nhiều quốc gia, nhất là những quốc gia đang tiến hành công nghiệp hóa.

Quá trình phát triển kinh tế-xã hội nước ta diễn ra khi cuộc cách mạng

khoa học-công nghệ trên thế giới đã đạt tới đỉnh cao. Điều kiện lịch sử này

cho phép chúng ta có thể và cần phải vận dụng tiến bộ KH-CN để có cơ hội

phát triển nhanh CNH, HĐH đất nước theo con đường rút ngắn. Từ thực tế

đó, khi bước vào thời kỳ CNH, HĐH, Đảng ta xác định: “Lấy việc phát huy

nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”

[17, tr.85]. Sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta không đơn giản chỉ là công cuộc

xây dựng kinh tế, mà chính là quá trình biến đổi sâu sắc trong mọi lĩnh vực

của đời sống xã hội, nhằm đưa xã hội phát triển lên một trạng thái mới về

chất, do đó, đòi hỏi phải có NLCN mạnh về số lượng, phát triển cao về chất

lượng, thật sự là động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững. Từ nhận thức

đó, Đảng ta khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực

to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc

công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [17, tr.21]. Hiện nay, phát triển NLCN, đặc

biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, đang là một trong những hướng ưu tiên

và là khâu đột phá để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH và đổi mới

đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bến Tre là tỉnh đồng bằng cuối nguồn sông Cửu Long, được hợp thành

bởi ba cù lao lớn. Trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, người Bến Tre đã

4

“Anh dũng Đồng khởi, thắng Mỹ, diệt Ngụy”. Nhưng trong công cuộc xây

dựng quê hương, mặc dù tiềm năng kinh tế, xã hội có thể nói không thua kém

các tỉnh bạn bao nhiêu, nhưng nhiều mặt đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của

Bến Tre vẫn chưa vươn lên ngang bằng với các tỉnh trong khu vực. Nhận thức

sâu sắc vấn đề này, Đại hội đại biểu lần thứ VI Đảng bộ tỉnh Bến Tre chỉ rõ:

“Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế đối với tỉnh ta so với các tỉnh trong khu

vực đồng bằng sông Cửu Long là điều mà chúng ta quan tâm nhất” [22, tr.44].

Trong những năm gần đây, nhờ biết khai thác thế mạnh kinh tế thuỷ

sản và kinh tế vườn, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Bến Tre đã đạt mức tăng

trưởng khá (giai đoạn 2000-2004, bình quân tăng 8,7%/năm). Tuy nhiên, so

với các tỉnh trong khu vực và cả nước, Bến Tre vẫn là tỉnh có tốc độ phát triển

chậm, đặc biệt là quá trình CNH, HĐH diễn ra với quy mô nhỏ bé và chậm

chạp. Để khai thác có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của mình, gần đây,

Bến Tre đã bắt đầu quan tâm phát triển NLCN của tỉnh và đã đạt được những

thành tựu quan trọng bước đầu. Nhưng đến nay, nhiều tiềm năng to lớn, nhất

là tiềm năng con người của Bến Tre, vẫn chưa được khai thác có hiệu quả và

chưa chuyển hóa thành nội lực cho sự phát triển nhanh và bền vững, chưa đáp

ứng yêu cầu thực tiễn của quá trình CNH, HĐH ở Bến Tre. Đây là một trong

những nguyên nhân chính cản trở sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Do đó,

việc nghiên cứu khoa học nhằm “Phát triển nguồn lực con người trong sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre” là vấn đề đang đặt ra

cấp thiết và có ý nghĩa thiết thực đối với tiến trình phát triển của Bến Tre

trong những năm tới.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong những năm gần đây, NLCN và phát triển NLCN là vấn đề đã

được đề cập nghiên cứu ở nhiều mức độ và góc độ khác nhau. Nhiều công

trình đã nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề về NLCN, về GD-ĐT,

về nâng cao chất lượng và sử dụng có hiệu quả NLCN, đáng chú ý là những

công trình sau:

5

- “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước” do PTS. Mai Quốc Chánh chủ biên, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Cuốn sách đã phân tích vai trò của nguồn nhân lực

và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, từ đó đề xuất những

giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nước ta đáp ứng

yêu cầu CNH, HĐH đất nước.

- “Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta”

của PGS. Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm (Viện Kinh tế thế giới), Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội, 1996. Quyển sách đã giới thiệu khái quát về vai trò của nguồn nhân

lực ở một số nước trên thế giới dưới tác động của GD-ĐT, đồng thời nêu bật vai

trò của GD-ĐT trong việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam.

- “Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam”, của TS. Bùi

Thị Ngọc Lan, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Tác giả đã phân tích rõ

vị trí, vai trò, chức năng của nguồn lực trí tuệ - bộ phận trung tâm, làm nên

chất lượng và sức mạnh ngày càng tăng của NLCN và là tài sản vô giá của

mỗi quốc gia, dân tộc và của toàn nhân loại. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra

những phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nguồn lực trí tuệ

Việt Nam trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước theo định hướng xã

hội chủ nghĩa.

- “Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam” của TS.

Nguyễn Hữu Dũng, Nxb Lao động-xã hội, Hà Nội, 2003. Tác giả đã trình bày

có tính hệ thống một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến phát triển,

phân bố, sử dụng NLCN trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN ở nước ta; đồng thời đề xuất các chính sách và giải pháp nhằm phát

triển, phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu quả NLCN trong phát triển kinh tế-

xã hội ở nước ta.

Vấn đề con người và NLCN cũng là đề tài nghiên cứu của một số luận

văn, luận án, đáng chú ý như: Luận án tiến sĩ: “Nguồn lực con người trong quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của tác giả Đoàn Văn Khái

6

(2000); Luận án tiến sĩ: “Phát huy nguồn lực thanh niên trong sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Tú Oanh

(1999); Luận văn thạc sĩ: “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay” của tác giả

Vũ Thị Phương Mai (2004)... Nhìn chung, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu làm

rõ các vấn đề về NLCN, nguồn lực thanh niên, nguồn nhân lực chất lượng cao và

vai trò của những nguồn lực này trong sự nghiệp CNH, HĐH. Qua phân tích

thực trạng, các tác giả đã đề xuất nhiều giải pháp để phát huy, phát triển những

nguồn lực này trong thời gian tới.

Ngoài ra, nhiều nhà khoa học, nhà quản lý đã có những công trình, bài

viết về vấn đề NLCN và đã được đăng tải trên các tạp chí, các kỷ yếu khoa

học… Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có một công trình khoa học nào

nghiên cứu trực tiếp về phát triển NLCN ở tỉnh Bến Tre. Việc đánh giá đúng

thực trạng NLCN làm cơ sở thực tiễn quan trọng để tìm ra những phương

hướng, giải pháp phát triển và sử dụng hữu hiệu NLCN vẫn là một đề tài cần

tiếp tục nghiên cứu, nhất là từ góc độ chính trị - xã hội và từ thực tiễn của một

tỉnh như Bến Tre.

3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

Mục tiêu

Trên cơ sở làm rõ thực trạng NLCN của tỉnh Bến Tre và xu hướng vận

động cơ bản của nó, luận văn xây dựng hệ thống những quan điểm cơ bản và

giải pháp chủ yếu nhằm phát triển NLCN trong sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh

Bến Tre trong thời gian tới.

Nhiệm vụ

- Làm rõ quan niệm về NLCN và tính tất yếu của việc phát triển NLCN

trong quá trình CNH, HĐH đất nước.

- Khảo sát và phân tích thực trạng NLCN và phát triển NLCN ở Bến

Tre hiện nay, trên cơ sở đó dự báo một số xu hướng vận động cơ bản của

nguồn lực này trong thời gian tới.

7

- Xây dựng hệ thống quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển

NLCN ở Bến Tre trong thời kỳ CNH, HĐH.

Phạm vi nghiên cứu

Từ góc độ chính trị-xã hội, đề tài nghiên cứu quá trình phát triển

NLCN ở tỉnh Bến Tre từ năm 1996 đến nay và tập trung chủ yếu ở lực lượng

lao động (hay dân số hoạt động kinh tế thường xuyên) của tỉnh.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận của đề tài

Luận văn được triển khai dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về

con người và NLCN, kết hợp với chủ trương, chính sách của Đảng bộ và Ủy

ban nhân dân tỉnh Bến Tre… về các vấn đề có liên quan đến đề tài. Ngoài ra,

những công trình nghiên cứu gần đây về vấn đề này được tác giả quan tâm,

coi trọng nghiên cứu và kế thừa.

Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp duy vật lịch sử, lôgic lịch sử, kết hợp

với các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, thống kê… để nghiên cứu

vấn đề phát triển NLCN ở tỉnh Bến Tre dưới góc độ chính trị - xã hội.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn

- Luận văn góp phần làm rõ thực trạng NLCN và phát triển NLCN ở

tỉnh Bến Tre trong sự nghiệp CNH, HĐH hiện nay.

- Luận văn đề xuất một hệ thống những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển

NLCN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH ở Bến Tre trong những năm tới.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Ý nghĩa lý luận của luận văn

Những quan điểm, những kết luận và những kiến nghị của luận văn có

thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy về

vấn đề NLCN nói chung, cũng như vấn đề phát triển NLCN ở tỉnh Bến Tre

nói riêng.

Ý nghĩa thực tiễn của luận văn

8

Những kết quả đạt được của luận văn có thể là cơ sở thực tiễn đáng tin

cậy để các cấp lãnh đạo, các ngành của tỉnh Bến Tre tham khảo trong quá

trình hoạch định các chủ trương, chính sách phát triển NLCN của tỉnh trong

sự nghiệp CNH, HĐH.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 7 tiết.

9

Chương 1 NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG

NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC VÀ ĐẶC ĐIỂM CÔNG

NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH BẾN TRE

1.1. NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VÀ TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

1.1.1. Quan niệm về nguồn lực con người và phát triển nguồn lực

con người

Quan niệm về nguồn lực con người “Nguồn lực con người” hay “nguồn nhân lực” là một khái niệm được hình thành trong quá trình nghiên cứu, xem xét nhân tố con người với tư cách là nguồn lực cơ bản thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Ngày nay, để phát triển nhanh và bền vững, bất cứ quốc gia nào cũng cần phải xác định đúng đắn và huy động có hiệu quả tất cả các nguồn lực. Những thành tựu to lớn mà loài người đạt được trong quá trình phát triển chính là do con người biết khơi dậy và phát huy tổng hợp các nguồn lực. Trong toàn bộ các nguồn lực của phát triển thì NLCN được xác định là quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực. Trong vài thập kỷ trở lại đây, vấn đề NLCN đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia trên thế giới. Vì vậy, những nghiên cứu về NLCN đã đạt những thành tựu đáng kể, đưa lại những quan niệm ngày càng đầy đủ và đúng đắn về NLCN. Tìm hiểu các công trình nghiên cứu gần đây cho thấy, quan niệm về NLCN khá đa dạng, được đề cập trên nhiều góc độ, theo nhiều nghĩa rộng, hẹp khác nhau.

Trong lý luận về lực lượng sản xuất, con người được coi là lực lượng sản xuất hàng đầu, là yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất, quyết định quá trình sản xuất và do đó, quyết định năng suất lao động và tiến bộ xã hội.

Trong lý luận về “vốn”, con người được đề cập đến như một loại vốn

(“vốn người”, “tư bản người”), một thành tố cơ bản, tất yếu của quá trình sản

10

xuất và kinh doanh. Từ cách tiếp cận này, Ngân hàng Thế giới cho rằng:

NLCN được hiểu là toàn bộ vốn người (thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp)

mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động được trong quá trình sản xuất kinh

doanh hay một hoạt động nào đó. Ở đây, NLCN được coi như một nguồn vốn

bên cạnh các loại vốn vật chất khác như tiền, tài nguyên thiên nhiên… Đầu tư

cho con người giữ vị trí trung tâm trong các loại đầu tư và được coi là cơ sở

chắc chắn cho sự phát triển bền vững.

Dựa trên cách tiếp cận này, Liên hợp quốc cho rằng NLCN là tất cả

những kiến thức, kỹ năng và năng lực của con người có quan hệ tới sự phát

triển của đất nước. NLCN ở đây được xem xét chủ yếu ở chất lượng con

người và vai trò, sức mạnh của nó đối với sự phát triển xã hội.

Ở nước ta khái niệm NLCN được sử dụng tương đối rộng rãi kể từ đầu

thập niên 90 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, trong Từ điển Bách khoa Việt Nam

cũng như các Từ điển Tiếng Việt chưa thấy đưa ra định nghĩa “Nguồn lực con

người”. Dù vậy, các nhà khoa học Việt Nam cũng đã đưa ra nhiều quan niệm

khác nhau khi bàn về NLCN, về nguồn nhân lực.

Giáo sư Viện sĩ TS. Phạm Minh Hạc cho rằng: “Nguồn lực con người

là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe

và trí tuệ, năng lực và phẩm chất” [25, tr.328]. Giáo sư TS. Hoàng Chí Bảo

cũng cho rằng: “Nguồn lực con người là sự kết hợp thể lực và trí lực, cho thấy

khả năng sáng tạo, chất lượng hiệu quả hoạt động và triển vọng mới phát triển

của con người” [4, tr.14]. Ngoài thể lực và trí lực, theo tác giả "cái làm nên

nguồn lực con người là kinh nghiệm sống, đặc biệt là những kinh nghiệm nếm

trải trực tiếp của con người, là nhu cầu và thói quen vận dụng tổng hợp tri

thức và kinh nghiệm của mình, của cộng đồng vào việc tìm tòi, sáng tạo” [4,

tr.15]. Xét theo ý nghĩa đó, NLCN bao hàm trong đó toàn bộ sự phong phú, sự

sâu sắc, đổi mới thường xuyên các năng lực trí tuệ, năng lực thực hành, tổ chức

và quản lý… Trong quan niệm này, tác giả nhấn mạnh đến kết cấu bên trong

của NLCN.

11

Trong lời phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành

Trung ương Đảng (khóa VIII), nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười khẳng định:

Nguồn lực con người là quý báu nhất... Nguồn lực đó là người

lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp,

được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến

gắn liền với một nền khoa học công nghệ hiện đại [18, tr.9].

Quan niệm này nêu lên một cách toàn diện những yếu tố cần có của

người lao động với tư cách là nguồn lao động - nguồn lực quan trọng nhất của

quốc gia.

Trong dịp gặp gỡ các nhà doanh nghiệp, các nhà KH-CN các tỉnh,

thành phố phía Bắc, Thủ tướng Phan Văn Khải đã khẳng định: “Nguồn lực

con người bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống

của dân tộc ta” [32, tr.2].

Từ một số cách tiếp cận và những nội dung đã dẫn trên, có thể hiểu:

Nguồn lực con người là phạm trù dùng để chỉ số dân, cơ cấu dân số, đặc biệt

là chất lượng người với tất cả những tiềm năng, năng lực và phẩm chất làm

nên sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội.

Với cách hiểu này, khái niệm “nguồn lực con người” có nội dung rộng,

đề cập đến những mặt cơ bản sau:

Thứ nhất, “nguồn lực con người” được biểu hiện ra là người lao động,

là lực lượng lao động (số người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao

động), là nguồn lao động (đội ngũ lao động hiện có và sẽ có). Nói đến NLCN

còn nói đến quy mô dân số và tốc độ tăng dân số trong một thời kỳ nhất định

của một quốc gia, một địa phương.

Thứ hai, “nguồn lực con người” phản ánh cơ cấu dân cư, nhất là cơ cấu

lao động trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế…

12

Thứ ba, “nguồn lực con người” chủ yếu nói lên chất lượng dân số, đặc

biệt là chất lượng của lực lượng lao động trong hiện tại và tiềm năng trong

tương lai.

Thứ tư, “nguồn lực con người” còn bao hàm cả sự liên hệ tác động lẫn

nhau giữa các yếu tố nội tại cấu thành nó cũng như sự tác động qua lại giữa

NLCN với các nguồn lực khác và với môi trường xung quanh. Đồng thời, nó

còn nói lên sự biến đổi về số lượng, chất lượng, cơ cấu dân cư và lực lượng

lao động.

Thứ năm, “nguồn lực con người” còn chỉ ra rằng: con người được xem

xét với tư cách là một nguồn lực, nguồn lực nội tại, cơ bản trong hệ thống các

nguồn lực của sự phát triển xã hội. Sức mạnh của NLCN thể hiện ở sức mạnh

của thể lực, trí lực, niềm tin, ý chí… ở sự thống nhất biện chứng giữa sức

mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần, của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng,

không chỉ có trong hiện tại mà còn ở dạng tiềm năng.

Như vậy, nói đến NLCN và vai trò của nó phải xem xét con người với

tư cách vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quá trình phát triển kinh tế-xã

hội. Là chủ thể bởi con người khai thác, sử dụng các nguồn lực khác, hơn nữa

còn tạo ra nguồn lực mới cho sự tồn tại và phát triển xã hội. Là khách thể, con

người trở thành đối tượng được khai thác, cả về trí lực và thể lực cho mục tiêu

phát triển xã hội. Với ý nghĩa đó, con người vừa là chủ thể, vừa là khách thể,

vừa là động lực, vừa là mục tiêu của các quá trình phát triển kinh tế-xã hội.

Bên cạnh khái niệm “nguồn lực con người”, các khái niệm “nguồn

nhân lực”, “tài nguyên con người” cũng được sử dụng phổ biến. Theo một số

tác giả thì đây là những khái niệm đều được dịch từ cụm từ Human

Resources. Theo TS. Đoàn Văn Khái thì trong thực tế, khái niệm “nguồn nhân

lực” ngoài nghĩa rộng được hiểu như “nguồn lực con người”, thường còn hiểu

theo nghĩa hẹp là nguồn lao động, có khi còn được hiểu là lực lượng lao động.

Khái niệm “tài nguyên con người” được sử dụng với ý nhấn mạnh phương

diện khách thể của con người, coi con người như một nguồn tài nguyên, một

13

loại của cải quý giá, cần được khai thác triệt để, hợp lý, có hiệu quả, nhất là

nguồn tiềm năng trí tuệ trong đó [10, tr.253].

Ngoài ra, còn có thể hiểu một cách đầy đủ hơn về NLCN thông qua

việc tìm hiểu mối quan hệ giữa NLCN với các nguồn lực khác và cấu trúc của

nguồn lực này.

Mối quan hệ giữa nguồn lực con người với các nguồn lực khác

Trong mối quan hệ với các nguồn lực khác, NLCN được xem như nguồn

lực cơ bản và quyết định các nguồn lực khác cũng như quyết định đối với sự

phát triển kinh tế-xã hội. NLCN là nguồn lực của mọi nguồn lực.

Khẳng định vai trò quyết định của NLCN đối với sự phát triển kinh tế-

xã hội, điều đó không có nghĩa là tách NLCN một cách biệt lập với các nguồn

lực khác. Ngược lại, khi khẳng định NLCN đóng vai trò quyết định thì điều

đó có nghĩa là đã đặt trên cơ sở và trong mối quan hệ với các nguồn lực khác.

Sự phát triển nhanh chóng của mỗi quốc gia, dân tộc, nhất là sự thành

công của quá trình CNH, HĐH đòi hỏi ngoài môi trường chính trị ổn định, cần

phải có nhiều nguồn lực. Các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn,

cơ sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa lý thuận lợi… đều vô cùng quan trọng, thiếu

chúng sẽ gặp rất nhiều khó khăn, gây ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát

triển kinh tế-xã hội. Song, các nguồn lực này dù phong phú, đa dạng và giàu có

đến mấy cũng chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng và tự nó không thể phát huy tác dụng.

Chúng chỉ thực sự có ý nghĩa và phát huy tác dụng thông qua hoạt động có ý

thức, sáng tạo của con người, nghĩa là được con người sử dụng. Như vậy, chỉ có

NLCN mới có khả năng khởi động và phát huy tác dụng của các nguồn lực khác.

Sở dĩ như vậy là vì con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý

chí, biết cải tạo, lợi dụng, khai thác các nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với

nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cùng phục vụ cho nhu cầu, lợi ích của con

người. Tất nhiên, quá trình đó phải phù hợp với quy luật khách quan. Với ý

nghĩa đó, con người trở thành yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố cấu thành

14

lực lượng sản xuất, là "lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại"

[37,tr.430].

Hơn nữa, các nguồn lực khác đều là hữu hạn và dần dần sẽ bị cạn kiệt

trong quá trình khai thác và sử dụng, thậm chí nếu khai thác bừa bãi sẽ gây

hậu quả nghiêm trọng, đe doạ sự sống còn của loài người. Trong khi đó,

NLCN mà bộ phận cốt lõi là trí tuệ, lại có tiềm năng vô tận, không bao giờ bị

cạn kiệt trong quá trình khai thác, sử dụng. Thậm chí, nó còn có khả năng

phục hồi và tái sinh, tự đổi mới, phát triển không ngừng nếu biết chăm lo, bồi

dưỡng và khai thác hợp lý.

Trong thời đại ngày nay, việc khẳng định vai trò quyết định của NLCN so

với các nguồn lực khác và xem nó là động lực quan trọng nhất thúc đẩy xã hội

phát triển là hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu không thấy vai trò

quan trọng của các nguồn lực khác đối với sự phát triển NLCN. Điều đó có

nghĩa là NLCN luôn bị quy định bởi các nguồn lực khác. Bởi lẽ, con người là

một thực thể tự nhiên - xã hội. Để tồn tại và phát triển, con người phải quan hệ

với tự nhiên, khai thác tài nguyên thiên nhiên, kết hợp với sức lao động và trí tuệ

của mình nhằm cải tạo tự nhiên tạo ra của cải vật chất nuôi sống con người. Mặt

khác, chính từ thực tiễn cuộc sống và hoạt động lao động sản xuất, con người

không ngừng phát triển trí tuệ cũng như hoàn thiện về thể chất. Như vậy, trong

mối quan hệ với các nguồn lực khác, NLCN giữ vai trò quyết định. Các nguồn

lực khác chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực xã hội khi được kết hợp

với NLCN. Xét đến cùng, nếu thiếu sự hiện diện của NLCN với trí tuệ và lao

động của họ, thì mọi nguồn lực đều trở nên vô nghĩa, thậm chí, khái niệm nguồn

lực cũng không còn ý nghĩa.

Cấu trúc của nguồn lực con người

Việc xác định cấu trúc của NLCN là quá trình xem xét từng bộ phận

cấu thành NLCN theo một hệ thống chỉnh thể, từ đó phát hiện ra cơ cấu và

mối quan hệ giữa chúng tạo thành hệ thống, cấu trúc của NLCN.

Nói đến NLCN là nói đến số lượng và chất lượng con người, là sự kết

hợp giữa trí lực, thể lực, đạo đức và những năng lực, phẩm chất khác của con

15

người như ý chí, tình cảm… Mỗi yếu tố có vị trí và vai trò nhất định trong cấu

trúc NLCN, song giữa chúng có mối quan hệ gắn bó, tác động qua lại với

nhau, tạo nên sự phát triển toàn diện của NLCN.

Trước hết, NLCN được xem xét ở mặt số lượng. Số lượng NLCN chính

là lực lượng lao động và khả năng cung cấp sức lao động cho xã hội. Các chỉ

số về số lượng NLCN của một quốc gia, một địa phương được xác định trên

qui mô dân số thông qua số lượng dân cư, tốc độ tăng dân số, cơ cấu dân cư,

cơ cấu lao động trong các ngành, các khu vực kinh tế… Trong đó, số dân

trong độ tuổi lao động là chỉ số phản ánh một cách rõ nhất về số lượng

NLCN. Số lượng NLCN đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-

xã hội. Nếu số lượng không tương xứng với tốc độ phát triển (hoặc thừa hoăc

thiếu) đều tác động xấu tới sự phát triển kinh tế-xã hội.

Yếu tố quan trọng nhất trong NLCN của một quốc gia được thể hiện ở

chất lượng của nó. Trước đây, có lúc chúng ta hiểu NLCN có phần đơn giản,

thường cho rằng: có nguồn lao động dồi dào, người lao động cần cù, chịu khó,

thông minh và sáng tạo là có thể tạo ra nhiều của cải vật chất, tăng năng suất

lao động xã hội. Từ thực tiễn công cuộc xây dựng đất nước ở Việt Nam, cũng

như sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ

hiện đại cho thấy, sự dồi dào nguồn lao động và sự cần cù của con người là

yếu tố quan trọng nhưng chưa thể tạo nên động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát

triển kinh tế-xã hội, nhất là trong thời kỳ CNH, HĐH. Vì vậy, hiểu một cách

đúng đắn và toàn diện về NLCN, không chỉ nói đến mặt số lượng mà chủ yếu

là nhấn mạnh mặt chất lượng của nó. Đây mới là yếu tố quyết định, nói lên

sức mạnh và tiềm năng to lớn của NLCN trong phát triển. Chất lượng NLCN

là một khái niệm tổng hợp bao gồm những yếu tố về thể lực, trí lực, trình độ

học vấn, chuyên môn kỹ thuật, năng lực, phẩm chất, về tâm lý, đạo đức… của

người lao động. Trong các yếu tố đó thì phẩm chất đạo đức và trình độ học

vấn, chuyên môn kỹ thuật là quan trọng nhất, nó phản ánh mức độ trưởng

thành của con người. Có thể nói, chất lượng NLCN được phản ánh ở hàm

16

lượng trí tuệ kết tinh trong sản phẩm làm ra trong quá trình sản xuất và năng

suất lao động xã hội. Giữa số lượng và chất lượng của NLCN có quan hệ chặt

chẽ với nhau. Nếu số lượng nguồn nhân lực quá ít sẽ gây khó khăn cho quá

trình phân công lao động xã hội và do vậy chất lượng lao động sẽ bị hạn chế.

Chất lượng NLCN nâng cao sẽ góp phần làm giảm số lượng người lao động

trong một đơn vị sản xuất, kinh doanh hay trong một tổ chức xã hội, và như

vậy là năng suất lao động xã hội sẽ được nâng cao. Ngược lại, nguồn nhân lực

đông nhưng không mạnh, chất lượng thấp, sẽ là gánh nặng cho xã hội và kìm

hãm xã hội phát triển.

Trong số các yếu tố làm nên chất lượng của NLCN, nguồn lực trí tuệ

được xem bộ phận sáng giá nhất, vì nó “bao gồm những tiềm năng, năng lực

và tập hợp các giá trị sáng tạo về tinh thần của mỗi cá nhân, của các tập thể,

của các cộng đồng người… trong một xã hội nhất định” và “có khả năng tạo

ra sức mạnh tổng hợp của quá trình phát triển tự nhiên, xã hội và bản thân con

người” [33, tr.35]. Thực vậy, xét ở cả phương diện cá thể cũng như xã hội, trí

tuệ đóng vai trò trung tâm chỉ đạo mọi hành vi và quyết định phần lớn khả

năng sáng tạo của con người trong quá trình hoạt động thực tiễn cũng như

trong việc lựa chọn phương pháp, giải pháp thích hợp nhằm phát huy tác dụng

của các yếu tố khác trong cấu trúc NLCN.

Cuộc cách mạng KH-CN hiện nay đang đặt ra những yêu cầu rất cao ở

trí tuệ của con người - những người lao động. Họ không chỉ có khả năng tiếp

thu tri thức mới, vận dụng có hiệu quả vào sản xuất mà còn phải biết thường

xuyên tự bổ sung, bồi dưỡng tri thức để không bị lạc hậu trước sự phát triển

như vũ bão của cuộc cách mạng KH-CN. Vì vậy, NLCN đáp ứng yêu cầu

CNH, HĐH phải bao gồm những người lao động có sự phát triển cao về năng

lực trí tuệ, đủ sức làm chủ và tiếp thu công nghệ mới, có khả năng làm việc

chủ động sáng tạo, có khả năng sử dụng các công cụ, phương tiện tiên tiến,

hiện đại. Nói cách khác, ngày nay tri thức trở thành yếu tố không thể thiếu

của người lao động.

17

Theo Tổng Bí thư Đỗ Mười: “Trí tuệ là tài sản quý giá nhất trong mọi

tài sản, nhưng chính sức khỏe là một tiền đề cần thiết để làm ra tài sản đó”

[42, tr.92]. Thực vậy, sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người. Vì vậy,

nói đến chất lượng NLCN, ngoài trí tuệ, sức khỏe (thể lực) là yếu tố hết sức

cần thiết. Sức khỏe là điều kiện để duy trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện

để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, biến tri thức thành sức mạnh

vật chất.

Với tư cách là một yếu tố cấu thành NLCN, sức khỏe là sự phát triển

hài hòa của con người cả về thể chất lẫn tinh thần.Vì vậy, yếu tố này bao gồm

sức khỏe cơ thể và sức khỏe tinh thần. Sức khỏe cơ thể là sự cường tráng,

phát triển cân đối hài hòa các cơ quan trong cơ thể theo quy luật “tạo hóa” của

tự nhiên, đồng thời, còn là sự hoạt động dẻo dai của cơ bắp, sự nhạy bén của

các giác quan. Các chỉ số sinh học biểu hiện trạng thái sức khỏe thể chất của

mỗi người như chiều cao, cân nặng, khả năng hoạt động của cơ bắp, của các

giác quan…

Tục ngữ Nga có câu: “Một tinh thần lành mạnh trong một cơ thể khoẻ

mạnh”. Sự khoẻ mạnh của cơ thể là tiền đề cho một tinh thần minh mẫn, sáng

suốt. Sức khỏe tinh thần là sự linh hoạt, khoẻ mạnh của hệ thống thần kinh, là

sức mạnh của sự sáng tạo, của niềm tin và ý chí. Như vậy, điều kiện vật chất

để hoạt động trí tuệ của con người nhạy bén, sâu sắc và hoạt động thực tiễn

hiệu quả đó chính là sự khoẻ mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần. Chính vì vậy,

chăm sóc sức khỏe cho con người là nhiệm vụ rất cơ bản để nâng cao chất

lượng NLCN, tạo tiền đề phát huy có hiệu quả tiềm năng trí tuệ của con

người.

Bên cạnh trí tuệ và sức khỏe, yếu tố góp phần quan trọng tạo ra chất

lượng toàn diện của NLCN chính là nhân cách. Xét ở phương diện cá thể,

trong cấu trúc nhân cách thì đạo đức và năng lực (đức và tài) là hai thành tố

cốt yếu tạo nên nhân cách một con người. Trong đó, đạo đức là cái gốc rất

quan trọng, là cơ sở hình thành và phát triển thế giới quan, nhân sinh quan của

18

mỗi người. Đức là sự nỗ lực cống hiến to lớn cho xã hội, là sự trung thành tận

tuỵ với chế độ xã hội mà họ phục vụ, trách nhiệm công dân, lương tâm nghề

nghiệp của mỗi người… Đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH còn đòi hỏi ở người

lao động những phẩm chất lao động và nghề nghiệp như: kỷ luật tự giác, tinh

thần hợp tác và tác phong lao động công nghiệp, tiết kiệm nguyên liệu và thời

gian… Tất cả những phẩm chất này được sử dụng trong một tiêu chí tổng hợp

là yếu tố văn hóa lao động công nghiệp. Đây cũng được xem là một yếu tố

quan trọng để đánh giá chất lượng NLCN. Như vậy, nhân cách đạo đức cùng

những phẩm chất lao động và nghề nghiệp góp phần tạo nên chất lượng toàn

diện của NLCN.

Việc xem xét cấu trúc NLCN một cách toàn diện gồm trí lực, thể lực và

nhân cách đã đặt ra yêu cầu đối với GD-ĐT là phải phát triển cân đối giữa dạy

chữ - dạy nghề - dạy người. Trong đó, dạy người phải xem là mục tiêu cuối cùng

nhằm “tạo ra những con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất,

phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức” [15, tr.5] đủ sức thực hiện

thành công sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta.

Quan niệm về phát triển nguồn lực con người

Cho đến nay, do xuất phát từ nhiều cách tiếp cận khác nhau nên khi bàn

về phát triển NLCN đã có nhiều cách hiểu khác nhau.

Phát triển NLCN hay phát triển nguồn nhân lực, hoặc phát triển nguồn

tài nguyên người là những cách dịch khác nhau từ cụm từ Human Resources

Development - HRD. Khái niệm này hình thành và phát triển từ những năm

70 của thế kỷ trước, dựa trên quan niệm mới của Liên hợp quốc về phát triển

và vị trí con người trong phát triển.

Liên hợp quốc sử dụng khái niệm “phát triển nguồn lực con người”

theo nghĩa rộng bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người

nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống.

UNESCO sử dụng khái niệm “phát triển nguồn lực con người” theo nghĩa

hẹp, đó là làm cho toàn bộ sự lành nghề của dân cư luôn luôn phù hợp trong

19

mối quan hệ với sự phát triển của đất nước. Còn tổ chức Lao động Quốc tế

(ILO) lại cho rằng phát triển nguồn nhân lực không chỉ là có sự chiếm lĩnh

trình độ lành nghề hoặc vấn đề đào tạo nói chung mà còn là phát triển năng lực

và sử dụng năng lực đó của con người để tiến tới có được việc làm hiệu quả,

cũng như thoả mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân.

Nhìn chung, cách hiểu của Liên hợp quốc bao quát hơn và nhấn mạnh

khía cạnh xã hội của vấn đề: NLCN vừa là yếu tố của sản xuất, của tăng

trưởng kinh tế vừa là mục tiêu của phát triển. Cách tiếp cận này xuất phát từ

lý thuyết mới về phát triển con người, trong đó phát triển NLCN thuộc phạm

trù phát triển con người.

Thuật ngữ “phát triển con người” được sử dụng từ lâu trong các ngôn ngữ

khác nhau. Nhưng phải đến năm 1990, khái niệm “phát triển con người”

(Human Development) mới xuất hiện trong báo cáo về phát triển con người

(HDR) được Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) công bố. Theo

UNDP “Của cải đích thực của một quốc gia là con người của quốc gia đó. Và

mục đích của phát triển là để tạo ra một môi trường thuận lợi cho phép con

người được hưởng cuộc sống lâu dài, khoẻ mạnh và sáng tạo” [26, tr.140].

Phát triển con người - là quan điểm về phát triển, trong đó lấy con

người làm trung tâm. Đó là phát triển của con người, vì con người và do con

người. Phát triển của con người có nghĩa là đầu tư vào phát triển tiềm năng

của con người như giáo dục, y tế, kỹ năng… để con người có thể làm việc

một cách sáng tạo và có năng suất cao nhất. Phát triển vì con người là bảo

đảm sự tăng trưởng kinh tế mà con người tạo ra phải được phân phối rộng rãi

và công bằng. Phát triển do con người là hướng vào việc tạo cho con người

có cơ hội tham gia vào mọi hoạt động của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị,

văn hóa, xã hội ).

Như vậy, theo quan điểm của Liên hợp quốc, khái niệm “phát triển con

người” nhấn mạnh đến mục tiêu hơn là phương tiện của sự phát triển. Mục tiêu

của sự phát triển không chỉ là phát triển xã hội mà chính là phát triển con

20

người. Bởi vì, trong xã hội hiện đại, sự phát triển xã hội chưa hẳn đã đồng nghĩa

với sự phát triển con người. Thực tế cho thấy, ở nhiều nước trên thế giới, xã hội

phát triển cao nhưng con người lại bị quên lãng, không được quan tâm. Ở những

nước này diễn ra nghịch lý: GDP tăng nhưng thất nghiệp và đói nghèo cũng

tăng, khoa học và công nghệ tiến bộ nhưng thất học và dốt nát lại trở nên phổ

biến, tiện nghi vật chất xã hội hiện đại hơn nhưng quyền con người lại bị vi

phạm nhiều hơn, nhiều người không được chăm sóc tối thiểu về y tế… Điều này

cách đây 2 thế kỷ, Sáclơ Phuriê (1772-1837) đã chỉ ra: trong xã hội tư bản “sự

nghèo khổ được sinh ra từ chính sự thừa thãi”.

Như vậy, mục đích thật sự của sự phát triển là cần phải tạo ra một

môi trường đảm bảo cho con người phát huy khả năng sáng tạo, được

hưởng một cuộc sống khoẻ mạnh, được học hành và trường thọ, các quyền

tự do chính trị, quyền con người và cá nhân được bảo đảm. Quan điểm phát

triển con người như vậy hoàn toàn phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa

Mác-Lênin về phát triển con người toàn diện mà cách đây hơn 150 năm

C.Mác đã nói tới.

Ở nước ta, cho đến nay, thuật ngữ “Phát triển nguồn lực con người”

hay “Phát triển nguồn nhân lực” được các nhà khoa học Việt Nam nêu khá

nhiều trong các công trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.

GS.VS.TS Phạm Minh Hạc cho rằng:

Phát triển nguồn nhân lực được hiểu về cơ bản là gia tăng giá

trị cho con người, trên các mặt như đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm

hồn, thể lực… làm cho con người trở thành những người lao động

có những năng lực phẩm chất mới và cao, đáp ứng được những yêu

cầu to lớn của sự phát triển kinh tế-xã hội, của sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [25, tr.285].

TS. Nguyễn Hữu Dũng cho rằng: phát triển NLCN được coi là “quá

trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày

càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của phát triển kinh tế-xã hội” [14, tr.13]. Theo

21

tác giả, quá trình này bao gồm sự phát triển về thể lực, trí lực, khả năng nhận

thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề, tính năng động xã hội và sức sáng tạo của

con người. Trong đó, nền văn hóa truyền thống, lịch sử dân tộc góp phần quan

trọng hun đúc nên bản lĩnh, ý chí của mỗi người.

Như vậy, phát triển NLCN không phải là một khái niệm trừu tượng mà

nó gắn với phát triển con người cụ thể. Theo C.Mác, con người là yếu tố quan

trọng nhất, cách mạng nhất trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất.

Người lao động trong lực lượng sản xuất phải là con người ngày càng được

phát triển cao về trí tuệ, khoẻ mạnh về thể chất, trong sáng về đạo đức, linh

hoạt và văn minh trong ứng xử, có kinh nghiệm sản xuất và kỹ năng lao động

nhất định. Do đó phát triển NLCN có mối quan hệ biện chứng với phát triển

con người. Phát triển NLCN phải được hiểu là quá trình phát triển toàn diện

con người cả thể lực, trí lực, cả khai thác, sử dụng, tái tạo và phát triển tiềm

năng, năng lực của mỗi người, của cả cộng đồng người nhằm đóng góp nhiều

nhất vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội, bởi lẽ, NLCN được cấu thành từ

nguồn nhân lực của mỗi cá nhân cũng như nguồn nhân lực của cả cộng đồng.

Vì vậy, nếu cho rằng, phát triển NLCN chỉ là quá trình làm gia tăng tri thức,

kỹ năng và năng lực của mỗi người là chưa đầy đủ, mới chỉ đề cập ở khía

cạnh khai thác năng lực của con người mà thiếu đi quá trình tái tạo, phát triển và

sử dụng lâu dài tiềm năng con người, cũng như tạo ra giá trị đích thực cho cuộc

sống của con người.

Tóm lại, có thể hiểu: Phát triển nguồn lực con người là quá trình làm

biến đổi về số lượng, chất lượng, cơ cấu nguồn nhân lực, đồng thời làm gia

tăng các giá trị tinh thần, đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, thể chất… cho con người

nhằm đáp ứng những yêu cầu của sự phát triển kinh tế-xã hội.

Mỗi một giai đoạn lịch sử đều có nhu cầu về NLCN phù hợp giai đoạn

lịch sử đó. Quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay đang đặt ra yêu cầu

khách quan về sự phát triển số lượng, cơ cấu, chất lượng, cũng như những

năng lực, phẩm chất cần thiết của NLCN. Do đó, phát triển NLCN là một đòi

hỏi tất yếu hiện nay ở nước ta.

22

1.1.2. Tính tất yếu của việc phát triển nguồn lực con người trong sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Trong điều kiện cuộc cách mạng KH-CN hiện đại đang diễn ra như vũ

bão, CNH, HĐH được coi là phương thức cơ bản, con đường tất yếu để cải

biến một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp văn minh.

CNH, HĐH là quá trình tạo ra những biến đổi về chất trong toàn bộ các hoạt

động của đời sống xã hội, trước hết là hoạt động sản xuất vật chất. Hội nghị lần

thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1994) đã thông qua đường

lối CNH, HĐH đất nước, trong đó Đảng ta xác định:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản,

toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý

kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng

một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện

và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công

nghiệp và tiến bộ khoa học-công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã

hội cao [16, tr.65].

Quan điểm này, về cơ bản, đã phản ánh được phạm vi rộng lớn, lâu dài,

phức tạp cũng như chỉ ra cốt lõi của quá trình CNH, HĐH ở nước ta là cải

biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện

đại để đạt tới năng suất lao động xã hội cao. Trên cơ sở quan điểm này, Đảng

ta chỉ rõ, sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay là một cuộc cách mạng

toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội,

nhằm mục tiêu:

Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất

- kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ,

phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật

chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, văn minh [17, tr.80].

23

Như vậy, đặc điểm của quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam là hướng tới

mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính điều này đã quy định sự khác biệt

cả về nội dung, hình thức, quy mô, cách thức tiến hành CNH, HĐH ở nước ta

so với nhiều nước tư bản chủ nghĩa đã tiến hành trước đây. Sự khác biệt này

đã làm nên đặc trưng của CNH, HĐH ở nước ta, đồng thời tự nó cũng đặt ra

những yêu cầu khách quan về số lượng và chất lượng đối với NLCN Việt

Nam - nhân tố quyết định thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

Trong mối quan hệ tác động qua lại với quá trình CNH, HĐH, NLCN

luôn giữ vị trí, vai trò quyết định. Mặt khác, NLCN cũng không ngừng biến

đổi, phát triển dưới tác động của quá trình CNH, HĐH đất nước. Phát triển

NLCN Việt Nam là một yêu cầu khách quan trong quá trình CNH, HĐH.

Thứ nhất, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Đảng ta đã khẳng định: đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm hướng tới mục

tiêu “tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện

đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã

hội” [19, tr.89]. Như vậy, trong quá trình phát triển đất nước theo định hướng

XHCN, CNH, HĐH là phương tiện, phương thức để đạt đến mục tiêu cao cả, đó

là vì cuộc sống hạnh phúc ngày càng tốt đẹp của con người, vì sự giải phóng và

phát triển toàn diện của con người.

Trong sự nghiệp đổi mới và thực hiện CNH, HĐH đất nước, quan niệm

coi con người là “vừa là mục tiêu,vừa là động lực” của sự phát triển kinh tế-

xã hội đã trở thành quan niệm phổ biến. Phát triển NLCN được coi là một bộ

phận quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất

nước. Bởi vì, con người là động lực cơ bản của sự nghiệp CNH, HĐH ở nước

ta hiện nay.

Động lực của sự nghiệp CNH, HĐH được hiểu là những gì thúc đẩy

quá trình này vận động và phát triển. Khi nói con người là động lực của quá

trình CNH, HĐH là chủ yếu nói đến sức mạnh, năng lực sáng tạo to lớn của

24

con người trong việc thực hiện CNH, HĐH và thúc đẩy quá trình này phát

triển.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ không thể thành công nếu thiếu vai

trò động lực của con người. Chính con người với tri thức, trí tuệ, có khả năng

hoạch định chiến lược, đề ra mục tiêu, lựa chọn phương thức tiến hành CNH,

HĐH cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của mình. Con người còn sáng

tạo ra những thành tựu KH-CN hiện đại và ứng dụng chúng vào quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sản xuất vật chất, quản lý kinh tế, xã hội. Trong

quá trình CNH, HĐH, những giải pháp do con người đề ra cho phép điều

chỉnh và giải quyết các mâu thuẫn phát sinh, cũng như dự báo những nguy cơ,

hậu quả có thể xảy ra và khuynh hướng phát triển trong tương lai để từ đó

thúc đẩy quá trình CNH, HĐH tiến lên.

Bài học kinh nghiệm rút ra từ những thành công trong quá trình phát

triển của Nhật Bản và các nước công nghiệp mới (NICs) ở châu Á cho thấy,

người ta không chỉ chú trọng ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công

nghệ mới hoặc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, mà vấn đề then chốt hơn cả là

biết khơi dậy và phát huy năng lực trí tuệ và sức sáng tạo to lớn của con

người. Trong xu thế toàn cầu hóa và mở rộng giao lưu quốc tế như hiện nay,

các quốc gia có thể khắc phục sự yếu kém về kỹ thuật, công nghệ thông qua

con đường chuyển giao, nhập khẩu. Nhưng người ta không thể nhập khẩu hay

vay mượn được khả năng sáng tạo của con người. Vì thế, có thể khẳng định

rằng, năng lực sáng tạo nói riêng và chất lượng NLCN nói chung là yếu tố nội

sinh, là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển xã hội, đưa sự nghiệp CNH,

HĐH đến thành công.

Nếu con người là động lực, là phương tiện để tiến hành CNH, HĐH, thì

những thành quả do CNH, HĐH tạo ra phải nhằm phục vụ cho nhu cầu con

người. Nói cách khác, con người có quyền thụ hưởng những thành quả do

chính tài năng và sức sáng tạo của mình tạo ra. Vì vậy, phát triển NLCN phải

nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi để con người được thụ hưởng những thành

25

quả của mỗi bước CNH, HĐH. Nghĩa là con người có được đời sống vật chất

và tinh thần ngày càng cao, môi trường và điều kiện làm việc thuận lợi, có

điều kiện học tập, lao động sáng tạo và cống hiến tài năng cho sự phát triển

của xã hội và hạnh phúc của con người.

Thứ hai, con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Giữa CNH, HĐH và phát triển NLCN có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ

nhau, trong đó NLCN luôn giữ vị trí, vai trò quyết định trình độ, tốc độ phát

triển của tiến trình CNH, HĐH. Đến lượt mình, NLCN cũng không ngừng

biến đổi và phát triển dưới tác động của quá trình CNH, HĐH. Nói cách khác,

CNH, HĐH đặt ra yêu cầu khách quan đối với việc phát triển NLCN ở trình

độ ngày càng cao, bởi vì con người vừa là sản phẩm của tự nhiên, của xã hội

vừa là chủ thể cải biến tự nhiên và xã hội, đồng thời, là chủ thể của các quá

trình phát triển kinh tế-xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người đã

để lại dấu ấn sâu đậm trong tiến trình phát triển và sáng tạo ra lịch sử của

mình.

Xét dưới gốc độ kinh tế, xã hội hay kỹ thuật, công nghệ, yếu tố con

người vẫn luôn là chủ thể của quá trình CNH, HĐH. Từ thực tế cho thấy, quá

trình CNH, HĐH sẽ không thể thành công nếu thiếu NLCN với số lượng và

chất lượng ngày càng cao, cơ cấu hợp lý. Bởi vì, chính con người là lực lượng

duy nhất có khả năng phát hiện, xác định mục tiêu, nội dung, hình thức, bước

đi và những giải pháp thích hợp để tiến hành CNH, HĐH. Từ thực tiễn của

các nước đi trước cũng như ở nước ta đã cho thấy, quá trình CNH, HĐH diễn

ra với tốc độ nhanh hay chậm, đạt hiệu quả cao hay thấp là do sự quy định của

nhiều yếu tố, trong đó, trước hết và chủ yếu tuỳ thuộc vào năng lực của con

người, vào chất lượng của NLCN. Vì vậy, phát triển NLCN trở thành yếu tố

quan trọng nhất có tính chất quyết định đối với sự thành bại của sự nghiệp

CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.

26

Trong khi nhấn mạnh vai trò và sự tác động có tính chất quyết định của

phát triển NLCN đối với tiến trình CNH, HĐH, cần khẳng định rằng CNH,

HĐH cũng tác động trở lại đối với mục tiêu phát triển NLCN.

Thực tế cho thấy, mặc dù nước ta hiện nay không còn là một nước

thuần nông, nhưng có lẽ còn khá xa so với những tiêu chí, đặc trưng của một

xã hội công nghiệp hiện đại. Trong điều kiện ấy con người Việt Nam còn chịu

ảnh hưởng nặng nề bởi tư duy, thói quen của người sản xuất nhỏ tiểu nông. Vì

thế, tiến hành CNH, HĐH là tiền đề, điều kiện vật chất cần thiết để từng bước

cải biến nếp nghĩ, cách làm vốn còn mang nặng dấu ấn tiểu nông, sản xuất

nhỏ của một bộ phận đáng kể trong lực lượng lao động xã hội. Chính sự hình

thành và phát triển của các yếu tố hiện đại trong các lĩnh vực của đời sống xã

hội, trước hết là trong sản xuất do đẩy mạnh CNH, HĐH, sẽ tạo nên một cuộc

cách mạng đối với lực lượng lao động xã hội. Hơn nữa, trong mỗi giai đoạn

cũng như trong suốt tiến trình, CNH, HĐH vừa tạo ra điều kiện và cơ hội phát

triển, vừa đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với người lao động, trước

hết là ở trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng lao động công nghiệp

hiện đại. Điều này thể hiện ở chỗ, quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH sẽ tạo ra

những điều kiện, cơ hội thuận lợi cho người lao động được tiếp cận với những

dịch vụ xã hội ngày càng đầy đủ và hoàn thiện như giáo dục, đào tạo, chăm sóc

sức khỏe, nâng cao mức sống… đồng thời, CNH, HĐH lại đặt ra những yêu cầu

mới về phương thức lao động, kỹ năng lao động, buộc người lao động phải

thường xuyên, không ngừng học tập, bồi dưỡng cả về trình độ học vấn, chuyên

môn kỹ thuật, nhân cách đạo đức, năng lực sáng tạo và khả năng thích nghi với

những điều kiện lao động mới. Như vậy, CNH, HĐH tạo ra môi trường mà ở đó

con người được phát triển toàn diện, thể hiện năng lực sáng tạo cũng như khẳng

định vai trò quyết định sự phát triển kinh tế-xã hội của mình.

Thứ ba, phát triển NLCN là vấn đề chiến lược hàng đầu của Đảng

và Nhà nước ta nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước

27

Trong lịch sử dân tộc, nhất là trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại

xâm, ông cha ta luôn thực hiện phương châm “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch

nhiều”. Sức mạnh của Việt Nam là con người, do đó khâu then chốt là phải

biết phát huy trí tuệ con người. Chính tài năng trí tuệ, sự thông minh và sức

sáng tạo to lớn của con người Việt Nam đã làm nên những thắng lợi vẻ vang

trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, ngày nay là trong sự nghiệp

đổi mới. Vì vậy, ngay khi khởi xướng công cuộc đổi mới, Đảng ta đã nhấn

mạnh tầm quan trọng đặc biệt của nhân tố con người và xác định: “Con người

vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội”. Ngày nay,

để đẩy mạnh CNH, HĐH, đi vào kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế,

Việt Nam càng phải đi lên chủ yếu bằng con đường phát triển NLCN, bằng trí

tuệ của con người Việt Nam.

Trên cơ sở nhận thức rõ vai trò có ý nghĩa quyết định của NLCN và

tiềm năng to lớn của con người Việt Nam, tại các kỳ Đại hội VIII, IX và các

Hội nghị Trung ương, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định: “Công

nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân” [17, tr.85], “Nâng cao dân

trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố

quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [17, tr.21].

Tổng kết thực tiễn 15 năm đổi mới và nghiên cứu lý luận, một lần nữa trong

Nghị quyết Đại hội IX, Đảng ta khẳng định: “Con người và nguồn nhân lực là

nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện

đại hóa” [19, tr.201]. Vì vậy, “Phát triển mạnh nguồn lực con người Việt Nam

với yêu cầu ngày càng cao” [19, tr.165] là vấn đề có tính chiến lược trong

công cuộc đổi mới và là yêu cầu cấp bách của sự nghiệp CNH, HĐH ở nước

ta hiện nay.

Thực hiện vai trò chủ thể, động lực của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH

theo định hướng XHCN, NLCN nước ta phải đủ về số lượng, hợp lý về cơ

cấu, đảm bảo về chất lượng. Muốn vậy, phát triển NLCN phải được xác định

là vấn đề chiến lược và tập trung mọi nguồn lực để đầu tư mạnh vào “vốn con

28

người”. Phải xem đây là bước chuẩn bị quan trọng và là khâu đột phá để thực

hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế-xã hội và thực hiện mục tiêu: dân giàu,

nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Như vậy, phát triển NLCN là vấn đề có tính chiến lược, điều đó không

chỉ xác định trên phạm vi cả nước mà phải được nhận thức và chủ động thực

hiện ở từng địa phương, đơn vị cụ thể. Đối với Bến Tre, để xây dựng chiến

lược phát triển NLCN phù hợp, nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH

của tỉnh trong những năm tới, trước hết cần phải xác định rõ đặc điểm của

CNH, HĐH cũng như chỉ ra những yêu cầu cơ bản về phát triển NLCN ở tỉnh

Bến Tre hiện nay.

1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH BẾN

TRE VÀ NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON

NGƯỜI BẾN TRE

1.2.1. Đặc điểm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre

Cũng như nhiều địa phương trong vùng, Bến Tre bắt tay xây dựng lại

quê hương từ sau ngày thống nhất đất nước, thực hiện CNH, HĐH theo chủ

trương của Đảng. Ngoài những điểm chung như CNH, HĐH ở các tỉnh trong

vùng, do vị trí địa lý, điều kiện kinh tế-xã hội có nhiều đặc thù, điều đó đã

làm cho nội dung, hình thức, quy mô, tốc độ CNH, HĐH ở Bến Tre có nhiều

điểm khác biệt. Sự khác biệt này đã nói lên đặc điểm CNH, HĐH ở Bến Tre.

Trên thực tế, CNH, HĐH ở Bến Tre tiến hành trong điều kiện nền kinh

tế chậm phát triển, cơ sở hạ tầng yếu kém, sản xuất nông nghiệp lạc hậu, công

nghiệp chưa phát triển, đầu tư nước ngoài còn hạn chế… Vì vậy, CNH, HĐH

ở Bến Tre mà trọng tâm là CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là yêu cầu cấp

bách để giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiep trong

cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ đang phát triển theo hướng CNH,

HĐH. Từ thực tế đó, có thể thấy CNH, HĐH ở Bến Tre có những đặc điểm

sau:

29

Thứ nhất, CNH, HĐH ở Bến Tre tập trung chủ yếu vào CNH, HĐH

nông nghiệp, nông thôn

Trước yêu cầu phải rút ngắn thời gian tiến hành CNH, HĐH, phấn đấu

đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng

hiện đại, Đại hội IX của Đảng chủ trương: "Tăng cường sự chỉ đạo và huy

động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp, nông thôn" [19, tr.86].

Trên cơ sở vận dụng quan điểm, mục tiêu, nội dung Nghị quyết của

Đảng, Tỉnh ủy Bến Tre đã đề ra Chương trình hành động nhằm xác định

nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông

thôn ở Bến Tre thời kỳ 2001-2010. Trong đó chỉ rõ nhiệm vụ CNH, HĐH

nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre là:

Xây dựng và phát triển một nền nông nghiệp sản xuất hàng

hóa, hiệu quả, bền vững có sức cạnh tranh trên cơ sở ứng dụng các

thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến vào sản xuất; xây dựng

nông thôn giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh

tế hợp lý, lực lượng sản xuất năng động, quan hệ sản xuất phù hợp,

kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội phát triển và an ninh nông thôn được

bảo đảm [53, tr.2].

Tỉnh Bến Tre là vùng đất hẹp, người đông, sản xuất nông nghiệp là chủ

yếu, diện tích đất nông nghiệp chiếm 70%, do đó việc khai thác tiềm năng đất

đai và lao động nông thôn là vấn đề có tính chiến lược trong quá trình phát

triển. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là con đường ngắn nhất để “đưa Bến

Tre đi lên từ kinh tế nông nghiệp toàn diện thành một trong những tỉnh sản xuất

hàng hóa có tỷ trọng cao trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long” [22, tr.45].

Thứ hai, so với các tỉnh trong khu vực và cả nước, CNH, HĐH ở Bến Tre

diễn ra với tốc độ chậm, quy mô nhỏ bé, công nghệ, trang thiết bị còn lạc hậu

30

Năm 1996, cùng với cả nước, theo chủ trương của Đảng, Bến Tre thực

hiện CNH, HĐH trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều khó khăn. Cùng với

chủ trương coi trọng phát triển nông nghiệp toàn diện, lãnh đạo tỉnh luôn xác

định công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp là lĩnh vực phải được tập trung đầu tư

để Bến Tre vươn lên sánh vai với các tỉnh bạn trong khu vực. Sau hơn 7 năm

thực hiện Nghị quyết 03 của Tỉnh ủy Bến Tre “Về phát triển công nghiệp -

tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh 1996-2000-2010”, đến nay, công nghiệp

- tiểu thủ công nghiệp ở Bến Tre có bước phát triển đáng kể, góp phần quan

trọng đưa nền kinh tế của tỉnh phát trien, tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ

cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Từ chỗ chưa có gì, đến nay (2004) toàn tỉnh

có 14 doanh nghiệp Nhà nước, 4 công ty đầu tư nước ngoài, 39 hợp tác xã, 94

doanh nghiệp tư nhân và 7182 hộ sản xuất cá thể, giải quyết việc làm cho trên

31.000 lao động [13]. Năng lực chế biến thủy, hải sản hiện tăng gấp 3 lần so

với năm 1996 với một hệ thống các nhà máy chế biến thủy sản trang thiết bị

khá hiện đại. Công nghiệp ở Bến Tre phát triển đã tác động tích cực đến

CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, nhiều làng nghề được sắp xếp, củng cố

và không ngừng phát triển; đã cơ giới hóa 90% khâu làm đất, 80% khâu tưới

tiêu trong sản xuất nông nghiệp. Việc sử dụng máy móc thay thế lao động

chân tay trong kinh tế vườn khá phổ biến. Đến năm 2000, 160/160 xã,

phường trong tỉnh đều có lưới điện quốc gia về đến trung tâm xã, nâng số hộ

sử dụng điện lên 81% vào cuối năm 2004 [54, tr.4].

Tuy nhiên, so với mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một

nước công nghiệp theo hướng hiện đại, thì CNH, HĐH ở Bến tre cần phải đẩy

nhanh với tốc độ và quy mô rộng lớn hơn. Hiện nay, tỷ trọng công nghiệp

trong GDP toàn tỉnh còn nhỏ và chuyển biến chậm, chưa đủ sức đóng vai trò

động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển và chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế.

Năm 1996, tỷ trọng công nghiệp chiếm 7,66% trong GDP; năm 2000 là 12,09%

và năm 2004 là 15,65 % [13]. Ngoài ra, do kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển

công nghiệp đầu tư chưa đồng bộ, nguồn nhân lực yếu và thiếu... chưa đáp ứng

31

yêu cầu các nhà đầu tư trong và ngoài nước, do đó, nhiều dự án khu, cụm công

nghiệp đã được xác định nhưng chỉ dừng lại ở quy hoạch.

Thực trạng trên phần nào cho thấy CNH, HĐH ở Bến Tre hiện còn nhỏ

bé và tốc độ khá chậm, vì vậy đang rất cần sự tác động tích cực của nhiều

nhân tố nhằm tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy quá trình này diễn ra nhanh

hơn. Một trong những nhân tố quyết định đó là Bến Tre cần gấp rút chuẩn bị

NLCN, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao có khả năng làm cuộc “bứt

phá” đưa Bến Tre phát triển nhanh và bền vững hơn, tiến tới thực hiện thắng

lợi mục tiêu CNH, HĐH ở tỉnh.

Thứ ba, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở gắn bó chặt chẽ

giữa nông nghiệp với công nghiệp, phát triển mạnh công nghiệp chế biến

Xây dựng và phát triển một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa hiệu

quả, bền vững, có sức cạnh tranh là một nội dung và cũng là nhiệm vụ quan

trọng của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre. Nông nghiệp có

một vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế, hiện chiếm trên 60% trong

tổng sản phẩm toàn tỉnh. Thế nhưng, tự bản thân nông nghiệp cũng không thể

phát triển nhanh được nếu thiếu sự tác động tích cực của công nghiệp. Địa vị

của nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế tùy thuộc vào trình độ phát triển và tốc

độ CNH, HĐH. Với tư cách là một bộ phận hợp thành trong cơ cấu kinh tế

thống nhất, sự phát triển của nông nghiệp có mối quan hệ tương hỗ với sự

phát triển của công nghiệp và dịch vụ. Trong mối quan hệ đó, công nghiệp hỗ

trợ đắc lực và phục vụ cho nông nghiệp phát triển theo hướng CNH, HĐH.

Đảng ta đã chỉ rõ: “Phát triển công nghiệp, dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ

đắc lực và phục vụ có hiệu quả cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,

nông thôn” [20, tr.94].

Trong những năm gần đây, Bến Tre đã chọn và đầu tư đúng hướng cho

lĩnh vực công nghiệp chế biến, nâng cao năng lực chế biến hàng nông sản,

đưa công nghiệp chế biến dừa và thủy sản lên trình độ tiên tiến. Việc phát

triển công nghiệp chế biến và các hoạt động dịch vụ trên địa bàn nông thôn đã

32

tạo điều kiện cho trồng trọt, đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản đạt năng suất

chất lượng cao và phát triển mạnh, tăng nhanh sản phẩm và thu nhập cho nền

kinh tế. Trạng thái khép kín, trì trệ, lạc hậu vốn có của nền nông nghiệp nhỏ

từng bước bị phá vỡ. Hơn nữa, đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến,

ngoài việc tạo ra giá trị gia tăng cho nông sản hàng hóa, còn tạo thêm nhiều

việc làm tại chỗ và tăng thu nhập cho dân cư nông thôn. Song song với quá

trình đó, các hoạt động dịch vụ ở nông thôn, bao gồm cả các hoạt động dịch

vụ cho sản xuất và dịch vụ đời sống cũng phát triển, tạo điều kiện đáp ứng tốt

yêu cầu phát triển kinh tế hàng hóa, đồng thời là điều kiện để từng bước giảm

dần tỷ trọng sản xuất nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng sản xuất công nghiệp và

dịch vụ ở Bến Tre.

Như vậy, sự gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau giữa nông nghiệp với

công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến trong quá trình phát triển là

điều kiện bảo đảm tính ổn định và phát triển bền vững của nền kinh tế nói

chung, cũng như kinh tế nông nghiệp nói riêng, đặc biệt là phát triển mạnh

một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa như ở Bến Tre hiện nay.

Thứ tư, phát huy truyền thống cách mạng của quê hương, người dân Bến

Tre tiến hành CNH, HĐH trong khí thế của phong trào “Đồng khởi mới”

Tháng 1 năm 1960, phong trào Đồng khởi của quân và dân Bến tre nổ

ra và nhanh chóng trở thành phong trào đấu tranh cách mạng lan rộng khắp

các tỉnh Nam Bộ. “Đồng khởi” đã trở thành dấu ấn lịch sử, tạo mốc quan

trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, được nhân dân

cả nước khâm phục. Chiến tranh đã đi qua, phát huy phong trào Đồng khởi

“huyền thoại” với ý nghĩa và tinh thần mới, cuối năm 1999, Tỉnh ủy Bến Tre

đã ra Nghị quyết 08 phát động phong trào "Đồng khởi mới" đẩy mạnh công

cuộc CNH, HĐH, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội

của tỉnh.

Như luồng gió mới, phong trào "Đồng khởi mới" đã khơi dậy truyền

thống Đồng khởi năm xưa, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, vươn lên

33

không cam chịu đói nghèo lạc hậu, người dân Bến tre đã làm bật dậy những

tiềm năng của một miền quê ven biển còn nghèo khó này.

Kết quả từ phong trào Đồng khởi mới đã làm thay đổi bộ mặt nông

thôn Bến Tre với hơn 1.500 km (chiếm 46%) đường giao thông nông thôn

được nhựa hóa, bê tông hóa với phương thức “Nhà nước và nhân dân cùng

làm”. Xây dựng mới 1.240 cây cầu (trong tổng số 2.495 cầu toàn tỉnh) tạo

điều kiện giao thông thuận lợi trên địa bàn của tỉnh. Tỉnh đã hình thành được

các vùng kinh tế trọng điểm gắn với điều kiện tự nhiên và tiềm năng từng

vùng như đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thủy sản và vườn cây ăn quả. Các

huyện Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú tập trung phát triển nuôi trồng thủy sản,

đánh bắt xa bờ và chế biến thủy sản xuất khẩu; các huyện Mỏ Cày, Châu

Thành và Chợ Lách nổi trội với những vườn chuyên cây ăn quả chất lượng

cao và du lịch sinh thái, làng nghề thủ công, mỹ nghệ. Năm 2004, cũng là

năm đầu tiên tỉnh Bến Tre đạt tỷ lệ tăng trưởng vượt hai con số: 10,08%, xuất

khẩu đạt 80 triệu đôla (tăng 44,9% so với năm 2003), nuôi hơn 42.000 ha thủy

sản, giảm tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 5% (theo chuẩn cũ).

Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, những thành tựu đó chính là kết

quả của tinh thần cách mạng tiến công, ý chí vươn lên của người dân “quê

hương Đồng khởi” quyết tâm tiến kịp và hội nhập với xu thế phát triển chung

của khu vực và cả nước trong sự nghiệp CNH, HĐH.

Tóm lại, công cuộc CNH, HĐH ở một tỉnh nông nghiệp giàu tiềm năng

nhưng cũng lắm khó khăn, dẫu còn chậm phát triển, nhưng đang trên đà tăng

trưởng kinh tế như hiện nay, cùng với việc chuẩn bị một nguồn nhân lực đủ

về số lượng, mạnh về chất lượng, Bến Tre sẽ tiến nhanh hơn trong sự nghiệp

CNH, HĐH, xây dựng Bến Tre văn minh, giàu mạnh hơn.

1.2.2. Những yêu cầu cơ bản về phát triển nguồn lực con người

trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tự bản thân nó luôn đặt ra những đòi hỏi

khách quan về số lượng, cơ cấu và chất lượng NLCN với những năng lực và

34

phẩm chất cần thiết. Sự nghiệp CNH, HĐH ở Bến Tre trong điều kiện còn

nhiều khó khăn, trình độ công nghệ lạc hậu, quy mô, tốc độ nhỏ bé, chậm

chạp, vì thế, phát triển NLCN ở Bến Tre càng là yêu cầu cấp thiết, nhằm tạo

động lực mạnh mẽ thúc đẩy nhanh quá trình này. Quá trình phát triển NLCN

phục vụ CNH, HĐH ở một tỉnh như Bến Tre cần phải đáp ứng những yêu cầu

cơ bản sau:

Thứ nhất, phát triển mạnh NLCN của Bến Tre cả về số lượng và

chất lượng, đủ sức đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH với quy mô, tốc độ

nhanh và rộng lớn hơn

Nguồn lực con người Bến Tre chính là nhân tố quyết định thắng lợi sự

nghiệp CNH, HĐH ở Bến Tre. Nhưng nếu chỉ với một lực lượng lao động

đông, đầy lòng nhiệt tình và ý chí cách mạng thì chưa đủ để người Bến Tre

thành công trong công cuộc CNH, HĐH. Trước yêu cầu ngày càng cao của

nhiệm vụ CNH, HĐH, đòi hỏi Bến Tre phải gấp rút đào tạo ngay lực lượng lao

động có tri thức khoa học, nắm vững chuyên môn kỹ thuật, năng động sáng tạo,

có phẩm chất đạo đức tốt... Bến Tre có nguồn lao động khá dồi dào (trên 60%

dân số), nhưng nguồn nhân lực - với tư cách là động lực của CNH, HĐH, xét ở

số lượng, cơ cấu nghề nghiệp và cả chất lượng đều chưa đáp ứng được yêu cầu

của quá trình này. Tình trạng thiếu và yếu trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán

bộ quản lý kinh tế, sản xuất kinh doanh và nhất là cán bộ KH-CN là một thực

tế. Đây lại là lực lượng nòng cốt tham gia vào quá trình hoạch định chiến lược,

đề ra mục tiêu, phương hướng, giải pháp cũng như tổ chức, triển khai quá trình

CNH, HĐH. Có thể nói, CNH, HĐH diễn ra với tốc độ nhanh hay chậm, hiệu

quả cao hay thấp... là do sự quy định của nhiều yếu tố, trong đó trước hết tùy

thuộc vào năng lực của đội ngũ cán bộ này. Trong tổng số lực lượng lao động

của toàn tỉnh, đến nay chỉ có 22,12% lao động qua đào tạo. Trong đó, lực lượng

lao động có trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật cao phần lớn tập trung ở các

ngành y tế, GD-ĐT, quản lý nhà nước. Trong các ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh

35

như nông - ngư nghiệp, đội ngũ lao động có trình độ còn rất hạn chế, đa số là

lao động phổ thông, chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật.

Trong những năm tới, tỉnh Bến Tre phấn đấu: “Đẩy mạnh tốc độ phát

triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững, tạo sự chuyển động mới mạnh mẽ trong

sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [23, tr.108]. Để đạt được mục tiêu đề

ra, vấn đề cấp bách là phải nhanh chóng đào tạo nguồn nhân lực mạnh cả về số

lượng và chất lượng, hợp lý về cơ cấu đủ khả năng đưa Bến Tre vượt ra khỏi tình

trạng "tụt hậu", vươn lên sánh vai cùng các tỉnh bạn, góp phần cùng cả nước

thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH.

Thứ hai, yêu cầu thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với

chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH

Trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm (2001-2010), Đảng

ta chỉ rõ: “Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ

cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [19,

tr.92]. Hiện nay, nước ta đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo

hướng CNH, HĐH. Đó là quá trình tăng dần tỷ trọng của các ngành công

nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu nền

kinh tế.

Bến Tre hiện đang phát triển toàn diện kinh tế-xã hội theo cơ cấu nông

- công nghiệp - dịch vụ, trong đó kinh tế thủy sản và kinh tế vườn là hai

ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Trong những năm gần đây, mặc dù còn

chậm, song, cơ cấu kinh tế của Bến Tre đang dần chuyển dịch theo hướng

CNH, HĐH. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một tỉnh có cơ cấu nông - công

nghiệp - dịch vụ theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, thực

chất là quá trình chuyển từ nền kinh tế truyền thống, trình độ thấp dựa vào

nông nghiệp là chủ yếu, sang nền kinh tế hiện đại, trình độ cao. Sự chuyển

dịch này đã tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu lao động và tạo ra mối

quan hệ tác động giữa chúng với nhau. Chuyển dịch cơ cấu lao động là quá trình

giảm dần số lượng lao động nông nghiệp, tăng số lượng lao động công nghiệp và

36

dịch vụ, theo hướng nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng

lao động của lực lượng lao động. Nói cách khác, đó là quá trình phân công lại

lao động trong toàn xã hội phù hợp với cơ cấu kinh tế đang chuyển đổi theo

hướng CNH, HĐH. Thực tế đó đặt ra yêu cầu phát triển NLCN ở Bến Tre phải

hướng tới đào tạo lực lượng lao động lành nghề, nắm vững chuyên môn kỹ

thuật, đồng bộ về cơ cấu, thích ứng với nghề nghiệp, phục vụ tốt yêu cầu phân

công lại lao động trong toàn tỉnh.

Bến Tre là tỉnh có ngành công nghiệp chưa phát triển, tốc độ đô thị hóa

chậm, do đó không thể hy vọng giải quyết hết lao động trong nông nghiệp bằng

cách chuyển sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Vấn đề này cũng đặt ra yêu

cầu trong phát triển NLCN của tỉnh cần chú trọng đào tạo ngành nghề phù hợp,

nhằm cung cấp lao động cho các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và

dịch vụ ngay tại địa bàn nông thôn. Ngoài ra, Bến Tre còn là vùng đất giàu

ngành nghề truyền thống, đặc biệt những nghề chế biến các sản phẩm từ dừa và

hàng thủ công mỹ nghệ. Do đó, khôi phục và phát triển các làng nghề truyền

thống, kết hợp với việc "cấy ghép" nghề mới trong nông thôn là một hướng đi

quan trọng và là cơ sở để đi vào CNH, HĐH. Từ đây mở ra hướng mới cho việc

phát triển NLCN trong lĩnh vực mở rộng hình thức truyền nghề, bồi dưỡng, kèm

cặp nghề... nhằm nâng cao tay nghề và giải quyết việc làm cho lao động ở nông

thôn trong các làng nghề.

Nằm trong khu vực ĐBSCL, Bến Tre có thế mạnh về kinh tế thuỷ sản

và kinh tế vườn. Những năm gần dây, phong trào nuôi thuỷ sản và cải tạo

vườn tạp để trồng cây ăn quả ở Bến Tre phát triển mạnh, hình thành những

vùng kinh tế trọng điểm về đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thuỷ hải sản và

vườn cây ăn quả tập trung chất lượng cao. Hiện nay, thuỷ sản đang là mặt

hàng xuất khẩu chủ lực, đem lại nguồn ngoại tệ lớn cho tỉnh và góp phần xoá

đói giảm nghèo cho một bộ phận đông đảo dân cư các huyện vùng biển. Kinh

tế vườn với mô hình trồng cây ăn quả và sản xuất cây giống đem lại hiệu quả

kinh tế cao cho các nhà vườn. Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm môi trường do

37

mở rộng diện tích nuôi thuỷ sản, nhất là nuôi tôm công nghiệp đã làm cho

ngành này trở nên kém bền vững do phụ thuộc nhiều vào điều kiện sinh thái.

Các mặt hàng trái cây của Bến Tre mặc dù được thị trường trong nước ưa

chuộng, nhưng do dư lượng thuốc bảo vệ thực vật cao và chất lượng trái cây

chưa cao làm hạn chế năng lực cạnh tranh, nên chưa tìm được chỗ đứng vững

chắc trên thị trường các nước.

Để tiếp tục khẳng định là những ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh và

phát triển bền vững, việc nâng cao chất lượng hàng nông, thuỷ sản nhằm tăng

năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế là nhu cầu cấp thiết

đặt ra. Đáp ứng nhu cầu này, ngoài việc đầu tư công nghệ mới, vấn đề quan

trọng nhất trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực của tỉnh là nhanh chóng

đào tạo một đội ngũ chuyên gia KH-CN trong các lĩnh vực công nghệ thông

tin, công nghệ sinh học, công nghệ chế biến đủ khả năng nắm vững, ứng dụng

và sáng tạo những thành tựu khoa học tiên tiến để cải tiến kỹ thuật, nâng cao

năng suất, chất lượng, bảo đảm nông sản "sạch" đáp ứng yêu cầu thị trường

trong và ngoài nước. Mặt khác, phải nâng cao trình độ, kiến thức cho người

sản xuất để họ nắm vững kỹ thuật nuôi, trồng, bảo vệ, chăm sóc cây trồng vật

nuôi, nhằm bảo đảm qui trình nuôi thuỷ sản sạch, trái cây sạch có giá trị xuất

khẩu cao.

Tóm lại, phát triển NLCN cho CNH, HĐH một mặt phải đáp ứng yêu

cầu chuyển đổi cơ cấu lao động, mặt khác phải thúc đẩy nhanh quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Điều đó đòi hỏi trong chiến

lược phát triển NLCN cần phải có quy hoạch trong đào tạo, định hướng ngành,

nghề phù hợp với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, trong

đó, giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực nói chung, đào tạo lao đong kỹ thuật, công

nhân lành nghề nói riêng phải đi trước một bước.

Thứ ba, quá trình CNH, HĐH đặt ra yêu cầu phải tập trung phát

triển nguồn nhân lực chất lượng cao - bộ phận quan trọng nhất, tinh túy

nhất trong NLCN của tỉnh Bến Tre

38

Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một lực lượng lao

động có học vấn, có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, có kỹ năng lao động và

nhất là có khả năng thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ

sản xuất. Có thể hiểu nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm: đội ngũ công

nhân kỹ thuật lành nghề; những nông dân được trang bị tri thức khoa học - kỹ

thuật và có khả năng ứng dụng những tri thức đó vào sản xuất nông nghiệp,

giàu kinh nghiệm trong sản xuất; nòng cốt là đội ngũ trí thức khoa học và công

nghệ, quản lý kinh tế-xã hội, văn hóa - văn nghệ...

Hiện nay, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua con

đường phát triển GD-ĐT, khoa học và công nghệ được xem là khâu then chốt

để đưa nước ta vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, đạt mục

tiêu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Điều này được khẳng định bởi vai trò to lớn của nguồn nhân lực này đối với

sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trước yêu cầu phải “rút ngắn thời gian” tiến

hành CNH, HĐH so với các nước đi trước, nguồn nhân lực chất lượng cao ở

nước ta có vai trò xung kích đi đầu trong việc tiếp nhận, chuyển giao công

nghệ tiên tiến; lựa chọn hướng đi cho những lĩnh vực KH-CN then chốt; đặc

biệt họ là hạt nhân trong việc ứng dụng các thành tựu KH-CN hiện đại vào

các lĩnh vực kinh tế-xã hội... Có thể nói, nguồn nhân lực chất lượng cao ở

nước ta là lực lượng trực tiếp thực hiện “đi tắt” “đón đầu” trong quá trình CNH,

HĐH, rút ngắn dần khoảng cách tụt hậu của nước ta so với các nước tiên tiến.

Hơn nữa, chính nguồn nhân lực tinh hoa này góp phần cực kỳ quan trọng vào

quá trình đào tạo, bồi dưỡng, thu hút các tài năng khoa học trẻ, tạo ra lực lượng

chuyên gia, các nhà khoa học giỏi, bổ sung vào đội ngũ kế cận, cung cấp cho yêu

cầu CNH, HĐH.

Như các tỉnh ở vùng ĐBSCL, Bến Tre tiến hành CNH, HĐH ở một vùng

đất giàu tiềm năng kinh tế, nhưng vẫn còn nghèo và chậm phát triển. Điều đó có

nhiều nguyên nhân, mà một trong những nguyên nhân chính là thiếu một nguồn

nhân lực chất lượng cao đủ sức làm bật dậy những tiềm năng to lớn để đưa vào

phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Vì vậy, Bến Tre đang rất cần tài năng và trí tuệ

39

của những cán bộ KH-CN giỏi, cán bộ lãnh đạo, quản lý tài năng và một lực

lượng lao động có trình độ lành nghề. Nhu cầu đó đang đặt ra cho chiến lược

phát triển NLCN của tỉnh phải chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng

cao và coi đó là chính sách ưu tiên hàng đầu, bởi chính nguồn nhân lực này sẽ

tạo ra động lực to lớn thúc đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH ở Bến Tre trong

những năm tới.

Như vậy, thực tiễn đang đặt ra nhu cầu cấp bách đối với Bến Tre trong

việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp với điều

kiện của tỉnh, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và đẩy nhanh CNH,

HĐH lên quy mô và tốc độ mới cao hơn.

Thứ tư, phát triển NLCN ở Bến Tre trên nền tảng kế thừa, phát huy

truyền thống văn hóa, giá trị đạo đức tốt đẹp của con người vùng ĐBSCL

nói chung, người dân Bến Tre nói riêng

Đảng ta khẳng định: văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy

sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội. Với tư cách là động lực, văn hóa là yếu tố

tinh thần tạo nên chất lượng nguồn nhân lực. Sự thành công của Nhật Bản là

kết quả của sự kết hợp giữa văn hóa truyền thống dân tộc với việc khơi dậy và

phát huy có hiệu quả NLCN.

Ở nước ta, văn hóa truyền thống dân tộc có sức sống mãnh liệt, nuôi

dưỡng ý chí và sức mạnh con người Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ

nước. Ngày nay, coi trọng, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, gắn với tinh hoa

văn hóa nhân loại, đó chính là môi trường văn hóa lành mạnh của quá trình

CNH, HĐH đất nước. Môi trường văn hóa là cơ sở phát triển con người, phát

triển NLCN đúng hướng, hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị

trường đối với NLCN.

Cũng như con người vùng ĐBSCL, con người Bến Tre vốn có truyền

thống quý báu, từng được thử thách trong lịch sử khai phá và chiến đấu chống

ngoại xâm. Lòng yêu nước, tinh thần bất khuất kiên cường, không khuất phục

trước mọi kẻ thù đã được con người Bến Tre chứng thực qua những chiến công

oanh liệt trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc. Sự khắc nghiệt

40

của điều kiện tự nhiên trong những ngày đầu đi khai phá vùng đất mới cùng với

những gian khổ trong chiến tranh ác liệt đã hình thành trong mỗi con người nơi

đây tính sáng tạo, ý chí tự lực tự cường và tinh thần đoàn kết gắn bó, tương trợ

nhau để vượt qua muôn vàn thử thách. Một đặc tính văn hóa nổi trội của con

người vùng đất này là tinh thần tự chủ, phong cách giao lưu cởi mở, nhạy cảm

với cái mới và không bị gò bó trong những khuôn mẫu giáo điều khô cứng. Có

thể nói, ngoài kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của con người

Việt Nam, con người Bến Tre nói riêng, con người vùng ĐBSCL nói chung, còn

có những nét văn hóa truyền thống và đức tính tốt đẹp được hình thành từ chính

điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử của vùng đất đồng bằng sông nước

phương Nam này.

Bước vào thời kỳ CNH, HĐH, sức mạnh NLCN Bến tre không chỉ ở

lực lượng lao động dồi dào, mà còn ở sức mạnh tinh thần, sức mạnh của

truyền thống văn hóa được hình thành và củng cố qua chiều dài lịch sử. Sự

nghiệp CNH, HĐH đang rất cần ở con người Bến Tre tinh thần dũng cảm,

dám nghĩ dám làm, ý chí quyết tâm vượt khó vươn lên nắm lấy những cơ hội

để đưa nền kinh tế vượt qua nguy cơ tụt hậu. Trong điều kiện địa lý, kinh tế-

xã hội không thuận lợi, đòi hỏi con người Bến Tre càng phải năng động sáng

tạo, tìm tòi ra những thế mạnh, cách đi và mô hình phù hợp với hoàn cảnh đặc

thù của địa phương. Thực tế đó đã đặt ra yêu cầu khách quan phải biết kế thừa

và phát huy những giá trị truyền thống quý báu của con người Bến Tre trong

quá trình phát triển NLCN của tỉnh. Phát triển NLCN Bến Tre ngày nay

không chỉ là gia tăng về số lượng, đồng bộ về cơ cấu lực lượng lao động, mà

trong chất lượng NLCN phải bao hàm cả việc khơi dậy, vun bồi và phát triển

những giá trị truyền thống tốt đẹp trong mỗi con người và cả cộng đồng người

Bến Tre cho sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội và CNH, HĐH tỉnh nhà.

NLCN Bến Tre hôm nay chỉ có thể và phải phát triển trên nền tảng truyền

thống quý báu ấy, chính đó là nguồn sức mạnh tinh thần vượt lên mọi khó

khăn, thử thách, thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH.

41

Tóm lại, yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH, HĐH đòi hỏi phải

phát triển NLCN Bến Tre mạnh về số lượng, cao về chất lượng, đồng bộ về

cơ cấu và trên nền tảng kế thừa, phát triển những giá trị văn hóa truyền thống

tốt đẹp của con người vùng ĐBSCL, nhằm tạo ra nguồn nội lực mạnh mẽ thúc

đẩy Bến Tre vươn lên sánh vai cùng các tỉnh bạn trong khu vực, hội nhập

cùng cả nước trong sự nghiệp CNH, HĐH.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Ở nước ta, phát triển NLCN là tất yếu nhằm thực hiện thắng lợi sự

nghiệp CNH, HĐH. Sức mạnh của NLCN không chỉ ở số lượng đông mà chủ

yếu là ở chất lượng cao, đó là sự kết hợp hài hòa giữa thể lực, trí lực với

những phẩm chất tốt đẹp của con người. Việc phân tích cấu trúc NLCN và

mối quan hệ của nó với các nguồn lực khác đã khẳng định vai trò to lớn, có ý

nghĩa quyết định của NLCN đối với quá trình phát triển kinh tế-xã hội, đó chính

là nguồn nội lực mạnh mẽ thúc đẩy xã hội phát triển.

Phát triển NLCN trong quá trình CNH, HĐH ở Bến Tre là yêu cầu khách

quan. Tuy nhiên, quá trình phát triển này vừa phải đáp ứng những đòi hỏi của sự

nghiệp CNH, HĐH, vừa phải bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế và yêu cầu

phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Sự nghiệp CNH, HĐH ở Bến Tre đang tiến

hành với nhiều khó khăn, thách thức, đang rất cần tài năng, trí tuệ và sức lực của

con người Bến Tre, trước hết là lực lượng lao động - lực lượng đã và đang đóng

góp to lớn vào sự phát triển của tỉnh. Có thể nói, sự nghiệp CNH, HĐH ở Bến

Tre tiến hành nhanh hay chậm, thu được thắng lợi hay không, phần lớn tuỳ thuộc

vào sức mạnh NLCN. Điều đó đã đặt ra yêu cầu cần nhanh chóng phát triển

mạnh NLCN Bến Tre về số lượng và chất lượng, chú trọng phát triển nguồn

nhân lực chất lượng cao, coi đó là khâu đột phá đưa Bến Tre vượt qua nguy cơ

tụt hậu hiện nay.

42

Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở TỈNH BẾN TRE VÀ NHỮNG XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NÓ

Phát triển NLCN là yêu cầu cấp bách trong quá trình CNH, HĐH ở tỉnh

Bến Tre. Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế -xã hội, truyền

thống lịch sử văn hóa, con người Bến Tre… có những nét đặc thù riêng nên

đã ảnh hưởng đến quy mô, tốc độ cũng như xu hướng vận động của quá trình

phát triển NLCN của tỉnh. Điều đó đòi hỏi các cấp, các ngành cần nhận thức

rõ, để xây dựng kế hoạch, chính sách phát triển NLCN phù hợp, nhằm tạo ra

lực lượng lao động mạnh về số lượng, cao về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu

đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH ở Bến Tre trong thời gian

tới.

2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI, VĂN HÓA

VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON

NGƯỜI CỦA TỈNH BẾN TRE HIỆN NAY

2.1.1. Điều kiện tự nhiên và những đặc điểm kinh tế-xã hội, lịch sử

văn hóa của tỉnh Bến Tre

Điều kiện tự nhiên

Bến Tre là một tỉnh đồng bằng cuối nguồn sông Cửu Long, nằm về

phía Đông Nam của khu vực châu thổ ĐBSCL. Địa hình Bến Tre là vùng đất

bằng phẳng, do phù sa của bốn nhánh sông Cửu Long (Tiền Giang, Ba Lai,

Hàm Luông và sông Cổ Chiên) bồi tụ qua nhiều thế kỷ, hình thành ba dải cù

lao: An Hóa, Bảo và Minh. Nhìn trên bản đồ, tỉnh Bến Tre có hình rẻ quạt mà

cán quạt nằm về phía thượng nguồn, các nhánh sông lớn giống như những nan

quạt xoè rộng ra phía biển Đông bao bọc ba dải đất cù lao. Phía Bắc của Bến

Tre giáp tỉnh Tiền Giang, có ranh giới chung là sông Tiền, phía Tây và phía

Nam giáp tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh, có ranh giới chung là sông Cổ Chiên,

phía Đông giáp biển Đông với chiều dài 65km bờ biển. Đến nay, Bến Tre là

43

tỉnh duy nhất ở ĐBSCL còn bị tách biệt với cả nước bởi những con sông lớn,

khiến cho Bến Tre giống như một ốc đảo. Chính điều kiện tự nhiên này là một

trong những nguyên nhân làm cản trở sự phát triển của Bến Tre. Do vậy, khi

nào cầu Rạch Miễu được hoàn thành mới có thể hạn chế được phần nào sự tách biệt này. Diện tích tự nhiên của Bến Tre là 2.315km2, vùng lãnh hải rộng khoảng 20.000 km2, dân số 1.345.637 người (tính đến cuối năm 2004). Tỉnh

Bến Tre có 1 thị xã, 7 huyện và 160 xã, phường, thị trấn. Thị xã Bến Tre là

trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa và khoa học kỹ thuật của tỉnh, cách

Thành phố Hồ Chí Minh 87km về phía Tây. Là một tỉnh có diện tích không lớn

nhưng đông dân, lại bị cách biệt về mặt địa lý, do đó, lao động và việc làm đã và

đang là những vấn đề bức xúc đặt ra trong quá trình phát triển của Bến Tre.

Thành phần dân tộc ở Bến Tre chủ yếu là người Kinh, dân tộc thiểu số

rất ít và hầu như hòa nhập với người Kinh. Trong suốt chiều dài lịch sử, các

dân tộc anh em sinh sống nơi đây đã đoàn kết chiến đấu và chiến thắng ngoại

xâm, cùng nhau xây dựng lại quê hương.

Bến Tre là tỉnh có hệ thống sông ngòi chằng chịt vào loại bậc nhất khu

vực ĐBSCL, với tổng chiều dài hơn 6.000 km [43, tr.1366], bao bọc và chia

cắt làm cho Bến Tre thành vùng đất cù lao bốn bề sông biển. Bến Tre có địa

hình thấp, lại có nhiều sông và kênh, rạch, do đó nước sông bị nhiễm mặn

nghiêm trọng vào mùa khô. Trong những năm gần đây, nước mặn xâm nhập

sâu, bao phủ phần lớn diện tích của tỉnh, gây nên tình trạng thiếu nước ngọt

gay gắt. Đây là vấn đề bức xúc, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của

nhân dân trong tỉnh.

Về vị trí địa lý kinh tế

Trong tương lai, tỉnh Bến Tre có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh

tế-xã hội do nằm trong vòng cung các địa bàn và trung tâm phát triển: Cần

Thơ, Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu và địa bàn kinh tế trọng

điểm phía Nam. Tuy có khó khăn về đường bộ, song đường thuỷ nối Bến Tre

với các trung tâm này khá thuận lợi. Hiện nay, nhiều tuyến đường bộ được

44

xây dựng nối Bến Tre với các tỉnh lân cận, một số cảng trung chuyển đang

được đầu tư mới và nâng cấp theo hướng hiện đại. Đặc biệt, cầu Rạch Miễu

bắc qua sông Tiền sắp hoàn thành, phà Cổ Chiên đang xây dựng, cầu Hàm

Luông đang có kế hoạch thi công sẽ nối liền các dải cù lao của Bến Tre với

các tỉnh lân cận. Vài năm tới đây, sự giao lưu thông suốt về đường bộ và

đường thuỷ giữa Bến Tre và các tỉnh trong vùng sẽ tạo cho Bến Tre lợi thế về

vị trí giao thông quan trọng từ ĐBSCL đi Đông Nam bộ và ngược lại.

Tài nguyên thiên nhiên của Bến Tre rất đa dạng và phong phú (đất đai,

sông nước, các hệ sinh thái cửa sông, ven biển…) thuận lợi cho việc phát triển

một nền nông nghiệp toàn diện, đặc biệt là việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản

và đang là tỉnh trọng điểm cây ăn quả của ĐBSCL. Đó là những lợi thế tuyệt

đối không chỉ trước mắt mà còn có tính lâu dài, cung cấp sản phẩm cho thị

trường trong nước và xuất khẩu, tạo nền tảng phát triển các ngành công

nghiệp chế biến và dịch vụ đi kèm.

Bên cạnh đó, điều kiện tự nhiên tạo cho Bến Tre cảnh sắc thiên nhiên

đặc trưng của vùng Nam Bộ với nhiều khu di tích lịch sử, văn hóa, thích hợp

cho việc phát triển các loại hình du lịch sinh thái, du lịch miệt vườn và đang

là lĩnh vực có nhiều triển vọng cho phát triển ngành du lịch nếu được tỉnh tập

trung đầu tư.

Điều kiện tự nhiên như trên, một mặt thích hợp cho sản xuất nông

nghiệp, lưu thông thuận tiện bằng đường thuỷ, nhưng mặt khác, cũng tạo cho

Bến Tre không ít khó khăn trong sản xuất nông nghiệp và đời sống, do diện

tích đất nhiễm mặn lớn vào mùa khô. Mặt khác, do địa thế cù lao, cách trở lưu

thông bằng đường bộ, nên Bến Tre khó thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước.

Vì thế, để đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH, hội nhập với các tỉnh trong vùng

và cả nước, tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, Bến Tre phải thật

sự chú trọng phát triển NLCN của mình, coi đó là nguồn nội lực quyết định

cho sự phát triển nhanh và bền vững. Vấn đề là phải nâng cao chất lượng

NLCN, khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng to lớn con người Bến Tre,

45

nhằm biến NLCN thành nội lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế -xã hội phát triển.

Do đó, phát triển NLCN phải được đặt ở vị trí trung tâm hàng đầu trong chính

sách phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh. Trong lần về thăm Bến Tre (tháng 8-

1998), Thủ tướng Phan Văn Khải có nhấn mạnh: “Để giúp Bến Tre đi nhanh

hơn, không bị tụt hậu so với các địa phương khác, cần tiếp tục phát huy

truyền thống cách mạng của Bến Tre trong thời kỳ xây dựng, khai thác tốt

những lợi thế của tỉnh, nhất là về lực lượng lao động” [2, tr.47].

Đặc điểm kinh tế-xã hội

Với 70% diện tích là đất nông nghiệp, 65km bờ biển và hệ thống sông

ngòi chằng chịt, Bến Tre có lợi thế phát triển sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là

kinh tế thuỷ sản và kinh tế vườn. Trong những năm gần đây, nền kinh tế Bến Tre

có mức tăng trưởng khá, giai đoạn 2001 - 2004 GDP bình quân đạt 8,7%/ năm,

nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc chủ yếu vào tốc độ tăng của khu

vực I (nông - lâm - thủy sản), chiếm 60,82% GDP của tỉnh (năm 2004), vì vậy,

đây là sự tăng trưởng không bền vững. Mặt khác, nền kinh tế của Bến Tre đang

đứng trước những khó khăn, thách thức: trình độ phát triển còn thấp, qui mô sản

xuất còn nhỏ bé, vấn đề đổi mới thiết bị, công nghệ sản xuất triển khai chậm.

Nhiều vấn đề bức xúc đặt ra trên lĩnh vực kinh tế-xã hội ngày càng gay gắt, nổi

lên là vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động, đời sống một bộ phận dân

cư ở nông thôn còn khó khăn, tiêu thụ sản phẩm sản xuất của nông dân không ổn

định; tệ nạn xã hội chưa có chiều hướng giảm… đã làm hạn chế động lực phát

triển kinh tế của tỉnh.

Có thể thấy, mặc dù nền kinh tế Bến Tre đang từng bước phát triển, cơ

cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng nhưng còn rất chậm. Do đó, muốn đẩy

nhanh CNH, HĐH, phát triển ngành nghề, ứng dụng KH-CN vào sản xuất,

nâng cao chất lượng hàng nông sản, đòi hỏi Bến Tre phải chú trọng phát triển

mạnh NLCN cả về số lượng và chất lượng, đủ sức thực hiện nhiệm vụ trong

giai đoạn mới.

46

Bến Tre có nguồn nhân lực dồi dào, lực lượng lao động trẻ chiếm số

đông, người lao động cần cù, chịu khó, thông minh, hiếu học, đó là những lợi

thế nhất định về NLCN trong sự nghiệp CNH, HĐH. Đời sống người dân Bến

Tre từng bước được cải thiện, tỷ lệ hộ khá, giàu có tăng, hộ nghèo giảm dần,

nhưng vẫn còn nhiều (4,62% năm 2004). Thu nhập bình quân đầu người đạt

6,2 triệu đồng (năm 2004). Như vậy, so với mức bình quân của cả nước, mức

thu nhập bình quân đầu người của Bến Tre hiện nay còn thấp.

Bến Tre là một trong những tỉnh gánh chịu hậu quả chiến tranh rất nặng

nề, với hơn 35.000 liệt sĩ, trên 18.000 thương binh và 2.067 mẹ được Nhà

nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng [2, tr.9].

Truyền thống lịch sử, văn hóa và con người Bến Tre

Cả nước biết Bến Tre “quê hương Đồng khởi” với tám chữ vàng

“Anh dũng Đồng khởi, Thắng Mỹ, diệt Nguỵ”. Những chiến công oanh liệt

của quân và dân Bến Tre đã góp phần viết nên trang sử vẻ vang, chói lọi

của dân tộc Việt Nam. Những tên đất, tên người đã trở thành niềm tự hào

của bao thế hệ người dân Bến Tre hôm nay và cả mai sau. Trong hai cuộc

kháng chiến vừa qua, quân và dân Bến Tre đã kiên cường chiến đấu và

chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, góp phần to lớn vào

thắng lợi vẻ vang của dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất

đất nước. Nhưng sự hy sinh của nhân dân Bến Tre là hết sức lớn lao. Bến

Tre trở thành mảnh đất chịu nhiều đau thương vào loại nhất, nhì của cả

nước. Lịch sử và những chiến công của quân và dân Bến Tre là bản anh

hùng ca bất diệt, biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng,

ý chí quật cường quyết chiến và quyết thắng quân xâm lược.

Từ lâu, Bến Tre đã là vùng đất "địa linh nhân kiệt", nơi sản sinh ra

những nhân vật có trình độ học vấn uyên thâm. Vị Tiến sĩ đầu tiên của sứ

Nam kỳ lục tỉnh, quê vùng biển Ba Tri, Bến Tre - Phan Thanh Giản, thi đỗ

Tiến sĩ năm 30 tuổi. Trương Vĩnh Ký - quê vùng trái cây nổi tiếng Chợ Lách,

con người “học vấn uyên bác” thông thạo hơn mười thứ tiếng, chỉ trong 40

47

năm hoạt động đã để lại 118 tác phẩm thuộc đủ thể loại. Sau ngọn cờ thơ văn

yêu nước tiêu biểu nửa sau thế kỷ XIX - Nguyễn Đình Chiểu, phải kể đến

Phan Văn Trị mà tên tuổi gắn với cuộc bút chiến sôi nổi nhất thời bấy giờ

đánh vào một nho sĩ bán mình cho giặc - Tôn Thọ Tường. Ba chủ bút của ba

tờ báo buổi đầu trong lịch sử báo chí ở Nam kỳ đầu thế kỷ XX đều là người

Bến Tre, trong đó có chủ bút tờ báo phụ nữ sớm nhất nước ta là “bà đồ”

Nguyễn Thị Ngọc Khuê, bút danh Sương Nguyệt Anh, con gái nhà thơ yêu

nước Nguyễn Đình Chiểu.

Trong lịch sử, người dân nơi đây vừa kế thừa những giá trị truyền

thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, vừa mang đậm những nét độc đáo riêng

của con người vùng đất cù lao. Cũng như nhiều tỉnh vùng ĐBSCL, Bến Tre

vốn là vùng đất hoang vu mới được khai phá theo bước chân “người mang

gươm đi mở đất” của cha ông người Việt từ miền ngoài đến, vào cuối thế kỷ

XVII, đầu thế kỷ XVIII. Gần ba thế kỷ đấu tranh chống giặc ngoại xâm và

ách áp bức bóc lột của phong kiến, người dân Bến Tre đã phải đổ biết bao xương

máu, mồ hôi để gìn giữ và biến mảnh đất hoang vu, rừng thiêng nước độc thành

vùng đất trù phú, giàu tiềm năng như hôm nay.

Từ trong gian khổ và đau thương của chiến tranh, đã xuất hiện ở Bến

Tre những kỳ tích lịch sử gắn liền với những người con anh hùng, vùng đất

anh hùng. Gần như tay không, người Bến Tre đã vùng lên, với ngọn đuốc lá

dừa từ Mỏ Cày đã cháy bùng lên phong trào Đồng khởi “diệt ác, phá kìm” lan

rộng khắp miền Nam. Phong trào đấu tranh chính trị của “Đội quân tóc dài”,

của những người phụ nữ Bến Tre như một huyền thoại đẹp đã đi vào lịch sử

dân tộc. Vị nữ tướng đầu tiên thời chống Mỹ, nhà lãnh đạo cách mạng tài

năng của đất Bến Tre - Phó tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng

miền Nam - Nguyễn Thị Định. Tiếng bom tận sào huyệt báo hiệu sự sụp đổ

chế độ Mỹ - Nguỵ Sài Gòn năm 1975 cũng do người con của Bến Tre, anh

hùng phi công Nguyễn Thành Trung.

48

Những sự kiện điển hình đó đã cho thấy con người Bến Tre có đầy đủ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam: yêu nước nồng nàn, kiên

cường bất khuất, thông minh, sáng tạo… Đó là niềm tự hào, là nguồn sức mạnh tinh thần góp phần hun đúc nên bản lĩnh, ý chí để các thế hệ người Bến Tre hôm nay vững bước tiến lên trên con đường CNH, HĐH và đổi mới đất

nước theo định hướng XHCN.

Cùng với lòng yêu nước, con người Bến Tre còn "được pha đậm thêm

tính ngang tàng, nghĩa hiệp, phóng khóang, dường như không bị ràng buộc bởi những quan niệm hẹp hòi, công thức, xơ cứng của Nho giáo" [43, tr.1011], kết hợp với tinh thần tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính, không trông

chờ, ỷ lại. Tinh thần đó không chỉ thể hiện trong sản xuất, mà còn trong chiến

đấu. Từ “quê dừa” đến “quê hương Đồng khởi”, từ “Đội quân tóc dài” đến “Đội đặc công thuỷ” là biểu tượng của tinh thần sáng tạo, ý chí tự vươn lên

mãnh liệt của con người Bến Tre.

Sẽ không đầy đủ và toàn diện khi nói về nét đặc trưng của con người Bến Tre mà không đề cập đến những hạn chế, tiêu cực của họ. Phải chăng do

điều kiện lịch sử luôn phải đương đầu với các thế lực phong kiến và thực dân đế quốc xâm lược, chịu nhiều đau thương trong chiến tranh và vốn có một

chút “ngang tàng, phóng khóang”, mà người dân trên vùng đất này cho đến nay vẫn còn tư tưởng “tự do” luôn muốn thóat khỏi sự quản lý của pháp luật. Mặt khác, với nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu từ lâu đời, lại bị cách biệt với

bên ngoài nên một bộ phận người dân Bến Tre có lối sống khép kín, ít quan

tâm đến “bên ngoài”, bảo thủ trì trệ, cục bộ địa phương, không dễ chấp nhận những giá trị mới.

Việc chỉ ra những hạn chế này có ý nghĩa quan trọng trong công tác

giáo dục, bồi dưỡng những thế hệ người Bến Tre hôm nay. Đó là, một mặt

chú trọng giáo dục truyền thống cách mạng, khơi dậy tinh thần tự lực, tự

cường vượt khó khăn thách thức và quyết tâm đi lên, không cam chịu đói

nghèo, mặt khác, coi trọng giáo dục ý thức pháp luật, quyền và nghĩa vụ công

dân, tuân thủ kỷ luật, biết chọn lọc và tiếp thu những giá trị mới, tiến bộ. Đó

49

chính là cơ sở hình thành những phẩm chất tốt đẹp của người lao động mới

trong nền sản xuất công nghiệp hiện đại.

2.1.2. Những yếu tố cơ bản tác động đến quá trình phát triển

nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở

tỉnh Bến Tre

Quá trình phát triển NLCN ở Bến Tre đang diễn ra dưới tác động nhiều

chiều của nhiều yếu tố cả khách quan lẫn chủ quan. Việc nhận rõ sự tác động

của các yếu tố này là cơ sở để xây dựng phương hướng, giải pháp nhằm phát

triển NLCN ở Bến Tre đúng hướng, để bảo đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp

CNH, HĐH ở tỉnh Bến Tre.

Thứ nhất, quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh vừa thúc đẩy, vừa

đòi hỏi phải nhanh chóng phát triển nguồn lực con người để đáp ứng yêu

cầu của quá trình này

Thực chất của CNH, HĐH ở Bến Tre là quá trình cải biến một cách căn

bản nền kinh tế cũ, lạc hậu, dựa trên lao động thủ công, năng suất lao động

thấp sang nền kinh tế hiện đại, năng suất lao động và tổng sản phẩm xã hội

tăng cao. Vì thế, đẩy mạnh CNH, HĐH chính là quá trình từng bước tạo ra

tiền đề, điều kiện vật chất cần thiết để người lao động có cơ hội thuận lợi

được tiếp cận những dịch vụ ngày càng hoàn thiện về giáo dục, đào tạo, chăm

sóc sức khỏe tạo nhiều việc làm và nâng cao mức sống… Với ý nghĩa đó,

CNH, HĐH tạo điều kiện thúc đẩy quá trình phát triển NLCN, đặc biệt là

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong quá trình đó, CNH, HĐH đặt ra

những yêu cầu cao và mới đối với lực lượng lao động về trình độ chuyên môn

kỹ thuật, kỹ năng lao động, khả năng thích nghi với phương thức lao động

mới… Đáp ứng những yêu cầu đó, người lao động - với tư cách là lực lượng

sản xuất hàng đầu trong nền kinh tế hiện đại - phải không ngừng học tập, bồi

dưỡng nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn tay nghề và cả nhân cách đạo

đức, năng lực tư duy sáng tạo. Có thể nói, quá trình CNH, HĐH khách quan

tạo ra môi trường và điều kiện, mà ở đó người lao động phải luôn tự đổi mới

50

không ngừng, tự đào tạo, bồi dưỡng về mọi mặt. Như vậy, CNH, HĐH là yếu

tố tác động mạnh mẽ đến NLCN và là “đòn bẩy” trực tiếp thúc đẩy NLCN

phát triển, đồng thời đặt ra những yêu cầu mới để người lao động không

ngừng phấn đấu. Đến lượt nó, NLCN phát triển cao về số lượng và chất lượng

lại là động lực mạnh mẽ đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH.

Bên cạnh thúc đẩy quá trình đào tạo ra một lớp người lao động mới có

năng lực và phẩm chất ngày càng cao đáp ứng yêu cầu chuyển đổi cơ cấu lao

động, trong quá trình CNH, HĐH, một bộ phận không nhỏ trong lực lượng

lao động, chủ yếu ở nông thôn, vốn quen với tác phong lao động nông nghiệp,

thiếu năng động sáng tạo, chậm đổi mới... sẽ là nhóm đối tượng dễ bị gạt ra

ngoài quá trình CNH, HĐH nền sản xuất; không ít người lao động khó làm

quen với cường độ và nhịp độ nhanh chóng của lao động công nghiệp; nhiều

người lao động trình độ thấp dễ bị gạt ra khỏi guồng máy sản xuất. Tình trạng

người lao động phải bỏ việc sau thời gian thử việc tại các khu công nghiệp,

nhà máy… là một thực tế phản ánh điều đó. Mặt khác, việc ứng dụng nhanh

những thành tựu KH-CN vào sản xuất, vào quản lý kinh tế-xã hội cũng làm

cho người lao động nhanh chóng bị lạc hậu, tụt lại phía sau, nếu họ không tự

nỗ lực học tập, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao tay nghề.

Như vậy, tác động của CNH, HĐH đến quá trình phát triển NLCN ở

Bến Tre có cả mặt tích cực lẫn hạn chế. Trên thực tế, CNH, HĐH ở Bến Tre

chưa đủ mạnh để thúc đẩy nhanh sự ra đời một đội ngũ trí thức, các nhà kinh

doanh, nhà quản lý, chuyên gia công nghệ và công nhân lành nghề, đủ sức tạo

ra động lực đưa Bến Tre phát triển vượt bậc. Mặt khác, phần lớn lực lượng

lao động của tỉnh chưa qua đào tạo, chưa được trang bị đủ những năng lực và

phẩm chất để hội nhập vào xu thế chuyển đổi nền kinh tế theo hướng HĐH.

Đây là lực cản lớn trong quá trình CNH, HĐH và tiến trình phát triển của Bến

Tre hiện nay. Vì vậy, để thúc đẩy phát triển NLCN, một mặt Bến Tre cần phải

đẩy mạnh hơn nữa quá trình CNH, HĐH để làm xuất hiện nhu cầu phát triển về số

51

lượng và nâng cao về chất lượng nguồn nhân lực, mặt khác cần có kế hoạch và tập

trung mọi nguồn lực gấp rút:

Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực theo diện rộng để đáp ứng

yêu cầu, đồng thời lựa chọn, đào tạo nhân tài để có khả năng tiếp thu

những công nghệ hiện đại, tập trung trước hết vào xây dựng đội ngũ

các nhà kinh doanh giỏi, công nhân lành nghề, đội ngũ công chức,

hành chính thạo việc, công tâm [22, tr.56].

Thứ hai, sự tác động của cơ chế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế

đến quá trình phát triển NLCN ở tỉnh Bến Tre

Cùng với quá trình CNH, HĐH, cơ chế thị trường đã có những tác

động không nhỏ đến quá trình phát triển NLCN ở Bến Tre.

Trước hết, cơ chế thị trường tạo ra những cơ hội thuận lợi cho con

người phát triển. Dưới tác động của cơ chế thị trường, những quan niệm, thói

quen, tâm lý cũ gắn liền với nền sản xuất tự cấp, tự túc của con người sẽ dần

dần được thay đổi. Thay vào đó, tính năng động, tư duy sáng tạo được khơi

dậy và phát huy; năng lực, tài năng của mỗi người có cơ hội được thể hiện và

khẳng định; cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh được đặt ra. Trong môi

trường đó, đòi hỏi người lao động phải tự vươn lên không ngừng, tự nâng cao

trình độ mọi mặt như tri thức, kỹ năng tay nghề, khả năng thích nghi, tính kỷ

luật, phẩm chất đạo đức… Nói cách khác, cơ chế thị trường đặt ra nhu cầu tự

đào tạo, bồi dưỡng của chính người lao động vì lợi ích thiết thân của họ. Thực

tế cho thấy, sự vươn lên của hàng chục ngàn nông dân từ nghèo khó trở thành

những triệu phú, tỷ phú miệt vườn ở Bến Tre đã chứng minh rằng cơ chế thị

trường tạo ra cơ hội làm giàu chính đáng cho những ai năng động sáng tạo,

quyết chí vươn lên, chịu khó học hỏi, chăm chỉ lao động. Năm 2004 toàn tỉnh

có 21.018 nông dân sản xuất kinh doanh giỏi các cấp, trong đó có 260 nông

dân giỏi cấp tỉnh và 10 nông dân giỏi cấp trung ương với các mô hình nuôi

thuỷ sản, trồng cây ăn trái, chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp… [64, tr.5].

52

Trong nền kinh tế thị trường, thị trường lao động ở Bến Tre từng bước

hình thành và phát triển. Quan hệ giữa cung và cầu lao động góp phần tạo ra

sự cân đối về nhu cầu và đào tạo nguồn nhân lực, từng bước đáp ứng về cơ

cấu lao động theo các cấp và các trình độ, về cơ cấu theo ngành nghề, khu vực

sản xuất. Ngoài ra, nó còn tạo ra sự dịch chuyển lao động từ khu vực nông

thôn, vùng sâu có thu nhập thấp sang khu vực thành thị có thu nhập cao hơn;

từ thành phần kinh tế này sang các thành phần kinh tế khác, mà chủ yếu

hướng vào các khu công nghiệp, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chỉ

trong vòng 4 năm (từ năm 2000 đến năm 2004) số lao động trong khu vực

kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng vọt gần 30 lần. Nếu năm 2000 chỉ có

24 người thì đến năm 2004 tăng lên 715 người [13]. Như vậy, sự hình thành

và phát triển của thị trường lao động đã góp phần đánh thức tiềm năng lao

động to lớn của NLCN ở tỉnh Bến Tre.

Bên cạnh đó, mặt trái của thị trường lao động cũng gây không ít khó

khăn cho việc quản lý, sử dụng NLCN, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao

của tỉnh. Biểu hiện rõ ở tính tự phát trong đào tạo, sử dụng người lao động. Ở

Bến Tre, trong nhiều năm qua, việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực bị “thả

nổi”, không được quy hoạch và thống nhất quản lý, chưa gắn đào tạo với sử

dụng, gây mất cân đối giữa các bậc và các ngành đào tạo. Do đó, tình trạng

học sinh, sinh viên tốt nghiệp không tìm được việc làm ở tỉnh hoặc phải làm

công việc không được đào tạo, gây lãng phí chất xám rất lớn. Một bộ phận

không nhỏ cán bộ, công chức, trí thức khoa học- công nghệ có năng lực, sinh

viên Bến Tre… có xu hướng chuyển đến những thành phố lớn để có điều kiện

phát triển và thu nhập cao. Tình hình trên gây không ít khó khăn cho công tác

quản lý, đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực, ảnh hưởng đến chất lượng

NLCN của tỉnh trong nhiều năm qua.

Cùng với cơ chế thị trường, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng có

những tác động đến quá trình phát triển NLCN ở tỉnh Bến Tre.

53

Về mặt tích cực, trong quá trình mở rộng giao lưu, hợp tác, trao đổi

hàng hóa, vốn, công nghệ mới… với các nước trên thế giới, Bến Tre có điều

kiện khai thác những lợi thế sẵn có, trong đó có tiềm năng to lớn của lực

lượng lao động.

Hiện nay, tỉnh Bến Tre đang đẩy mạnh thu hút đầu tư từ nhiều nguồn,

đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực là thế mạnh kinh tế của tỉnh.

Qua đó, NLCN ở Bến Tre có điều kiện và cơ hội phát triển. Thứ nhất, việc

mở rộng và phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tác dụng thúc đẩy

phát triển kinh tế, tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập cho lực lượng lao động ở

Bến Tre, góp phần tạo sự ổn định về mặt xã hội. Thứ hai, khi công nghệ mới

được trang bị vào sản xuất, một mặt góp phần hiện đại hóa nền kinh tế, tác

động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH. Mặt khác, cơ

cấu lao động cũng biến đổi, một bộ phận lao động ở khu vực nông nghiệp

chưa qua đào tạo sẽ dần chuyển sang lao động trong khu vực dịch vụ, công

nghiệp với yêu cầu trình độ tay nghề ngày càng cao. Thứ ba, trong quá trình

lao động, để thích ứng với công nghệ sản xuất hiện đại, người lao động phải

luôn học hỏi nâng cao trình độ tay nghề, có ý thức kỷ luật trong lao động, rèn

luyện tác phong công nghiệp… xoá dần được lối trì trệ, tự do vô kỷ luật trong

lao động. Thứ tư, để mở rộng, trao đổi hàng hóa, đòi hỏi sản phẩm của Bến

Tre phải có sức cạnh tranh cao mới có thể thâm nhập sâu vào thị trường thế

giới. Muốn nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, ngoài việc đầu tư đổi

mới công nghệ sản xuất, điều quan trọng nhất là phải đào tạo đội ngũ lao động

có trình độ cao, có khả năng làm chủ công nghệ mới, sáng tạo và ứng dụng

thành tựu khoa học tiên tiến, để cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất, chất

lượng sản phẩm. Thứ năm, thông qua hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo ra sự

gắn kết giữa thị trường lao động trong tỉnh với thị trường lao động trong khu

vực và trên thế giới. Vài năm gần đây, xuất khẩu lao động đã trở thành địa chỉ

tin cậy và thu hút sự quan tâm của nhiều người lao động ở Bến Tre. Số người

đi lao động ở nước ngoài ngày càng nhiều, năm 2003 chỉ có 480 người, năm

54

2004 có 971 người. Xuất khẩu lao động không chỉ mở ra khả năng cạnh tranh

cho người lao động mà còn tạo cơ hội cho họ tiếp cận với KH-CN tiên tiến của

thế giới, nâng cao trình độ tay nghề, từ đó, góp phần chuẩn bị đội ngũ lao động

thích ứng với nền sản xuất lớn XHCN.

Việc "mở cửa" giao lưu, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ có tác động

tích cực đến quá trình phát triển NLCN của Bến Tre mà còn có những tác động

tiêu cực. Cùng với việc mở cửa hội nhập kinh tế thì những yếu tố văn hóa, lối

sống "phương Tây" cũng du nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống xã hội, làm

"biến đổi" đạo đức, lối sống của một phận không nhỏ người lao động. Xu hướng

đề cao văn hóa ngoại lai, chạy theo lối sống "hiện đại", hạ thấp hoặc phủ nhận

những giá trị đạo đức, truyền thống văn hóa dân tộc có chiều hướng gia tăng,

nhất là trong tầng lớp thanh, thiếu niên - lực lượng lao động chủ yếu và đông đảo

trong xã hội. Lối sống thực dụng, hưởng thụ, đề cao chủ nghĩa cá nhân, lạnh

lùng chà đạp lên lợi ích người khác... trở nên phổ biến ở nhiều người. Chẳng hạn

hội chứng "lấy chồng Đài Loan" đang lan rộng đến nhiều vùng nông thôn ở Bến

Tre và các tỉnh khu vực ĐBSCL. Trong năm 2001, ở Bến Tre có 203 cuộc hôn

nhân với người nước ngoài, trong đó trên 70% kết hôn với người Đài Loan. Có thể

nói, phần lớn những cuộc hôn nhân này bất chấp thành phần, nghề nghiệp, tuổi tác

trên cơ sở tính toán đổi trao. Hậu quả là rất nhiều cô gái trong những cuộc hôn nhân

đó không hề có hạnh phúc, thậm chí có những người bị đẩy vào bước đường cùng

trở thành gái mại dâm. Đây là lối sống hoàn toàn xa lạ với những giá trị truyền

thống tốt đẹp của dân tộc.

Thứ ba, hệ thống giáo dục - đào tạo tỉnh Bến Tre là nhân tố trực tiếp

tác động đến quá trình phát triển NLCN của tỉnh

Để phát triển nguồn nhân lực, GD-ĐT được xem là con đường cơ bản

nhất, vừa có tính lâu dài, vừa có tính đột phá nhằm nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực, tạo nên và tăng cường năng lực nội sinh để đẩy mạnh CNH,

HĐH.

55

Thực hiện nhiệm vụ “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng

nhân tài”, ngành GD-ĐT Bến Tre góp phần quan trọng trong việc nâng cao

chất lượng NLCN, tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội. Hiện nay, về cơ bản,

Bến Tre đã hoàn thành chỉ tiêu xóa nạn mù chữ, phổ cập tiểu học và đang

triển khai thực hiện phổ cập THCS (dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2006).

Không chỉ coi trọng việc nâng cao trình độ học vấn cho nguồn nhân lực của

mình, những năm gần đây, tỉnh rất chú trọng công tác đào tạo nghề cho lực

lượng lao động, xem đây là bước đột phá, hình thành nên động lực mới về

nguồn nhân lực, góp phần làm biến đổi về chất đối với sự nghiệp phát triển

kinh tế-xã hội, nhằm đạt mục tiêu chung là khắc phục sự tụt hậu về kinh tế.

Sự phát triển khá mạnh và đồng bộ hệ thống GD-ĐT của tỉnh đã góp phần

quan trọng tạo nên sự chuyển biến về số lượng và chất lượng NLCN của Bến

Tre trong những năm gần đây.

Tuy nhiên, trong tình hình chung của ngành Giáo dục cả nước, GD-ĐT

tỉnh Bến Tre vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém và hạn chế. Chất lượng và hiệu

quả GD-ĐT còn thấp so với yêu cầu phát triển và chưa đáp ứng nhu cầu lao

động của các ngành, nghề ở địa phương và thị trường lao động. Hiện chưa có

đánh giá cụ thể về hiệu quả đào tạo của các cơ sở dạy nghề trong tỉnh. Tuy

nhiên, qua kết quả Hội chợ việc làm - xuất khẩu lao động tỉnh Bến Tre lần thứ

I (từ 29 đến 31/8/2003) cho thấy, trong 8.252 hồ sơ đăng ký xin việc, sơ tuyển

được 670 lao động (chiếm 8,12%), tuyển dụng chính thức được 156 lao động

(chiếm 1,9%) [59]. Con số này phần nào nói lên chất lượng của lực lượng lao

động ở Bến Tre chưa đáp ứng yêu cầu thị trường lao động, vì vậy, cơ hội tìm

việc làm của họ bị hạn chế.

Việc mở rộng và đa dạng hóa các loại hình đào tạo, nhất là mô hình liên

kết đào tạo tại chức, nhằm đáp ứng yêu cầu học tập, nâng cao trình độ cho người

lao động là rất cần thiết. Nhưng do sự yếu kém của công tác quản lý và tác động

bởi mặt trái của cơ chế thị trường đã dẫn đến tình trạng khó kiểm soát về mặt

56

chất lượng đào tạo. Kết quả là không ít người đã qua đào tạo có bằng cấp, nhưng

trình độ và khả năng thực tế không tương xứng, không đáp ứng được yêu cầu

của quá trình lao động sản xuất. Tình trạng “học giả, bằng thật” không chỉ ảnh

hưởng đến chất lượng đào tạo, mà còn tác động xấu đến nhân cách của người lao

động. Đây là điều đáng lo ngại nhất trong chất lượng GD-ĐT hiện nay ở nước ta

nói chung, ở Bến Tre nói riêng.

Ngoài ra, sự mất cân đối trong cơ cấu ngành nghề đào tạo và hình thức

đào tạo (dài hạn, ngắn hạn) cũng ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng và chất

lượng nguồn lao động của tỉnh. Hiện nay, phần lớn học sinh, sinh viên của

tỉnh tập trung ở các ngành: kinh tế tài chính, ngoại ngữ, công nghệ thông tin,

luật, sư phạm... Các ngành phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế địa phương

như nông học, thuỷ sản số sinh viên theo học rất ít. Công tác đào tạo nghề ở

tỉnh chủ yếu là đào tạo ngắn hạn hoặc bồi dưỡng dưới nhiều hình thức, chất

lượng chưa cao. Đào tạo dài hạn còn ít (chủ yếu là liên kết đào tạo), chưa đáp

ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho CNH, HĐH.

Đây là một trong những vấn đề gây khó khăn cho công tác giải quyết việc làm

hiện nay, bởi trình độ người lao động không đáp ứng yêu cầu tuyển dụng. Tới

đây, khó khăn này sẽ càng gay gắt khi mà các khu công nghiệp được hình

thành, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp - dịch vụ, các

ngành công nghiệp, xây dựng có nhu cầu lớn về công nhân kỹ thuật có trình

độ tay nghề cao. Do vậy, khả năng thiếu lao động lành nghề sẽ xảy ra và trở

thành áp lực lớn cho ngành GD-ĐT của tỉnh trong những năm tới.

Tóm lại, GD-ĐT là yếu tố cơ bản tác động trực tiếp đến quá trình nâng

cao chất lượng NLCN trên phương diện học vấn, chuyên môn, nhân cách đạo

đức. Tuy nhiên, chất lượng hiệu quả GD-ĐT thấp, mất cân đối trong đào tạo

là những vấn đề nổi cộm ảnh hưởng lớn đến chất lượng NLCN của tỉnh. Khắc

phục vấn đề này là yêu cầu cấp bách, có ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực, tạo nguồn nội lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã

hội, đẩy nhanh CNH, HĐH ở Bến Tre.

57

Thứ tư, mức sống của người dân cũng là yếu tố tác động đến quá

trình phát triển NLCN ở tỉnh Bến Tre

Cùng với những thành tựu đạt được trong quá trình đổi mới, những

năm qua, mức sống của dân cư Bến Tre từng bước được nâng lên, tỷ lệ hộ

khá, giàu tăng lên. Thu nhập bình quân đầu người nâng dần từ 4.115.000 đồng

năm 2000 lên 6.119.000 đồng năm 2004 [12, tr.26]. Đây chính là điều kiện vật

chất tác động tích cực đến chất lượng NLCN. Những nhu cầu về: ăn, mặc, ở, nhu

cầu học tập, chăm sóc sức khỏe, vui chơi giải trí… từng bước được cải thiện.

Đến nay, toàn tỉnh tuy chỉ còn 4,62% hộ nghèo (theo chuẩn cũ), nhưng

mức thu nhập bình quân đầu người ở Bến Tre chỉ mới đạt xấp xỉ 6,2 triệu

đồng/ năm (chưa quá 400 USD), thấp hơn so với mức bình quân đầu người

của cả nước. Qua thực tế cho thấy, NLCN ở Bến Tre đông nhưng không

mạnh, tiềm năng to lớn nhưng chưa được khai thác và sử dụng có hiệu quả.

Tình trạng này có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính vẫn là do

nền kinh tế của tỉnh chưa phát triển, thu nhập của người lao động chưa được

cải thiện đáng kể. Những đầu tư của Nhà nước cho con người trong giới hạn

nền kinh tế một tỉnh nghèo, chưa thể thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của

người lao động. Có lẽ đây là lý do mà nhiều sinh viên Bến Tre sau khi tốt

nghiệp ra trường không muốn trở về tỉnh công tác; nhiều trí thức, cán bộ KH-

CN có trình độ, năng lực nhưng không ở lại phục vụ quê hương; người lao

động có tay nghề có xu hướng đi ra ngoài tỉnh làm việc để có thu nhập cao

hơn… Điều này gây ra sự hụt hẫng trong đội ngũ nhân lực chất lượng cao của

tỉnh trong nhiều năm qua.

Thứ năm, chính sách phát triển NLCN của tỉnh Bến Tre là yếu tố tác

động trực tiếp đến quá trình phát triển NLCN của tỉnh

Bước vào thế kỷ XXI, thời kỳ cả nước đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh

tế, đẩy nhanh CNH, HĐH, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII

khẳng định, Bến Tre quyết tâm “khai thác mọi nguồn lực, đẩy mạnh tốc độ

phát triển nền kinh tế tỉnh nhà nhanh và bền vững” [23, tr.47]. Trong các nguồn

58

lực, NLCN được xác định là nguồn lực quan trọng nhất thúc đẩy kinh tế-xã hội

phát triển. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh đề ra

Chương trình “Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, dạy nghề - giải quyết

việc làm và chăm sóc sức khỏe nhân dân giai đoạn 2001-2005”. Chương trình

đã thể hiện rõ quan điểm phát triển NLCN trên tất cả các mặt: giáo dục - đào

tạo nghề, chăm sóc sức khỏe và giải quyết việc làm cho người lao động. Đây là

chính sách lớn của tỉnh với mục tiêu tạo ra bước đột phá, hình thành nên động

lực mới về NLCN cho phát triển kinh tế-xã hội. Sau gần 5 năm triển khai,

chương trình đã tạo ra sự chuyển biến tích cực, nâng cao chất lượng giáo dục

toàn diện, phát triển đào tạo nghề kết hợp sử dụng, giải quyết việc làm cho

người lao động, bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân tốt hơn. Từ đó đã tác động

tích cực, thúc đẩy phát triển toàn diện con người cả về trí tuệ, thể lực, nhân

cách,… nâng cao chất lượng NLCN từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh

tế-xã hội của tỉnh.

Chăm lo phát triển đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước là một ưu tiên

trong chính sách phát triển NLCN của tỉnh từ nay đến 2010. Tuy nhiên, “Đội

ngũ cán bộ vẫn còn hụt hẫng, chưa đồng bộ, thiếu cán bộ giỏi về quản lý kinh

tế, sản xuất kinh doanh, khoa học kỹ thuật” [23,tr.38]. Nhằm tập trung xây

dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, thu hút nhân tài về cho tỉnh, Ủy

ban nhân dân tỉnh đã ban hành một số chính sách ưu đãi đối với cán bộ, công

chức, sinh viên có trình độ, như Quyết định số 4051/2001/QĐ-UB ngày

4/9/2001. Quyết định có tính đột phá này đã tạo động lực thu hút, thúc đẩy

phát triển về chất trong nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh. Qua hơn 3

năm thực hiện, hàng trăm cán bộ, công chức của tỉnh đã được tạo điều kiện

học tập và đạt trình độ tiến sĩ, thạc sĩ; hàng ngàn cán bộ có trình độ đại học,

trung cấp; nhiều cán bộ, công chức được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ.

Ngoài ra, chính sách này còn thu hút được nhiều sinh viên có trình độ đại học về

59

tỉnh công tác. Đội ngũ cán bộ, công chức này đang từng bước phát huy năng lực,

đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ trong thời kỳ CNH, HĐH.

Với chính sách trợ cấp, đãi ngộ trên, tỉnh đã kịp thời đáp ứng phần nào

yêu cầu xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh trong

thời gian qua. Tuy vậy, chính sách chưa thật sự là động lực mạnh mẽ tạo sự

chuyển biến rõ nét về chất lượng trong đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh.

Tuy số lượng có tăng, nhưng cán bộ được đào tạo trình độ sau đại học còn ít,

nhất là trình độ tiến sĩ. Phần đông cán bộ, công chức được đào tạo đại học chủ

yếu là hệ tại chức nên hạn chế về chất lượng và hiệu quả công tác. Chính sách

chưa tạo ra sức hấp dẫn đủ mạnh để có thể thu hút được nhiều người tài,

chuyên gia giỏi, cán bộ có năng lực về tỉnh công tác. Chính sách cũng chưa

tạo ra sự ràng buộc nhất định, nên còn một số cán bộ được tỉnh đưa đi đào tạo,

sau khi ra trường đã chuyển đi nơi khác làm việc, nhất là cán bộ trẻ có năng

lực.

Có thể nói, thu nhập thấp, điều kiện, môi trường làm việc còn khó khăn

đã hạn chế khả năng và cơ hội thăng tiến của nhiều người. Đây là nguyên

nhân chính làm cho Bến Tre mất đi một đội ngũ lao động trẻ, có khả năng tiếp

cận những thành tựu KH-CN hiện đại. Vì vậy, chính sách phát triển nguồn

nhân lực chất lượng cao của tỉnh chưa thật sự phát huy tác dụng. Điều này đòi

hỏi Bến Tre cần chú trọng nhiều hơn đến chiến lược nhân tài của tỉnh trong

thời gian tới.

2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI CỦA TỈNH

BẾN TRE TỪ NĂM 1996 ĐẾN NAY

2.2.1. Thực trạng nguồn lực con người của tỉnh Bến Tre

Về số lượng nguồn lực con người của tỉnh Bến Tre

Số lượng nguồn lực con người của tỉnh Bến Tre trước hết thể hiện ở

quy mô và cơ cấu dân số mà trực tiếp là cơ cấu lực lượng lao động.

60

Bến Tre có quy mô dân số vào loại lớn. Năm 2004, Bến Tre có 1.345.637 người, mật độ dân số là 580 người/km2, cao gấp đôi mật độ dân số cả nước (234 người/km2). Trong nhiều năm qua, cơ cấu dân số theo giới tính ở Bến Tre khá cân bằng giữa nam và nữ. Năm 2004, tỷ lệ nam chiếm 48,49%

và tỷ lệ nữ chiếm 51,51%.

Tương tự như các tỉnh ĐBSCL, dân số của Bến Tre hầu hết tập trung ở

nông thôn (năm 2004: 90,30%). Tỷ lệ dân số thành thị là rất thấp (9,70%).

Trong 4 năm qua, tỷ lệ dân số thành thị tăng chậm, từ 8,95% (năm 2000) lên

9,70% (năm 2004). Điều này phản ánh quá trình đô thị hóa ở Bến Tre tương

đối chậm (xem phụ lục 1).

Dân số trong độ tuổi lao động ở Bến Tre chiếm tỷ lệ cao trong dân số.

Dân số Bến Tre thuộc dân số trẻ và đang có xu hướng chuyển dần sang “dân

số trưởng thành”. Cụ thể là: năm 2003, nhóm 0-14 tuổi chiếm 23,78%; nhóm

15- 60 tuổi chiếm 66,25% và nhóm người trên 60 tuổi chiếm 9,97% [57,

tr.13]. Như vậy, dân số Bến Tre đang trong thời kỳ “dân số vàng”, với tỷ lệ

dân số trong độ tuổi lao động cao.

Nhìn tổng thể, dân số Bến Tre có quy mô lớn, tập trung chủ yếu ở nông

thôn và đang phát triển theo xu hướng giảm tỷ lệ trẻ em, tăng tỷ lệ dân số

trong độ tuổi lao động, tỷ lệ lực lượng lao động trẻ chiếm đa số. Với quy mô

và cơ cấu dân số như trên, cho thấy Bến Tre đang “sở hữu” tiềm năng to lớn

về NLCN. Nếu tiềm năng to lớn này được bồi dưỡng, khai thác và sử dụng có

hiệu quả sẽ là nguồn nội lực mạnh mẽ thúc đẩy nền kinh tế Bến Tre tăng

trưởng nhanh. Ngược lại, nếu không có kế hoạch đào tạo, khai thác và sử

dụng hợp lý nguồn lao động dồi dào này, thì đây sẽ là nhân tố kìm hãm tốc độ

tăng trưởng kinh tế, thậm chí là nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến mất ổn định xã hội,

bởi vì, dân số đông nhưng không mạnh, chất lượng thấp sẽ là sức ép to lớn

đối với quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Do đó, lực lượng lao động đông

vừa là cơ hội, vừa là thách thức trong quá trình phát triển ở Bến Tre hiện nay.

Về chất lượng nguồn lực con người của tỉnh Bến Tre

61

Nguồn lực con người của Bến Tre được phản ánh chủ yếu ở phương

diện chất lượng dân số, trước hết là chất lượng lực lượng lao động - bộ phận

quan trọng nhất trong dân số. Chất lượng dân số vừa nói lên tiềm năng sức

mạnh to lớn của NLCN,vừa là tiêu chí xác định các chỉ số phát triển của một

địa phương.

Chất lượng NLCN được biểu hiện ở chất lượng lực lượng lao động qua

hàng loạt yếu tố: trình độ học vấn; trình độ chuyên môn kỹ thuật; phẩm chất

đạo đức, lối sống; mức thu nhập; sức khỏe, tuổi thọ... Nghĩa là, nói đến

NLCN là nói đến sức lao động (thể lực và trí lực) của con người, nói đến chất

lượng con người với tư cách là người lao động có trình độ và phẩm chất đạo

đức tốt đẹp.

Trình độ học vấn của lực lượng lao động ở Bến Tre đạt khá cao. Tỷ lệ

biết chữ trong lực lượng lao động chiếm 96,69% (năm 2003). Đến cuối

2004, toàn tỉnh đã có 4/8 huyện, thị, 137/160 xã, phường (85,6%) đạt chuẩn

phổ cập giáo dục THCS và đang phấn đấu hoàn thành mục tiêu này vào cuối

năm 2006. Những thành quả đó đã góp phần nâng chỉ số giáo dục của tỉnh

lên 0,89 (năm 2004), xếp trong nhóm các tỉnh, thành có trạng thái phát triển

giáo dục tốt [5, tr.277] (xem phụ lục 2). Đây là tín hiệu đáng mừng, tạo tiền

đề phát triển NLCN của tỉnh, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao.

Hàng năm, Bến Tre có từ 25.000 - 30.000 học sinh tốt nghiệp THPT và

THCS. Đây là nguồn lao động dự trữ dồi dào, trẻ, khoẻ, có trình độ học vấn

và trình độ chuyên môn (nếu được tiếp tục đào tạo), sẽ là nguồn bổ sung lực

lượng lao động có chất lượng cho tỉnh trong những năm tới.

Nhìn chung, trình độ học vấn của dân cư ở Bến Tre đang tiếp tục được

nâng lên. Tuy nhiên, số liệu thống kê năm 2003 cho thấy ở Bến Tre có

68,91% lực lượng lao động tốt nghiệp tiểu học trở lên; số chưa biết chữ và

chưa tốt nghiệp tiểu học là 31,09%. So với cả nước, tỷ lệ lao động chưa biết

chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học của Bến Tre còn khá cao (tỷ lệ này của cả

nước năm 2003 là 19,72%, vùng ĐBSCL là 34,75%). Trong 68,91% lao động

62

tốt nghiệp tiểu học trở lên, số người tốt nghiệp THPT chỉ chiếm 9,56% và tốt

nghiệp THCS là 15,04% [8]. Đặc biệt còn có sự cách biệt khá lớn về trình độ

học vấn của lực lượng lao động giữa khu vực thành thị và nông thôn. Ở thành

thị tỷ lệ tốt nghiệp THPT (27,26%) cao gấp 3,5 lần so với khu vực nông thôn

(7,77%), trong khi đó lực lượng lao động ở nông thôn chiếm tỷ lệ trên 90%.

Đây quả là một bất lợi của lực lượng lao động Bến Tre, vì phần lớn lực lượng

này ở nông thôn, lại có trình độ thấp.

Trình độ học vấn là chỉ tiêu hết sức quan trọng phản ánh chất lượng

NLCN về mặt trí lực, nó là "chìa khóa" mở ra khả năng tư duy sáng tạo, năng

lực nhận thức, tiếp thu khoa học - kỹ thuật của người lao động. Ở Bến Tre, tỷ

lệ lao động chưa biết chữ, chưa tốt nghiệp tiểu học và tốt nghiệp tiểu học còn

rất cao (75,4%). Điều này đã làm cho người lao động gặp nhiều khó khăn, trở

ngại trong việc tiếp thu và ứng dụng những thành tựu khoa học-kỹ thuật vào

sản xuất và đời sống. Như vậy, trình độ học vấn của lực lượng lao động Bến

Tre hiện nay chưa thể đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất, yêu cầu khách

quan của quá trình CNH, HĐH.

Hiện nay, tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở Bến Tre có

xu hướng tăng, nhưng chậm và thấp hơn so với các địa phương khác, chưa

đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH. Theo báo cáo của Sở Lao động-

Thương binh và Xã hội, năm 2004 tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 22,12%

trong tổng lực lượng lao động trong toàn tỉnh, tăng 4,12% so với 2003. Nhưng

nhìn chung, chất lượng lực lượng lao động chưa nâng lên tương xứng. Điều

này thể hiện rõ ở tỷ lệ lao động có trình độ từ công nhân kỹ thuật có bằng trở

lên còn rất ít. Năm 2003, trong 18% lao động qua đào tạo có 7,56% có trình

độ từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên, trong đó có 2,19% có trình độ cao

đẳng, đại học trở lên. Những năm gần đây, tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng khá

nhanh, nhưng chủ yếu là do tăng tỷ lệ lao động đào tạo ở trình độ sơ cấp,

chứng chỉ nghề (đào tạo ngắn hạn) và tập trung các ngành nghề phục vụ lao

63

động tại tỉnh, chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu của các ngành đòi

hỏi kỹ thuật cao và xuất khẩu lao động.

Cũng giống như cả nước, Bến Tre cũng có sự mất cân đối về cơ cấu

trình độ giữa đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và lao động có

nghề. Năm 2003, cơ cấu đó là:1 (đại học, cao đẳng)/1,02 (trung học chuyên

nghiệp)/1,21 (công nhân kỹ thuật) [47, tr.12]. Tỷ lệ này ở nước ta năm 2000

là: 1/1,33/ 4,17, theo kinh nghiệm các nước có nền kinh tế phát triển thì tỷ lệ

hợp lý phải là 1/4/10 [41, tr.61]. So sánh này cho thấy, ở Bến Tre lực lượng

lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp và lành nghề ít, chưa thể cung

ứng cho các ngành kinh tế, khu công nghiệp và xuất khẩu lao động trong

những năm tới. Trong khi đó quy mô đào tạo đại học, cao đẳng tăng nhanh

hơn (nhất là loại hình đào tạo tại chức). Số cán bộ có trình độ cao (sau đại

học) ít và tập trung chủ yếu ở các ngành giáo dục và y tế. Có những ngành là

lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của tỉnh nhưng đội ngũ cán bộ vừa yếu vừa thiếu.

Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bến Tre, tính đến

nay, đội ngũ cán bộ của ngành có 457 người, trong đó có trình độ từ đại học

trở lên là 142 người (31%), trên đại học chỉ có 2 người; trình độ trung cấp là

152 người (32,26%), số còn lại là sơ cấp. Với đội ngũ cán bộ ngành nông

nghiệp như hiện nay, nhìn chung chưa thể đáp ứng yêu cầu phát triển một nền

nông nghiệp toàn diện và mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn sẽ còn

nhiều khó khăn, thách thức nếu tỉnh không nhanh chóng tăng cường đào tạo,

bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật, cán bộ quản lý cho lĩnh vực

này.

Tóm lại, chất lượng lực lượng lao động ở Bến Tre xét ở trình độ học

vấn và chuyên môn kỹ thuật còn thấp so với yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH.

Đây là nguyên nhân chính làm hạn chế cơ hội phát triển và khả năng lao động

sáng tạo của người lao động, từ đó làm hạn chế tốc độ CNH, HĐH của tỉnh.

Vì vậy, nâng cao chất lượng NLCN Bến Tre trên các mặt học vấn, chuyên

môn kỹ thuật đang là yêu cầu cơ bản và có tính cấp bách nhằm bảo đảm tính

64

bền vững và hiệu quả của quá trình phát triển kinh tế-xã hội và là điều kiện

đẩy nhanh CNH, HĐH trong thời gian tới.

Về tư tưởng, phẩm chất đạo đức và lối sống của người lao động Bến

Tre. Trong bối cảnh hiện tại, do nhiều nguyên nhân khác nhau, tư tưởng đạo

đức, lối sống của người lao động Bến Tre, bên cạnh những giá trị mới tích cực

còn đan xen những hạn chế tồn tại.

Bến Tre là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, con người nơi đây

chịu nhiều đau thương. Vì vậy, hơn ai hết, họ là người cảm nhận hết bản chất

tốt đẹp của chế độ chính trị - xã hội mới. Đó là cơ sở để nhận thức và thực

hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tinh thần đoàn

kết, tương thân tương ái, lòng yêu quê hương, truyền thống cách mạng…

được gìn giữ và phát huy. Ý chí vươn lên thóat khỏi đói nghèo, lạc hậu cũng

thể hiện rất rõ trong phẩm chất của người lao động, nhất là ở lực lượng lao

động trẻ. Tính tích cực, năng động, sáng tạo của người lao động ngày càng thể

hiện rõ trong lĩnh vực kinh tế. Nhiều mô hình mới xuất hiện như: trang trại

chăn nuôi, cải tạo vườn tạp, sản xuất cây giống, chuyển đổi cây trồng, nuôi

thuỷ sản… đang là phong trào thi đua sôi nổi, thu hút nhiều người lao động ở

Bến Tre mạnh dạn đầu tư sản xuất, chịu khó học hỏi, vươn lên làm giàu.

Tuy nhiên, Bến Tre vốn là tỉnh thuần nông, lực lượng lao động phần

lớn đều xuất thân từ nông dân, sống chủ yếu ở nông thôn, do đó, tâm lý của

người sản xuất nhỏ, thiếu tư duy năng động, chưa có tác phong công nghiệp,

chưa biết cách làm ăn lớn… là những hạn chế không tránh khỏi của một bộ

phận không nhỏ người lao động. Ngoài ra, mặt tiêu cực của cơ chế thị trường

đang tác động không nhỏ đến đạo đức, lối sống của một bộ phận người lao

động, nhất là lao động trẻ. Lối sống thực dụng, coi trọng giá trị đồng tiền,

xem nhẹ các giá trị đạo đức truyền thống, thậm chí suy thóai về đạo đức trong

một bộ phận người lao động, kể cả cán bộ đảng viên, đang là điều đáng lo

ngại hiện nay. Đặc biệt, tội phạm và các tệ nạn xã hội còn nhiều và có lúc nổi

lên khá phức tạp. Năm 2004, đã phát hiện 662 vụ phạm pháp hình sự; 1.322

65

vụ tệ nạn xã hội [60, tr.13]. Có thể nói, những hạn chế này đã và đang cản trở

quá trình phát triển, làm suy giảm chất lượng và sức mạnh NLCN của tỉnh

trong thời gian qua.

Sức khỏe, thể lực của người lao động là điều kiện quan trọng cho lao

động sáng tạo và nâng cao năng suất lao động. Hiện nay, chưa có một cuộc

điều tra mang tính chất khá toàn diện về thể lực và tình trạng sức khỏe của

người Bến Tre. Tuy nhiên, qua các chỉ số về tuổi thọ bình quân, tỷ lệ trẻ em

suy dinh dưỡng, môi trường sống và hệ thống chăm sóc sức khỏe… phần nào

cho thấy tình trạng sức khỏe NLCN ở Bến Tre.

Hiện nay, mạng lưới y tế toàn tỉnh được kiện toàn, 100% xã, phường có

trạm y tế ; 90,3% trạm y tế có bác sĩ, do đó, nhu cầu khám, chữa bệnh của

nhân dân được đáp ứng tốt hơn, ngăn chặn các dịch bệnh lớn trong cộng

đồng. Tỷ lệ trẻ (0-5 tuổi) suy dinh dưỡng giảm từ 31,8% (năm 2000) xuống

còn 25,1% (năm 2004). Tuổi thọ trung bình của người dân Bến Tre là 75,89

[50, tr.7]. Tuy nhiên, do mật độ dân số cao, trên 90% dân số sống ở nông thôn

với phương thức lao động thủ công, phân tán, cơ sở hạ tầng chưa phát triển,

kinh tế nông nghiệp thu nhập thấp… do đó đời sống vật chất và tinh thần của

người lao động chưa được nâng cao làm hạn chế chất lượng NLCN của tỉnh.

Đánh giá chung về mặt chất lượng NLCN Bến Tre, theo “Báo cáo phát

triển con người Việt Nam năm 2001”, chỉ số phát triển con người (HDI) của

Bến Tre là 0,668 điểm xếp hạng thứ 27/ 61 tỉnh thành cả nước và đứng hàng

thứ 7 trong tổng số 12 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long [57, tr.4]. Chỉ số trên cho

thấy chất lượng NLCN Bến Tre hiện nay chưa cao, đứng ở mức trung bình

trong cả nước. Vì vậy, để phát triển và khai thác tiềm năng NLCN, Bến Tre

cần chú trọng đầu tư mạnh hơn vào vốn con người, trước hết là GD-ĐT, giải

quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động nhằm nâng cao chất lượng

NLCN, tạo ra lực lượng lao động mới, có trình độ và năng lực đáp ứng yêu

cầu đẩy mạnh CNH, HĐH.

Về phân bố nguồn lực con người của tỉnh Bến Tre

66

Phân bố NLCN theo ngành kinh tế: Hiện nay, phân bố NLCN ở Bến

Tre được thực hiện trong mối quan hệ với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cùng

với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, cơ cấu lao

động theo ngành nghề ở Bến Tre cũng từng bước chuyển đổi theo hướng tăng

dần tỷ lệ lao động trong khu vực công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ lệ lao động

nông nghiệp. Tuy nhiên, sự chuyển dịch này diễn ra chậm chạp, phản ánh tốc

độ CNH, HĐH ở Bến Tre diễn ra khá chậm. Theo số liệu của Cục thống kê

của tỉnh, năm 2004, số lao động đang làm việc trong nền kinh tế là 673.784

người, trong đó, số lao động trong ngành nông - lâm - ngư nghiệp là 539.706

người, chiếm tỷ lệ cao nhất (80,1%). Trong 5 năm, tỷ lệ lao động trong nông -

lâm - ngư nghiệp giảm từ 82,02% (năm 2000) xuống 80,1% (năm 2004), tức

giảm 1,92% (khoảng hơn 10.000 người). Số lao động trong ngành công

nghiệp, dịch vụ là 134.078 người, chiếm tỷ lệ 19,9% trong tổng số lao động

đang làm việc trong nền kinh tế. Từ năm 2000 đến 2004, tỷ lệ lao động trong

nhóm ngành công nghiệp, dịch vụ tăng từ 17,23% lên 19,9%, tức tăng 2,67%

(khoảng 18.000 người). Có những ngành số lao động rất ít, như trong lĩnh vực

hoạt động KH-CN, năm 2004 chỉ có 37 người (mặc dù đã tăng so với các năm

trước). Có thể nói, hoạt động KH-CN là một trong những lĩnh vực đầu tàu,

nhằm cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, tạo ra sự tăng trưởng kinh tế

nhanh. Nhưng ở Bến Tre, lực lượng này còn hết sức nhỏ bé. Điều đó cho thấy,

Bến Tre khó có được bước nhảy vọt, nếu không đầu tư cho phát triển nguồn

nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực hoạt động KH-CN.

Phân bố NLCN trong các thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh: Sự

phân bố lao động theo thành phần kinh tế là rất quan trọng trong phân bố

nguồn nhân lực, nó cho phép khai thác tiềm năng, thế mạnh của các thành

phần kinh tế trong một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Năm 2004,

lực lượng lao động làm việc trong khu vực nhà nước là 35.817 người (chiếm

5,31%); khu vực tập thể là 10.174 người (chiếm 1,50%); khu vực kinh tế tư

nhân 9.437 người (chiếm 1,40%); còn lại đại bộ phận người lao động ở Bến

67

Tre hiện đang làm việc trong khu vực kinh tế cá thể, kinh tế hộ gia đình

617.641 người (chiếm hơn 91%). Lực lượng lao động làm việc trong khu vực

kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm một tỷ lệ nhỏ bé, chỉ có 715 người

(chiếm 0,11%), mặc dù so với năm 2000 số lao động làm việc trong khu vực

kinh tế này đã tăng gần 30 lần (năm 2000 chỉ có 24 người) [13] (xem phụ lục

3). Qua sự phân tích trên cho thấy, các thành phần kinh tế của tỉnh hiện nay

phát triển không đồng bộ, khu vực kinh tế tư nhân phát triển chưa tương xứng

với tiềm năng, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn rất nhỏ bé. Đây lại là khu

vực kinh tế có tiềm năng lớn và đóng vai trò khá quan trọng trong thu hút

nhiều lao động, góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu lao động. Vì

vậy, coi trọng phát triển mạnh các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh

không chỉ là chính sách phát triển kinh tế mà còn là một giải pháp cho phép

sử dụng có hiệu quả và phát triển NLCN ở Bến Tre hiện nay.

Về sử dụng nguồn lực con người của tỉnh Bến Tre

Theo số liệu Cục thống kê tỉnh, năm 2004, dân số trong độ tuổi lao

động của tỉnh là 867.253 người, trong đó 673.784 người đang làm việc trong

nền kinh tế, chiếm 77,69% dân số trong độ tuổi. Số người tham gia hoạt động

kinh tế có xu hướng tăng qua các năm, bình quân tăng khoảng 7.000 người/

năm thời kỳ 2000-2004. Số người trong độ tuổi lao động tăng bình quân mỗi

năm khoảng 15.000 - 17.000 người. Hàng năm, có hơn 26.000 người ngoài độ

tuổi thực tế có tham gia lao động.

Từ năm 2000 đến nay, hàng năm tỉnh giải quyết cho khoảng 25.000 -

30.000 lao động (năm 2001: 26.500 người, năm 2004: 31.289 người ) có việc

làm thông qua phát triển kinh tế, các giải pháp hỗ trợ (đi kinh tế mới, quỹ

quốc gia hỗ trợ việc làm), xuất khẩu lao động... Quá trình chuyển dịch cơ cấu

lao động trong nông nghiệp, nông thôn thông qua giải quyết việc làm, đã có

tác dụng tăng tỷ lệ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn, từ 76% (năm

2001) tăng lên 79% (năm 2004), tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị giảm từ

5,48% (năm 2001) xuống còn 4,8% (năm 2004) [48]. Hiện nay Bến Tre là

68

tỉnh có tỷ lệ thất nghiệp thấp so với các tỉnh lân cận. Tuy nhiên, do tính chất

lao động nông nghiệp làm theo thời vụ, nên hàng năm một bộ phận không nhỏ

lao động của tỉnh phải đi làm thuê những công việc giản đơn thu nhập thấp

ngoài thời vụ ở các tỉnh An Giang, Đồng Tháp hoặc làm việc ở vùng Đông

Nam bộ để tăng thêm thu nhập. Ngoài ra, thiếu việc làm phù hợp và thu nhập

thấp là hai nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng một bộ phận lao động của

Bến Tre di chuyển đến nhiều địa phương khác, nhất là Thành phố Hồ Chí Minh.

Đây là xu hướng tất yếu vì người lao động thường dịch chuyển đến những nơi có

điều kiện thuận lợi để phát triển bản thân. Tuy nhiên, việc di cư của người lao

động Bến Tre cần được quan tâm đúng mức để bộ phận lao động này có điều kiện

đóng góp chung vào sự phát triển của tỉnh, góp phần xoá đói giảm nghèo ở địa

phương. Có thể nói, trong những năm gần đây, Bến Tre có nhiều nỗ lực trong tìm

kiếm giải pháp cho việc sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động dồi dào của tỉnh.

Nhưng do lực lượng lao động phần lớn tập trung ở khu vực nông nghiệp, năng

suất lao động thấp, nên thu nhập bình quân của người lao động chưa cao. Vì vậy,

thực chất quá trình sử dụng NLCN ở Bến Tre chưa thật sự có hiệu quả.

Mặc dù NLCN của tỉnh dồi dào, nhưng chất lượng lại hạn chế, nên quá

trình khai thác và sử dụng NLCN phục vụ cho CNH, HĐH đang gặp phải mâu

thuẫn giữa hai xu hướng: Một là, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH cần sử dụng

NLCN có chất lượng cao, tạo ra việc làm chất lượng, năng suất lao động cao,

điều chỉnh cơ cấu lao động phù hợp vơi cơ cấu của nền kinh tế, tổ chức lại lao

động trên phạm vi toàn tỉnh. Điều này tất yếu dẫn đến hiện tượng dư thừa lao

động. Hai là, nếu chú trọng đến yêu cầu toàn dụng nguồn nhân lực, cố gắng giải

quyết việc làm đầy đủ cho người lao động, mà ít chú ý đến chất lượng và hiệu

quả sử dụng thì sẽ không khơi dậy và phát triển được năng lực và sức sáng tạo

của con người cho mục tiêu CNH, HĐH.

Tình hình thực tế ở Bến Tre hiện nay, khó có thể giải quyết đồng thời

cả hai mục tiêu: vừa đảm bảo được nhu cầu sử dụng NLCN cho CNH, HĐH,

vừa bảo đảm yêu cầu toàn dụng nguồn nhân lực. Do đó, cần có sự lựa chọn

69

dành sự ưu tiên hơn cho một trong hai mục tiêu này theo hướng bảo đảm phát

triển bền vững. Với tinh thần đó, chỉ có thể ưu tiên đến mục tiêu nâng cao

chất lượng và hiệu quả sử dụng NLCN cho CNH, HĐH. Bởi vì, mục tiêu này

có lợi hơn cho quá trình CNH, HĐH và còn là tiền đề để giải quyết việc làm

đầy đủ cho người lao động. Do đó, trong thực tế, không nên vì sức ép việc

làm quá lớn mà chạy theo số lượng, coi nhẹ mặt chất lượng trong sử dụng,

cũng như không nên vì chất lượng NLCN còn hạn chế mà hạ thấp hoặc coi

nhẹ tiêu chuẩn về yêu cầu sử dụng như đã xảy ra trong thời gian qua. Cách

giải quyết hợp lý là lấy mục tiêu chất lượng làm tiền đề, làm cơ sở cho việc

thực hiện mục tiêu số lượng. Cùng với giải quyết việc làm, GD-ĐT nghề cho

người lao động là công việc cấp thiết, là khâu “trung gian” chuyển hóa nguồn

nhân lực thành động lực thúc đẩy CNH, HĐH phát triển.

2.2.2. Thực trạng phát triển nguồn lực con người trong thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre

Bước vào thời kỳ CNH, HĐH, Bến Tre đã bắt đầu coi trọng và có nhiều

cố gắng trong phát triển NLCN của tỉnh. Đại hội đại biểu lần thứ VI Đảng bộ

tỉnh Bến Tre (5-1996) đã chỉ rõ:

Phát triển nguồn lực con người là nội dung có ý nghĩa quyết

định trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Một

mặt phải tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực theo diện rộng

để đáp ứng yêu cầu, mặt khác phải lựa chọn, đào tạo nhân tài để có

khả năng tiếp thu những công nghệ hiện đại, tập trung trước hết vào

xây dựng đội ngũ các nhà kinh doanh giỏi, công nhân lành nghề,

đội ngũ công chức hành chính thạo việc, công tâm. Đồng thời thu hút

chất xám của cộng đồng người Bến Tre ở ngoài tỉnh và nước ngoài [22,

tr.56].

Nội dung trên thể hiện rõ quan điểm phát triển NLCN của tỉnh là vừa phát

triển theo “diện rộng”, vừa tập trung đào tạo nhân tài, phát triển nguồn nhân lực

chất lượng cao, chú trọng thu hút “chất xám” trong và ngoài tỉnh.

70

Thực trạng phát triển giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre trong thời kỳ CNH, HĐH

Để từng bước nâng cao chất lượng NLCN, tỉnh Bến Tre đã tập trung

phát triển GD-ĐT cả về quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục. Mạng lưới

trường lớp ở các ngành học, bậc học ngày càng được mở rộng theo hướng đa

dạng hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập của mọi lứa tuổi, nhất là ở

vùng sâu, vùng xa. Theo thống kê của ngành GD-ĐT, năm học 2004-2005,

toàn tỉnh có 134 trường Mẫu giáo; 203 trường Tiểu học; 133 trường THCS;

41 trường THPT; 1 trường Cao đẳng; 2 trường Trung học chuyên nghiệp; 8

trung tâm giáo dục thường xuyên. Trong đó có 3 trường Mầm non, 40 trường

Tiểu học và 2 trường THCS đạt chuẩn quốc gia. So với năm học 2000 - 2001,

năm học 2004 - 2005 mạng lưới giáo dục toàn tỉnh phát triển thêm 118 trường

và 3 trung tâm giáo dục thường xuyên. Việc mở rộng mạng lưới trường lớp

hợp lý theo địa bàn tạo điều kiện thuận lợi phát triển quy mô ở các cấp, bậc

học, ngành học. Quy mô học sinh các cấp ở Bến Tre không ngừng tăng lên.

Từ năm học 2001-2002 đến nay, bình quân mỗi năm, quy mô học sinh THPT

tăng 6 - 8%, học sinh THCS tăng 4 - 5%. Riêng học sinh tiểu học có xu hướng

giảm 5 - 6%/ năm, do tác động tích cực của chính sách Dân số - Kế hoạch hóa

gia đình [44, tr.5]. Số học sinh tốt nghiệp THCS tăng từ 15.284 (năm 2000)

lên 20.389 (năm 2004), học sinh tốt nghiệp THPT tăng từ 6.598 (năm 2000)

lên 11.163 (năm 2004) [13]. Đây là nguồn bổ sung vào nguồn nhân lực có

trình độ của tỉnh trong những năm tiếp theo.

Thực trạng công tác đào tạo nguồn nhân lực cho CNH, HĐH ở Bến Tre

Hiện nay, tỷ lệ lao động qua đào tạo ở Bến Tre có xu hướng tăng

nhanh. Trước năm 2000, công tác đào tạo nghề cho người lao động chưa được

quan tâm đúng mức, cho đến năm 2000 tỷ lệ lao động qua đào tạo chỉ chiếm

8,6% lực lượng lao động toàn tỉnh. Đến cuối năm 2004, tỷ lệ này tăng lên

22,12%, trong đó lao động đã qua đào tạo nghề là 6,15%. Hiện nay, hệ thống

trường Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề trong toàn tỉnh tiếp

71

tục được củng cố, kiện toàn về cơ sở vật chất cũng như đội ngũ giáo viên

nhằm mở rộng quy mô, nâng cao năng lực, đa dạng hóa ngành nghề đào tạo,

từng bước đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế- xã

hội và CNH, HĐH. Trong giai đoạn 2001-2005, quy mô đào tạo (hệ chính

quy) của các trường Trung học chuyên nghiệp tăng bình quân 12-14%/ năm.

Bình quân mỗi năm có trên 1000 cán bộ trung cấp kỹ thuật, công nhân kỹ

thuật và trên 8.000 lao động được đào tạo nghề, riêng trường Cao đẳng Sư

phạm đào tạo 1.934 giáo viên Tiểu học và THCS, đáp ứng cơ bản nhu cầu

giáo viên của tỉnh [45, tr.3]. Tháng 11 năm 2004, trường Cao đẳng Bến Tre

được thành lập trên cơ sở hợp nhất trường Cao đẳng sư phạm với 2 trường

Trung học chuyên nghiệp: Kinh tế kỹ thuật và Kỹ thuật công nghiệp. Việc

thành lập trường Cao đẳng Bến Tre đào tạo đa ngành, đa hệ với quy mô 3000

- 4000 học sinh, sinh viên cho thấy nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất

lượng cao của tỉnh đang là yêu cầu bức xúc. Hệ thống GD-ĐT nghề cũng

không ngừng mở rộng quy mô theo hướng đa dạng hóa ngành nghề và hình

thức đào tạo, vừa đáp ứng yêu cầu học nghề của người lao động, vừa phù hợp

với yêu cầu phát triển kinh tế của tỉnh và cung cấp cho thị trường lao động.

Toàn tỉnh hiện có 27 trung tâm, cơ sở dạy nghề (trước năm 2000 chỉ có 14 cơ

sở), trong đó có 14 cơ sở dạy nghề tư nhân. Số người được đào tạo nghề từ

5.859 người (năm 2001) đã tăng lên 8.772 người (năm 2004). Ngoài ra, các

doanh nghiệp, làng nghề, hội nghề ở các địa phương đã tổ chức truyền nghề

và dạy nghề tại chỗ cho 10.000 đến 12.000 lao động mỗi năm [61].Với năng

lực đào tạo như hiện nay, ước tính đến cuối năm 2005, tỷ lệ lao động qua đào

tạo của tỉnh sẽ đạt được chỉ tiêu đề ra là 25%.

Nhìn chung, công tác đào tạo nghề cho người lao động những năm

qua đã được coi trọng, mỗi năm các cơ sở dạy nghề cung cấp 8000 - 9000

lao động được đào tạo với nhiều ngành nghề khác nhau cho các cơ sở sản

xuất. Tuy nhiên, so với nhu cầu xã hội, mạng lưới dạy nghề của tỉnh còn

mỏng và nhỏ cả về quy mô đầu tư và tuyển sinh, lại chưa có chính sách thu

72

hút học sinh học nghề thông qua học bổng, học phí, ưu tiên bố trí việc

làm… nên công tác dạy nghề ở Bến Tre còn nhiều hạn chế. Một trong

những khó khăn của công tác dạy nghề ở Bến Tre hiện nay là vấn đề nhận

thức chưa đầy đủ của xã hội về nghề nghiệp. Vào các trường trung học

chuyên nghiệp hay trường nghề chưa phải là con đường được nhiều học

sinh phổ thông lựa chọn. Việc coi trọng bằng cấp đã tạo ra dư luận xã hội

không coi trọng việc học nghề, vì thế, nhiều học sinh không muốn vào

trường nghề. Hơn nữa, ở Bến Tre, thói quen lao động kỹ thuật theo kiểu

truyền nghề mà không cần bằng cấp hoặc chưa có chính sách khuyến khích

xã hội sử dụng người có bằng nghề, dẫn đến nhiều cơ sở dạy nghề chưa

tích cực đầu tư đúng mức cho việc dạy nghề cả về cơ sở vật chất lẫn giáo

trình, giáo án. Vì vậy, nếu không nhanh chóng khắc phục những hiện tượng

này, sẽ là trở ngại không nhỏ trong công tác đào tạo nghề cho người lao

động - một nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển NLCN của tỉnh

hiện nay.

Thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

Nhận thức được vai trò nòng cốt của nguồn nhân lực chất lượng cao trong

phát triển kinh tế-xã hội và đẩy mạnh CNH, HĐH, tỉnh Bến Tre đã và đang rất

chú trọng phát triển nguồn nhân lực này bằng nhiều loại hình đào tạo: chính quy,

không chính quy (tại chức, đào tạo từ xa) với các trình độ: cao đẳng, đại học và

trên đại học. Nguồn đào tạo trình độ này không chỉ có học sinh phổ thông mà

còn là cán bộ, công chức đang công tác tại tỉnh.

Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH, HĐH, tỉnh đã có

nhiều nỗ lực trong chuẩn bị nguồn nhân lực có trình độ đại học, cao đẳng. Số

học sinh Bến Tre trúng tuyển vào các trường đại học, cao đẳng trong cả nước

ngày càng nhiều, năm 2000 có 1.871 sinh viên, năm 2003 là 2.520 sinh viên

và năm 2004 là 2.068 sinh viên. Theo số liệu thống kê của Bộ GD-ĐT, tính

đến 2/2005, tỉnh Bến Tre có 10.409 sinh viên đang theo học tại 83 trường đại

học, cao đẳng trong cả nước [7].

73

Ngoài lực lượng sinh viên đang học tại các trường đại học, cao đẳng

trên cả nước, Bến Tre còn rất chú trọng phát triển nguồn nhân lực có trình độ

cao tại tỉnh bằng các hình thức liên kết đào tạo, đào tạo từ xa với các trường

đại học, cao đẳng trên toàn quốc ở các ngành, nghề đang là mũi nhọn kinh tế

của tỉnh và cả các ngành đang là nhu cầu của người học. Đối tượng theo học

các lớp này bao gồm học sinh phổ thông và cán bộ, công chức đang làm việc

tại tỉnh. So với giai đoạn 1996 - 2000, loại hình đào tạo không chính quy hiện

nay tăng 3,9 lần. Trong giai đoạn 2001 - 2005 đã có 1.724 sinh viên cao đẳng

và 918 sinh viên đại học được cấp bằng tốt nghiệp. Hiện có 2.688 sinh viên

đang theo học hệ đại học với 8 ngành đào tạo [45, tr.3]. Những số liệu trên

cho thấy nguồn nhân lực chất lượng cao có trình độ cao đẳng, đại học của tỉnh

đang phát triển nhanh về số lượng. Có thể xem đây là bước chuẩn bị nguồn

nhân lực cho giai đoạn phát triển nhanh hơn trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,

HĐH ở Bến Tre, giai đoạn 2006 - 2010 và những năm tiếp theo.

Để khuyến khích, tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực chất lượng

cao về số lượng, giỏi về chuyên môn, có đạo đức cách mạng, trung thành với

Đảng và yên tâm phục vụ lâu dài tại tỉnh, tỉnh Bến Tre đã ra quyết định số

4051/2001/QĐ-UB ngày 4-9-2001 quy định cụ thể về chế độ trợ cấp đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức và sinh viên đi học đại học và sau đại học (xem

phụ lục 4). Hơn 3 năm thực hiện chính sách trợ cấp cho các đối tượng sinh

viên, đã có 76 sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, 269 tốt nghiệp loại khá, 583 sinh

viên học giỏi, 812 sinh viên con liệt sĩ, thương binh và 84 sinh viên diện gia đình

nghèo được hưởng trợ cấp. Tổng kinh phí trợ cấp cho sinh viên thuộc các đối

tượng trên là 3.325 triệu đồng [49, tr.2-3]. Trong điều kiện kinh tế của Bến Tre,

chính sách trợ cấp đào tạo sinh viên những năm qua, có thể nói là một sự ưu tiên

trong phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao. Chính sách đã có tác dụng

khuyến khích sinh viên phấn đấu học tập, rèn luyện đạt kết quả tốt và có ý thức

trở về phục vụ tỉnh nhà.

74

Công tác phát hiện và bồi dưỡng nhân tài được tỉnh chú trọng hơn

trong những năm gần đây. Năm 2003, tỉnh đã mở hội thảo và giới thiệu rộng

rãi về việc du học, tạo điều kiện thu hút tài trợ và đưa học sinh của tỉnh đi học

nước ngoài. Số học sinh đi học nước ngoài ngày càng nhiều, nếu những năm

1996 - 2000 mới chỉ có 8 học sinh Bến Tre đi du học, thì giai đoạn 2001 -

2005 có đến 44 em đi học ở 10 nước (có 15 em được cấp học bổng) [45, tr.3].

Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ cán bộ, công chức

có nhiều chuyển biến rõ nét

Trước những năm 1996, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

chủ yếu do các ngành và Trung ương tổ chức, nên đội ngũ cán bộ, công chức

hàng năm được cử đi đào tạo, bồi dưỡng số lượng còn hạn chế, chủ yếu theo quy

hoạch và kế hoạch được phân bổ. Bước vào thời kỳ CNH, HĐH, tỉnh đã có

những chủ trương, chính sách cụ thể về tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, công chức, từng bước nâng cao nhận thức chính trị, trình độ văn hóa,

chuyên môn nghiệp vụ, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh đủ

trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Năm 1998, Ủy

ban nhân dân tỉnh đã xây dựng “Đề án tổng quan quy hoạch đào tạo cán bộ đến

năm 2000 và 2010”. Ban Tổ chức chính quyền tỉnh cùng với các ngành, các cấp

tiến hành rà soát, thống kê, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức các ngành, các

cấp. Trên cơ sở đó, đề án đã xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo và mục tiêu

đào tạo từng loại cán bộ, ở từng cấp, từng ngành hàng năm. Tuy nhiên, qua một số

năm thực hiện đề án, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa thực sự phát huy

hiệu quả. Do vậy, “đội ngũ cán bộ vẫn còn hụt hẫng, chưa đồng bộ, thiếu cán bộ

giỏi về quản lý kinh tế, sản xuất kinh doanh, khoa học kỹ thuật” [23, tr.38].

Trước yêu cầu thực tiễn, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ra Quyết định số

2103/2003/QĐ-UB ngày 31/7/2003 “Về việc sửa đổi, bổ sung quy định về chính

sách trợ cấp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và thu hút cán bộ, công chức

có trình độ, năng lực tốt” (xem phụ lục 4). Theo quyết định này, cán bộ, công

chức đi học sau đại học có bằng tốt nghiệp được thưởng: 7 triệu đồng cho bằng

75

bác sĩ, dược sĩ chuyên khoa cấp 1; 10 triệu đồng cho người có bằng thạc sĩ, bác

sĩ, dược sĩ chuyên khoa cấp 2 và 20 triệu đồng với bằng tiến sĩ. Đặc biệt, để thu

hút cán bộ, công chức có trình độ, năng lực tốt về công tác tại tỉnh, Quyết định

đã quy định chế độ ưu đãi như sau: Tốt nghiệp đại học hệ chính quy được trợ cấp

3 triệu đồng/người. Đối với những chức danh, ngành nghề mà tỉnh ưu tiên thu hút

(theo danh mục tỉnh công bố hàng năm), được trợ cấp một lần 6 triệu đồng/ người.

Người có học hàm, học vị có năng lực thật sự, cam kết công tác lâu dài ít nhất

là 5 năm, được trợ cấp một lần: Thạc sĩ 15 triệu đồng/ người ; tiến sĩ 30 triệu

đồng/ người ; phó giáo sư - tiến sĩ 35 triệu đồng/ người và giáo sư - tiến sĩ là

40 triệu đồng/ người và được tạo điều kiện thuận lợi về nhà ở trong thời gian

công tác tại tỉnh.

Những quy định trong Quyết định số 4051 và số 2103 thật sự là bước

ngoặt trong nhận thức của tỉnh Bến Tre về vai trò của nguồn nhân lực chất

lượng cao trong tiến trình CNH, HĐH. Sau hơn 3 năm thực hiện quyết định

trên, đã có 171 cán bộ, công chức của tỉnh được đào tạo trình độ tiến sĩ, thạc

sĩ (trong đó có 7 tiến sĩ), 1.841 người có trình độ đại học, 1.714 người có trình

độ trung cấp và hơn 4.200 người được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tin

học, ngoại ngữ. Ngoài ra, thu hút được 628 sinh viên có trình độ đại học về

tỉnh công tác. Tổng kinh phí thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng và thu

hút cán bộ, công chức của tỉnh từ 9/2001 đến nay (3/2005) là 21.130 triệu

đồng từ ngân sách của tỉnh (17.020 triệu đồng) và Trung ương phân bổ (4.110

triệu đồng) [49, tr.3].

Những kết quả đạt được trong công tác đào tạo, bồi dưỡng và thu hút

cán bộ, công chức có năng lực, có trình độ những năm qua đã góp phần to lớn

nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức - bộ phận quan trọng trong

nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách

trợ cấp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, do mới chú trọng phát triển về

số lượng, ít chú ý mặt chất lượng nên hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng

chưa cao. Tình trạng tăng nhanh số lượng bằng cấp nhưng chất lượng đội ngũ

76

cán bộ, công chức chưa được nâng lên ngang tầm do tác động ngoài mong

muốn của việc thực hiện chính sách trợ cấp ưu đãi trong đào tạo, bồi dưỡng ở

Bến Tre là một thực tế. Thực trạng này là nguyên nhân dẫn đến tình trạng

thừa nhân lực có bằng cấp nhưng lại thiếu người tài, có năng lực thực sự phục

vụ sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Bến Tre.

Những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến quá trình phát triển

nguồn lực con người ở tỉnh Bến Tre trong thời gian qua

Nguyên nhân khách quan

Một là, Bến Tre bước vào thời kỳ đổi mới, tiến hành CNH, HĐH trong

hoàn cảnh tỉnh nghèo, nền kinh tế chưa kịp khôi phục sau chiến tranh, trình

độ phát triển còn thấp (chủ yếu là nông nghiệp), cơ sở hạ tầng yếu kém, vị trí

địa lý “cù lao” cách trở… nền kinh tế chậm phát triển, sản xuất nông nghiệp

năng suất thấp, đời sống nhân dân chưa được nâng cao. Những yếu kém đó đã

ảnh hưởng đến việc đầu tư, chăm lo phát triển NLCN của tỉnh. Do đó, mặc dù

đã có những chuyển biến tích cực, nhưng so với yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp

CNH, HĐH, NLCN của Bến Tre còn nhiều hạn chế, nhất là về chất lượng.

Hai là, Bến Tre là tỉnh đất hẹp, người đông, lực lượng lao động dồi

dào, do đó, đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động đã và

đang là vấn đề gay gắt mà Bến Tre phải đối mặt trong nhiều năm. Trong bối

cảnh hiện tại, giải quyết việc làm đầy đủ cho người lao động được coi là vấn

đề bức xúc và gặp không ít khó khăn, do đó, yêu cầu nâng cao chất lượng việc

làm nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển NLCN chưa thể là mục tiêu được ưu

tiên hàng đầu, mặc dù đây là mục tiêu có tính cấp bách cần hướng tới trong

quá trình CNH, HĐH.

Ba là, Bến Tre có vị trí địa lý kinh tế không thuận lợi, khó thu hút các

nguồn đầu tư từ bên ngoài, do đó, nhiều tiềm năng to lớn của tỉnh chưa được

khai thác, nhất là tiềm năng lao động dồi dào. Mặt khác, nền kinh tế có tăng

trưởng nhưng còn chậm và chưa vững chắc, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo

hướng CNH, HĐH cũng rất chậm, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu GDP

77

còn cao. Lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ phát triển chậm và đạt tỷ trọng thấp,

nhu cầu thu hút và sử dụng lao động có tay nghề còn nhỏ bé, chưa thôi thúc

người lao động học tập nâng cao trình độ hướng đến lĩnh vực này. Do đó, quá

trình chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra khá chậm chạp, ảnh hưởng đến quá

trình phát triển NLCN của tỉnh.

Nguyên nhân chủ quan

Một là, về nhận thức. Do nền kinh tế chậm phát triển, sản xuất nông

nghiệp lạc hậu, phần lớn phụ thuộc vào tự nhiên nên con người Bến Tre có

thói quen dựa vào sức mạnh cơ bắp và sản xuất bằng kinh nghiệm là chủ yếu,

chưa nhận thấy được giá trị to lớn của tri thức khoa học và vai trò của trí tuệ

trong việc thúc đẩy phát triển sản xuất. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến

việc nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật cho lực lượng lao động.

Mặt khác, con người Bến Tre còn bị ảnh hưởng bởi tâm lý coi trọng bằng cấp,

xem việc học như một phương tiện để tiến thân, cầu an, hưởng lợi, để có cơ

may thóat ra khỏi vòng luẩn quẩn của nghèo khó ở thôn quê. Vì vậy, có thể

hiểu vì sao Bến Tre là vùng đất có truyền thống hiếu học, nhưng lại hiếm

người tài. Bởi Bến Tre chưa tạo ra được môi trường và điều kiện thuận lợi để

nhân tài bộc lộ tài năng để thăng tiến và thành đạt. Chính điều này ảnh hưởng

không nhỏ đến số lượng cũng như chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao

của tỉnh.

Hai là, phần lớn đội ngũ cán bộ của tỉnh xuất thân từ nông dân, được

rèn luyện qua khói lửa chiến tranh, nhưng còn hạn chế về trình độ văn hóa,

khoa học - kỹ thuật, nhất là năng lực quản lý nền kinh tế trong cơ chế thị

trường. Xét cho cùng, chất lượng đội ngũ cán bộ là nhân tố quan trọng, góp

phần thực hiện thắng lợi những chủ trương, chính sách của Đảng. V.I.Lênin

đã từng chỉ rõ: Vấn đề then chốt là phải phát hiện ra "những cán bộ có bản

lĩnh, có thực tài, nếu không thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là

một mớ giấy lộn" [40. tr.449]. Vì vậy, từ thực tiễn, Bến Tre đã rút ra bài học

có ý nghĩa lớn lao là phải kiên quyết đầu tư để xây dựng đội ngũ cán bộ kế

78

cận mạnh và đồng bộ, tập trung khắc phục sự hụt hẫng lớn về cán bộ cơ sở,

đồng thời có chính sách đào tạo cán bộ giỏi, sử dụng và trọng dụng nhân tài,

tạo điều kiện để cán bộ phát huy thế mạnh, có nhiều cống hiến và hoàn thành

nhiệm vụ, bởi vì "cán bộ là cái gốc của mọi công việc". Như vậy, chất lượng

đội ngũ cán bộ của tỉnh hạn chế cũng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc

chưa chú trọng và thực hiện sớm chính sách phát triển nguồn nhân lực của

tỉnh, trong đó có sự chậm trễ trong chính sách cán bộ và chiến lược nhân tài.

Ba là, về cơ chế chính sách. Trong những năm qua, nhiều chính sách

của tỉnh, trong đó có chính sách phát triển NLCN, đang từng bước được bổ

sung, điều chỉnh. Song, một số chính sách đã tỏ ra không còn phù hợp, chưa

khơi dậy tiềm năng, tạo ra động lực kích thích tính tích cực, năng động sáng

tạo của nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Hiện nay,

việc giao chỉ tiêu và cấp kinh phí cho GD-ĐT; việc phân bổ đề tài và cấp kinh

phí cho các đề tài còn mang tính bình quân, bao cấp. Do đó, không những

không kích thích tạo ra động lực lao động khoa học sáng tạo, mà còn tạo điều

kiện nảy sinh những tiêu cực trong lĩnh vực này.

Đến nay, tỉnh chưa xây dựng được chương trình tổng thể về phát triển

nguồn nhân lực, chưa có quy hoạch cụ thể, đồng bộ cho việc phát triển nguồn

nhân lực chất lượng cao, và cũng chưa có sự điều tra đầy đủ về nguồn nhân

lực này. Đây là những nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng vừa yếu vừa

thiếu, vừa thừa nguồn nhân lực chất lượng cao trong nhiều năm qua. Tình

trạng chưa mạnh dạn đổi chất cán bộ, công chức, "đông cứng" về biên chế

trong các cơ quan hành chính sự nghiệp cũng chính là nguyên nhân làm hạn

chế cơ hội cống hiến của đội ngũ lao động trẻ, có năng lực, được đào tạo cơ

bản. Điều này đã làm giảm tính hiệu quả trong việc sử dụng nguồn nhân lực

chất lượng cao của tỉnh.

Trong công tác đào tạo nghề, chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo

với sử dụng, sử dụng với đào tạo; đào tạo chưa xuất phát từ nhu cầu của thị

trường lao động, chưa tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa công tác đào tạo nghề

79

với nhu cầu thị trường lao động. Đặc biệt, chưa có chính sách khuyến khích

các doanh nghiệp, các cơ sở sử dụng lao động có trách nhiệm tham gia tích

cực vào công tác đào tạo nghề. Đầu tư cho công tác đào tạo nghề chưa thỏa

đáng, các mô hình đào tạo theo địa chỉ, đào tạo tại doanh nghiệp, đào tạo theo

hợp đồng... chưa phát triển mạnh.

Bước vào thời kỳ CNH, HĐH, tỉnh Bến Tre đã có nhiều nỗ lực nhằm

thúc đẩy NLCN của tỉnh phát triển cả về số lượng và chất lượng. Nhưng do

nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, NLCN của tỉnh trong những năm

qua phát triển chưa đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Điều này đã ảnh

hưởng không nhỏ đến tốc độ phát triển kinh tế-xã hội và tiến trình CNH,

HĐH ở tỉnh. Việc dự báo xu hướng vận động của NLCN Bến Tre trong

những năm tới có ý nghĩa thiết thực trong việc đề ra chính sách, giải pháp tác

động thúc đẩy quá trình phát triển NLCN, đồng thời khắc phục những xu

hướng tiêu cực để chất lượng NLCN Bến Tre ngày càng nâng cao đáp ứng

yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.

2.3. NHỮNG XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NGUỒN LỰC CON

NGƯỜI Ở TỈNH BẾN TRE TRONG THỜI GIAN TỚI

Trước sự tác động mạnh mẽ của quá trình CNH, HĐH, của cơ chế thị

trường, hội nhập kinh tế thế giới… NLCN của tỉnh Bến Tre vận động biến đổi

theo những chiều hướng khác nhau. Xuất phát từ thực trạng NLCN trong

những năm gần đây, có thể dự báo trong những năm tới NLCN Bến Tre sẽ

vận động theo những hướng cơ bản sau:

Thứ nhất, trong những năm tới, NLCN Bến Tre sẽ tiếp tục biến đổi

về số lượng theo hướng tăng dân số trong độ tuổi lao động

Do tác động tích cực của chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình,

dân số Bến Tre từ 10 năm qua tăng chậm và ở mức ổn định. Tỷ lệ tăng dân số

tự nhiên giảm từ 1,62% (năm 1993) xuống còn 1,021% (năm 2004). Kết quả

này đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến động quy mô học sinh các cấp trong

nhiều năm gần đây và hệ quả là dân số trong độ tuổi lao động gia tăng. Quy

80

mô học sinh tiểu học có xu hướng giảm mạnh trong nhiều năm, nếu năm học

2000-2001 có 141.386 học sinh tiểu học thì năm học 2004-2005 chỉ còn

107.760 học sinh. Ngược lại, số học sinh THPT tăng nhanh từ 35.128 (năm

2001) lên 43.476 học sinh (năm 2005) [13]. Đào tạo nghề và giải quyết việc làm

cho người lao động đang và sẽ còn là vấn đề thu hút sự quan tâm của các cấp,

các ngành tỉnh Bến Tre trong nhiều năm tới đây. Sử dụng có hiệu quả tiềm năng

lao động dồi dào này sẽ tạo ra cho Bến Tre nguồn nội lực mạnh mẽ để đẩy nhanh

tốc độ phát triển kinh tế- xã hội, thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH.

Hiện nay, tỉnh Bến Tre đã và đang nỗ lực tập trung cao độ các nguồn lực cho

GD-ĐT, nhất là phát triển mạnh giáo dục, đào tạo nghề nhằm tạo ra bước đột

phá về phát triển NLCN, nhằm biến tiềm năng thành sức mạnh nội lực cho quá

trình phát triển.

Thứ hai, NLCN Bến Tre sẽ biến đổi về chất lượng theo hướng tăng

nhanh lao động qua đào tạo, trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật ngày

càng nâng cao đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH

Trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, Bến Tre chú trọng

thu hút các nguồn vốn đầu tư nhằm nhanh chóng hiện đại hóa nền kinh tế,

thực hiện chiến lược tăng tốc kinh tế. Điều đó chỉ trở thành hiện thực khi NLCN

của tỉnh không ngừng phát triển về chất lượng, trong đó quan trọng nhất là nâng

cao trình độ học vấn, kỹ năng lao động, chuyên môn nghiệp vụ cho lực lượng lao

động. Tới đây khi các khu, cụm công nghiệp lớn như Giao Long, An Hiệp, Bình

Phú... đi vào hoạt động thì nhu cầu sử dụng công nhân kỹ thuật, công nhân có

trình độ tay nghề cao là rất lớn. Tỉnh đã có kế hoạch chuẩn bị phát triển nguồn

nhân lực có trình độ cao qua việc đầu tư, nâng cấp các trường, trung tâm dạy

nghề trọng điểm, nhất là đầu tư, củng cố trường Cao đẳng Bến Tre để mở rộng

ngành nghề, nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo và đẩy mạnh liên kết, liên

thông đào tạo (kể cả liên kết đào tạo đại học chính quy và đào tạo với các trường

quốc tế). Một tín hiệu vui cho ngành GD-ĐT Bến Tre là tỉnh đang tiếp tục đề

nghị Trung ương cho thành lập trường Đại học Bến Tre và đi vào hoạt động

81

muộn nhất vào năm 2010. Sự thành lập trường Đại học đa ngành tại địa phương

sẽ tiết kiệm rất nhiều kinh phí đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho tỉnh,

góp phần thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển, thực hiện thành công CNH,

HĐH. Với sự chuẩn bị tích cực này, xu hướng NLCN Bến Tre tăng nhanh

trình độ và kỹ năng nghề nghiệp sẽ là hiện thực trong vài năm tới đây.

Thứ ba, nguồn lực con người Bến Tre sẽ biến đổi theo hướng tăng

lao động trong lĩnh vực công nghiệp - dịch vụ, giảm lao động trong nông-

lâm-ngư nghiệp dưới tác động của quá trình CNH, HĐH

Đây là xu hướng tất yếu trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta nói

chung, Bến Tre nói riêng. Quá trình CNH, HĐH dưới tác động của cuộc cách

mạng KH-CN hiện đại tất yếu dẫn đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo

hướng tăng nhanh lao động có trình độ cao trong lĩnh vực công nghiêp - dịch vụ,

giảm lao động ở khu vực nông nghiệp. Đặc biệt, sự xuất hiện của nhiều nghề

mới với yêu cầu trí tuệ ngày càng cao, đồng thời, mất dần những nghề dựa

trên công nghệ giản đơn, năng suất thấp, cũng tác động đến sự chuyển đổi

nghề nghiệp của người lao động. Cùng với quá trình chuyển đổi cơ cấu lao

động dưới tác động của CNH, HĐH, quá trình “trí tuệ hóa” lao động xã hội sẽ

diễn ra nhờ việc nâng cao và làm đồng đều trình độ học vấn, chuyên môn

nghiệp vụ của người lao động nhằm tăng thêm cơ hội tìm việc làm, giải quyết

nạn thất nghiệp và là cơ sở bảo đảm cho xã hội phát triển nhanh và bền vững.

Đẩy mạnh CNH, HĐH là điều kiện cho xu hướng này nhanh chóng diễn ra,

tạo ra khả năng thực tế cho con người phát triển toàn diện.

Thứ tư, xu hướng suy giảm chất lượng của một bộ phận NLCN Bến

Tre do tác động tiêu cực của cơ chế thị trường

Nguồn lực con người của Bến Tre hiện đang vận động cùng với xu

hướng phát triển nhanh về số lượng và chất lượng là xu hướng suy giảm về

phẩm chất đạo đức, lối sống do tác động bởi mặt trái của cơ chế thị trường ở

một bộ phận không nhỏ trong lực lượng lao động. Đây là xu hướng vừa là

hiện thực, vừa là nguy cơ tiềm ẩn bởi nó đang ngấm ngầm, ăn sâu vào mọi đối

82

tượng trong xã hội. Những tiêu cực của cơ chế thị trường đang tác động trực

tiếp hàng ngày, hàng giờ đến người lao động, nhất là lực lượng lao động trẻ,

gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng NLCN. Đó là lối sống thực dụng, đề cao

giá trị đồng tiền, xem nhẹ các giá trị đạo đức, thậm chí đạo đức bị băng

hoại dẫn đến sự suy thóai, biến chất trong một bộ phận người lao động và

cả cán bộ đảng viên. Nguy hại hơn là xu hướng này đang có nguy cơ bùng

phát trong lĩnh vực GD-ĐT. Tình trạng giáo dục không toàn diện, thương

mại hóa giáo dục, xem nhẹ giáo dục truyền thống, lịch sử, giáo dục đạo

đức… trong nhà trường đã và đang làm suy giảm chất lượng GD-ĐT, ảnh

hưởng xấu đến chất lượng NLCN trong hiện tại và tương lai. Sản phẩm của

tình trạng giáo dục này là người lao động yếu kiến thức, kém kỹ năng thực

hành, ít khả năng thích nghi, thiếu năng động sáng tạo, đó là những đặc

trưng của chất lượng lao động yếu kém. Vì vậy, hơn lúc nào hết, “chấn

hưng giáo dục” đã trở thành mệnh lệnh của cuộc sống, nhằm nâng cao chất

lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển mới.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Từ thực trạng và xu hướng vận động của NLCN Bến Tre, có thể rút ra

một số kết luận sau:

Một là, NLCN Bến Tre tồn tại và phát triển trên vùng đất có nhiều khác

biệt về vị trí địa lý, hoàn cảnh kinh tế, đặc điểm văn hóa, xã hội mang những

sắc thái riêng có cả thuận lợi và khó khăn. Mặt khác, dưới tác động của quá

trình CNH, HĐH, cơ chế thị trường, cơ chế chính sách... NLCN Bến Tre vận

động, biến đổi theo những xu hướng trái ngược nhau.

Hai là, trong những năm tới đây, cùng với tốc độ phát triển kinh tế-xã

hội của tỉnh, NLCN Bến Tre tiếp tục có nhiều biến đổi phức tạp cả về số

lượng và chất lượng. Nhưng nhìn chung, NLCN của tỉnh sẽ phát triển ngày

càng mạnh thêm về số lượng và cao hơn về chất lượng, phù hợp với xu thế phát

triển và yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của quá trình CNH, HĐH. Điều đó tạo

83

cho Bến Tre nguồn nội lực mới, mạnh mẽ thúc đẩy nhanh quá trình phát triển và

hội nhập với xu thế phát triển của vùng và cả nước.

Ba là, việc phân tích thực trạng và xu hướng phát triển của NLCN của

tỉnh, giúp cho các cấp, các ngành đánh giá đầy đủ hơn về nguồn nội lực của

mình, từ đó có những chính sách và giải pháp tác động hạn chế mặt tiêu cực,

thúc đẩy NLCN phát triển mạnh hơn nhằm tăng sức mạnh nội lực cho sự

thành công của sự nghiệp CNH, HĐH ở Bến Tre.

84

Chương 3 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM

PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP

CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH BẾN TRE

3.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN

Phát triển NLCN, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao được Đảng ta

xác định là khâu đột phá để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH và

phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để có chính sách, giải

pháp phát triển NLCN ở Bến Tre phù hợp và có hiệu quả, cần xác định những

quan điểm cơ bản làm cơ sở thống nhất nhận thức và hành động cho các cấp,

nhất là những cơ quan có trách nhiệm trực tiếp đối với quá trình này ở tỉnh

Bến Tre.

Một là, phát triển nguồn lực con người phải được xem là chiến lược

ưu tiên nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp

CNH, HĐH ở tỉnh Bến Tre

Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp CNH, HĐH.

Vì vậy, con người phải được phát triển cao về trí tuệ, có phẩm chất đạo đức

tốt, có trình độ học vấn và tay nghề cao. Vì thế, đầu tư phát triển NLCN được

xem là đầu tư quan trọng nhất và có hiệu quả nhất, là yếu tố quyết định thắng

lợi của sự nghiệp CNH, HĐH. NLCN Bến Tre dồi dào, nhưng trước yêu cầu

thực tiễn đã bộc lộ nhiều hạn chế, nhất là về mặt chất lượng. Vì vậy, để phát

triển kinh tế-xã hội, đẩy nhanh CNH, HĐH, không có con đường nào khác là

Bến Tre phải phát triển mạnh và khai thác có hiệu quả nguồn vốn quý giá nhất,

đó là tiềm năng trí tuệ, sức sáng tạo, trình độ, kỹ năng lao động và cả sức mạnh

truyền thống của NLCN của mình.

Trước mắt, để đạt các chỉ tiêu kinh tế-xã hội năm 2005 và nhằm thực

hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết Đại hội lần thứ VII Đảng bộ tỉnh giai đoạn

2001-2005, Bến Tre cần tập trung mọi nguồn lực cho phát triển NLCN - nhân

tố quyết định mọi thắng lợi. Trên nền tảng những thắng lợi đó, tạo đà đẩy

85

mạnh CNH, HĐH trong những năm tiếp theo, phấn đấu để hoàn thành sự

nghiệp CNH, HĐH vào năm 2020, theo chủ trương của Đảng. Những nhiệm

vụ của giai đoạn này rất nặng nề nhưng tất yếu phải vượt qua để Bến Tre

vươn lên, góp phần cùng với các tỉnh trong khu vực và cả nước đưa nước ta

trở thành nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại. Tất cả những mục

tiêu đó chỉ có thể thực hiện được bằng chính sức mạnh của NLCN Bến Tre,

trước hết là sức mạnh của tài năng và trí tuệ, sức sáng tạo của lực lượng lao

động, những người đã và đang đóng góp to lớn cho sự phát triển của tỉnh. Vì thế,

hơn lúc nào hết, phát triển NLCN ở Bến Tre phải được xác định là nhiệm vụ

hàng đầu và là khâu đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, nhằm tạo

ra sự phát triển vượt bậc của NLCN, nguồn sức mạnh thực hiện thắng lợi các

mục tiêu kinh tế-xã hội.

Hai là, phát triển NLCN của tỉnh Bến Tre là trách nhiệm của Nhà

nước, các cấp, các ngành và của mọi người dân trong tỉnh

Phát triển NLCN phải là sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước cùng với

các cấp, các ngành và mọi người dân Bến Tre. Bởi NLCN chỉ thực sự phát

triển khi được đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ phù hợp, tạo ra những

điều kiện thuận lợi để người lao động phát triển cả về thể lực, trí tuệ và nhân

cách, phát triển hài hòa cả về thể chất lẫn tinh thần. Phát triển NLCN phải bắt

đầu từ nâng cao chất lượng người lao động về mọi mặt: sức khỏe, tri thức, tay

nghề, đạo đức. Điều đó, trước hết đòi hỏi mỗi cá nhân người lao động luôn tự

ý thức nâng cao trình độ, tự bồi dưỡng nhân cách đạo đức, rèn luyện kỹ năng

nghề nghiệp, sứckhỏe... nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của xã hội

và công việc đòi hỏi.

Xuất phát từ điều kiện kinh tế-xã hội của địa phương, tỉnh Bến Tre cần

xây dựng chiến lược phát triển NLCN làm cơ sở định hướng thực hiện kế

hoạch hóa sự phát triển các ngành: GD-ĐT, chăm sóc sức khỏe, dân số…

nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu trong từng giai đoạn

CNH, HĐH. Trên cơ sở đó, tỉnh ban hành và thực hiện các cơ chế, chính sách,

tăng cường đầu tư phát triển GD-ĐT và các lĩnh vực phúc lợi xã hội, dịch vụ

86

cơ bản để chăm lo cho con người, quản lý và sử dụng tốt tiềm năng lao động.

Đặc biệt, Nhà nước, trước hết là tỉnh Bến Tre cần tạo môi trường, hành lang

pháp lý và điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế đầu tư phát triển,

mở mang ngành nghề, cơ sở sản xuất, dịch vụ có khả năng tạo nhiều việc làm

mới, đồng thời có chính sách hình thành và phát triển nhanh thị trường lao

động, thị trường KH-CN… nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình

đẳng để người lao động có cơ hội phát triển. Bên cạnh đó, cần phát huy vai

trò to lớn của các cơ quan, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, mọi

người lao động, kể cả các cá nhân, tổ chức trong và ngoài tỉnh tham gia cùng

với Nhà nước phát triển sự nghiệp GD-ĐT, nâng cao chất lượng nguồn nhân

lực, tạo việc làm và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động xã hội.

Ba là, phát triển NLCN phải tôn trọng quy luật khách quan của nền

kinh tế thị trường và của thị trường lao động, đồng thời phải bảo đảm giữ

vững định hướng xã hội chủ nghĩa

Quan điểm này yêu cầu phát triển NLCN ở Bến Tre, một mặt, phải tôn

trọng các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường, của thị trường lao

động (quy luật cạnh tranh, quy luật về mối quan hệ giữa cung và cầu lao

động,…) mặt khác, phải bảo đảm thị trường phát triển đúng hướng, cạnh

tranh bình đẳng, tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi để mọi người lao động đều

được giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe và có việc làm thu nhập ổn định,

nghĩa là cần có sự quản lý, kiểm soát và điều tiết của Nhà nước, trước hết là

của tỉnh. Điều này đảm bảo quá trình phát triển NLCN của Bến Tre vừa đáp

ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, vừa nhằm phát triển toàn diện

con người, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong quá trình phát triển.

Trên thực tế, cũng như cả nước, Bến Tre đang trong quá trình chuyển

từ nền kinh tế tự cấp tự túc theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị

trường, thị trường lao động ở Bến Tre (tuy còn sơ khai) nhưng cũng đang

hình thành, phát triển và hoạt động theo những quy luật khách quan, do đó,

87

phát triển NLCN ở Bến Tre cũng phải tuân thủ các quy luật khách quan của

kinh tế thị trường, của thị trường lao động. Điều đó đòi hỏi các chính sách đào

tạo và phát triển NLCN phải hướng theo nhu cầu của thị trường lao động.

Cơ chế hoạt động của thị trường lao động là cơ chế cạnh tranh, do đó,

người lao động phải được đào tạo để nâng cao khả năng cạnh tranh mới có cơ

hội và hy vọng có được việc làm thích hợp. Mặt khác, trên thị trường lao

động, nhu cầu lao động luôn biến động, thay đổi và đặt ra những yêu cầu mới

về số lượng, chất lượng, cũng như cơ cấu lao động. Vì vậy, gắn đào tạo với

nhu cầu thị trường lao động nhằm giúp người lao động có nhiều cơ hội tìm

được việc làm sau khi đào tạo. Có thể nói, phát triển NLCN trong nền kinh tế thị

trường là phải nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cho người lao động để họ có

nhiều cơ hội tìm được việc làm thích hợp.

Bốn là, quán triệt quan điểm phát triển, chất lượng và sử dụng có

hiệu quả NLCN của tỉnh phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH

Qua gần 10 năm tiến hành CNH, HĐH, tỉnh Bến Tre đã có những bước

tiến khá vững chắc, nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển, tăng tốc. Để

bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, đẩy mạnh CNH, HĐH với quy mô và

tốc độ nhanh hơn, Bến Tre cần thật sự coi trọng khai thác và sử dụng có hiệu

quả NLCN của mình. Quan điểm phát triển, chất lượng và sử dụng có hiệu

quả NLCN phải được coi là tiêu chí cơ bản và chi phối các chủ trương, chính

sách, cơ chế và giải pháp phát triển NLCN của tỉnh.

Để phát triển và sử dụng có hiệu quả NLCN của tỉnh phục vụ sự nghiệp

CNH, HĐH trong những năm tới, Bến Tre cần xây dựng một hệ thống chính

sách và cơ chế tiếp tục giải phóng sức sản xuất, tạo ra bầu không khí đầu tư

lành mạnh trong toàn xã hội để thu hút mọi nguồn lực đầu tư phát triển sản

xuất, nâng cao năng suất lao động xã hội. Mặt khác, nâng cao chất lượng và

khả năng đáp ứng yêu cầu sản xuất của lực lượng lao động thông qua phát

triển GD-ĐT. Điều đó có nghĩa là phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn

“vốn con người” phải kết hợp được tăng trưởng việc làm với không ngừng

88

nâng cao chất lượng việc làm, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân

dân trong tỉnh.

Năm là, giáo dục - đào tạo phải giữ vai trò quyết định trong chiến

lược phát triển NLCN nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao đáp

ứng yêu cầu CNH, HĐH ở tỉnh Bến Tre

Khi NLCN được coi là yếu tố quyết định sự phát triển nhanh và bền

vững của mỗi quốc gia, thì GD-ĐT là phương tiện chủ yếu quyết định chất

lượng NLCN, là nền tảng của chiến lược con người. Trong thời kỳ đẩy mạnh

CNH, HĐH, cùng với khoa học và công nghệ, GD-ĐT được Đảng ta coi là

quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân

tài. Quan điểm đó cho thấy rõ GD-ĐT được Đảng ta xác định là con đường cơ

bản để phát triển NLCN, nguồn lực do chính chúng ta tạo nên và tăng cường

để đẩy mạnh CNH, HĐH.

Cùng với nhận thức đúng vị trí và vai trò của GD-ĐT, vấn đề quan

trọng hiện nay là cần đổi mới hệ thống GD-ĐT của Bến Tre ở tất cả các

bậc học, đổi mới từ nội dung đến phương pháp, để sản phẩm đào tạo ra có

chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH. Mục tiêu tổng quát

mà GD-ĐT của tỉnh đề ra không chỉ là nâng cao dân trí, cũng không chỉ là

dạy nghề, mà còn tạo ra một nền tảng văn hóa cần thiết cho mọi người dân

của tỉnh, phát triển trí tuệ nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh

tế-xã hội, đồng thời phát hiện, bồi dưỡng và đào tạo nhân tài, xây dựng đội

ngũ chuyên gia giỏi về khoa học kỹ thuật, công nghệ, quản lý, kinh doanh.

Có thể nói, mục tiêu cuối cùng, cao nhất của GD-ĐT là dạy người. Và vì

vậy, khi coi GD-ĐT là con đường cơ bản phát triển NLCN thì gắn dạy chữ,

dạy nghề với dạy người phải trở thành tư tưởng xuyên suốt, chỉ đạo mọi

hoạt động, mọi lĩnh vực liên quan tới GD-ĐT.

Sáu là, phát triển NLCN ở Bến Tre cần đặc biệt coi trọng chính sách

thu hút và đãi ngộ nhân tài

89

Thu hút và trọng đãi nhân tài là một trong những chính sách quan trọng

đã và đang được thực hiện ở Bến Tre nhằm phát triển nhanh nguồn nhân lực

chất lượng cao phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH. Để cho chính sách này thực sự

có hiệu quả, trong thời gian tới cần cải thiện điều kiện và môi trường làm việc

tốt hơn, tạo cơ hội cho đội ngũ này tiếp cận những thành tựu KH-CN mới, có

điều kiện để nâng cao trình độ chuyên môn, nhằm phát triển năng lực sáng

tạo, vươn lên làm chủ KH-CN. Đặc biệt, chú trọng bố trí, sử dụng theo đúng

chuyên môn được đào tạo, lấy hiệu quả công việc làm thước đo năng lực cán

bộ. Tóm lại, thực hiện chính sách “chiêu hiền đãi sĩ” bao gồm nhiều yếu tố,

trong đó chế độ đãi ngộ thỏa đáng vật chất, tinh thần và tạo ra môi trường,

điều kiện, phương tiện làm việc thuận lợi có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.

Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, đối với lao động trí tuệ, người làm khoa

học, lợi ích vật chất, lợi ích kinh tế tuy rất quan trọng nhưng không phải là tất

cả. Họ còn quan tâm đến lợi ích tinh thần, đó là nhu cầu tự khẳng định nhân

cách thông qua lao động sáng tạo, là nhu cầu được làm việc trong môi trường

dân chủ - nhân văn, được xã hội thừa nhận, được động viên khen thưởng kịp

thời. Do vậy, để thu hút và khai thác tiềm năng lao động trí tuệ, ngoài quan

tâm đúng mức đến lợi ích vật chất và tinh thần cũng như điều kiện làm việc,

vấn đề cơ bản nhất vẫn là thái độ thật sự quý trọng nhân tài, trọng tri thức

khoa học. “Tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài - kế lớn trăm năm chấn hưng

đất nước” là bài học lớn của Trung Quốc rất đáng để chúng ta nghiên cứu, học

tập và vận dụng. Sự tôn vinh địa vị xã hội đúng với sự cống hiến của người tài

sẽ có ý nghĩa lớn lao trong việc thu hút và sử dụng họ.

Những quan điểm trên có ý nghĩa chỉ đạo trong quá trình xây dựng hệ

thống các giải pháp phát triển NLCN ở Bến Tre hiện nay.

3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC

CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở

TỈNH BẾN TRE

90

Xuất phát từ thực trạng phát triển, xu hướng vận động của NLCN ở

tỉnh Bến Tre và dựa vào những quan điểm nêu trên, luận văn xin nêu lên một

số giải pháp chủ yếu góp phần thúc đẩy quá trình phát triển NLCN nhanh và

hiệu quả hơn, nhằm tạo ra động lực mới đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH ở

tỉnh Bến Tre.

3.2.1. Nhóm giải pháp kinh tế

Một là, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH làm xuất hiện nhu cầu phát

triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre

Sau thời kỳ phát triển với quy mô và tốc độ khá chậm, hiện nay nền

kinh tế Bến Tre đang bước vào giai đoạn phát triển tăng tốc. Trước yêu cầu

thực tiễn, đòi hỏi Bến Tre đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, đưa nền kinh tế

của tỉnh phát triển nhanh và bền vững hơn, thực tế đó đặt ra nhu cầu phát triển

mạnh NLCN của tỉnh.

Bến Tre đang tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng

CNH, HĐH, chính quá trình này sẽ tác động tích cực đến chuyển đổi cơ cấu

lao động của tỉnh. Thứ nhất, cơ cấu lao động sẽ biến đổi theo hướng chất

lượng lao động ngày càng nâng lên. Sự phát triển nhanh và nhu cầu sử dụng

nhiều lao động của các ngành công nghiệp, dịch vụ đã dẫn đến tăng nhanh đội

ngũ lao động, nhất là lao động lành nghề, có trình độ kỹ thuật cao. Từ đó, tỷ

lệ lao động qua đào tạo cũng không ngừng tăng lên, đáp ứng yêu cầu hiện đại

hóa nền sản xuất. Thứ hai, cơ cấu ngành nghề của tỉnh cũng thay đổi cùng với

quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH. Lao động nông nghiệp giảm về số lượng,

nhưng chất lượng ngày càng được nâng cao. Hiện nay, nhu cầu lao động qua

đào tạo ở nhóm ngành nông nghiệp - thủy sản tăng cao do yêu cầu phát triển

các ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Việc thành lập trường Cao đẳng Bến Tre

đào tạo đa ngành, đa hệ là hết sức cần thiết, giúp tỉnh có điều kiện để chủ

động tăng nhanh số lượng lao động được đào tạo ở trình độ thích ứng, nhằm

đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp,

nông thôn. Sự ra đời và phát triển nhiều khu, cụm công nghiệp mới cũng đòi

91

hỏi tăng nhanh đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật tại chỗ, đủ sức cung ứng cho

các nhà máy, xí nghiệp mới hình thành. Thực tế đó không chỉ tạo ra nhu cầu

phát triển nguồn nhân lực về mặt số lượng mà còn đặt ra yêu cầu quy hoạch

mạng lưới đào tạo nghề của tỉnh với quy mô, ngành nghề thích hợp để kịp

thời cung ứng lao động kỹ thuật, lao động chất lượng cao cho nhu cầu phát

triển sản xuất, phát triển kinh tế của địa phương.

Hiện nay, Bến Tre đang bằng mọi cố gắng mời gọi, thu hút đầu tư từ

bên ngoài để nhanh chóng hiện đại hóa nền kinh tế. Một trong những yếu tố

hấp dẫn các nhà đầu tư là Bến Tre cần gấp rút chuẩn bị một nguồn nhân lực

đủ về số lượng, có trình độ chuyên môn kỹ thuật, đủ sức đáp ứng yêu cầu mở

rộng và phát triển sản xuất.

Trước mắt, tỉnh cần tiến hành điều tra cơ bản và chuẩn xác những tiềm

năng, thế mạnh, lợi thế về phát triển kinh tế của tỉnh, xác định đúng "mũi

nhọn" đột phá của CNH, HĐH. Trên cơ sở đó lập kế hoạch tổng thể về phát

triển nguồn nhân lực phù hợp, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế.

Bến Tre là tỉnh đồng bằng ven biển, hệ thống sông ngòi chằng chịt, là

lợi thế để phát triển mạnh ngành kinh tế thủy sản và kinh tế vườn. Hiện nay

và trong những năm tới, tỉnh Bến Tre xác định đây là hai ngành kinh tế mũi

nhọn và tập trung phát triển đi vào chiều sâu. Đặc biệt, ngành nuôi thủy sản

phát triển nhanh và toàn diện về quy mô, chủng loại và trình độ thâm canh,

ngành khai thác thủy sản phát triển trên lĩnh vực khai thác biển, theo xu

hướng chuyển từ khai thác ven bờ sang khai thác hải sản xa bờ. Trong lương

lai, khi ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào ngành nuôi trồng và khai

thác thủy hải sản, đòi hỏi lao động ngành này phải có trình độ văn hóa và

chuyên môn kỹ thuật nhất định, phải được đào tạo mới có khả năng tiếp thu

và ứng dụng những thành tựu khoa học. Vì vậy, trong chính sách phát triển

nguồn nhân lực của tỉnh hiện nay cần có kế hoạch mở rộng đào tạo nghề cho

người lao động trong các ngành nuôi trồng, chế biến thủy sản và khai thác

92

hàng hải. Hiện nay, tỉnh cũng đã có bước chuẩn bị nguồn nhân lực cho lĩnh

vực kinh tế này, Bến Tre đang liên kết với trường Đại học Thủy sản Nha

Trang đào tạo 691 sinh viên theo học ngành thủy sản (xem phụ lục 5.1). Tuy

nhiên, để đáp ứng nhu cầu nhân lực ngày càng cao cho các ngành kinh tế mũi

nhọn, tỉnh nên lập ngay kế hoạch đào tạo ở các ngành thủy sản, nông học ở

trình độ trung cấp, đại học và sau đại học để kịp thời cung cấp nguồn nhân lực

trong những năm tới.

Bên cạnh đó, tỉnh tiếp tục đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo theo

chuẩn mới, đồng thời xây dựng những chương trình, dự án kinh tế - kỹ thuật

lớn với yêu cầu và quy mô ngày càng cao để thực hiện CNH, HĐH ở tỉnh.

Trên cơ sở đó có chiến lược phát triển mạnh nguồn nhân lực của tỉnh phục vụ

CNH, HĐH.

Vì vậy, đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH, nhằm tạo ra đòn bẩy trực tiếp

thúc đẩy NLCN của tỉnh phát triển cả về số lượng và chất lượng là vấn đề cấp

thiết đối với Bến Tre hiện nay.

Hai là, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, xây dựng môi

trường đầu tư thuận lợi, tạo sức hấp dẫn thu hút đầu tư từ bên ngoài

So với các tỉnh lân cận, Bến Tre là tỉnh khó thu hút đầu tư bên ngoài

không chỉ do điều kiện địa lý cách trở mà còn vì kết cấu hạ tầng yếu kém, đặc

biệt là hệ thống giao thông. Thực tế cho thấy, những địa phương có cơ sở hạ

tầng yếu kém rất khó thu hút nhà đầu tư, mà đã không thu hút được đầu tư thì

khả năng cải tạo kết cấu hạ tầng cũng hạn chế. Chính cái vòng luẩn quẩn này

tạo nên thực trạng vùng kinh tế đã phát triển thì càng phát triển thêm và

những vùng kinh tế kém phát triển như Bến Tre lại càng tụt hậu. Chính vì

vậy, phát triển kết cấu hạ tầng được tỉnh Bến Tre xác định là một trong những

khâu đột phá quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Để phát triển

mạnh kết cấu hạ tầng, đòi hỏi phải huy động tối đa các nguồn đầu tư, trong đó

chủ yếu là nhờ vào vốn đầu tư của Nhà nước. Bên cạnh đó, tỉnh cần huy động tối

đa các nguồn đầu tư từ các thành phần kinh tế, khuyến khích, kêu gọi các thành

93

phần kinh tế đầu tư phát triển mạnh kết cấu hạ tầng; tiếp tục thực hiện tốt

phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", từng bước nhựa hóa, bê tông

hóa hệ thống giao thông nông thôn trên địa bàn toàn tỉnh. Nhằm tạo sức hấp dẫn

và thu hút các nhà đầu tư, bên cạnh xây dựng kết cấu hạ tầng ngày càng hoàn

chỉnh, tỉnh cần chú trọng ban hành các chính sách ưu đãi đầu tư phù hợp nhằm

khắc phục những bất lợi về vị trí địa lý, để có thể làm hài lòng các nhà đầu tư khi

đến Bến Tre.

Đối với Bến Tre, công trình cầu Rạch Miễu (khởi công xây dựng ngày

30-04-2002) khi hoàn thành sẽ có ý nghĩa to lớn, góp phần phá thế cù lao, biệt

lập giữa Bến Tre với các tỉnh bạn, đồng thời bảo đảm giao thông thuận lợi giữa

các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng và giữa các tỉnh

này với thành phố Hồ Chí Minh. Đây là điều kiện quan trọng thúc đẩy phát triển

kinh tế-xã hội tỉnh Bến Tre và cả khu vực ĐBSCL. Vì vậy, tỉnh cần tiếp tục phối

hợp chặt chẽ với Bộ Giao thông vận tải đẩy nhanh tiến độ thi công cầu Rạch

Miễu hoàn thành và đưa công trình vào sử dụng đúng kế hoạch (dự kiến cuối

năm 2006). Đồng thời, tranh thủ sự hỗ trợ của các bộ, ngành Trung ương đẩy

nhanh tiến độ hoàn thành các hạng mục cải tạo, mở rộng nâng cấp quốc lộ 57, 60

và phà Cổ Chiên, hình thành tuyến giao thông huyết mạch, liên hoàn với các tỉnh

ven biển miền Tây Nam bộ. Dự án xây dựng cầu Hàm Luông nối liền các cù lao

của Bến Tre đã được phê duyệt, vì vậy, tỉnh cần tích cực xin Trung ương nhanh

chóng cho khởi công xây dựng nhằm phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng phục vụ

phát triển kinh tế-xã hội và đẩy mạnh CNH, HĐH. Về phía tỉnh, cần đầu tư đẩy

mạnh tiến độ xây dựng các tỉnh lộ, huyện lộ và tiếp tục triển khai phát triển

mạnh mẽ hệ thống giao thông nông thôn trên địa bàn tỉnh.

Trong tương lai không xa, khi cầu Rạch Miễu hoàn thành, hệ thống

giao thông hoàn chỉnh, Bến Tre sẽ không còn là ốc đảo, khép kín ngăn cách

với các tỉnh trong khu vực và cả nước. Đó không chỉ là ước mơ ngàn đời của

hàng triệu người dân trên đất cù lao xứ dừa, mà còn mở ra triển vọng phát

triển mạnh mẽ cho Bến Tre và cả khu vực giàu tiềm năng - ĐBSCL, trong

94

những năm tới đây. Đối với Bến Tre, việc mở rộng giao lưu, hội nhập với các

tỉnh, thành trong cả nước không chỉ là điều kiện thu hút mạnh đầu tư, phát

triển nhanh kinh tế-xã hội, mà còn giúp người dân Bến tre từng bước mở rộng

tầm nhìn ra "thế giới bên ngoài", "phá vỡ" nếp sống, lối suy nghĩ khép kín

hàng bao đời nay. Việc mở rộng hội nhập kinh tế với các tỉnh, thành phố lớn

trong cả nước sẽ tạo ra cơ hội cho người lao động Bến Tre được tiếp cận, giao

lưu, nắm bắt những thông tin thị trường, tiến bộ khoa học - kỹ thuật, ứng

dụng những mô hình mới vào sản xuất, kinh doanh, từ đó, năng lực và trình

độ người lao động từng bước được nâng lên, chất lượng NLCN Bến tre được

đổi mới.

Có thể nói, phát triển kết cấu hạ tầng, phá thế cù lao, biệt lập là một

trong những giải pháp cơ bản và cấp bách nhằm đưa nền kinh tế Bến Tre vượt

qua nguy cơ tụt hậu và tạo bước phát triển nhanh và bền vững trong tương lai.

Kinh tế phát triển chính là tạo ra điều kiện vật chất quan trọng nâng cao đời

sống vật chất và tinh thần cho người lao động, đầu tư có hiệu quả cho phát

triển mạnh NLCN của tỉnh.

3.2.2. Nhóm giải pháp chính trị

Một là, tiếp tục khơi dậy truyền thống cách mạng, ý chí tự lực tự

cường, quyết tâm vượt lên đói nghèo, tạo ra động lực mới thúc đẩy người

dân Bến tre nỗ lực vươn lên thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH

Nhân dân cả nước biết đến Bến Tre như một vùng đất cách mạng anh

hùng trong quá khứ. Nếu trong đấu tranh chống ngoại xâm, chính khát vọng

độc lập tự do tạo nên sức mạnh kỳ diệu để người dân Bến Tre làm nên những

chiến công oanh liệt, thì ngày nay cần làm cho mỗi người dân ý thức được

rằng nguy cơ tụt hậu về kinh tế cũng đáng sợ như nguy cơ mất nước. Ý chí

quyết tâm vươn lên không cam phận nghèo của người Bến Tre hôm nay xuất

phát từ truyền thống đó. Phát huy sức mạnh truyền thống quê hương, Bến Tre

đang khơi dậy một phong trào mới “Đồng khởi kinh tế”, đây sẽ là động lực

mới thúc đẩy người dân Bến Tre nỗ lực vượt lên mọi khó khăn, thách thức

95

đưa nền kinh tế tỉnh nhà phát triển, tiến kịp và hội nhập với các tỉnh trong

vùng và cả nước. Thực tế những năm qua ở Bến Tre cho thấy, sức mạnh của

NLCN trong quá trình CNH, HĐH không chỉ thể hiện ở số lượng, chất lượng

nguồn lao động, mà còn ở chỗ biết phát huy truyền thống cách mạng, khơi

dậy tinh thần tự lực tự cường, huy động sức mạnh tổng hợp toàn dân tham gia

phong trào “Đồng khởi mới”. Hơn 4 năm qua, phong trào “Đồng khởi mới”

đã thực sự khơi dậy được những tiềm năng và sức mạnh nội tại của một tỉnh

ven biển này. Năm 2004 là năm thể hiện rõ nét nhất những thành quả gặt hái

được từ phong trào Đồng khởi mới: tỷ lệ tăng trưởng kinh tế vượt 2 con số là

10,08%, giảm tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 5%. Năm 2005, tỷ lệ tăng trưởng kinh

tế có khả năng đạt 12%, thu nhập bình quân đầu người ước đạt 500 USD [55].

Những con số này đã chứng minh cho sức mạnh của khát vọng, ý chí quyết

tâm vươn lên của người dân quê hương Đồng khởi trong công cuộc xây dựng

kinh tế, CNH, HĐH tỉnh nhà. Có thể nói, một khi khơi dậy được nguồn sức

mạnh tinh thần, tập hợp được ý chí của toàn xã hội vào mục tiêu phát triển sẽ

tạo ra nhân tố quan trọng cho sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH.

Hai là, tiếp tục giữ vững ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn, giải

quyết tốt các “điểm nóng” về tranh chấp đất đai

Thành tựu nổi bật trong công cuộc đổi mới mà Đảng ta khẳng định là

tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Trong những năm đổi mới, tình

hình chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh Bến Tre được giữ vững. Thực tế cho

thấy, môi trường chính trị - xã hội ổn định là điều kiện quan trọng cho các

hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội diễn ra thuận lợi, đời sống vật chất và tinh

thần người lao động được ổn định và ngày càng được nâng cao. Trong môi

trường đó, con người thật sự yên tâm chăm lo phát triển kinh tế, ra sức học

tập, lao động sáng tạo, cống hiến tài năng vì sự phát triển phồn vinh của xã

hội và hạnh phúc của mỗi cá nhân. Vì vậy, giữ vững ổn định chính trị - xã hội

là điều kiện quan trọng hàng đầu bảo đảm môi trường cho con người phát

triển toàn diện. Con người được phát triển cao về trí tuệ, trong sáng về đạo

96

đức, yên ổn về tinh thần sẽ đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển kinh tế-xã

hội, tạo ra nguồn sức mạnh to lớn thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển. Chính vì

vậy, tiếp tục giữ vững ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn là điều kiện và

cũng là giải pháp thúc đẩy NLCN Bến Tre phát triển.

Tuy nhiên, trong những năm qua, ở Bến Tre tình hình tranh chấp đất đai

do hậu quả cải tạo nông nghiệp để lại còn phức tạp, số vụ khiếu kiện tranh chấp,

khiếu nại về đất đai còn nhiều. Từ năm 1999 đến năm 2004, có 11.372 vụ việc

khiếu kiện tranh chấp và khiếu nại về đất đai, chủ yếu là đòi lại đất (6.222 vụ).

Số lượt người tập hợp lại thành đoàn đông người đến các cơ quan của huyện,

tỉnh, trung ương để khiếu nại khá nhiều, năm 2001 có 4 đoàn, mỗi đoàn từ 60-80

người [51, tr.1-2]. Đây là một trong những nguyên nhân gây bất ổn trong đời

sống chính trị, xã hội của địa phương, cản trở quá trình phát triển kinh tế-xã hội,

làm suy giảm chất lượng và sức mạnh NLCN của tỉnh trong thời gian qua. Đến

nay, toàn tỉnh đã giải quyết được 97,17% đơn khiếu nại về đất đai (6.046/6.222

đơn), với các hình thức hỗ trợ vốn chuyển đổi ngành nghề, cho vay vốn phát

triển sản xuất và đi vùng kinh tế mới đã góp phần ổn định đời sống nhân dân và

hạn chế việc khiếu kiện đông người, vượt cấp [55]. Do đó, tiếp tục giải quyết tốt

các vụ việc tranh chấp, khiếu nại về đất đai là vấn đề có ý nghĩa quan trọng góp

phần ổn định tình hình an ninh trật tự trên địa bàn, ngăn chặn nguy cơ kẻ địch lợi

dụng vấn đề này gây rối làm mất ổn định chính trị, đồng thời còn tạo môi trường

chính trị - xã hội ổn định - điều kiện cơ bản thúc đẩy NLCN phát triển.

3.2.3. Nhóm giải pháp xã hội

Phát triển NLCN không chỉ làm gia tăng số lượng và chất lượng nguồn

nhân lực, mà còn thể hiện ở việc bồi dưỡng, khai thác và sử dụng có hiệu quả

nguồn nhân lực đó cho phát triển. Bến Tre có nguồn lao động dồi dào, do đó,

việc tìm ra giải pháp “đột phá” để khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực

này cho đẩy mạnh CNH, HĐH đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của các

cấp lãnh đạo tỉnh Bến Tre.

97

Một là, tạo nhiều việc làm cho người lao động, đặc biệt lao động trong

lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nhằm sử dụng có hiệu quả NLCN của tỉnh

Trong điều kiện ở Bến Tre, giải quyết việc làm cho người lao động,

nhất là lực lượng lao động nông thôn - bộ phận hiện chiếm số đông trong dân

cư, đang là nhiệm vụ bức xúc và là nội dung quan trọng trong mục tiêu phát

triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Cần thống nhất nhận thức của người lao động về

“việc làm”, đó là tất cả các hoạt động kinh tế-xã hội tạo ra thu nhập mà không

vi phạm pháp luật. Với cách hiểu như vậy, tích cực tạo ra nhiều việc làm cho

người lao động bằng cách phát triển sản xuất, khôi phục và phát triển các làng

nghề truyền thống, phát triển dịch vụ và du lịch, khuyến khích mọi người, mọi

thành phần kinh tế tự tìm việc làm, tự đầu tư tạo việc làm. Trong đó chú ý

một số giải pháp cụ thể sau:

- Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Đây không chỉ là

chính sách giải phóng mọi năng lực sản xuất, mà còn là giải pháp quan trọng để

tạo nhiều việc làm cho người lao động. Hiện nay ở Bến Tre, trên 93% lao động

đang làm việc trong các thành phần kinh tế tư nhân và cá thể. Có thể nói, khu

vực kinh tế tư nhân đang đóng vai trò to lớn trong việc tạo ra và giải quyết nhiều

việc làm cho người lao động. Vì vậy, Nhà nước cần tạo môi trường sản xuất kinh

doanh thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế, nhất là thực hiện “chính sách

ưu đãi cụ thể và tạo mọi điều kiện dễ dàng để thành phần kinh tế tư nhân phát

triển sản xuất, kinh doanh trên mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực được pháp luật

bảo hộ” [23, tr.66]. Đặc biệt kinh tế hộ gia đình vẫn là đơn vị kinh tế cơ bản

tổ chức sản xuất, kinh doanh và thu hút nhiều lao động, do đó cần có chính

sách hỗ trợ phát triển mạnh kinh tế hộ gia đình. Theo kết quả điều tra về kinh tế

trang trại, đến tháng 7-2005 toàn tỉnh có trên 3.800 hộ sản xuất đạt tiêu chí trang

trại. Loại hình chủ yếu là trồng cây lâu năm, chăn nuôi và nuôi thủy sản, đang

mang lại hiệu quả kinh tế khá cao, nhưng phát triển chưa ổn định, nhất là nuôi

thủy sản [3, tr.7]. Vì vậy, tỉnh cần khuyến khích các hình thức tổ chức sản xuất

quy mô lớn theo kiểu trang trại và tạo lập môi trường kinh tế, xã hội và pháp luật

98

thuận lợi cho mô hình kinh tế này phát triển. Đây là mô hình sản xuất đem lại hiệu

quả kinh tế-xã hội lớn như tạo khả năng huy động vốn, khai thác tiềm năng sản

xuất, tạo nhiều việc làm và tăng thêm nông sản hàng hóa cho xã hội và xuất khẩu.

Tạo ra nhiều việc làm không chỉ giúp ổn định đời sống người lao động,

mà có việc làm ổn định, phù hợp, còn là điều kiện khơi dậy tính tích cực,

năng động sáng tạo, nâng cao kỹ năng tay nghề cho người lao động trong điều

kiện cạnh tranh quyết liệt của thị trường lao động.

- Đẩy mạnh khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, du

nhập và phát triển thêm nghề mới trong nông thôn là cơ sở để giải quyết việc

làm tại chỗ cho lao động nông nghiệp. Theo báo cáo của Sở Công nghiệp,

những năm qua ở Bến Tre nhiều làng nghề được sắp xếp, củng cố và được trợ

giúp vốn từ chương trình khuyến công, chương trình vốn mục tiêu, nên không

ngừng phát triển. Nhiều làng nghề điển hình phát triển mạnh như: sản xuất than

gáo dừa, chỉ xơ dừa An Thạnh - Khánh Thạnh Tân (Mỏ Cày); sản xuất kẹo dừa

Phường VII (Thị xã Bến Tre); sản xuất chiếu thảm, lưới xơ dừa, hàng thủ công

mỹ nghệ An Hiệp (Châu Thành)... [2, tr.72]. Việc phát triển nghề và làng nghề ở

nông thôn Bến Tre đã đem lai hiệu quả kinh tế, xã hội to lớn, tạo động lực thúc

đẩy NLCN phát triển. Trước hết, góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch

cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH, chuyển dịch

cơ cấu lao động theo hướng di chuyển “tại chỗ”. Một bộ phận không nhỏ lao

động nông nghiệp chuyển sang lĩnh

vực phi nông nghiệp, do đó đây là con đường nhanh chóng đến với mục tiêu

CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Thứ hai, giải quyết được việc làm tại

chỗ cho người lao động, nhất là lao động dư dôi, lao động thời vụ ở nông

thôn, tăng thu nhập, góp phần thực hiện chủ trương xoá đói giảm nghèo, tạo

cơ hội vươn lên làm giàu tại địa phương. Thứ ba, nhiều lao động ở nông thôn

có việc làm thu nhập ổn định, không chỉ là điều kiện giữ gìn trật tự địa bàn

nông thôn, hạn chế tệ nạn xã hội, giảm bớt sức ép cho các đô thị và thành phố

lớn do dòng di cư từ nông thôn ra đô thị tìm việc làm, mà còn tạo ra môi

99

trường rèn luyện tác phong lao động công nghiệp, khơi dậy tính năng động,

sáng tạo, thích ứng nhanh nhạy với cơ chế thị trường, qua đó từng bước thay

đổi tâm lý, thói quen sản xuất nhỏ của một bộ phận người lao động. Với

những hiệu quả kinh tế, xã hội to lớn đó, phát triển nghề mới và khôi phục,

phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Bến Tre cần được quan tâm, hỗ

trợ nhiều hơn nữa từ phía Nhà nước. Bởi vì, trên thực tế, phần lớn các làng

nghề ở Bến Tre phát triển manh mún, mang tính tự phát và phân tán trong các

hộ gia đình, công nghệ lạc hậu, chủ yếu là thủ công truyền thống, thị trường

tiêu thụ sản phẩm hạn hẹp và bấp bênh. Nhiều làng nghề gây ô nhiễm môi

trường rất nặng, ảnh hưởng đến cuộc sống người dân trong khu vực các làng

nghề. Vì vậy, tỉnh cần sớm “triển khai đề án phát triển ngành nghề nông thôn,

củng cố và phát triển làng nghề truyền thống. Xây dựng các tiêu chí làng

nghề, hỗ trợ các làng nghề phát triển đạt các tiêu chí theo quy định và được

công nhận” [54, tr.4]. Nếu được tỉnh triển khai thực hiện phương án này sẽ tạo

điều kiện, cơ hội thuận lợi cho các cụm làng nghề ở Bến Tre hình thành và

phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, việc đầu tư công nghệ mới, hiện đại hóa

công nghệ truyền thống để xây dựng các làng nghề sản xuất chuyên môn hóa

tạo ra năng suất, chất lượng sản phẩm tốt, tăng sức cạnh tranh trên thị trường

phải được sự giúp đỡ về vốn, về cơ chế chính sách từ phía Nhà nước và chính

quyền các cấp ở địa phương. Đồng thời với quá trình này là sự giúp đỡ,

hướng dẫn, kỹ thuật chuyển giao và ứng dụng công nghệ mới vào quá trình

sản xuất của các nhà chuyên môn, cán bộ khoa học cho người lao động trong

các làng nghề. Việc dạy nghề cho người lao động tại các làng nghề cần được

tổ chức tập trung và khoa học, trong đó chú trọng kết hợp các hình thức

truyền nghề, dạy nghề tại cơ sở với sự hướng dẫn, kèm cặp trực tiếp của các

nghệ nhân.

Việc phát triển làng nghề ở Bến Tre đã thu hút nhiều lao động ở các lứa

tuổi, trong đó có cả trẻ em trong độ tuổi đi học. Vì muốn tăng thu nhập, không

ít gia đình cho phép hoặc ép buộc con em mình phải nghỉ học để tham gia lao

100

động. Điều này không chỉ vi phạm pháp luật lao động mà về lâu dài sẽ làm

suy giảm chất lượng nguồn nhân lực của địa phương và hạn chế cơ hội phát

triển bản thân của người lao động. Do đó, chính quyền các cấp cần tuyên

truyền vận động các gia đình và chủ sử dụng lao động ở các làng nghề coi

trọng và tạo điều kiện cho các em có điều kiện học tập, hạn chế tham gia lao

động để có thời gian tập trung học tập tốt.

Như vậy, khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống cũng như du

nhập thêm nghề mới ở nông thôn Bến Tre được xem là một trong những giải

pháp hữu hiệu trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Ngoài

hiệu quả kinh tế, xã hội to lớn như phát triển sản xuất, ổn định xã hội, phát triển

làng nghề còn tác động trực tiếp đến phát triển cá nhân người lao động, khai thác

và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động to lớn trong nông thôn Bến Tre.

- Xuất khẩu lao động cần được xem là hướng giải quyết việc làm có

hiệu quả ở Bến Tre hiện nay. Theo báo cáo của Sở Lao động- Thương binh và

Xã hội tỉnh, từ năm 2001 đến 2005, Bến Tre có hơn 3.000 người đi lao động

có thời hạn ở nước ngoài. Tính riêng năm 2004 đã có 971 người, năm 2005

ước đạt 1000 lao động đi làm việc ở nước ngoài, thị trường chủ yếu là

Malaysia, Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc. Công tác xuất khẩu lao động

không những giải quyết được việc làm, tăng thu nhập, người lao động còn tiết

kiệm gửi về cho người thân một khoảng tiền khá lớn để ổn định đời sống gia

đình, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh. Quy

mô xuất khẩu lao động của tỉnh có tăng so với các năm trước, nhưng chưa đáp

ứng nhu cầu xã hội. Nguyên nhân chủ yếu là hiện nay các trung tâm dịch vụ

việc làm của tỉnh không có chức năng xuất khẩu lao động, phải qua trung gian

là Thành phố Hồ Chí Minh. Mặt khác, phần đông lao động có nhu cầu xuất

khẩu là người nghèo không có tài sản thế chấp hoặc trình độ thấp. Vì vậy,

trong những năm tới tỉnh cần đẩy mạnh hơn nữa công tác xuất khẩu lao động,

xem đây là một trong những giải pháp quan trọng nhằm sử dụng có hiệu quả

nguồn lao động của tỉnh trong bối cảnh người lao động Bến Tre di cư nhiều.

101

Để công tác này có hiệu quả, tỉnh cần quy hoạch từ chỗ xuất khẩu lao động

giản đơn phải hướng đến xuất khẩu lao động kỹ thuật.

Xuất khẩu lao động giản đơn (chủ yếu là làm việc nhà, bốc xếp…)sẽ giảm

nhẹ được gánh nặng đào tạo và giảm bớt sức ép nhu cầu việc làm trong thời hạn

ngắn; giúp người lao động có thu nhập cao hơn so với nếu làm việc tại tỉnh. Tuy

nhiên, họ sẽ dễ bị bóc lột và không có điều kiện thăng tiến, cải thiện nghề

nghiệp. Tình trạng lao động Việt Nam bỏ trốn ở Malaysia và một số nước cho

thấy rõ điều đó. Vì vậy, tỉnh cần có những liên kết chặt chẽ về mặt pháp lý với

các đối tác ngoài tỉnh và nước ngoài nhằm bảo đảm quyền lợi cho người lao

động. Mặt khác, cần có kế hoạch chủ động hướng nghiệp, đào tạo cho người lao

động tham gia xuất khẩu lao động có trình độ nhất định trước khi ra nước ngoài

làm việc. Điều này giúp người lao động có một số kiến thức nhất định về công

việc, ngôn ngữ, văn hóa của nước sẽ đến lao động và nhất là hiểu biết và có ý

thức chấp hành pháp luật, hợp đồng lao động. Đồng thời tỉnh cũng cần hỗ trợ

kinh phí đào tạo nghề cho người lao động nghèo và tín dụng cho người tham gia

xuất khẩu lao động.

Xuất khẩu lao động kỹ thuật trong điều kiện tỉnh đang thiếu lực lượng

lao động này cũng làm hạn chế sự phát triển kinh tế của tỉnh. Tuy nhiên, cũng

không thể ngăn cản nguồn lao động có trình độ kỹ thuật này đi nơi khác khi

cơ hội việc làm và thu nhập tại tỉnh chưa được cải thiện. Số lao động này sẽ là

nguồn nhân lực có chất lượng của tỉnh sau khi hợp đồng làm việc với nước

ngoài được ký kết, vì ngoài thu nhập được cải thiện, họ có điều kiện tiếp cận

với thiết bị tiên tiến, tiếp nhận tri thức khoa học mới, rèn luyện tác phong công

nghiệp, ngoài ra còn chuyển một khoản thu nhập về cho gia đình, góp phần xóa

đói giảm nghèo, phát triển kinh tế địa phương.

Như vậy, tạo nhiều việc làm cho người lao động bằng phát triển sản

xuat, khôi phục và mở mang ngành nghề, xuất khẩu lao động,... đó là những giải

pháp nếu thực hiện tốt sẽ đem lại hiệu quả cho công tác giải quyết việc làm ở

102

Bến Tre hiện nay, nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả NLCN, chuyển thành

nguồn nội lực thúc đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH.

Hai là, có chính sách hữu hiệu để thu hút và trọng dụng nhân tài,

khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ

cho sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng KH-CN, mà sự phát

triển KH-CN đòi hỏi sự tích tụ “chất xám”. NLCN Bến Tre hiện tại trên nhiều

mặt chưa đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, đặc biệt, đội ngũ hoạt động KH-CN

của tỉnh còn quá nhỏ bé, vì vậy, nếu chỉ dựa vào NLCN hiện có, Bến Tre

chưa đủ sức đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH. Thấy được vấn đề này, trong

vài năm gần đây, Bến Tre đã và đang thực hiện các chính sách thu hút và đãi

ngộ nhân tài nhằm cải thiện chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh. Tuy nhiên,

trên thực tế các chính sách này chưa hướng tới lực lượng lao động có trình độ

và chuyên gia ngoài tỉnh, chưa thu hút được nhiều người tài giỏi và chuyên

gia trẻ tham gia vào các vị trí quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Đây

cũng là một trong những yếu tố làm hạn chế khả năng cạnh tranh của tỉnh

trong việc mời gọi các nhà đầu tư. Vì vậy, trong thời gian tới, ngoài việc tạo

ra sự khác biệt về chế độ đãi ngộ vật chất và tinh thần, cần tạo điều kiện và

môi trường làm việc thuận lợi cùng với sự tôn vinh đúng mức nhân tài, sẽ có

thể tạo ra “lực hút" mạnh hơn trong thực hiện chính sách “cầu hiền” của tỉnh

hiện nay. Về lâu dài, tỉnh cần có kế hoạch đầu tư đúng mức, tập trung và có

trọng điểm trong việc đào tạo những chuyên gia giỏi, chuyên gia “đầu đàn”

trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên mà tỉnh đang thu hút. Có thể nói, sự thành

công của phát triển kinh tế trước hết do thành công của sự phát triển KH-CN,

mà sự thành công của KH-CN lại phụ thuộc chủ yếu vào tính hiệu quả của

chính sách thu hút, khai thác và trọng dụng nhân tài. Hơn lúc nào hết, “Tôn

trọng trí thức, quý trọng nhân tài” cần được thể hiện một cách rõ nét trên thực

tế ở Bến Tre.

103

3.2.4. Nhóm giải pháp giáo dục - đào tạo

Mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và CNH, HĐH đất

nước chỉ có thể thành hiện thực khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động

nước ta được trang bị một nền tảng văn hóa vững chắc, một trình độ học vấn

và chuyên môn kỹ thuật cao. Điều này đã được V.I.Lênin chỉ rõ: “Không thể

xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa trong một nước có những người mù chữ”

[38, tr.374].

Ngày nay, để phát triển NLCN, hầu hết các quốc gia đều xem GD-ĐT là

giải pháp hữu hiệu, là con đường cơ bản và trực tiếp nhất. Bởi vì, phát triển

NLCN chủ yếu là làm cho con người ngày càng phát triển về trí tuệ, nâng cao

năng lực và phẩm chất, tức là con người đã qua GD-ĐT. Chính vì vậy, Đảng

ta luôn coi GD-ĐT, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Rõ ràng,

GD-ĐT là công cụ quan trọng nhất và trực tiếp nâng cao tri thức, trang bị

chuyên môn kỹ thuật và hình thành kỹ năng lao động, năng lực tư duy sáng

tạo cho người lao động. Nhằm đào tạo nguồn nhân lực có những năng lực và

phẩm chất cần thiết đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, trong điều kiện hiện nay,

GD-ĐT tỉnh Bến Tre cần tập trung thực hiện một số vấn đề sau:

Thứ nhất, tiếp tục đổi mới và phát triển hệ thống giáo dục- đào tạo,

đặc biệt hệ thống đào tạo nghề của tỉnh Bến Tre

Trong những năm qua, GD-ĐT tỉnh Bến Tre có vai trò to lớn trong việc

nâng cao chất lượng NLCN, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh

tế-xã hội và CNH, HĐH của tỉnh. Điều đó được khẳng định qua thành tựu xoá

mù chữ, phổ cập giáo dục và nâng dần tỷ lệ lao động qua đào tạo hàng năm.

Tuy nhiên, để thật sự là công cụ đắc lực trong việc đào tạo nguồn nhân lực có

chất lượng phục vụ cho giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH, hệ thống GD-ĐT

Bến Tre cần phải tiếp tục đổi mới và phát triển “với tốc độ nhanh hơn, chất

lượng tốt hơn, hiệu quả lớn hơn” [18, tr.9 ], hướng tới các nội dung cụ thể

sau:

104

- Đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục nhằm phát huy tính tích

cực, sáng tạo của người học, tạo ra nguồn lao động có chất lượng, đáp ứng

yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Bến Tre

Nâng cao chất lượng GD-ĐT đang là vấn đề bức xúc, được Nhà nước và

toàn xã hội quan tâm và là nhiệm vụ trọng tâm của ngành GD-ĐT hiện nay. Để

sản phẩm GD-ĐT có chất lượng, cần đổi mới nội dung và phương pháp giáo

dục. Về nội dung, cần giáo dục cho thế hệ trẻ Bến Tre không chỉ có tri thức khoa

học cơ bản hiện đại, có kỹ năng nghề nghiệp, chuyên môn, mà còn có lòng tự

hào dân tộc, yêu quê hương, biết kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống,

đạo đức tốt đẹp, có ý chí vươn lên không cam chịu đói nghèo. Nội dung giáo dục

phẩm chất đạo đức, lý tưởng cách mạng phải được xem là yếu tố quyết định

trong việc tạo ra những con người có nhân cách đạo đức phù hợp với yêu cầu

của thời kỳ phát triển mới. Dạy người phải được xem là mục tiêu quan trọng, cần

hướng tới trong quá trình GD-ĐT.

Lối giáo dục kiểu nhồi nhét kiến thức, nặng về dạy chữ, ít chú ý rèn

luyện phương pháp tư duy đang là phương pháp phổ biến trong nhiều nhà

trường đã làm ảnh hưởng đến chất lượng GD -ĐT. Trong các cơ sở đào tạo ở

tỉnh hiện vẫn còn sự mất cân đối giữa dạy chữ và dạy nghề. Vì vậy, cần đổi

mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục theo hướng phát huy tính tích cực chủ

động, thúc đẩy sự phát triển trí tuệ và khơi dậy khả năng sáng tạo ở người

học, giúp họ hình thành năng lực và phương pháp tư duy khoa học, đồng thời

chú trọng đúng mức thực hành, rèn luyện kỹ năng, tay nghề cho người học.

Đặc biệt, cần hình thành năng lực phát hiện cái mới, bản lĩnh dám nghĩ, dám

làm trong nền kinh tế thị trường. Ngày nay, hiệu quả của giáo dục, đào tạo

không chỉ tính bằng lượng kiến thức tiếp thu, mà chủ yếu phải tính bằng sự

phát triển của năng lực sáng tạo, phương pháp tư duy khoa học, khả năng

thích nghi và năng lực biến tri thức thành kỹ năng của người lao động. Mặt

khác, yêu cầu mới trong điều kiện hiện nay, đòi hỏi người lao động cần phải

có kiến thức liên ngành, nhạy bén về thông tin, có tính cơ động về nghề

105

nghiệp. Giáo viên có vai trò quyết định trong đổi mới nội dung và phương

pháp giáo dục, do đó, điều quan trọng trước tiên là đổi mới nhận thức và nâng

cao năng lực vận dụng phương pháp giáo dục của người thầy trong quá trình

giáo dục.

- Mở rộng quy mô giáo dục- đào tạo, nâng cao chất lượng, hiệu quả

của giáo dục- đào tạo nghề cho người lao động

Để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH trong những năm tới, GD-ĐT

tỉnh Bến Tre cần có sự phát triển vượt bậc. Sự phát triển này phải là kết quả

của quá trình kết hợp đồng thời giữa mở rộng quy mô GD-ĐT với nâng cao

chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo. Xuất phát từ nhu cầu nguồn nhân

lực và với hiện trạng cơ cấu trình độ lao động của tỉnh như hiện nay, cần tập

trung phát triển mạnh giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề, giáo dục đại học,

cao đẳng cả quy mô, chất lượng và hiệu quả, để một mặt, phổ cập nghề

nghiệp cho người lao động ở tất cả các thành phần kinh tế, tạo điều kiện thuận

lợi cho mọi người lao động được học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề

nghiệp. Mặt khác, cần gấp rút đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề,

thợ bậc cao, kỹ thuật viên cao cấp nhằm cung cấp cho các thành phần kinh tế

đội ngũ nhân lực chất lượng cao, đủ năng lực tiếp cận và sử dụng thành thạo

các phương tiện kỹ thuật và công nghệ hiện đại, đáp ứng nhu cầu phát triển

kinh tế, yêu cầu mở rộng phát triển sản xuất theo hướng CNH, HĐH.

Hệ thống giáo dục và đào tạo nghề của tỉnh tiếp tục củng cố và phát

triển theo hướng đa dạng hóa ngành nghề và loại hình đào tạo. Tuy nhiên, tỉnh

cần xác định rõ một số trường trọng điểm đào tạo những ngành nghề hoặc

nhóm nghề phục vụ lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của tỉnh và đáp ứng nhu cầu

của thị trường lao động. Để nâng chất lượng dạy nghề, trước mắt cần tập

trung xây dựng một số trường và trung tâm dạy nghề chất lượng cao như

trường Cao đẳng Bến Tre, trường Kỹ nghệ Bến Tre, trung tâm dạy nghề trọng

điểm ở các huyện Mỏ Cày, Ba Tri. Ngoài ra, hệ thống dạy nghề phổ thông

như các trung tâm dịch vụ việc làm, các trung tâm dạy nghề thuộc các tổ chức

106

chính trị - xã hội, cơ sở dạy nghề tư nhân, các làng nghề… cũng cần sắp xếp

đi vào nề nếp và nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên đạt chuẩn đào tạo, chú ý

nâng cấp trang thiết bị hiện đại phục vụ tốt công tác đào tạo. Hệ thống đào tạo

này phải thực hiện phương châm đào tạo nghề theo quy luật cung - cầu của thị

trường lao động trong và ngoài tỉnh.

Ngoài ra, nhằm đạt mục tiêu 25% lao động qua đào tạo vào năm 2005

và 40% vào năm 2010, trong những năm tới cần đa dạng hóa các loại hình

đào tạo và bồi dưỡng nghề, chú ý phát triển hình thức đào tạo nghề trực tiếp

tại cơ sở sản xuất hay trong các làng nghề truyền thống. Đây là hình thức khá

phổ biến và phù hợp với đối tượng người lao động có trình độ văn hóa thấp và

thời gian học nghề ngắn. Tuy không có giáo trình hay kiểm tra cụ thể, nhưng

“người thầy” trong các làng nghề chính là những nghệ nhân, những kỹ thuật

viên nên có tay nghề thành thạo, nhiều kinh nghiệm, người học nghề dễ tiếp

thu, thời gian học nghề cũng là thời gian thực hành nên người lao động thuần

thục sau khi ra nghề. Ngoài ra, cũng cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa các trung

tâm GD-ĐT nghề với các cơ sở sản xuất, với từng xí nghiệp. Khuyến khích

các thành phần kinh tế tham gia đào tạo nghề. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác

dạy nghề trên cơ sở nâng cao chất lượng đào tạo cũng được xem là một trong

những giải pháp nhằm nâng cao năng lực đào tạo nghề cho người lao động ở

Bến Tre.

Đi đôi với đào tạo lực lượng lao động mới, cần chú ý đào tạo lại, cập

nhật hóa kiến thức khoa học- kỹ thuật và công nghệ, nâng cao tay nghề cho

đội ngũ lao động hiện có, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nền kinh tế.

Để công tác đào tạo nghề cho người lao động thật sự có hiệu quả và

chất lượng cao, cần nhanh chóng nâng cao trình độ và năng lực sư phạm của

đội ngũ giáo viên dạy nghề. Bởi vì “Giáo viên là nhân tố quyết định chất

lượng giáo dục”, “giáo viên phải có đủ đức, tài” [18, tr.38]. Ngoài ra, cần cải

tiến nội dung đào tạo trên cơ sở tiếp thu những tiến bộ khoa học và công nghệ

hiện đại.

107

Nâng cao hiệu quả đào tạo bằng cách gắn đào tạo với sử dụng, điều này

vừa tránh được lãng phí vừa khắc phục tình trạng bất cập giữa đào tạo với thị

trường lao động. Muốn vậy, tỉnh cần định kỳ khảo sát nhu cầu lao động và

ngành nghề cần đào tạo, trên cơ sở đó lập kế hoạch và quy hoạch đào tạo hợp

lý theo lĩnh vực và theo bậc đào tạo.

Cùng với mở rộng quy mô đào tạo nghề, cần coi trọng công tác hướng

nghiệp và phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp trung học, chuẩn bị cho

thanh, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ

cấu kinh tế của tỉnh và nhằm khắc phục tình trạng bất hợp lý về cơ cấu trình

độ, ngành nghề hiện nay.

Tóm lại, mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo

nghề để ngày càng có nhiều người lao động có nghề và giỏi nghề sẽ tăng

nhanh lực lượng lao động có trình độ, đó là nguồn gốc làm tăng năng suất lao

động xã hội, đưa nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Mặt khác, việc

phát triển đào tạo nghề và dạy nghề cho người lao động còn có khả năng thu

hút và đào tạo nghề cho gần 80% học sinh trong toàn tỉnh không đỗ đại học mỗi

năm có nghề nghiệp và tham gia lao động xã hội, đóng góp to lớn sức lao động

sáng tạo cho công cuộc xây dựng kinh tế tỉnh nhà.

Thứ hai, phát hiện, đào tạo và bồi dưỡng tài năng nhằm tạo ra đội

ngũ cán bộ lãnh đạo, chuyên gia KH-CN, nhà doanh nghiệp giỏi - những

nhân tài, phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh

Trong thời đại ngày nay, nhân tài thực sự là tài sản quý hiếm của mỗi

quốc gia. Tài sản đó có được phải bằng một chiến lược lâu dài, đồng bộ từ

khâu phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, đến sử dụng, đãi ngộ nhằm tạo ra điều

kiện và môi trường thuận lợi nhất cho tài năng phát triển.

Cùng với cả nước, Bến Tre tiến hành CNH, HĐH với rất nhiều yêu cầu

mới, ngày càng cao và phức tạp nên đang rất cần nhiều chuyên gia giỏi trên

tất cả các lĩnh vực. Trong vài năm trở lại đây, Bến Tre bắt đầu coi trọng và có

chính sách thu hút, sử dụng và đãi ngộ nhân tài, nhưng vẫn đang thiếu nghiêm

108

trọng cán bộ có thực tài. Chính sự chậm chạp trong chiến lược nhân tài, bỏ

rơi, quên lãng làm mất mát nhân tài, đồng nghĩa với việc làm mất đi nguồn tài

sản quý giá nhất mà tỉnh đang thiếu hụt. Vì vậy, hơn lúc nào hết, “chiến lược

nhân tài” trở thành vấn đề cấp bách đối với Bến Tre trên đường phát triển.

Đội ngũ nhân tài phải được xây dựng một cách đồng bộ.

Trước hết, quyết định nhất là cần đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ cán

bộ lãnh đạo, quản lý giỏi. Đó phải là những người có tư duy chiến lược, trí

tuệ sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng, giỏi nắm bắt thực tiễn, đủ sức hoạch

định và dự báo xu hướng phát triển cũng như nhạy bén giải quyết thành công

những rủi ro, biến động có thể xảy ra. Đặc biệt, họ còn biết tập hợp và sử

dụng có hiệu quả một tập thể chuyên gia giỏi làm tham mưu đắc lực và kịp

thời thay thế những người không đáp ứng yêu cầu. V.I.Lênin đã chỉ ra rằng:

"Người cộng sản lãnh đạo chỉ có một cách duy nhất để chứng minh quyền

lãnh đạo của mình, đó là tìm cho mình được nhiều, càng ngày càng nhiều,

những người phụ tá... biết giúp đỡ họ làm việc, biết đề bạt họ, biết giới thiệu

và chú ý đến kinh nghiệm của họ" [39, tr.407]. Có thể nói, có được đội ngũ

cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi là nhân tố quyết định thực hiện thành công chiến

lược nhân tài.

Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học- công nghệ có trình độ cao, đủ sức

tiếp cận và làm chủ những thành tựu KH-CN cũng như có thể ứng dụng nó

vào sản xuất, quản lý. Bến Tre hiện đang thiếu nghiêm trọng đội ngũ cán bộ

này. Vì vậy, ngoài chính sách thu hút, sử dụng và đãi ngộ đội ngũ này, tỉnh

cần chú trọng phát hiện, tuyển chọn học sinh giỏi để đào tạo thành nhân tài

phục vụ cho tỉnh. Việc này cần phải có cơ chế, chính sách ràng buộc, bởi vì,

cũng đã có không ít học sinh giỏi của tỉnh được đưa đi đào tạo tại những

trường danh tiếng trong và ngoài nước, nhưng sau khi thành đạt trở thành

những nhân tài, chuyên gia giỏi lại từ chối không trở về phục vụ quê hương.

Bên cạnh đó, tỉnh cần tiến hành rà soát ngay đội ngũ lao động có tay nghề,

chuyên môn giỏi đang làm việc tốt trong các cơ quan, đơn vị sản xuất, ban

109

ngành của tỉnh để có chính sách khuyến khích phát huy năng lực của họ và

tạo điều kiện để họ được đào tạo lại theo những yêu cầu mới của CNH, HĐH

đặt ra.

Xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp giỏi. Đây là lực lượng giữ vai

trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế, nhất là trong bối cảnh tỉnh

đang thực hiện chính sách thu hút các nguồn vốn đầu tư. Nếu đầu tư nhiều

vốn và công nghệ hiện đại mà chúng ta không có những chuyên gia KH-CN

giỏi, nhà doanh nghiệp tài năng thì mọi đầu tư đều kém hiệu quả và nền kinh

tế cũng không mạnh, khả năng cạnh tranh cũng hạn chế. Trong nền kinh tế thị

trường định hướng XHCN, các nhà doanh nghiệp có vai trò hết sức quan

trọng. Bởi họ là "cầu nối" giữa quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của

người lao động thông qua hoạt động dịch vụ đầu vào và đầu ra cho quá trình sản

xuất. Trong tình hình khó khăn về "đầu ra" của những vùng chuyên canh nông

sản của Bến Tre, việc đào tạo, xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp giỏi là hết

sức cần thiết. Chính họ sẽ cung cấp những thông tin về thị trường như giá cả,

mẫu mã, chủng loại, chất lượng để từ đó người sản xuất điều chỉnh, cải tiến trong

quá trình sản xuất, đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu người tiêu dùng. Sự liên hệ,

hợp tác giữa nhà doanh nghiệp với người sản xuất (chủ yếu là nhà nông) là một

biểu hiện thực tế sinh động của tăng cường liên minh công - nông - trí thức ở

nước ta hiện nay.

Tóm lại, để vượt ra khỏi nguy cơ tụt hậu, đưa nền kinh tế phát triển

nhanh và bền vững, Bến Tre cần nhanh chóng phát triển mạnh NLCN, trong

đó thật sự coi trọng chiến lược đào tạo và sử dụng nhân tài, xây dựng đội ngũ

nhân tài đồng bộ, có tâm huyết, đủ sức phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH

của tỉnh Bến Tre.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Phát triển NLCN ở Bến Tre đang là vấn đề cấp bách trước yêu cầu

khách quan của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Tuy nhiên, NLCN Bến Tre

110

phát triển theo hướng nào, nhanh hay chậm và đến mức độ nào phần lớn tuỳ

thuộc vào hệ thống chính sách và giải pháp mà tỉnh Bến Tre đề ra có nhằm

khơi dậy tiềm năng, bồi dưỡng, khai thác và sử dụng có hiệu quả NLCN cho

CNH, HĐH hay không.

Trên cơ sở đánh giá thực trạng NLCN và phân tích quá trình phát triển

NLCN của tỉnh Bến Tre trong những năm qua, xuất phát từ tình hình kinh tế-

xã hội của tỉnh, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản có tính cấp bách

nhằm thúc đẩy NLCN Bến Tre phát triển mạnh hơn. Quá trình phát triển

NLCN ở Bến Tre phải là kết quả của việc thực hiện đồng bộ những giải pháp

trên. Trong những năm tới, ngoài việc chú trọng thực hiện nhóm giải pháp

GD-ĐT, luận văn nhấn mạnh đến các giải pháp phát triển kết cấu hạ tầng kinh

tế-xã hội và giải quyết việc làm cho người lao động. Bởi đây là những vấn đề

bức xúc nếu được quan tâm đầu tư và giải quyết tốt sẽ mở ra cho Bến Tre

triển vọng phát triển nhanh trong tương lai.

111

KẾT LUẬN

Qua 3 chương, luận văn đã phân tích và giải quyết những vấn đề cơ bản

sau:

1. Việc phân tích cấu trúc của NLCN và mối quan hệ của nó với các

nguồn lực khác cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về NLCN và vai trò của nó

trong phát triển xã hội, nhất là trong thời kỳ CNH, HĐH, qua đó càng làm rõ

tính tất yếu phát triển NLCN trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta

nói chung, ở Bến Tre nói riêng.

2. Sự nghiệp CNH, HĐH mà Bến Tre đang tiến hành ngoài những đặc

điểm chung, còn mang đậm những nét đặc trưng riêng của một tỉnh “cù lao”

chậm phát triển. Những đặc điểm riêng đó đã đặt ra cho Bến Tre yêu cầu phải

phát triển nhanh và mạnh hơn nữa NLCN, nhằm tạo ra nguồn nội lực mạnh

mẽ nhanh chóng đưa tỉnh vượt qua khỏi nguy cơ tụt hậu về kinh tế, phát triển

nhanh và bền vững hơn, hòa nhập với các tỉnh trong vùng và cùng cả nước

thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước vào năm 2020.

3. Luận văn phân tích làm rõ những đặc điểm về vị trí địa lý, kinh tế-

xã hội, cũng như truyền thống lịch sử, văn hóa, con người Bến Tre. Tất cả

những yếu tố đó đều có ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng NLCN, ảnh

hưởng đến quy mô, tốc độ phát triển NLCN của tỉnh trong nhiều năm qua. Từ đó,

luận văn đặt ra yêu cầu phải tìm kiếm giải pháp nhằm phát triển NLCN phục vụ sự

nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH của tỉnh trong những năm tới.

4. Phân tích thực trạng về số lượng, cơ cấu và chất lượng NLCN cũng

như thực trạng phát triển NLCN của tỉnh trong những năm qua, luận văn đã

đưa ra những đánh giá khái quát về chất lượng NLCN của tỉnh. Có thể khẳng

định: NLCN của tỉnh hiện tại còn nhiều bất cập, thiếu về số lượng, yếu về

chất lượng, mất cân đối về cơ cấu ngành nghề và cấp bậc đào tạo, nhất là việc

sử dụng chưa thật sự có hiệu quả. Từ thực trạng đó, luận văn chỉ ra một số

112

nguyên nhân chính ảnh hưởng đến quá trình phát triển NLCN của tỉnh và dự

báo những xu hướng vận động cơ bản của NLCN của Bến Tre trong những

năm tới.

5. Xuất phát từ những quan điểm cơ bản chỉ đạo phát triển NLCN, luận

văn xây dựng một hệ thống giải pháp để tỉnh Bến Tre có thể nghiên cứu, tham

khảo trong quá trình hoạch định chiến lược, chính sách phát triển NLCN, đặc

biệt nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp với thực tiễn công cuộc CNH,

HĐH của tỉnh.

Phát triển NLCN ở nước ta nói chung, ở Bến Tre nói riêng đang là yều

cầu cấp bách, được Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và các địa phương

rất quan tâm thực hiện, xem đó là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát

triển kinh tế-xã hội. Mục tiêu CNH, HĐH và công cuộc đổi mới đất nước chỉ

trở thành hiện thực khi chúng ta có được NLCN đủ mạnh, thật sự là động lực

mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững.

Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn đối với nước ta,

nhất là đối với một tỉnh như Bến Tre hiện nay. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên

cứu sâu hơn vấn đề này là rất cần thiết. Luận văn sẽ còn tiếp tục mở rộng

phạm vi nghiên cứu đề tài này.

Một số kiến nghị với tỉnh Bến Tre:

Thứ nhất, tỉnh nên giao cho một cơ quan cấp sở (như Sở Nội vụ) chịu

trách nhiệm tổ chức điều tra, đánh giá một cách khá đầy đủ, toàn diện về số

lượng và chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh, ít nhất 2 năm

một lần. Trên cơ sở đó, tham mưu cho tỉnh lập kế hoạch sử dụng, đào tạo và

đào tạo lại, nhằm khai thác tiềm năng nguồn nhân lực hiện có này một cách

có hiệu quả. Đồng thời có cơ chế, chính sách phù hợp nhằm “bảo toàn” nguồn

nhân lực quý giá này của tỉnh, ngăn chặn tình trạng “chảy chất xám” có nguy

cơ gia tăng do tác động của thị trường lao động và do điều kiện làm việc ở

tỉnh chưa được cải thiện.

113

Thứ hai, tỉnh nên giao cho một cơ quan cấp sở (như Sở Lao động-

Thương binh và Xã hội kết hợp với Sở GD-ĐT) chịu trách nhiệm điều tra rõ

thực trạng NLCN của tỉnh cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu để có kế

hoạch đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng có hiệu quả hơn tiềm năng to lớn nguồn

lao động dồi dào của tỉnh.

Thứ ba, xây dựng chương trình trên sóng phát thanh, truyền hình của

tỉnh về chủ trương, chính sách phát triển NLCN, nhất là chính sách phát triển

nguồn nhân lực chất lượng cao, cũng như những chính sách thu hút ưu đãi, trọng

dụng nhân tài mà tỉnh đang thực hiện. Qua đó, tuyên truyền và khuyến khích

người lao động tích cực học tập nâng cao trình độ và ra sức lao động cống hiến

vì sự nghiệp CNH, HĐH và phát triển bền vững của tỉnh Bến Tre.

114

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Khoa giáo Trung ương (2001), Triển khai Nghị quyết Đại hội IX

trong lĩnh vực khoa giáo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Báo Đồng Khởi (2005), số đặc biệt kỷ niệm 30 năm ngày miền Nam

hoàn toàn giải phóng (30/4/1975 – 30/4/2005).

3. Báo Đồng Khởi ngày 19-8-2005.

4. Hoàng Chí Bảo (1993), “Ảnh hưởng của văn hóa đối với việc phát huy

nguồn lực con người”, Tạp chí Triết học (1), tr.13-17.

5. Đặng Quốc Bảo-Nguyễn Đắc Hưng (2004), Giáo dục Việt Nam hướng tới

tương lai - vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Huỳnh Văn Be (2005), "Phát huy tinh thần Đồng khởi, Bến Tre đổi mới

công tác xây dựng Đảng để thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển", Tạp

chí Cộng sản, (7), tr.7-10.

7. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ Đại học và Sau đại học (2005), Báo cáo

tổng kết công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy năm

2004 và báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện đề án cải tiến tuyển sinh

đại học, cao đẳng, Hà Nội.

8. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Thực trạng lao động -

việc làm ở Việt Nam 2003, Nxb Thống kê.

9. Mai Quốc Chánh (chủ biên) (1999), Nâng cao chất lượng nguồn nhân

lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn (đồng chủ

biên) (2002), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam - lý luận

và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Cục Thống kê Bến Tre (2004), Niên giám thống kê 2003, Bến Tre.

12. Cục Thống kê Bến Tre (2004), Báo cáo khoa học: Tăng trưởng kinh tế và chỉ

số mức sống dân cư tỉnh Bến Tre giai đoạn 2000-2004, Bến Tre.

13. Cục Thống kê Bến Tre (2005), Niên giám thống kê 2004, Bến Tre.

115

14. Nguyễn Hữu Dũng (2003), Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt

Nam, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban

Chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban

Chấp hành Trung ương khóa VII (Lưu hành nội bộ), Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp

hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban

Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban

Chấp hành Trung ương khóa IX (Lưu hành nội bộ), Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội

22. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Bến Tre (1996), Văn kiện Đại

hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ VI.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam, Tỉnh ủy Bến Tre (2000), Văn kiện Đại hội đại

biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ VII.

24. Nguyễn Thị Như Hà (2005), "Đầu tư nước ngoài với việc phát triển và khai

thác nguồn nhân lực Việt Nam", Tạp chí Lý luận chính trị, (4), tr.80-

84.

25. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Phạm Minh Hạc, Hồ Sĩ Quý (chủ biên) (2002), Nghiên cứu con người -

đối tượng và những hướng chủ yếu, Niên giám số 1, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

116

27. Thẩm Vinh Hoa - Ngô Quốc Diệu (chủ biên)(1996), Tôn trọng trí thức,

tôn trọng nhân tài - kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước (Sách

tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

28. Nguyễn Đình Hoà (2004), “Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Triết học, (1), tr.14-

19.

29. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam

(1995), Từ điển bách khoa Việt Nam, quyển số 3, Trung tâm biên

soạn từ điển bách khoa Việt Nam, Hà Nội.

30. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn

khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình

Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Đoàn Văn Khái (1995), “Nguồn lực con người - yếu tố quyết định sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Triết học,

(4), tr.20-23.

32. Phan Văn Khải (1998), "Tăng cường sự hợp tác giữa các doanh nghiệp

với các nhà khoa học-công nghệ và các cơ quan Chính phủ để nâng

cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế", Báo Nhân dân,

(15538), tr.1-2.

33. Bùi Thị Ngọc Lan (2002), Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở

Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Bùi Thị Ngọc Lan (2004), Tư tưởng của V.I.Lênin về nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Kỷ yếu

đề tài khoa học “Tư tưởng của V.I. Lênin về kế thừa những thành tựu

của chủ nghĩa tư bản vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga

và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt

Nam”, Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học.

35. Bùi Thị Ngọc Lan (2004), “Vai trò của giáo dục và đào tạo trong việc

phát triển nguồn nhân lực vùng đồng bằng sông Hồng”, Tạp chí Lý

luận chính trị, (6), tr.84-88.

117

36. Bùi Thị Ngọc Lan (2005), “Phát triển làng nghề với giải quyết việc làm

cho nông dân vùng đồng bằng sông Hồng”, Thông tin Chủ nghĩa xã

hội – Lý luận và thực tiễn, (5), tr.32-35.

37. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

38. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

39. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

40. V.I. Lênin (1977), Toàn tập,Tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

41. Vũ Thị Phương Mai (2004), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Quảng Ninh

hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.

42. Đỗ Mười (1995), Trí thức Việt nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng

đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Thạch Phương - Đoàn Tứ (chủ biên) (2001), Địa chí Bến Tre, Nxb Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

44. Sở Giáo dục- Đào tạo Bến Tre (2004) Báo cáo khoa học: nghiên cứu

thực trạng giáo dục - tính chỉ số giáo dục tỉnh Bến Tre giai đoạn

2000- 2003, Bến Tre.

45. Sở Giáo dục- Đào tạo Bến Tre (2005) Báo cáo kết quả thực hiện Nghị

quyết Đại hội VII tỉnh Đảng bộ về giáo dục - đào tạo.

46. Sở Khoa học và Công nghệ Bến Tre (2005), Báo cáo tình hình hoạt

động khoa học và công nghệ giai đoạn 2001-2004 và kế hoạch hoạt

động giai đoạn 2006-2010, Bến Tre.

47. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Báo cáo tổng kết: Đề án

quy hoạch mạng lưới đào tạo nghề tỉnh Bến Tre đến năm 2010 và

tầm nhìn đến năm 2020, Bến Tre.

48. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Báo cáo Công tác Lao động-

Thương binh và Xã hội năm 2004 và định hướng công việc 2005.

118

49. Sở Nội vụ (2005), Báo cáo việc thực hiện chính sách trợ cấp đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức và thu hút cán bộ, công chức có trình

độ, năng lực tốt từ tháng 09/2001 đến 2004 (Thực hiện Quyết định

số 4051/ 2001/ QĐ-UB).

50. Sở Y tế Bến Tre (2004), Báo cáo khoa học: Tuổi thọ trung bình và chỉ số

tuổi thọ của người dân Bến Tre giai đoạn 2001-2003, Bến Tre

51. Thanh tra tỉnh Bến Tre (2005), Báo cáo tình hình tiếp dân, nhận đơn, thư

và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân (từ 1999 đến ngày 30-

12-2004).

52. Song Thành (2004), “Chiến lược nhân tài - một vấn đề cấp bách của Việt

Nam trên đường phát triển và hội nhập”, Tạp chí Lý luận chính trị,

(8), tr.67-71.

53. Tỉnh ủy Bến Tre (2002), Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết

số 15-NQ/TW (Hội nghị Trung ương 5 khóa IX) “Về đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ

2001-2010”.

54. Tỉnh ủy Bến Tre (2004), Kết luận Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 18 (khóa VII)

về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 03 của tỉnh uỷ (khóa VI) “Phát

triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bến Tre

1996- 2000- 2010”.

55. Tỉnh ủy Bến Tre (2005), Báo cáo Chính trị tại Đại hội tỉnh lần thứ VIII

(nhiệm kỳ 2006-2010) (Dự thảo 3).

56. Trần Văn Tùng, Lê Ai Lâm (1996), Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm

thế giới và thực tiễn nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

57. Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em tỉnh Bến Tre (2005), Báo cáo tổng

hợp đề tài nghiên cứu khoa học: Điều tra, đánh giá thực trạng chất

lượng dân số Bến Tre - Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng

dân số, Bến Tre.

58. Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre - Ban Chỉ đạo điều tra lao động việc làm

(2002), Thực trạng lao động - việc làm ở Bến Tre.

119

59. Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre - Ban Tổ chức Hội chợ việc làm - xuất

khẩu lao động (2003), Báo cáo kết quả Hội chợ việc làm - xuất

khẩu lao động năm 2003 tỉnh Bến Tre.

60. Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre (2004), Báo cáo Tình hình thực hiện Nghị

quyết Hội đồng nhân dân tỉnh về phát triển kinh tế-xã hội năm 2004

và phương hướng, nhiệm vụ năm 2005.

61. Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre (2005), Báo cáo tổng kết Chương trình

nâng cao chất lượng giáo dục- đào tạo, dạy nghề - giải quyết việc

làm và chăm sóc sức khỏe nhân dân giai đoạn 2001-2005.

62. Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục - Trung tâm nghiên cứu phát triển

nguồn nhân lực (2002), Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính

sách phát triển nguồn nhân lực, Nxb Giáo dục.

63. Viện Ngôn ngữ học (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

64. Huỳnh Thị Nguyệt Yến (2004), "Những kinh nghiệm trong lãnh chỉ đạo

công tác xây dựng Hội và phong trào thi đua năm 2004", Bản tin

Nông dân Bến Tre, (4), tr.4-5.