TÌM HIỂU MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIÁO

DỤC DẠO ĐỨC VÀ SỰ TIẾN BỘ VỀ ĐẠO

ĐỨC CỦA TRẺ TRONG MÔ HÌNH S.O.S

GÒ VẤP

GIÁO VIỀN HƯỚNG DẪN: NGÔ ĐÌNH QUA

SINH VIÊN THÚC HIỆN : HOÀNG MỸ NGA

NIÊN KHÓA : 1990 - 1994

Đạo đức là cái gốc của nhân cách, là bộ mặt của nhân cách.

NGUYỄN AN

The study of the inner spiritual world of children especially their thoughts, is ơne

ofthe most important tasks ofthe teacher andýor the overall success ofthe educational

process.

VASILY SUKHOMLINSKY

LỜI CẢM ƠN

Xin chân thành biết ơn Thầy NGÔ ĐÌNH QUA.

Thầy đã luôn nhiệt tình, tận tâm hướng dẫn chúng tôi thực hiện đề tài này.

Xin chân thành cảm ơn Thầy NGUYỄN AN Trưởng khoa - Thầy LÝ MINH

TIÊN Cán bộ giảng dạy khoa TLGD, Qúy thầy đã cung cấp, giúp đỡ cho chúng tôi

những kiến thức cơ bản, tài liệu để làm cơ sở cho phương pháp nghiên cứa đề tài này.

Xin cám ơn Ban chủ nhiệm & Qúy Thầy Cô trong khoa TLGD đã cung cấp tài

liệu và tạo mọi điều kiện cho việc nghiên cứu đề tài này.

Đồng thời, Xin gởi lời cám ơn đến Ban Giám Đốc, Chuyên viên giáo dục và toàn

thể Giáo viên, Mẹ,- Học sinh ở làng SOS và Trường Cửu Long 2 đã giúp chúng Tôi

thu thập số liệu cho Đề tài.

Cám ơn các Bạn đã nhiệt tình giúp đỡ chúng Tôi trong qúa trình thu số liệu và

hoàn chỉnh Đề tài.

MỤC LỤC

0TLỜI CẢM ƠN0T ...................................................................................................... 4

0TMỤC LỤC0T ............................................................................................................ 5

0TPHẦN MỞ ĐẦU0T .................................................................................................. 7

0T1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI0T ..................................................................................................... 7

0T2.NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU VÀ CÁC GIẢ THUYẾT :0T ................................................... 8

0T2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu.0T ............................................................................................... 8

0T2.2. Giả thuyết:0T ................................................................................................................. 9

0T3. THỀ THỨC VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU :0T ................................................................ 10

0T3.1.Mẫu nghiên cứu :0T ...................................................................................................... 10

0T3.2.Dụng cụ nghiên cứu :0T ............................................................................................... 10

0T3.3. Phạm vi nghiên cứu :0T ............................................................................................... 11

0T4. Phương pháp nghiên cứu :0T ............................................................................................... 11

0T4.1.Phương pháp quan sát :0T ............................................................................................ 11

0T4.2.Phương pháp phởng vấn :0T ......................................................................................... 12

0T4.3.Phương pháp điều tra thử:0T ........................................................................................ 12

0T4.4.Các phương pháp xử lý số liệu :0T ............................................................................... 12

0T5. Thời gian làm việc :0T ........................................................................................................ 12

0TPHẦN 1: LÝ THUYẾT VÀ ĐỀ TÀI0T ............................................................... 13

0TI). Khái niệm về hành vi đạo đức :0T ...................................................................................... 13

0TII. NGUYÊN NHÂN:0T .......................................................................................................... 14

0TIII. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC :0T ................................................. 16

0TIV) MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC THEO MÔ

HÌNH GIA ĐÌNH SOS GÒ VẤP.0T ....................................................................................... 17

0TChương 1: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH Ý KIẾN GIÁO VIÊN0T ....................... 20

0T1.1. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ LỰA CHỌN PHƯƠNG PHÁP GIÁO

DỤC ĐẠO ĐỨC CỦA GIÁO VIÊN:0T ................................................................................. 20

0T1.2.ĐÁNH GIÁ CHỦ QUAN CỦA GIÁO VIÊN VỀ HIỆN TRẠNG ĐẠO ĐỨC CỦA

TRẺ0T ..................................................................................................................................... 23

0T1.32. NHẬN XÉT CHUNG VỀ VIỆC PHÂN TÍCH Ý KIẾN GIÁO VIÊN.0T .................... 29

0TChương 2: PHÂN TÍCH KẾT QUẢ THU ĐƯỢC TỪ HỌC SINH0T............. 31

0TKẾT QUẢ THU ĐƯỢC TỪ PHIẾU THĂM DÒ HỌC SINH BÌNH

THƯỜNG0T ........................................................................................................... 42

0TNHẬN XÉT CHUNG0T ........................................................................................ 45

0TPhần III : KẾT LUẬN TỔNG QUÁT0T ............................................................ 46

0T1. Về phía giáo viên :0T .......................................................................................................... 46

0T2. Về phía học sinh:0T ............................................................................................................. 48

0T3. Đối chiếu kết qủa - giả thuyết - mục tiêu0T ........................................................................ 50

0TPHẦN IV: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ0T ................................................................... 52

0TTÀI LIỆU THAM KHẢO0T ................................................................................ 53

0TPHỤ LỤC0T ........................................................................................................... 54

PHẦN MỞ ĐẦU

1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Đạo đức_ đó là vấn đề luôn luôn được đề cập đến trong mọi thời đại. Tuy quan

niệm đạo đức mỗi thời không giống nhau, nhưng với người Việt Nam "'nhân, nghĩa,

lễ, trí, tín", "tôn sư trọng đạo" là nền tảng đạo đức trong bất kỳ thời đại nào. Thế

nhưng trong những năm gần đây, tình trạng sa sút của thanh thiếu niên diễn ra rất

đáng ngại. Hình như các em đã đánh mất cái nhân, lễ, nghĩa mà từ lâu đã ăn sâu vào

mỗi con người Việt Nam. Các tệ nạn lập băng nhóm quậy phá...Ở tuổi mới lớn bắt đầu

hình thành và gia tăng một cách đáng kể, đó là chưa kể đến một số trường hợp học

sinh đánh thầy cô giáo. Nhiều bài báo đã lên tiếng báo động về tình trạng, chẳng hạn

như "trẻ hư, trẻ phạm pháp - nhìn nhận phân loại theo quan điểm giáo dục"_ tạp chí

nghiên cứa giáo dục 6/92 hoặc "suy nghĩ từ thực tế áo trắng trở thành tội phạm" _báo

công an.

Vậy thì nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do đâu ? Dĩ nhiên không loại trừ

những tác động bên ngoài xã hội. Nhưng điều qua trọng hơn cả mà chúng ta đã xem

nhẹ vai trò của gia đình và nhà trường trong công tác giáo dục đạo đức. Đặc biệt là

việc lựa chọn các phương pháp giáo dục đạo đức phù hợp với trẻ. Có thể cuộc sống tất

bật đã làm chúng ta quên đi rằng đối với mỗi đứa trẻ, mỗi lứa tuổi cần có những

phương pháp giáo dục khác nhau. Đó là đối với trẻ bình thường có cha, có mẹ. Vậy thì

đối với trẻ mồ côi những đứa trẻ bất hạnh thiếu một chỗ dựa, một nơi giáo dục đạo

đức tốt nhất là gia đình liệu tình trạng sa sút đạo đức nói chung của thanh thiếu niên

có ảnh hưởng đáng ngại hơn chăng? Và chúng ta đã có những phương pháp gì để giáo

dục đạo đức cho các em?

Tại thành phố HCM, ngoài hai cô nhi viện là trường Mầm Non 2 và Mầm Non 4

ra còn có mô hình nuôi dạy trẻ theo hình thức gia đình:SOS Gò Vấp và PICASO Thủ

Đức. Vậy khi tiếp nhận những "đứa con " của mình, các bà mẹ sẽ áp dụng những

phương pháp giáo dục đạo đức gì đối với trẻ, và nhận thức của trẻ đối với một số vấn

đề về đạo đức ra sao ?

Trên cơ sở lý giải những câu hỏi trên, người nghiên cứu chọn đề tài "Tìm hiểu

một số phương pháp giáo dục đạo đức cho trẻ và sự tiến bộ về đạo đức của trẻ trong

mô hình SOS Gò Vấp."

Trong phạm vi trình bày đề tài, có nhiều chi tiết đề cập đến khái niệm Làng &

Mẹ. Vậy 2 khái niệm đó được hiểu như thế nào ?.

Ở Thành phố HCM hiện nay có nhiều trung tâm nuôi dạy trẻ mồ côi trong đó

quy mô nhất phải kể đến 4 trung tâm : Mầm Non 2. Mầm Non 4. SOS và PICASSO,

SOS & PICASSO là hai trung tâm nuôi trẻ không theo hình thức cô nhi viện mà được

tiến hành nuôi dạy trẻ theo mô hình gia đình. Trong mỗi gia đình có một bà Mẹ, có

nhiệm vụ nuôi dạy và chăm sóc những đứa trẻ trong gia đình. Ở đó trẻ sinh hoạt hoàn

toàn giống 1 gia đình bình thường và chịu sự quản lý trực tiếp của bà Mẹ.

Nhiều gia đình như thế tập trung lại thành một làng. Lãnh đạo cao nhất là Ban

Giám Đốc Làng, ngoài ra còn có một số chuyên viên giáo dục, tâm lý, 1 số bà mẹ,

giáo viên dạy văn hóa.

Trong làng SOS hiện nay, ngoài BGĐ làng, còn có 1 chuyên viên giáo dục. 30

bà mẹ, 15 bà dì là giáo viên (dì là những người sẽ trực tiếp thay thế Mẹ khi Mẹ đi

vắng), cùng với 194 học sinh đủ mọi lứa tuổi.

2.NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU VÀ CÁC GIẢ THUYẾT :

2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu.

Trong giới hạn của phạm vi nghiên cứu. Đề tài này hướng tới giải quyết các

nhiệm vụ chính sau :

1. Tìm hiểu một số phương pháp giáo dục đạo đức đã được áp dụng đối với trẻ

mồ côi của các bà mẹ.

2.Tìm hiểu về hiện trạng đạo đức của một số trẻ đã vào làng 4 năm (10 - 12

tuổi).

3.So sánh nhận thức đạo đức của một nhóm trẻ mới vào làng với nhóm trẻ đã ở

làng được 4-5 năm

4.So sánh nhận thức đạo đức của trẻ được giáo dục 4-5 năm ở làng với nhóm trẻ

cùng lứa tuổi ở trường phổ thông bình thường.

2.2. Giả thuyết:

Hiện nay, vần đề đạo đức không còn là một vấn đề xa lạ đối với mỗi chúng ta

nữa. Nhưng giáo dục đạo đức cho trẻ như thế nào và bằng phương pháp gì, không một

ai trong chúng ta có thể khẳng định một cách chắn rằng : năm nay tôi sử dụng phương

pháp a hay b nào đó và thấy rằng có kết quả ngay.

Đặc biệt là đối với trẻ mồ côi. Chỉ cần 1 cú sốc tâm lý khá nặng trong cuộc sống

cũng đủ để làm đảo lộn tất cả cách sống, cách nhìn, hay nói cách khác đảo lộn thế giới

an của trẻ, Và mỗi người là một thế giới, không có ai giống ai. Nhưng nhìn chung thì

trong cùng 1 lứa tuổi, trẻ cùng có 2 điểm tâm lý chung nhất.

Từ những căn cứ nêu ưên. người nghiên cứu đưa ra một số giả thuyết nghiên cứu

sau :

Giả thuyết :

1. Dựa vào đặc điểm tâm lý nổi bật nhất của trẻ mồ côi là thiếu cha mẹ, thiếu

tình thương của gia đình nên phương pháp giáo dục đạo đức thường được các giáo

viên SOS sử dụng là giáo dục bằng tình cảm.

2. Trẻ sau một thời gian ở làng khoảng 4-5 năm, được giáo dục bằng các phương

pháp phù hợp được sống trong tình thương của mẹ, anh chị em, nên đã có nhiều biểu

hiện tích cực trong nhận thức một số loại chuẩn mực đạo đức của học sinh.

3.Trẻ mới dược tiếp nhận vào làng so với trẻ sau 4-5 năm sống ở làng có sự

khác biệt nhau về đạo đức tích cực và nhận thức tiêu cực về một số loại chuẩn mực

đạo đức của học sinh.

4.Trẻ mồ côi sau một thời gian được sống trong sự đùm bọc của gia đình của

làng tuy không thế sánh được với tình thương ruột thịt nhưng sự nhận thức của các em

so với trẻ bình thường về một số loại chuẩn mực đạo đức của người học sinh là không

có sự khác biệt cơ bản.

3. THỀ THỨC VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU :

3.1.Mẫu nghiên cứu :

a. Chọn địa điểm :

Làng thiếu niên SOS Gò Vấp.

b. Chọn đối tượng nghiên cứu :

- Giáo viên: Là đối tượng chính của đề tài. Các thức chọn mẫu bao gồm các bà

mẹ, dì và chuyên viên giáo dục của làng SOS.

- Học sinh :

. Chọn 60 học sinh của làng đã vào được 4 năm, độ tuổi từ 10 – 12

. 20 học sinh mới bắt đầu vào làng cuối năm 93. đầu 94.

. 60 học sinh phổ thông của 2 lớp 6 trường PTCS Cửu Long 2. Quận Bình

Thạnh.

3.2.Dụng cụ nghiên cứu :

Dụng cụ nghiên cứu sử dụng trong đề tài này là bảng thăm đò nhận thức đạo đức

của học sinh và câu hỏi dành cho giáo viên.

a. Phương pháp lập bảng thăm dò :

Việc xây dựng bảng thăm dò được thực hiện qua 2 giai đoạn :

* Giai đoạn thăm dò thử:

Được tiến hành bằng cách phởng vấn các bà mẹ bằng 3 câu hỏi chung.

* Soạn bảng thăm dò chính thức :

Dựa vào hệ thống 30 bài phởng vấn để xây dựng nên bảng thăm dò chính thức

đối với học sinh (18 câu) và 5 câu hỏi mở giành cho giáo viên.

b. Mô tả :

* Bảng thăm dò các vấn để đặc điểm của học sinh được chia làm 3 phần chính :

• Phần 1: Hiểu biết của học sinh về một số hành vi đặc điểm. Phần này bao gồm :

sự trung thực, lòng nhân ái, các hành động quậy phá, nhân nghĩa lễ tín.

• Phần 2: Hiểu biết của học sinh về một số hành vi đạo đức. Phần này bao gồm :

sự trung thực, lòng nhân ái, các hành động quậy phá, nhân, nghĩa, lễ, tín.

• Phần 3 : Là câu hỏi mở về nhận định chung thế nào là một người có đạo đức.

* Câu hỏi dành cho giáo viên gồm 5 câu được chia ra làm 3 phần.

• Phần 1 : (câu 1 và 2) là 2 câu hỏi nhằm tìm hiểu xem các phương pháp giáo dục

đặc điểm được lựa chọn dựa vào những căn cứ nào.

• Phần 2 : Tìm hiểu các phương pháp giáo dục đặc điếm đà áp dụng ở làng SOS.

• Phần 3: Tìm hiểu nhận định chủ quan của giáo viên và kết qủa của việc áp

dụng các phương pháp trên.

c. Đối vói những phiếu bất hợp lệ :

• Với bảng thăm do của học sinh bở 2 câu bất cứ phần nào là bất hợp lệ.

• Với câu hỏi của giáo viên, không ưa lời câu nào là bất hợp lệ.

3.3. Phạm vi nghiên cứu :

Đề tài này nhằm tìm hiểu một số phương pháp giáo dục đạo đức và thực trạng

tiến bộ đạo đức ở làng trẻ mồ côi SOS hơn là đưa ra những phương pháp mới.

Đây là một đề tài về phương pháp giáo dục đặc điểm, cho nên vấn đề về tâm lý

trẻ mồ côi, tạm thời đề tài chưa hoặc ít đề cập đến.

Mặt khác do điều kiện khách quan. đây là một vấn đề chưa được đề cập đến

nhiều trong các đề tài nghiên cứu khoa học hiện có ở TP. Hồ Chí Minh nên ảnh hưởng

không ít đến việc thực hiện nghiên cứu. Do đó đề tài không thể tránh khỏi những vấp

váp và thiếu sót.

4. Phương pháp nghiên cứu :

4.1.Phương pháp quan sát :

Quan sát trực tiếp sinh hoạt 1 ngày của trẻ và mẹ.

4.2.Phương pháp phởng vấn :

Phởng vấn trực tiếp 20 bà mẹ và một chuyên viên giáo dục. 1 Giám Đốc của

SOS. Nội dung phởng vấn chủ yếu dựa vào 3 câu hỏi mở cho giai đoạn thăm dò thử.

4.3.Phương pháp điều tra thử:

Bao gồm một bảng thăm dò và một bảng câu hỏi ( đã mô tả ở ưên ).

4.4.Các phương pháp xử lý số liệu :

- Phân tích nội dung.

2 - Kiểm nghiệm chi bình phương (xP

P)

- Kiểm nghiệm Z, so sánh 2 số tỷ lệ.

5. Thời gian làm việc :

1.1.94-31.1 -> Viết đề cương.

1.2.94 - 28.2 -> Thực tế và lập bảng thăm dò.

1.3- 31.3 -> Đọc tài liệu.

1.4- 10.5 -> Tổng hợp và viết luận văn.

PHẦN 1: LÝ THUYẾT VÀ ĐỀ TÀI

I). Khái niệm về hành vi đạo đức :

Là thái độ, phương thức ứng xử của cá nhân được thể hiện qua các quan hệ xã

hội được tạo bởi 2 thành phần cơ bản sau :

1/ Mặt bên trong : gồm

• - Tri thức đạo đức: là hiểu biết của cá nhân vê những chuẩn mực và nguyên tắc

đặc điểm xã hội.

• Tình cảm đạo đức : là thái độ biểu hiện sự rung cảm của cá nhân trong việc

đánh giá các quan hệ theo 2 chuẩn mực và nguyên tắc nhất định.

• Niềm tin đạo đức : là sự tin tưởng một cách sâu sắc và vững chắc của con

người về tính chính nghĩa, tính chân lý của các chuẩn mực đạo đức.

2/Mặt bên ngoài : gồm

• Kỹ năng và hành vi đạo đức : là mức độ thực hiện khéo léo, thành thục những

hành vi đạo đức.

• Thói quen đạo đức: là những hành động tự động hóa nhất định ở con người, đã

trở thành nếp sống và nhu cầu của con người.

* Hai mặt bên trong và bên ngoài của hành vi đạo đạo đức có liên hệ mật thiết

với nhau. Mặt bên ngoài chuyển hóa thành mặt bên trong đồng thời mặt bên trong sẽ

chỉ đạo, định hướng mặt bên ngoài.

Trong giới hạn đề tài nghiên cứu này ( chỉ tìm hiểu một số nhận thức và hành vi

đạo đức của trẻ mới vào làng và trẻ được giáo dục 4-5 năm ) nên người nghiên cứu chỉ

tìm hiểu một số mặt biểu hiện cụ thể sau :

a. Nhận thức về Thái độ đối vối người lớn :

• Lễ phép trong việc thưa gửi, chào hỏi đối với thầy cô giáo hoặc người lớn.

• Không cãi lại cha mẹ, thầy cô và người lớn.

- Thái độ đối với bạn bè: tôn trọng, giúp đỡ bạn khi cần thiết.

- Thái độ đối với người già: tôn trọng, giúp đỡ người già cả.

b. Nhận thức về thái độ hành vi đối với kỷ luật nhà trường:

• Bảo vệ tài sản nhà trường, của làng.

• Chấp hành nội quy sinh hoạt của nhà trường (giờ giấc, quần áo).

• Thái độ học tập.

c Một số phẩm chất nhân cách :

Sự không trung thực trong học tập trong sinh hoạt, lười biếng suy nghĩ...

d. Một số hành vi đạo đức xấu :

Trộm cắp, quậy phá, chửi thề, nói tục...

II. NGUYÊN NHÂN:

Để dẫn tới việc hình thành và biểu hiện hành vi đạo đức, có rất nhiều nguyên

nhân. Trong hạn chế đề tài, có thể phân loại nguyên nhân như sau :

• Nguyên nhân từ nhà trường

• Nguyên nhân từ gia đình

• Nguyên nhân từ xã hội

• Nguyên nhân từ tâm lý của bản thân học sinh

1. Nguyên nhân từ nhà trường :

Trường học là môi trường chung để giáo dục cho các em theo yêu cầu xã hội,

đáp ứng những mục tiêu của xã hội, cụ thể là trong nhà trường, việc giáo dục đạo đức

giúp các em định hướng giá trị các chuẩn mực, hành vi đạo đức, đồng thời tổ chức rèn

luyện các hành vi đạo đức trong quá trình hoạt động của trẻ.

Trường lớp và môi trường gồm những tổ chức tập thể, có những sinh hoạt chung

phù hợp với lứa tuổi học sinh. Thông qua những sinh hoạt chung của tập thể, trẻ sẽ

được giáo dục về nhận thức, thái độ hành vi cư xử với người xung quanh. Nhưng nếu

lớp học hay đoàn thể không thởa mãn được những nhu cầu, mong ước của mình thì

học sinh sẽ dễ bị ảnh hưởng bởi những nhóm người ngoài nhà trường, hoặc hình thành

những băng nhóm tự phát.

Một tập thể có những nguyên tắc đạo đức tốt đẹp, có dư luận lành mạnh thì sẽ

trở thành môi trường thuận lợi cho sự phát triển nhân cách của trẻ nói chung và hành

vi đạo đức của trẻ nói riêng. Ngược lại, một tập thể rời rạc, hoạt động nghèo nàn có

thể ảnh hưởng xấu đến quá trình hình thành và phát triển nhận thức cùng hành vi đạo

đức của trẻ, ví dụ trẻ có thể từ bở tập thể để gia nhập những nhóm trẻ lêu lởng...

2)Nguyên nhân từ gia đình :

Gia đình là một tế bào của xã hội, là môi trường xã hội đầu tiên, giữ vai trò quan

trọng trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ. Do thời gian tiếp xúc và gần gũi với trẻ rất

lớn nên gia đình là một tổ chức giáo dục không những mang tính chất tự nhiên, tự

phát mà gia đình còn là một tổ chức giáo dục mang tính chất định hướng, có ý thức,

có hệ thống trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ, đặc biệt là cách xử sự

trong các hành vi đạo đức, lôi sống, thói quen.... Nếu gia đình thường xuyên quan tâm

đến giáo dục con cái thì trẻ sẽ có một nhân cách phát triển tốt. Ngược lại, nêu cha mẹ

thường xuyên cam đoán các mối quan hệ, không tôn trọng... sẽ gây cho trẻ những tư

tưởng chống đối, bất hòa.

Nói chung, gia đình là một môi trường giáo dục có một sức mạnh đặc biệt trong

việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.

3)Nguyên nhân từ xã hội:

Mỗi người trong chúng ta đều sống trong một cộng đồng nhất định. Để có thể

tồn tại và phát triển trong cộng đồng xã hội đó, con người phải lĩnh hội những kinh

nghiệm của xã hội bằng sự hoạt động và giao lưu của chính mình. Do đó tất cả những

hiện tượng tiêu cực, tích cực, những khó khăn, thuận lợi trong kính tế cũng đều có ảnh

hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.

4)Nguyên nhân xuất phát từ tâm lý học sinh:

Ở lứa tuổi thanh thiếu niên, do đặc điểm phát triển tâm sinh lý, do những ảnh

hưởng của xã hội, học sinh bắt đầu có nhữũg nhu cầu về quan hệ bình đẳng với người

lớn. muốn mọi người không coi mình là trẻ con, muốn có sự độc lạp trong hành vi,

tình cảm, đạo đức,... Do đó nếu trẻ được gia đình, nhà trường, xã hội quan tâm đúng

mức, tông trọng và yêu cầu cao, có những phương pháp giáo dục thích hợp với đặc

điểm tâm lý, lứa tuổi.... thì sẽ hình thàiih được nhận thức và hành vi đạo đức tích cực

ở trẻ.

III. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC :

Xuất phát từ những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát

triển nhận thức của trẻ, từ đặc điểm của một số hành vỉ đạo đức, các nhà giáo dục đã

đưa ra một số phương pháp giáo dục đạo đức sau :

1)Các phương pháp xây đựng ý thức nhân cách:

Các phương pháp này nhằm làm cho học sinh tiếp thu một cách có hệ thống

những tri thức, những chuẩn mực hành vi của con người đối với xã hội. Cụ thể các

phương pháp :

- Thông qua nội dung bài học. Qua nội dung này, có thể tổ chức đàm thoại giữa

nhà giáo đục và học sinh về những vấn đề thuộc phạm trừ đạo đức. Có thể truyền đạt

đến học sinh một quan niệm về hành vi đạo đức.

- Thông qua các hoạt động ngoại khóa khác ( tham quan, những tác phẩm nghệ

thuật).

2)Các phương pháp tổ chức hoạt động và kinh nghiệm hình thành các hành vi

đạo đức:

Nhằm giúp cho học sinh thông qua những hoạt động như lao động, văn hóa, các

hoạt động giao tiếp... để thu thập những kinh nghiệm thực tiễn cho bản thân kinh

nghiệm ứng xử, những chuẩn mực cần có.

3)Các phương pháp kích thích khác:

Nhằm tạo ra những tiền đề tâm lý thuận lợi cho việc hình thành và phát triển

nhân cách ở học sinh. Các phương pháp này bao gồm :

- Yêu cầu:

Là phương pháp mà nhà giáo dục đòi hỏi học sinh phải thực hiện những điều mà

nhà giáo dục cho rằng học sinh phải đáp ứng. Yêu cầu phải đúng lúc, đúng chỗ, phải

hệ thống liên tục, phải vừa sức.

- Nêu gương:

Dựa vào khuynh hướng bắt chước ở con người, phương pháp này có tác dụng rất

lớn trong việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.

-Khen thưởng

- Trách phạt.

Trong quá trình giáo dục, giáo dục đạo đức có tầm quan trọng đặc biệt “Đạo đức

là cái gốc của nhân cách, là bộ mặt của nhân cách”. (llgd_Nguyễn An)_ Do đó trong

quá trình giáo đục, giáo dục đạo đức như sự chỉ đở xuyên suốt tất cả các mặt giáo dục

khác. Chính vì thế, việc vận dụng một cách đứng đắn, linh hoạt các phương pháp giáo

dục đạo đức để hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ là một việc làm đầy sáng

tạo không thể thiếu được trong quá trình giáo dục. Đặc biệt là đối với nhiều trẻ bị mất

mát khá lớn -> trẻ mồ côi.

IV) MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC

THEO MÔ HÌNH GIA ĐÌNH SOS GÒ VẤP.

1) Đặc điểm trẻ được giáo dục ở gia đình SOS:

- Trẻ trong gia đình SOS đã ít nhất một lần chịu đựng sự thương tổn tinh thần.

Dấu ấn khủng khiếp ấy kéo dài và rất khó phai nhạt các em thiếu vắng cha mẹ đẻ anh

chị em ruột, bà con thân thích... Điều đó có ảnh hưởng mạnh đến đời sống tâm lý của

trẻ. Nó dễ làm cho trẻ phát sinh những biểu hiện của trạng thái tâm lý bất thường, tình

cảm phức tạp của trẻ.

- Ở trẻ luôn có một sự thèm khát về sự hiện hữu của bố mẹ _ điều mà trẻ bình

thường không bao giờ thèm khát. Cót lõi sự đòi hỏi đó không phải lúc nào cũng là

người cha, người mẹ bằng xương bằng thịt mà cái chính đó là sự nâng niu, bảo bọc

với vô vàn tình thương yêu của đấng sinh thành. Để cân bằng sự thiếu vắng ấy, trẻ

thường ao ước tưởng tượng với những hình ảnh đẹp, tràn đầy. Do đó khi được bà mẹ

SOS tiếp nhận, trẻ thường có dự so sánh giữa hình ảnh trong tưởng tượng với thực tế.

- Trẻ mồ côi thường có đời sống nội tâm phát triển sớm và tinh tế hơn trẻ bình

thường. Trẻ nhạy cảm và có một bản năng tự vệ cao. Trẻ khá khó tính và dễ sinh ra

các biệt.

- Trẻ trước khi trở thành con người của SOS, đã chịu ảnh hưởng của nhiều

nguồn giáo dục không thuần khiết.

- Ở làng SOS, ngoài những nhu cầu đầy đủ về vật chất, trẻ thường dè dặt, kín

U 2) Một số phương pháp giáo dục đạo đức đối với con cái của bà mẹ gia đình

đáo trong việc lựa chọn người để bộc lộ, chia sẽ những nhu cầu, tinh thần của mình.

SOS:

Phương pháp gia đình đạo đức đối với con cái trong gia đình là cách thức tiến

hành quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có tổ chức của người mẹ nhằm bồi

dưỡng những phẩm chất đạo đức, những tri thức đạo đức cần thiết để con cái bước

vào cuộc sống xã hội. Đó là một công việc tinh tế thường xuyên, công phu, kiên trì.

tránh nôn nóng hay áp đặt cưỡng bức.

Bao gồm một số phương pháp riêng, cụ thể sau :

a. Làm gương, xây dựng điển hình và nhân điển hình:

Từ đức độ và tác phong sinh hoạt hàng ngày, bà mẹ phải nêu gương cho con cái

noi theo. Con cái là tâm gương phản chiếu trực tiếp, đều đủ hình ảnh giáo dục của bà

mẹ.

Đồng thời người mẹ cũng khéo chọn những người con có nhiều ưu điểm để bồi

dưỡng và xây dựng những điển hình tốt, hướng dẫn các con noi theo gương tốt. Giáo

dục đạo đức bằng cách noi gương như vậy có sức thuyết phục rất lớn đối với con cái.

b. Giáo dục bằng tình cảm :

Trẻ con sống chủ yếu bằng tình cảm, đễ bắt chước và cũng dễ sai lầm. Đặt biệt là

trẻ mồ côi rất khao khát về tình cảm. Người mẹ dựa vào đặt trưng ấy để dạy dỗ và uốn

nắn con. Giáo dục con bằng phương pháp này đòi hỏi ở người mẹ nhiều hy sinh, khổ

cực. Nhưng với phương pháp này, người mẹ sẽ gần gũi các con hơn, chăm sóc ân

cần... để khắc sâu những ấn tượng tình cảm tốt trong trẻ. Đây là một phương pháp

giáo dục đạo đức cho trẻ có hiệu qủa cao nhất.

c Giáo dục bằng giải thích, định hướng :

Trong vấn đề giáo dục đạo đức cho trẻ, phương pháp giáo dục bằng cách giải

thích cho trẻ là điều cần thiết. Thông qua giải thích, trẻ sẽ biết cái gì nên và không nên

làm, biết được tại sao nên và không nên. Trong giải thích không có yếu tố ép buộc, mà

hoàn toàn chỉ là sự giúp đỡ trẻ phân tích hành vi mà thôi. Kèm theo sự giải thích là

định hướng cho trẻ những hành vi, thái độ đúng đắng trong sinh hoạt hàng ngày.

d. Kìm cặp, luyện tập và tổ chức các hoạt động :

Thông qua các tổ chức sinh hoạt và hoạt động, người mẹ luôn phải kìm cặp, uốn

nắn cái xấu, biểu dương sự thành công, cái tốt trong hành vi đạo đức hàng ngày của

trẻ. Mẹ cần chú ý đến việc kết bạn chọn bạn của con cái.Ngoài ra, hình thành sức

trách phạt nhẹ nhàng, có giải thích uốn nắn rất cần thiết trong công tác giáo dục đạo

đức cho trẻ SOS.

* Nhìn chung, các phương pháp giáo dục trên chỉ là một tập hợp lý thuyết khái

quát. Nhưng nếu chỉ nắm các phương pháp giáo dục đạo đức ấy thôi chưa đủ. Mà còn

phải biết áp dụng vào thực tiễn một cách linh hoạt, khéo léo mới đem lại kết quả khả

quan.

PHẦN II: PHÂN TÍCH KẾT QUẢ

Chương 1: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH Ý KIẾN GIÁO VIÊN

Nhằm tìm hiểu một số phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh và sự đánh

giá chủ quan của giáo viên về hiện trạng đạo đức của trẻ trước và sau 4, 5 năm được

áp dụng các phương pháp đạo đức của làng nên các mục tiêu được xác định qua các

câu hỏi sau :

Theo ý kiến giáo viên :

1)Sự lựa chọn phương pháp bị ảnh hưởng của các yếu tố nào.

2)Các phương pháp giáo dục đạo đức thường sử dụng.

3)Đánh giá chủ quan của giáo viên về thực trạng đạo đức của trẻ lác mới nhận

vào làng.

4)Đánh giá chủ quan của giáo viên về thực trạng của trẻ sau khi được áp đụng

các phương pháp đạo đức 4 -> 5 năm.

Việc thu thập ý kiến giáo viên được dựa vào một phần trên phiếu điều tra sau khi

thăm dò thử bằng phương pháp phởng vấn do người nghiên cứu phát và thu trực tiếp

từ tay giáo viên, không thông qua ban giám đốc làng.

Việc xử lý dữ kiện được thực hiện bằng phương pháp phân tích nội dung, có sử

dụng một số thống kê. Phiếu điều tra được gửi đến tay 50 bà mẹ + dì + giáo viên trong

làng, số phiếu thu được 45.

Kết quả cụ thể :

1.1. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ LỰA CHỌN PHƯƠNG

PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CỦA GIÁO VIÊN:

Dựa trên cơ sở lý thuyết, tất cả các phương pháp giáo dục, kể cả phương pháp

giáo dục đạo đức đều phải dựa trên một số yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián

tiếp đến khả năng tiếp thu của trẻ, việc lựa chọn phương pháp giáo dục đạo đức của

các giáo viên làng SOS cũng không nằm ngoài quy luật đó.

Sau đây là những yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn phương pháp giáo dục đạo

đức của giáo viên.

* Bảng 1 :

Phân tích các yếu tố có ảnh hưởng đến sự lựa chọn phương pháp giáo dục đạo

đức.

* Tỷ lệ được tính dựa vào số trả lời cho mỗi phương pháp (45).

Gia đình và nhà trường ở đây chính là nhà trường hiện nay của trẻ làng SOS.

□ Phân tích bảng 1a :

Có sự khác biệt ở mức α=01 trong những đề ảnh hưởng của một số yếu tố đến sự

chọn phương pháp giáo dục đạo đức trong đó yếu tố tâm lý H được coi là cơ bản ảnh

hưởng đến sự lựa chọn phương pháp giáo dục đạo đức của giáo viên ( 100% ).

Theo bảng 1, số giáo viên lựa chọn phương pháp giáo dục đạo đức chịu sự chi

phối của nhà trường là 55,5%, cao hơn ảnh hưởng của gia đình đối với sự lựa chọn

(44,4%). Sự ảnh hưởng của xã hội đối với việc lựa chọn phương pháp giáo dục đạo

đức của G là chiếm tỷ lệ thấp nhất (26.6%) trong khi đó 100% giáo viên đều phải lựa

chọn của mình dựa trên đạo đức tâm lý của bản thân học sinh .

lb. Phân tích yếu tố quan ương nhất ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương pháp.

Theo bảng lb, theo nhận định chủ quan của đa số giáo viên thì tâm lý học sinh là

yếu tố quan trọng nhất quyết định đến việc lựa chọn phương pháp của họ (42,2%),

trong khi đó yếu tố ảnh hưởng của xã hội không được coi là yếu tố quyết định trong

việc lựa chọn (9%), Yếu tố gia đình cũng là 1 yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn

2 Dùng kiểm nghiệm xP

P, dễ thấy rằng có sự khác biệt ý nghĩa mức α = αR1R trong sự

phương pháp giáo dục đạo đức của giáo viên (33,3%).

lựa chọn phương pháp giáo dục đạo đức của giáo viên phụ thuộc vào yếu tố quan

trọng nhất trong 4 yếu tố kể trên .

lcCác phương pháp giáo dục đạo đức thường sử dụng:

□ Phân tích lc:

Theo kết quả trên bảng lc, ta dễ nhận thấy rằng các phương pháp giáo dục đạo

đức bằng tình cảm chiếm đa số 100%. Sau đó là dùng lời để giải thích (97,8%). Bên

cạnh đó còn phương pháp dùng gương người Mẹ, gương điển hình trong giáo dục đạo

đức cũng được áp dụng khá phổ biến.

Phương pháp dùng biện pháp mạnh hay dùng các phương tiện gián tiếp khác như

thông qua nhà trường, sách báo ít được sử dụng đối với việc giáo dục đạo đức cho trẻ

(33 -> 35%).

1.2.ĐÁNH GIÁ CHỦ QUAN CỦA GIÁO VIÊN VỀ HIỆN TRẠNG ĐẠO

ĐỨC CỦA TRẺ

Trẻ em mồ côi cha mẹ trước khi được đến với làng SOS đều có nhiều nhận thức

các hành vi đạo đức hơn là trẻ bình thường. Muốn biết các biểu hiện hành vi đạo đức

của các em khi mới được đón nhận về làng như thế nào theo nhận xét chủ quan của

giáo viên và những biểu hiện về hành vi của các em sau 4,5 năm được giáo dục như

thế nào, ta xét trong hai bảng :

Bảng 2a và 2b sau đây :

( Do thời gian của đề tài nghiên cứu nên người nghiên cứu chỉ xét đến những

biểu hiện, thái độ đối với người lớn, bạn bè, em nhở, về sự trung thực, tác phong, ý

thức bảo vệ của công và các hành động quậy phá của trẻ mà thôi).

Bảng 2a:

Đánh giá chủ quan của giáo viên về hiện trạng đạo đức của trẻ mới vào trường.

* Số phần trăm (%) được tính trên tổng số giáo viên trả lời(45 giáo viên)

□ Phân tích bảng 2a :

Trẻ khi mới được đón nhận vào làng SOS, có những biểu hiện không tốt về hành

vi, thái độ đạo đức.

Dựa vào bảng 2a trên, thấy rằng sự không trung thực, tự do ở trẻ, chiếm đa số

(100% ý kiến giáo viên), thái độ đối xử với người lớn thiếu tôn trọng, lễ phép, hay gây

gổ với bạn bè, ganh tị với trẻ nhở, tác phong bừa bải, không biết bảo vệ tài sản của

làng trường...

Trẻ quen sống tự do, vô tổ chức nên bước đầu vào trường các hành động quậy

phá vẫn còn phổ biến (91,1 %), không tôn trọng nội quy (80%) nhưng nổi bật nhất vẫn

là những phẩm chất về nhân cách (sự trung thực, tự do, vô kỷ luật) biểu hiện xấu đến

lo ngại.

Bảng2b

Đánh giá chủ quan của giáo viên, về hiện trạng đạo đức của trẻ sau 4 -> 5 năm ở

trường.

*Tỉ lệ % ở đây được tính dựa trên tổng số giáo viên trả lời (45 giáo viên).

o Phân tích kết quả bảng 2b :

Sau 4 -> 5 năm ở trường, trẻ có những biểu hiện về hành vi thái độ đạo đức của

G như sau :

Đối với người lớn trẻ đã biết lễ phép (100% lễ phép), không nói dối, sống có trật

tự, không bừa bãi. Tuy nhiên, thái độ của trẻ đối với em nhở, với bạn bè đôi khi còn

hay ganh tị (28,8% số giáo viên trả lời), không biết chia sẽ hoặc còn gây gổ đánh

nhau. Một số biểu hiện khác về đạo đức của trẻ như sự không trung thực hoặc hay

quậy phá vẫn còn chiếm số đông (42 -> 44% Số G trả lời)

Bảng 3:

So sánh kết quả của việc đánh giá chủ quan về 1 biểu hiện đạo đức của H trước

và sau 4 -> 5 năm ở làng:

3a. Nhận thức về thái độ

Về thái độ của trẻ đối với người lớn nói chung, đối với bạn bè, em nhở trước và

sau thời gian 4-> 5 năm ở trường theo đánh giá chủ quan của giáo viên có sự thay đổi

rõ rệt. Đặc biệt nhất là sự không lễ phép đối vối người lớn. Nếu như khi mới vào làng

95,5% G đánh giá là không lễ phép thì sau 4 -> 5 năm 100% đều cho là các em rất lễ

phép với người lớn .

Tuy nhiên trong quan hệ bạn bè, nhiều em vẫn có thái độ không biết chia sẽ với

bạn (45% G đánh giá là trong khi trước đó 68,8% G ) ghi nhận. Do đó ta thấy rằng sự

biến chuyển đạo đức trong mối quan hệ với người lớn ở trẻ rõ hơn so với mối quan hệ

giữa trẻ vói bạn bè. Nếu như trước kia đối với các em nhở, trẻ thường hay bắt nạt,

ganh tỵ thì sau 4-> 5 năm, tỷ lệ thầy cô đánh giá về thái độ đã giảm hẳn (13,3 % so

với 91,1 %).

3b. Nhận thức về phẩm chất nhân cách và tác phong:

□ Phân tích:

Nêu như trước kia 100% G đều nhận thấy rằng trẻ đều không trung thực, hay ăn

cắp vặt, hay nói dối và sống rất tự do, vô kỷ luật thì sau 4 -> 5 năm chỉ có 44,4% giáo

viên cho rằng trẻ vẫn còn sự không trung thực, và đáng mừng hơn cả là 100% giáo

viên đều thấy trẻ không còn nói đối hay có thái độ bất cần trong tác phong. Các biểu

hiện khác đều có sự giảm rõ rệt như hiện tượng sống bừa bải, tự do vô tổ chức

3c Về các hành động khác.

□ Phân tích:

Các hành động trên đều có biểu hiện giảm nhưng mức độ không rõ như các biểu

hiện khác. Trẻ vẫn còn quậy phá, vẫn còn 1 số biểu hiện thiếu tôn trọng nội quy hay

cơ sở vật chất của làng và của trường.

1.32. NHẬN XÉT CHUNG VỀ VIỆC PHÂN TÍCH Ý KIẾN GIÁO VIÊN.

Qua 45 phiếu điều tra thu được từ các giáo viên, bà mẹ thuộc làng SOS, ta nhận

thấy:

* Trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ mồ côi, các phương pháp lựa chọn được

dựa chủ yếu vào bốn yếu tố:

• Tâm lý học sinh

• Gia đình

• Nhà trường

• Xã hội.

Sự lựa chọn phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh của các giáo viên có

ảnh hưởng bồi 4 yêu tố nhưng mức độ ảnh hưởng khác nhau. Trong đó phần lớn giáo

viên đều dựa vào yếu tố tâm lý bàn thân học sinh để lựa chọn phương pháp giáo dục

đạo đức cho phù hợp. Các yếu tố thuộc về xã hội có ảnh hưởng nhưng không quyết

định nhiều trong việc lựa chọn phương pháp .

* Theo kinh nghiệm của giáo viên, tâm lý học sinh được coi là yếu tố quyết định

nhất trong việc ảnh hưởng đến trong sự lựa chọn phương pháp giáo dục đạo đức. Điều

này hoàn toàn phù hợp vói lý thuyết đã học và kết quả phân tích ở bảng 1. Yếu tố gia

đình cũng ảnh hưởng không kém đến việc giáo dục của giáo viên và sự nhận thức của

học sinh.

*Trên cơ sở lý luận trên, các phương pháp giáo dục đạo đức nghiêng về gia đình

hay dựa vào đặc điểm tâm lý được sử dụng nhiều nhất: Dùng gương, dùng tình cảm,

giải thích.

Các biện pháp mạnh hoặc giáo dục gián tiếp ít được sử dụng trong trường hợp

trẻ ở làng SOS.

* Theo đánh giá chủ quan của giáo viên, các biểu hiện về hành vi và nhận thức

đạo đức ở trẻ khi mới được tiếp nhận và sau thời gian 4 -> 5 năm ở làng có sự thay đổi

rõ rệt. Nếu như trẻ trước kia có thái độ không lễ phép, không tôn trọng người lớn,

không biết nhường nhịn hay chia sẽ với bạn bè, hay ăn cắp, nói dối, quậy phá thì sau

thời gian 4 -> 5 năm, các biểu hiện đã giảm nhiều đặc biệt nhất là thái độ đối với

người lớn: 100% giáo viên nhận thấy trẻ lễ phép 100% nhận thấy trẻ không còn nói

dối.

Tuy nhiên, một vài biểu hiện khác như không chấp hành nội quy, ăn cắp vặt hay

thái độ cư xử với bạn bè chưa có chuyển biến lớn .

Nhìn chung, chưa thể kết luận được là các phương pháp giáo dục đạo đức của

giáo viên là có hiệu quả hay không có hiệu quả. Nhưng qua đối chiếu nhận định chủ

quan của giáo viên thì người nghiên cứu nhận thấy rằng có sự chuyển biến trong đạo

đức của trẻ ở làng mồ côi SOS trong khoảng thời gian 4 -> 5 năm

Chương 2: PHÂN TÍCH KẾT QUẢ THU ĐƯỢC TỪ HỌC

SINH

Việc tìm hiểu 1 số nhận thức của học sinh về thái độ, hành vi đối với 1 số chuẩn

mực đạo đức nhằm mục đích đánh giá xem nhận thức về thái độ và tri thức đạo đức

của học sinh được biểu hiện như thế nào sau khi được áp dụng các phương pháp giáo

dục đạo đức ở làng ra và mới bắt đầu vào làng (chưa hoặc mới bắt đầu tiếp nhận các

phương pháp giáp dục đạo đức ). Nghĩa là thông qua việc tìm hiểu này chúng tôi

muốn xem các phương pháp giáo dục đạo đức đã được sử dụng có ảnh hưởng đến như

thế nào và sự tiến bộ về đạo đức của học sinh ra sao?

Mục tiêu này được thực hiện dựa trên phiếu thăm dò ý kiến gồm 18 câu hỏi mở,

Các câu hỏi ở đây chỉ nhằm giúp các em tự mình tở thái độ hay cách ứng xử tích cực

hay không tích cực trước những biểu hiện của một số chuẩn mực đạo đức mà thôi.

Phiếu điều tra do người nghiên cức phát ra và thu lại từ 80 học sinh làng SOS ( 60 học

sinh đã ở 4-5 năm, độ tuổi 0-12 và 20 học sinh mới tiếp nhận ) và 60 học sinh phổ

thông lớp 7 (12t) bình thường ở trường PTCS Cửu Long 2 số phiếu thu vào 140. Các

kết quả cụ thể được trình bày lần lượt như sau:

Bảng 4 : So sánh nhận thức về các chuẩn mực đạo đức của trẻ mồ côi

* Tỉ lệ % ở đây được tính trên tổng số học sinh trả lời câu hỏi (60 học sinh)

* Phân tích kết qủa bảng 4a.

Kết quả của từng câu trả lời ở bảng 4a cho thấy học sinh có nhận thức tích cực

về các chuẩn mực đạo đức chiếm đa số.

Tuy vậy, 1 số nhận thức tiêu cực vẫn còn cao (có câu 30% nhận thức về tiêu

cực), Có thể nói rằng phần lớn các em đã có những nhận thức đứng về 1 số biểu hiện

của thái độ và hành vi đạo đức, mặc dầu các nhận thức đó chưa có độ khái quát cao.

* Như trên đã trình bày. Kết qủa của việc thăm dò ý kiến của học sinh nhằm tìm

hiểu 1 số nhận thức, thái độ biểu hiện ở

• Thái độ (Đối với người lớn, bạn bè, em nhở)

• Thái độ, hành vi đối với kỷ luật của nhà trường

• Một số biểu hiện về phẩm chất nhân cách

• Một số biểu hiện khác.

4b. Kết quả nhận thức đứng đắn của học sinh như thế nào về các biểu hiện trên,

sẽ được lần lượt trình bày trong các bảng sau:

Phân tích:

* Tỉ lệ phần trăm ở đây để tính trên tổng số trả lời đối với từng loại chuẩn mực

đạo đức.

Nhưng bên cạnh đó số nhận thức tiêu cực ở trẻ cũng chiếm khá nhiều, không tở

một số biểu hiện khác như chưởi thề, ăn cấp vặt, cũng còn nhiều ý kiến tiêu

cực(20.6%).

Bảng 5;

Phân tích 1 số nhận thức cụ thể của học sinh đối với từng loại chuẩn mực.

Phân tích:

* Tỉ lệ % được tính dựa trên tổng số trả lời về nhận thức và thái độ (60).

Dựa trên bảng 5a, dễ thấy rằng 100% trẻ đều có nhận thức tích cực là trả lời cha

mẹ là không tốt.

Tỷ lệ tích cực ở các câu nhìn chung cao hơn rất nhiều so với nhận thức tiêu cực.

Ở câu 1 -> 5, mỗi câu đều có sự khác biệt có ý nghĩa ở mức α = .01 ở nhận thức

tích cực và nhận thức tiêu cực ở các thái độ trên .

Tuy vậy cũng còn 1 số ít trẻ có sự nhận thức tiêu cực chẳng hạn như gặp thầy cô

không chào, nói chuyện vói người lớn mà không thưa gửi là chuyện bình thường.

Một số vấn đề nhận thức về thái độ đối với kỷ luật nhà trường.

Bảng 5b : Một số vấn đề nhận thức về thái độ đối với kỷ luật nhà trường

□ Phân tích:

Tỷ lệ dựa trên số trả lời (60).

Đa số các em đều có ý thức bảo vệ tài sản của làng, chấp hành nội qui của nhà

trường, lớp học..,

Tuy nhiên vẫn còn 1 số các em chưa ý thức được rằng ăn quà vặt là không tốt,

hoặc quay cóp bạn là không nên.

Nhưng nhìn chung, mọi biểu hiện trên đều có sự khác biệt ý nghĩa ở mức α = 1

giữa sự nhận thức tích cực và tiêu cực ở các em.

□ Phân tích:

Tỷ lệ % ở đây được tính dựa trên số trả lời (60)

Trẻ nhìn chung đều có những nhận thức tích cực đối với những vấn đề đạo đức

thuộc về phẩm chất nhân cách. Chẳng hạn như 85% trẻ cho rằng cần phải giúp đỡ bạn

trong lúc khó khăn, hoặc 100% trẻ biết rằng khi làm hởng vật gì của người khác thì

phải xin lỗi, 88.3% mong muốn học tập gương giúp đỡ cụ già. Tuy nhiên các hiện

tượng quay cóp trong giờ học, nổi dối mẹ để đi chơi vẫn còn nhiều trong mỗi trẻ, về

vấn đề này có tới 21.7 -> 33.4 % trẻ trả lời tiêu cực.

Phân tích:

Tỷ lệ % dựa trên số người trả lời (60).

Dựa vào 5d, dễ thấy rằng tỷ lệ nhận thức tích cực các chuẩn mực đạo đức cao

hơn hẳn so với tỷ lệ nhận thức tiêu cực. Các biểu hiện như ăn cắp vặt, chửi thề tuy vẫn

còn 1 số cho là bình thường nhưng hầu hết đều nhận thấy rằng chửi thề, ăn cắp vặt là

không tốt (81.6 -> 86.6%) Bên cạnh đó, chuyện đánh nhau không kìm chế hay là biểu

lộ của sức mạnh cũng được các em ý thức không nhiều (30%) trong khi 70% các em

biết rằng đánh nhau với bạn là không tốt, không nên.

Nhận xét chung:

Qua kết quả thu được (60) phiếu từ 60 em học sinh đã được sống và được giáo

dục trong làng từ 4 - 5 năm, một điều chung để nhận thấy nhất, đó là : ở mỗi loại biểu

hiện của hành vi đạo đức, các em đều có tỷ lệ nhận thức tích cực cao hơn hẳn so với

nhận thức tiêu cực.

Đặc biệt dễ thấy nhất là mọi thái độ đối với Mẹ hay đối với làng, các em đều tở

thái độ tích cực 100% . Nhiều em không chửi bậy, không ăn cắp, không phá hoại tài

sản của làng của trường đơn giản chỉ vì một lý do duy nhất: Mẹ sẽ bị phạt nếu như

mình làm như vậy.

Bên cạnh đó, thái độ của trẻ đối với người lớn, người già cũng khá lễ phép, các

em biết chào hỏi người lớn khi gặp, biết thưa gửi khi nói chuyện. Tuy nhiên, bên cạnh

những kết quả trên, trẻ vẫn còn một số những sai sốt, những nhận thức tiêu cực về các

biểu hiện đạo đức: chẳng hạn như quay cóp khi làm bài, một số vẫn còn ăn cắp vặt,

đánh nhau với bạn.... Dù rằng nhũng sai sót đó không nhở, nhưng thời gian 4-5 năm

để giáo dục một con người không phải là dài, vì thế chuyện tồn tại những sai sót là

điều tất nhiên, chúng ta chỉ còn chờ vào sự vận dụng linh hoạt những phương pháp

giáo dục đạo đức của giáo viên và thời gian cảm hóa trẻ mà thôi.

Bảng 6a:

* Tỷ lệ % tính trên tổng số học sinh trả lời câu hỏi (20).

Phân tích:

Kết quả thu được ở bảng 6 cho thấy trẻ chưa có nhận thức tích cực ở hầu hết

những câu hỏi. Nói chung những tri thức đạo đức của trẻ chưa đủ chín. Trẻ còn do dự

khi nói về Mẹ hay về một số hành vi như ăn cắp vặt, số trẻ có nhận thức tích cực về

một số biểu hiện hay về thái độ đạo đức ở trẻ còn khá thấp, nếu như không nói là

chênh lệch khá cao so với số trẻ nhận thức tiêu cực. Một số biểu hiện như quay cóp,

chửi thề là một việc làm mà các em không hề cho là xấu hay cần tránh. Có thể nói

rằng, qua kết quả ở bảng 6, dễ nhận thấy trẻ chưa có một khái niệm như thế nào là

chuẩn mực đạo đức, trẻ sống khá tự do và hành động, đối xử theo suy nghĩ bản năng

của chính mình.

* Tỷ lệ % ở đây được tính dựa trên tổng số câu trả lời đối với tùng loại chuẩn

mực đạo đức.

□ Phân tích:

Dựa vào bảng 6b, ta thấy sự nhận thức tích cực về các loại chuẩn mực đạo đức

của trẻ thấp hơn khá nhiều so với sự nhận thức tiêu cực về chính các loại chuẩn mực

đạo đức đó. Đặc biệt là vấn đề thái độ đối với người khác, tỷ lệ trẻ trả lời tiêu cực

chiếm tỷ lệ cao nhất (51 %) trong khi đó trẻ có thái độ tích cực đối với người khác chỉ

chiếm 33%. Phần lớn trẻ còn chưa ý thức về các hành động chửi thề, ăn cắp vặt, đánh

nhau với bạn là những việc làm không tốt. Chính vì thế chỉ có 20 % trẻ có thái độ tích

cực đối với các biểu hiện trên; trong khi đó có (8.3% trẻ cho rằng chửi thề, đánh

nhau... là chuyện bình thường).

□ Phân tích:

Dựa vào bảng 7a, ta nhận thấy rằng có những sự khác biệt trong những biểu hiện

về mặt thái độ đối với người khác giữa trẻ ( ở mức ý nghĩa α = 05 ) mới vào làng và

trẻ sống 4 - 5 năm ở làng.

Bảng 7b : So sánh về mặt biểu hiện thái độ, hành vi đối với kỷ luật nhà trường.

Có sự khác biệt về mặt biểu hiện thái độ, hành vi đối với kỷ luật nhà trường,

làng.

Phân tích:

Dựa vào bảng 7a, dễ thấy có sự khác biệt ở mức ý nghĩa α = 05 về mặt biểu hiện

thái độ, hành vi đối với kỷ luật nhà nường, làng. Sự nhận thức tích cực về các vấn đề

trong sự biểu hiện thái độ, hành vi đối với kỷ luật nhà trường, làng có sự chênh lệch

khá lớn giữa hai nhóm trẻ : 87,5% học sinh cũ có nhận thức tích cực so với 41.25%

học sinh mới có nhận thức tích cực, trong khi đó 58.75 % học sinh mới có nhận thức

tiêu cực về vấn đề này so với 12,5% học sinh cũ có nhận thức tiêu cực.

Bảng7c ; Một số biểu hiện thuộc nhận thức về phẩm chất nhân cách

Vậy có sự khác biệt về sự biểu hiện tích cực thuộc về phẩm chất nhân cách ở học

sinh cũ và mới.

□ Phân tích:

Có sự khác biệt ở mức α= 05 ở một số biểu hiện thuộc về phẩm chất nhân cách

tích cực giữa học sinh cũ và mới. Nhìn chung, tỷ lệ tích cực trả lời những câu hỏi

thuộc phạm vi này ở học sinh cũ cao hơn ở học sinh mới (83.6% so với 27%), trong

khi đó tỷ lệ tiêu cực trong trả lời của học sinh mới (41%) cao hơn nhiều so với tỷ lệ

tiêu cực trong trả lời ở học sinh cũ (16.4%).

Bảng 7d: Một số biểu hiện khác:

Phân tích:

Có sự khác biệt ở mức α=05 trong một số biểu hiệp khác như: chửi thề, ăn cắp

vặt đánh nhau giữa học sinh cũ và mới.

Tỷ lệ trẻ em có chửi thề, ăn cắp và đánh nhau ở học sinh mới cao hơn (58.3%) so

với tỷ lệ trẻ cũ (20.6). Trong khi đó tỷ lệ trẻ nhận thấy không nên chửi thề đánh nhau,

ăn cắp vặt ở học sinh cũ cao hơn (79.4) hẳn so với sự nhận thức tích cực ở học sinh

mới về vấn đề này (20%).

NHẬN XÉT CHUNG

Dựa vào 20 phiếu thu được từ những học sinh mới được nhận vào làng, ta thấy

rằng tỷ lệ những học sinh có số trả lời tiêu cực cao hơn nhiều so với những học sinh

có số trả lời tích cực trong mọi biểu hiện của hành vi đạo đức. Chẳng hạn như sự biểu

hiện trong thái độ đối với người khác ở trẻ mới vào làng, chỉ có 33% trẻ biết lễ phép,

chào hỏi..., còn lại 51% trẻ coi như không có gì.

Đặc biệt, do hoàn cảnh, hầu hết các em vừa trải qua cái sốc tâm lý khá nặng (cha

mẹ mất), các em chưa quen với một người sẽ là mẹ, hoàn toàn xa lạ với các em. Chính

vì thế, cho nên một số em không có sự biểu hiện nào đối vối những câu hỏi về mẹ.

Giữa hai nhóm trẻ : mới được nhận vào làng nhưng trong nhóm đã ở làng 4-5

năm, qua phân tích ở các bảng 7a, 7b, 7c, là ta đễ thấy có sự khác biệt nhau trong nhận

thức. Giả định rằng trình độ tri thức đạo đức ở các em khi mới vào làng là như nhau

thì rõ ràng sau 4 - 5 năm trẻ tiến bộ hơn rất nhiều về nhận thức trong những biểu hiện

về thái độ và hành vi đạo đức. Chẳng hạn như sự thái độ đối với người khác, nếu như

khi mới vào chỉ có 33% trẻ có nhận thức tích cực, biết chào hỏi, thưa gửi... thì sau 4-5

năm ở làng 93% trẻ có nhận thức tốt về mặt này.

So sánh với giả thuyết đặt ra : trẻ mới vào làng và trẻ đã ở làng sau 4 -5 năm có

sự khác biệt về tri thức đạo đức, kết quả phân tích ở các bảng trên đã chúng tỏ có sự

khác biệt giữa hai nhóm trẻ về cả tri thức đạo đức đối với một số loại chuẩn mực như

thái độ với người khác, với làng, trường học, một số biểu hiện về phẩm chất nhân cách

hay một số biểu hiện của hành động khác.

KẾT QUẢ THU ĐƯỢC TỪ PHIẾU THĂM DÒ HỌC SINH

BÌNH THƯỜNG

Phiếu thăm dò ý kiến, cùng 1 hệ thống câu hỏi được đặt ra cho trẻ ở làng SOS,

được phát cho 60 học sinh lớp 7 trường PTCS Ghi Long 2. Kết qủa cụ thể đã phân

tích như sau:

NHẬN XÉT CHUNG

Dựa vào 60 phiếu thu được từ 50 học sinh lớp 7 trường PTGS Cửu Long 2 Bình

Thạnh, thấy rằng phần lớn học sinh đều có nhận thức về biểu hiện của 1 số loại chuẩn

mực đạo đức như thái độ đối với người khác, với trường học hoặc 1 số biểu hiện thuộc

về phẩm chất nhân cách hay các hoạt động khác tuy nhiên, 1 số biểu hiện tiêu cực

trong nhận thức của các em vế các vấn đề trên không phải là không cổ, mà trái lại nó

tồn tại cưng đáng kể. chẳng hạn như trong việc chào hỏi thầy cô, nói tục, đánh

nhau...1 số cho rằng đố là chuyện bình thường trong giới học sinh, 1 số lại cho rằng

"Ăn cây nào rào cây nấy”, thầy cô dạy mình mới lễ phép chào hỏi...Nhưng đó chỉ là 1

số ít các em mà thôi.

Giữa 2 nhóm H: Học sinh bình thường và trẻ mồ côi sống trong làng 4-5 năm

không có sự khác biệt nhau về nhận thức 1 số loại chuẩn mực đạo đức.

Nếu so sánh với giả thuyết đặt ra "Không có sự khác biệt lớn giữa hai nhóm học

sinh: vào làng 4 - 5 năm và học sinh phổ thông, qua phần tích so sánh, dễ nhận thấy

không có sự khác biệt nào về nhận thức đạo đức. Như vậy kết quả thu được hoàn toàn

phù hợp với giả thuyết được đặt ra.

Nếu chỉ xét ở một số nhận thức đạo đức thì không thấy cả sự khác biệt giữa hai

nhóm học sinh như xét trên toàn bộ nhân cách có lẽ phải có sự khác biệt.

Phần III : KẾT LUẬN TỔNG QUÁT

1. Về phía giáo viên :

* Với trẻ ở làng SOS thì nhũng người Mẹ có thể được coi là những cô giáo. Họ

trực tiếp dạy dỗ trẻ, tìm mọi cách an ủi, gần gũi chúng. Và cũng chính họ là những

người tìm ra những phương pháp giáo dục đạo đức tốt nhất để giáo dục trẻ thành

những con người tốt, không bị mặc cảm với xã hội.

Dựa vào thực tế và trên cơ sở 45 phiếu thăm dò các bà mẹ, bà dì, hầu hết đều cho

rằng, việc giáo dục, nhất là giáo dục đạo đức, đối với trẻ mồ côi khó hơn rất nhiều so

với trẻ bình thường. Theo các mẹ, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển

nhân cách của trẻ, và đặc biệt là các yếu tố gia đình, nhà trường, xã hội và tâm lý học

sinh chi phối rất nhiều đến việc lựa chọn phương pháp giáo dục đạo đức của các cô

đối với trẻ.

Trẻ vào làng SOS, hầu hết đã mồ côi cha mẹ, không gia đình, họ hàng, chính vì

thế việc tạo 1 gia đình, 1 tổ ấm cho các em là điều rất cần thiết các em có chỗ dựa, có

Mẹ là người gần gủi nhiều nhất đối với các em, do đó gia đình như thế nào thì sẽ ảnh

hưởng đến nhân cách của các em như vậy. Theo phân tích 45 phiếu của G, có 33,3%

cho rằng gia đình là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương pháp giáo

dục đạo đức của các Mẹ.

Chỉ có 15,5% ý kiến cho rằng nhà trường là yếu tố quan trọng nhất chi phối đến

việc lựa chọn phương pháp giáo dục đạo đức. Hầu hết các Mẹ đều cho rằng cho trẻ

đến trường trong 1 thời gian có hạn, trường lại ngay trong làng nên các phương pháp

giáo dục đạo đức của các Mẹ không phụ thuộc nhiều vào sự quan hệ hay giáo dục

trong nhà trường.

Trẻ mồ côi rất có mặc cảm đối với xã hội, do đó trẻ sống ở SOS hay PICASO

cũng đều không muốn ra ngoài xã hội. Chính vì đặc điểm ấy mà chỉ có 9% giáo viên

cho xã hội là nhân tố quan trọng chi phối đến việc lựa chọn phương pháp. Ngược lại,

có 42,2 % giáo viên nhận thấy tâm lý học sinh mới chính là yếu tế quan trọng nhất chi

phối việc lựa chọn phương pháp giáo dục đạo đức của giáo viên.

Kết quả này phù hợp với lý thuyết và trên thực tế. Bởi vì việc lựa chọn phương

pháp giáo dục đạo đức phải như thế nào phù hợp vối hoàn cảnh, đặc điểm của học

sình. Sự lựa chọn cũng phụ thuộc vào gia đình bởi gia đình như thế nào, nhân cách

phát triển theo hướng ấy dễ dàng. Gia đình chính là nới giáo dực những phẩm chất

đầu tiên, nhũng thói quen đạo đức...Còn việc giáo dục ở nhà trường chỉ nhằm giúp các

cháu theo kịp những nhu cầu, mục tiêu xã hội là chính.

* Dựa vào sự phân tích như trên, các phương pháp giáo dục đạo đức mà giáo

viên thường sử dụng chu yếu dựa vào đạo đức tâm lý của trẻ, cũng như môi trường gia

đình như nề nếp sinh hoạt... Có tới 100% ý kiến cho rằng phương pháp thường sử

dụng là dùng tình cảm. Trẻ mồ côi thiệt thòi hơn trẻ bình thường khác. Đa số các em

đều thiếu tình cảm từ nhở, đặc biệt là tình mẫu tử. Do đó muốn cho các em không mặc

cảm, muốm các em hòa nhập với cuộc sống bình thường, chỉ có cách đó là lấp chỗ

trống tình cảm trong mỗi em. Đây là phương pháp được sử đụng triệt để trong mô

hình SOS.

Việc dùng gương người mẹ, hay gương những anh chị lớn trong gia đình là điều

cần thiết theo các Mẹ, muốn giáo dục con tốt thì trước hết người mẹ phải tốt và muốn

giáo dục đứa nhỏ phải giáo dục đứa lớn trước hết điểu này hoàn toàn phù hợp với lý

thuyết: trẻ thường hay bắt chước. Cũng theo các Mẹ, việc giải thích các hành động

cho các con là hoàn toàn cần thiết Không bao giờ phạt con mà không cho chúng biết

tại sao và sai như thế nào. Phương pháp này có 44 trong 45 bà mẹ thường sử dụng

(97,8%) Ngược lại chỉ có 15 trong số 45 bà mẹ, chiếm 33,3% là sử dụng các biện

pháp mạnh đối với trẻ. Việc giáo dục trẻ qua nhà trường, sách báo cũng chiếm tỷ lệ

khá thấp (35,5%).

Nhìn chung, các phương pháp giáo dục đạo đức thường được các Mẹ sử dụng là

dùng tình cảm, giải thích hay làm gương. Các phương pháp trên được sử dụng chủ yếu

là do sự lựa chọn được quy định bởi những yếu tố có liên quan đến địa điểm phát triển

nhân cách của trẻ. Việc sử dụng thường xuyên các phương pháp trên, đặc biệt là

phương pháp dùng tình cảm hay nên giải quyết hoàn toàn phù hợp với lý thuyết về

đạo đức trẻ mồ côi cũng như ở sở xây dựng mô hình gia đình SOS, Điều này cũng

hoàn toàn phù hợp với giả thuyết nghiên cứu đặt ra ; "phương pháp giáo dục bằng tình

cảm được sử dụng nhiều nhất trong công tác giáo dục gia đình ở làng SOS.

* Là những người trực tiếp tiếp nhận học sinh khi mới bước vào làng, cũng như

trực tiếp dạy dỗ trẻ, các giáo viên - Mẹ - đều cho rằng trẻ khi mới vào làng phần lớn

còn khá lôi thôi, ít hiểu biết về các tri thức đạo đức.

100% ý kiến giáo viên cho rằng trẻ mới vào không trung thực, tự do vô kỷ luật.

78.5% ý kiến cho rằng trẻ thiếu tôn trọng, lễ phép trong cư xử với người lớn. Đồng

thời các giáo viên đều nhận thấy trẻ chưa có ý thức bảo vệ tài sản của làng. Các em

chưa thực sự coi làng là gia đình của các em. Một số còn chưa gần gãi thường giữ một

khoảng cách nhất định đối với mẹ của chúng.

* Sau một thời gian ở trường, các giáo viên nhận thấy rằng đa số trẻ đều có thái

độ tốt với thầy cô (100% ý kiến cho rằng –trẻ có lễ phép,100% cho rằng trẻ sống trung

thực, các hiện tượng tự do vô kỷ luật giảm. Đặc biệt hơn cả là trẻ gắn bố với làng, coi

làng như gia đình của mình.

Tuy vậy, đối với trẻ các hành động quậy phá, không tôn trọng nội quy vẫn còn

chiếm số đông (17.7->42.2% kiến giáo viên).

Như vậy, rõ ràng là có sự chuyển biến về tri thức, về biểu hiện hành vi đạo đức

đối với 2 mhóm trẻ mới vào làng đã sống 4 - 5 năm. Sự tiến bộ đó chính là do môi

trường, do sự giáo dục của làng, trong đó ít nhiều đều có sự ảnh hưởng của phương

pháp giáo dục về đạo đức cho trẻ của các bà mẹ SOS.

2. Về phía học sinh:

Qua các câu hỏi cho học sinh trả lời, kết quả cho phép người nghiên cứu rút ra

nhận định như sau :

- Đối với những trẻ mới vào làng, việc trả lời những câu hỏi chưa cho phép

chúng ta kết luận là trẻ không có đạo đức ...mà chúng ta chỉ nhận thấy rằng trẻ thiếu

sự giáo dục, quan tâm của gia đình, của nhà trường, đặc biệt là của người Mẹ. Do đó 1

số tri thức đạo đức cần phải có chưa được hình thành ở trẻ. Trẻ chưa có thói quen chào

hỏi, thưa gửi người lớn (51 % ý kiến của trẻ là không cần thiết đối với sự chào hỏi,

thưa gửi). Trẻ chưa coi làng như gia đình của mình do đó phần lớn trẻ chưa có ý thức

có ý thức bảo vệ tài sản của làng (58.75%). Theo sự quan sát của người nghiên cứu thì

thấy rõ bàn ghế, đồ dùng học tập...trẻ không có ý thức giữ gìn bảo quản.

Đa số trẻ khi mới được nhận vào làng điều có biểu hiện của sự không trung

thực, 1 số có hiện tượng ăn cấp vặt trẻ thường sống khá tự do vô kỷ luật, và coi 1 số

biểu hiện như quay cóp, chửi thề là điều bình thường.

Nhìn chung, kết quả thu được cũng gần với nhận định ban đầu của giáo viên.

Những tri thức đạo đức chưa được nhận thức đầy đủ của trẻ, cùng với đặc điểm tâm lý

càng khẳng định rằng việc lựa chọn những phương pháp giáo dục đạo đức phù hợp

cho trẻ là điều hoàn toàn cần thiết.

- Đối với học sinh đã sống trong làng được 4-5 năm, các tri thức đạo đức đã

được hình thành ở các em. Trẻ có nhiều biểu hiện tốt về 1 số hành vi đạo đức. Trong

công trình này chúng tôi chỉ giới hạn tìm hiểu chuẩn mực đạo đức như:

• Thái độ đối với mọi người.

• Thái độ, hành vi đối với kỷ luật nhà trường.

• Một số biểu hiện thuộc phẩm chất nhân cách.

• Một số biểu hiện khác.

Chúng tôi nhận thấy rằng đối với mỗi loại chuẩn mực đạo đức trên thì số học

sinh trả lời tích cực luôn chiếm tỷ lệ cao hơn hẳn số học sinh trả lời tiêu cực. Chẳng

hạn, về thái độ đối với mọi người hầu hết học sinh đều có nhận thức tích cực (93%),

trong khi đó chỉ có 7% ý kiến tiêu cực, như vậy trẻ đã biết nhận thức được rằng cần

phái tòa trọng, lễ phép với người lớn, phải biết kính già yêu trẻ ...,đổ là điều cần thiết

với mỗi học sinh. Hoặc 100% số ý kiến trẻ cho rằng phải có ý thức bảo vệ tài sản của

làng, của nường. Coi tài sản chung như tài sản của gia đình, cần phải bao vệ và gìn

giữ, Tuy nhiên, các em vẫn còn 1 số nhận thức tiêu cực như 33,4% số ý kiến cho rằng

quay cóp trong giờ học là một việc làm bình thường ở học sinh hay 30% số ý kiến cho

rằng đánh nhau với bạn là một việc làm bình thường, thể hiện sức mạnh hay uy quyền

của mình.

Nhìn chung, có sự tiến bộ về nhận thức và hành vi đạo đức ở nhóm học sinh này.

Các kết luận trên hoàn toàn phù hợp với nhận định ban đầu của giáo viên. Và sự tiến

bộ đó được thể hiện một cách rõ rệt khi so sánh trình độ về tri thức đạo đức của 2

nhóm học sinh mới vào và vào được 4-5 năm. Kết quả của việc so sánh đã 1 lần nữa

khẳng định giả thuyết là đúng. Có sự khác biệt nhau về tri thức đạo đức của các nhóm

trẻ khi mới vào làng là ngang nhau thì sau 4-5 năm sống trong làng, trẻ có nhiều tiến

bộ hơn hẳn khi mới vào về cả thái độ phẩm chất, nhân cách lẫn các biểu hiện khác .

Điều này hoàn toàn phù hợp với giả thuyết đặt ra và cuộc sống thực tế.

Nếu như chỉ dừng lại ở sự so sánh ở 2 nhóm trẻ cùng hoàn cảnh nhưng chịu sự

giáo dục với thời gian khác nhau. Ta nhận thấy có sự biến đổi rõ rệt phù hợp với lý

thuyết và thực tế, vậy nếu so sánh với trẻ bình thường thì sự tiến bộ đó có gì khác biệt

không nếu hai nhóm trẻ ở hai môi trường khác nhau?

Kết quả nghiên cứa cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa về tri thức đạo đức

giữa hai nhóm trẻ, cả hai nhóm đều có nhận thức tích cực về 1 số loại chuẩn mực đạo

đức cao hơn một số nhận thức tiêu cực. Nhưng đối với trẻ mồ côi sự nhận thức luôn

gắn với 1 cái cụ thể, trẻ chưa khái quát thành một phạm trù nào đó . Chẳng hạn trẻ biết

bảo vệ tài sản của làng vì nếu không Mẹ sẽ bị làng phạt, trong khi đó mức độ nhận

thức ở trẻ bình thường mang tính khái quát cao hơn, trẻ biết cần phải làm gì và không

làm gì trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Các kết quả thu được và phân tích trên hoàn toàn phù hợp với giả thuyết 3 và 4

đã được nêu ra.

3. Đối chiếu kết qủa - giả thuyết - mục tiêu

* Với 45 phiếu thăm dò ý kiên dành cho giáo viên và 140 phiếu dành cho đa số

giáo viên thường sử dụng nhiều phương pháp giáo dục đạo đức bằng tình cảm, bằng

giải thích và nêu gương. Các phương pháp trên không phải tự nhiên được hình thành

mà đều do sự lựa chọn dựa trên cơ sở những yếu tố có ảnh hưởng đến sự hình thành

và phát triển nhân cách của trẻ. Theo ý kiến của đa số giáo viên thì yếu tố quan trọng

nhất đóng vai trò quyết định đến việc lựa chọn các phương pháp giáo dục đạo đức là

tâm lý học sinh và ảnh hưởng của gia đình các em đang sống.

Kết qủa này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết với thực tế và giả thuyết 1 được đặt

ra (phương pháp giáo dục đạo đức thường dừng là giáo dục bằng tình cảm).

Như vậy, căn cứ vào kết quả thu được, đối chiếu với giả thiết thứ nhất, người

nghiên cứu nhận thấy nhiệm vụ đầu tiên có thể nói là đã được giải quyết, đó là một số

phương pháp giáo dục đạo đức đã được áp dụng đối với trẻ mồ côi trong mô hình SOS

là các phương pháp : nêu gương, dùng tình cảm, giải thích, các biện pháp

mạnh....trong đó 3 biện pháp đầu được sử dụng nhiều nhất.

* Với 60 phiếu phát ra và thu được từ 60 học sinh đã ở trong làng 4 -5 năm ta

nhận thấy các tri thức đạo đức, các hành vi bằng quan sát, đạo đức của trẻ bằng

phương pháp quan sát trang bị khá vững.

Khác với học sinh bình thường khác, đặc biệt là ở đề tài “tìm hiểu hiện trạng đạo

đức ở học sinh lớp 11” năm ngoái, trẻ ở đây không có hiện tượng sa sứt về đạo đức

mà trái lại, nhận thức đạo đức ổ các em ngày càng tốt hơn. Kết quả này phù hợp với

nhận định ban đầu ccủa giáo viên và chứng tỏ rằng giả thuyết 2 (giải quyết nhiệm vụ

2) là đúng ( Trẻ sau 4- 5 năm ở làng có sự tiến bộ về nhận thức đạo đức ).

* Với 20 phiếu cho nhóm trẻ mới vào làng và 60 phiếu cho 60 học sinh phổ

thông, kết quả thu được phù hợp vối nhận xét của giáo viên ( về nhóm trẻ mới vào),

đồng thời chứng tỏ rằng có sự tương quan, phù hợp giữa kết quả thu được với giả

thuyết 3 và 4 ( Trẻ mới vào làng so với nhóm trẻ sau 4 -5 năm ở làng có sự khác biệt

về nhận thức đạo đức ) ( Nhóm trẻ sau 4 - 5 năm ở làng so với nhónm trẻ bình thường

ở trường PTCS Cửu Long 2 không có sự khác biệt về nhận thức đạo đức).

Tóm lại, trên cơ sở lý luận và quan sát thực tế, các giả thuyết được đặt ra nhằm

giải quyết 4 nhiệm vụ chính của đề tài, đã được kiểm chúng bởi các kết quả thu được

từ các phiếu thăm dò ý kiến dành cho cả giáo viên và học sinh.

Như vậy, trong giới hạn và thời gian hạn hẹp, các nhiệm vụ được đặt ra đã được

giải quyết về cơ bản.

Các nhiệm vụ - giả thuyết - kết quả đó không nhằm nghiên cứu sâu về các

phương pháp giáo dục đạo đức tốt hay xấu, có kết qua hay không kết quả, mà chỉ

nhằm tìm biểu một số phương pháp giáo dục đạo đức đã được sử dụng mà thôi.

PHẦN IV: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

Qua thực tế quan sát và kết quả thu được từ phiếu thăm dò, Người nghiên cứu

thấy rằng tất cả những biện pháp mạnh trong giáo dục điều bị cấm dùng bởi quy định

của làng.

Trẻ thiếu cha mẹ, thiếu tình thương điều đó ai cũng chấp nhận, nhưng không

phải bất cứ đứa trẻ nào cũng giáo dục bằng tình cảm được. Sự công khai hóa điều

nghiêm cấm trên nhiều lúc đã bị trẻ lạm dụng. Không chỉ ở SOS mà ở PICASSO cũng

vậy.

Trẻ không sợ Mẹ. Có nhiều trường hợp Ban Giám Đốc làng đã cho thôi việc một

số bà Mẹ vì đối xử nặng với trẻ. Tình trạng đó đã dẫn đến một số trẻ không coi các

Mẹ là Mẹ theo đứng nghĩa mà chỉ coi là các vú nuôi, người đi ở. Những người đó chỉ

có nhiệm vụ cơm nước, giặt giũ chứ không có quyền la mắng trẻ.

Thiết nghĩ, nếu như không có sự phản ảnh của các Mẹ, người nghiên cứu cũng

thấy rằng thật là khó để giáo dục trẻ nếu cứ để tình trạng này tiếp diễn.

Hãy để cho những người Mẹ sử dụng toàn quyền và nghĩa vụ của người Mẹ.

Như thế công tác giáo dục mới có kết quả hơn nhưng mỗi người Mẹ đều cảm thấy

mình được tôn trọng hơn trong công tác.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Cơ sở tâm lý học của Đức Dục. Lyalin, NA

Dịch giả : Quan Hà, Diệu Vân, Hữu Tân - NXB GD Hà Nội 1969.

2.Đề cương bài giảng giáo dục học.

Tập 1 - Những vần đề cơ sở của giáo đục học Nguyễn An _NXB trường ĐHSP.

3.Đề cương bài giảng LL giáo dục _ Tập 3, Nguyễn An

4.Những cơ sở của tâm lý hoe sư phạm NXB GD _ V.A. Kruchetocki

5.Tâm lý học trẻ em và tâm lý học sư phạm N.Đ.Levitop Bản dịch Phan Thị

Diệu Vân - NXB GD Hà nội

6.Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạmA.v. p.etrovski 3 . Bản địch

Đặng Xuân Hoàn - NXB GD 1982

7.Gia đình và nhà trường Phạm Nông Cường - NXB GD 1976

8.Gia đình giáo dục _ Cách dạy trẻ em khó dạy, Trần Kim Bảng - NXB Thuận

Hóa 1990

9.Bàn về tâm lý gia đình Nguyễn Khấc Viện

10.To children I give my heart V. Sukhomlinsky

11.Tìm hiểu trẻ em Nguyễn Khắc Viện

12.Đạo đức học Bùi Công Trang

13.Giáo dục con cái chúng ta/ Tô Thị Ánh

14.Sổ tay người mẹ _ Phương pháp giáo dục trẻ mồ côi/ Tủ sách làng SOS

PHỤ LỤC

1.Cầu hỏi mở phỏng vấn dành cho các bà mẹ, giáo viên

□Chị có thể kể sơ qua về tình hình trẻ trong gia đình ? có em cá biệt không.

□Kinh nghiệm của chị trong việc giáo dục, đạo đức cho các em ? Với trẻ cá biệt

chị thường dùng phương pháp gì ?

□Chị thấy sau nhiều năm ở làng, các em có điểm gì tiến bộ về mặt đạo đức

không ? Mặt nào.

2.Bảng câu hỏi dành cho học sinh

3.Bảng câu hỏi dành cho giáo viên

Sở Giáo Dục TP.HCM

Khoa tâm lý-giáo dục

Trường ĐHSP

CÂU HỎI DÀNH CHO GIÁO VIÊN

Các cô đọc kỹ các câu hỏi dưới đây và vui lòng trả lời theo hướng dẫn .Em xin

chân thành cảm ơn sự hợp tác của các cô :

Câu 1;

Theo các cô trong quá trình giáo dọc đạo đức cho bọc sinh của làng, những yếu

tố sau đây có ảnh hưởng như thế nào đến việc lựa chọn phương pháp của các cô (có

thể trả lời vắn tắt):

a) Tâm lý học sinh:………………………….

b) Hoàn cảnh gia đình:………………………

c) Tác động của nhà trường:………………...

d) Tác động xã hội:………………………….

Nếu cần phải xếp loại các yếu tố trên, theo cô yếu tố nào là quan trọng nhất ( cô

đánh dấu * vào câu lựa chọn )

a) Tâm lý học sinh

b) Gia đình

c) Nhà trường

d) Xã hội

Câu 3:

Những phương pháp giáo dục đạo đức mà các cô thường sử dụng đối với các em

học sinh trong làng là :

Câu 4:

Trẻ mồ côi khi mới được nhận vào làng, theo cô, các em có những biểu hiện như

thế nào về mặt đạo đức :

1) Về nhận thức đạo đức :

a. Thái độ của các em đối với người lớn :………………………..

b. Thái độ đối với bạn bè :………………………………………..

c. Thái độ đối với những em bé nhỏ hơn :………………………..

d. Sự trung thực :………………………………………………….

e. Về tác phong :………………………………………………….

2. Về sự thể hiện hành vi đạo đức :

a. Ý thức bảo vệ tài sản của làng :

b. Các hành động quậy phá, nói dối, ăn cấp vặt;

Câu 5:

Sau khi ở làng một vài năm, qua quá trình giáo dục, cô thấy trẻ có những biểu

hiện như thế nào về mặt đạo đức :

a. Thái độ với người lớn :……………………………………………

b. Thái độ đối với những em nhỏ :…………………………………..

c. Thái độ đối với bạn bè:……………………………………………

d. Sự trung thực :…………………………………………………….

e. Vế tác phong:………………………………………………………

d.Ý thức bảo vệ tài sản của làng:……………………………………..

g. Các hành động quậy phá, ăn cắp vặt, nói dối:………………………

Xin chân thành cám ơn sự cộng tác của các cô.

Sở Giáo Dục TP.HCM

Khoa Tâm lý-Giáo dục

Trường ĐHSP

PHIẾU THĂM DÒ

Các em đọc kỹ từng câu, và trả lời theo suy nghĩ của các em : Cám ơn sự cộng

tác của các em.

1 > Khi gặp thầy cô giáo, dù không dạy mình, các em:………………………

2 > Nói chuyện với thầy cô, người lớn các em phải:………………………….

3 > Thường xuyên cải lời mẹ là biểu hiện như thế nào:……………………….

4 > Chửi thề, vẳng tục khi nói chuyện có thường xảy xa với các em:…………

5 > Em nghĩ như thế nào về chuyện ăn cắp vặt (tiền, đồ đùng....)…………….

6 > Quay cóp trong giờ học theo em:……………………………………………

7 > Phá hoại tài sản của nhà trường, của làng theo em đó là việc làm như thế nào:

8 > Chấp hành đúng nội quy của nhà trường, của làng bản thân em thực hiện như

thế nào:……………………………………………………………………………..

9 > Em có thường giúp đỡ bạn bè trong lúc khó khăn không. Ví dụ:…………

10> Ăn quà vặt trong khi thầy cô giảng bài, theo em:…………………………

11> Có thái độ không tốt (nói năng...) đối với thầy cô, cha mẹ có thường xảy ra

với em không:………………………………………………………………………..

12> Khi gặp một bài kiểm tra khó, các em làm gì:…………………………….

13> Đối với các em, dành nhau với bạn các em nghĩ như thế nào:…………….

14> Khi làm hỏng một vật gì của người khác, các em làm gì:………………….

15> Ra đường, khi gặp một bạn dắt một cụ già qua đường, các em nghĩ như thế

nào:……………………………………………………………………………………

16> Kinh trọng người già, yêu thương trẻ, là một việc làm có cần thiết hay

không:…………………………………………………………………………………

17> Thường xnyên nói dối Mẹ, người lớn để đi chơi em nghĩ như thế nào:…….

18> Theo em một học sinh có đạo đức phải có những biểu hiện gì ( cái gì nên và

cái gì không nên )……………………………………………………………………

Rất cảm ơn sự cộng tác của các em.