VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ MINH
CHUYỂN ĐỔI MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG
NGHIỆP SANG ĐẤT Ở THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ MINH
CHUYỂN ĐỔI MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG
NGHIỆP SANG ĐẤT Ở THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành:Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN QUANG TUYẾN
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và có
nguồn trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên cứu của luận văn
không có sự trùng lặp với bất kỳ công trình nào đã công bố.
Hà Nội, tháng năm 2020
Tác giả
Lê Minh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN ĐỔI MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG
ĐẤT NÔNG NGHIỆP SANG ĐẤT Ở VÀ PHÁP LUẬT VỀ
CHUYỂN ĐỔI MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP SANG
ĐẤT Ở TẠI VIỆT NAM ................................................................................. 9
1.1. Lý luận về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang
đất ở ........................................................................................................... 9
1.2. Lý luận pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở .................................................................................... 20
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN ĐỔI MỤC
ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP SANG ĐẤT Ở VÀ THỰC
TIỄN THI HÀNH TẠI VIỆT NAM ............................................................ 33
2.1. Thực trạng pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở .................................................................................... 33
2.2. Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp sang đất ở tại Việt Nam ........................................ 51
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN
ĐỔI MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP SANG ĐẤT Ở
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH TẠI VIỆT NAM .................... 60
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp sang đất ở và nâng cao hiệu quả thi hành tại
Việt Nam ................................................................................................. 60
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở và nâng cao hiệu quả thi hành tại Việt Nam .......... 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 74
DANH MỤC VIẾT TẮT
HĐND: Hội đồng nhân dân
TN&MT: Tài nguyên và môi trường
UBND: Ủy ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền có nơi ở hợp
pháp” (khoản 1 Điều 22). Tuy nhiên, muốn có nơi ở hợp pháp thì con người
phải có đất để xây dựng nhà ở. Như vậy, giải quyết “bài toán” đất ở là điều
kiện tiên quyết và cần thiết để con người có chỗ ở. Ở nước ta, để có đất xây
dựng nhà ở thì một trong những phương thức chủ yếu và phổ biến là chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở. Một trong những yêu cầu
của hoạt động này là giải quyết hài hòa giữa nhu cầu có đất để xây dựng nhà ở
với vấn đề bảo vệ đất nông nghiệp nhằm bảo đảm an ninh lương thực quốc
gia, bảo vệ cuộc sống của hàng triệu hộ gia đình nông dân; tránh việc chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở ồ ạt, bừa bãi, không hợp lý
hoặc tham nhũng, tiêu cực, vì lợi ích nhóm. Đáp ứng yêu cầu này, pháp luật
về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở đã ra đời. Pháp
luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở là một chế
định cơ bản của pháp luật đất đai. Chế định này thường xuyên được sửa đổi,
bổ sung với việc ban hành Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003,
Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm tạo cơ sở
pháp lý cho việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở.
Tuy nhiên, cho dù có các quy định về việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở song thực tiễn thực hiện bộc lộ không ít yếu kém, sai
phạm như việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
không tuân theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt; vi phạm
quy định về thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; tổ chức, cá
nhân lợi dụng việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
để thực hiện hành vi trục lợi, làm giàu, kiếm lời bất chính hay việc chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở không đúng đối tượng v.v. Hậu
1
quả là nhiều thửa ruộng “bờ xôi, ruộng mật” canh tác cho năng suất cao bị
chuyển đổi mục đích thành đất ở ồ ạt khiến cho hàng nghìn hộ gia đình nông
dân bị mất đất sản xuất, rơi vào tình trạng đời sống khó khăn; diện tích đất
nông nghiệp bị giảm sút đáng kể đe dọa nghiêm trọng vấn đề an ninh lượng
thực quốc gia hay một số quan chức, doanh nghiệp, cá nhân lợi dụng việc làm
này để trục lợi, làm giàu bất chính … gây bức xúc trong dư luận xã hội. Điều
này tiềm ẩn nguy cơ xung đột xã hội làm mất ổn định chính trị, trật tự an toàn
xã hội. Vậy cần phải làm gì để khắc phục tình trạng nêu trên? Để trả lời câu
hỏi này thiết nghĩ cần có sự nghiên cứu, đánh giá có hệ thống, đầy đủ, toàn
diện về lý luận và thực tiễn pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở hiện nay. Có như vậy mới đưa ra giải pháp hoàn thiện
pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở và nâng
cao hiệu quả thi hành trong thời gian tới. Vì vậy, học viên lựa chọn đề tài
“Chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở theo pháp luật đất
đai ở Việt Nam hiện nay” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
“Chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở theo pháp
luật đất đai ở Việt Nam hiện nay” dành được sự quan tâm tìm hiểu của giới
luật học nước ta. Thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết có
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp được công bố mà tiêu biểu là một số công
trình, bài viết tiêu biểu sau đây: i) Đặng Kim Sơn (2008), Kinh nghiệm quốc
tế về nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội; ii) Phùng Hữu Phú, Nguyễn Viết Thông, Bùi Văn
Hưng (2009), Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn - Kinh nghiệm Việt
nam, kinh nghiệm Trung Quốc, Hội thảo Lý luận lần thứ tư giữa Đảng Cộng
Sản Việt Nam và Đảng Cộng Sản Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội; iii) Vũ Văn Tuấn (2017), Pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp, luận án tiến sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội;
2
iv) Ngô Đức Cát, Vũ Đình Thắng (2001), Giáo trình Phân tích chính sách
nông nghiệp, nông thôn, Nxb Thống kê, Hà Nội; v) Trần Thị Minh Châu
(2007), Về chính sách đất nông nghiệp ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội; vi) Nguyễn Quốc Hùng (2006), Đổi mới chính sách về
chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị
hóa ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; vii) Ngân hàng thế giới
(2011), Cơ chế Nhà nước thu hồi đất và chuyển dịch đất đai tự nguyện ở Việt
Nam; Phương pháp tiếp cận, định giá đất và giải quyết khiếu nại của dân, Hà
Nội; viii) Trung tâm Nghiên cứu nông nghiệp quốc tế của Australia (2007),
Phát triển nông nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam; ix) Viện Khoa học
Pháp lý - Bộ Tư pháp (2007), Xây dựng cơ chế pháp lý bảo vệ đất nông nghiệp
trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Bộ, Hà Nội; x) Nguyễn Danh Kiên (2012), Pháp luật về sử dụng đất nông nghiệp
ở Việt Nam, luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội; xi)
Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật Đất đai, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội; xii) Trung tâm Đào tạo từ xa - Đại học Huế (2013), Giáo trình Luật
Đất đai, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội v.v. Những công trình trên đây giải
quyết một số vấn đề lý luận và thực tiễn sau đây:
Một là, phân tích khái niệm và đặc điểm của đất nông nghiệp; vai trò và
phân loại đất nông nghiệp; phân tích cơ sở ra đời pháp luật về đất nông
nghiệp; khái niệm và đặc điểm; cấu trúc của pháp luật về đất nông nghiệp;
lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về đất nông nghiệp v.v.
Hai là, chế định chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp được
nghiên cứu lồng ghép trong việc giải quyết những vấn đề lý luận pháp luật về
đất nông nghiệp.
Ba là, phân tích thực trạng pháp luật về đất nông nghiệp (trong đó có
các quy định về chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp); đánh giá thực
3
tiễn thi hành của lĩnh vực pháp luật này.
Bốn là, đưa ra định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về đất nông
nghiệp và nâng cao hiệu quả thi hành tại Việt Nam.
Tuy nhiên, những công trình này phân tích nội dung các quy định về
đất nông nghiệp nói chung và quy định về chuyển mục đích sử dụng đất nông
nghiệp nói riêng của Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi
hành. Nay các quy định này không còn tính thời sự do đã bị Luật Đất đai năm
2013 thay thế. Mặt khác, việc nghiên cứu độc lập, chuyên sâu có hệ thống,
toàn diện chế định về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất
ở dường như còn ít công trình được công bố. Kế thừa kết quả nghiên cứu của
các công trình liên quan đến đề tài đã công bố, luận văn đi sâu tìm hiểu về
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở theo pháp luật đất
đai ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang
đất ở ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên
cứu cơ bản như sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở và pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở tại Việt Nam thông qua việc phân tích, luận giải các nội dung
cụ thể gồm: i) Khái niệm và đặc điểm của chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở; ii) Mục đích, ý nghĩa của chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp sang đất ở; iii) Các nguyên tắc của chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp sang đất ở; iv) Điều kiện chuyển đổi mục đích sử dụng đất
4
nông nghiệp sang đất ở; v) Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; vi) Sự cần thiết của việc ra đời
pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; vii) Các
yếu tố tác động đến pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang đất ở; viii) Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; ix) Cấu trúc pháp luật về chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở v.v
- Nghiên cứu nội dung của pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở và đánh giá thực tiễn thi hành ở nước ta.
- Đưa ra định hướng và giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở và nâng cao hiệu quả thi hành
trong tương lai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào một số nội dung chủ yếu
sau đây:
- Các quan điểm, đường lối của Đảng về tiếp tục đổi mới chính sách,
pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất
nước nói chung và chính sách, pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở trong nền kinh tế thị trường nói riêng.
- Các quy định về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành;
- Hệ thống quan điểm lý thuyết, trường phái học thuật, cơ sở khoa học
về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở.
- Thực tiễn thi hành pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở tại Việt Nam hiện nay ….
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một bản luận văn thạc sĩ luật, học viên giới hạn
5
phạm vi nghiên cứu ở những nội dung cụ thể sau:
- Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu, tìm hiểu các quy định về chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở của Luật Đất đai năm 2013 và
các văn bản hướng dẫn thi hành khu trú vào một số vấn đề cụ thể gồm các
trường hợp chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; điều kiện
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; thẩm quyền cho phép
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; trình tự, thủ tục
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; nghĩa vụ tài chính
trong trường hợp chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; xử lý
vi phạm pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở.
- Phạm vi về thời gian: Luận văn nghiên cứu các quy định về chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở từ năm 2013 (năm ban hành
Luật Đất đai năm 2013) đến nay.
- Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp
luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở trong phạm
vi cả nước.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, học viên sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ
bản sau đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin trong việc nghiên cứu bản chất, nguồn
gốc của sự vật, hiện tượng; nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của sự
vật, hiện tượng; nghiên cứu sự vật, hiện tượng đặt trong mối quan hệ tương
tác với sự vật, hiện tượng khác …
- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
i) Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp đối chiếu
… được sử dụng tại Chương 1 khi nghiên cứu lý luận về chuyển đổi mục đích
sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở và pháp luật về chuyển đổi mục đích sử
6
dụng đất nông nghiệp sang đất ở tại Việt Nam.
ii) Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh, phương pháp thống
kê, phương pháp tổng hợp ... được sử dụng tại Chương 2 khi nghiên cứu thực
trạng pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
và thực tiễn thi hành tại Việt Nam.
iii) Phương pháp bình luận, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn
giải … được sử dụng tại Chương 3 khi nghiên cứu giải pháp góp phần hoàn
thiện pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở và
nâng cao hiệu quả thi hành tại Việt Nam trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn có những đóng góp nhất định cho khoa học pháp lý Việt Nam
trên một số khía cạnh cơ bản sau đây:
- Hệ thống hóa, bổ sung và phát triển cơ sở lý luận pháp luật về chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở ở nước ta. Luận văn nghiên
cứu chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở dưới hai khía
cạnh chủ yếu: i) Nghiên cứu việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang đất ở dưới góc độ quản lý nhà nước trong mối quan hệ giữa cơ quan quản
lý nhà nước về đất đai với người sử dụng đất; ii) Nghiên cứu việc chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở dưới góc độ quyền của người sử
dụng đất trong mối quan hệ giữa những người sử dụng đất với nhau.
- Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp sang đất ở trong cả nước để đề xuất giải pháp hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả thi hành lĩnh vực pháp luật này tại Việt Nam trong thời
gian tới.
Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích không chỉ đối với các nhà lập pháp,
đối với đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về đất đai nói chung và quản lý đất
nông nghiệp nói riêng mà còn là tài liệu chuyên khảo có giá trị cho công tác
7
giảng dạy, học tập tại các cơ sở đào tạo luật học ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời cam đoan, danh mục các từ viết tắt, mục lục, mở đầu, kết
luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được bố cục với 03 chương cụ
thể như sau:
- Chương 1. Lý luận về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang đất ở và pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang
đất ở tại Việt Nam.
- Chương 2. Thực trạng pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở và thực tiễn thi hành tại Việt Nam.
- Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp sang đất ở và nâng cao hiệu quả thi hành tại Việt Nam
8
trong thời gian tới.
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN ĐỔI MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG
NGHIỆP SANG ĐẤT Ở VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN ĐỔI MỤC
ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP SANG ĐẤT Ở TẠI VIỆT NAM
1.1. Lý luận về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang đất ở
i) Khái niệm chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
Trên thực tế, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
là điều khó tránh khỏi do nhu cầu sử dụng đất ở ngày càng tăng bởi sự bùng
nổ dân số. Khái niệm chuyển đổi mục đích sử dụng đất nói chung và chuyển
đổi đất nông nghiệp sang đất ở nói riêng được sử dụng khá phổ biến trong đời
sống xã hội cũng như trong các văn bản pháp luật đất đai. Khái niệm này xuất
hiện trong Luật Đất đai năm 1987 và tiếp tục được ghi nhận trong Luật Đất
đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013. Luật Đất đai
năm 1987 đề cập đến chuyển mục đích sử dụng đất gián tiếp tại Điều 12 về
việc quyết định giao đất căn cứ vào kế hoạch hàng năm chuyển loại đất từ
mục đích sử dụng này sang mục đích sử dụng khác được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xét duyệt. Luật Đất đai năm 1993 ra đời cũng chưa đưa ra khái
niệm về chuyển mục đích sử dụng đất. Tiếp đó, Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Đất đai năm 2001 bổ sung Điều 24a, 24b về các trường hợp cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất và thẩm quyền cho phép chuyển mục đích
sử dụng đất của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong phần giải thích
thuật ngữ tại Điều 3 Luật Đất đai năm 2003 cũng không giải thích thế nào là
chuyển mục đích sử dụng đất. Luật Đất đai năm 2013 quy định các trường
hợp chuyển mục đích sử dụng đất. Như vậy, xét về mặt học thuật, khái niệm
chuyển mục đích sử dụng đất nói chung và chuyển đổi mục đích sử dụng đất
9
nông nghiệp sang đất ở nói riêng chưa được pháp luật đất đai hiện hành giải
thích chính thức. Trong các từ điển luật học, giải thích thuật ngữ luật học
cũng không đưa ra định nghĩa về các thuật ngữ này. Đây là một hạn chế,
khiếm khuyết; bởi nếu không có một sự hiểu thống nhất về khái niệm chuyển
mục đích sử dụng đất nói chung và chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở nói riêng sẽ tiềm ẩn sự tùy tiện, áp dụng không thống nhất
trên thực tế việc thực hiện pháp luật đất đai. Khắc phục khiếm khuyết này,
luận văn cố gắng xây dựng khái niệm chuyển mục đích sử dụng đất nói chung
và chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở nói riêng. Để có
thể hiểu thế nào là chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
thì trước hết phải giải mã nội hàm khái niệm chuyển mục đích sử dụng đất;
bởi lẽ, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở là trường hợp
cụ thể của chuyển mục đích sử dụng đất.
Xây dựng khái niệm về chuyển mục đích sử dụng đất, trước hết cần tìm
hiểu thế nào là mục đích sử dụng; mục đích sử dụng đất và chuyển đổi.
Theo Từ điển tiếng Việt (2018), “mục đích” có nghĩa là “cái vạch ra làm
đích để đạt cho được” [13, tr.820]; còn “sử dụng” có nghĩa là “đem dùng vào
mục đích nào đó” [13, tr.108]. Như vậy, có thể hiểu mục đích sử dụng là định
hướng và khai thác công dụng, đặc tính hữu ích của đối tượng nào đó vào một
hoặc một số mục tiêu cụ thể. Trong trường hợp pháp luật quy định cụ thể mục
đích sử dụng của đối tượng nào đó thì quy định đó tạo ra những hạn chế đối với
việc khai thác công dụng của đối tượng theo đúng mục đích đã xác định.
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: “Chuyển đổi: Đổi loại này ra loại
khác, theo tỷ lệ nào đó” [28, tr.175]
Theo Từ điển Luật học (2006):“Mục đích sử dụng đất là cách thức mà
Nhà nước phân loại đất đai và yêu cầu người quản lý phải tuân thủ các quy
định khi giao đất, cho thuê đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất...,
người sử dụng đất có nghĩa vụ phải sử dụng đúng mục đích đất được giao ghi
trong quyết định giao đất, cho thuê đất” [30, tr.545]
10
Tuy nhiên, pháp luật đất đai hiện hành không định nghĩa cụ thể thế nào
là mục đích sử dụng đất. Thông tư số 27/2018/TT-BTNMT ngày 14/12/2018,
Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ TN&MT) giải thích mục đích sử dụng đất
bằng cách căn cứ vào 3 nhóm đất, 19 loại đất cụ thể quy định tại Điều 10 Luật
Đất đai năm 2013 để xác định 61 loại đất cụ thể nhằm làm rõ phạm vi sử dụng
của từng loại đất. Thông qua các quy định của pháp luật về phân loại đất, chế
độ sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, có thể hiểu mục
đích sử dụng đất là mục đích mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định
cho một thửa đất cụ thể làm căn cứ để Nhà nước thực hiện các mục tiêu quản
lý đất đai, đồng thời để người sử dụng đất có thể sử dụng và khai thác công
dụng của thửa đất trong giới hạn của mục đích sử dụng đất nhằm thực hiện
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Trên thực tế, việc chuyển mục đích sử dụng đất đưa đến thửa đất được
chuyển từ nhóm đất này sang nhóm đất khác, ví dụ, chuyển đất nông nghiệp
thành đất phi nông nghiệp …Chuyển mục đích sử dụng đất được phân thành 2
nhóm: Chuyển mục đích sử dụng đất hợp pháp và chuyển mục đích sử dụng
đất bất hợp pháp (chuyển mục đích sử dụng đất trái phép). Từ một số phân
tích trên đây có thể hiểu khái niệm chuyển mục đích sử dụng đất như sau:
Chuyển mục đích sử dụng đất là sự thay đổi mục đích sử dụng đất ban
đầu được ghi nhận trong quyết định giao đất, cho thuê đất, công nhận mục
đích sử dụng đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo đúng căn cứ, điều
kiện, thẩm quyền, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm đáp ứng nhu
cầu của người sử dụng đất trong quá trình sử dụng đất.
Căn cứ vào khái niệm chuyển mục đích sử dụng đất và nội dung các quy
định về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở có thể hiểu:
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở là việc thay
đổi mục đích sử dụng đất ban đầu được xác định trong quyết định giao đất,
cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất của Nhà nước từ đất nông nghiệp
sang đất ở theo đúng các quy định của pháp luật.
11
ii) Đặc điểm chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
Thứ nhất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở dựa
trên chế độ sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và là
một nội dung của quản lý nhà nước về đất đai. Điều này thể hiện:
Một là, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở dựa
trên chế độ sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Có
nghĩa là không phải bất cứ cơ quan nhà nước nào cũng có thẩm quyền cho
phép người sử dụng đất được chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang đất ở mà chỉ cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được phép thực hiện
việc này.
Hai là, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở là một
trong những phương thức thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất
đai của Nhà nước. Bởi lẽ, chỉ có chủ sở hữu mới được phép quyết định số
phận pháp lý của đất thông qua việc giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền
sử dụng đất (QSDĐ), thu hồi đất và chuyển mục đích sử dụng đất …
Ba là, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở là một
nội dung quản lý nhà nước về đất đai. Có nghĩa là việc cho phép chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở do cơ quan quản lý đất đai thực
hiện. Kết quả của chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
được ghi nhận trong hồ sơ địa chính, sổ sách địa chính …
Thứ hai, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở vừa
mang quan hệ hành chính vừa mang quan hệ dân sự.
Quan hệ hành chính về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang đất ở thể hiện ở mối quan hệ giữa cơ quan quản lý đất đai với người sử
dụng đất trong việc cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất; đăng ký đất
đai vào sổ địa chính … Đây là mối quan hệ bất bình đẳng giữa các bên. Có
nghĩa là việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở có
được thực hiện trên thực tế hay không phụ thuộc chủ yếu vào cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Người sử dụng đất khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất
12
nông nghiệp sang đất ở phải tuân thủ điều kiện, trình tự, thủ tục …. Do Nhà
nước quy định. Chủ thể quyết định việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở là cơ quan nhà nước quản lý đất đai. Hình thức pháp
lý cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở là quyết
định hành chính của cơ quan quản lý đất đai.
Quan hệ dân sự về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất
ở thể hiện chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở là quyền của
người sử dụng đất. Có nghĩa là trong quá trình sử dụng đất, người sử dụng đất có
quyền chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở một cách chính
đáng. Quyền năng này được ghi nhận và bảo hộ bằng hệ thống pháp luật. Việc
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở hoàn toàn dựa trên cơ
sở tự nguyện, không bị ép buộc của người sử dụng đất.
Thứ ba, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở khác
với chuyển đổi QSDĐ ở một số khía cạnh cơ bản sau đây:
Chuyển đổi QSDĐ
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
13
1. Xét về bản chất Chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở không làm thay đổi chủ thể sử dụng đất, không làm thay đổi thửa đất, diện tích đất mà chỉ làm thay đổi mục đích sử dụng đất. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở thực chất là quan hệ hành chính giữa Nhà nước với người sử dụng đất. Nhà nước thực hiện việc cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở là một phương thực thưc hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn 1. Xét về bản chất Chuyển đổi QSDĐ không làm thay đổi mục đích sử dụng đất mà làm thay đổi vị trí địa lý của các thửa đất. Chuyển đổi QSDĐ thực chất là quan hệ dân sự dựa trên nguyên tắc tự do ý chí và tự nguyện, bình đẳng giữa người sử dụng đất với nhau. Việc chuyển đổi QSDĐ thực hiện trên cơ sở quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất được quy định trong Luật Đất đai năm 2013.
dân về đất đai.
2. Về chủ thể Chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở phát sinh giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với người sử dụng đất trong việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất. 2. Về chủ thể Chuyển đổi QSDĐ phát sinh giữa hộ gia đình, cá nhân với hộ gia đình, cá nhân trong việc chuyển đổi đất nông nghiệp cho nhau trong phạm vi xã, phường, thị trấn.
3. Về hình thức pháp lý chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở thực hiện bằng việc người sử dụng đất làm đơn xin chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở gửi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét và ra quyết định hành chính cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở. 3. Về hình thức pháp lý Hình thức pháp lý của chuyển đổi QSDĐ là hợp đồng dân sự có tên gọi hợp đồng chuyển đổi QSDĐ. Việc công chứng, chứng thức hợp đồng chuyển đổi QSDĐ theo yêu cầu của người sử dụng đất.
4. Về nghĩa vụ tài chính Người sử dụng đất chuyển đổi QSDĐ phải nộp phí, lệ phí về đất đai theo quy định của pháp luật v.v.
4. Về nghĩa vụ tài chính Người chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở phải nộp tiền sử dụng đất, phí theo quy định của pháp luật v.v.
1.1.2. Ý nghĩa của chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
i) Đối với Nhà nước
Một là, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng giúp Nhà nước
“giải quyết bài toán” đất đai phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước. Thông
14
qua việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở, Nhà nước
triển khai xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, xây dựng
các khu đô thị, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu kinh tế, khu công
nghệ cao v.v góp phần cải thiện tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, kinh
doanh và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của đất nước …
Hai là, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở khẳng
định vai trò đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà nước. Bởi lẽ, để
bảo đảm an ninh lương thực và duy trì “công ăn việc làm” ổn định cho hàng
triệu người nông dân, tránh việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở ồ ạt, không theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, không
tính đến hiệu quả kinh tế, gây lãng phí tài nguyên đất đai thì không phải cơ
quan nhà nước nào cũng có thẩm quyền cho phép chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp sang đất ở mà chỉ có cơ quan nhà nước có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật mới được thực hiện việc này. Mặt khác, việc cho
phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở còn là một
phương thức để Nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về
đất đai do pháp luật quy định.
Ba là, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở góp
phần động viên nguồn thu từ đất đai vào ngân sách nhà nước. Bởi lẽ, khi thực
hiện việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở, người sử
dụng đất phải thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước thông qua việc
nộp tiền sử dụng đất, phí, lệ phí về đất đai và điều tiết phần giá trị tăng thêm
từ đất đai không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại …
Bốn là, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở tạo ra
địa tô chênh lệch từ việc thay đổi mục đích sử dụng đất, góp phần làm gia
tăng giá trị của đất đai. Điều này làm cho đất đai ngày càng có giá trị và làm
tăng giá trị tổng tài sản của quốc gia v.v.
ii) Đối với người sử dụng đất
Một là, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở giải
15
quyết nhu cầu về đất sử dụng cho các mục đích đầu tư, sản xuất - kinh doanh
phi nông nghiệp của doanh nghiệp, nhà đầu tư trong và ngoài nước; làm tăng
hiệu quả sử dụng đất.
Hai là, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở nhằm
tạo nguồn cung (đầu vào) cho thị trường bất động sản (BĐS) ở nước ta và đáp
ứng nhu cầu về nhà ở của xã hội. Bởi lẽ, muốn có chỗ ở thì trước tiên con
người phải sở hữu nhà ở mà nhà ở được tạo ra thông qua việc xây dựng công
trình trên đất. Do đó, đất ở là điều kiện vật chất tiên quyết, không thể thiếu
được để tạo ra nhà ở. Lượng đất ở càng nhiều sẽ tạo ra lượng nhà ở càng lớn.
Ba là, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở góp
phần vào việc chuyển đổi cơ cấu việc làm và lao động. Khi một phần diện tích
đất nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sang đất ở dẫn đến một bộ phận
người lao nông bị mất đất canh tác, không có “công ăn việc làm” và mất thu
nhập ổn định. Điều này buộc họ phải đi đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp, tìm
kiếm công ăn việc làm mới như chuyển sang làm dịch vụ, buôn bán; tìm kiếm
việc làm ở các khu công nghiệp, ở các đô thị, thành phố lớn v.v.
1.1.3. Nguyên tắc của chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang
đất ở
Nguyên tắc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở là
nền tảng pháp lý cơ bản mà các chủ thể và các bên liên quan trong quan hệ
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở phải tuân thủ. Các
nguyên tắc này bao gồm:
Thứ nhất, nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu, thống nhất quản lý.
Nguyên tắc này chi phối việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở trên các khía cạnh cơ bản sau đây:
Một là, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
chỉ được tiến hành trên cơ sở người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho
16
thuê đất, công nhận QSDĐ. Có nghĩa là chỉ sau khi được Nhà nước giao đất,
cho thuê đất, công nhận QSDĐ thì người sử dụng đất mới được chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở.
Hai là, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
phải xin phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều này có nghĩa là:
Không phải người sử dụng đất có nhu cầu chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp sang đất ở là họ tự động thực hiện việc này mà phải xin
phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm
quyền bằng một quyết định hành chính cho phép thì người sử dụng đất mới
được chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở. Sở dĩ, người
sử dụng đất phải xin phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền bởi nếu chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở ồ ạt, tự do sẽ ảnh hưởng đến
an ninh lương thực quốc gia, “công ăn việc làm” của người nông dân do diện
tích đất nông nghiệp bị giảm sút nhanh chóng.
Không phải cơ quan nhà nước nào cũng có thẩm quyền cho phép
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở mà chỉ cơ quan nhà
nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật mới được thực hiện việc
này. Có nghĩa là cơ quan có thẩm quyền được pháp luật quy định là cơ quan
thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của Nhà nước mới
được cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở.
Thứ hai, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở phải
dựa trên quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là sự định hướng chiến lược cho việc
quản lý, sử dụng đất trong tương lai. Việc quản lý và sử dụng đất dựa trên quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất đảm bảo đất đai được sử dụng tiết kiệm, đúng
mục đích, có hiệu quả; ngăn ngừa việc giao, cho thuê đất bừa bãi; sử dụng đất
lãng phí, tùy tiện, bỏ hoang hóa đất đai v.v. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở tác động đến việc sử dụng đất nông nghiệp và gây ra
17
hậu quả về kinh tế - xã hội thể hiện:
Một là, diện tích đất nông nghiệp bị giảm sút do một bộ phận đất này bị
chuyển đổi mục đích sử dụng sang đất ở mà đất nông nghiệp lại là tư liệu sản
xuất đặc biệt không gì có thể thay thế được trong sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối. Diện tích đất nông nghiệp bị giảm sút
dẫn đến sản lượng lúa gạo và các hoa màu khác cũng bị sụt giảm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến vấn đề an ninh lương thực quốc gia.
Hai là, diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp khiến cho hàng ngàn hộ gia
đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp không có “công ăn việc làm” ổn
định, đời sống gia đình gặp nhiều khó khăn. Điều này khiến mục tiêu của
cách mạng “Thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng” không thực hiện được
và tiềm ẩn nhiều nguy cơ về thất nghiệp, trộm cắp và các tệ nạn xã hội …
Tuy nhiên, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở là
điều khó tránh khỏi do xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước và nhu cầu nội tại của người sử dụng đất. Để giải quyết hài hòa những
mâu thuẫn nếu trên thì việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang đất ở được thực hiện chặt chẽ, dựa trên quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
và đặt dưới sự giám sát, quản lý của Nhà nước.
Thứ ba, nguyên tắc ưu tiên và bảo vệ quỹ đất nông nghiệp.
Nguyên tắc này cho phối việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở ở một số điểm chủ yếu sau đây:
Một là, trong trường hợp thật cần thiết, Nhà nước mới cho phép chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở đối với một bộ phận đất
nông nghiệp. Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật đất đai và các lĩnh vực pháp luật
khác có liên quan. Song song với việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở, Nhà nước phải có kế hoạch khai hoang, phục hóa, phủ
xanh đất trống, đồi núi trọc; thâm canh, tăng vụ … để bù lại diện tích đất
nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sang đất ở.
18
Hai là, Nhà nước có kế hoạch đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp nhằm
đảm bảo “công ăn việc làm” ổn định lâu dài cho các hộ gia đình, cá nhân trực
tiếp sản xuất nông nghiệp bị mất đất sản xuất.
Ba là, Nhà nước phải ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghề tiên
tiến, hiện đại vào sản xuất nông nghiệp để nâng cao sản lượng lương thức bù
vào diện tích đất nông nghiệp bị chuyển đổi sang đất ở.
Bốn là, Nhà nước phải chú trọng phát triển các ngành nghề dịch vụ, đa
dạng hóa việc làm ở khu vực nông thôn; bảo vệ chặt chẽ diện tích đất trồng lúa,
hạn chế đến mức thấp nhất việc chuyển đất này sang sử dụng làm đất ở ….
Thứ tư, nguyên tắc Nhà nước điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất đai
do việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở.
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất tạo ra sự chênh
lệch địa tô rất lớn lên đến hàng ngàn tỷ đồng. Nhà nước phải có hệ thống
chính sách, pháp luật thống nhất, đầy đủ, chi tiết để điều tiết phần chênh lệch
về địa tô được tạo ra từ việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang đất ở vào ngân sách nhà nước thông qua việc thu tiền sử dụng đất, thuế
thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế sử dụng đất, thuế tài sản
do chuyển mục đích sử dụng đất, phí và lệ phí về đất đai … Trên cơ sở đó,
Nhà nước sử dụng nguồn tiền này để đầu tư khai hoang, phục hóa mở rộng
diện tích đất nông nghiệp bù vào số đất nông nghiệp bị chuyển đổi sang đất ở
hoặc áp dụng công nghiệp hiện đại vào thâm canh tăng vụ nâng cao sản lượng
lương thực. Kiên quyết không để sự chênh lệch về địa tô do chuyển đổi mục
đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở rơi “vào túi” các nhóm lợi ích của
một số cá nhân khiến họ giàu lên một cách nhanh chóng, làm gia tăng khoản
cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội v.v.
1.1.4. Các trường hợp chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
i) Trường hợp tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
Tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở là
19
trường hợp người sử dụng đất tự chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở mà không được sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và không tuân thủ các quy định của pháp luật về căn cứ, nguyên tắc,
trình tự, thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở v.v.
Tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở không
chỉ thể hiện thái độ coi thường pháp luật của người sử dụng đất; phá vỡ trật tự
quản lý đất đai xâm phạm quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai của
Nhà nước mà còn gây hệ lụy xấu đến vấn đề an ninh lương thực quốc gia.
Trên thực tế, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
diễn ra khá phổ biến ở các địa phương như tự ý xây dựng nhà trên đất nông
nghiệp; tự ý phân lô, bán nền trên đất nông nghiệp …Trường hợp tự ý chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở được xác định là hành vi vi
phạm pháp luật đất đai và phải chịu chế tài xử lý theo quy định của Luật Đất đai
năm 2013 và các đạo luật khác có liên quan. Để phát hiện và xử lý kịp thời,
nghiêm minh các trường hợp tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang đất ở phải tăng cường quản lý nhà nước về đất đai; tăng cường thanh tra,
kiểm tra đất đai; tiếp công dân, giải quyết, khiếu nại, tố cáo về đất đai v.v.
ii) Trường hợp chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở hợp pháp
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở hợp pháp là
trường hợp người sử dụng đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho
phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở tuân thủ đúng
quy định của pháp luật.
Trường hợp chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
hợp pháp không gây ra các hệ lụy cho quản lý nhà nước về đất đai như trường
hợp tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở. Trong
phạm vi của bản luận văn này, học viên đi sâu nghiên cứu việc chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở hợp pháp v.v.
1.2. Lý luận pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
20
sang đất ở
1.2.1. Cơ sở xây dựng pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở
Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở cần thiết
phải có sự điều chỉnh của pháp luật; bởi vì:
Thứ nhất, xuất phát từ những đặc điểm của pháp luật mà các biện pháp
quản lý khác không có được, đó là pháp luật có tính quy phạm, tính bắt buộc
chung, tính cưỡng chế và tính thích ứng. Hơn nữa, pháp luật có tính kiến tạo.
Tính kiến tạo thể hiện pháp luật khuyến khích, ghi nhận và bảo hộ quyền, lợi
ích hợp pháp của cá nhân (những hành vi xử sự phù hợp với lợi ích chung của
xã hội) và ngăn ngừa, xử lý các hành vi vi phạm quy tắc xử sự chung. Do đó,
pháp luật trở thành biện pháp có hiệu quả nhất được sử dụng để quản lý xã
hội nói chung và quản lý đất đai nói riêng (bao gồm quản lý việc chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở). Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật chứ
không phải bằng đạo lý” [4]
Thứ hai, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
quốc tế đặt ra yêu cầu phải giải quyết “bài toán” đất đai cho nhu cầu phát
triển. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ
nên việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở là điều khó
tránh khỏi. Việc chuyển đổi này tác động nhiều mặt về chính trị, kinh tế - xã
hội nếu không được kiểm soát, quản lý chặt chẽ như đất nông nghiệp ồ ạt
chuyển mục đích sử dụng sang đất ở mà không tính toán hợp lý, không coi
trọng tính hiệu quả sẽ làm cho nhiều hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất
nông nghiệp bị mất đất canh tác ảnh hưởng đến mục tiêu của cách mạng là
thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng”; người nông dân bị mất “công ăn
việc làm” ổn định lâu dài, rơi vào hoàn cảnh đời sống gặp khó khăn, trong khi
đất nông nghiệp chuyển đổi mục đích sử dụng sử dụng lãnh phí, kém hiệu
21
quả; hoặc có một số quan chức và doanh nghiệp cấu kết với nhau để lợi dụng
việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở nhằm hưởng sự
chênh lệch về địa tô do thay đổi mục đích sử dụng đất tạo ra với giá trị lên
đến hàng chục, thậm chí hàng trăm tỷ đồng … Để ngăn ngừa những hệ lụy
nêu trên cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật đối với quan hệ chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở bằng việc Nhà nước xây
dựng, ban hành các quy định về vấn đề này.
Thứ ba, đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng là nguồn tài
nguyên thiên nhiên hữu hạn, cố định về vị trí địa lý, không di dời được và bị
giới hạn về diện tích, không gian. Hơn nữa, trong số các loại đất thì đất nông
nghiệp (đặc biệt là đất trồng lúa) lại có vị trí đặc biệt quan trọng đối với một
nước nông nghiệp như Việt Nam - nơi có 56 triệu người sống ở khu vực nông
thôn. Như vậy, yếu tố “cung” về đất đai là có hạn, trong khi đó, nhu cầu sử
dụng đất ở ngày càng tăng dọ sự gia tăng dân số nói chung và sự gia tăng dân
số (cả về sinh học và cơ học) nói riêng ở các đô thị, các thành phố lớn nói
riêng. Vậy làm thế nào để giải quyết hài hòa mâu thuẫn giữa việc quản lý, bảo
vệ chặt chẽ quỹ đất nông nghiệp có ý nghĩa quan trọng về chính trị, kinh tế -
xã hội với nhu cầu chuyển một phần diện tích đất này sang sử dụng vào mục
đích để ở nhằm đảm bảo cho “Công dân có quyền có chỗ ở” - một trong
những quyền con người và quyền cơ bản của công dân - được ghi nhận trong
Hiến pháp năm 2013. Để giải quyết mâu thuẫn này, Nhà nước phải dựa trên hệ
thống pháp luật bởi pháp luật là đại lượng công bằng để giải quyết các vấn đề
không công bằng trong xã hội. Đây là một lý do biện luận cho sự ra đời của pháp
luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở.
Thứ tư, thực tiễn cho thấy sự thay đổi mục đích sử dụng đất từ đất có
giá trị thấp sang đất có giá trị cao tạo ra chênh lệch về địa tô rất lớn mà điển
hình là việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở. Nhận
thấy được nguồn lợi béo bở của việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
22
nghiệp sang đất ở mang lại có giá trị lên đến hàng trăm tỷ đồng (thậm chí còn
cao hơn nữa); các nhóm lợi ích cấu kết, lợi dụng, xâu xé nguồn tài nguyên đất
đai thông qua việc đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở nhằm
chiếm đoạt địa tô chênh lệch được tạo ra từ việc thay đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp. Đây có lẽ là sự tham nhũng lớn nhất trong quản lý và sử
dụng đất đai gây bất bình trong xã hội. Sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu bị lợi dụng, bị bóp méo bởi sự cấu kết của một số
quan chức với giới đầu tư, doanh nghiệp (tất nhiên không phải là tất cả các
nhà đầu tư, doanh nghiệp) để chiếm đoạt sự chênh lệch về địa tô có giá trị lên
đến hàng trăm tỷ đồng do việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang đất ở gây ra sự bức xúc trong xã hội và khiến khẩu hiệu “dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” dường như là cái “bánh vẽ” trong mắt
những người nông dân nghèo bị mất đất canh tác, những đối tượng yếu thế
trong xã hội. Vậy phải làm gì để sự chênh lệch về địa tô được tạo ra do sự
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở được điều tiết vào
ngân sách nhà nước sử dụng cho các mục đích chung của cộng đồng thay vì
“chảy vào túi” các lợi ích nhóm. Muốn vậy, Nhà nước phải xây dựng pháp
luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở với cơ chế
quản lý chặt chẽ; chế tài xử lý nghiêm minh để trừng trị, răn đe đối với các
hành vi vi phạm trên thực tế v.v.
1.2.2. Khái niệm pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở
Pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
là một chế định của pháp luật đất đai. Nó bao gồm tổng hợp các quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng
chế của Nhà nước nhằm điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở đảm bảo tiết
kiệm, sử dụng đúng mục đích
23
Ngoài các đặc điểm của pháp luật đất đai, pháp luật về chuyển đổi mục
đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở có một số đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang đất ở là lĩnh vực pháp luật tổng hợp. Nó bao gồm quy phạm pháp luật
đất đai; quy phạm pháp luật hành chính; quy phạm pháp luật hình sự; quy
phạm pháp luật tài chính; quy phạm pháp luật quy hoạch …
Pháp luật đất đai quy định về căn cứ, điều kiện, nguyên tắc chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; thẩm quyền cho phép chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; vấn đề đăng ký đất đai, cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) sau khi chuyển đổi mục
đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở …
Pháp luật hành chính quy định về xử lý vi phạm hành chính trong chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; thẩm quyền của các cơ quan
hành chính trong quản lý hành chính nói chung và quản lý đất đai nói riêng …
Pháp luật hình sự quy định trách nhiệm hình sự, chế tài hình sự áp dụng
đối với hành vi vi phạm pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở bị xác định là tội phạm …
Pháp luật tài chính quy định nghĩa vụ của người sử dụng đất thực hiện
nghĩa vụ tài chính; trình tự, thủ tục thực hiện nghĩa vụ tài chính khi chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở…
Pháp luật quy hoạch quy định các loại quy hoạch (trong đó có quy
hoạch đất đai), nguyên tắc chung về lập, xét duyệt, điều chỉnh quy hoạch; vấn
đề vi phạm quy hoạch và xử lý vi phạm quy hoạch ….
Hai là, pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang
đất ở thuộc lĩnh vực pháp luật công.
Pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước với người sử dụng đất trong chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở - đây là mối quan hệ bất
24
bình đẳng về địa vị pháp lý giữa Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu
toàn dân về đất đai, có chức năng thống nhất quản lý đất đai với người sử
dụng đất trong việc thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai.
Ba là, pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang
đất ở liên quan chặt chẽ đến pháp luật nông nghiệp.
Bởi lẽ, hoạt động nông nghiệp chỉ có thể thực hiện được dựa trên cơ sở
sử dụng đất nông nghiệp. Có nghĩa là trong hoạt động nông nghiệp, đất nông
nghiệp đóng vai trò là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì có thể thay thế được.
Nó vừa là tư liệu lao động vừa là đối tượng lao động mà con người tác động
vào đất nông nghiệp để tạo ra của cải vật chất. Đất nông nghiệp cùng với các
công cụ sản xuất khác của con người tác động vào cây trồng, vật nuôi cho ra
sản phẩm có giá trị đáp ứng nhu cầu của con người. Sự giảm sút, thu hẹp diện
tích đất nông nghiệp do chuyển đổi mục đích sử dụng sang đất ở có ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, pháp luật về
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở liên quan chặt chẽ
đến pháp luật nông nghiệp v.v.
1.2.3. Nội dung pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang đất ở
Pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật có liên quan do Nhà nước ban
hành và được phân thành một số nội dung cơ bản sau đây:
Một là, quy định về các trường hợp chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở;
Hai là, quy định về căn cứ chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang đất ở;
Ba là, các quy định về điều kiện chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở.
Bốn là, các quy định về thẩm quyền của cơ quan nhà nước cho phép
25
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở;
Năm là, xử lý vi phạm pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở;
Sáu là, nhóm quy định về nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất khi
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở gồm quy định về nộp
tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất; quy định về thuế thu nhập từ việc chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; quy định về phí, lệ phí liên quan
đến việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở v.v.
Bảy là, nhóm quy định về trình tự, thủ tục chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp sang đất ở; quy định về trình tự, thủ tục giải quyết
khiếu nại, tố cáo về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở;
quy định trình tự, thủ tục về đăng ký đất đai và cấp GCNQSDĐ sau khi
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; quy định về trình
tự, thủ tục xử lý vi phạm pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở v.v.
1.2.4. Các yếu tố đảm bảo thi hành pháp luật về chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp sang đất ở
Thứ nhất, sự hoàn thiện của hệ thống chính sách, pháp luật đất đai.
Như chúng ta đã biết, muốn thi hành pháp luật về chuyển đổi mục đích
sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở thì trước tiên phải xây dựng, hoàn thiện
hệ thống chính sách, pháp luật về vấn đề này. Bởi lẽ, nếu không có hệ thống
chính sách, pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang
đất ở thì không thể triển khai thi hành được; vì không có cơ sở pháp lý, căn cứ
pháp lý để thực hiện. Hay nói cách khác, hệ thống chính sách, pháp luật về
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở là “điều kiện vật
chất” cần thiết cho việc thi hành lĩnh vực pháp luật này. Mức độ hoàn thiện
của hệ thống chính sách, pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở là yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến hiệu quả thi
26
hành. Có nghĩa là hệ thống chính sách, pháp luật về chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp sang đất ở ngày càng hoàn thiện, thống nhất, tương
thích, đồng bộ thì hiệu quả thi hành ngày càng cao và ngược lại. Do đó, để
đảm bảo thi hành pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang đất ở thì một trong những yếu tố cần thiết là phải xây dựng, hoàn thiện
hệ thống chính sách, pháp luật về vấn đề này.
Thứ hai, năng lực, trình độ chuyên môn, sự hiểu biết pháp luật và phẩm
chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước thực thi pháp luật về
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở.
Trên thực tế, mọi việc đều do con người quyết định. Điều này vận dụng
vào lĩnh vực thi hành pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở có nghĩa là pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở cho dù được xây dựng, hoàn thiện thống nhất, đồng
bộ đến đâu đi chăng nữa nhưng khó đi vào cuộc sống, khó phát huy hiệu quả
tích cực trên thực tế nếu những chủ thể thực thi, áp dụng pháp luật để xử lý
các công việc hàng ngày trong quản lý đất đai không đủ năng lực, trình độ,
phẩm chất, tư cách đạo đức. Hay nói cách khác, năng lực, trình độ chuyên
môn, sự hiểu biết pháp luật và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, công
chức nhà nước nói chung và cán bộ, công chức làm nhiệm vụ quản lý nhà
nước về đất đai nói riêng là yếu tố quyết định đến mức độ, hiệu quả thực thi
pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở. Bởi lẽ,
đây là những chủ thể trực tiếp chuyển tải pháp luật về chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp sang đất ở vào cuộc sống thông qua việc áp dụng các
quy định của pháp luật để giải quyết, xử lý những tình huống phát sinh trong
thực tiễn quản lý đất đai. Muốn áp dụng chính xác, có hiệu quả pháp luật về
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở vào cuộc sống đòi
hỏi đội ngũ cán bộ, công chức làm nhiệm vụ quản lý đất đai phải có năng lực,
trình độ chuyên môn, sự hiểu biết pháp luật và phẩm chất đạo đức tốt.
Thứ ba, ý thức pháp luật của người dân nói chung và người sử dụng đất
nói riêng.
27
Hành động của con người được thực hiện bởi một quá trình tư duy
phức tạp dưới sự chỉ huy của bộ não. Các thông tin thu thập được bộ não xử
lý và đưa ra cách thức mà nó cho rằng là tối ưu, hợp lý. Ý thức của con người
thể hiện trình độ nhận thức thế giới khách quan. Không phải con người khi
sinh ra là đã có nhận thức đúng đắn về thế giới xung quanh. Trải quá một quá
trình phát triển của bộ não và sự tích lũy kinh nghiệm của thực tiễn thì con
người mới hình thành nên ý thức. Trong ý thức con người thì ý thức pháp luật
là phức tạp nhất; bởi lẽ, con người phải hiểu biết pháp luật thì mới hình thành
nên ý thức pháp luật đúng đắn. Khi có ý thức pháp luật đúng thì con người tự
điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Nếu
đạt được điều này thì có nghĩa là pháp luật được thi hành có hiệu quả trên
thực tế. Vì vậy, pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang đất ở muốn thực hiện có hiệu quả thì phụ thuộc vào một trong những yếu
tố là ý thức pháp luật của người dân nói chung và người sử dụng đất nói
riêng. Để hình thành ý thức pháp luật nói chung và ý thức pháp luật đất đai
nói riêng, con người phải thông qua một quá trình giáo dục, bồi dưỡng, tuyên
truyền, phổ biến pháp luật lâu dài, thường xuyên và có hiệu quả.
Thứ tư, cơ chế phối, kết hợp giữa các cơ quan nhà nước, các cấp, các
ngành và các đoàn thể xã hội trong thực thi pháp luật về chuyển đổi mục đích
sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở.
Thực thi pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang đất ở là công việc không hề đơn giản. Nó trực tiếp “động chạm” đến lợi
ích của nhiều đối tượng và liên quan đến nhiều lĩnh vực quản lý của các cấp,
các ngành. Đó là chưa kể lợi ích của các chủ thể, lợi ích của các cấp, các
ngành không đồng nhất; thậm chí mâu thuẫn, trái ngược nhau. Do đó, việc
thực thi pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
sẽ gặp nhiều khó khăn, trở ngại nếu cơ chế phối, kết hợp giữa các cơ quan nhà
nước, các cấp, các ngành và các đoàn thể xã hội không hiệu quả và ngược lại.
28
Điều này lý giải một trong những điều kiện đảm bảo thực thi pháp luật về
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở, đó là: cơ chế phối,
kết hợp giữa các cơ quan nhà nước, các cấp, các ngành và các đoàn thể xã hội.
Thứ năm, điều kiện về vốn và cơ sở vật chất khác.
Thực tế cho thấy không thể làm bất cứ điều gì mà thiếu điều kiện vốn
và cơ sở vật chất khác. Việc thực thi pháp luật về chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp sang đất ở cũng không phải là một trường hợp ngoại lệ.
Vốn được sử dụng để trang trải cho các chi phí quản lý nhà nước về đất đai; cho
hoạt động đăng ký đất đai, cấp GCNQSDĐ, chỉnh lý hồ sơ địa chính, bản đồ địa
chính … và trả lương, đóng bảo hiểm cho cán bộ, công chức thừa hành công vụ.
Cơ sở vật chất được hiểu là trụ sở, văn phòng và các máy móc, trang thiết bị làm
việc của đội ngũ cán bộ, công chức làm nhiệm vụ quản lý đất đai ….
Thứ sáu, yếu tố tâm lý, thị hiểu, văn hóa truyền thống.
Xây dựng, thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật về
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở nói riêng khó tránh
khỏi sự ảnh hưởng của các yếu tố đặc điểm về văn hóa, tâm lý truyền thống,
phong tục tập quán. Theo Phạm Duy Nghĩa “Người phương Tây lấy cá nhân
làm trung tâm của pháp luật, chủ thể của pháp luật là người - dù là tự nhiên
hay pháp nhân. Cá nhân lấy khế ước làm công cụ nền tảng để giao dịch, từ
việc nhỏ cho đến lớn hết thảy dựa trên khế ước, tổ chức xã hội cũng là khế
ước đối với họ - khế ước xã hội. Người Việt Nam lấy gia đình làm trung tâm,
dường như từ nhà tôi, nhà hàng, nhà tàu cho đến nhà nước - đại sự quốc gia,
hết thảy đều bắt nguồn từ nhà. Công cụ nền tảng của gia đình không phải là
khế ước, mà là tôn ti trật tự. Gia đình, họ tộc, xóm làng, quốc gia đều là
những cộng đồng từ nhỏ đến lớn, trong đó con người phải biết vị trí của mình
thì trật tự mới yên ổn. Ngôi thứ trong cộng đồng đôi khi trở nên quan trọng
hơn là con người ẩn sau ngôi thứ đó. Vì lẽ đó, người Việt Nam quan tâm
nhiều hơn đến bổn phận và nghĩa vụ trong cộng đồng, luật pháp không quen
29
được xem là khế ước giữa những nhóm lợi ích hay cá nhân trong xã hội. Hai
tư duy Đông, Tây này không dễ hòa vào làm một, chưa rõ bên nào văn minh,
bên nào lạc hậu, cũng tựa như đông và tây y đều chữa khỏi bệnh cho người
nhưng bằng các triết lý khác nhau” [10, tr.21]. Điều này cho thấy nhận thức
truyền thống, các yếu tố văn hóa, phong tục, tập quán chi phối mạnh mẽ đến
hành vi ứng xử, cấu trúc tổ chức gia đình, xã hội ở nước ta. Hiệu quả xây
dựng và thực hiện pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang đất ở khó tránh khỏi sự ảnh hưởng của đặc điểm văn hóa, ý thức, tâm lý
truyền thống của người dân … Khi đặc điểm văn hóa, ý thức, tâm lý truyền
thống của người dân tiến bộ, phù hợp với quan điểm của Đảng; chính sách,
pháp luật của Nhà nước thì việc thực thi pháp luật đạt hiệu quả cao và ngược
lại. Tiếp cận tìm hiểu về vấn đề này lý giải vì sao pháp luật nói chung và pháp
luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở nói riêng khi
đi vào cuộc sống lại gặp nhiều khó khăn, trở ngại ở khu vực nông thôn, vùng
30
sâu, vùng xa hơn các thành phố, khu đô thị…
Tiểu kết chương 1
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở và pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở có thể rút ra một số kết luận cơ bản như sau:
1. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở là điều khó
tránh khỏi. Điều này, xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước và từ nhu cầu nội tại của chính người sử dụng đất. Bên cạnh những mặt
tích cực, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở cũng
tiềm ẩn hệ lụy về chính trị, kinh tế - xã hội nếu thực hiện ồ ạt, không hợp lý,
không tính đến hiệu quả kinh tế như diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp đe
dọa đến an ninh lương thực quốc gia; người nông dân bị mất đất canh tác,
không có “công ăn việc làm” ổn định, lâu dài đời sống gặp khó khăn và ảnh
hưởng đến việc thực hiện mục tiêu của cách mạng là “Người cày có ruộng”
…
2. Để giải quyết hài hòa mâu thuẫn giữa việc chuyển đổi mục đích sử
dụng một phần diện tích đất nông nghiệp sang đất ở với yêu cầu bảo vệ chặt
chẽ đất nông nghiệp (đặc biệt là quỹ đất trồng lúa) thì pháp luật về chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở được xây dựng và ban hành. Sự
ra đời của lĩnh vực pháp luật này tạo cơ sở pháp lý cho việc điều chỉnh các
quan hệ về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở.
Pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
thuộc lĩnh vực pháp luật công. Nó bao gồm quy phạm pháp luật của Luật Đất
đai, quy phạm pháp luật của Luật Hành chính, quy phạm pháp luật của Luật
Quy hoạch v.v. Các quy định của pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp sang đất ở được chia thành nhóm quy định chung; nhóm quy
định về nội dung chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở;
nhóm quy định về trình tự, thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở; nhóm quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo; giải quyết
31
tranh chấp và xử lý vi phạm pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở v.v.
3. Pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất
ở có được thực thi có hiệu quả trên thực tế hay không phụ thuộc vào một số
điều kiện đảm bảo. Các điều kiện này bao gồm: Điều kiện về hệ thống chính
sách, pháp luật; điều kiện về năng lực, trình độ chuyên môn, sự hiểu biết pháp
luật và phẩm chất, tư cách đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức làm nhiệm
vụ quản lý đất đai; điều kiện về ý thức pháp luật của người dân nói chung và
ý thức pháp luật của người sử dụng đất nói riêng; điều kiện về cơ chế phối
hợp giữa các cấp, các ngành và các tổ chức xã hội; điều kiện về vốn và cơ sở
32
vật chất khác; điều kiện về tâm lý, văn hóa truyền thống v.v.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN ĐỔI MỤC ĐÍCH
SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP SANG ĐẤT Ở VÀ THỰC TIỄN
THI HÀNH TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở
2.1.1. Các trường hợp chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang
đất ở
Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở gây ra
hệ lụy về chính trị, kinh tế - xã hội như đã phân tích tại Chương 1. Vì vậy,
Điều 57 của Luật Đất đai quy định việc chuyển đất nông nghiệp sang đất phi
nông nghiệp thuộc các trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất phải được
phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở thuộc trường hợp chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp; nên phải được sự cho phép của có
quan nhà nước có thẩm quyền. Để tránh tình trạng lợi dụng sự không rõ ràng
thực hiện việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở ồ ạt,
bừa bãi vì lợi ích nhóm, tham nhũng, tiêu cực; Luật Đất đai năm 2013 quy
định cụ thể các trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang
đất ở, bao gồm:
- Đất nông nghiệp có nguồn gốc được giao không thu tiền sử dụng đất,
nay được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển sang sử dụng
làm đất ở.
- Đất nông nghiệp có nguồn gốc được Nhà nước giao có thu tiền sử
dụng đất, chuyển sang sử dụng làm đất ở hoặc đất nghĩa trang, nghĩa địa có
33
thu tiền sử dụng đất;
- Đất nông nghiệp có nguồn gốc được Nhà nước cho thuê đất nay
chuyển sang sử dụng làm đất ở.
Sở dĩ Luật Đất đai năm 2013 chú trọng đến việc chuyển đổi mục đích
sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở không chỉ nhằm mục đích bảo vệ chặt chẽ
đất nông nghiệp mà còn đảm bảo việc động viên nguồn thu từ đất đai vào
ngân sách nhà nước thông qua việc thu tiền sử dụng đất; điều tiết phần giá trị
tăng thêm từ đất đai không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại; các
khoản phí và lệ phí về đất đai v.v.
2.1.2. Căn cứ chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
Không phải bất cứ trường hợp sử dụng đất nông nghiệp nào cũng được
chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang đất ở. Việc chuyển đổi mục đích sử
dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất ở được thực hiện theo trình tự, thủ tục
chặt chẽ do pháp luật quy định mà trước hết là phải tuân thủ quy định về căn
cứ giao đất, cho thuê đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Điều 52 của Luật
Đất đai 2013 năm 2013 quy định chuyển đổi mục đích sử dụng đất nói chung
và chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở nói riêng phải
dựa trên các căn cứ sau đây:
Thứ nhất, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất
ở phải phù hợp với kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Theo đó, mục đích sử dụng đất sau
khi chuyển đổi phải được thể thiện trong kế hoạch sử dụng đất cấp huyện, bao
gồm cả thông tin về vị trí, diện tích đất phải thu hồi để thực hiện dự án nhà ở
và phù hợp với bản đồ kế hoạch sử dụng đất cấp huyện.
Đây là một điểm mới của Luật Đất đai năm 2013 khi quy định căn cứ
cho phép chuyển mục đích sử dụng đất là “Kế hoạch sử dụng đất hàng năm
của cấp huyện”. Điều này nhằm khắc phục tình trạng giao đất, cho thuê đất,
chuyển mục đích sử dụng đất tràn lan (thường tập trung vào những năm đầu
34
của kỳ kế hoạch sử dụng đất 5 năm trước đây). Hơn nữa, việc chuyển đổi mục
đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở căn cứ vào kế hoạch sử dụng đất
hàng năm của cấp huyện đảm bảo nguyên tắc “cần đất đến đâu thì sử dụng
đến đấy”, tránh tình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
ồ ạt, không tính đến hiệu quả kinh tế dẫn đến bỏ hoang hóa, gây lãng phí tài
nguyên đất đai.
Thứ hai, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
phải dựa trên cơ sở nhu cầu sử dụng đất thể hiện trong đơn xin phép chuyển
mục đích sử dụng đất; các dự án nhà ở, khu đô thị được thể hiện trong luận
chứng kinh tế-kỹ thuật, báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án, văn bản đề nghị
thực hiện dự án, bản đề xuất thực hiện dự án. Trong các tài liệu này phải xác
định rõ mục tiêu, quy mô của dự án nhà ở, khu đô thị làm căn cứ để Nhà nước
xem xét, đánh giá hiệu quả sử dụng đất mà dự án đó có thể mang lại.
Như vậy, pháp luật đất đai hiện hành dựa vào nhu cầu sử dụng đất của
người sử dụng để xem xét việc cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở. Có nghĩa là chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở gắn với nhu cầu sử dụng đất: Nếu nhu cầu sử dụng đất lớn
thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ xem xét, cho phép chuyển đổi mục
đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở với diện tích lớn và ngược lại nhằm
đảm bảo việc sử dụng đất đúng mục đích, tiết kiệm, đạt hiệu quả kinh tế.
2.1.3. Thẩm quyền cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang đất ở
Như phần trên đã đề cập, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang đất ở là một phương thức thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân
về đất đai của Nhà nước. Nó được thực hiện dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước.
Vì vậy, không phải cơ quan nhà nước nào cũng có thẩm quyền cho phép chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở mà chỉ cơ quan nhà nước có
thẩm quyền được quy định trong Luật Đất đai năm 2013 mới được thực hiện
35
việc này. Điều 59 của Luật Đất đai năm 2013 quy định về thẩm quyền giao đất,
cho thuê đất, cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất (trong đó có chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở). Cụ thể:
Thứ nhất, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (UBND cấp tỉnh) quyết định giao
đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trong các trường
hợp sau đây:
a) Giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối
với tổ chức;
b) Giao đất đối với cơ sở tôn giáo;
c) Giao đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định tại khoản 3 Điều 55 của Luật
Đất đai năm 2013;
d) Cho thuê đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định tại điểm đ và điểm e khoản 1
Điều 56 của Luật Đất đai năm 2013;
đ) Cho thuê đất đối với tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao.
Thứ hai, UBND cấp huyện quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất trong các trường hợp sau đây:
a) Giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối
với hộ gia đình, cá nhân. Trường hợp cho hộ gia đình, cá nhân thuê đất, cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp để sử dụng vào mục đích
thương mại, dịch vụ với diện tích từ 0,5 héc ta trở lên thì phải có văn bản
chấp thuận của UBND cấp tỉnh trước khi quyết định;
b) Giao đất đối với cộng đồng dân cư.
Thứ ba, UBND cấp xã cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng
vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn.
Thứ tư, cơ quan có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất, cho
36
phép chuyển mục đích sử dụng đất nêu trên không được ủy quyền.
Từ quy định trên đây cho thấy UBND cấp tỉnh có thẩm quyền cho phép
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở đối với tổ chức;
UBND cấp huyện có thẩm quyền cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở đối với hộ gia đình, cá nhân.
2.1.4. Điều kiện giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng
đất để thực hiện dự án đầu tư
Để quản lý chặt chẽ việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang đất phi nông nghiệp nói chung và sang đất ở nói riêng nhằm bảo vệ vốn
đất nông nghiệp, tránh tình trạng lãng phí tài nguyên đất đai; tạo ra sự chênh
lệch về địa tô do việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất rơi vào “túi” các
nhóm lợi ích v.v; Luật Đất đai năm 2013 bổ sung quy định về điều kiện giao
đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án;
cụ thể:
Thứ nhất, đối với dự án có sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ,
đất rừng đặc dụng vào các mục đích khác mà không thuộc trường hợp được
Quốc hội quyết định, Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư thì
cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ được quyết định giao đất, cho thuê đất,
cho phép chuyển mục đích sử dụng đất khi có một trong các văn bản sau đây:
a) Văn bản chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ đối với trường hợp
chuyển mục đích sử dụng từ 10 héc ta đất trồng lúa trở lên; từ 20 héc ta đất
rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng trở lên;
b) Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh (HĐND cấp tỉnh) đối
với trường hợp chuyển mục đích sử dụng dưới 10 héc ta đất trồng lúa; dưới
20 héc ta đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng.
Thứ hai, đối với dự án sử dụng đất tại đảo và xã, phường, thị trấn biên
giới, ven biển thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ được quyết định giao
đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất khi được sự chấp
37
thuận bằng văn bản của các bộ, ngành có liên quan.
Thứ ba, người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư phải có các điều kiện sau đây
(Điều 58 Luật đất đai 2013):
a) Có năng lực tài chính để bảo đảm việc sử dụng đất theo tiến độ của
dự án đầu tư;
b) Ký quỹ theo quy định của pháp luật về đầu tư;
c) Không vi phạm quy định của pháp luật về đất đai đối với trường hợp
đang sử dụng đất do Nhà nước giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu
tư khác.
Cụ thể hóa khoản 2 Điều 58 của Luật Đất đai năm 2013, Nghị định số
43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Đất đai (sau đây gọi là Nghị định số 43/2014/NĐ-CP)
quy định về vấn đề lấy ý kiến các Bộ đối với dự án sử dụng đất tại đảo và xã,
phường, thị trấn biên giới, ven biển như sau:
Một là, đối với dự án có vốn đầu tư trực tiếp của nhà đầu tư nước ngoài
(ĐTNN) tại đảo và xã, phường, thị trấn biên giới, ven biển không thuộc
trường hợp Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, quyết định đầu tư thì
trước khi xem xét chấp thuận chủ trương đầu tư, UBND cấp tỉnh gửi văn bản
xin ý kiến của các Bộ theo quy định sau đây:
a) Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao đối với khu đất sử dụng
tại đảo và xã, phường, thị trấn biên giới;
b) Bộ Quốc phòng đối với khu đất sử dụng tại xã, phường, thị trấn ven
biển liền kề với khu đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, trừ trường hợp đã
xác định khu vực cấm theo quy định;
c) Bộ Công an đối với khu đất sử dụng tại xã, phường, thị trấn ven biển
liền kề với khu đất sử dụng vào mục đích an ninh.
Hai là, trong thời hạn không quá 20 ngày kể từ ngày nhận được văn
bản xin ý kiến, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao có ý kiến bằng
38
văn bản gửi UBND cấp tỉnh.
Ba là, trường hợp dự án có vốn đầu tư trực tiếp của nhà ĐTNN tại đảo
và xã, phường, thị trấn biên giới, ven biển không thuộc trường hợp Quốc hội,
Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, quyết định đầu tư có sử dụng đất trồng lúa,
đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều
58 của Luật Đất đai năm 2013 thì việc xin ý kiến các Bộ được thực hiện trước
khi trình Thủ tướng Chính phủ.
Mặt khác, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP còn quy định chi tiết về điều
kiện đối với người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư; cụ thể:
1. Dự án có sử dụng đất phải áp dụng điều kiện quy định tại Khoản 3
Điều 58 của Luật Đất đai năm 2013 gồm:
a) Dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để cho thuê hoặc để bán
kết hợp cho thuê theo quy định của pháp luật về nhà ở;
b) Dự án đầu tư kinh doanh bất động sản gắn với quyền sử dụng đất
theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản;
c) Dự án sản xuất, kinh doanh không sử dụng vốn từ ngân sách nhà nước.
2. Điều kiện về năng lực tài chính để bảo đảm việc sử dụng đất theo
tiến độ của dự án đầu tư được quy định như sau:
a) Có vốn thuộc sở hữu của mình để thực hiện dự án không thấp hơn
20% tổng mức đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất dưới 20 héc ta;
không thấp hơn 15% tổng mức đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất từ
20 héc ta trở lên;
b) Có khả năng huy động vốn để thực hiện dự án từ các tổ chức tín
dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các tổ chức, cá nhân khác.
3. Việc xác định người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư không vi phạm quy
định của pháp luật về đất đai đối với trường hợp đang sử dụng đất do Nhà
nước giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư khác xác định theo các
39
căn cứ sau đây:
a) Kết quả xử lý vi phạm pháp luật về đất đai đối với các dự án tại địa
phương được lưu trữ tại Sở Tài nguyên và Môi trường (Sở TN&MT);
b) Nội dung công bố về tình trạng vi phạm pháp luật đất đai và kết quả
xử lý vi phạm pháp luật đất đai trên trang thông tin điện tử của Bộ TN&MT,
Tổng cục Quản lý đất đai đối với các dự án thuộc địa phương khác.
4. Thời điểm thẩm định các điều kiện nêu trên được thực hiện đồng thời
với việc thẩm định nhu cầu sử dụng đất của chủ đầu tư khi cấp Giấy chứng
nhận đầu tư, thẩm định dự án đầu tư, lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật hoặc chấp
thuận đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư, pháp luật về xây dựng đối
với trường hợp giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá quyền sử dụng
đất (QSDĐ), chuyển mục đích sử dụng đất. Trường hợp đấu giá QSDĐ thì
thời điểm thẩm định được thực hiện trước khi tổ chức phiên đấu giá QSDĐ.
2.1.5. Trình tự, thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang
đất ở
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: “Thủ tục: Cách thức tiến hành
một công việc với nội dung, trình tự nhất định, theo quy định của cơ quan nhà
nước” [28, tr.761]; còn “Trình tự: Sự sắp xếp trước sau theo một quy tắc nhất
định” [27, tr.816]. Như vậy, trình tự, thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở được hiểu là cách thức thực hiện việc chuyển đổi mục
đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở theo một trình tự nhất định, sự sắp
xếp trước sau theo một quy tắc nhất định được pháp luật đất đai quy định.
Một trong những minh chứng cho việc quản lý chặt chẽ quá trình
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở là phải tuân thủ
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy
định việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở thực hiện
như sau:
Thứ nhất, trình tự, thủ tục cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trồng
40
lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng vào mục đích khác, cụ thể:
Một là, cơ quan TN&MT chịu trách nhiệm tổng hợp nhu cầu chuyển
mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng và đất rừng phòng hộ để
thực hiện dự án đầu tư trên địa bàn trình UBND cùng cấp, để báo cáo UBND
cấp trên hoặc Bộ TN&MT;
Hai là, trong thời hạn không quá 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ
hồ sơ hợp lệ, UBND cấp tỉnh có trách nhiệm chủ trì thẩm định, trình HĐND
cấp tỉnh thông qua trước khi trình UBND cấp có thẩm quyền quyết định việc
chuyển mục đích sử dụng đất; Bộ TN&MT có trách nhiệm chủ trì, phối hợp
với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thẩm định trình Thủ tướng Chính
phủ chấp thuận chuyển mục đích sử dụng đất trước khi UBND cấp có thẩm
quyền quyết định việc chuyển mục đích sử dụng đất;
Ba là, sau khi Thủ tướng Chính phủ có văn bản chấp thuận chuyển mục
đích sử dụng đất, HĐND cấp tỉnh có Nghị quyết về việc chuyển mục đích sử
dụng đất, UBND cấp có thẩm quyền thực hiện việc thu hồi đất, giao đất, cho
thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất.
Thứ hai, trình tự, thủ tục cho phép chuyển mục đích sử dụng đất nói chung:
Một là, người sử dụng đất nộp đơn xin phép chuyển mục đích sử dụng
đất đến cơ quan TN&MT.
Hai là, cơ quan TN&MT có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ; xác minh thực
địa, thẩm định nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất; hướng dẫn người sử
dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; trình
UBND cấp có thẩm quyền quyết định cho phép chuyển mục đích sử dụng đất;
chỉ đạo cập nhật, chỉnh lý cơ sở dữ liệu đất đai, hồ sơ địa chính.
Đối với trường hợp nhà đầu tư nhận chuyển nhượng QSDĐ của người
đang sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư thì thực hiện thủ tục chuyển
nhượng QSDĐ đồng thời với thủ tục cho phép chuyển mục đích sử dụng đất.
Từ những quy định trên cho thấy trường hợp chuyển từ đất trồng lúa,
41
đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng sang mục đích khác (trong đó có đất ở)
đòi hỏi có sự thẩm định nghiêm ngặt, chặt chẽ; bởi tầm quan trọng của đất
nông nghiệp đối với vấn đề an ninh lương thực quốc gia; “công ăn việc làm”
của hàng ngàn hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp ... Trong
khi đó, đối với trường hợp cho phép chuyển mục đích sử dụng đất nông
nghiệp khác sang đất ở thì thủ tục đơn giản hơn. Hồ sơ xin chuyển mục đích
sử dụng đất bao gồm đơn xin chuyển mục đích sử dụng đất và GCNQSDĐ.
Cơ quan TN&MT có thẩm quyền xem xét, thẩm tra hồ sơ, hướng dẫn người
sử dụng đất thực hiện thủ tục theo quy định của pháp luật đất đai.
2.1.6. Nghĩa vụ tài chính trong trường hợp chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp sang đất ở
Khi người sử dụng đất phải nộp tiền sử dụng đất khi chuyển đổi mục
đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở trong các trường hợp sau đây: i) Đất
nông nghiệp được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất, nay được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển sang sử dụng làm đất ở; ii)
Đất nông nghiệp có nguồn gốc được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất,
chuyển sang sử dụng làm đất ở; iii) Đất nông nghiệp có nguồn gốc được Nhà
nước cho thuê đất nay chuyển sang sử dụng làm đất ở.
Điều 5 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP quy định nghĩa vụ nộp tiền sử
dụng đất trong trường hợp này như sau:
Thứ nhất, đối với tổ chức kinh tế khi chuyển mục đích sử dụng đất từ
đất nông nghiệp sang đất ở phải thực hiện nghĩa vụ tài chính như sau:
Một là, chuyển từ đất nông nghiệp được giao không thu tiền sử dụng
đất sang đất ở thì thu 100% tiền sử dụng đất theo giá của loại đất sau khi
chuyển mục đích.
Hai là, chuyển mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp được Nhà nước
giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất sang đất ở thì thu tiền sử
42
dụng đất như sau:
- Trường hợp được Nhà nước giao đất nông nghiệp có thu tiền sử dụng
đất trước ngày 01/07/2014, khi được chuyển mục đích sang đất ở thì nộp tiền
sử dụng đất bằng mức chênh lệch giữa tiền sử dụng đất tính theo giá đất ở trừ
(-) tiền sử dụng đất tính theo giá đất của loại đất trước khi chuyển mục đích
của thời hạn sử dụng đất còn lại tại thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất.
- Trường hợp được Nhà nước cho thuê đất nông nghiệp theo hình thức
trả tiền thuê đất hàng năm, khi được chuyển mục đích sang đất ở đồng thời
với chuyển từ thuê đất sang giao đất thì nộp 100% tiền sử dụng đất theo giá
đất ở tại thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất.
- Trường hợp được Nhà nước cho thuê đất nông nghiệp dưới hình thức
trả tiền thuê đất một lần, khi được chuyển mục đích sang đất ở đồng thời với
chuyển từ thuê đất sang giao đất thì nộp tiền sử dụng đất bằng mức chênh
lệch giữa tiền sử dụng đất tính theo giá đất ở trừ (-) tiền thuê đất phải nộp một
lần của loại đất trước khi chuyển mục đích theo thời hạn sử dụng đất còn lại
tại thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển mục
đích sử dụng đất.
Đối với đất của các tổ chức là đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài
chính, doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc Trung ương quản lý, UBND cấp
tỉnh quyết định việc chuyển mục đích sử dụng đất cùng với việc chuyển đổi
công năng sử dụng của công sản theo quy định sau khi có ý kiến thống nhất
bằng văn bản của Bộ Tài chính.
- Chuyển mục đích sử dụng đất đối với trường hợp tổ chức kinh tế nhận
chuyển nhượng QSDĐ hợp pháp theo pháp luật đất đai để thực hiện dự án đầu
tư mà phải chuyển mục đích sử dụng đất thì thu tiền sử dụng đất như sau:
+ Trường hợp tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng QSDĐ hợp pháp để
43
thực hiện dự án đầu tư mà phải chuyển mục đích sử dụng đất sang đất ở thì
nộp tiền sử dụng đất theo giá đất quy định tại Điểm b, Điểm c Khoản 3 Điều 3
Nghị định 45/2014/NĐ-CP của loại đất sau khi chuyển mục đích sử dụng đất.
Khoản tiền tổ chức kinh tế đã trả để nhận chuyển nhượng QSDĐ được trừ
vào số tiền sử dụng đất phải nộp khi chuyển mục đích. Khoản tiền này được xác
định theo giá đất của mục đích sử dụng đất nhận chuyển nhượng tại thời điểm
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất
nhưng không vượt quá số tiền bồi thường, hỗ trợ tương ứng với trường hợp Nhà
nước thu hồi đất theo quy định của pháp luật. Khoản tiền tổ chức kinh tế đã trả để
nhận chuyển nhượng QSDĐ nêu trên được xác định như sau:
Trường hợp giá đất để tính tiền sử dụng đất của loại đất sau khi
chuyển mục đích được xác định bằng phương pháp hệ số điều chỉnh
giá đất thì giá của loại đất nhận chuyển nhượng cũng được xác định
bằng phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất.
Trường hợp giá đất để tính tiền sử dụng đất của loại đất sau khi
chuyển mục đích được xác định bằng các phương pháp so sánh trực
tiếp, chiết trừ, thu nhập, thặng dư thì giá của loại đất nhận chuyển
nhượng cũng được xác định lại theo các phương pháp này.
Thứ hai, đối với hộ gia đình, cá nhân khi chuyển mục đích sử dụng đất
từ đất nông nghiệp sang đất ở sẽ phải thực hiện nghĩa vụ tài chính như sau:
Một là, chuyển từ đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở thuộc khu
dân cư không được công nhận là đất ở theo quy định tại Khoản 6 Điều 103
Luật Đất đai năm 2013 sang làm đất ở; chuyển từ đất có nguồn gốc là đất
vườn, ao gắn liền nhà ở nhưng người sử dụng đất tách ra để chuyển quyền
hoặc do đơn vị đo đạc khi đo vẽ bản đồ địa chính từ trước ngày 01/07/2004 đã
tự đo đạc tách thành các thửa riêng sang đất ở thì thu tiền sử dụng đất bằng
50% chênh lệch giữa tiền sử dụng đất tính theo giá đất ở với tiền sử dụng đất
tính theo giá đất nông nghiệp tại thời điểm có quyết định chuyển mục đích
44
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Hai là, chuyển từ đất nông nghiệp được Nhà nước giao không thu tiền
sử dụng đất sang đất ở thì thu tiền sử dụng đất bằng mức chênh lệch giữa tiền
sử dụng đất tính theo giá đất ở với tiền sử dụng đất tính theo giá đất nông
nghiệp tại thời điểm có quyết định chuyển mục đích của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
2.1.7. Xử lý vi phạm pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở
i) Xử lý vi vi phạm pháp luật của người sử dụng đất khi chuyển đổi mục đích
sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
Thứ nhất, việc chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang
đất ở phải xin phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều
57 của Luật Đất đai năm 2013 mà người sử dụng đất không thực hiện, tự ý
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách
nhiệm hình sự thì bị xử lý bằng biện pháp hành chính. Điều 9, Điều 10, Điều
11 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 29/11/2019 của Chính phủ quy định về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai xứ lý hành vi vi phạm này
như sau:
Một là, hành vi sử dụng đất trồng lúa vào mục đích đất ở không được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định;
Hai là, hành vi sử dụng đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng
sản xuất vào mục đích đất ở không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cho phép;
Ba là, hành vi sử dụng đất nông nghiệp không phải là đất trồng lúa,
không phải là đất rừng phòng hộ, không phải là đất rừng đặc dụng, không
phải là đất rừng sản xuất vào mục đích để ở không được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cho phép theo quy định.
Các hành vi vi phạm nêu trên bị xử lý bằng một trong các biện pháp
45
hành chính sau:
- Hình phạt chính, bao gồm: Cảnh cáo; phạt tiền.
- Hình phạt bổ sung tịch thu số tiền có được do vi phạm hành chính,
tịch thu phương tiện, công cụ sử dụng để vi phạm hành chính.
- Ngoài ra, người vi phạm còn bị buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu
của đất trước khi vi phạm đối; buộc đăng ký đất đai theo quy định đối với
trường hợp có đủ điều kiện được công nhận QSDĐ theo quy định; buộc nộp
lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm.
Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai nói chung
và xử phạt vi phạm hành chính về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở là 02 năm kể từ ngày phát hiện hành vi vi phạm.
* Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính chính trong lĩnh vực đất đai
nói chung và xử phạt vi phạm hành chính về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở được quy định như sau:
- Chủ tịch UBND cấp xã có quyền: a) Phạt cảnh cáo; b) Phạt tiền đến
5.000.000 đồng; c) Tịch thu các giấy tờ đã bị tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội
dung; giấy tờ giả đã sử dụng trong việc sử dụng đất; d) Áp dụng biện pháp khắc
phục hậu quả: Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm.
- Chủ tịch UBND cấp huyện có quyền: a) Phạt cảnh cáo; b) Phạt tiền
đến 50.000.000 đồng; c) Tịch thu các giấy tờ đã bị tẩy xóa, sửa chữa, làm sai
lệch nội dung; giấy tờ giả đã sử dụng trong việc sử dụng đất; d) Tước quyền
sử dụng giấy phép hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai có thời hạn
hoặc đình chỉ hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai có thời hạn; đ)
Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 5 Nghị
định số 91/2019/NĐ-CP.
- Chủ tịch UBND cấp tỉnh có quyền: a) Phạt cảnh cáo; b) Phạt tiền đến
500.000.000 đồng; c) Tịch thu các giấy tờ đã bị tẩy xóa, sửa chữa, làm sai
lệch nội dung; giấy tờ giả đã sử dụng trong việc sử dụng đất; d) Tước quyền
46
sử dụng giấy phép hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai có thời hạn
hoặc đình chỉ hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai có thời hạn; đ)
Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 5 Nghị
định số 91/2019/NĐ-CP.
- Trường hợp Chủ tịch UBND cấp xã, Chủ tịch UBND cấp huyện phát
hiện hành vi vi phạm không thuộc thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền xử
phạt, thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả thì thực hiện theo quy định tại
khoản 3 Điều 58 của Luật Xử phạt vi phạm hành chính và khoản 2 Điều 6 của
Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19 /7/2013 của Chính phủ quy định chi
tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính được
sửa đổi bổ sung tại khoản 7 Điều 1 của Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày
18/8/2017 của Chính phủ.
* Thẩm quyền của thanh tra chuyên ngành.
- Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên
ngành đất đai đang thi hành công vụ có quyền: a) Phạt cảnh cáo; b) Phạt tiền
đến 500.000 đồng; c) Tịch thu các giấy tờ đã bị tẩy xóa, sửa chữa, làm sai
lệch nội dung; giấy tờ giả đã sử dụng trong việc sử dụng đất; d) Áp dụng biện
pháp khắc phục hậu quả: Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước
khi vi phạm.
- Chánh Thanh tra Sở, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành đất đai do
Tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý đất đai, Giám đốc Sở, Chánh Thanh tra Sở
TN&MT ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra có quyền: a)
Phạt cảnh cáo; b) Phạt tiền đến 50.000.000 đồng; c) Tịch thu các giấy tờ đã bị
tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung; giấy tờ giả đã sử dụng trong việc sử
dụng đất; d) Tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động dịch vụ tư vấn trong
lĩnh vực đất đai có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh
vực đất đai có thời hạn; đ) Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy
47
định tại khoản 3 Điều 5 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP.
- Trưởng đoàn thanh tra Bộ TN&MT có quyền: a) Phạt cảnh cáo; b)
Phạt tiền đến 250.000.000 đồng; c) Tịch thu các giấy tờ đã bị tẩy xóa, sửa
chữa, làm sai lệch nội dung; giấy tờ giả đã sử dụng trong việc sử dụng đất; d)
Tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất
đai có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai
có thời hạn; đ) Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản
3 Điều 5 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP.
- Chánh Thanh tra Bộ TN&MT, Tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý đất
đai có quyền: a) Phạt cảnh cáo; b) Phạt tiền đến 500.000.000 đồng; c) Tịch
thu các giấy tờ đã bị tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung; giấy tờ giả đã
sử dụng trong việc sử dụng đất; d) Tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động
dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động dịch
vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai có thời hạn; đ) Áp dụng các biện pháp khắc
phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 5 Nghị định này.
Thứ hai, hành vi vi phạm pháp luật trong chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp sang đất ở có tính chất, mức độ nặng bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo Điều 228 Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như sau:
Một là, người nào lấn chiếm đất, chuyển QSDĐ hoặc sử dụng đất trái với
các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai, đã bị xử phạt vi phạm
hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà
còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, phạt cải
tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Hai là, phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
tiền từ 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến
07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
48
c) Tái phạm nguy hiểm.
Ba là, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng.
Ngoài ra, người sử dụng đất vi phạm pháp luật về chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp sang đất ở mà gây thiệt hại còn phải bồi thường thiệt hại.
ii) Xử lý vi phạm của người quản lý đất đai đối với việc chuyển đổi mục đích
sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
Người có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai (bao gồm vi phạm các
quy định về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở) khi thi
hành công vụ thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc
bị truy cứu trách nhiệm hình sự; cụ thể:
Thứ nhất, trường hợp vi phạm với mức độ nhẹ chưa đến mức bị truy
cứu trách nhiệm hình sự thì bị xử lý kỷ luật bằng một trong các hình thức sau
đây: 1. Khiển trách; 2. Cảnh cáo; 3. Hạ bậc lượng; 4. Hạ Ngạch; 5. Cách
chức; 6. Buộc thôi việc.
Việc áp dụng hình thức xử lý kỷ luật do thủ trưởng đơn vị sử dụng lao
động thực hiện. Trường hợp thủ trưởng vi phạm thì thủ trưởng cơ quan cấp
trên trực tiếp sẽ áp dụng hình thức xử lý kỷ luật.
Thứ hai, trường hợp vi phạm với tính chất, mức độ nặng thì bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo Điều 229 Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm
2017); cụ thể như sau:
Một là, người nào lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất,
thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích
sử dụng đất trái quy định của pháp luật thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng
đến 03 năm:
a) Đất trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000
mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích
49
từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 50.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp
khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới
40.000 mét vuông (m2);
b) Đất có giá trị QSDĐ được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng đến
dưới 2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng
đến dưới 5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp;
c) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.
Hai là, phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Đất trồng lúa có diện tích từ 30.000 mét vuông (m2) đến dưới 70.000
mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích
từ 50.000 mét vuông (m2) đến dưới 100.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp
khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 40.000 mét vuông (m2) đến dưới
80.000 mét vuông (m2);
c) Đất có giá trị QSDĐ được quy thành tiền từ 2.000.000.000 đồng đến
dưới 7.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 5.000.000.000 đồng
đến dưới 15.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp;
d) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Ba là, phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ 05 năm đến 12 năm:
a) Đất trồng lúa có diện tích 70.000 mét vuông (m2) trở lên; đất rừng
đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích 100.000 mét vuông (m2)
trở lên; đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích 80.000 mét
vuông (m2) trở lên;
b) Đất có giá trị QSDĐ được quy thành tiền 7.000.000.000 đồng trở lên
đối với đất nông nghiệp hoặc 15.000.000.000 đồng trở lên đối với đất phi
50
nông nghiệp.
Bốn là, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
150.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Ngoài ra, người vi phạm pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở trong khi thi hành công vụ mà gây thiệt hại còn phải
bồi thường thiệt hại.
2.2. Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp sang đất ở tại Việt Nam
2.2.1. Những kết quả đạt được
Thứ nhất, về việc ban hành các văn bản pháp luật đất đai.
Luật Đất đai năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày
29/11/2013 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014. Để tổ chức triển khai
thi hành đạo Luật này, các cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương đã ban hành
11 nghị định và 41 thông tư; UBND các địa phương ban hành hơn 1141 văn
bản hướng dẫn thực hiện. Qua đó đã tạo thành một hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật khá hoàn chỉnh, xác lập cơ sở pháp lý để quản lý đất đai nói
chung và quản lý việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất
ở nói riêng chặt chẽ, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Thứ hai, hoạt động chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang
đất ở được thực hiện dựa trên cơ sở pháp luật đã giải quyết “bài toán” đất đai
đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Theo đánh giá của Bộ TN&MT: “Thông qua công tác giao đất, cho thuê
đất, chuyển mục đích sử dụng đất; các công trình, dự án đã được triển khai, góp
phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình chuyển đối cơ
cấu sử dụng đất, từng bước hình thành các khu đô thị mới, khu dân cư nông thôn,
tạo ra một diện mạo mới cho đô thị, đồng thời từng bước đô thị hóa nông thôn;
51
góp phần tăng nguồn thu ngân sách Nhà nước từ kinh tế đất” [2, tr.6].
Thứ ba, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
tuân thủ quy định của pháp luật về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Công tác quản lý đất đai theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ngày
càng đi vào thực chất, góp phần tích cực vào việc sử dụng đất hợp lý và có
hiệu quả. Việc cho phép chuyển mục đích sử dụng đất từ nông nghiệp sang
đất ở đã bám sát và tuân thủ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất đã tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyển mục đích sử dụng đất
và làm cho việc sử dụng đất đai ngày càng có hiệu quả, tiết kiệm hơn.
Thứ tư, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đất đai
nhằm nâng cao nhận thức của người dân nói chung và của người sử dụng đất
nói riêng được thực hiện thường xuyên, liên tục với hình thức phong phú, đa
dạng, sáng tạo, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, hoàn cảnh đặc thù của
từng địa phương.
Để thay đổi và nâng cao nhận thức pháp luật của người dân nói chung
và của người sử dụng đất nói riêng; Chính phủ chỉ đạo Bộ TN&MT phối hợp
với các bộ, ngành và UBND các cấp đã tổ chức hàng ngàn buổi tuyên truyền,
phổ biến về Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành cho
đội ngũ cán bộ, công chức và người dân. UBND các cấp và các đoàn thể, tổ
chức chính trị - xã hội thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng, các buổi
tuyên truyền, các cuộc thi tìm hiểu về Luật Đất đai năm 2013; đồng thời, lồng
ghép việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đất đai với các hoạt động
của tổ chức, đoàn thể góp phần nâng cao nhận thức, sự hiểu biết pháp luật đất
đai (trong đó có các quy định về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở) … Điều này góp phần nâng cao hiệu quả thi hành pháp
luật đất đai nói chung và các quy định về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở nói riêng.
Thứ năm, trình tự, thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất từ nông nghiệp
52
sang đất ở được quy định chặt chẽ, đầy đủ hơn, rút ngắn được hơn thời gian
thực hiện; từng bước khắc phục tình trạng hồ sợ bị “om”, kéo dài thời gian
xem xét, quyết định chuyển mục đích sử dụng đất từ nông nghiệp sang đất ở.
Hơn nữa, việc ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại; công khai minh bạch
trình tự, thủ tục; thiết lập, công bố số điện thoại đường dây nóng, hòm thư
góp ý … để tiếp nhận, xử lý kịp thời mọi thắc mắc, khiếu nại, góp ý của
người sử dụng đất góp phần cải cách thủ tục hành chính về đất đai nói chung
và thủ tục hành chính về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang
đất ở nói riêng v.v.
2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thi hành pháp luật về chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở không tránh khỏi một số bất
cập chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, chưa giải quyết hài hòa giữa vấn đề bảo vệ đất nông nghiệp
nói chung và đất trồng lúa nói riêng với việc chuyển mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở.
Ở nước ta, việc sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả có ý nghĩa rất quan
trọng nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và tăng thu nhập cho người
dân. Tuy nhiên, thời gian qua việc giải quyết “bài toán” giữa bảo vệ đất nông
nghiệp (đặc biệt là đất trồng lúa) với chuyển mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở chưa hợp lý. Qua thanh tra, kiểm tra đất đai phát hiện tình
trạng sai phạm trong chuyển đổi mục đích sử dụng đất diễn ra ở nhiều địa
phương và nhiều cá nhân, doanh nghiệp vi phạm được công khai danh tính.
Ví dụ, tại Thành phố Hồ Chí Minh có Dự án cao ốc 104 Nguyễn Văn Cừ
(Quận 1), cao ốc Res 11 (Quận 11), cao ốc 128 Hồng Hà (Quận Phú Nhuận),
dự án 334 Tô Hiến Thành (Quận 10), 8 Hoàng Minh Giám (Quận Phú
Nhuận), 15 Thi Sách (Quận 1)... Tại Hà Nội có dự án 36 Phạm Hùng, 25 Vũ
Ngọc Phan, 53 Triều Khúc, 60B Nguyễn Huy Tưởng...[6]. Đặc biệt, ở nhiều
53
địa phương xuất hiện tình trạng ồ ạt chuyển đất nông nghiệp - nhất là đất
trồng lúa ổn định sang đất ở để xây dựng các khu khu đô thị nhưng không tính
đến hiệu quả kinh tế, nhiều dự án thu hồi đất nông nghiệp sau đó bỏ hoang
v.v; trong khi người bị thu hồi đất nông nghiệp bị đẩy vào tình trạng thất
nghiệp không có việc làm gây bức xúc trong nhân dân. “Việc thu hồi đất nông
nghiệp trong 05 năm từ năm 2003 - năm 2008, đã tác động đến đời sống của
trên 627.000 hộ gia đình với khoảng 950.000 lao động và 2,5 triệu nhân khẩu
nông nghiệp. Trong số này có tới 25 - 30% tổng số lao động mất việc làm
hoặc việc làm không ổn định. Hơn một nửa số hộ (53%) bị thu hồi đất có thu
nhập giảm so với trước đây. Trung bình mỗi hộ bị thu hồi đất có 1,5 lao động
rơi vào tình trạng không có việc làm và mỗi ha đất nông nghiệp bị thu hồi sẽ
lấy đi cơ hội việc làm của 13 lao động ở nông thôn. Như vậy, việc thu hồi đất
nông nghiệp để sử dụng vào mục đích khác, không những làm thay đổi cơ cấu
nông nghiệp, giảm đất trồng lúa, làm giảm sản lượng lúa đến 01 triệu tấn
hàng năm mà còn làm thay đổi cả cơ cấu lao động nông nghiệp, góp phần tạo
nên một luồng lao động tự phát tràn vào đô thị, gia tăng áp lực cho đô thị
trong xây dựng cơ sở hạ tầng và xử lý những vấn đề an sinh xã hội. Nếu thu
hồi đất xong lại chậm đưa vào sử dụng thì còn gây thêm nhiều hậu quả nặng
nề khác” [7, tr. 277 – 278].
Thứ hai, việc lập, thẩm định điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất của nhiều địa phương, đặc biệt cấp huyện còn chậm; sự phối hợp giữa các
cơ quan quản lý nhà nước trong quản lý, sử dụng đất thiếu chặt chẽ; một số
địa phương có biểu hiện tùy tiện, buông lỏng quản lý dẫn đến tình trạng cho
phép một số cá nhân chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang
đất ở với diện tích lớn nhưng không thẩm định điều kiện, nhu cầu sử dụng
đất, không căn cứ theo kế hoạch sử dụng đất hàng năm đã được phê duyệt.
Thực trạng trên đã phá vỡ quy hoạch đất đai, quy hoạch xây dựng, đô thị của
54
địa phương, gây bức xúc và tạo dư luận không tốt trong quần chúng nhân dân.
Thứ ba, về điều chỉnh, cập nhật kế hoạch sử dụng đất.
Một là, mặc dù pháp luật đã có quy định cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phê duyệt kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện, phải tiến hành công bố điều
chỉnh hoặc hủy việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất đối với những diện tích đất
và dự án, công trình ghi trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm đã công bố mà quá
ba năm chưa thực hiện. Tuy nhiên trên thực tế, theo báo cáo đánh giá của Bộ
TN&MT, hầu hết các địa phương chưa thực hiện nghiêm túc quy định nêu trên.
Điều này đã ngăn cản các nhà đầu tư khác đề xuất nhu cầu sử dụng đất khác cho
diện tích đất tương tự ở cùng một vị trí trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp
huyện tiếp theo, làm tăng nguy cơ quy hoạch treo, kế hoạch treo, dẫn đến mục tiêu
sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả không đạt được, ảnh hưởng đến tình hình phát
triển kinh tế, xã hội của địa phương.
Hai là, trong kỳ kế hoạch sử dụng đất cấp huyện hàng năm, việc điều
chỉnh kế hoạch sử dụng đất theo hướng cho phép bổ sung dự án xây dựng vào
kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt là cần thiết và mới được ghi nhận lần
đầu tại Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 16/01/2017 của Chính phủ. Việc
bổ sung dự án vào quy hoạch sử dụng đất sẽ dẫn đến việc điểu chỉnh quy quy
mô và địa điểm của các dự án còn lại đã được phê duyệt trong kế hoạch sử
dụng đất hàng năm cấp huyện. Quy định mới này trao thẩm quyền cho UBND
cấp tỉnh xem xét, chấp thuận, bổ sung dự án mà không cần phải có sự phê
duyệt của HĐND cấp tỉnh. Điều này là cần thiết để có thể điều chỉnh phạm vi
các dự án đã được phê duyệt, bổ sung các dự án khác trong kỳ kế hoạch sử
dụng đất nhằm bảo đảm việc sử dụng đất hiệu quả, tiết kiệm song cũng tiềm
ẩn nguy cơ lạm dụng để điều chỉnh, bổ sung kế hoạch sử dụng đất vì lợi ích
nhóm hoặc tham nhũng, tiêu cực v.v.
2.2.3. Nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc
i) Nguyên nhân chủ quan
Những hạn chế, vướng mắc của việc thi hành pháp luật về chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở nêu trên xuất phát từ một số
55
nguyên nhân chủ quan chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, sự hiểu biết pháp
luật đất đai... của một số bộ phận cán bộ, công chức quản lý nhà nước về đất
đai chưa đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới
và hội nhập quốc tế. Mặt khác, đội ngũ cán bộ địa chính cấp xã luôn biến
động, không ổn định do được điều chuyên, phân công, bố trí đảm nhiệm
nhiệm vụ khác. Mặt trái của cơ chế thị trường tác động tiêu cực đến tinh thần,
thái độ của một phận cán bộ, công chức trong giải quyết thủ tục hành chính về
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở.
Thứ hai, trình độ hiểu biết, ý thức pháp luật nói chung và ý thức pháp
luật đất đai nói riêng của người dân còn hạn chế.
Hiện nay, trình độ dân trí nói chung và sự hiểu biết pháp luật đất đai
nói riêng của người dân ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn hạn chế.
Hơn nữa, tâm lý, thị hiếu, tập quán của họ chịu ảnh hưởng nặng nề của
phương thức sản xuất tiểu nông nên thực hiện các hành vi xử sự theo bản
năng, tùy tiện mà ít có ý thức tuân thủ pháp luật. Vì vậy, trên thực tế có không
ít trường hợp người dân và doanh nghiệp tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp sang đất ở mà không xin phép cơ quan nhà nước có thẩm
quyền; không tuân theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Khi bị phát
hiện lập biên bản xử lý thì tìm mọi cách nhờ các mối quan hệ thân quen để tác
động, xin xỏ; thậm chí sẵn sàng bỏ tiền để hội lộ, chạy chọt … Do đó, việc
thực thi pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
đạt hiệu quả không như mong muốn.
Thứ ba, nguồn nhân lực; cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm
việc và kinh phí phục vụ hoạt động chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Do nguồn ngân sách nhà nước còn hạn chế, nên việc đầu tư vốn; trang
thiết bị làm việc và cơ sở vật chất khác phục vụ cho công tác quản lý nhà
56
nước về đất đai chưa đáp ứng yêu cầu. Diện tích phòng làm việc chật chội,
còn thiếu trang thiết bị, cơ sở vật chất đồng bộ. Chế độ lương, thưởng chưa
hợp lý và còn thấp không đảm bảo đời sống của cán bộ, công chức nhà nước
khiến họ không thật sự yên tâm công tác. Hơn nữa, do áp lực của quá trình
sắp xếp, tinh giản biên chế và chỉ tiêu biên chế khiến đội ngũ cán bộ, công
chức làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai “mỏng” về số lượng. Điều
này ít nhiều ảnh hưởng đến hiệu quả thi hành pháp luật về chuyển đổi mục
đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở.
Thứ tư, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đất đai chưa đạt hiệu
quả thiết thực, vẫn còn mang tính hình thức, "chạy theo thành tích, theo
phong trào" v.v... Trình độ, chất lượng của đội ngũ tuyên truyền viên chưa
đồng đều; chưa đa dạng hóa phương thức tuyên truyền; chưa lồng ghép giữa
công tác này với các hoạt động nghiệp vụ của các cơ quan, đoàn thể quần
chúng. Trong tuyên truyền còn đơn điệu, ít có ví dụ thực tiễn sinh động để
minh họa; kỹ năng tuyên truyền của một số tuyên truyền viên pháp luật còn
hạn chế chưa tạo sự hấp dẫn, thu hút người dân v.v...
Thứ năm, công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất còn
nhiều yếu kém, tầm nhìn ngắn hạn, chưa dự báo được đầy đủ, chính xác nhu
cầu sử dụng đất cho phát triển kinh tế, dẫn đến việc thường xuyên điều chỉnh,
sửa đổi, bổ sung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Điều này gây xáo động
cho công tác quản lý và sử dụng đất. Mặt khác, việc quản lý thực hiện kỷ luật
quy hoạch chưa nghiêm tục, chặt chẽ, xảy ra tình trạng cơ quan nhà nước thỏa
hiệp với doanh nghiệp trong việc giữ hoặc điều chỉnh quy hoạch, giãn tiến độ
thực hiện mục đích sử dụng đất theo quy hoạch đã phê duyệt. Đây là “kẽ hở”
bị lợi dụng để chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở tùy
tiện; tham nhũng, tiêu cực hoặc vì lợi ích nhóm và gây lũng đoạn công tác
57
quản lý nhà nước về đất đai v.v.
i) Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, nhu cầu chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang
đất ở ngày càng lớn do sự phát triển kinh tế mạnh mẽ và áp lực tăng dân số tại
các thành phố lớn, khu đô thị, khu dân cư nông thôn. Hơn nữa, sự chênh lệch
về địa tô do chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở rất lớn
lên đến hàng tỷ; thậm chí hàng trăm tỷ đồng nếu chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp với diện tích lớn. Đây chính là nguồn lợi “béo bở” để
người sử dụng đất nói chung và doanh nghiệp nói riêng không từ một thủ
đoạn nào để vô hiệu hóa pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở nhằm chiếm đoạt tài nguyên đất đai.
Thứ hai, hệ thống chính sách, pháp luật đất đai đồ sộ, bao gồm nhiều
văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan ở trung ương và địa phương ban
hành; lại thường xuyên sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Vì vậy, khó tránh khỏi
sự mâu thuẫn, chồng chéo. Mặt khác, chính sách, pháp luật đất đai và các
chính sách, pháp luật có liên quan chưa thống nhất, đồng bộ, đang còn biến
động; thậm chí có mặt chưa rõ ràng, cụ thể. Điều này gây khó khăn cho việc
thực thi pháp luật đất đai nói chung và pháp luật về chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp sang đất ở nói riêng.
Thứ ba, trong nền kinh tế thị trường, đất đai được trả lại giá trị ban đầu
vốn có của nó nên ngày càng có giá trị. Mặt khác, các giao dịch về đất đai diễn ra
sôi động, phong phú. Trong khi đó, các quy định của pháp luật chưa theo kịp với
thực tiễn hoặc có nhiều quan hệ mới phát sinh nhưng chưa có quy định để điều
chỉnh. Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở tạo ra sự
chênh lệch về địa tô rất lớn. Luật Đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013 đều
quy định Nhà nước điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất đai không do đầu tư của
người sử dụng đất mang lại. Tuy nhiên, trong các văn bản hướng dẫn thi hành lại
thiếu những quy định hướng dẫn chi tiết, cụ thể về vấn đề này. Vì vậy, quy định
này của Luật Đất đai năm 2013 không đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng tích
cực. Đây là trở ngại cho việc thi hành pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng
58
đất nông nghiệp sang đất ở v.v.
Tiểu kết chương 2
1. Thực trạng pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở bao gồm các nội dung chủ yếu như: Các trường hợp chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; căn cứ chuyển đổi mục
đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; thẩm quyền cho phép chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; điều kiện chuyển đổi mục đích
sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; trình tự, thủ tục chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp sang đất ở; nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất
khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; xử lý vi phạm
pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở…
Những nội dung này được phân tích, bình luận chi tiết tại Tiểu mục 2.1.
2. Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp sang đất ở, luận văn chỉ ra một số kết quả đạt được như
việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở dựa trên quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét
duyệt; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của
người dân nói chung và người sử dụng đất nói riêng được chú trọng thực hiện;
trình tự, thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất từ nông nghiệp sang đất ở được
quy định chặt chẽ, đầy đủ hơn, rút ngắn được hơn thời gian thực hiện v.v.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thi hành pháp luật về
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở còn bộc lộ một số
hạn chế, vướng mắc như việc lập, thẩm định; điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất còn tùy tiện, chưa tuân thủ quy định chặt chẽ của pháp luật đất
đai; chưa giải quyết hài hòa giữa vấn đề bảo vệ đất nông nghiệp với chuyển
mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; chưa nghiêm túc thực hiện
công bố kế hoạch sử dụng đất v.v.
Những hạn chế này có nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách
quan. Các nguyên nhân này được nhận diện, phân tích cụ thể tại Tiểu mục
59
2.2.3 của Chương 2.
Chương 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN ĐỔI MỤC
ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP SANG ĐẤT Ở VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THI HÀNH TẠI VIỆT NAM
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp sang đất ở và nâng cao hiệu quả thi hành tại Việt Nam
3.1.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp sang đất ở
Từ các kết quả nghiên cứu của Chương 1 và Chương 2, học viên cho
rằng hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang đất ở dựa trên một số định hướng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở phải dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng về tiếp
tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập quốc tế.
Quan điểm, đường lối của Đảng là sự định hướng chính trị cho công tác
soạn thảo, ban hành và thực thi pháp luật. Dựa trên quan điểm, đường lối của
Đảng, Nhà nước thể chế hóa thành các quy định của pháp luật để điều chỉnh
các quan hệ đất đai nói chung và quan hệ về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở nói riêng.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa vấn đề bảo vệ đất
nông nghiệp với chuyển một phần diện tích đất nông nghiệp sang đất ở một
cách hợp lý.
Như phần trên đã phân tích, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở là điều khó tránh khỏi nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển
60
kinh tế - xã hội của đất nước và quá trình đô thị hóa mạnh mẽ. Tuy nhiên, nếu
quá trình này diễn ra một cách ồ ạt và không tính đến hiệu quả kinh tế sẽ làm
thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, đe dọa an ninh lương thực quốc gia, công
ăn việc làm của hàng ngàn hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp
… Do đó, hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở phải chú trọng giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa vấn đề
bảo vệ đất nông nghiệp với chuyển một phần diện tích đất nông nghiệp sang
đất ở một cách hợp lý.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở phải giải quyết được việc điểu tiết phần chênh lệch về địa tô
được tạo ra từ sự thay đổi mục đích sử dụng đất vào ngân sách nhà nước.
Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở tạo ra sự
chênh lệch về địa tô rất lớn. Đây còn được gọi là phần giá trị tăng thêm từ đất
đai không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại. Trên thực tế, pháp luật
đất đai đã không giải quyết hiệu quả việc điểu tiết phần giá trị tăng thêm này
vào ngân sách nhà nước mà để phần lớn sự chênh lệch về địa tô do sự chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở rơi vào túi các nhóm lợi ích
khiến họ giàu lên một cách nhanh chóng. Trong khi đó, toàn dân với tư cách
đại diện chủ sở hữu đất đai lại không được hưởng phần giá trị tăng thêm này.
Như vậy, dường như đất đai thuộc sở hữu toàn dân là “vỏ bọc” để các nhóm
lợi ích xâu xé tài nguyên đất đai, thu được những nguồn lợi béo bở; trong khi
đại đa số người dân và các thế hệ cha ông đã đổ mồ hôi, công sức, xương máu
để khai phá, bồi bổ, cải tạo, bảo vệ, giữ gìn đất đai lại không được hưởng.
Đây là một sự vô lý và bất công. Chừng nào pháp luật không điều tiết, giải
quyết có hiệu quả vấn đề này thì chừng đó tham nhũng, tiêu cực về đất đai
vẫn tồn tại và khó bị kiềm chế, ngăn chặn, đẩy lùi.
Thứ tư, hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở phải dựa trên sự tổng kết thực tiễn thi hành lĩnh vực pháp
61
luật này.
Pháp luật suy cho cùng là sản phẩm do con người tạo ra nên khó tránh
khỏi sự ảnh hưởng mang ý chí chủ quan của nhà làm luật. Mức độ phù hợp và
hiệu quả của các quy phạm pháp luật đến đâu thì chỉ thông qua thực tiễn thi
hành mới đưa ra câu trả lời chính xác, đầy đủ. Có nghĩa là thực tiễn là sự
kiểm nghiệm, thước đo chính xác nhất mức độ phù hợp của pháp luật. Thông
qua việc tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp sang đất ở mới phát hiện những “kẽ hở”; “khoảng trống” để bổ
sung các quy định điều chỉnh; mới phát hiện những quy định nào bất cấp, không
còn phù hợp để sửa đổi, thay thế bằng các quy định mới phù hợp hơn. Vì vậy,
hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
phải dựa trên sự tổng kết thực tiễn thi hành lĩnh vực pháp luật này v.v.
3.1.2. Định hướng nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
Trên cơ sở đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về chuyển đổi mục
đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở tại Chương 2, học viên cho rằng
muốn nâng cao hiệu quả thi hành lĩnh vực pháp luật này cần dựa trên một số
định hướng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tăng cường công tác quản lý nhà nước về chuyển đổi mục
đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở.
Điều này có nghĩa là không để xảy ra tình trạng tự ý chuyển đổi mục
đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở ồ ạt, bừa bãi, lãng phí mà phải đặt
hoạt động này dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Khi phát hiện các hành
vi tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở phải xử lý
nghiêm minh, kịp thời không né tránh, bao che, chống lưng, tiếp tay; đồng
thời, yêu cầu tổ chức, cá nhân vi phạm phải tự khắc phục hậu quả, khôi phục
lại tình trạng ban đầu của đất như trước khi vi phạm. Trong trường hợp đương
sự cố tình không thực hiện thì kiên quyết cưỡng chế xử lý triệt để nhằm đảm
62
bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Đối với cán bộ, công chức nhà nước có
hành vi bao che, tiếp tay cho tổ chức, cá nhân vi phạm phải xử lý nghiêm
minh với chế tài xử lý nghiêm khắc.
Thứ hai, đổi mới căn bản và toàn diện cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ quyền
hạn của hệ thống thanh tra chuyên ngành về đất đai.
Nhà nước cần tăng cường nguồn kinh phí, trang thiết bị và lực lượng
cho hệ thống thanh tra chuyên ngành đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Mặt
khác, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về tăng mức xử phạt vi
phạm pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
lên đến hàng trăm triệu đồng; thâm chí hàng tỷ đồng. Đồng thời, xác lập cơ
chế giám sát, kiểm tra chéo giữa các cơ quan thanh tra chuyên ngành; giám
sát của công luận, báo chí và của người dân nhằm phát hiện tiêu cực, tham
nhũng, móc ngoặc giữa cán bộ thanh tra với tổ chức, cá nhân vi phạm. Khi
phát hiện các hành vi tiêu cực này phải xử lý kiên quyết với chế tài xử lý
nghiêm khắc và chuyển hồ sơ sang cơ quan công an để điều tra, truy cứu trách
nhiệm hình sự; kiên quyết tịch thu số tiền hoặc tài sản bất chính do hành vi vi
phạm pháp luật đất đai mà có.
Thứ ba, tiếp tục nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, sự hiểu biết
pháp luật đất đai cho đội ngũ cán bộ, công chức làm nhiệm vụ quản lý đất đai.
Đồng thời, thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính
sách, pháp luật đất đai đảm bảo tính công khai minh bạch, thống nhất, đồng
bộ; xây dựng quy trình thủ tục về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở đơn giản, minh bạch. Nhà nước đầu tư ứng dụng công nghệ
thông tin, hệ thống phần mềm để thay thế việc tiếp nhận trực tiếp hồ sơ
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở sang hệ thống tiếp
nhận hồ sơ điện tử online …
Thứ tư, tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
63
pháp luật đất đai cho cán bộ, công chức nói riêng và người dân nói chung.
Bởi lẽ, mọi hành vi của con người chịu sự điều khiển của bộ não. Khi
có nhận thức đúng thì con người có hành động đúng và ngược lại. Không phải
từ khi sinh ra, con người đã có nhận thức đúng và đầy đủ về thế giới xung
quanh cũng như về pháp luật. Để có nhận thức đúng và đầy đủ về pháp luật
thì con người phải được tiếp cận, tìm hiểu thông qua việc tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật. Công việc này phải tiến hành thường xuyên, liên tục,
lâu dài và kiên trì thì mới có thể hình thành nên nhận thức đúng đắn về pháp
luật. Khi trình độ nhận thức pháp luật của con người được nâng cao thì họ sẽ
tự điều chỉnh hành vi của mình đúng với yêu cầu của pháp luật. Như vậy, các
hành vi vi phạm pháp luật trong xã hội sẽ ít xảy ra. Điều này góp phần nâng
cao hiệu quả thi hành pháp luật nói chung và pháp luật về chuyển đổi mục
đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở v.v.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở và nâng cao hiệu quả thi hành tại Việt Nam
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất; trong đó đặc biệt chú trọng đến những quy định
về điều tiết phần chênh lệch về địa tô do việc chuyển mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở được tạo ra theo hướng sau đây:
Một là, việc thu hồi đất nông nghiệp chuyển sang sử dụng vào mục
đích đất ở như xây dựng các khu đô thị, xây dựng khu nhà ở thương mại;
người bị thu hồi đất chỉ được bồi thường theo giá đất nông nghiệp (thông
thường giá đất này rất thấp chỉ vài chục ngàn đến vài trăm ngàn đồng/m2).
Sau đó, diện tích đất này được giao cho các công ty đầu tư kinh doanh xây
dựng nhà ở. Họ tiến hành san lấp nền và xây dựng nhà để bán. Mỗi m2 đất lúc
này có giá trị lên đến vài triệu hoặc vài chục triệu đồng. Người bị thu hồi đất
64
có sự so sánh về mức độ chênh lệch giữa giá đất mình được bồi thường với
giá đất mà các chủ đầu tư bán cho người mua nhà: Giá đất được bồi thường
quá thấp, trong khi giá đất sau khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở lại quá cao. Đây là một nguyên nhân cơ bản làm phát sinh
tranh chấp, khiếu kiện kéo dài. Để khắc phục những bất cập này, cần thực
hiện các giải pháp cụ thể sau đây:
1. Nên quy định việc tính giá bồi thường theo thời điểm trả tiền bồi
thường trên thực tế cho người bị thu hồi đất;
2. Đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp của nông dân thì ngoài
việc họ được bồi thường theo giá đất nông nghiệp tại thời điểm thu hồi cần
quy định một tỷ lệ hỗ trợ nhằm để thưởng khuyến khích đối với những người
bị thu hồi đất chấp hành nghiêm chỉnh, nhanh chóng việc bàn giao mặt bằng
cho các nhà đầu tư xây dựng nhà ở. Khoản hỗ trợ này được trích từ khoản
chênh lệch giữa giá đất bồi thường với giá đất sau khi đã chuyển mục đích sử
dụng đất nông nghiệp sang đất ở. Có như vậy mới hy vọng tạo sự đồng thuận
và giảm các khiếu kiện liên quan đến việc bồi thường đất; do người bị thu hồi
đất được hưởng lợi từ việc chênh lệch địa tô từ sự thay đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp sang đất ở tạo ra.
Hai là, sự chênh lệch về địa tô từ sự thay đổi mục đích sử dụng đất từ
đất nông nghiệp sang đất ở … được điều tiết cụ thể như sau: i) 50% tổng giá
trị của phần chênh lệch này được điều tiết vào ngân sách nhà nước, do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai đã xây dựng cơ chế, chính sách,
quy hoạch tổng thể về phát triển các khu đô thị mới làm thay đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp hoặc đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật,
hệ thống hạ tầng xã hội làm tăng giá trị của đất đai v.v; ii) 30% tổng giá trị
của phần chênh lệch này, chủ đầu tư dự án được hưởng do việc bỏ vốn đầu tư
trên khu đất được Nhà nước giao, cho thuê đất tạo ra; iii) 20% tổng giá trị của
phần chênh lệch này được hỗ trợ trở lại cho người sử dụng đất nông nghiệp
65
do họ có công giữ gìn, bảo vệ vốn đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
Thứ hai, về xử lý phần giá trị địa tô chênh lệch được tạo ra từ sự
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở. Trong thu hồi đất,
bồi thường, giải phóng mặt bằng phải đảm bảo hài hòa giữa lợi ích của Nhà
nước, lợi ích của người bị thu hồi đất và lợi ích của người đầu tư. Để thực
hiện được yêu cầu này chúng ta nên thực hiện dựa trên nguyên tắc mỗi chủ
thể đều được hưởng lợi ích từ phần địa tô chênh lệch phát sinh đó. Nhà nước
thông qua việc điều tiết thu về địa tô chênh lệch. Người dân, tổ chức được
hưởng lợi từ địa tô chênh lệch phải nộp nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước
ngay sau khi địa tô chênh lệch xuất hiện để điều tiết cho người có đất bị thu
hồi. Ngoài việc được bồi thường về đất, họ còn được hưởng khoản hỗ trợ.
Thực tế việc thu địa tô chênh lệch từ người dân là rất khó khăn; vì vậy,
trước mắt cho các trường hợp phải nộp địa tô chênh lệch được ghi nợ (như ghi
nợ khi cấp GCNQSDĐ). Khi nào người sử dụng đất ở được chuyển đổi mục
đích từ đất nông nghiệp thực hiện việc giao dịch, chuyển nhượng hoặc hoạt
động kinh tế khác có thu lợi từ địa tô chênh lệch 2 thì họ phải nộp nghĩa vụ tài
chính trước khi được Nhà nước cho phép thực hiện việc giao dịch.
Thứ ba, nghiên cứu, bổ sung các quy định về cơ chế, chính sách khuyến
khích, tạo điều kiện cho người sử dụng đất nông nghiệp góp đất cùng với Nhà
nước đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng và được hưởng lợi theo tỷ lệ vốn
góp từ việc tăng thêm giá trị của đất đai mang lai.
Thứ tư, tiếp tục nghiên cứu xây dựng các sắc thuế mới như: Thuế phát
triển của từng khu vực đất đai, thuế phát triển hạ tầng …để giảm thiểu tình
trạng lãng phí đất như hiện nay.
Thứ năm, sửa đổi, bổ sung các quy định về xử lý đối với hành vi vi
phạm pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
với chế tài xử phạt hành chính lên đến hàng tỷ đồng. Ngoài ra, doanh nghiệp
vi phạm bị xử lý sẽ không được Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc không
66
được nhận chuyển nhượng QSDĐ trong 05 năm kể từ ngày bị xử lý. Đối với
các vi phạm pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang
đất ở nghiêm trọng phải truy cứu trách nhiệm hình sự với mức phạt tù từ
khung 2 đối với các tội vi phạm chế độ sử dụng đất; tội vi phạm chế độ quản
lý đất đai của Bộ luật hình sự năm 2015. Bên cạnh đó, Nhà nước phải kiên
quyết yêu cầu đương sự vi phạm phải khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất
như trước khi vi phạm. Trường hợp họ không tự giác thực hiện thì sẽ bị Nhà
nước áp dụng biện pháp cưỡng chế v.v.
Thứ sáu, cần có quy định cụ thể, chặt chẽ hơn nữa để bảo vệ đất trồng
lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng theo hướng quy định cụ thể các
trường hợp Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng nhân dân tỉnh không
được phép chấp thuận chuyển mục đích sử dụng đất loại đất trên sang đất ở vì
mục đích phát triển kinh tế - xã hội, vì lợi ích quốc gia, công công.
Thứ bảy, hệ thống quy hoạch chi tiết xây dựng áp dụng đối với thửa đất
cần được phát triển song song với hệ thống quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
sao cho nhà đầu tư, người sử dụng đất có thể tính toán tương đối chính xác số
tiền thuê đất, tiền sử dụng đất mà họ phải bỏ ra ngay từ trước khi thực hiện
thu tục đấu giá hoặc đấu thầu.
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về chuyển đổi mục
đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
Một là, tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật một cách thường
xuyên, liên tục tại với các hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với nhận
thức của người dân ở từng địa phương như tổ chức các lớp bồi dưỡng, hội
nghị tập huấn về Luật Đất đai; các cuộc thi tìm hiểu pháp luật đất đai; lồng
ghép việc tuyên truyền pháp luật đất đai với hoạt động hòa giải; tư vấn pháp
luật, trợ giúp pháp lý; thành lập các câu lạc bộ pháp luật ở khu dân cư, thôn
xóm; tổ chức các phiên tòa lưu động xét xử các vụ án về đất đai tại cơ sở v.v.
Củng cố đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật với thành
67
phần là các luật sư, trợ giúp viên pháp lý, giảng viên các cơ sở đào tạo luật;
cán bộ, chuyên viên pháp lý các doanh nghiệp; cán bộ, thẩm phán, kiểm sát
viên về hưu … Đồng thời, tăng cường bồi dưỡng về kiến thức chuyên môn,
nội dung các văn bản pháp luật mới; kỹ năng tuyên truyền viên và sửa đổi các
quy định về mức thù lao cho các báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật …
Chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đất đai
cho người dân nói chung và cán bộ, công chức nói riêng ở khu vực nông thôn,
vùng sâu, vùng xã; cho các đối tượng yếu thế trong xã hội như phụ nữ, người
già, đồng bào các dân tộc thiểu số v.v.
Hai là, tăng cường hiệu quả thanh tra, giám sát việc thi hành pháp luật,
kịp thời phát hiện, ngăn chặn vi phạm pháp luật, xử lí nghiêm minh vi phạm
xảy ra; cụ thể:
- Củng cố đội ngũ cán bộ thanh tra chuyên ngành đất đai; sửa đổi, bổ
sung các quy định về nâng thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở đối với thanh tra
viên và trưởng đoàn thanh tra lên đến hàng trăm triệu đồng; thậm chí lên đến
cả tỷ đồng. Có như vậy mới đủ sức răn đe, giáo dục người vi phạm.
- Bổ sung quy định về thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp xã được ra
quyết định cưỡng chế phá dỡ công trình xây dựng trái phép trên đất nông
nghiệp kể từ khi phát hiện ra hành vi vi phạm. Có như vậy thì việc xử lý hành
vi vi phạm pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang
đất ở mới có hiệu quả thực chất.
- Phát huy vai trò của người dân, của các cơ quan ngôn luận, báo chí và
các đoàn thể quần chúng trong việc giám sát, lên án các hành vi vi phạm pháp
luật đất đai; các hành vi tiếp tay, dung túng, báo che, chống lưng của một số
cán bộ, công chức nhà nước nhằm tạo áp lực dư luận xã hội đấu tranh chống
tham nhũng, tiêu cực và các hành vi vi phạm pháp luật đất đai…
Ba là, nâng cao chất lượng công tác lập, thẩm định, xét duyệt quy
68
hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thực hiện nghiêm kỷ luật quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất đã được cấp có thẩm quyền xét duyệt; quản lý chặt chẽ và có cơ
chế để người dân, dư luận xã hội giám sát việc điều chỉnh quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất. Hạn chế đến mức thấp nhất việc điều chỉnh, thay đổi quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất để không tạo “kẽ hở” cho việc lợi dụng chuyển
mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở một cách ồ ạt, không tính đến
hiệu quả kinh tế và gây lãng phí tài nguyên đất đai.
Bốn là, hàng năm, Bộ TN& MT cần kết hợp với Cục theo dõi việc thực
thi pháp luật - Bộ Tư pháp tổ chức đánh giá, xếp hạng các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương về thực thi pháp luật đất đai nói chung và pháp luật chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở nói riêng theo các nhóm: i)
Nhóm các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện tốt; ii) Nhóm các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện trung bình; iii) Nhóm các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện kém. Đồng thời, công bố
công khai rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Điều này không
chỉ giúp Chính phủ đưa ra các ý kiến chỉ đạo chấn chỉnh việc thực hiện; các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương phải có giải pháp cải thiện, nâng hạng nhóm
thực thi có hiệu quả lĩnh vực pháp luật này mà còn có tác động tích cực đến công
tác quản lý nhà nước về đất đai ở cả cấp trung ương và địa phương góp phần xây
69
dựng nền quản trị đất đai tốt, minh bạch công khai và hiệu quả v.v.
Tiểu kết Chương 3
Nội dung Chương 3 tập trung phân tích, đưa ra định hướng và giải pháp
hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang
đất ở và nâng cao hiệu quả thi hành tại Việt Nam. Trên cơ sở phân tích, đánh
giá, luận văn rút ra một số kết luận chủ yếu sau đây:
1. Hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở phải dựa trên các định hướng cơ bản, bao gồm: Hoàn thiện
pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở phải
dựa trên quan điểm, đường lối của đảng về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp
luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và
hội nhập quốc tế; hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa vấn đề bảo
vệ đất nông nghiệp với chuyển một phần diện tích đất nông nghiệp sang đất ở
một cách hợp lý; hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở phải giải quyết được việc điểu tiết phần chênh lệch về
địa tô được tạo ra từ sự thay đổi mục đích sử dụng đất vào ngân sách nhà
nước; hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
sang đất ở phải dựa trên sự tổng kết thực tiễn thi hành lĩnh vực pháp luật này.
2. Định hướng nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về chuyển đổi mục
đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở, bao gồm: Tăng cường công tác quản
lý nhà nước về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; đổi
mới căn bản và toàn diện cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn của hệ thống thanh
tra chuyên ngành về đất đai; tiếp tục nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, sự
hiểu biết pháp luật đất đai cho đội ngũ cán bộ, công chức làm nhiệm vụ quản lý
đất đai; tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đất
đai cho cán bộ, công chức nói riêng và người dân nói chung v.v.
3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
70
nông nghiệp sang đất ở, bao gồm: Sửa đổi, bổ sung các quy định về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; trong đó đặc biệt chú
trọng đến những quy định về điều tiết phần chênh lệch về địa tô do việc
chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; bổ sung các quy định
chi tiết, cụ thể và đồng bộ về xử lý phần giá trị địa tô chênh lệch được tạo ra
từ sự chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; nghiên cứu,
bổ sung các quy định về cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho
người sử dụng đất nông nghiệp góp đất cùng với Nhà nước đầu tư xây dựng
hệ thống cơ sở hạ tầng và được hưởng lợi theo tỷ lệ vốn góp từ việc tăng thêm
giá trị của đất đai mang lai; tiếp tục nghiên cứu xây dựng các sắc thuế mới
như: Thuế phát triển của từng khu vực đất đai, thuế phát triển hạ tầng v.v.
4. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về chuyển đổi mục
đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở, bao gồm: Tăng cường phổ biến,
giáo dục pháp luật một cách thường xuyên, liên tục; tăng cường hiệu quả
thanh tra, giám sát việc thi hành pháp luật, kịp thời phát hiện, ngăn chặn vi
phạm pháp luật, xử lí nghiêm minh vi phạm xảy ra; nâng cao chất lượng công
tác lập, thẩm định, xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thực hiện
nghiêm kỷ luật quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cấp có thẩm quyền
xét duyệt; tổ chức đánh giá, xếp hạng các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương về thực thi pháp luật đất đai nói chung và pháp luật chuyển đổi mục
71
đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở nói riêng v.v.
KẾT LUẬN
1. Trong nền kinh tế thị trường, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở là điều khó tránh khỏi nhằm đáp ứng nhu cầu về chỗ ở đặt
trong bối cảnh sự phát triển dân số không ngừng tăng cao.
Ở nước ta, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất
ở được thực hiện dựa trên cơ sở đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Để giải quyết hài hòa giữa vấn đề
bảo vệ chặt chẽ vốn đất nông nghiệp với chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở thì việc chuyển đổi này phải được sự đồng ý của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền và tuân thủ các quy định của pháp luật đất đai.
Dẫu vậy trên thực tế vẫn xảy ra tình trạng tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp sang đất ở. Hành vi này không chỉ thể hiện ý thức coi thường
pháp luật mà còn phá vỡ nề nếp trong quản lý nhà nước về đất đai và cần
được xử lý nghiêm minh. Đây là một trong những lý do của sự ra đời pháp
luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở.
2. Pháp luật về chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở
bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và đảm bảo
thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước nhằm điều chỉnh nhóm
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở.
Lĩnh vực pháp luật này có một số đặc điểm chủ yếu, bao gồm: Pháp
luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở là lĩnh vực
pháp luật tổng hợp gồm quy phạm pháp luật của một số đạo luật có liên quan;
pháp luật chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở thuộc lĩnh
vực pháp luật công v.v.
Pháp luật chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở bao
gồm nhóm quy định chung; nhóm quy định về nội dung chuyển đổi mục đích
sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; nhóm quy định về trình tự, thủ tục
72
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở v.v.
Việc thực thi pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở dựa trên một số điều kiện bảo đảm như: Sự thống nhất,
đồng bộ của hệ thống pháp luật; năng lực, trình độ chuyên môn, sự hiểu biết
pháp luật và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức làm nhiệm vụ
quản lý nhà nước về đất đai; ý thức pháp luật của người dân; vốn và các điều
kiện cơ sở vật chất khác v.v.
3. Nghiên cứu thực trạng pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp sang đất ở, luận văn khu trú vào một số nội dung cụ thể gồm:
Các trường hợp chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; căn
cứ chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; điều kiện
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; thẩm quyền chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; trình tự, thủ tục chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; nghĩa vụ tài chính của người sử
dụng đất khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở; xử lý vi
phạm pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở…
4. Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp sang đất ở, luận văn chỉ ra những kết quả đạt được; những hạn
chế, tồn tại và nguyên nhân của hạn chế, tồn tại. Những nguyên nhân này bao
gồm nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Nội dung cụ thể của
đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp sang đất ở được đề cập cụ thể tại Tiểu mục 2.2 Chương 2.
5. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu của Chương1 và Chương 2, luận văn
đề xuất định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp sang đất ở và nâng cao hiệu quả thi hành tại Chương 3.
Các giải pháp này là những gợi mở có giá trị tham khảo không chỉ đối
với các nhà xây dựng, hoạch định chính sách, pháp luật đất đai mà còn đối với
đội ngũ cán bộ, công chức các cấp làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai
73
ở nước ta.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Xuân Bá (2003), Sự hình thành và phát triển thị trường bất động sản
trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Kỹ thuật.
2. Bộ tài nguyên và Môi trường (2017), Báo cáo tổng kết tình hình thi hành
Luật Đất đai 2013 và định hướng sửa đổi Luật Đất đai (dự thảo), tr.6
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Nghị quyết số 19/NQ/TW ngày
31/10/2012 của Ban chấp hành Trung ương kh a XI về tiếp tục đổi mới
chính sách đất đai trong thời kỳ mới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986), Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần
thứ VI Nguyễn Ngọc Điện (2007), Cấu trúc kỹ thuật của hệ thống pháp
luật sở hữu bất động sản Việt Nam một góc nhìn Pháp, Tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp (6).
5. Hernando de Soto (2006), Sự bí ẩn của tư bản, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, người dịch Nguyễn Quang A, người hiệu đính Trần Đình Thiên.
6. http://kinhtedothi.vn/lo-hong-trong-chuyen-doi-muc-dich-su-dung-dat-
nguy-co-that-thoat-ngan-sach-385285.html, Lỗ hổng trong chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nguy cơ thất thoát NSNN/ \
7. Trần Quang Huy (2007), Các đặc trưng pháp lý của quyền sử dụng đất ở
Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
8. Trần Quang Huy (2008), Pháp luật về giao đất có thu tiền sử dụng đất,
Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật. Hà Nội.
9. Nguyễn Thị Nga - Chủ nhiệm đề tài (2011), Hoàn thiện pháp luật về
quyền của người sử dụng đất trong lĩnh vực đầu tư, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội.
10. Phạm Hữu Nghị - Chủ nhiệm đề tài (2014), Cơ sở pháp lý của quản lý
nhà nước đối với lĩnh vực đất đai trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Viện Nhà
74
nước và Pháp luật, Hà Nội.
11. Phạm Hữu Nghị (2003), Khái quát về pháp luật đất đai ở Việt Nam, Cải
cách pháp luật và cải cách tư pháp nhìn từ vấn đề tranh chấp đất đai, Hội
thảo khoa học quốc tế tại Hà Nội từ ngày 25, 26/12, Viện Nhà nước và
Pháp luật.
12. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo Luật Kinh tế, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
13. Hoàng Phê (2018), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng.
14. Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội.
15. Quốc hội (1980), Hiến Pháp, Hà Nội.
16. Quốc hội (1987), Luật Đất đai, Hà Nội.
17. Quốc hội (1993), Luật Đất đai, Hà Nội.
18. Quốc hội (2003), Luật Đất đai, Hà Nội.
19. Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
20. Quốc hội (2013), Luật Đất đai, Hà Nội.
21. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
22. Quốc hội, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam các năm
1946, 1959, 1980 và 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), 2013.
23. Sở hữu, quản lý và sử dụng đất đai trong phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Sđd, tr. 277 - 278.
24. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích luật học, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
25. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam
Tập I, II, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
26. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật đất đai, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội.
27. Từ điển tiếng Việt thông dụng, Sdd
28. Nguyễn Quang Tuyến – Chủ nhiệm (2013), Pháp luật về tài chính đất đai
và giá đất ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường
Đại học Luật Hà Nội.
75
29. Nguyễn Quang Tuyến (2004), Vấn đề sở hữu toàn dân đối với đất đai
trong Luật đất đai, Tạp chí Luật học (12).
30. Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Bách
Khoa, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
31. Đặng Hùng Võ (2012), Vấn đề sở hữu đất đai và cơ chế nhà nước thu hồi
đất, Hội thảo về sửa đổi luật đất đai tại Lạng Sơn ngày 16, 17/2/2012.
32. Nguyễn Như Ý (2001), Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb Giáo dục, Hà
76
Nội.