ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ HUYỀN
DẠY HỌC MỘT SỐ VĂN BẢN THƠ TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 12 THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC THẨM MỸ CHO HỌC SINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
THÁI NGUYÊN - 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ HUYỀN
DẠY HỌC MỘT SỐ VĂN BẢN THƠ TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 12 THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC THẨM MỸ CHO HỌC SINH
Ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học bộ môn Văn - Tiếng Việt Mã số: 8140111
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG HỮU BỘI
THÁI NGUYÊN - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Hoàng Hữu Bội. Các nội dung nghiên cứu, kết
quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố dưới bất kỳ
hình thức nào.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Huyền
i
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn tốt nghiệp cuối khóa,
em đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của các thầy giáo, cô giáo khoa
Ngữ văn, khoa Sau Đại học, Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm Thái
Nguyên. Đặc biệt, với tất cả tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin
chân thành cảm ơn TS. Hoàng Hữu Bội - Người đã hết lòng tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào
tạo tỉnh Hải Dương; Các thầy cô trong Ban Giám hiệu và các đồng nghiệp
trường THPT Nam Sách đã giúp đỡ nhiệt tình, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới những người thân yêu đã luôn bên em,
động viên, khích lệ em trong những ngày học tập ở trường.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 13 tháng 6 năm 2018
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Huyền
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iii
DANH MỤC VIẾT TẮT .................................................................................... iv
DANH MỤC CÁC BẢNG .................................................................................. v
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 5
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 5
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 6
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 6
7. Bố cục luận văn ............................................................................................... 7
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................. 8
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ...... 8
1.1. Cơ sở lý luận .............................................................................................. 8
1.1.1. Khái niệm năng lực và năng lực cảm thụ thẩm mỹ ................................... 8
1.1.2. Vấn đề phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ khi dạy học các văn bản thơ ... 13
1.1.3. Đặc điểm thơ Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến nay ................................ 16
1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 20
1.2.1. Khái quát đặc điểm nội dung và nghệ thuật các văn bản thơ hiện đại
Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 ............................................... 20
1.2.2. Năng lực cảm thụ thẩm mĩ của học sinh đối với các văn bản thơ hiện
đại Việt Nam trong SGK Ngữ văn 12 và các tiêu chí đánh giá năng
lực cảm thụ thẩm mỹ của HS .................................................................. 22
1.2.3. Thực trạng dạy học các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách
giáo khoa Ngữ văn 12 của giáo viên ....................................................... 30
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 34
iii
Chương 2. ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC CÁC VĂN BẢN THƠ HIỆN
ĐẠI VIỆT NAM TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 12
THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CẢM THỤ THẨM
MỸ CHO HỌC SINH ........................................................................... 35
2.1. Định hướng chung ................................................................................... 35
2.2. Định hướng riêng cho từng bài thơ ......................................................... 36
2.2.1. Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.......................................................... 36
2.2.2. Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu .................................................................. 41
2.2.3. Đoạn trích Đất Nước (Trích trường ca “Mặt Đường khát vọng”) của
Nguyễn Khoa Điềm ................................................................................. 47
2.2.4. Bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh ................................................................ 54
2.2.5. Bài thơ Đàn Ghi ta của Lor-Ca của nhà thơ Thanh Thảo ....................... 59
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 66
Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM....................................................... 67
3.1. Thiết kế dạy học bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng theo
định hướng dạy học do luận văn đề xuất ................................................. 67
3.2. Dạy học thực nghiệm và đối chứng ở bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng ... 80
3.2.1. Mục đích .................................................................................................. 80
3.2.2. Đối tượng thực nghiệm ............................................................................ 80
3.2.3. Kế hoạch thực nghiệm ............................................................................. 80
3.2.4. Phương pháp tiến hành thực nghiệm ....................................................... 81
3.2.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm ................................................................. 81
3.2.6. Kết luận chung về thực nghiệm ............................................................... 85
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 87
PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 90
PHỤ LỤC
iv
DANH MỤC VIẾT TẮT
GD : Giáo dục
Gs : Giáo sư
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
NL : Năng lực
NXB : Nhà xuất bản
SGK : Sách giáo khoa
T.S : Tiến sĩ
THPT : Trung học phổ thông
TPVC : Tác phẩm văn chương
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Tâm lý HS THPT với các văn bản thơ hiện đại Việt Nam
trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 .................................................. 23
Bảng 1.2. Năng lực cảm thụ các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong
sách giáo khoa Ngữ văn 12 của HS THPT ................................... 27
v
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Về mặt lí luận
Vấn đề dạy học tác phẩm văn chương để làm phát triển năng lực thẩm
mỹ ở học sinh đã được thế hệ ông cha ta nói tới từ lâu.
Từ những năm 80 của thế kỉ trước trong cuốn “Những bài giảng văn ở
Đại học” (NXB Giáo dục - năm 1982), giáo sư Lê Trí Viễn đã viết: “Lâu nay
thường dùng thuật ngữ phát huy trí lực để chỉ việc khơi động học sinh tham gia
xây dựng bài.Trong giờ giảng văn có cái gì cao hơn, rộng hơn. Bởi vì đây không
phải chỉ kêu gọi những tính năng của trí tuệ mà cả con người. Đâu phải chỉ có
phán đoán, suy luận, phân tích, tổng hợp, tưởng tượng tái tạo và sáng tạo, mà còn
lắng mình nghe cho được nhịp đập cảu sự sống nằm im trong chữ nghĩa, để tim
mình rung cảm trở lại cái rung cảm của tác giả, cùng vui, buồn, căm giận, thương
nhớ, đợi chờ, nâng mình lên, xúc cảm với cái đẹp trong hình tượng thơ văn, nghe
nhạc mà thấy mùi hương, nghe tiếng động mà cảm thấy tĩnh mịch, thấy bóng đèn
mà bóng tối hóa thâm u… Tóm lại, đi vào thế giới tinh vi của thơ văn bằng cả con
người thông minh, nhạy cảm, tinh vi của mình” [34, tr.12].
Ngày nay giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ
chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học
cho nên trong việc dạy - học môn Ngữ văn, vấn đề dạy học tác phẩm văn học
làm phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh được đặt ra. Tài liệu Tập
huấn môn Ngữ văn cấp THPT của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2014 có ghi rõ:
“Năng lực cảm thụ thẩm mĩ là năng lực đặc thù của môn học Ngữ văn, gắn với
tư duy hình tượng trong tiếp nhận văn bản văn học. Quá trình tiếp xúc với các
tác phẩm văn chương là quá trình người đọc bước vào thế giới hình tượng của
tác phẩm và thế giới tâm hồn của tác giả từ chính cánh cửa tâm hồn của mình”.
Như vậy, chương trình mới đặt ra một yêu cầu cao hơn trong việc dạy - học tác
phẩm văn chương nói chung và dạy học văn bản thơ nói riêng. Đó là phải hình
1
thành ở học sinh năng lực cảm thụ thẩm mĩ. Đây là vấn đề mới, chúng tôi mạnh
dạn lựa chọn đề tài này với mong muốn đóng góp dù rất nhỏ vào việc đổi mới
phương pháp dạy - học tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ thông theo
yêu cầu của chương trình mới.
1.2. Về mặt thực tiễn
Ngành giáo dục của nước ta đang thực hiện việc chuyển đổi chương trình
từ giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học. Vấn đề này
đang được triển khai ở các trường phổ thông trong tất cả các môn học.
Dạy học TPVC nói chung, dạy học thể loại thơ nói riêng, chương trình mới
đòi hỏi phải hình thành và phát triển cho học sinh năng lực cảm thụ thẩm mỹ.
Khi thực thi đổi mới phương pháp dạy học để hình thành năng lực thẩm
mỹ, giáo viên và học sinh gặp nhiều lúng túng và khó khăn trong cả quá trình
dạy - học. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài này với hi vọng phát hiện ra những lung
túng, khó khăn của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học TPVH theo
hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh. Từ đó đề xuất được
những phương án dạy học cụ thể cho từng văn bản thơ trong SGK Ngữ văn 12
theo yêu cầu của chương trình mới.
2. Lịch sử vấn đề
Dạy học thơ theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học
sinh đã được bàn đến trong các tài liệu sau đây:
2.1. Trong cuốn Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo thể loại của
nhóm tác giả Trần Thanh Đạm, Hoàng Như Mai, Huỳnh Lý, Phan Sĩ Tấn, Đàm
Gia Cẩn có bài viết Thơ và giảng dạy thơ tác giả Trần Thanh Đạm đã đề cập
đến vai trò của thơ: “Tác dụng lớn lao của thơ đối với việc giáo dục con người.
Thơ như là một nghệ thuật của ngôn ngữ cân đối, hài hòa, du dương xưa nay
vốn gần gũi, dễ tiếp nhận, dễ quen thân đối với tâm hồn và trí tuệ của thé hệ
trẻ… thơ là nguồn suối mát phát triển những tư tưởng, tình cảm tốt đẹp cũng
như nhiều năng khiếu quý báu khác về cảm xúc, tưởng tượng, ngôn ngữ… Tóm
2
lại khả năng giáo dục của thơ trong nhà trường cho các lứa tuổi, thật hết sức
phong phú và lớn lao” [9].
Bên cạnh đó, các tác giả cũng chỉ ra những hạn chế: “Tuy nhiên, hiện
nay ở trường phổ thông, ta thấy có hiện tượng các em học sinh còn thờ ơ, lãnh
đạm với thơ. Chúng ta thường hay băn khoăn về phương pháp dạy thơ, nghĩa
là băn khoăn tìm con đường làm cho các em hiểu thơ và yêu thơ. Thầy giáo
phải hiểu thơ, yêu thơ mới làm cho học sinh hiểu và yêu thơ được” [9].
Từ đó tác giả đề cập đến phương pháp dạy học thơ: “Dạy thơ phải phục
tùng những phép tắc và phương pháp của việc dạy một TPVH. Giảng thơ chủ yếu
là giảng hình tượng thơ, qua hình thức để giảng nội dung, làm sống dậy hình
tượng với tất cả vẻ đẹp và chiều sâu của nó. Dạy học thơ là phải đọc diễn cảm và
học thuộc lòng và đặc biệt là ngâm thơ. Ngâm thơ là đọc thơ có yếu tố âm nhạc.
Đó là làn gió nâng đôi cánh thơ bay cao và bay xa trong đời sống" [9].
Xuất phát từ đặc trưng của thơ, thầy giáo phải biết hé ra cho học sinh
thấy thế giới tư tưởng, tình cảm, sống, chứa đựng trong hình tượng ngôn ngữ
lắng đọng và ngân vang của những bài thơ qua lời bình giảng.
2.2. GS. Lê Trí Viễn (Những bài giảng văn ở Đại học - NXB GD, H.1982)
thì cho rằng: “Giảng văn tốt cũng như dạy bất cứ môn gì tốt phải nhằm góp phần
đào tạo con người theo mục tiêu cải cách giáo dục với chức năng của mình. Hơn
bất kỳ môn học nào thì môn Ngữ văn có lợi thế để giáo dục tư tưởng, tình cảm,
giáo dục cái đẹp, đặc biệt là rèn luyện óc thông minh sáng tạo. Giảng văn là một
cơ hội có một không hai để rèn luyện cho HS óc thông minh sáng tạo ấy. Văn thơ
là sự sống đã đọng lại im lìm trong chữ nghĩa. Tìm hiểu và cảm thụ là dựng lại sự
sống ấy. Chỗ nào cũng là phát hiện, suy nghĩ, xúc cảm, chỗ nào cũng là vận dụng
óc thông minh để tái tạo, mà tái tạo là một hình thái sáng tạo” [34, tr.12].
Tác giả cũng cho rằng: đã dạy văn thơ hay là phải dạy được những cái
đó, nói rõ hơn, phải từng bước rèn luyện được cho HS những cái trên. Được
như vậy mới gọi là dạy văn, mới giáo dục được tư tưởng, tình cảm, đạo đức,
3
thẩm mỹ bằng văn thơ. Như vậy là dạy được cái hay, dạy hay là đạt yêu cầu tối
đa của giảng văn tốt.
Cũng theo GS. Lê Trí Viễn (Đến với bài thơ hay - NXB GD, H.2004),
“Cảm thụ văn học là hoạt động nhận thức thẩm mỹ có tính đặc thù. Nó vừa có tính
chủ quan vừa có tính khách quan. Nó là một hoạt động tích cực và sáng tạo của chủ
thể cảm thụ. Nó huy động nhiều năng lực bên trong của con người. Nó đặt yêu cầu
là phải đi tới sự cảm xúc hóa nội dung cảm thụ. Nó cũng đòi hỏi con người vượt
giới hạn của mình để thật sự đạt khoái cảm thẩm mỹ, vô tư” [35, tr.31].
GS cũng cho rằng, đối với người đọc thơ, quá trình từ tri giác ngôn ngữ,
vận dụng vốn sống để liên tưởng, tưởng tượng, cảm xúc, suy tưởng đến khái
quát lên vấn đề của cuộc sống từ tác phẩm là cần nhưng chưa đủ. Phát hiện ra
cái hay nằm ở chỗ nào, vì sao mà hay thì cần phải có một sự lóe sáng, một sự
bùng nổ trong tâm lý cảm thụ…
2.3. Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn Ngữ văn cấp THPT do Bộ
Giáo dục và Đào tạo phát hành năm 2014 cũng đã nêu ra lý thuyết về dạy học
vượt trội được sử dụng trong giáo dục hiện nay đó là thuyết kiến tạo của J.
Bruner và định hướng thiết kế bài học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực
HS và tiến trình của việc dạy học theo thuyết kiến tạo.
Tư tưởng cốt lõi của thuyết kiến tạo là: con người kiến tạo những sự hiểu
biết và tri thức về thế giới thông qua trải nghiệm và phản ánh… Trong mô hình
kiến tạo, HS được tạo cơ hội để hoạt động trong tiến trình học tập của mình.
Giáo viên đóng vai trò như là người cố vấn, giúp HS phát triển và đánh giá
những hiểu biết về việc học tập của các em, một công việc lớn nhất của GV khi
vận dụng thuyết kiến tạo vào dạy học là biết cách “hỏi những câu hỏi tốt”.
Tiến trình của dạy học kiến tạo bao gồm 3 bước:
Bước 1: Làm bộc lộ quan niệm của HS
Bước 2: Tổ chức điều khiển HS thảo luận
Bước 3: Tổ chức điều khiển HS vận dụng kiến thức
4
Theo tinh thần trên, tài liệu cũng đưa ra việc thiết kế bài học trong tài
liệu hướng dẫn theo mô hình trường học mới VNEN. Theo mô hình VNEN,
thiết kế bài học được biên soạn theo các chủ đề, tổ chức hoạt động cho HS theo
5 bước, bao gồm:
Bước 1: Hoạt động trải nghiệm
Bước 2: Hoạt động hình thành kiến thức mới
Bước 3: Hoạt động thực hành
Bước 4: Hoạt động ứng dụng
Bước 5: Hoạt động bổ sung
Trong mỗi chủ đề, các đơn vị kiến thức có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau theo một hệ thống gồm các hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm; hoạt
động của GV và gia đình. Mỗi hoạt động trong tiến trình học tập được xây
dựng với mục tiêu, nội dung và cách thức cụ thể.
Định hướng thiết kế bài học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực cho
HS cấp THPT trên là một hướng đi mới. Tham khảo định hướng này là một việc
làm cần thiết để đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường THPT hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Phát hiện những khả năng tác động của các tác phẩm thơ đến cảm xúc
thẩm mỹ của người đọc. Từ đó khơi dậy năng lực cảm thụ thẩm mỹ của HS.
Phát hiện những khó khăn, lúng túng của giáo viên và học sinh khi dạy
học các tác phẩm thơ trong SGK Ngữ văn 12 theo hướng phát triển năng lực
cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh.
Trên cơ sở đó đề xuất phương án dạy học cho từng văn bản thơ trong
SGK Ngữ văn lớp 12 theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho
học sinh.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Phương pháp dạy học các văn bản thơ trong SGK Ngữ văn
12 theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh.
5
Phạm vi nghiên cứu: 05 văn bản thơ trong SGK Ngữ văn 12, bao gồm:
1. Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng.
2. Bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu.
3. Đoạn trích “Đất Nước” (Trích Trường ca Mặt đường khát vọng) của
Nguyễn Khoa Điềm.
4. Bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh.
5. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” của Thanh Thảo.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài có 3 nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu vấn đề trên bình diện lý thuyết:
+ Khái niệm năng lực, năng lực cảm thụ thẩm mỹ
+ Vấn đề dạy các văn bản thơ theo hướng phát triển năng lực cảm thụ
thẩm mỹ.
+ Vấn đề đặc điểm thơ Việt Nam đương đại.
- Nghiên cứu, khảo sát thực tiễn:
+ Khảo sát đặc điểm các văn bản thơ SGK Ngữ văn 12.
+ Khảo sát năng lực cảm thụ thẩm mỹ của học sinh đối với các văn bản
thơ SGK Ngữ văn 12.
+ Khảo sát thực trạng dạy - học của Giáo viên với các văn bản thơ trong
SGK Ngữ văn 12.
- Thực nghiệm sư phạm gồm:
+ Thiết kế bài học
+ Dạy học thực nghiệm đối chứng.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết
- Phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa các vấn đề lí luận.
- So sánh, đối chiếu.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Điều tra, khảo sát, thống kê, phân loại
- Thực nghiệm sư phạm.
6
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài.
- Chương 2: Định hướng dạy học các văn bản thơ hiện đại trong SGK
Ngữ văn 12 theo hướng phát triển năng lực học sinh.
- Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
7
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm năng lực và năng lực cảm thụ thẩm mỹ
1.1.1.1. Khái niệm “năng lực”
“Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên (NXB Đà Nẵng, 1998) có giải
thích: Năng lực là “Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực
hiện một hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả
năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao” [26].
Trong Tài liệu tập huấn việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định
hướng phát triển năng lực của học sinh do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát hành
năm 2014 thì “Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có
tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân…
nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh
nhất định” [40, tr.49]. Năng lực thể hiện sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố
(phẩm chất của người lao động, kiến thức và kỹ năng) được thể hiện thông qua
các hoạt động của cá nhân nhằm thực hiện một loại công việc nào đó. Năng lực
bao gồm các yếu tố cơ bản mà mọi người lao động, mọi công dân đều cần phải
có, đó là các năng lực chung, cốt lõi”. Định hướng chương trình giáo dục phổ
thông (GDPT) sau năm 2015 đã xác định một số năng lực những năng lực cốt
lõi mà học sinh Việt Nam cần phải có như:
- Năng lực làm chủ và phát triển bản thân, bao gồm:
+ Năng lực tự học;
+ Năng lực giải quyết vấn đề;
+ Năng lực sáng tạo;
+ Năng lực quản lí bản thân.
8
- Năng lực xã hội, bao gồm:
+ Năng lực giao tiếp;
+ Năng lực hợp tác.
- Năng lực công cụ, bao gồm:
+ Năng lực tính toán;
+ Năng lực sử dụng ngôn ngữ;
+ Năng lực ứng dụng công nghệ thông tin (ITC).
Như vậy có thể hiểu một cách ngắn gọn năng lực là khả năng vận dụng tất
cả những yếu tố chủ quan (mà bản thân có sẵn hoặc được hình thành qua học
tập) để giải quyết các vấn đề trong học tập, công tác và cuộc sống.
Các năng lực mà môn học Ngữ văn hướng đến bao gồm:
. Năng lực sáng tạo
. Năng lực giải quyết vấn đề
. Năng lực hợp tác
. Năng lực tự quản bản thân
. Năng lực giao tiếp tiếng Việt
. Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mỹ
Trong cuốn Lý luận dạy học hiện đại, các nhà nghiên cứu Bernd Meier và
Nguyễn Văn Cường cho rằng: Chương trình dạy học định hướng năng lực
không quy định những nội dung dạy học chi tiết mà quy định những kết quả
đầu ra mong muốn của quá trình đào tạo, trên cơ sở đó đưa ra những hướng dẫn
chung về việc lựa chọn nội dung, phương pháp, tổ chức và đánh giá kết quả dạy
học nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu dạy học, tức là đạt được kết quả đầu ra
mong muốn. Trong chương trình định hướng năng lực, mục tiêu học tập - tức là
kết quả học tập mong muốn thường được mô tả thông qua hệ thống các năng
lực. Kết quả học tập mong muốn được mô tả chi tiết và có thể quan sát, đánh
giá được [4]. Với nội dung, yêu cầu và cách vận hành như vậy, chương trình
giáo dục định hướng năng lực có ưu thế trong việc quản lý chất lượng sản phẩm
đào tạo ở đầu ra - tức năng lực vận dụng vào thực tiễn của HS.
9
Các tác giả của Từ điển giáo dục thì quan niệm “Năng lực là khả năng
được hình thành hoặc phát triển, cho phép con người đạt được thành công
trong một hoạt động thể lực, trí tuệ hoặc nghề nghiệp” [26].
Nhìn chung các quan niệm về năng lực đều giống nhau ở một điểm là khi
nói tới năng lực là nói tới kiến thức, kỹ năng và khả năng huy động các kiến
thức, kỹ năng đó để giải quyết thành công các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Một
người được xem là có năng lực phải là người có khả năng giải quyết thành công
các vấn đề trong cuộc sống thuộc lĩnh vực đang nói tới.
Trong bài viết Phác thảo chương trình Ngữ văn theo định hướng phát
triển năng lực, PGS.TS Bùi Mạnh Hùng cho rằng: "Môn Ngữ văn giúp HS phát
triển các năng lực và phẩm chất tổng quát và đặc thù, góp phần thực hiện mục
tiêu giáo dục của nhà trường Phổ thông nói chung. Năng lực tư duy, năng lực
tưởng tượng và sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự học là những năng lực
tổng quát, liên quan đến nhiều môn học. Năng lực sử dụng ngôn ngữ và năng
lực thẩm mỹ mà chủ yếu là cảm thụ văn học là những năng lực đặc thù, trong
đó năng lực sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và tư duy đóng vai trò hết sức quan
trọng trong học tập của học sinh và công việc của các em trong tương lai, giúp
các em nâng cao chất lượng cuộc sống. Đồng thời với quá trình giúp HS phát
triển các năng lực tổng quát và đặc thù, môn Ngữ văn có sứ mạng giáo dục
tình cảm và nhân cách cho người học" [14].
Như vậy, muốn đánh giá một năng lực nào đó cần đánh giá hai vấn đề:
Một là kiến thức, kỹ năng; hai là khả năng sử dụng các kiến thức, kỹ năng đó
để giải quyết các vấn đề có liên quan đến cuộc sống.
1.1.1.2. Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mỹ
Đây là một trong các năng lực mà môn học Ngữ văn hướng đến. Năng lực
cảm thụ thẩm mỹ thể hiện khả năng của mỗi cá nhân trong việc nhận ra được
các giá trị thẩm mỹ của sự vật, hiện tượng, con người và cuộc sống, thông qua
những cảm nhận, rung động trước cái đẹp và cái thiện, từ đó biết hướng những
10
suy nghĩ, hành vi của mình theo cái đẹp, cái thiện. Như vậy, năng lực cảm thụ
(hay năng lực trí tuệ xúc cảm) thường dùng với hàm nghĩa nói về các chỉ số
cảm xúc của mỗi cá nhân. Chỉ số này mô tả khả năng tự nhận thức để xác định,
đánh giá và điều tiết cảm xúc của chính mỗi người, của người khác, của các
nhóm cảm xúc.
Năng lực cảm xúc thẩm mỹ được thể hiện ở một số nội dung sau:
- Nhận thức được các cảm xúc của bản thân
Ý thức về bản thân - tức là có thể nhận biết các xúc cảm của mình - là cơ sở
của năng lực cảm xúc. Năng lực này có ý nghĩa căn bản đối với sự hiểu biết bản
thân và trực giác tâm lý. Những người không tự biết về những gì mình cảm nhận
sẽ thường phó mặc cho tình cảm của mình. Trái lại, những người biết làm cho
cuộc sống của mình tốt hơn sẽ thấy rõ được những hậu quả sâu xa trong các quyết
định của mình, dù đó là lựa chọn người bạn đời hay sự lựa chọn nghề nghiệp.
- Làm chủ các cảm xúc của bản thân
Đó là năng lực làm cho những tình cảm của mình thích nghi với mỗi hoàn
cảnh, điều này phụ thuộc vào sự tự ý thức về bản thân. Năng lực này giúp mỗi
người biết cách tự trấn an tinh thần của mình trong những tình huống căng
thẳng hoặc những thử thách của cuộc sống, thoát khỏi sự chi phối của lo âu,
buồn rầu và giận dữ, cũng như thấy được hậu quả tiêu cực của tình trạng tiêu
cực không đạt tới điều đó. Những người có năng lực làm chủ bản thân có thể
chấp nhận và vượt qua được một cách tốt nhất những thất bại và những sự trái
ý mà cuộc đời dành cho mình, biết ứng xử hết sức có hiệu quả trong mọi lĩnh
vực của cuộc sống, đồng thời biết thể hiện tình cảm, cảm xúc của bản thân phù
hợp trong những hoàn cảnh giao tiếp.
- Nhận biết các cảm xúc của người khác và những biểu hiện của cuộc
sống từ phương diện thẩm mỹ.
Sự đồng cảm, nhạy cảm trước những trạng thái cảm xúc của người khác
xuất phát từ ý thức về bản thân là yếu tố căn bản tạo nên mối quan hệ tương tác
11
giữa cá nhân và những người xung quanh. Những người đồng cảm biết tiếp
nhận hết sức nhanh nhạy những tín hiệu mà qua đó cho thấy nhu cầu và mong
muốn của người khác, cũng như sự nhạy cảm và sự tương giao giữa cảm xúc
của cá nhân với những biến thái rất tinh tế của các hình ảnh cuộc sống. Đó là
những người biết “Thương người như thể thương thân”, luôn biết “Mở lòng
đón lấy những vang động của cuộc sống”, biết thể hiện những tình cảm, thái độ
phù hợp trước những biểu hiện của cái đẹp, cái thiện cũng như cái ác, cái xấu
trong cuộc sống.
- Làm chủ những liên hệ, những giá trị của con người và cuộc sống
Luôn biết giữ những liên hệ tốt với những người xung quanh, đó chính là
biết chủ động điều khiển các cảm xúc của mình. Những người biết làm cho
mình có được sự cảm mến của mọi người, biết lãnh đạo và định hướng một
cách có hiệu quả những mối liên hệ của mình với người khác đều có sự làm chủ
cảm xúc ở mức cao nhất. Đó cũng là những người biết nhận thức được những
giá trị sống từ phương diện thẩm mỹ, biết hành động vì những gì tốt đẹp trong
môi trường sống của mình. Đây chính là yếu tố quan trọng tạo nên thành công
của mỗi người trong cuộc sống.
Năng lực cảm thụ thẩm mỹ là năng lực đặc thù của môn học Ngữ văn, gắn
với tư duy hình tượng trong việc tiếp nhận văn bản văn học. Quá trình tiếp xúc
với tác phẩm văn chương là quá trình người đọc bước vào thế giới hình tượng
của tác phẩm và thế giới tâm hồn của tác giả từ chính cánh cửa tâm hồn của
mình. Năng lực cảm xúc, như trên đã nói, được thể hiện ở nhiều khía cạnh;
trong quá trình người học tiếp nhận tác phẩm văn chương năng lực cảm xúc
được thể hiện ở những phương diện sau:
- Cảm nhận vẻ đẹp của ngôn ngữ văn học, biết rung động trước những
hình ảnh, hình tượng được khơi gợi trong tác phẩm về thiên nhiên, con người,
cuộc sống qua ngôn ngữ nghệ thuật.
12
- Nhận ra được những giá trị thẩm mỹ được thể hiện trong tác phẩm văn
học: cái đẹp, cái xấu, cái hài, cái bi, cái cao cả, cái thấp hèn,… từ đó cảm nhận
được những giá trị tư tưởng và cảm hứng nghệ thuật của nhà văn được thể hiện
qua tác phẩm.
- Cảm hiểu được những giá trị của bản thân qua việc cảm hiểu tác phẩm văn
học; hình thành và nâng cao nhận thức và xúc cảm thẩm mỹ của cá nhân; biết cảm
nhận và rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên, con người, cuộc sống; có những
hành vi đẹp đối với bản thân và các mối quan hệ xã hội; hình thành thế giới quan
thẩm mỹ cho bản thân qua việc tiếp nhận tác phẩm văn chương.
Từ việc tiếp xúc với các văn bản văn học, HS sẽ biết rung động trước cái
đẹp, biết sống và hành động vì cái đẹp, nhận ra cái xấu và phê phán những
hiện tượng, biểu hiện không đẹp trong cuộc sống, biết đam mê và mơ ước cho
cuộc sống tốt đẹp hơn.
Như vậy, quá trình dạy học Ngữ văn đồng thời giúp HS hình thành và phát
triển các năng lực đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội, thông qua việc rèn
luyện và phát triển các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói. Trong quá trình hướng dẫn
HS tiếp xúc với văn bản, môn Ngữ văn còn giúp HS từng bước hình thành và
nâng cao các năng lực học tập của môn học, cụ thể là năng lực tiếp nhận văn
bản (gồm kỹ năng nghe và đọc) và năng lực tạo lập văn bản (gồm kỹ năng nói
và viết).
1.1.2. Vấn đề phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ khi dạy học các văn bản thơ
Từ điển Văn học (bộ mới) (NXB Thế giới. 1998), tác giả Lại Nguyên Ân
cho rằng: Tiếp nhận thẩm mỹ là một dạng thức hoạt động thẩm mỹ, được thực
hiện ở dạng tiếp nhận (thưởng thức, cảm thụ) tác phẩm nghệ thuật với tư cách
một giá trị thẩm mỹ. Tiếp nhận thẩm mỹ không phải là sự tái hiện giản đơn tác
phẩm nghệ thuật trong ý thức, mà là một quá trình phức tạp: quá trình cùng
tham dự và cùng sáng tạo của chủ thể. Khác với hoạt động thẩm mỹ của nghệ
sỹ - người sáng tạo tác phẩm nghệ thuật, tiếp nhận thẩm mỹ không mang tính
13
công nghệ và nó vận hành theo hướng ngược: từ việc tiếp nhận kết quả (tác
phẩm nghệ thuật nói chung) đi đến tiếp nhận các ý tưởng chứa đựng trong đó.
Giữa tác phẩm và chủ thể tiếp nhận bao giờ cũng có một sự gián cách thẩm mỹ:
phải ý thức rằng trước mắt chỉ là sự miêu tả thực tại chứ không phải là bản thân
thực tại. Để vượt qua sự gián cách, ở chủ thể tiếp nhận phải có một trạng thái
tâm lý nhất định (tâm thế thẩm mỹ) để vừa cảm nhận tác phẩm nghệ thuật như
có thể là thực tại, đồng thời vừa không quên tính ước lệ của nó. Tiếp nhận thẩm
mỹ, vì vậy, mang tính hai chiều (tiếng Pháp: ambivalent): chủ thể tiếp nhận vừa
tin vừa không tin vào tính thực tại của cái được miêu tả [1].
Tiếp nhận thẩm mỹ được xác định phần lớn bởi tác phẩm nghệ thuật: tác
phẩm không chỉ là nguồn thông tin nghệ thuật chủ yếu, mà còn đề ra phương
thức “đọc”, “dịch” nó sang bình diện cảm xúc - hình tượng của chủ thể.
Tính phức tạp của tiếp nhận thẩm mỹ là ở chỗ các ý tưởng của tác phẩm
không thể dịch sang bình diện lời nói, khái niệm (theo lối nói hình ảnh của
Hêminguê, nó giống như 7/8 phần của tảng băng trôi bị chìm dưới nước). Đặc
tính trên là căn cứ để chủ nghĩa tượng trưng xây dựng quan niệm của họ, theo
đó tư tưởng thẩm mỹ bao giờ cũng tiềm ẩn so với ý thức thường ngày. Tuy
nhiên, ở văn bản nghệ thuật, ở hệ thống các phương tiện biểu hiện bao giờ cũng
có khóa mã cho phép giải ra các hàm nghĩa kín đáo của nó. Việc thâm nhập vào
hàm nghĩa của tác phẩm nghệ thuật còn phụ thuộc vào năng lực thẩm mỹ của
chủ thể, vào trình độ phát triển về tình cảm thẩm mỹ ở chủ thể tiếp nhận.
Tính chọn lọc và chiều sâu của tiếp nhận thẩm mỹ bị quy định bởi trạng
thái văn hóa xã hội, bởi tiềm năng văn hóa chung của cá nhân.
Sản phẩm của tiếp nhận thẩm mỹ là một hình tượng và một hàm nghĩa
“thứ sinh”, có thể trùng hoặc không trùng với hình tượng và tư tưởng mà tác
giả trù định.
Có thể phân chia một số điểm chủ chốt trong quá trình tiếp nhận thẩm mỹ:
- Tâm thế hướng vào tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật;
- Cảm xúc sơ bộ từ việc tiếp xúc với nó;
14
- Vui mừng nhận ra ở tác phẩm cái hình tượng chờ đợi, phát triển nó trên
cơ sở liên tưởng với các ý niệm hợp với kinh nghiệm sống và kinh nghiệm văn
hóa của chủ thể.
Do chỗ hình tượng nghệ thuật không bao giờ hoàn toàn phù hợp với sự
chờ đợi của chủ thể, cho nên sự nhận ra bao giờ cũng mang dạng thức một trò
chơi độc đáo: chiếm lĩnh hình tượng nghệ thuật của “kẻ khác” và truyền xúc
cảm của mình vào hình tượng ấy.
Trong trường hợp thông tin nghệ thuật vượt quá sự chờ đợi của chủ thể,
khi đó hoặc là sự tiếp nhận thẩm mỹ bị phá vỡ (chủ thể đánh giá tác phẩm là kỳ
quặc, lố lăng, phi lý, kém cỏi), hoặc là trên cơ sở tăng cường óc tưởng tượng, ở
chủ thể tiếp nhận sẽ hình thành một hình tượng - cảm xúc mới, trong đó tư
tưởng mà nghệ sĩ gửi vào tác phẩm sẽ được khám phá như mới nảy sinh.
Điểm cao nhất của tiếp nhận thẩm mỹ đi kèm với một cảm xúc thẩm mỹ
sâu sắc, có thể gọi là thanh lọc (catharsis), theo thuật ngữ Arixtôt. Hoàn tất quá
trình tiếp nhận thẩm mỹ là phán đoán thẩm mỹ.
Tiếp nhận thẩm mỹ không bao giờ có dạng khai triển; nó có thể dừng lại ở
cảm xúc sơ bộ hoặc ở mức nhận ra những hình tượng quen thuộc, nhưng có thể
đạt tới một độ căng cao, khi chủ thể cảm nhận niềm vui chẳng những do cái
hàm nghĩa được anh ta khám phá, mà còn do bản thân hành vi khám phá ấy.
Với lý thuyết tiếp nhận thẩm mỹ như thế, việc phát triển năng lực cảm thụ
thẩm mỹ trong dạy học Ngữ văn nói chung, dạy học các văn bản thơ nói riêng
là rất quan trọng. Đó chính là chìa khóa để mở tâm hồn, mang đến sự đồng điệu
và đưa học sinh đến với thế giới của Chân - Thiện - Mỹ, đúng như mục tiêu của
môn học.
Hơn nữa, thơ lại là một thể loại hội tụ của cảm xúc, sự thăng hoa trong
sáng tạo của người nghệ sĩ, phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ khi dạy học
các văn bản thơ chính là đưa người học vào thế giới tâm hồn của nhà thơ, để
cảm nhận những không gian của cái đẹp, đắm mình trong cảm xúc…
15
Trong xu thế mới của đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục, chúng ta
đang mở ra hướng lấy người học là trung tâm, phát triển các năng lực của
người học trong lĩnh hội tri thức, việc phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho
học sinh khi dạy học các văn bản thơ là hướng đi thiết thực dù còn nhiều trăn
trở, khó khăn. Muốn phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ trong dạy học các
văn bản thơ trong SGK Ngữ văn 12, trước hết phải hiểu đặc điểm của thơ Việt
Nam giai đoạn từ 1945 đến nay.
1.1.3. Đặc điểm thơ Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến nay
Từ sau cách mạng tháng Tám 1945, lịch sử dân tộc đã bước sang trang
mới, mở ra kỉ nguyên độc lập, tự do. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền văn học
cũng có sự chuyển mình kì diệu. Thơ ca tràn đầy cảm hứng lãng mạn công dân,
lòng yêu nước là tình cảm bao trùm và sâu rộng nhất, nó gắn bó mọi con người
Việt Nam trong khối thống nhất của tình đồng bào đã có từ ngàn xưa, nay lại
càng thêm thắm thiết trong cách mạng và kháng chiến. Trong thơ, tình cảm ấy
được thể hiện cụ thể thành muôn nghìn trạng thái. Lòng yêu nước cũng đi liền
với lòng căm giặc cướp nước, ý chí chiến đấu và chủ nghĩa anh hùng trong
cuộc kháng chiến, tinh thần lạc quan vượt lên mọi gian khổ, hi sinh. Lòng yêu
nước còn được thể hiện bằng lòng tự hào dân tộc và niềm tin vào chiến thắng.
Kế tiếp tinh thần ấy trong lịch sử, ở thời đại cách mạng giải phóng cho quần
chúng thì lòng tự hào dân tộc luôn gắn liền với ý thức làm chủ của nhân dân.
Đặc điểm thơ ca từ 1945 đến 1975
Thơ hướng vào thể hiện hình ảnh quần chúng nhân dân qua hình tượng cái
tôi trữ tình quần chúng và các nhân vật trữ tình. Cách mạng không chỉ giải
phóng cho đông đảo quần chúng nhân dân mà phải dựa hẳn vào lực lượng quần
chúng, phát huy sức mạnh vĩ đại và tiềm năng cách mạng của quần chúng để
thực hiện được sự nghiệp lớn lao.
Thơ kháng chiến đã tạo nên sự thay đổi về quan niệm thẩm mỹ và chất
liệu thi ca. Cách mạng và kháng chiến đưa thơ trở về hiện thực đời sống của đất
16
nước và nhân dân, giúp các nhà thơ tìm thấy chất thơ trong cuộc sống hàng
ngày, trong sinh hoạt, lao động và đấu tranh của quần chúng. Nhà thơ của thời
đại mới trước hết cũng là một công dân, một cán bộ, hay chiến sĩ, sống với
cuộc đời thực, với mọi gian khổ, buồn vui, lo lắng, hi vọng của con người
kháng chiến, cùng với đông đảo mọi người.
Về hình thức thể loại thơ kháng chiến sử dụng phổ biến các thể thơ có
nguồn gốc dân gian, dân tộc, đồng thời phát triển thể thơ tự do và lối thơ hợp
thể. Theo hướng dân tộc và đại chúng, thơ đã tìm về với các thể thơ quen thuộc
của dân gian và dân tộc, như lục bát, bốn tiếng, năm tiếng. Lục bát trong giai
đoạn này nghiêng về phía ca dao hơn là kế tục truyền thống lục bát cổ điển hay
Thơ Mới. Tố Hữu là nhà thơ vận dụng thành thục thể thơ lục bát ca dao mà
đỉnh cao là bài thơ Việt Bắc.
Cùng với sự biến đổi căn bản về nội dung tư tưởng, cảm xúc thì ngôn ngữ
thơ kháng chiến tất yếu cũng có những biến đổi mạnh mẽ so với ngôn ngữ thơ
thời kì trước cách mạng. Xu hướng chung là đưa ngôn ngữ thơ phát triển về
phía hiện thực đời sống, trước hết là đời sống lao động, đấu tranh của quần
chúng nhân dân, về gắn với tiếng nói hàng ngày, tự nhiên, bình dị, sinh động.
Cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước để giải phóng miền Nam, bảo vệ
miền Bắc kéo dài hơn mười năm với nhiều giai đoạn và diễn biến phức tạp, với
nhũng hi sinh to lớn và thắng lợi trọn vẹn, xứng đáng là một trong những cuộc
kháng chiến vĩ đại nhất trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc ta. Như
một lẽ tất yếu trong truyền thống văn học dân tộc, thơ đã trở thành vũ khí tinh
thần, thành sức mạnh tham gia vào cuộc chiến đấu, gắn bó với vận mệnh của
dân tộc, nhân dân. Chủ đề kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước dường
như là sự vận động tự nhiên, liên tục của nền thơ. Giặc Mỹ càn phá miền Bắc
đã chạm đến tình cảm sâu xa và thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam, làm
bừng dậy sức mạnh lớn lao của lòng yêu nước, tinh thần dân tộc. Những tình
cảm lớn lao ấy đã trở thành nguồn mạch dồi dào cho cảm hứng thơ ca.
17
Thơ kháng chiến chống Mỹ mang những tình cảm lớn lao bao tùm trong
đời sống tinh thần của con người thời đại chống Mỹ cứu nước. Chủ nghĩa yêu
nước là nguồn động lực tinh thần lớn nhất của mọi người, cũng là nguồn cảm
hứng bao trùm và thấm sâu trong mọi tác phẩm thi ca. Chủ nghĩa yêu nước đã
được phát triển đến những chiều cao và độ sâu mới, phong phú, đa dạng. Tiếng
gọi Tổ quốc vang lên không chỉ cảm nhận bằng tình cảm, thơ còn phát hiện
khám phá về Tổ quốc bằng nhận thức sâu sắc của lí trí, tư tưởng của thời đại.
Vì thế Đất nước được nhìn từ không gian địa lí, lịch sử, văn hóa; Đất nước
cũng ở ngay trong những gì hết sức gần gũi thân thuộc với mỗi chúng ta
(Trường ca Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm). Thơ chống Mỹ dã xây
dựng được nhiều hình tượng đẹp về con người Việt Nam. Nhận thức về đất
nước luôn gắn liền với nhận thức về nhân dân, đó là nét nổi bật trong chủ nghĩa
yêu nước thời kì này. Tư tưởng đất nước nhân dân đã thấm sâu vào cái nhìn của
các nhà thơ khi nói về Đất nước. Nhân dân là vô vàn những con người bình
thường, vô danh, thầm lặng “Không ai nhớ mặt đặt tên” làm nên đất nước
(Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Duy, Dương Hương Ly).
Không chỉ vậy, thơ kháng chiến chống Mỹ còn tập trung xây dựng hai loại
hình tượng cái “Tôi” trữ tình: Cái tôi sử thi và cái tôi thế hệ.
Cái Tôi sử thi xuất hiện trong thời kì kháng chiến chống Pháp và được tiếp
tục ở những năm hòa bình, đến kháng chiến chống Mĩ, đã trở thành hình tượng
cái Tôi trữ tình chủ đạo. Cái Tôi sử thi tạo cho nhà thơ tâm thế trữ tình cao rộng
và tư cách phát ngôn cho cả dân tộc, đất nước, nhân dân.Tuy vậy cái tôi đó vẫn
thể hiện ở hai bình diện: Một mặt đại diện cho dân tộc, đất nước; một mặt nhà
thơ thể hiện cái nhìn riêng bằng lòng thành kính, tự hào. Nhờ sự kết hợp hai
bình diện đó mà cái Tôi sử thi trong thời kì chống Mĩ tuy rất thống nhất nhưng
không đơn điệu, không hoàn toàn thủ tiêu cái tôi tác giả. Vì thế bản sắc, cá tính
của mỗi nhà thơ vẫn được bộc lộ, phát huy.
18
Cùng với đó là cái Tôi thế hệ là dạng thức tiêu biểu cho cái tôi trữ tình
trong cá nhà thơ trẻ thời chống Mĩ. Các nhà thơ trẻ cùng mang tiếng nói tự ý
thức, tự nguyện nhập cuộc. Họ đều ý thức rõ ràng về thế hệ mình và về tính
chất đại diện cho tiếng nói thế hệ của thơ mình. Họ thấu hiểu trách nhiệm và sứ
mệnh của mình.
“Lớp tuổi hai mươi, ba mươi điệp trùng áo lính
Trùng điệp áo màu xanh là tiếng trả lời”. (Thanh Thảo)
Cái tôi thế hệ được thể hiện trong những con người cụ thể, tiêu biểu cho
thế hệ ấy và đây là đóng góp xuất sắc của các nhà thơ trẻ vào việc xây dựng
hình tượng nghệ thuật về con người Việt Nam của thời đại chống Mĩ.
“Không có sách chúng tôi làm ra sách
Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình.” (Hữu Thỉnh)
Một đặc điểm nữa của thơ kháng chiến là tăng cường tính chính luận, nội
dung chính trị đã thâm nhập và chi phối mạnh mẽ mọi lĩnh vực đời sống kể cả
thơ. Nhằm đề cập và giải đáp những vấn đề mang ý nghĩa chính trị, thơ tìm đến
khuynh hướng trữ tình chính trị và sự tăng cường yếu tố chính luận. Nhà thơ
vừa như một nhà tuyên truyền, cổ động, lại vừa như một nhà suy tưởng, nhà
nghệ sĩ để phát hiện, khám phá và say mê khẳng định Tổ quốc, dân tộc, nhân
dân, thời đại. Những nhà thơ tiêu biểu không thể không kể đến là Chế Lan
Viên, Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm và nhiều nhà thơ khác.
Khuynh hướng vận động thơ 1945 - 1975 tăng cường chất liệu hiện thực
nhằm đưa thơ gắn với đời sống thực, tăng cường tính khái quát, triết lí, suy
tưởng trong thơ. Về hình thức nghệ thuật, thơ 1945 -1975 kế thừa hình thức thơ
ca dân gian, dân tộc và tự do hóa hình thức thơ.
Đặc điểm thơ ca từ sau 1975
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, kháng chiến chống Mĩ vẫn là nguồn
cảm hứng lớn nhất của thơ. Cảm hứng sử thi vẫn là nền tảng của những trường
ca và nhiều bài thơ về đề tài chiến tranh. Các nhà thơ như Tố Hữu, Xuân Diệu,
19
Thanh Thảo, Hữu Thỉnh… đã mang đến diện mạo mới trong khái quát lịch sử
hào hùng của dân tộc, chiêm nghiệm về lịch sử qua những trải nghiệm của
chính thế hệ mình.
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã thúc đẩy tinh thần dân chủ và sự
phát triển mạnh mẽ ý thức cá nhân trong văn học. Thơ ở thời kì này thể hiện
khát vọng đào sâu vào bản ngã, vào con người bên trong con người, đặc biệt là
thế giới tâm linh, những vùng mở của tiềm thức, cũng trong tinh thần dân chủ
ấy mà nhiều xu hướng thơ được nảy nở, nhiều thể nghiệm mạnh bạo được ra
mắt công chúng. Quan niệm thơ có nhiều biến đổi và ý thức cách tân thơ ngày
càng mạnh mẽ đã đem lại sự độc đáo, xu hướng hiện đại từ bóng dáng thơ siêu
thực đến thứ thứ thơ vụt hiện, thơ như trò chơi của ngôn từ.
Khuynh hướng trong thơ từ sau 1975 là tiếp tục mạch cảm hứng sử thi,
nhưng thiên về bi tráng và gắn với những trải nghiệm cá nhân, thơ hướng vào
đời sống thế sự và trở về với cái tôi cá nhân, thơ đi sâu vào vùng tâm linh, vô
thức và đưa thơ theo hướng tượng trưng siêu thực.Về hình thức nghệ thuật, thơ
vượt ra khỏi truyền thống duy cảm để đưa thơ về gần với văn xuôi, triết học,
hoặc đưa thơ sang địa hạt của tâm linh, vô thức. Tự do hóa triệt để về hình thức
thơ cũng là điểm nổi bật trong thơ sau 1975.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Khái quát đặc điểm nội dung và nghệ thuật các văn bản thơ hiện đại
Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12
* Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng:
Nội dung: Cảm nhận độc đáo về bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc và hình
tượng người lính Tây Tiến qua dòng hồi ức của nhà thơ. Qua đó, nhà thơ góp phần
làm nên bức tượng đài về người lính chống Pháp trong thơ ca Việt Nam.
Nghệ thuật: Bút pháp lãng mạn kết hợp với tả thực, những sáng tạo độc
đáo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu.
20
* Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Nội dung: Cảm nhận một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh
hùng, nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với thiên
nhiên đồng bào Việt Bắc. Khẳng định niềm tin vào Đảng, cách mạng và nhen
lên tình yêu quê hương đất nước của mỗi người Việt Nam.
Nghệ thuật: Hình thức nghệ thuật mang đậm tính dân tộc, giọng điệu ngọt
ngào, sâu lắng. Thể hiện nổi bật phong cách trữ tình, chính trị của nhà thơ Tố Hữu.
* Đoạn trích Đất Nước (Trích trường ca Mặt đường khát vọng) của
Nguyễn Khoa Điềm
Nội dung: Cái nhìn mới mẻ về Đất nước qua cách cảm nhận của nhà thơ. Đất
nước là sự hội tụ, kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân dân. Nhân dân là
người làm ra Đất nước. Tư tưởng đầy tính nhân văn và có ý nghĩa thời đại.
Nghệ thuật: Nổi bật giọng thơ trữ tình - chính luận của Nguyễn Khoa
Điềm, sự vận dụng sáng tạo nhiều yếu tố văn hóa, văn học dân gian làm sáng tỏ
thêm tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”.
*Bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
Nội dung: Vẻ đẹp tâm hồn và niềm khao khát hạnh phúc mãnh liệt của
người phụ nữ trong tình yêu.
Nghệ thuật: Nổi bật sáng tạo trong xây dựng hình ảnh, kết cấu, tạo nhịp
điệu và ngôn ngữ giàu cảm xúc.
*Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo
Nội dung: Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng Lor-ca và mạch cảm xúc, suy tư
đa chiều vừa sâu sắc vừa mãnh liệt của nhà thơ. Bài thơ toát lên giá trị nhân
văn, hun đúc lí tưởng sống cao đẹp: sống có ích và cống hiến hết mình cho Đất
nước, dân tộc.
Nghệ thuật: Phong cách thơ tượng trưng siêu thực. Độc đáo trong hình
thức biểu đạt thơ tự do hiện đại mới mẻ. Thể hiện sự cách tân đào sâu vào cái
tôi nội cảm, xóa bỏ những ràng buộc khuôn sáo.
21
1.2.2. Năng lực cảm thụ thẩm mĩ của học sinh đối với các văn bản thơ hiện
đại Việt Nam trong SGK Ngữ văn 12 và các tiêu chí đánh giá năng lực cảm
thụ thẩm mỹ của HS
Tiếp nhận văn học là quá trình tìm hiểu, lĩnh hội giá trị của tác phẩm từ
những thời đại lịch sử. Đây chính là điều khó khăn cho HS trong quá trình tiếp
nhận văn học. Các văn bản văn học thường tái hiện hoàn cảnh xã hội, không
khí của thời đại… với sự ít ỏi về hiểu biết, vốn sống, kinh nghiệm, học sinh gặp
những trở ngại đặc biệt khi tiếp nhận giá trị thẩm mĩ của các tác phẩm.
Mặt khác, quá trình phát triển của đất nước, nền kinh tế thị trường mang
đến những thuận lợi nhưng cũng đã tạo ra những phức tạp và những ảnh hưởng
không nhỏ đối với đời sống con người, nhất là thế hệ trẻ. Đặc biệt là đối tượng
HS, trong đó có HS bậc THPT. Một bộ phận lớn HS chịu ảnh hưởng của các yếu
tố tiêu cực của xã hội chi phối nên ý thức học tập không cao, thiếu tự giác. Trong
khi đó, văn học là môn học xã hội, đặc biệt phần văn học cách mạng gắn liền với
hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc đòi hỏi ý thức tự giác học tập tìm tòi
của HS. Hơn nữa, xu thế việc làm của xã hội hiện nay cũng tác động vào cách
nhìn nhận của phụ huynh HS coi trọng các môn tự nhiên. Điều đó gây những ảnh
hưởng tiêu cực đến HS khi phát huy năng lực ở môn Ngữ văn. Đây chính là lí do
khiến những người làm công tác giáo dục, đặc biệt là những giáo viên Ngữ văn
trăn trở, nỗ lực tìm ra những giải pháp tích cực để nâng cao chất lượng học môn
Ngữ văn đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện, phát huy năng lực của HS.
1.2.2.1. Tâm lý học sinh THPT với việc học các văn bản thơ hiện đại Việt Nam
trong sách giáo khoa Ngữ văn 12
Trước khi khảo sát khả năng cảm thụ các văn bản thơ trong SGK Ngữ văn
12, chúng tôi đã tiến hành khảo sát tâm lý HS ở 3 lớp 12 mà người viết luận
văn dạy học (các lớp 12E, 12F, 12M Trường THPT Nam Sách - Nam Sách -
Hải Dương với số lượng học sinh là 118 em).
22
Bằng phương pháp điều tra, chúng tôi tiến hành khảo sát tâm lý HS lớp 12
THPT ở 3 lớp 12E, F, M đối với việc học các văn bản thơ hiện đại Việt Nam
trong SGK Ngữ văn 12.
Phiếu khảo sát số 1 với 2 câu hỏi:
Câu hỏi 1: Bản thân em có thích học các văn bản thơ Việt Nam trong sách
giáo khoa Ngữ văn 12 không? Vì sao?
Câu hỏi 2: Trong các văn bản thơ Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn
12 em thích nhất bài thơ nào?
HS viết vào phiếu điều tra ý kiến của mình, kết quả thu được như sau:
Bảng 1.1. Tâm lý HS THPT với các văn bản thơ hiện đại Việt Nam
trong sách giáo khoa Ngữ văn 12
Tâm lý
Đàn ghi
Số
Tây Tiến Việt Bắc Đất Nước
Sóng
ta của
Lớp
Không
HS
Thích học
Lor-ca
thích học
28
12
15
8
5
1
11
12E
40
(70%)
(30%)
(37,50%)
(20,0%)
(12,50%)
(27,50%)
(2,50%)
24
15
10
8
6
0
15
12F
39
(61,54%)
(38,46%)
(25,64%)
(20,51%)
(15,39%)
(38,46%)
(0,0%)
27
12
12
8
7
1
11
12M
39
(69,23%)
(30,77%)
(30,77%)
(20,51%)
(17,95%)
(28,21%)
(2,56%)
79
39
37
24
18
2
37
Tổng 118
(66,95%)
(33,05%)
(31,36%)
(20,34%)
(15,25%)
(31,36%)
(1,69%)
Từ bảng thống kê trên chúng tôi nhận thấy phần lớn HS THPT thích học
các văn bản thơ Việt Nam trong SGK Ngữ văn 12. Qua phiếu điều tra và qua
việc tiếp cận, trao đổi trực tiếp với các em HS, chúng tôi thấy các em rất yêu
thích và trân trọng các văn bản thơ Việt Nam. Bởi theo các em, đó vừa là di sản
quý báu của kho tàng văn học dân tộc lại vừa gần gũi với lý tưởng của tuổi trẻ.
Ở đó, các em được hãnh diện, tự hào về lịch sử dân tộc, về phẩm chất, tâm hồn
con người Việt Nam và được tiếp thêm khát vọng, lý tưởng sống cao đẹp.
23
Em Hoàng Thị Hằng Nga (HS lớp 12E) cho biết: “Em thích học các văn
bản thơ Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12, các bài thơ được ra đời
trong những hoàn cảnh rất ý nghĩa, mỗi bài thơ lại cho em những chiêm nghiệm
về truyền thống dân tộc mình. Mỗi tác phẩm lại mang những màu sắc riêng của
phong cách từng nhà thơ. Được học các bài thơ này, em thêm trân trọng gìn giữ
những truyền thống dân tộc, thêm yêu Đất nước và con người Việt Nam và
hiểu những thông điệp gửi gắm của nhà thơ, em có thêm động lực để sống có
ích cho xã hội…”.
Em Nguyễn Việt Hà (HS lớp 12M) viết: “Em rất thích học các văn bản
thơ Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12, mỗi bài thơ đều đặc sắc, mới lạ
dù đề tài rất quen thuộc: đó là hình ảnh và tâm hồn đầy hào hoa, lãng mạn mà
không kém phần hiên ngang, kiên cường, bất khuất của người lính Tây Tiến
trong bài thơ “Tây Tiến” (Quang Dũng); đó là một Đất Nước Nhân Dân kiêu
hùng mà thân thương trong Đất nước (Trích Trường ca Mặt đường khát vọng
của Nguyễn Khoa Điềm)… Những bài thơ đó đã cho em thêm niềm tự hào về
cha ông và nuôi dưỡng tâm hồn em tình yêu quê hương đất nước”.
Em Nguyễn Vân Anh (HS lớp 12F) viết: “Các văn bản thơ Việt Nam đều
phản ánh thời đại và mang sắc thái riêng. Hầu hết thể hiện truyền thống yêu
nước, ngợi ca tâm hồn con người, nhưng cũng có bài có cấu trúc mới lạ, hình
ảnh thơ mới đi sâu vào thế giới nội tâm thể hiện những cách tân, tìm tòi của tác
giả. Từ đó khiến em biết trân trọng giá trị cuộc sống, biết yêu cuộc đời và nỗ
lực tìm tòi, sáng tạo,…”.
Với một số trích dẫn trên cho thấy các em HS đã có những nhận thức
đúng đắn và khá sâu sắc về các văn bản thơ Việt Nam trong SGK Ngữ văn 12.
Đặc biệt các em có thái độ thích thú khi học thơ Việt Nam hiện đại. Đây là
thuận lợi cho GV khi tổ chức giờ học về chủ đề thơ hiện đại Việt Nam trong
SGK Ngữ văn 12.
24
1.2.2.2. Những khó khăn của học sinh THPT khi tiếp nhận các văn bản thơ hiện
đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12
Tìm hiểu rõ vấn đề này, chúng tôi đã tiến hành khảo sát bằng việc phát
phiếu điều tra, trao đổi trực tiếp với HS.
Phiếu điều tra 1
Câu hỏi: Em hãy cho biết những khó khăn khi học các văn bản thơ hiện
đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12?
Phiếu điều tra 2
Câu hỏi: Em cảm nhận được những điều gì khi được đọc và học các văn
bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12?
Phiếu điều tra 3
Câu hỏi: Nêu cảm nhận của em về nét độc đáo của hình tượng người lính trong
bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng? Nhận xét về phong cách thơ Quang Dũng?
Phiếu điều tra 4
Câu hỏi: Ấn tượng của em về bài Việt Bắc của Tố Hữu là những gì? Nhận
ra nét độc đáo trong tài thơ Tố Hữu ở bài thơ này?
Phiếu điều tra 5
Câu hỏi: Hình tượng Đất Nước trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
đem đến cho em những suy nghĩ gì? Nhận ra đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích?
Phiếu điều tra 6
Câu hỏi: Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam trong tình yêu thể
hiện như thế nào qua hình tượng “sóng” trong bài thơ cùng tên của Xuân
Quỳnh? Bài thơ mang đến thông điệp gì cho tuổi trẻ?
Phiếu điều tra 7
Câu hỏi: Cảm nhận em về vẻ đẹp hình tượng Lor-ca trong bài thơ Đàn ghi
ta của Lor-ca (Thanh Thảo)? Thông điệp nhà thơ gửi đến chúng ta là gì?
25
Phiếu điều tra 8
Câu hỏi: Thanh Thảo thể sự cách tân thơ ca qua những chi tiết, hình ảnh
nào trong bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca?
Học sinh viết vào phiếu ý kiến và cảm nghĩ của mình.
Kết quả thu được như sau:
* Với phiếu điều tra 1:
Khi học các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn
12, phần lớn HS trả lời đã gặp phải những khó khăn như sau:
Em Trần Tiến Dũng (HS lớp 12E) viết: “Kháng chiến chống Pháp, chống
Mĩ và những năm đầu đất nước thống nhất diễn ra đã lâu, thời gian chính là khó
khăn để thế hệ 9X, 10X tiếp nhận nên chúng em không thể hiểu hết giá trị của
các bài thơ đó”.
Em Phạm Hải Nam (HS lớp 12M) viết: “Các văn bản thơ hiện đại Việt
Nam xây dựng hình tượng có tính sử thi (Tây Tiến - Quang Dũng, Đất Nước -
Nguyễn khoa Điềm), hay sử dụng hình thức thơ siêu thực tượng trưng ( Đàn
ghi ta của Lor-ca-Thanh Thảo).Vì vậy, việc tìm hiểu các văn bản thơ chúng em
gặp không ít khó khăn”.
Em Nguyễn Thị Kim Anh (HS lớp 12M) viết: “Học các văn bản thơ hiện
đại Việt Nam em thấy cái khó nhất là càng trong thơ hiện đại thì mỗi nhà thơ
lại càng thể hiện phong cách riêng. Các nhà thơ luôn tìm sự cách tân riêng: có
khi là từ ngữ, có khi là hình ảnh, có khi lại là xây dựng hình tượng. Hiểu được
nội dung bài thơ và phong cách của từng tác giả chỉ bằng những tiết học ít ỏi
thật quá khó với chúng em…”.
Những khó khăn trên đây là phổ biến mà HS THPT thường gặp khi học văn
bản thơ hiện đại Việt Nam. Bởi vậy dù rất thích học các văn bản thơ hiện đại Việt
Nam nhưng học sinh khi học các bài thơ này vẫn bế tắc về cách thức để phát huy
hết năng lực, Hs chưa thể hiện hết khả năng cảm thụ được cái hay, cái đẹp của các
26
bài thơ, cái tài của các nhà thơ hiện đại. Đó là những khó khăn trong việc dạy học
thơ hiện đại Việt Nam theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho HS.
* Với phiếu điều tra 2 đến 8:
Đây là những phiếu điều tra cụ thể từng mặt nội dung, nghệ thuật của các
bài thơ cụ thể, đòi hỏi Hs phải đọc và cảm thụ trực tiếp văn bản. Với mục đích
là: tìm hiểu, kiểm nghiệm, xem xét đánh giá việc tiếp cận của HS đối với các
văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 như thế nào?
Tìm hiểu những năng lực nào của Hs đã được phát huy, những năng lực nào
còn hạn chế và khó khăn ở đâu?
HS viết câu trả lời (theo các câu hỏi trong phiếu điều tra từ 2 đến 8).
Kết quả thu được:
Bảng 1.2. Năng lực cảm thụ các văn bản thơ hiện đại Việt Nam
trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 của HS THPT
Cảm thụ chưa đúng, Lớp Số HS Cảm thụ đúng, đầy đủ chưa đầy đủ
12E 40 27 (67,50%) 13 (32,50%)
12F 39 18 (46,15%) 21 (53,85%)
12M 39 22 (56,41%) 17 (43,59%)
Cộng 118 67 (56,78%) 51 (43,22%)
Từ bảng số liệu trên chúng tôi thấy: số HS cảm thụ đúng, đầy đủ cao hơn
số HS cảm thụ chưa đúng, chưa đầy đủ. Qua các bài viết của các em, chúng tôi
nhận thấy khả năng cảm thụ các văn bản thơ hiện đại Việt Nam như sau:
Em Nguyễn Phương Thảo (HS lớp 12E) viết: “Được học các bài thơ hiện
đại Việt Nam, em như được sống với những năm tháng hào hùng trong lịch sử
dân tộc, em thêm yêu văn học dân tộc và đất nước mình”.
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy các em có sự liên tưởng, tưởng tượng
khá nhanh nhạy, phong phú và chính xác về nội dung cũng như hình thức của
27
các bài thơ. Với phiếu điều tra 3, chúng tôi yêu cầu các em viết trong thời gian
rất ngắn (45 phút), khi thu phiếu điều tra chúng tôi nhận thấy có tới trên 60%
các em có cách cảm thụ cơ bản như sau: “Hình tượng người lính xuất hiện phổ
biến trong thơ kháng chiến. Quang Dũng đã khắc họa người lính Tây Tiến
trong bài thơ cùng tên với những nét riêng độc đáo: Vốn là những sinh viên, trí
thức Hà Nội nên người lính Tây Tiến lãng mạn, hào hoa, hóm hỉnh, trẻ trung và
bi tráng. Thiên nhiên Tây Bắc trong cảm nhận của những chàng trai này đầy
quyến rũ: Mường Lát hoa về trong đêm hơi hay phải bồng bềnh như Nhà ai Pha
Luông mưa xa khơi. Đã nhớ người yêu thì phải là Đêm mơ Hà Nội dáng kiều
thơm. Những người lính đó còn mang nét riêng về một đoàn binh “đầu trọc”
gian khổ nhưng “oai hùm”, hiên ngang trước cả cái chết. Từ đây ta thấy nổi bật
phong cách của Quang Dũng: kết hợp hài hòa bút pháp tả thực và lãng mạn.
Quang Dũng không né tránh hiện thực chiến tranh tàn khốc mà từ chính hiện
thực đó khẳng định vẻ đẹp tâm hồn, ý chí của những người lính cụ Hồ”.
Bên cạnh đó, không ít học sinh cảm thụ văn bản thơ chỉ mạng tính đại
khái, cảm tính: cảm thụ thơ chỉ hiểu trên câu chữ văn bản mà không tìm tòi,
đào sâu sau câu chữ là những thông điệp, tình cảm, nỗi niềm của nhà thơ.
Chẳng hạn cũng qua phiếu điều tra, chúng tôi thấy có đến gần 40% các em mới
chỉ cảm nhận được đặc điểm người lính dựa trên phần miêu tả của tác giả chứ
chưa phát hiện được nét riêng, độc đáo của người lính Tây Tiến cũng như tình
cảm của tác giả, phong cách của nhà thơ. Đa phần các em chỉ viết được: “Hình
tượng người lính hiện lên là những chàng trai tiều tuỵ, không mọc tóc vì sốt rét
rừng. Nhưng các anh vẫn lạc quan, quyết tâm chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh. Nhà thơ thật tài tình khi khắc họa hình tượng người lính, tiêu biểu cho
người lính chống pháp”.
Cùng với hạn chế trên về mặt cảm thụ, chúng tôi còn thấy cách diễn đạt,
biểu thị sự cảm thụ thơ của các em bằng ngôn ngữ viết còn rất yếu. Cách diễn
đạt chưa sáng rõ, các em còn mắc lỗi diễn xuôi ý thơ một cách thuần túy…
28
Qua đây chúng tôi thấy rằng bên cạnh những điểm mạnh trong việc cảm
thụ thơ nói chung, thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 nói
riêng như là sự nhanh nhạy, trực tiếp, liên tưởng, tưởng tượng phong phú thì
khó khăn lớn nhất trong phát huy năng lực cảm thụ thẩm mỹ của HS là các em
mới chỉ nhận ra cái đẹp của bài thơ ở bề nổi câu từ mà chưa thấm được chiều
sâu của tác phẩm thông qua tiếng nói tâm hồn và tài năng của nhà thơ. Đó là
một trong những khó khăn trong dạy học các văn bản thơ hiện đại Việt Nam
trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 theo hướng phát triển năng lực cảm thụ
thẩm mỹ cho học sinh.
Để giải quyết những khó khăn đó, điều quan trọng là phải tìm ra nguyên nhân.
1.2.2.3. Những nguyên nhân, hạn chế của HS THPT khi cảm thụ, tiếp nhận các
văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12
Qua việc khảo sát, tìm hiểu chúng tôi thấy có rất nhiều nguyên nhân dẫn
đến tình trạng trên, đó có thể là những nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất: Vốn sống, vốn hiểu biết văn hóa, vốn kiến thức văn học, lịch sử,
ngôn ngữ học và các kiến thức khoa học khác ở HS còn hạn chế.
Thứ hai: Bản thân HS chưa biết cách học, chưa biết cách tiếp nhận, chiếm
lĩnh văn bản thơ. Chủ yếu các em cảm thụ theo hướng chủ quan, hiểu đến đâu
trả lời đến đó, không hiểu thì bỏ qua… Học một văn bản thơ thường là đọc văn
bản một vài lần, không biết cảm thụ bắt đầu từ đâu và bỏ rơi nhiều hình ảnh, từ
ngữ ý nghĩa.
Thứ ba: Hs có tính ỷ lại, do ý thức rèn luyện, vượt khó của bản thân HS
chưa cao, việc tự học của HS chưa có chất lượng, sẵn sàng chọn cách “đi chép”
chứ không tìm tòi khi gặp câu hỏi khó.
Thứ tư: Do việc hướng dẫn cho HS cảm thụ bài thơ (như hệ thống câu hỏi,
hướng dẫn học bài, cung cấp tư liệu…) của giáo viên còn sơ sài, có khi là qua loa
chỉ dành một vài phút cuối giờ học dặn dò HS chuẩn bị bài theo câu hỏi sách giáo
29
khoa, thậm chí có khi đọc phân phối chương trình từ đầu học kì, HS tự soạn bài,
giáo viên không hướng dẫn ở cuối tiết học…
Thứ năm: Do sự phát triển của công nghệ, HS luôn bị cuốn bởi sự hấp dẫn
của các trò chơi, phim ảnh… dẫn đến các em thiếu tập trung học tập. Nhất là
những môn học xã hội, sự trừu tượng, cần nhiều thơi gian tư duy, khi gặp
những khó khăn trong tìm hiểu tác phẩm, lập tức buông xuôi hoặc trông chờ
vào giáo viên.
Những nguyên nhân trên đây là những nguyên nhân phổ biến gây khó khăn
cho việc phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ đối với tác phẩm văn học nói chung
và đối với các văn bản thơ hiện đại Việt Nam nói riêng của HS THPT.
1.2.2.4. Những tiêu chí đánh giá năng lực của HS THPT khi cảm thụ, tiếp nhận
các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12
Người dạy thực hiện các khảo sát để thấy năng lực của HS nhận biết vẻ
đẹp khách thể, chủ thể trữ tình trong văn bản thơ. Năng lực HS tái hiện, đánh
giá được những vẻ đẹp của chủ thể trữ tình. HS có năng lực vận dụng, sáng tạo
chuyển hóa từ nhận thức đến thái độ, hành vi ứng xử trong cuộc sống sau khi
học xong văn bản thơ.
1.2.3. Thực trạng dạy học các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo
khoa Ngữ văn 12 của giáo viên
Giáo sư Phan Trọng Luận đã nêu lên thực trạng dạy học ở nhà trường phổ
thông: Chúng ta không thể không thừa nhận một bước tụt hậu khá dài về nhận
thức cũng như thực hành sư phạm so với bước đi của một số nước tiên tiến, nhất
là so với yêu cầu chiến lược của thời đại. Tình trạng đó hình như càng nặng nề
hơn trong giảng dạy văn học. Lập luận văn học có đặc thù riêng, văn chương là
lĩnh vực cảm thụ thẩm mỹ của sáng tạo cá nhân, nhiều khi đã tạo ra một ảo giác
bao che cho sự chậm trễ cũ kỹ về phương pháp… Đã từ lâu vẫn đang diễn ra tình
hình dạy văn chỉ cần biết đến văn bản văn chương, chỉ quan tâm đến nghệ thuật
và tài năng khám phá cho sâu, chỗ độc đáo của tác phẩm văn chương để rồi tìm
30
ra những thủ pháp, những hình thức lôi cuốn HS cảm thông, đồng điệu với
những gì GV đã tìm tòi và phát hiện được. Tác giả khẳng định: một quan niệm
về dạy văn như vậy đã quá ư lỗi thời và cần thực sự có một đổi mới triệt để về
chiến lược dạy học văn trong nhà trường nhằm hướng vào học sinh giúp học sinh
tham gia, khám phá, chiếm lĩnh tác phẩm để họ thực sự tự phát triển.
Trên thực tế, trong quá trình giảng dạy, phần nhiều giáo viên chỉ chú tâm
vào khám phá các tác phẩm văn chương, tìm ra các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc
rồi truyền đạt lại cho HS mà chưa chú ý đến nhu cầu, khát vọng, đặc điểm tâm
lý của học trò. Vì thế học trò bị biến thành “thính giả” người “ngoài cuộc”, trò
không có cơ hội trình bày suy nghĩ, cảm xúc mà mình có được khi học những
văn bản này. Bên cạnh đó, sự ảnh hưởng nặng nề của phương pháp dạy học văn
truyền thống lâu nay vẫn quan niệm dạy học là quá trình truyền thụ và lĩnh hội
tri thức. Do đó quan niệm này không những hạn chế khả năng sáng tạo của thầy
mà còn gây trở ngại cho quá trình đổi mới phương pháp dạy học và khả năng
cảm thụ văn chương của HS.
Đối với văn bản thơ hiện đại Việt Nam, HS muốn cảm thụ tốt phải có khả
năng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, phải có hiểu biết lịch sử, thời đại, văn
hóa. Trong khi đó, không chỉ có học trò mà thế hệ nhà giáo trẻ được sống trong
hòa bình, chưa từng trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử dân tộc sẽ gặp
không ít rào cản khi cảm thụ giá trị các văn bản thơ Việt Nam hiện đại. Từ chính
điều đó, chúng tôi nhận thấy việc dạy học các văn bản thơ hiện đại Việt Nam
trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 theo hướng phát triển năng lực cảm thụ
thẩm mỹ cho HS còn nhiều vấn đề trăn trở.
Với xu thế hiện đại, sự đa dạng hóa hình thức học tập, sự bùng nổ của
các phương tiện thông tin, đòi hỏi người giáo viên chủ động đổi mới phương
pháp, tìm tòi, sáng tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện HS. Đứng trước
những yêu cầu đó, nhiệm vụ của GV là làm cách nào để tiết học trở nên sinh
động, nhẹ nhàng và hiệu quả, phát huy tối đa năng lực cảm thụ thẩm mỹ đối với
tất cả các đối tượng HS, đặc biệt giờ học các văn bản thơ hiện đại Việt Nam.
31
* Những khó khăn mà giáo viên gặp phải khi dạy các văn bản thơ hiện
đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12.
Bằng việc phát phiếu điều tra với câu hỏi: “Những khó khăn mà anh/chị
gặp phải khi dạy các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ
văn 12 là gì?” và: “Dạy học phát huy năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho HS qua
các bài thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 anh/chị đứng
trước những khó khăn nào?”.
Qua thực tế giảng dạy, trao đổi, chia sẻ với các đồng nghiệp; tham dự các
buổi họp tổ, nhóm chuyên môn, các tiết thanh tra, dự giờ, hội giảng, chúng tôi
thu thập được những ý kiến GV trăn trở về những khó khăn gặp phải khi dạy
các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong SGK Ngữ văn 12 như sau:
Thứ nhất: Mơ hồ về cách thức cụ thể trong việc tiếp cận một bài thơ hiện
đại Việt Nam.
Giáo viên tự thấy có rất nhiều khó khăn khi cảm thụ các bài thơ hiện đại
Việt Nam, một số giáo viên còn không nắm vững các bước tiếp cận một bài
thơ? Cô giáo Đỗ Thị Hiền (một trong những giáo viên tâm huyết, chịu khó học
hỏi, tìm tòi trong dạy học Ngữ văn ở trường THPT Nam Sách) đã nói: “Các văn
bản thơ hiện đại Việt Nam có giá trị lớn về tư tưởng và khẳng định sự phát triển
về nghệ thuật, nhưng không dễ dàng trong việc cảm thụ và hướng dẫn học sinh
cảm thụ những văn bản này, nhất là những bài thơ sau năm 1975”.
Thầy giáo Vũ Trung Kiên (Phó Hiệu trưởng, giáo viên Ngữ văn trường
THPT Nam Sách) đã viết: “Ở trường phổ thông, tài liệu cụ thể về cách thức
tiếp cận một văn bản thơ hiện đại Việt Nam rất ít ỏi. Những sáng kiến ngành
cũng có bàn đến phát triển năng lực nhưng còn chung chung, chưa cụ thể về
năng lực cảm thụ thẩm mỹ. Theo tôi, GV cần nắm chắc khái niệm đọc hiểu thơ.
Nghĩa là tiếp cận thơ từ đọc đến cảm. Dựa vào chuẩn kiến thức kĩ năng, sách
giáo viên để làm cơ sở khoa học cho việc dạy học. Ngoài ra, GV trao đổi trong
sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn khi gặp những gì mới lạ, thống nhất phương
pháp rồi mới dạy. Thực chất GV dạy thường dựa vào kinh nghiệm tích lũy của
bản thân để giúp HS tiếp cận, cảm thụ là chính,…”.
32
Thứ hai: Tài liệu tham khảo trong thư viện nhà trường số lượng về đầu
sách phương pháp rất ít, nên sách tham khảo về dạy học các văn bản thơ hiện
đại Việt Nam hạn chế, đặc biệt là sách viết về cách tiếp cận các văn bản này
theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ là rất hiếm.
Tại cơ sở nhà trường phổ thông, thực tế chúng tôi nhận thấy đa phần GV
dạy Ngữ văn đều có cùng nhìn nhận này.
Thứ ba: Vấn đề làm thế nào để tổ chức dẫn dắt học sinh chủ động tiếp cận,
tìm tòi, phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức, thấu hiểu tiếng nói tâm hồn của nhà
thơ… là vấn đề khó khăn mà GV luôn trăn trở.
Muốn áp dụng thành công phương pháp dạy học mới vào thực tiễn, thì
ngoài việc nắm vững cơ sở lý luận, còn đòi hỏi người giáo viên phải đầu tư rất
nhiều thời gian và công sức để có được một giờ dạy hiệu quả. Việc tổ chức dẫn
dắt cho HS tự chiếm lĩnh được tiếng nói tư tưởng, tình cảm của nhà thơ đã gửi
gắm trong các bài thơ là một việc làm không mấy dễ dàng. Đây là cái khó mà
hầu hết GV gặp phải. Việc cảm thụ, phát hiện cho hết cái hay cái đẹp của bài
thơ đã khó, hơn nữa lại là thơ trữ tình trung đại lại càng khó hơn. Có khi chỉ
một từ, một hình ảnh, một câu thơ nhưng cũng gây trở ngại trong việc khai
thác. Song khó khăn hơn là việc tổ chức dẫn dắt để HS cũng cảm thụ như mình
là một công việc còn khó khăn hơn nhiều so với khi mình cảm thụ. Nhiều khi
thấy bí thì lại áp dụng việc dạy áp đặt, cứ nói ra điều mình nghĩ cho HS nghe…
Mặc dù gặp không ít những khó khăn trong quá trình dạy học các văn bản
thơ hiện đại Việt Nam, song qua quá trình điều tra, chúng tôi nhận thấy, đa số
GV Trung học trong quá trình dạy học đã không ngừng cố gắng với mong
muốn đưa các phương pháp dạy học mới, tích cực nhằm phát huy tối đa năng
lực của HS, nhất là năng lực cảm thụ thẩm mỹ qua các tác phẩm thơ.
33
Tiểu kết chương 1
Dạy văn nói chung và dạy các văn bản thơ hiện đại Việt Nam cho HS nói
riêng không phải chỉ đơn giản là truyền kiến thức cho HS. Đa số GV đều nhận
thấy được việc giảng dạy phải rèn luyện HS sinh óc tư duy sáng tạo, phương
pháp tự suy nghĩ tìm hiểu kiến thức, biết vận dụng kiến thức vào cuộc sống, nâng
cao đời sống tư tưởng, tình cảm ngày càng tốt đẹp hơn. Môn Ngữ văn trong nhà
trường có điều kiện để thức dậy khát vọng trong HS. Đó là khát vọng cao đẹp mà
qua mỗi giờ học văn, từ vẻ đẹp hình tượng, ngôn ngữ… GV có thể tạo ra được
một không khí văn chương, không khí ngự trị của cái đẹp. Một lí tưởng sống cao
đẹp qua hình tượng người lính chống Pháp qua bài thơ “Tây Tiến” của Quang
Dũng. Thêm trân trọng tình cảm gắn bó yêu thương đùm bọc tình nghĩa giữa
quân và dân (Việt Bắc- Tố Hữu). Một hình tượng Đất nước gần gũi, thân thuộc
ngay xung quanh ta (Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm). Hay một khát vọng tình
yêu cháy bỏng trong tâm hồn người phụ nữ (Sóng - Xuân Quỳnh). Đặc biệt một
khát vọng phục sinh về tình yêu đất nước, khát vọng tự do và cách tân nghệ thuật
dân tộc (Đàn ghi ta của Lor-ca của nhà thơ Thanh Thảo).
34
Chương 2
ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC CÁC VĂN BẢN THƠ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM
TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 12 THEO HƯỚNG
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CẢM THỤ THẨM MỸ CHO HỌC SINH
2.1. Định hướng chung
Xuất phát từ những tiền đề về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn được nêu ở
chương 1, để hình thành và phát triển năng lực cảm thụ thẩm mĩ cho học sinh,
luận văn đề xuất con đường đưa học sinh đến với ba thế giới trong văn bản
bằng ba giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: Tìm hiểu thế giới hình tượng khách thể trong tác phẩm.
Giai đoạn 2: Khám phá thế giới tâm hồn của nhà thơ (chính là chủ thể trữ
tình) trong tác phẩm.
Giai đoạn 3: Đi sâu tìm hiểu thế giới sáng tạo nghệ thuật của tác giả ở tác phẩm.
Người dạy phải dẫn dắt HS khám phá ba thế giới ấy bằng hệ thống lời
gợi dẫn để phát triển năng lực cảm thụ thẩm mĩ ở từng HS.
Ở giai đoạn 1 và 2, HS sẽ tiến hành các hoạt động (Hđ) sau:
Hoạt động 1: Hình dung, tưởng tượng về thế giới hình tượng trong tác phẩm.
Hoạt động 2: Phân tích vẻ đẹp của hình tượng.
Hoạt động 3: Bộc lộ cảm xúc thẩm mỹ trước hình tượng.
Ở giai đoạn 3, HS sẽ tiến hành các hoạt động:
Hoạt động 1: Phát hiện những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác giả về:
- Ngôn từ (từ ngữ, lời thơ…).
- Hình ảnh thơ.
- Nhịp điệu thơ, giọng điệu.
- Kết cấu bài thơ.
Hoạt động 2: Phân tích giá trị thẩm mỹ của những sáng tạo trên.
Hoạt động 3: Bộc lộ cảm xúc trước những sáng tạo nghệ thuật đó.
Dựa trên cơ sở định hướng chung chúng ta hướng dẫn học sinh cảm thụ
thẩm mĩ từng văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12
như sau:
35
2.2. Định hướng riêng cho từng bài thơ
2.2.1. Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Bài thơ Tây Tiến là một bài thơ trữ tình đặc sắc của thơ hiện đại Việt Nam
từ sau năm 1945. Chủ thể trữ tình ở đây là người chiến sĩ trong đoàn quân Tây
Tiến ở thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta, vào những năm
1946-1948. Người chiến sĩ này vốn là một thanh niên trí thức Hà Nội lãng mạn,
trẻ trung yêu nước. Khi giặc Pháp trở lại xâm lược nước ta năm 1946, cũng như
bao thanh niên khác ở Hà Nội lúc bấy giờ, anh tòng quân vào đoàn binh Tây
Tiến. Cuộc hành quân lên miền núi Tây Bắc của Bắc Bộ để lại cho anh những
ấn tượng sâu sắc, những kỉ niệm vui buồn khó quên về núi rừng làng bản, con
người ở Tây Bắc. Rời xa đoàn quân Tây Tiến, anh nhớ khôn nguôi về những
đồng đội của mình với cuộc sống đầy gian khổ và hi sinh của một thời... Bài
thơ này đã ghi lai chân thật nỗi nhớ ấy của anh. Anh bộ đội vốn xuất thân từ
thanh niên trí thức ấy nhớ đến những gì? Có cảm xúc và suy nghĩ gì? Đó là
hướng dạy học trong bài thơ Tây Tiến.
Dạy bài thơ Tây Tiến theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ
cho học sinh, chúng ta có thể tiến hành bài học theo ba bước sau:
Bước 1: Đưa HS đến với thế giới hình tượng khách thể hiện lên trong bài
thơ để các em rung cảm trước vẻ đẹp của:
- Cảnh núi rừng miền Tây vừa hoang vu, dữ dội vừa thơ mộng, mỹ lệ, ấm áp…
- Cuộc hành quân lên miền Tây của đoàn quân Tây Tiến hết sức gian khổ,
khốc liệt nhưng có những lúc hết sức ấm áp, mộng mơ…
- Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến với nét đẹp hào hoa và
kiên cường.
Bước 2: Khơi gợi HS khám phá tâm hồn nhà thơ được thể hiện trong văn
bản thơ để các em rung cảm trước vẻ đẹp tâm hồn của một thế hệ trẻ thời kì
đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Trước hết đó là nỗi nhớ da diết của nhà thơ về đoàn quân Tây Tiến trong
cuộc hành quân lên miền Tây Bắc của miền Bắc nước ta vào những năm đầu
của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
36
- Mạch cảm xúc hồi tưởng của chủ thể trữ tình trong văn bản bài thơ đã
làm lần lượt hiện lên tâm hồn của nhà thơ với nét độc đáo là lãng mạn và hào
hoa. Đó là cái lãng mạn hào hoa của một thanh niên trí thức Hà thành lần đầu
tiên trong đời được trải nghiệm bằng cuộc sống của một người lính trong một
cuộc hành trình đầy gian nan với những thử thách khốc liệt giữa một khung
cảnh miền Tây hoang sơ, bí ẩn.
- Tâm hồn lãng mạn, hào hoa của nhà thơ đã chi phối mọi cái nhìn và cảm
xúc của tác giả trước cảnh sắc và con người mà nhà thơ chúng kiến trong cuộc
hành quân lên miền Tây.
+ Bốn câu thơ đặc sắc của nhà thơ tả cuộc hành quân của đoàn quân Tây
Tiến lên miền Tây cho ta nhận thấy rõ cái nhìn và cảm xúc lãng mạn, hào hoa
trong tâm hồn nhà thơ:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
+ Cảm hứng lãng mạn trong tâm hồn nhà thơ cũng không hề bỏ qua sự
khốc liệt của cuộc hành quân:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
+ Cái nhìn và cảm hứng lãng mạn trong tâm hồn nhà thơ còn thể hiện rõ
trong việc tả lại đêm liên hoan thấm đẫm tình quân dân và một chiều Châu Mộc:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”
37
+ Cái nhìn và cảm hứng lãng mạn đã khiến cho nhà thơ tạo dựng thành
công hình ảnh mang vẻ hiên ngang, lẫm liệt của đoàn quân Tây Tiến:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Đó là đoàn quân của những chàng trai Hà Nội với tâm hồn giàu mộng mơ,
mang đậm nét hào hoa:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
+ Cái nhìn và cảm xúc lãng mạn đã khiến cho nhà thơ tả trực tiếp giờ phút
vĩnh biệt những người đồng đội bằng những câu thơ mang cảm hứng bi tráng:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Bước 3: Khơi gợi HS khám phá những sáng tạo nghệ thuật rất độc đáo
và tài hoa của nhà thơ Quang Dũng
Bài thơ Tây Tiến là một thi phẩm đặc sắc với những sáng tạo rất độc đáo
và tài hoa của nhà thơ Quang Dũng về ba phương diện:
- Sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh thơ.
- Sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ thơ.
- Sáng tạo trong việc sử dụng giọng điệu thơ.
* Sáng tạo về hình ảnh thơ:
Hình ảnh trong bài thơ Tây Tiến rất đa dạng và được sáng tạo bằng
những bút pháp khác nhau:
- Có hai loại hình ảnh chính: Hình ảnh thiên nhiên miền Tây trong đó có
cuộc sống của đồng bào miền Tây và hình ảnh người lính Tây Tiến.
- Mỗi loại hình ảnh lại có hai sắc thái chính bổ sung cho nhau:
+ Về thiên nhiên: vừa có cái hoang sơ, hùng vĩ, dữ dội lại vừa có cái thơ
mộng, mĩ lệ: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm, “Heo hút cồn mây”, “Chiều
chiều oai linh thác gầm thét/Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”, “Sài Khao
38
sương lấp đoàn quân mỏi”, “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, “Mường Lát hoa
về trong đêm hơi”, “chiều sương ấy”, “hồn lau nẻo bến bờ”, “dáng người trên
độc mộc”, “dòng nước lũ - hoa đong đưa”.
+ Về con người cũng hiện lên vừa hào hùng vừa hào hoa. Hào hùng là ở
ý chí, tư thế hiên ngang, vượt lên mọi gian khổ, thiếu thốn, hi sinh. Còn hào
hoa là ở tâm hồn nhạy cảm trước thiên nhiên và tình người cùng với những
khát khao, mơ mộng.
+ Đặc biệt Quang Dũng rất tài hoa khi ông dựng cảnh bằng những câu
thơ rất đặc sắc: Có câu thơ gồm những từ mang thanh trắc để tả đèo cao dốc
đứng: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”. Lại có câu thơ chỉ toàn thanh
bằng để tả cảnh một bản làng thung lũng trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa
xa khơi”.
* Sáng tạo về ngôn ngữ thơ:
- Đặc sắc trong sáng tạo ngôn ngữ thơ trong bài “Tây Tiến” của Quang
Dũng trước hết là có những kết hợp từ độc đáo, mới lạ tạo nên nghĩa mới, sắc
thái mới cho từ ngữ và tạo nên những câu thơ có cấu trúc mới lạ:”Nhớ về rừng
núi nhớ chơi vơi”, “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống/ Nhà ai Pha Luông
mưa xa khơi”, “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai Châu mùa em thơm nếp
xôi”, “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
- Đặc sắc trong sáng tạo ngôn ngữ thơ ở bài Tây Tiến còn là sự hòa trộn
của nhiều sắc thái phong cách: Có thứ ngôn ngữ trang trọng, giàu màu sắc cổ
kính, lại có thứ ngôn ngữ thông tục, sinh động của ngôn ngữ hàng ngày.
+ Ngôn ngữ trang trọng, có màu sắc cổ kính xuất hiện khi nhà thơ khắc
họa hình tượng kiêu hùng của người lính Tây Tiến trước cái chết:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
39
+ Ngôn ngữ thông tục hàng ngày có trong các câu thơ tiêu biểu khắc
họa chân dung những chàng lính trẻ Hà Nội tinh nghịch, hóm hỉnh, trẻ trung
và lạc quan:
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
“Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
* Sáng tạo trong giọng điệu thơ:
Xuyên suốt cả bài thơ là nỗi nhớ của nhà thơ với nhiều trạng thái cảm
xúc khác nhau và mỗi trạng thái cảm xúc lại được diễn tả bằng những giọng
điệu phù hợp.
+ Ở đoạn 1: Đoạn thơ nói về nỗi nhớ da diết của nhà thơ về Tây Tiến nên
giọng thơ ở đây tha thiết, bồi hồi:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi…”
Những tiếng gọi được cất lên cùng với những từ cảm thán làm nổi lên
cảm xúc đang dâng trào trong tâm trạng nhà thơ.
+ Ở đoạn 2: Khi tái hiện lại những đêm lửa trại ấm áp tình quân dân thì
giọng thơ chuyển sang hồn nhiên, vui tươi:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ”
Và giọng thơ trở nên man mác bâng khuâng khi nhớ lại cảnh chia tay
trong một chiều hôm nơi Châu Mộc:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”
+ Ở đoạn 3: Khi nhớ lại những người đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến
thì giọng thơ trở nên trang trọng và bi tráng:
40
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
2.2.2. Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Dạy học trích đoạn bài thơ Việt bắc của Tố Hữu theo hướng phát triển
khả năng cảm thụ thẩm mĩ cho HS, chúng ta có thể tiến hành bài học theo
hướng sau:
Bước 1. Đưa HS đến với thế giới hình ảnh khách thể hiện trong văn bản
để các em rung cảm trước vẻ đẹp của:
- Cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp của núi rừng Việt Bắc và cuộc sống của
đồng bào các dân tộc ở nơi ấy.
- Cuộc sống kháng chiến gian lao và hào hùng của quân và dân ta thời
kháng chiến chống Pháp ở chiến khu Việt Bắc.
Việt Bắc là tên gọi của một vùng đất thuộc 6 tỉnh miền núi phía bắc nước
ta: Cao Bằng,Bắc Kạn, Lạng Sơn,Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Từ
năm 1941, khi Bác Hồ về sống ở hang Pắc bó thuộc tỉnh Cao Bằng, thì núi rừng
Việt Bắc trở thành căn cứ địa của cách mạng. Từ năm 1941 đến năm 1945 -
thời kì “kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”, có biết bao sự kiện lịch sử trọng đại
đã diễn ra ở núi rừng Việt Bắc. Tháng 12-1944 Đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân được thành lập và làm lễ xuất quân dưới gốc đa Tân Trào ở Tuyên
Quang. Tháng 8-1945, tại đình Hồng Thái đã diễn ra nơi họp quốc dân đại hội
để thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng và phát động cuộc tổng khởi nghĩa
giành chính quyền trong cả nước.
Cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8 -1945 đã thắng lợi. Ngày 2- 9-1945 tại
quảng trường Ba Đình, Hồ Chủ Tịch đã đọc bản tuyên ngôn độc lập - Nước
Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra đời. Dân ta từ thân phận nô lệ trở thành chủ
nhân của đất nước.
41
Nhưng đến năm sau (1946), thực dân Pháp lại trở lại xâm lược nước ta,
buộc nhân dân ta phải tiến hành cuộc kháng chiến.
Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Tháng 7- 1954, Hiệp định
Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại. Miền Bắc Nước ta
được Giải phóng. Tháng 10 - 1954, trung ương Đảng và chính phủ rời chiến
khu Việt Bắc trở về thủ đô.
Nhà thơ Tố Hữu là cán bộ của Trung ương đã từng sống ở chiến khu Việt
Bắc suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, có tình nghĩa sâu nặng với đồng bào
các dân tộc Việt Bắc. Ông sáng tác bài thơ Việt Bắc nhằm tái hiện lại những kỉ
niệm sâu sắc của ông về cảnh sắc thiên nhiên và con người Viêt Bắc thời kì
kháng chiến chống Pháp.
Bởi thế, cảnh sắc thiên nhiên và con người Việt Bắc hiện lên rất rõ nét
trong văn bản bài thơ.
* Cảnh sắc thiên nhiên của núi rừng Việt Bắc hiện lên với những vẻ đẹp
rất đa dạng, phong phú, sinh động. Nơi đó có từng “rừng nứa bờ tre” có những
“bản khói cùng sương”, có “trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”, có
“rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”, có “ngày xuân hoa nở trắng rừng”.
* Cuộc sống bình dị và cảnh sinh hoạt của con người cũng hiện lên với
nhũng nét thanh bình, êm ả:
Nhớ người me nắng cháy lưng.
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô.
…Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
…Nhớ cô em gái hái măng một mình.
…Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều.
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…
Và đẹp nhất là nghĩa tình ở con người miền núi Việt Bắc đối với cán bộ
kháng chiến. Họ san sẻ cùng nhau mọi gian khổ và niềm vui trong cuộc sống:
42
Ta đi ta nhớ những ngày.
Mình đây ta đó, cay ngọt bùi.
Thương nhau chia củ sắn lùi.
Bát cơm sẻ nủa chăn sui đắp cùng.
Có thể nói, những câu thơ gợi lên cảnh sinh hoạt và cuộc sống bình dị của
đồng bào miền núi ở Việt Bắc là những câu thơ hay, nó chứa đựng tình cảm
thắm thiết của nhà thơ với cuôc sống và con người nơi chiến khu Việt Bắc.
* Khí thế hào hung của cuộc sống diễn ra tại Việt Bắc cũng hiện lên rõ nét bằng
hình ảnh sống động trong những câu thơ có nhịp điệu sôi nổi, dồn dập, mạnh mẽ:
Những đường Việt Bắc của ta.
Đêm đêm dầm dập như là đất nung.
Quân đi điệp điệp trùng trùng.
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn.
Mấy câu thơ trên đã tái hiện lại khung cảnh từng đoàn bộ đội và dân công
đang trên đường ra chiến dịch với khí thế mạnh mẽ. Nhờ tinh thần và khí thế ấy
mà quân ta đã lập lên bao chiến tích: từ những trận đánh hồi đầu cuộc kháng
chiến chống Pháp ở Phủ Thông, Đèo Giàng, ở sông Lô và phố Giàng trong
chiến dịch Việt Bắc năm 1947, đến chiến dịch Cao Lạng, giải phóng biên giới
Việt Trung năm 1950 cho đến những chiến dịch lớn trong những năm cuối của
cuộc kháng chiến chống Pháp: Chiến dịch Hòa Bình năm 1951, chiến dịch Tây
Bắc 1952, chiến dịch Điện Biên Phủ mùa xuân 1954.
Ai về ai có nhớ không.
Ta về ta nhớ Phủ thong, Đèo Giàng.
Nhớ sông Lô, nhó phố Ràng.
Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà.
…Tin vui chiến thắng trăm miền.
Hòa Bình, Tây Bắc Điện Biên vui về.
Vui từ Đồng tháp, An Khê.
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng
43
Việt Bắc là đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp cũng được nhà thơ
Tố Hữu tái hiện lại sinh động. Suốt cả 9 năm kháng chiến, Bác Hồ cùng với
Trung ương Đảng và chính phủ đều sống và làm việc ở Việt Bắc để lãnh đạo
toàn dân ta tiến hành cuộc kháng chiến từ những ngày đầu đầy gian khổ cho
đến thắng lợi hoàn toàn.
Ai về ai có nhớ không.
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng của hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, chính phủ luận bàn việc công…
Việt Bắc là nơi đặt niềm tin và hi vọng của con người Việt Nam từ mọi
miền của đất nước:
… Ở đâu u ám quân thù.
Nhìn lên Việt Bắc : cụ Hồ sang soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông lên Việt Bắc mà nuôi chí bền…
Bước 2: Khơi gợi HS khám phá thế giới tâm hồn của nhà thơ được gửi
gắm trong văn bản thơ
- Bài thơ được tổ chức theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca.
Nhưng đó chỉ là mặt ngoài của văn bản, còn bên trong là độc thoại nội tâm của
nhà thơ, nhằm biểu hiện tâm tư, tình cảm đầy ắp trong tâm hồn nhà thơ.
- Trước hết là nỗi nhớ da diết của một cán bộ kháng chiến đã từng sống
gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu về xuôi với một tâm
trạng đầy xúc động bâng khuâng…
Nhớ gì như nhớ người yêu.
Trăng lên đầu mũ, nắng chiếu lưng
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi cùng.
44
Nỗi nhớ da diết, mênh mang đã làm sống dậy những kỉ niệm sâu lắng
nghĩa tình với thiên nhiên và con người Việt Bắc, với cuộc kháng chiến gian
khổ và hào hùng.
Nhà thơ có ấn tượng sâu sắc về những nét riêng biệt độc đáo của núi
rừng Việt Bắc, khác hắn với những miền quê khác của đất nước. Đó là cảnh sắc
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”, “mùa xuân mơ nở trắng rừng”, “ve kêu rừng
phách đổ vàng”…
Gắn bó với thiên nhiên ấy là hình ảnh những con người bình dị : người đi
làm nương rẫy “Đèo cao nắng ánh dao cài thắt lưng”, người đan nón “nhớ
người đan nón chuốt từng sợi giang”, người hái măng: “nhớ cô em gái hái
măng một mình”…
Đặc biệt, nhà thơ không thể nào quên được nghĩa tình của nhân dân Việt Bắc
đối với cán bộ, bộ đội, dân công. Đó là một sự đồng cảm và sẻ chia cùng chung mọi
gian khó và niềm vui, cùng gánh vác mọi nhiệm vụ nặng nề khó khăn.
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhà thơ khẳng định nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng
chiến với Việt Bắc. Từ tình cảm thủy chung truyền thống của dân tộc, Tố Hữu đã
nâng lên thành một tình cảm mới in đậm nét thời đại, đó là ân tình cách mạng.
Sự hồi tưởng đầy xúc động của nhà thơ Tố Hữu về Việt bắc trong thời kỳ
kháng chiến chống pháp và ân tình của ông đối với đồng bào các dân tộc ở núi
rừng Việt Bắc đã làm cho bài thơ “Việt Bắc” trở thành khúc ca ân nghĩa thủy
chung của những người kháng chiến với Việt Bắc. Tố Hữu là một nhà thơ đặc
biệt rung động với nghĩa tình của cách mạng. Ở ông, cái chung hòa trong cái
riêng, cái riêng tiêu biểu cho cái chung, bởi thế tiếng lòng của nhà thơ ở bài thơ
Việt Bắc đã trở thành khúc hát ân tình thủy chung của cả dân tộc.
45
Bước 3: Khơi gợi cho học sinh phát hiện những sáng tạo nghệ thuật độc
đáo của nhà thơ Tố Hữu ở bài thơ Việt Bắc.
Bài thơ “Việt Bắc” là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Tố Hữu và phong cách
nhà thơ Tố Hữu. Đó là một hồn thơ và phong cách thơ đậm đà tính dân tộc.
Trước hết, nhà thơ đã dựng lên trong bài thơ những bức tranh chân thực,
đậm đà bản sắc dân tộc về thiên nhiên và con người Việt Bắc bằng những tình
cảm thiết tha gắn bó sâu sắc của chính tác giả.
Đồng thời nhà thơ đã khắc sâu tình nghĩa ân tình, thủy chung của những
người cán bộ kháng chiến với đồng bào Việt Bắc và tình nghĩa của đồng bào
Việt Bắc với Bác Hồ, với cách mạng và kháng chiến. Đó là những tình cảm sâu
đậm của thời đại mới, tiếp nối nguồn mạnh tình cảm yêu nước và đạo lí ân tình
thủy chung truyền thống của dân tộc ta.
Những nội dung trên lại được thể hiện bằng một nghệ thuật đậm đà tính
dân tộc.
Trước hết, nhà thơ đã sử dụng thể thơ lục bát truyền thống tài tình khiến
cho bài thơ có một âm điệu ngọt ngào, êm ái, nhịp nhàng, đưa người đọc vào
thế giới tâm tình đầy ân nghĩa.
Tác giả lại vận dụng rất sáng tạo lối kết cấu đối đáp trong ca dao, dân ca,
với hai nhân vật “mình” và “ta” nhằm thể hiện một cái tôi trí - tình thống nhất.
Đó là nỗi nhớ da diết mênh mang với với nhiều sắc thái khác nhau trong hoài
niệm thiết tha về những kỉ niệm sâu lắng tình nghĩa với thiên nhiên và con
người Việt Bắc, với cuộc sống kháng chiến gian khổ mà hào hùng …
Về ngôn ngữ thơ, Tố Hữu thường sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân
rất giản dị, mộc mạc để tái hiện lại một thời cách mạng và kháng chiến đầy
gian khổ mà dạt dào tình nghĩa…
…Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh.
… Ta đi ta nhớ quê nhà.
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng…
46
Đặc biệt, Tố Hữu sử dụng rất nhuần nhuyễn phép trùng điệp của ngôn
ngữ dân gian: “Mình về mình có nhớ ta” “Mình về có nhớ chiến khu” “Ta về
mình có nhớ ta.Ta về ta nhớ những hoa cùng người”, “Ta đi ta nhớ những
ngày”, “Nhớ sao lớp học i tờ”, “Nhớ sao ngày tháng cơ quan”, “Nhớ sao tiếng
mõ rừng chiều”…
Những sáng tạo nghệ thuật đó Tố Hữu đã tạo ra một giọng điệu trữ tình
thết tha, êm ái, ngọt ngào, đưa người đọc vào thế giới của những kỷ niệm đầy
ắp tình nghĩa thủy chung.
2.2.3. Đoạn trích Đất Nước (Trích trường ca “Mặt Đường khát vọng”) của
Nguyễn Khoa Điềm
* Trường ca “Mặt Đường Khát Vọng” được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
viết ở chiến khu Tri Thiên năm 1971, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị
vùng tạm chiến miền Nam về non sông đất nước , về sứ mệnh của thế hệ trẻ
trong cuộc đấu tranh chống giặc Mĩ xâm lược.
Đoạn trích “Đất Nước” trong SGK Ngữ văn 12 là phần đầu chương V
của trường ca. Đây là một đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ Việt Nam
hiện đại, bởi vì ở đây nhà thơ đã trình bầy sự cảm nhận và lí giải mang đậm tư
tưởng đất nước của nhân dân bằng những chất liệu rút ra từ kho tàng văn học
dân gian truyền thống (thành ngữ, ca dao - dân ca, truyền thuyết, truyện cổ
tích…), văn hóa dân gian truyền thống (phong tục tập quán, thắng cảnh thiên
nhiên, tên núi, tên sông, đời sống sinh hoạt…), một sự cảm nhận và lí giải trong
tính toàn vẹn, nhiều mặt, địa lí, lịch sử, văn hóa, tâm hồn, lối sống của dân tộc
Việt Nam.
Đoạn trích “Đất Nước” được coi như một bài thơ trữ tình chính luận đặc
sắc về đất nước. Tính chính luận của bài thơ thể hiện ở chỗ tác giả đã đặt ra và
lí giải về ba vấn đề…
- Đất nước ta có tự bao giờ?
- Đất nước là gì?
- Đất nước do ai gây dựng?
47
Đó cũng là mạch cảm xúc và suy nghĩ của tác giả trong đoạn thơ. Tính
trữ tình của đoạn thơ thể hiện ở chỗ tác giả lí giải những vấn đề trên bằng một
giọng thơ trữ tình sâu lắng, thiết tha, bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc của chủ
thể, bằng thế giới gần gũi quen thuộc của ca dao, dân ca, truyền thuyết, cổ
tích… được phát hiện từ nhiều ý nghĩa mới và sâu sắc.
* Dạy học đoạn trích “Đất Nước”theo hướng phát triển năng lực cảm xúc
thẩm mĩ ở HS, chúng ta có thể tiến hành bài học theo ba bước sau:
- Đưa HS đến với hình tượng Đất Nước qua cái nhìn và lí giải mới mẻ,
độc đáo của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
- Khơi gợi HS khám phá tư tưởng, tình cảm của nhà thơ gửi gắm trong
văn bản đoạn trích.
- Khơi gợi HS phát hiện những sáng tạo nghệ thuật của tác giả.
Bước 1 Đưa HS đến với hình tượng Đất nước trong văn bản thơ.
Hình tượng Đất Nước ở văn bản thơ này được nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm khắc họa bằng những suy tư mang đậm tư tưởng nhân dân và bằng vốn
kiến thức về văn học dân gian và văn hóa dân gian, nên hiện lên rất mới mẻ và
độc đáo.
* Trước hết nhà thơ đặt ra câu hỏi: Đất nước ta có tự bao giờ? Và lí giải
không bằng tri thức về lịch sử các triều đại (Ngô, Đinh, Lê,Lí, Trần, Lê, Mạc,
Tây Sơn, Nguyễn…), mà lí giải bằng sự cảm nhận ở chiều sâu của văn hóa và
lịch sử, được ghi lại trong văn học dân gian và văn hóa dân gian truyền thống:
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”
Lịch sử lâu đời của Đất Nước ta đã để lại dấu ấn trong các truyện cổ tích
“mẹ thường hay kể ”; truyện Trầu Cau, truyện Thánh Gióng;
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc;
Còn để lại dấu ấn trong những phong tục tập quán riêng biệt có từ lâu đời:
48
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần sàng
Đất Nước có từ ngày đó”
Như vậy lịch sử lâu đời của đất nước đã được thể hiện rõ trong đời sống vật
chất và đời sống tinh thần gần gũi, thân thiết, bình dị của dân ta từ ngàn đời nay.
Đây là nét riêng biệt và đắc sắc đầu tiên trong cảm nhận của tác giả về
Đất Nước.
* Nét riêng biệt và đặc sắc thứ hai trong cảm nhận của tác giả về đất
nước thể hiện ở sự lí giải của tác giả về câu hỏi; Đất Nước là gì?
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Như vậy, theo tác giả, Đất Nước là cái không gian rất gần gũi với cuộc
sống của mỗi người, của mỗi cá nhân, nơi hàng ngày diễn ra tình yêu đôi lứa
Đất nước là những ngọn núi, dòng sông, mặt biển:
“Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Hai câu thơ trên là tác giả lấy ý từ câu hò Bình Trị Thiên có nguyên văn:
“con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc - Con cá ngư ông móng nước
ngoài khơi - gặp nhau đây xin phân tỏ đôi lời - kẻo mai kia con cá về sông vịnh,
con chi nọ đổi dời về non xanh”.
* Đất Nước chính là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc trải qua
bao thế hệ, đã từng bao lần chia tách rồi đoàn tụ:
49
“Thời gian đằng đẵng
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
… Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cái chuyện mai sau.
* Đất Nước không ở đâu xa mà kết tinh, hóa thân trong cuộc sống của
mỗi con người. Sự sống mỗi cá nhân không phải chỉ riêng của cá nhân mà còn
là của Đất Nước, bởi vì mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn
hóa tinh thần và vật chất của dân tộc, của nhân dân:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước ven tròn to lớn
Bởi thế, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm giữ gìn, phát triển những di sản
văn hóa của dân tộc, truyền lại cho các thế hệ tiếp theo; mỗi cá nhân phải có
trách nhiệm với Đất Nước:
“Em ơi Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời".
* Nét riêng biệt và đặc sắc thứ ba trong cảm nhận và lí giải về Đất Nước
của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là khắc sâu tư tưởng Đất Nước của nhân dân,
chính nhân dân đã làm nên Đất Nước.
* Để làm sáng tỏ tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” tác giả đã lí giải
bằng một cái nhìn có chiều sâu về cảnh quan thiên nhiên gồm núi sông, các
thắng cảnh, ruộng đồng gò bãi…
50
Theo tác giả các cảnh quan thiên nhiên đó đều gắn liền với cuộc sống
của con người, của nhân dân. Nếu không có những người vợ mòn mỏi nhớ
chồng qua các cuộc li tán thì cũng không có núi vọng phu; nếu không có những
cặp vợ chồng yêu nhau thủy chung, son sắt thì không có hòn Trống Mái; nếu
không có truyền thuyết về Thánh Gióng đánh giặc Ân thì không có trăm ao
đầm để lại; nếu không có truyền thuyết về đàn voi 99 con quây quần chầu phục
đất tổ thì không có những đồi núi bao quanh đền thờ các vua Hùng…
Sau khi đưa ra những dẫn chứng cụ thể như vậy, nhà thơ đi đến kết luận:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
chẳng mang một dáng hình một ao nước, một lối sống ông cha.
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.”
Có thể nói đây là một phát hiện mới mẻ và độc đáo của nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm về chiều sâu văn hóa của cảnh quan thiên nhiên của đất nước ta.
Những cảnh quan thiên nhiên chỉ có trở thành thắng cảnh khi nó gắn liền với
con người và được cảm nhân qua tâm hồn của nhân dân.
* Lại để làm sáng tỏ tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” nhà thơ đã lí giải
về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước ta bằng một cái nhìn mới mẻ. Thông
thường, khi nói đến lịch sử bốn nghìn năm của đất nước người ta thường nói
đến các triều đại, các nhân vật lịch sử nổi tiếng: Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lí
Công Uẩn, Trần Hung Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,…
Ở đây nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm nói tới những con người vô danh, bình
dị và chính những người dân thường ấy đã gây dựng nên và bảo vệ đất nước
của chúng ta.
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm đất nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
51
Con gái con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái ở nhà nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng…
… Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm nên đất nước
Và chính những người vô danh, bình dị ấy đã giữ gìn và truyền lại cho
các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa tinh thần và vật chất của đất nước: “Hạt lúa ta
trồng”, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã tên làng, ruộng nương, bờ bãi…
* Từ những điều lí giải trên, nhà thơ khẳng định một cách chắc nịch:
“Để Đất Nước này là đất nước của nhân dân
Đất nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Nhà thơ không chỉ nhắc lại hai lần câu chữ “Đất Nước của nhân dân” để
nhấn mạnh ý thơ, mà còn phát triển thêm tư tưởng ấy bằng một kết luận độc
đáo: “Đất Nước của ca dao thần thoại”.
Nói đến ca dao thần thoại là nói đến tâm hồn của nhân dân ta với những
truyền thống quý báu say đắm trong tình yêu (“Yêu em từ thuở trong nôi”), quý
trọng tình nghĩa (“quý ông cầm vàng những ngày lăn lộn”) nhưng cũng quyết
liệt trong căm thù và kiên cường trong chiến đấu (“Biết trồng tre đợi ngày
thành gậy. Đi trả thù mà không đợi dài lâu”) và cũng rất yêu đời (Ôi những
dòng sông bắt mối từ đâu. Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát)
Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” đã từng được nói đến trong thơ của
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu và trong thơ thời kháng chiến
chống pháp của Nguyễn Đình Thi, Trần Mai Ninh, Hoàng Cầm nhưng đến thơ
52
thời chống Mỹ thì tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” mới được nhận thức sâu
sắc, mà đoạn thơ “Đất Nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một sáng tác
tiêu biểu.
Bước 2. Khơi gợi HS phát hiện những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của
nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm ở văn bản thơ “Đất Nước”.
- Trích đoạn “Đất Nước” là một đoạn thơ trữ tình chính luận, cho nên tư
tưởng, tình cảm của nhà thơ đã được bộc lộ rõ qua việc xây dựng hình tượng
Đất Nước đã được khám phá ở bước 1. Bởi vậy không cần phải tiến hành bước
2 - bước khám phá tâm hồn nhà thơ mà tiến đến bước 3 luôn - bước phát hiện
những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
- Ở đoạn trích “Đất Nước” nhà thơ có những sáng tạo nghệ thuật độc
đáo sau:
* Sáng tạo thứ nhất: Nội dung tư tưởng và cảm xúc là nói tới những vấn
đền lớn lao về chính trị: Đất Nước ta có từ bao giờ? Đất Nước là gì? Đất Nước
do ai làm nên? Tác giả luận giải những nội dung ấy không phải bằng những câu
thơ nghị luận khô khan, mà tác giả dùng những lời trò chuyện tâm tình của một
người con trai nói với người con gái mình yêu, bằng một giọng thơ trữ tình đằm
thắm, tha thiết, bằng thể thơ tự do với những câu thơ co duỗi linh hoạt, rất giàu
nhạc điệu, phù hợp với nội dung suy tư và cảm xúc.
* Sáng tạo thứ hai: Bằng một vốn kiến thức phong phú về văn học dân
gian (ca dao, dân ca, thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích…) và văn hóa dân
gian (phong tục, tập quán, sinh hoạt, vật dụng quen thuộc, lối sống tâm hồn của
dân tộc) cùng với sự suy tưởng sâu sắc, nên tác giả đã phát hiện được nhiều ý
nghĩa mới và sâu về những địa danh và thắng cảnh quen thuộc của đất nước ta.
Lại bằng việc sử dụng sáng tạo những chất liệu dân gian ấy mà nhà thơ đã tạo
lên trong văn bản một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi vừa bay bổng của ca dao,
truyền thuyết, truyện cổ tích …
- Cách vận dụng ca dao, truyền thuyết, truyện cổ tích… của tác giả cũng
rất sáng tạo: Tác giả thường gợi ra một vài chữ trong câu ca dao hay một vài
53
hình ảnh, chi tiết trong truyền thuyết, truyện cổ tích mà gợi ra bao biểu tương:
“Đất Nước” có trong những cái “Ngày xưa ngày xưa” gợi ra kho tàng truyện cổ
tích; “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” gợi ra truyền
thuyết về Thánh Gióng; “cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” gợi ra
thành ngữ dân gian chỉ tính vợ chồng mặn mà thủy chung; “Đất Nước là nơi em
đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” gợi ra bài ca dao “khăn thương nhớ
ai”… Có khi tác giả trích dẫn nguyên vẹn cả một bài dân ca: Đất là nơi “con
chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”. Nước là nơi “con cá ngư ông móng
nước biển khơi”…
Đặc biệt tác giả đã phát hiện ra nhiều ý nghĩa mới và sâu trong từng dòng
sông, ngọn núi trên đất nước ta:
“Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi vọng phu.
Cặp vợ chồng yêu nhau ngóp nên hòn trống mái
…Người học trò nghèo góp cho đất nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”…
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”…
Nghệ thuật sử dụng sáng tạo các chất liệu dân gian được đưa vào các câu
thơ tự do còn làm nên tính hiện đại của thơ Nguyễn Khoa Điềm với đặc điểm là
có sự kết hợp chặt chẽ giữa chính luận và trữ tình, giữa suy tưởng và cảm xúc.
2.2.4. Bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
Nổi lên trên văn bản bài thơ “Sóng” là hai hình tượng: Sóng và em.
“Sóng” là hình tượng khách thể trữ tình “Em” là hình tượng chủ thể trữ tình.
Và đằng sau hai hình tượng đó là thế giới tâm hồn của nhà thơ. Dạy học bài bài
thơ này theo định hướng phát triển năng lực cảm thụ ở HS, chúng ta có thể tiến
hành theo các bước:
- Hướng dẫn HS thâm nhập vào hình tượng Sóng và hình tượng Em.
- Khơi gợi các em khám phá tâm hồn nhà thơ.
54
- Khơi gợi các em phát hiện đặc điểm thơ của Xuân Quỳnh ở bài thơ “Sóng”.
Bước 1. Hướng dẫn HS thâm nhập vào hình tượng Sóng và hình tượng Em.
* Mở đầu bài thơ là hình ảnh những cơn sóng biển được miêu tả một
cách cụ thể, sinh động: Những lúc giông bão thì sóng “dữ dội” và “ồn ào”, còn
những lúc đẹp trời thì “dịu êm”và “lặng lẽ”. Và con sóng ở đây lại dường như
có tính cách, có tâm trạng:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Thực ra đây là tâm trạng của nhân vật “Em”. Ở đây có sự tương đồng
giữa hình tượng sóng và tâm hồn của Em- một người con gái đang yêu. Tính
khí của những người con gái đang yêu cũng giống như những con sóng biển:
“Dữ dội và dịu êm - ồn ào và lặng lẽ”, nghĩa là: khi thì bồng bột sôi nổi, lúc thì
kín đáo sâu sắc; khi thì nồng nhiệt, khi thì âm thầm; khi thì đắm say, khi thì
tỉnh táo… Đó là trạng thái khác thường ở những người phụ nữ đang tràn đầy
khao khát tình yêu và hạnh phúc lứa đôi, nhất là những người con gái không
chịu chấp nhận tình yêu tầm thường, nhỏ hẹp, muốn vươn tới một tình yêu cao
cả. Nếu “Sông không hiểu nổi mình” thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó
để “tìm ra tận bể để được đến với cái cao rộng… Đó là những phương diện
phong phú, phức tạp, nhiều khi mâu thuẫn trong tâm hồn những người con gái
đang yêu.
* Ba khổ thơ tiếp theo là hình tượng tâm tư của nhân vật “Em”:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.
Cũng giống như những con sóng, tình yêu của con người mãi mãi trường
tồn theo thời gian, nỗi khát vọng tình yêu luôn xôn xao, rạo rực trong trái tim
tuổi trẻ.
55
Và tình yêu là một hiện tượng tâm lí đầy huyền bí, không thể giải thích
được về thời điểm bắt đầu của nó: Tình yêu cũng giống như sóng biển, như gió
trời làm sao mà hiểu được:
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yên nhau.
“Em” đã có một tình yêu như em mong muốn.Và khi đã yêu rồi thì mỗi
khi xa cách nhau thường là nỗi nhớ. Một nỗi nhớ cồn cào, da diết,thường trực
cả khi thức lẫn khi ngủ, nó cuồn cuộn,dào dạt như như những đợt sóng biển
triền miên,vô tận:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ tới anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương
“Em” tin vào hạnh phúc trong tương lai như nhũng con sóng nhất định sẽ
vô bờ, “dù muôn vàn cách trở”
56
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vàn cách trở.
Tuy vậy. “em” vẫn thấp thỏm lo âu, vẫn ám ảnh về cái mong manh của
tình yêu:
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn qua đi
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa.
Cuộc đời con người “tuy dài thế” nhưng so với năm tháng vĩnh hằng
“năm tháng vẫn qua đi” thì cũng chỉ là hữu hạn trước cái vô hạn. Cũng như
“biển kia dẫu rộng” nhưng so với cái bao la của vũ trụ “mây vẫn bay về xa” thì
chẳng qua cũng chỉ là một thực thể nhỏ bé, mong manh mà thôi.
Cuối cùng “Em” có khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn
hóa thân thành những con sóng để vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở:
Làm sao được tan ra
Làm trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Bước 2. Khơi gợi HS khám phá tâm hồn của nhà thơ
Nhà thơ Xuân Quỳnh viết bài thơ Sóng vào năm 1967, khi mà chị đã
nếm trải sự đổ vỡ trong hạnh phúc gia đình. Qua hình tượng Sóng và Em, nhà
thơ đã nói lên thật chân thành, táo bạo, không hề giấu giếm khát vọng tình yêu
sôi nổi, mãnh liệt của mình.
Hai hình tượng “Sóng” và “Em” song song tồn tại từ đầu đến cuối bài
thơ, đan cài vào nhau, soi sáng bổ sung cho nhau, nhằm diễn tả một cách sâu
sắc thấm thía khát vọng tình yêu đang cuồn cuộn trào dâng trong trái tim nhà
57
thơ. Đó là những cảm xúc, những tâm trạng, những tình cảm vừa phong phú,
phức tạp, vừa thiết tha sôi nổi của một người con gái đang rạo rực yêu đương,
không chịu yên định mà đầy biến động, khao khát.
Ngay từ đầu nhà thơ đã bộc lộ rõ các rạo rực của trái tim mình, một trái
tim đang cháy bỏng niềm khao khát yêu thương. Nhà thơ bộc bạch: Khi đến với
tình yêu, con sóng lòng trong ai mà chẳng giống như những con sóng ngoài
biển khơi: “Dữ dội và dịu êm, ồn ào và lặng lẽ”, nghĩa là sự thất thường trong
tính khí của kẻ đang yêu và niềm khao khát được giải thoát mình khỏi cái
không gian chật hẹp mà mình đã vướng phải: “Sông không hiểu mình, sóng tìm
ra tận bể”.
Xuân Quỳnh viết bài thơ “Sóng” vào thời điểm nhà thơ đã từng mọt lần
nếm trải sự đổ vỡ trong tình yêu, cho nên nhà thơ vẫn bị ám ảnh về cái mong
manh của tình yêu: “Cuộc đời tuy dài thế… Mây vẫn bay về xa.”, tuy vậy sự
ám ảnh ấy không làm nguội tắt ngọn lửa khát vọng trong tâm hồn nhà thơ.
Bước 3. Khơi gợi HS phát hiện những sáng tạo nghệ thuật của tác giả trong bài
thơ “Sóng”
Sự sáng tạo nghệ thuật đầu tiên của nhà thơ Xuân Quỳnh ở bài thơ “Sóng”
là dùng thể 5 chữ. Nội dung bài thơ là những cảm xúc, tâm trạng, những sắc thái
tình cảm vừa phức tạp, vừa sôi nổi của trái tim người phụ nữ đang rạo rực yêu
đương được tác giả lựa chọn cách diễn đạt rất phù hợp: thể thơ 5 chữ với những
câu thơ ngắt nhịp và phối âm linh hoạt phóng túng đã gợi lên thật ấn tượng, âm
điệu của những cơn sóng biển cả và cả những con sóng lòng trong tâm hồn nhà
thơ khi thì dồn dập, dữ dội; khi thì êm dịu, khoan thai…
Sáng tạo nghệ thuật thứ hai là kết cấu bài thơ. Văn bản bài thơ được kết
cấu trên cơ sở nhận thức về sự tương đồng, hòa hợp giữa nhưng cơn sóng lòng
ở trong một người phụ nữ đang rạo rực yêu đương. Sóng biển xôn xao triền
miên vô tận với trạng thái “Dữ dội và dịu êm- Ồn ào và lặng lẽ” gợi liên tưởng
đến sóng lòng trong lòng người con gái đang yêu với những trạng thái khi bồng
58
bột, sôi nổi, khi kín đáo sâu sắc… Kết cấu ấy đã dựng lên trong bài thơ hai hình
tượng trữ tình Sóng và Em đan cài vào nhau, hỗ trợ, bổ xung cho nhau để làm
nổi bật tâm trạng người con gái đang yêu.
Sáng tạo thứ ba là cách giãi bày tâm trạng rất Xuân Quỳnh. Đó là cách
giãi bày xen kẽ giưa hình ảnh ẩn dụ với những lời bộc lộ trực tiếp:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
… Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa.
2.2.5. Bài thơ Đàn Ghi ta của Lor-Ca của nhà thơ Thanh Thảo
Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”là bài thơ hiện đại được viết theo phong
cách tượng trưng, với cách biểu đạt khác lạ so với thơ truyền thống của Việt
Nam.Bởi vậy đây là một bài thơ rất khó tiếp nhận đối với các thầy và trò trong
các trường phổ thông của Việt Nam. Để có thể đọc hiểu được bài thơ, người
đọc cần có những hiểu biết sơ bộ về nhà thơ Lor-ca, về thơ tượng trưng, thơ
siêu thực, về nhà thơ Thanh Thảo.
* Về nhà thơ Lor-ca: “Theo từ điển văn học” (Bộ mới) ở trang 505 thì:
“Federico Gracia Lor-ca (1898-1936) là nhà thơ lớn của Tây Ban Nha. Học đại
học ở Granađa, từ 1919, lên Madrits (thủ đô của Tây ban Nha) và bắt đầu sáng
tác văn học. Nổi tiếng ngay từ những tập thơ đầu tiên.
Những năm 1929-1930, Lor-ca sang Mỹ và Cuba… ông tham gia hiệp
hội tri thức chống phát xít. Ông sáng tác nhiều kịch bản. Kịch bản của Lor-ca
59
có nhiều cách tân về nội dung và nghệ thuật, tràn đầy tình yêu đối với nhân
dân.Tính nhân dân của tác phẩm Lor-ca cũng thể hiện rất rõ trong hai tập thơ
cuối cùng… Lor-ca ca ngợi nhân dân nồng nhiệt, cổ vũ nhân dân trong cuộc
đấu tranh với mọi thế lực phản động, giành quyền sống cho mình, với một nghệ
thuật thơ mới mẻ, táo bạo.
Năm 1936, Lor-ca bị bọn phát xít bắt giam và bị bắn chết ở Granađa. Cái
chết của ông đã làm dâng lên một làn sóng phẫn nộ hết sức mạnh mẽ trên toàn
thế giới đối với bạn bè là Frăng cô.Tên tuổi của ông trở thành biểu tượng ngọn
cờ tập hợp các nhà văn hóa Tây Ban Nha và trên thế giới chiến đấu chống phát
xít, bảo vệ văn hóa dân tộc và văn minh nhân loại.” (Bằng Việt).
* Về chủ nghĩa tượng trưng: Theo” Từ điển văn học” (Bộ mới) ở trang
297: “Chủ nghĩa tượng trưng là một trào lưu nghệ thuật và một quan điểm triết
học, mỹ học ở cuối thể kỷ XIX, đầu thề kỷ XX. Nảy sinh như một khuynh
hướng văn học ở Pháp những năm 60, 70… sau đó lan rộng thành một hiện
tượng văn hóa ở toàn Châu Âu, bao gồm cả sân khấu, hội họa, âm nhạc. Ở Nga
chủ nghĩa tượng trưng nảy sinh những năm 90.
Chủ nghĩa tượng trưng coi vô thức, trực giác là cái chủ yếu trong sáng
tác nghệ thuật… yêu cầu thơ trước hết phải có nhạc tính, hình tượng có khả
năng không chỉ biểu đạt những sự tương hợp của các khách thể và hiện tượng
mà trước hết có khả năng truyền đạt nội dung thể nghiệm của ý thức, do vậy ở
tác phẩm tượng trưng, biểu tượng vật thể được đan bện chặt với các thủ pháp
gây ấn tượng… Vai trò chủ đạo trong nhận thức và sáng tác nghệ thuật của chủ
nghĩa tượng trưng là trực giác - được đồng nhất với sự bừng ngộ thần bí…”
(Lại Nguyên Ân).
* Chủ nghĩa siêu thực là một khuynh hướng văn học và nghệ thuật nảy
sinh trong những năm 10-20 của thế kỉ XX ở Pháp.
Chủ nghĩa siêu thực chủ trương giải thoát cái “tôi” của con người khỏi sự
trói buộc của chủ nghĩa duy vật, của logic, của chân lí của đạo đức, của mĩ học
60
truyền thống… chân lí đích thực của thực tại, theo họ nằm ở khu vực của vô
thức và nghệ thuật cần phải đưa chúng ra, biểu hiện chúng vào tác phẩm…
Trong thơ nhất là thơ trữ tình, mô hình xuất phát của mọi hoạt động sáng tạo là
“viết tự động”, tức là tốc kí lấy những từ, những mẩu lời nói, những hình ảnh
ám ảnh… vừa xuất hiện trong đầu óc”…(trang 293).
* Nhà thơ Thanh Thảo (xem phần “Tiểu dẫn trong SGK Ngữ văn 12-
Tập một)
Dạy học bài thơ “Đàn Ghi ta của Lor-ca” theo định hướng phát triển
năng lực cảm xúc thẩm mĩ ở HS là một việc rất khó khăn, bởi vì bài thơ được
viết theo phong cách thơ tượng trưng có pha màu sắc siêu thực, rất xa lạ với bài
thơ truyền thống.
Cái khó khăn đầu tiên là làm sao cho HS hiểu được ý và nghĩa của những
câu thơ được cấu tạo bằng lối kết hợp “lạ hóa”. Ví dụ: nhà thơ định nói gì ở các
câu thơ:
“Những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li la li la li la
đi lang thang về miền đơn độc với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn”
Hoặc các câu thơ sau đây nhằm diễn đạt ý gì?
“tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng nghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta
ròng ròng máu chảy.v.v
Chúng ta biết rằng: thơ tượng trưng không coi trọng tả thực mà thiên về
gợi ra những ý nghĩa tượng trưng về những hình ảnh do nhà thơ sáng tạo ra
61
được viết theo lối sắp đặt dựa trên nguyên lí cốt lõi của cấu trúc gián đoạn.Dựa
vào đặc điểm này, người dạy có thể khuyến khích người học khám phá ra ý
nghĩa tượng trưng của những hình ảnh thơ được “lạ hóa’, để từ đó có thể hiểu
được nội dung tư tưởng của bài thơ.
Bước 1: Khơi gợi HS tưởng tượng, hình dung về hình ảnh Lor-ca trên đất nước
Tây Ban Nha
* Trước hết nhà thơ Thanh Thảo đã gợi ra một khung cảnh mang đậm nét
đặc trưng của văn hóa Tây Ban Nha: “Những tiếng đàn bọt nước”, “li-la li-la li-
la”. Hai câu thơ này gợi ra đất nước Tây Ban Nha là một nơi sản sinh ra cây
đàn ghi ta. Bởi thế ở Việt Nam ta, đàn ghi ta còn được gọi là Tây Ban Cầm.
Hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” gợi ra môn đấu bò tót, một hoạt động văn hóa rất
truyền thống của Tây Ban Nha. Rồi các hình ảnh “vầng trăng”, “yên ngựa”,
“Cô gái Di-gan”… đều góp phần khắc họa một không gian văn hóa đậm bản
sắc Tây Ban Nha.
Hình tượng Lor-ca nổi lên trên khung cảnh đậm bản sắc văn hóa Tây
Ban Nha đó “đi lang thang về miền cô độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
tây Ban Nha
hát nghêu ngao”
Những hình ảnh trên gợi ra hình tượng Lor-ca là một nghệ sĩ hát rong tự
do và cô đơn, đi lang thang “hát ngêu ngao”cùng “tiếng đàn bọt nước”, người
đã dùng tiếng đàn ghi ta để giãi bày nỗi đau và khát vọng yêu thương của nhân
dân mình.
Năm 1936 chính quyền phản động thân phát xít của Tây Ban Nha đã bắt
giam và bắn chết ông.Nhà thơ Thanh thảo đã tái hiện lại cảnh Lor-ca bị sát hại
bằng những câu thơ rất ám ảnh:
62
Bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điều về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
…tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy
Cái chết bi thảm của Lor-ca diễn ra quá đột ngột
Tây Ban Nha hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điều về bãi bắn
Tiếp theo những câu thơ tả thực trên là những câu thơ được viết theo
kiểu sắp đặt của thơ tượng trưng để nói về những mất mát lớn lao từ sự kiện
thảm khốc đó:
Tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết máy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy
Cái chết của Lor-ca đã làm tiêu tan tất cả: tình yêu (tiếng ghi ta nâu, bầu
trời cô gái ấy), cái đẹp, (tiếng ghi ta lá xanh). Cái chết bi thảm ấy đã đưa đến
một sự mất mát khôn lường (tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan) và một sự đau
đớn khôn xiết (tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy)…
Bước 2. Khơi gợi HS khám phá tâm hồn nhà thơ gửi gắm trong văn bản thơ
* Trước hết nhà thơ Thanh Thảo đã gửi gắm trong văn bản thơ nỗi đau
xót trước cái chết của Lor-ca qua những câu thơ tái hiện cảnh tượng Lorca bị
hành hình và những mất mát dây chuyền từ cái chết của ông.
* Không những thế, nhà thơ Thanh Thảo còn giãi bày nỗi xót đau trước
sự dang dở của một khát vọng cách tân nghệ thuật thơ ca bằng những hình ảnh
đẹp được viết theo lối sắp đặt dựa trên nguyên lí cốt lõi của cấu trúc gián đoạn.
63
Không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
Nhà cách tân Lor-ca đã chết, nghệ thuật thiếu vắng kẻ dẫn đường, nghệ
thuật thành thứ cỏ mọc hoang!
Với khổ thơ trên có người lại hiểu: “Tiếng đàn tượng trưng cho nghệ
thuật của Lor-ca, cho tình yêu tự do và tình yêu con người mà ông suốt đời theo
đuổi. Đấy là cái đẹp không thể hủy diệt, nó sẽ sống và sẽ truyền lan mãi, giản
dị và kiên cường như cỏ dại… Thanh Thảo đã sử dụng các biện pháp so sánh-
ẩn dụ và tượng trưng hóa để khắc đậm niềm tin bất diệt vào sự bất hủ của tiếng
đàn Lorca…
* Cuối cùng nhà thơ Thanh Thảo cũng gửi gắm, giãi bày sự suy tư của
mình về cái chết của Lor-ca, vừa là để an ủi mình, vừa là giãi bày lòng kính
trọng đối với Lor-ca
“đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng
Lor-ca bơi sang ngang
trên chiếc ghi ta màu bạc
chàng ném lá bùa vào cô gái Digan
và xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt.
“Đường chỉ” tay trên lòng bàn tay của từng người là đường chỉ số mệnh
của người đó. “Đường chỉ tay vừa đứt” là ẩn dụ về số phận, về định mệnh
nghiệt ngã. Thôi đành chấp nhận định mệnh phũ phàng để Lor-ca đi vào cõi
khác: “Lor-ca bơi sang ngang, trên chiếc ghi ta màu bạc”.
Các hình ảnh: ‘Chàng ném lá bùa vào cô gái Digan vào xoáy nước, chàng
ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt” đều là những hình ảnh tượng trưng cho
64
sự giã từ và giải thoát… Thế là Lor-ca đã thực sự chia tay trần gian… Với lòng
kình trọng Lor-ca, hãy để cho Lor-ca có được một sự giải thoát thực sự…
Bước 3. Khơi gợi HS khám phá những sáng tạo nghệ thuật của tác giả
Ở bài thơ này, nhà thơ Thanh Thảo đã có những sáng tạo nghệ thuật độc đáo
* Trước hết, đó là sáng tạo trong cấu trúc văn bản thơ. Văn bản thơ “Đàn
ghita của Lorca” ngoài cấu trúc tự sự có thêm một cấu trúc nữa là cấu trúc nhạc.
Các chuỗi âm “Li-la li-la li-la” đặt sau hai câu thơ đầu và ở cuối bài gợi liên tưởng
tới nhạc đệm của đàn ghi ta sau những ca khúc mở đầu hoặc khi ca khúc đã dừng
lời… Việc “cấy” nhạc vào một văn bản thơ gợi liên tưởng tới nhà thơ hát rong
Lor-ca (Tây Ban Nha hát nghêu ngao…) với lòng kình trọng và tri ân.
* Đây là một bài thơ hiện đại được viết theo phong cách thơ tượng trưng
với cách biểu đạt rất khác lạ so với thơ truyền thống. Nhà thơ Thanh Thảo dùng
phổ biến các kết hợp “lạ hóa” để sáng tạo hình ảnh khiến cho các hình ảnh thơ
mang ý nghĩa tượng trưng. “những tiếng đàn bọt nước” “tiếng ghi ta nâu”, “bầu
trời cô gái ấy”, “tiếng ghi ta lá xanh biết mấy”, “tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ
tan”, “tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy”.
Nhiều hình ảnh trong bài thơ được viết theo lối sắp đặt, dựa trên nguyên
lí cốt lõi của cấu trúc gián đoạn:
…giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
đường chỉ tay đã dứt
dòng sông rộng vô cùng
Lorca bơi sang sông
trên chiếc đàn ghi ta màu bạc…
65
Tiểu kết chương 2
Dựa trên định hướng chung về dạy học phát huy năng lực thẩm mỹ cho
học sinh khi học các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong SGK 12, chúng tôi
đã vận dụng và tìm ra con đường phát huy năng lực thẩm mỹ cho học sinh ở
từng bài thơ cụ thể. Đây là cơ sở quan trọng để người dạy cũng như người học
thoát khỏi những lúng túng, khó khăn thường gặp và dễ dàng thực nghiệm, áp
dụng trong quá trình dạy học các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong SGK 12.
66
Chương 3
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
Dựa vào định hướng dạy học đã được đề xuất ở chương 2, chúng tôi tiến
hành thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng tính khả thi và tính hiệu quả của
định hướng dạy học mà luận văn đề xuất đối với bài thơ Tây Tiến của nhà thơ
Quang Dũng. Chương 3 này bao gồm 2 phần (3.1. Thiết kế dạy học bài thơ Tây
Tiến của Quang Dũng; 3.2. Dạy học thực nghiệm đối chứng bài thơ Tây Tiến
của Quang Dũng).
3.1. Thiết kế dạy học bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng theo định
hướng dạy học do luận văn đề xuất
Ở chương 2- Chương định hướng dạy học các bài thơ trong SGK Ngữ văn
12 - với bài thơ “Tây Tiến”, luận văn đã đề xuất dạy học theo 3 hoạt động chính:
- Đưa HS đến với thế giới hình tượng khách thể: cảnh núi rừng miền
Tây, cuộc hành quân lên miền Tây và hình tượng tập thể những người lính
trong đoàn quân Tây Tiến.
- Khơi gợi Hs khám phá tâm hồn nhà thơ.
- Khơi gợi HS phát hiện những sáng tạo nghệ thuật của tác giả.
Theo định hướng trên luận văn đề xuất một thiết kế dạy học bài thơ như sau:
A. Mục tiêu bài học: Giúp HS
* Kiến thức: Rung cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên miền Tây và vẻ đẹp
của hình ảnh người lính Tây Tiến trong bài thơ. Cảm nhận được vẻ đẹp hào
hoa, tinh tế của tâm hồn nhà thơ được thể hiện trong văn bản thơ. Nắm được
những sáng tạo nghệ thuật độc đáo và tài hoa của tác giả Quang Dũng.
* Kỹ năng: Đọc - hiểu thơ hiện đại Việt Nam theo đặc trưng thể loại.
Nhận biết, phân tích, lí giải, bình luận về một đoạn thơ, bài thơ.
* Thái độ: Từ đó HS yêu mến, tự hào về thế hệ cha ông trong cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, có ý thức sống xứng đáng với thế hệ
ông cha.Sống có lý tưởng, sống cống hiến và có ích cho xã hội.
67
* Hình thành và phát triển năng lực ở HS: Năng lực tự học, hợp tác,
năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực giao tiếp. năng lực cảm
thụ thẩm mỹ…
B. Tiến trình bài học
Bước 1. Hoạt động khởi động, trải nghiệm
- Mục tiêu:
+ Tạo tâm thế cho HS tiếp nhận bài thơ, tái hiện không khí những ngày
kháng chiến chống Pháp của dân tộc.
+ Giúp HS có cơ hội thể hiện năng lực tự học để trình bày hiểu biết của
mình về cuộc kháng chiến chống Pháp, về người lính cụ Hồ.
+ Giáo viên nắm được mức độ hiểu biết của HS để có định hướng phù
hợp ở các hoạt động tiếp theo trong bài dạy.
+ Hiểu được những nét cơ bản về nhà thơ Quang Dũng, không khí và
hoàn cảnh ra đời của bài thơ Tây Tiến.
- Phương pháp: trực quan, trải nghiệm, trao đổi.
- Thời gian: 10 phút.
- Nhiệm vụ chuẩn bị: GV giao cho nhóm HS chuẩn bị trước ở nhà
clip hoặc một số hình ảnh về Tây Bắc và về những người lính trong kháng
chiến chống Pháp.
- Nhóm HS đọc tiểu dẫn và trình bày kết quả nhiệm vụ được giao :
+ Một số tranh ảnh người lính chống Pháp.
+ Bài thơ đồng chí của Chính Hữu viết về người lính chống Pháp.
+ Clip về cuộc kháng chiến chống Pháp ở miền Tây Bắc.
- GV: Đánh giá hoạt động của HS và tóm lược bằng diễn giảng.Trang bị
cho HS những hiểu biết cần thiết để tiếp nhận bài thơ:
1.1. Đoàn quân Tây Tiến:
Đó là một đơn vị bộ đội được thành lập vào đầu năm 1947, năm đầu của
cuộc kháng chiến chống Pháp.Đơn vị bộ đội này có nhiệm vụ hành quân lên
68
miền Tây Bắc của Bắc bộ nước ta (bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu. Hòa
Bình và miền Tây tỉnh Thanh Hóa) để tiêu hao lực lượng quân đội Pháp, phối
hợp với bộ đội Lào đánh giặc Pháp ở Thượng Lào. Những nơi này, thời bấy
giờ, còn rất hoang vu và hiểm trở: núi cao, vực sâu, rừng rậm có nhiều thứ
dữ… Vì thế, đơn vị đó được gọi là Đoàn quân Tây Tiến.
Đoàn quân Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng
lớp khác nhau, trong đó có những HS, sinh viên. Cuộc sống của những người
lính Tây Tiến nói riêng, bộ đội ta nói chung vào những năm đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp( 1946,1947,1948,1949,1950…) hết sức gian khổ:ăn
đói, mặc rét,ốm đau không có thuốc men,tử vong vì bị bệnh sốt rét rất
nhiều.Tuy vậy, hộ vẫn sống lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.Riêng những
người lính xuất thân từ HS, sinh viên, mặc dù sống trong hoàn cảnh cực kì gian
khổ, họ vẫn giữ được cốt cách hào hoa,thanh lịch của người Hà Nội, vẫn yêu
đời và lãng mạn…
1.2. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ “Tây Tiến”
Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về tỉnh Hòa
Bình thành lập Trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm
1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa được bao lâu,
ngồi ở Phù Lưu Chanh,một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ, ông viết bài thơ “Tây
Tiến”, ghi lại nỗi nhớ da diết của mình về đoàn quân Tây Tiến trong cuộc hành
quân lên miền tây Bắc Bộ để phối hợp bộ đội Lào tiêu hao lực lượng của giặc
Pháp. (Lúc bấy giờ miền tây Bắc Bộ vẫn bị Pháp chiếm đóng)
1.3. Về nhà thơ Quang Dũng
Nhà thơ Quang Dũng tên khai sinh là Bùi Đình Diệm. Ông sinh năm
1921 và mất năm 1988(thọ 67 tuổi), quê ở làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng
tỉnh Hà Tây cũ (nay thuộc thành phố Hà nội). Ông học đến bậc Trung học ở Hà
Nội. Sau Cách Mạng tháng 8 năm 1945, ông ra nhập quân đội ở đoàn quân Tây
Tiến, rồi chuyển sang các đơn vị khác. Từ sau năm 1945, ông là biên tập viên
Nhà xuất bản Văn học.
69
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc.
Nhưng trước hết ông là một nhà thơ có phong cách thơ lãng mạn và tài hoa…
Năm 2001, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
1.4. Về bài thơ “Tây Tiến”:
- Ngay từ khi ra đời, bài thơ Tây Tiến đã được lưu truyền rộng rãi trong
bộ đội và những người yêu thơ. Nhưng sau đó, vào những năm 60, 70 của thế
kỉ XX, do quan niệm đơn giản và ấu trĩ ở một số ngươi lãnh đạo lúc bấy giờ,
bài thơ này bị coi là rơi rớt tư tưởng lãng mạn tiểu tư sản. Mãi tới thời kì đổi
mới vào những năm 90 của thế kỉ XX, bài thơ Tây Tiến mới được khôi phục lại
vị của nó trong lịch sử văn học Việt Nam và được đưa và SGK Văn học.
Bước 2. Đọc hiểu bài thơ - Hoạt động hình thành kiến thức mới
- Mục tiêu:
+ Cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên và con người Tây Bắc trong hoài
niệm của nhà thơ Quang Dũng trên đường hành quân cùng đồng đội Tây Tiến:
Hùng vĩ, dữ dội và mỹ lệ, trữ tình, ấm áp.
+ Cảm nhận được hình tượng tập thể người lính Tây Tiến- người lính
chống Pháp: hào hoa, lãng mạn và hào hùng, bi tráng.
+ Tình yêu Tây Bắc, yêu Đất nước và nỗi nhớ thương đồng đội của nhà thơ.
+ Phát hiện và hiểu được những thành công nghệ thuật của bài thơ: kết
hợp nhuần nhuyễn hiện thực và lãng mạn, ngôn ngữ vừa trang trọng, cổ kính
vừa thông tục, đời thường, giọng điệu hào hùng, âm hưởng bi tráng.
- Phương pháp: Đọc sáng tạo, dạy học theo nhóm, nêu và giải quyết vấn
đề, thảo luận trao đổi.
- Thời gian: 60 phút.
- Năng lực hình thành: Năng lực giao tiếp tiếng Việt, NL giải quyết vấn
đề, NL cảm thụ thẩm mĩ, NL hợp tác.
* Gv chia nhóm HS thảo luận trong thời gian khoảng 5 phút theo các câu
hỏi, sau đó Gv nhận xét, chốt ý.
70
Hoạt động 1: Đọc diễn cảm văn bản thơ
Văn bản thơ tuy dài, nhưng rất hấp dẫn. Bởi vậy, cần đọc diễn cảm một
mạch từ đầu đến cuối văn bản để gây hứng thú ở HS, tạo không khí cho giờ học.
GV: Đảm nhận đọc diễn cảm bài thơ.
HS: Theo dõi trên văn bản và đọc thầm, đọc diễn cảm theo hướng dẫn
của GV.
Hoạt động 2: Thâm nhập vào thế giới hình tượng trong văn bản thơ qua kí ức
của nhà thơ.
2.1. Hình tượng thiên nhiên và con người miền Tây
Gợi dẫn 1: Những câu thơ nào trong văn bản bài thơ vẽ nên bức tranh thiên
nhiên miền Tây?
Yêu cầu: HS tìm kiếm trên văn bản những câu thơ tái hiện cảnh thiên
nhiên miền Tây. HS thảo luận:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
…Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
…Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đung đưa.
Gợi dẫn 2: Những câu thơ trên cho em hình dung được những gì về cảnh sắc
thiên nhiên miền Tây?
Yêu cầu: HS hình dung trong trí tưởng tượng về cảnh sắc thiên nhiên miền Tây,
rồi nói ra bằng ngôn ngữ của mình.
-Bằng những câu thơ trên, nhà thơ Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh
hoành tráng về cảnh sắc thiên nhiên miền Tây, với vẻ hiểm trở và dữ dội, hoang
vu và heo hút của miền núi cao,vực sâu,dốc thăm thẳm,mưa rừng, sương núi…
71
Nơi đó còn chứa đầy những bí mật, luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối
với con người bởi những thác gầm, cọp dữ…
Với những từ đầy giá trị tạo hình: khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng
ngửi trời…; với những câu thơ gồm nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả, nhọc
nhằn…cùng với một câu thơ gồm nhiều vần bằng ở cuối khổ thơ… tác giả đã
vẽ nên một cảnh sắc thiên nhiên vừa đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng miền
Tây Bắc Bộ nước ta.
- Cảnh núi rừng miền Tây không chỉ có hoang vu, heo hút hiểm trở, mà
có còn cả cảnh sắc mĩ lệ, thơ mộng:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Đây là cảnh một buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang ở
vùng núi cao nguyên Mộc Châu. Hồn thơ lãng mạn của nhà thơ Quang Dũng đã
ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thơ mộng của cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa.
Gợi dẫn 3: Những câu thơ nào trong văn bản nói về con người miền Tây?
Yêu cầu: HS tìm kiếm trong văn bản những câu thơ về con người miền Tây:
…Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Gợi dẫn 4: Những câu thơ trên gợi lên trí tưởng tượng của các em cảnh tượng gì?
Yêu cầu: HS hình dung trong trí tưởng tượng cảnh một đêm liên hoan văn nghệ
của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui.
Trong ánh sáng rực sáng của đống lửa trại và trong âm thanh réo rắt của
tiếng khèn, những anh bộ đội Tây Tiến cùng với những cô gái người các dân
72
tộc miền núi ở địa phương có doanh trại bộ đội cùng nhau múa hát, ai cũng đều
như bốc men say, ngây ngất, rạo rực… Những người lính Tây Tiến như vừa
ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vừa mê say, vui sướng trước những vũ điệu đậm màu
sắc xứ lạ của những người đẹp vùng núi rừng…
Người dân của vùng núi miền Tây không chỉ hiện lên trong những đêm
lửa trại, mà còn hiện lên trong cảnh tượng thật đầm ấm tình quân dân:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Sau bao ngày băng rừng, leo dốc cao, vượt suối sâu, những người lính
Tây Tiến tạm dừng chân nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây quần bên
những nồi cơm nếp đang bốc khói của những người dân bản đem ra tiếp. Cảnh
tượng ấm cúng đó được nhà thơ Quang Dũng tái hiện bằng một câu thơ thật tài
hoa: “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.
2.2. Hình ảnh những người lính Tây Tiến trong kí ức của nhà thơ
Gợi dẫn 5: Những câu thơ nào trong văn bản làm xuất hiện hình tập thể những
người lính Tây Tiến?
Yêu cầu: HS tìm kiếm trong văn bản những câu thơ tái hiện hình tượng những
người lính Tây Tiến.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
- Qua những câu thơ trên,nhà thơ đã khắc họa được vẻ đẹp kiêu dũng của
của những người lính Tây Tiến.Trước hết, đó là đoàn quân đã phải sống và
chiến đấu trong hoàn cảnh hết sức thiếu thốn, gian khổ.Những người lính thời
ấy,trong đoàn quân Tây Tiến thường là cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh
nhau với giặc hoặc là vì bệnh sốt rét hiểm nghèo làm rụng hết tóc và da xanh
xao…Tuy vậy,qua cái nhìn lãng mạn của nhà thơ Quang Dũng,những người
73
lính Tây Tiến vẫn hiện lên với vẻ oai phong, lẫm liệt: “đoàn binh không mọc
tóc,Quân xanh màu lá dữ oai hùm.Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”
- Bên trong cái vẻ bề ngoài oai hùng, dữ dằn đó là những tâm hồn giàu
mơ mộng-nét hào hoa của những chàng trai người Hà Nội: “Đêm mơ Hà Nội
dáng kiều thơm”Trong những ngày tháng chiến đấu nơi núi rừng miền Tây cực
kì gian lao, khắc nghiệt, những người lính Tây Tiến vẫn khát khao yêu
đương,vẫn mang một nỗi nhớ da diết về người yêu nơi phố phường Hà Nội…
- Qua khổ thơ trên,nhà thơ Quang Dũng đã tạo nên bức tượng đài về
những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những nét khắc họa dáng vẻ bên
ngoài,mà còn thể hiện cả thế giới tâm hồn bên trong đầy hào hoa của họ,tạo nên
một vẻ đẹp đầy chất bi tráng.
Gợi dẫn 6: Trong kí ức của nhà thơ Quang Dũng về những người lính Tây
Tiến, bên cạnh vẻ đẹp kiêu dũng còn có kí ức về sự hi sinh của họ. Những câu
thơ nào viết về điều đó?
Yêu cầu: HS tìm kiếm trong văn bản những câu thơ viết về sự hi sinh lớn lao
của những người lính Tây Tiến:
…Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Trong bài thơ “Tây Tiến”, nhà thơ Quang Dũng không những không che
giấu những gian khổ, thiếu thốn mà không che giấu cả sự thật bi thảm: Những
người lính Tây Tiến gục ngã bên đường hành quân không có đến manh chiếu
để bọc thân xác. Nhưng cái sự thật bi thảm ấy được nhà thơ làm giảm đi nhiều
bằng một câu thơ gồm những từ hán Việt cổ kính trang trọng: “Rải rác biên
cương mồ viễn xứ” và bằng một câu thơ nói về lí tưởng quên mình xả thân vì
Tổ quốc ở những người lính Tây Tiến: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
Cái chết của họ mang dáng dấp cái chết của những tráng sĩ ngày xưa, coi cái
74
chết nhẹ như lông hồng: thân xác anh được bọc trong những tấm “áo bào” sang
trọng,và cái chết của anh được nói giảm đi: “anh về đất”. Đặc biệt, “anh về đất”
trong sự tiễn biệt của dòng sông Mã: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”…Nhà
thơ Quang Dũng đã gửi gắm qua giọng điệu của bốn câu thơ tình cảm đau
thương vô hạn và lòng kính cẩn trước sự hi sinh của đồng đội.
Hoạt động 3: Khám phá tâm hồn nhà thơ gửi gắm trong văn bản thơ
3.1. Nỗi nhớ da diết của nhà thơ
Gợi dẫn 7: Trong văn bản, những câu thơ nào thể hiện với nỗi nhớ da diết của
nhà thơ?
Yêu cầu: HS tìm kiếm trong văn bản thơ những câu thơ nói về nỗi nhớ da diết
của nhà thơ và phân tích, bình giảng về nỗi nhớ ấy.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi…”
Bài thơ “Tây Tiến” được viết trong một nỗi nhớ da diết của nhà thơ
Quang Dũng về những kỉ niệm với đoàn quan Tây Tiến trong cuộc hành quân
lên miền Tây Bắc Bộ vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ là những kí ức của nhà thơ về cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ hoang sơ và
cũng đầy thơ mộng của núi rừng; về những người đồng đội trong đoàn quân
Tây Tiến trong cuộc hành quân đang gian nan, thử thách; về những kỉ niệm đẹp
của tình quân dân …
Nỗi nhớ ấy trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Nỗi nhớ ấy đưa nhà thơ vào một trạng thái đặc biệt: “nhớ chơi vơi”-
nghĩa là nhà thơ đang đắm chìm trong những kí ức, kí ức này gọi kí ức khác, kỉ
niệm này khơi gợi kỉ niệm khác, như những đợt sóng nối tiếp nhau làm cho tâm
hồn nhà thơ “chơi vơi” giữa buồn vui lẫn lộn,…
75
3.2. Nhà thơ ngỡ ngàng, ngây ngất trước vẻ đẹp của những cô gái vùng sơn cước
Nhà thơ không chỉ nhớ cảnh sắc hùng vĩ, hiểm trở của núi rừng và vẻ đẹp
đầy chất bi tráng của những người lính trong đoàn quân Tây Tiến, mà còn nhớ
đến những kỉ niệm đẹp về tình quân dân:…
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”
…Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp…
Vẻ đẹp của những cô gái vùng sơn cước đã như thu hút cả hồn vía những
chàng lính Tây Tiến. Nhà thơ thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên,
vừa say mê, vui sướng trước vẻ đẹp quyến rũ của con người miền Tây. Điều
này cho ta thấy được nét hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn nhà thơ.
3.3. Nhà thơ xót xa, đau đớn trước sự hy sinh của đồng đội
Gợi dẫn 8: Trong tâm hồn nhà thơ, không chỉ có lúc ngất ngây, vui sướng mà
còn có cả lúc xót xa, đau đớn. Những câu thơ nào nói lên điều đó?
Yêu cầu: HS tìm kiếm trong văn bản những câu thơ thể hiện sự đau đớn, xót xa
trong tâm hồn nhà thơ và phân tích những câu thơ ấy.
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Nhà thơ đã viết về sự hi sinh của người lính Tây Tiến một cách thấm thía
bằng cảm hứng bi tráng. Hình ảnh những nấm mồ rải rác biên cương viễn xứ
gợi lên cảm xúc bi thương. Nhưng câu thơ tiếp theo đã khẳng định khí phách
của tuổi trẻ một thời đã sẵn sàng hiến dâng cả sự sống cho nghĩa lớn của dân
tộc: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
76
Nhà thơ còn tả trực tiếp giờ phút vĩnh biệt những người đồng đội bằng
một câu thơ rất ám ảnh:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Câu thơ đã thể hiện rõ tình cảm đau thương và trân trọng kính cẩn của
nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.
Hoạt động 4: Phát hiện những sáng tạo nghệ thuật độc đáo, tài hoa của nhà thơ
Quang Dũng
4.1. Những câu thơ đặc sắc
Gợi dẫn 9: Sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo và tài hoa của nhà thơ Quang Dũng
ở bài thơ Tây Tiến là viết những câu thơ đặc sắc. Theo em có những câu thơ
nào tả cảnh thiên nhiên đặc sắc?
Yêu cầu: HS tùy ý lựa chon những câu thơ tả thiên nhiên đặc sắc có trong văn
bản bài thơ Tây Tiến và nói rõ cái hay của những câu thơ ấy.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Đây là bốn câu thơ thuộc trong những câu thơ đặc sắc nhất của bài thơ,
do tác giả đã có dụng công nghệ thuật trong việc phối hợp thanh điệu. Câu thơ
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” có 7 chữ mà 5 chữ là thanh trắc, khiến
nó gợi tả rất rõ nét con đường hành quân với những đèo dốc khúc khuỷu. Câu
thơ tiếp theo gợi tả những đỉnh núi cao ẩn trong mây heo hút. “Súng ngửi
trời” là cách nói hóm hỉnh đầy chất lính. Câu thơ tiếp theo được ngắt làm đôi
gợi ra những hình ảnh một con đèo gấp khúc gồm hai đường lên và xuống.
Câu thơ cuối đoạn toàn là thanh bằng gợi ra những cảnh tượng thung lũng Pha
Luông chìm trong màn mưa và xa kia thấp thoáng một vài ngôi nhà của dân
cư vùng núi…
77
Rừng núi vùng Tây Bắc của Bắc Bộ không chỉ có cảnh thiên nhiên hoang
sơ, hùng vĩ, mà còn có cả cảnh thiên nhiên thơ mộng:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Cảnh buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang được tác giả tái
hiện bằng những nét bút tinh tế, tài hoa, làm nổi lên vẻ đẹp lung linh, huyền ảo
của cảnh vật.
Gợi dẫn 10: Và có những câu thơ nào tả con người đặc sắc?
Yêu cầu: HS tìm kiếm trong văn bản những câu thơ tả người đặc sắc của nhà
thơ Quang Dũng và thẩm bình những cái hay của những câu thơ đó.
. “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Ở đây đã có một sáng tạo độc đáo và tài hoa ở sự kết hợp từ mới lạ:
“Cơm lên khói”, “Mai Châu mùa em”, làm cho hiện thực mang đậm tâm hồn
lãng mạn của nhà thơ.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp”
Bằng bút pháp lãng mạn, nhà thơ Quang Dũng vừa vẽ lên vẻ đẹp quyến
rũ đầy tình tứ của các cô gái dân tộc vùng núi, vừa thể hiện được niềm ngỡ
ngàng, say sưa , đắm đuối của những người lính trẻ Tây Tiến trong đêm lửa trại
của quân và dân
4.2. Sáng tạo đặc sắc về ngôn ngữ
Gợi dẫn 11: Em có nhận xét gì về sự sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ ở
bài thơ Tây Tiến?
Yêu cầu: HS đọc lại văn bản thơ và suy nghĩ để đưa ra phát hiện của mình về
việc sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ
78
Nét đặc sắc trong ngôn ngữ thơ ở bài “Tây Tiến” là sự phối hợp hòa trộn
ngôn ngữ có những sắc thái phong cách khác nhau với một dụng công nghệ
thuật độc đáo.
Có thứ ngôn ngữ trang trọng, có màu sắc cổ kính để miêu tả hình ảnh
người lính Tây Tiến và sự hi sinh đầy bi tráng của họ:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
…Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Đoạn thơ gồm nhiều từ Hán Việt: “đoàn binh”, “chiến trường”, “biên
cương” , “viễn xứ”, “khúc độc hành”
Lại có thứ ngôn ngữ sinh động của tiếng nói hàng ngày in đậm phong
cách người lính: “súng ngửi trời, “anh bạn”, “bỏ quên đời”, “cọp trêu người”…
Hoạt động 5. Tổng kết bài học
Gợi dẫn12: Điều gì còn lại ở trong em sau khi học xong bài thơ Tây Tiến?
Yêu cầu: Động viên, khuyến khích HS phát biểu tự do về ấn tượng riêng của
từng em sau khi học xong bài thơ “Tây Tiến”.
Bước 3. Luyện tập vận dụng và mở rộng sáng tạo.
- Mục tiêu: Phát triển năng lực vận dụng kiến thức vào giải quyết các
tình huống thực tiễn; năng lực tự học, năng lực nghiên cứu, sáng tạo, năng lực
cảm thụ thẩm mỹ; tăng cường tính thực tiễn cho bài học.
- Phương pháp: nghiên cứu, tự học, hợp tác nhóm, thuyết minh.
- Thời gian: 20 phút.
- Năng lực hình thành: năng lực tự học, năng lực nghiên cứu, vận dụng,
sáng tạo.
Nội dung cần đạt:
- So sánh hình tượng người lính Tây Tiến với hình tượng người lính
trong “Đồng chí” của Chính Hữu.
79
- Tưởng tượng và vẽ tranh về người lính chống Pháp.
- Clip giới thiệu vẻ đẹp Tây Bắc và bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
- Từ bài thơ thuyết trình về lòng yêu nước và trách nhiệm của tuổi trẻ
ngày nay đối với Đất nước.
Đây sẽ là những phút giây HS được trình bày những ý tưởng sáng tạo
cũng như khả năng cảm thụ thẩm mỹ của bản thân. Đây là bài tập GV đã giao
cho HS chuẩn bị, các em đã thực hiện bằng chính năng lực sáng tạo của mình
từ việc cảm nhận thế giới hình tượng trong bài thơ. GV yêu cầu HS chuẩn bị
bài tiếp theo “Việt Bắc” của Tố Hữu.
3.2. Dạy học thực nghiệm và đối chứng ở bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
3.2.1. Mục đích
Dạy học thực nghiệm nhằm kiểm chứng tính khả thi của định hướng dạy
học các bài thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 theo
hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho HS do luận văn đề xuất. Từ đó
người viết mong muốn góp phần vào đổi mới phương pháp, đem lại một hướng
đi hiệu quả cho việc dạy học văn bản thơ hiện đại nói riêng và dạy học đọc hiểu
môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông nói chung.
3.2.2. Đối tượng thực nghiệm
HS lớp 12, trường công lập.
Chúng tôi chọn dạy thực nghiệm ở các lớp 12E, 12F, 12M - Trường
THPT Nam Sách - Nam Sách - Hải Dương. Trong đó, lớp 12E, 12M là 2 lớp
HS đăng kí tự chọn môn Ngữ văn ( nghĩa là 2 lớp định hướng khối C,D) và lớp
12F là lớp HS không đăng kí tự chọn môn Ngữ văn (nghĩa là lớp cơ bản).
3.2.3. Kế hoạch thực nghiệm
Chọn bài thực nghiệm: Trong chương trình Ngữ văn lớp 12 chúng tôi
chọn dạy thực nghiệm 1 bài thơ trong 5 bài thơ được đưa vào đọc hiểu trong
SGK Ngữ văn 12, tập 1. Cụ thể là bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
* Thời gian: Thời gian thực nghiệm được tiến hành ở tuần thứ 06, tiết
17,18 của học kỳ I năm học 2017 - 2018, theo phân phối chương trình Ngữ văn
lớp 12 do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
80
* Công việc thực nghiệm:
Những nội dung được luận văn xác định trong thực nghiệm bao gồm:
- Bài thực nghiệm: 01
- Số tiết dạy: 06
- Số lớp dạy: 03
- Số bài kiểm tra: 01
- Giáo viên tham gia dạy thực nghiệm: 02
1. Nguyễn Thị Dương, tổ Ngữ văn, Trường THPT Nam Sách - Nam Sách
- Hải Dương dạy thực nghiệm lớp 12M.
2. Nguyễn Thị Huyền, (người thực hiện luận văn) tổ Ngữ văn, Trường
THPT Nam Sách - Nam Sách - Hải Dương dạy thực nghiệm lớp 12E, 12F.
3.2.4. Phương pháp tiến hành thực nghiệm
- Trao đổi với giáo viên tham gia thực nghiệm, tìm hiểu sơ lược về tình
hình học tập bộ môn Ngữ văn của các lớp tham gia thực nghiệm.
- Đưa giáo án thực nghiệm cho giáo viên thực nghiệm nghiên cứu trước,
tiếp thu và trao đổi ý kiến với giáo viên thực nghiệm để hoàn chỉnh giáo án.
- Trao phiếu thực nghiệm cho giáo viên lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng để tổ chức cho học sinh thực nghiệm đối chứng
- Dự giờ quan sát quá trình dạy học của giáo viên và học sinh trên lớp để
thấy rõ hơn khả năng thực hiện phương án này của giáo viên và khả năng tiếp
cận, cảm thụ của học sinh.
- Kết thúc buổi thực nghiệm chúng tôi gặp gỡ giáo viên để trao đổi với
giáo viên về những khó khăn, thuận lợi khi dạy học theo giáo án thực nghiệm.
Trao đổi với học sinh về cảm nhận và cảm thụ của các em về tác phẩm sau giờ
học, đồng thời thu lại phiếu điều tra để tiến hành tổng hợp, phân tích.
3.2.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm
* Thuận lợi và khó khăn khi tiến hành thực nghiệm
- Thuận lợi:
+ HS ở cả các lớp tiếp thu bài tương đối đều, các em có tinh thần học
ham hỏi, hăng say phát biểu ý kiến xây dựng bài.
81
+ Lượng HS ở mỗi lớp không quá đông nên GV dễ dàng quản lý và tổ
chức các hoạt động học tập.
+ Bản thân người làm luận văn luôn nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình từ
phía đồng nghiệp.
- Khó khăn:
+ Không nhiều HS biết cách cảm thụ khi đọc văn bản.
+ Cách diễn đạt cảm tính, thiếu logic.
+ Khi thực hiện định hướng dạy học thơ hiện đại Việt Nam theo hướng
hình thành và phát triển NL cảm thụ thẩm mĩ cho HS, vận dụng các phương
pháp dạy học tích cực có những ưu thế nhưng cũng có khó khăn là HS vẫn
quen với lối dạy học cũ (đọc - chép). Hơn nữa những văn bản thơ hiện đại
nhưng cũng đã cách xa các em hơn nửa thế kỉ, HS cũng khó khăn khi đặt tâm
thế vào thời đại lịch sử hào hùng của dân tộc hay những thời gian đầu đất nước
thống nhất.
+ Một số HS còn ỷ lại khi làm việc nhóm, chưa tích cực tham gia các
hoạt động học hoặc làm một cách qua loa, chống đối.
Do đó, để dạy học thành công, người GV không chỉ tích cực vận dụng
các phương pháp dạy học mới mà còn nắm bắt được tâm lí, trình độ của HS. Và
đó là một nghệ thuật.
* Ý kiến của GV tham gia thực nghiệm
Trước và sau khi dạy thực nghiệm, chúng tôi đã tiến hành họp, hội ý
trong tổ và nhóm chuyên môn khối 12 tham gia dự giờ, đặc biệt thảo luận sâu
với nhóm GV tham gia dạy. Các GV trong tổ, nhóm đã góp ý, chia sẻ và đóng
góp ý kiến thẳng thắn, chân thành về phương pháp dạy. Cụ thể các GV có một
số ý kiến sau:
- Ưu điểm: Về nội dung, phương pháp, tổ chức các tiết dạy đã đảm bảo
tốt mục tiêu bài học, chuẩn kiến thức, kĩ năng, phát huy nhiều năng lực của HS
đặc biệt là khả năng cảm thụ thẩm mỹ, vận dụng và sáng tạo.
82
+ Về nội dung: HS chủ động khám phá, tìm hiểu dưới sự hướng dẫn của
GV để chiếm lĩnh những kiến thức chính xác, khoa học, có trọng tâm, có liên
hệ thực tế, HS được hình thành và phát triển các năng lực cá nhân và năng lực
hợp tác.
+ Về phương pháp: Phát huy được tối đa NL của HS, trong giờ dạy học,
GV đã vận dụng sáng tạo, lựa chọn và kết hợp các phương pháp dạy học tích
cực. Đặc biệt, GV tổ chức tốt các hoạt động, hệ thống lời gợi dẫn logic, trí tuệ,
có chất văn, dễ hiểu để dẫn dắt HS cảm thụ được cái hay, cái đẹp trong bài thơ.
Từ phần hướng dẫn HS chuẩn bị bài đến phần tổng kết, củng cố, vận dụng,
sáng tạo, kiểm tra và hướng dẫn về nhà đều được GV thực hiện sáng tạo, phù
hợp với từng đối tượng HS, khắc sâu được kiến thức và nổi bật là phát huy
được năng lực thẩm mỹ, phát triển các năng lực cá nhân của HS, giờ học sôi
nổi. Khi mục tiêu giáo dục hiện nay nói chung và mục tiêu dạy học môn Ngữ
văn nói riêng hướng tới người học là trung tâm, phát triển năng lực của người
học là cốt lõi thì định hướng dạy học theo hướng này là rất phù hợp.
+ Về tổ chức:
Hình thức tổ chức lớp học khoa học, sinh động.
Tổ chức chia nhóm hoạt động phù hợp, hiệu quả
GV chuẩn bị chu đáo cho bài dạy từ giáo án đến các phương tiện hỗ trợ,
đồ dùng dạy học.
Phân phối thời gian hợp lý với mục tiêu bài học nên bài giảng được hoàn
thành đúng như dự kiến.
- Hạn chế: Định hướng mới, phương pháp dạy học tích cực với chuỗi
hoạt động phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ của HS, yêu cầu các em tập
trung, đầu tư nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo (trước, trong, sau giờ học) khiến một
số HS chưa thể thích nghi ngay, nhất là lớp cơ bản, HS vẫn quen trông chờ, ỷ
lại tuyệt đối vào GV. Vì vậy, một số HS vẫn chưa tích cực, chưa chủ động thực
hiện nhiệm vụ được giao, phần trình bày ý kiến còn e dè, thiếu tự tin.
83
Kết quả thực nghiệm
Bài giảng hướng đến đối tượng người học nhằm phát huy tính chủ động
của HS. Vì vậy, HS tham gia vào các hoạt động trước và trong các tiết dạy rất
nghiêm túc, tích cực, hứng thú. Chúng tôi cũng phát hiện ra nhiều em có năng
khiếu đặc biệt, có HS đã bộc lộ những sáng tạo và ý kiến rất mới và độc đáo.
Để kiểm tra kết quả thực nghiệm chúng tôi cho học sinh điền mẫu khảo
sát bằng văn bản viết (mẫu có in sẵn câu hỏi) để các em bộc lộ kiến thức, kĩ
năng, thái độ cá nhân sau khi học xong bài dạy thực nghiệm.
Câu hỏi trong phiếu khảo sát như sau:
Câu hỏi 1: Bức tranh Tây Bắc trong hồi ức của người lính Tây Tiến trên
đường hành quân hiện lên như thế nào?
Câu hỏi 2: Vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên như thế nào
trong nỗi nhớ của nhà thơ Quang Dũng qua bài thơ Tây Tiến?
Câu hỏi 3: Em ấn tượng với những chi tiết, hình ảnh nào trong bài thơ?
Điểm độc đáo trong nghệ thuật của bài thơ này là gì?
* Kết quả thu được như sau:
Tiêu chí Đạt yêu cầu Chưa đạt yêu cầu Số
lượng Đối Số lượng % Số lượng % học sinh tượng
40 34 85,0 6 15,0 Thực
nghiệm 39 30 76,9 9 23,1
Đối chứng 39 20 51,3 19 48,7
Nhìn vào bảng thống kê, so sánh chúng ta thấy rằng, số HS trả lời đạt yêu
cầu ở lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối chứng (kể cả là lớp cơ bản). Lớp đối chứng
(lớp 12M) tuy là lớp có định hướng khối C, D nhưng số lượng HS chưa đạt yêu cầu
còn nhiều hơn lớp cơ bản (12F). Sự chênh lệch này minh chứng rõ rệt cho vấn đề
phương pháp dạy học.
84
Từ những đánh giá, kết quả thu được qua quá trình thực nghiệm, chúng
ta thấy việc định hướng dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực cảm
thụ thẩm mỹ cho HS là rất cần thiết. Định hướng này không chỉ đáp ứng việc
phát triển năng lực cảm thụ (năng lực chuyên biệt của môn Ngữ văn) mà nó
mang lại hiệu quả cao trong giờ học và tạo hứng thú cho người học khi đưa tác
phẩm vào thực tiễn. Kết quả đó cũng là mục đích của đề tài khi phần nào kiểm
chứng được tính khả thi.
3.2.6. Kết luận chung về thực nghiệm
- Khi xây dựng giáo án chúng tôi đã bám sát vào định hướng dạy học đã
đề xuất đồng thời bám sát với mục tiêu, yêu cầu chuẩn kiến thức, kĩ năng do Bộ
Giáo dục quy định.
- Xây dựng giáo án chúng tôi đã tham khảo ý kiến của đồng nghiệp và
tiến hành dạy thực nghiệm ở ba lớp với trình độ HS không giống nhau (02 lớp
định hướng, 01 lớp cơ bản). Đây là cơ hội để kiểm định khả năng áp dụng và
hiệu quả của đề tài với cả HS đại trà và HS có trình độ chuyên sâu. Tuy nhiên,
do điều kiện nên người viết chưa mở rộng được địa bàn thực nghiệm, số lượng
giờ dạy thực nghiệm cũng chưa nhiều.
Song, với kết quả thực nghiệm trên, chúng tôi tin rằng phương án dạy
học do luận văn đề xuất có tính khả thi khi ứng dụng vào thực tế dạy học trong
nhà trường phổ thông.
Qua quá trình thực nghiệm chúng tôi thấy:
- Đối với giáo viên:
+ Giáo án khoa học, logic, các hoạt động rõ ràng nên những yêu cầu
trong giáo án đều được giáo viên thực hiện tốt, tạo hiệu quả trong giờ học. Khi
tiến hành thực nghiệm giáo án giáo viên không gặp bất kỳ trở ngại nào.
+ Thời gian thực nghiệm giáo án là 90 phút (2 tiết dạy). Hoạt động của
GV và HS đều được chủ động, bài dạy vận dụng những phương pháp dạy học
tích cực, GV là người hướng dẫn, tổ chức HS khám phá những giá trị của tác
phẩm. Sau đó có bài kiểm tra, đánh giá vận dụng kiến thức.
85
- Đối với học sinh:
Chúng tôi sử dụng hệ thống câu hỏi nêu vấn để gợi dẫn HS với từng nội
dung bài học. Nhìn chung giờ học sôi nổi, HS chủ động, tích cực, từng bước
khám phá đầy đủ, sâu sắc và có những phát hiện mới, sáng tạo cả về nghệ thuật
và nội dung của bài thơ.
Kết quả bài làm của HS cho thấy, các em đã chiếm lĩnh được những kiến
thức quan trọng nhất về nội dung và nghệ thuật trong bài thơ Tây Tiến của
Quang Dũng. Từ đó HS cảm nhận được cái hay, cái đẹp của tác phẩm thơ hiện
đại Việt Nam tiêu biểu. Đó là vẻ đẹp bi tráng, hào hùng và hào hoa lãng mạn
của người lính Tây Tiến với chặng đường hành quân qua miền Tây hùng vĩ, trữ
tình trong nỗi nhớ và niềm tự hào của một người lính từng gắn bó với đoàn
binh Tây Tiến. Đó là lý tưởng sống cao đẹp của thanh niên Việt Nam trong một
thời đại lịch sử hào hùng; đó cũng là lẽ sống của tuổi trẻ ngày nay khi sẵn sàng
cống hiến, dựng xây và hi sinh vì Tổ quốc. HS cảm thấy gần gũi khi tìm hiểu
bài thơ bởi các em phát hiện ở nhà thơ Quang Dũng - một hồn thơ rất trẻ trung,
rất nhạy cảm, thẳng thắn, hồn nhiên chia sẻ những hiện thực gian khổ và cũng
rất lãng mạn, hào hoa hướng về lý tưởng, về người thân yêu để vượt qua những
thử thách.
Quá trình thực nghiệm cũng cho thấy, HS còn hạn chế trong việc diễn đạt
suy nghĩ của bản thân. Đây là vấn đề khó tránh khỏi khi vốn từ hạn chế và các
em ít có điều kiện thể hiện, trau dồi khả năng giao tiếp trong và sau giờ học như
định hướng dạy học này.
86
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở lý thuyết dạy học tích cực, dạy học phát huy năng lực cảm thụ
thẩm mỹ cho học sinh và định hướng dạy học cụ thể ở chương 1 và 2, chúng tôi
tiến hành thực nghiệm sư phạm ở chương 3. Kết quả thực nghiệm và đối chứng
trên đã cho thấy sự chuyển biến thực sự của GV và HS trong giờ dạy học Ngữ
văn. Điều đó khẳng định tính khả thi của việc áp dụng đề tài: Dạy học một số
văn bản thơ trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 theo định hướng phát triển năng
lực thẩm mỹ cho học sinh.
Trên thực tế, chúng tôi chưa có điều kiện mở rộng địa bàn thực nghiệm
và chưa có nhiều giờ dạy thực nghiệm. Chúng tôi sẽ tiếp tục tìm tòi, học hỏi
thêm và mở rộng theo hướng nghiên cứu của đề tài.
87
PHẦN KẾT LUẬN
1. Đề tài Dạy học một số văn bản thơ trong sách giáo khoa Ngữ văn 12
theo định hướng phát triển năng lực thẩm mỹ cho học sinh hướng tới mục đích
định hướng phương pháp dạy học phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học
sinh qua các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa ngữ văn 12.
Luận văn đã thực hiện từng bước theo trình tự phù hợp và đi sâu làm rõ các vấn
đề: Đặc điểm thơ ca hiện đại Việt Nam trong các thời kì (1945 - 1975; sau
1795), đặc điểm của các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa
Ngữ văn 12. Định hướng dạy học phù hợp khả năng tiếp cận, phát huy năng lực
đặc biệt là năng lực cảm thụ thẩm mỹ của HS trong từng văn bản thơ được đọc
hiểu trong chương trình sách giáo khoa 12. Từ đó, luận văn đã thiết kế dạy học
một văn bản thơ cụ thể theo định hướng đề xuất thông qua hệ thống lời gợi dẫn
vừa tạo hứng thú cho học sinh vừa đem lại hiệu quả cho giờ học.
2. Quá trình triển khai luận văn: Chúng tôi đã nghiên cứu lý luận về tiếp
nhận thẩm mỹ, xu hướng dạy học phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ của
học sinh, dạy đọc hiểu văn bản văn chương theo hướng phát triển năng lực
cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh, khảo sát thực tiễn tình hình dạy học các văn
bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 ở trường phổ
thông hiện nay để làm cơ sở cho đề xuất định hướng dạy học các văn bản thơ
hiện đại Việt Nam theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học
sinh (Chương I). Luận văn cũng đã đề xuất định hướng HS tiếp cận và cảm
thụ thơ qua các giai đoạn: Hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ khi đến với
thế giới hình tượng trong tác phẩm, hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ khi
đến với thế giới tâm hồn nhà thơ và hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ khi
đến với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác giả. Từ đó, luận văn đã
định hướng các phương án dạy học cụ thể cho từng văn bản thơ này (Chương
II). Cuối cùng, luận văn tiến hành thực nghiệm sư phạm và thu được kết quả
88
bước đầu khả quan. Từ thiết kế giáo án dạy học bài thơ Tây Tiến của Quang
Dũng, luận văn tiến hành dạy thực nghiệm trên 03 lớp (với hai đối tượng: lớp
cơ bản và lớp định hướng) cho HS trường THPT Nam Sách, huyện Nam Sách,
tỉnh Hải Dương để kiểm tra tính khả thi của phương án mà luận văn đề xuất
(Chương III).
3. Trên cơ sở lí luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất định hướng về
phương pháp dạy học nhằm phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh
qua các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12. Theo
đó, học sinh chủ động thể hiện và phát huy khả năng cảm thụ thẩm mỹ khi đọc
hiểu các sáng tạo nghệ thuật của các nhà thơ. Từ đọc văn bản, đến tái hiện hình
tượng trữ tình trong văn bản thơ, phát hiện những sáng tạo độc đáo của nhà thơ
rồi bộc lộ cảm nhận của cá nhân về tác phẩm, định hướng do luận văn đề xuất
muốn đạt đến là tạo cho học sinh có hứng thú và có cơ hội thể hiện khả năng
cảm thụ thẩm mỹ của mình trước một văn bản thơ.
4. Với luận văn này, tuy chúng tôi đã khảo sát, thực nghiệm trong thực
tiễn để kiểm nghiệm tính khả thi của đề tài nhưng muốn hoàn thiện thì vẫn cần
sự kiểm nghiệm và giải quyết một số vấn đề khác. Vì vậy, trong thời gian tới,
chúng tôi sẽ tiếp tục triển khai dạy học theo định hướng đã đề xuất và có thể
mở rộng nghiên cứu ở những thể loại khác. Chúng tôi luôn trân trọng những
góp ý chân thành, sâu sắc của các giáo sư, tiến sĩ, các thầy cô và bạn bè đồng
nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
89
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1998), Từ điển Văn học, (bộ mới), NXB Thế giới.
2. Diệp Quang Ban (2003), Giao tiếp - Văn bản - Mạch lạc - Đoạn văn,
NXB Khoa học xã hội.
3. Hoàng Hòa Bình (chủ biên) (2014), Dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông,
NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.
4. Bernd Meier - Nguyễn Văn Cường (2014), Lý luận dạy học hiện đại - cơ
sở đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học, NXB Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
5. Hoàng Hữu Bội - Nguyễn Huy Quát (2001), Một số vấn đề về phương
pháp dạy - học văn trong nhà trường, NXB Giáo dục.
6. Hoàng Hữu Bội (2007), Thiết kế dạy học Ngữ văn 12 - phần Văn học,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
7. Nguyễn Viết Chữ (2001), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương,
NXBĐHQG, Hà Nội.
8. Hồ Ngọc Đại (1994), Tâm lý dạy học, Nxb Giáo dục.
9. Trần Thanh Đạm (chủ biên) - Huỳnh Lý - Hoàng Như Mai - Phạm Sĩ Tấn
- Đàm Gia Cẩn (1971), Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
10. Phạm Văn Đồng (1973), "Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện",
Tạp chí nghiên cứu giáo dục (tháng 11).
11. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2009), Từ điển
thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
12. Trần Mạnh Hảo (1999), Văn học, phê bình, nhận diện, NXB Văn học.
13. Bùi Hiền (Chủ biên) (2015), Từ điển Giáo dục, NXB Khoa học và kỹ thuật.
14. Bùi Mạnh Hùng (2006), Phác thảo chương trình Ngữ văn theo định hướng
phát triển năng lực, NXB Giáo dục.
15. Nguyễn Thanh Hùng (2000), Hiểu văn dạy văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.
16. Nguyễn Thanh Hùng (2002), Định hướng phương pháp giảng tác phẩm
trữ tình, văn học tầm nhìn và biến đổi, NXB Khoa học xã hội.
90
17. Nguyễn Thanh Hùng (2002), Đọc và tiếp nhận tác phẩm văn chương,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
18. Nguyễn Thị Thanh Hương (2001), Dạy học văn ở trường phổ thông,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
19. Phan Trọng Luận - Trương Dĩnh - Nguyễn Thanh Hùng - Trần Thế Phiệt
(1998), Phương pháp dạy học văn, NXBĐHQG, Hà Nội.
20. Phan Trọng Luận (1999), Đổi mới giờ học tác phẩm văn chương ở nhà
trường phổ thông, Nxb Giáo dục.
21. Phan Trọng Luận (2003), Văn chương và bạn đọc sáng tạo, Nxb ĐHQG
Hà Nội.
22. Phan Trọng Luận (2005), Văn học với nhà trường không phải là một, Báo
Văn nghệ (số 24, 6).
23. Phan Trọng Luận (2007), Phương pháp dạy học văn, Nxb ĐHQG Hà Nội.
24. Phan Trọng Luận (2008), Văn học trong nhà trường, nhận diện, tiếp cận,
đổi mới, Nxb Đại học sư phạm.
25. Phan Trọng Luận (chủ biên) (2009), Thiết kế bài học Ngữ văn 12, tập một,
NXB Giáo dục Việt Nam.
26. Hoàng Phê (chủ biên) (1998), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
27. Nguyễn Huy Quát (2008), Nghiên cứu văn học và đổi mới phương pháp
dạy - học văn, NXB ĐH Thái Nguyên.
28. Sách giáo khoa Ngữ văn 12 - tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007.
29. Sách giáo viên Ngữ văn 12 - tập 1, nâng cao, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007.
30. Sách giáo viên Ngữ văn 12 - tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007.
31. Trần Đình Sử, Đọc văn, học văn, NXB Giáo dục Việt Nam.
32. Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hướng
phát triển năng lực học sinh môn Ngữ văn cấp THPT, NXB Hà Nội, 2014.
33. Trúc Thông (1982), "Mấy suy nghĩ về thơ", Tạp chí Văn nghệ Quân đội,
số 7.
34. Lê Trí Viễn (1982), Những vấn đề bài giảng văn ở Đại học, NXB GD, Hà Nội.
35. Lê Trí Viễn (2004), Đến với bài thơ hay, NXB GD, Hà Nội.
91
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Phiếu số 1:
Họ và tên học sinh: …………………………………….
Lớp: …………………………………………………….
Trường: ………………………………………………...
PHIẾU KHẢO SÁT TÂM LÝ HS THPT VỚI VIỆC HỌC CÁC VĂN
BẢN THƠ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM TRONG SGK NGỮ VĂN LỚP 12
Câu hỏi 1: Bản thân em có thích học các văn bản thơ Việt Nam trong
sách giáo khoa Ngữ văn 12 không? Vì sao?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………
Câu hỏi 2: Trong các văn bản thơ Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ
văn 12 em thích nhất bài thơ nào?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………
Phụ lục 2
Phiếu số 2:
Họ và tên học sinh: …………………………………….
Lớp: …………………………………………………….
Trường: ………………………………………………...
PHIẾU ĐIỀU TRA
Những khó khăn của học sinh THPT khi cảm thụ, tiếp nhận các văn bản
thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12
Học sinh viết vào phiếu ý kiến và cảm nghĩ của mình.
Câu hỏi 1: Em hãy cho biết những khó khăn khi học các văn bản thơ hiện
đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 ?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………….
Câu hỏi 2: Em cảm nhận được những điều gì khi được đọc và học các
văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 ?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………….
Câu hỏi 3: Nêu cảm nhận của em về nét độc đáo của hình tượng người
lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng? Nhận xét về phong cách thơ
Quang Dũng?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………..
Câu hỏi 4: Ấn tượng của em về bài Việt Bắc của Tố Hữu là những gì?
Nhận ra nét độc đáo trong tài thơ Tố Hữu ở bài thơ này?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
Câu hỏi 5: Hình tượng Đất Nước trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
đem đến cho em những suy nghĩ gì? Nhận ra đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………….
Câu hỏi 6: Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam trong tình yêu
thể hiện như thế nào qua hình tượng “sóng” trong bài thơ cùng tên của Xuân
Quỳnh? Bài thơ mang đến thông điệp gì cho tuổi trẻ?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………….
Câu hỏi 7: Cảm nhận của em về vẻ đẹp hình tượng Lor-ca trong bài thơ
Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo)? Thông điệp nhà thơ gửi đến chúng ta là gì?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………….
Câu hỏi 8: Thanh Thảo thể sự cách tân thơ ca qua những chi tiết, hình
ảnh nào trong bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
Phụ lục 3
Họ và tên học sinh: …………………………………….
Lớp: …………………………………………………….
Trường: ………………………………………………...
PHIẾU BÀI TẬP
1. Bức tranh Tây Bắc trong hồi ức của người lính Tây Tiến trên đường hành
quân hiện lên như thế nào?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
2. Vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên như thế nào trong nỗi nhớ
của nhà thơ Quang Dũng qua bài thơ Tây Tiến?
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
3. Em ấn tượng với những chi tiết, hình ảnh nào trong bài thơ? Điểm độc đáo
trong nghệ thuật của bài thơ này là gì?
……………………………………………………………………………….....
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
Phụ lục 4
Phiếu khảo sát trắc nghiệm với GV:
Họ và tên giáo viên: ....................................
Trường: .........................................................
Tỉnh: ......................................................................................................
Các thầy (cô) vui lòng trả lời các câu hỏi sau bằng cách chọn một phương án
đúng và khoanh tròn đáp án mà mình chọn :
1 . Thầy (cô) đánh giá như thế nào về việc tiếp nhận tác phẩm thơ hiện đại VN
trong SGK Ngữ văn 12 hiện nay?
A .Tốt
B .Khá
C .Trung bình
D .Yếu
2. Theo thầy (cô) khi dạy tác phẩm thơ hiện đại VN trong SGK Ngữ văn 12
hiện nay gặp phải những khó khăn gì?
A . Thời lượng dạy học còn ít
B . Nội dung lý thuyết, tài liệu tham khảo còn sơ sài
C . Học sinh không hứng thú với các tác phẩm
D . Nội dung bài học , câu hỏi bài tập trong SGK , sách bài tập chưa hướng vào
phát triển năng lực cho học sinh.
3. Trong quá trình dạy tác phẩm thơ hiện đại thầy (cô) có vận dụng biện phát
phát triển năng lực cảm thụ thẩm mĩ nào không?
A . Có
B. Không
D . Có nhưng ít
4. Theo thầy (cô) nguyên nhân nào dẫn đến học sinh không hứng thú học tác
phẩm thơ hiện đại VN trong SGK 12?
A . Giáo viên sử dụng phương pháp dạy học chưa phù hợp
B . Nội dung , văn hóa và ngôn từ trong tác phẩm khó hiểu
C . Tài liệu về các tác phẩm trên ít và sơ sài .
D. Tất cả các phương án trên
(Xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo!)
Phiếu khảo sát trắc nghiệm với HS:
Họ và tên học sinh: .........................................................................................
Trường: .............................................................................................................
Lớp: .........................................
Các em vui lòng trả lời các câu hỏi sau bằng cách chọn một phương án đúng và
khoanh tròn đáp án mà các em chọn:
Tác phẩm thơ hiện đại VN trong SGK Ngữ văn 12 gồm 5 tác phẩm:
1. Em thấy nội dung các tác phẩm đó như thế nào?
A . Dễ
B . Khó
C . Bình thường
2 .Em có thấy hứng thú khi học tác phẩm đó không?
A . Có
B . Không
3 .Trong giờ học về các tác phẩm thơ hiện đại VN thầy (cô) chú trọng
phát triển năng lực nào của các em?
A . Năng lực tạo lập văn bản
B . Năng lực đọc hiểu văn bản
C . Năng lực giao tiếp
D . Năng lực thưởng thức văn học
4. Sau khi được học và nghiên cứu các tác phẩm thơ đó em thấy cảm xúc
của mình thay đổi như nào?
A . Tự nhận thức được cảm xúc của bản thân
B . Làm chủ được cảm xúc của bản thân
C . Nhận biết được cảm xúc của người khác
D . Biết chủ động điều khiểm cảm xúc của mình , biết giữ những mối
quan hệ tốt với người xung quanh
5.Các em đã hình thành những cảm xúc thẩm mĩ vào lúc nào?
A. Giờ học lý thuyết trên lớp
B. Giờ học ngoại khóa
C. Giờ thực hành
D. Làm bài tập ở nhà.
(Xin trân trọng cảm ơn các em!)