ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ HUYỀN

DẠY HỌC MỘT SỐ VĂN BẢN THƠ TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 12 THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC THẨM MỸ CHO HỌC SINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

THÁI NGUYÊN - 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ HUYỀN

DẠY HỌC MỘT SỐ VĂN BẢN THƠ TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 12 THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC THẨM MỸ CHO HỌC SINH

Ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học bộ môn Văn - Tiếng Việt Mã số: 8140111

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG HỮU BỘI

THÁI NGUYÊN - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự

hướng dẫn khoa học của TS. Hoàng Hữu Bội. Các nội dung nghiên cứu, kết

quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố dưới bất kỳ

hình thức nào.

Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Huyền

i

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn tốt nghiệp cuối khóa,

em đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của các thầy giáo, cô giáo khoa

Ngữ văn, khoa Sau Đại học, Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm Thái

Nguyên. Đặc biệt, với tất cả tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin

chân thành cảm ơn TS. Hoàng Hữu Bội - Người đã hết lòng tận tình hướng dẫn,

giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.

Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào

tạo tỉnh Hải Dương; Các thầy cô trong Ban Giám hiệu và các đồng nghiệp

trường THPT Nam Sách đã giúp đỡ nhiệt tình, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho

em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài này.

Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới những người thân yêu đã luôn bên em,

động viên, khích lệ em trong những ngày học tập ở trường.

Em xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày 13 tháng 6 năm 2018

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Huyền

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii

MỤC LỤC .......................................................................................................... iii

DANH MỤC VIẾT TẮT .................................................................................... iv

DANH MỤC CÁC BẢNG .................................................................................. v

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2

3. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 5

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 5

5. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 6

6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 6

7. Bố cục luận văn ............................................................................................... 7

PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................. 8

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ...... 8

1.1. Cơ sở lý luận .............................................................................................. 8

1.1.1. Khái niệm năng lực và năng lực cảm thụ thẩm mỹ ................................... 8

1.1.2. Vấn đề phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ khi dạy học các văn bản thơ ... 13

1.1.3. Đặc điểm thơ Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến nay ................................ 16

1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 20

1.2.1. Khái quát đặc điểm nội dung và nghệ thuật các văn bản thơ hiện đại

Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 ............................................... 20

1.2.2. Năng lực cảm thụ thẩm mĩ của học sinh đối với các văn bản thơ hiện

đại Việt Nam trong SGK Ngữ văn 12 và các tiêu chí đánh giá năng

lực cảm thụ thẩm mỹ của HS .................................................................. 22

1.2.3. Thực trạng dạy học các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách

giáo khoa Ngữ văn 12 của giáo viên ....................................................... 30

Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 34

iii

Chương 2. ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC CÁC VĂN BẢN THƠ HIỆN

ĐẠI VIỆT NAM TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 12

THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CẢM THỤ THẨM

MỸ CHO HỌC SINH ........................................................................... 35

2.1. Định hướng chung ................................................................................... 35

2.2. Định hướng riêng cho từng bài thơ ......................................................... 36

2.2.1. Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.......................................................... 36

2.2.2. Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu .................................................................. 41

2.2.3. Đoạn trích Đất Nước (Trích trường ca “Mặt Đường khát vọng”) của

Nguyễn Khoa Điềm ................................................................................. 47

2.2.4. Bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh ................................................................ 54

2.2.5. Bài thơ Đàn Ghi ta của Lor-Ca của nhà thơ Thanh Thảo ....................... 59

Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 66

Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM....................................................... 67

3.1. Thiết kế dạy học bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng theo

định hướng dạy học do luận văn đề xuất ................................................. 67

3.2. Dạy học thực nghiệm và đối chứng ở bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng ... 80

3.2.1. Mục đích .................................................................................................. 80

3.2.2. Đối tượng thực nghiệm ............................................................................ 80

3.2.3. Kế hoạch thực nghiệm ............................................................................. 80

3.2.4. Phương pháp tiến hành thực nghiệm ....................................................... 81

3.2.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm ................................................................. 81

3.2.6. Kết luận chung về thực nghiệm ............................................................... 85

Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 87

PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................... 88

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 90

PHỤ LỤC

iv

DANH MỤC VIẾT TẮT

GD : Giáo dục

Gs : Giáo sư

GV : Giáo viên

HS : Học sinh

NL : Năng lực

NXB : Nhà xuất bản

SGK : Sách giáo khoa

T.S : Tiến sĩ

THPT : Trung học phổ thông

TPVC : Tác phẩm văn chương

iv

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Tâm lý HS THPT với các văn bản thơ hiện đại Việt Nam

trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 .................................................. 23

Bảng 1.2. Năng lực cảm thụ các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong

sách giáo khoa Ngữ văn 12 của HS THPT ................................... 27

v

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Về mặt lí luận

Vấn đề dạy học tác phẩm văn chương để làm phát triển năng lực thẩm

mỹ ở học sinh đã được thế hệ ông cha ta nói tới từ lâu.

Từ những năm 80 của thế kỉ trước trong cuốn “Những bài giảng văn ở

Đại học” (NXB Giáo dục - năm 1982), giáo sư Lê Trí Viễn đã viết: “Lâu nay

thường dùng thuật ngữ phát huy trí lực để chỉ việc khơi động học sinh tham gia

xây dựng bài.Trong giờ giảng văn có cái gì cao hơn, rộng hơn. Bởi vì đây không

phải chỉ kêu gọi những tính năng của trí tuệ mà cả con người. Đâu phải chỉ có

phán đoán, suy luận, phân tích, tổng hợp, tưởng tượng tái tạo và sáng tạo, mà còn

lắng mình nghe cho được nhịp đập cảu sự sống nằm im trong chữ nghĩa, để tim

mình rung cảm trở lại cái rung cảm của tác giả, cùng vui, buồn, căm giận, thương

nhớ, đợi chờ, nâng mình lên, xúc cảm với cái đẹp trong hình tượng thơ văn, nghe

nhạc mà thấy mùi hương, nghe tiếng động mà cảm thấy tĩnh mịch, thấy bóng đèn

mà bóng tối hóa thâm u… Tóm lại, đi vào thế giới tinh vi của thơ văn bằng cả con

người thông minh, nhạy cảm, tinh vi của mình” [34, tr.12].

Ngày nay giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ

chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học

cho nên trong việc dạy - học môn Ngữ văn, vấn đề dạy học tác phẩm văn học

làm phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh được đặt ra. Tài liệu Tập

huấn môn Ngữ văn cấp THPT của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2014 có ghi rõ:

“Năng lực cảm thụ thẩm mĩ là năng lực đặc thù của môn học Ngữ văn, gắn với

tư duy hình tượng trong tiếp nhận văn bản văn học. Quá trình tiếp xúc với các

tác phẩm văn chương là quá trình người đọc bước vào thế giới hình tượng của

tác phẩm và thế giới tâm hồn của tác giả từ chính cánh cửa tâm hồn của mình”.

Như vậy, chương trình mới đặt ra một yêu cầu cao hơn trong việc dạy - học tác

phẩm văn chương nói chung và dạy học văn bản thơ nói riêng. Đó là phải hình

1

thành ở học sinh năng lực cảm thụ thẩm mĩ. Đây là vấn đề mới, chúng tôi mạnh

dạn lựa chọn đề tài này với mong muốn đóng góp dù rất nhỏ vào việc đổi mới

phương pháp dạy - học tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ thông theo

yêu cầu của chương trình mới.

1.2. Về mặt thực tiễn

Ngành giáo dục của nước ta đang thực hiện việc chuyển đổi chương trình

từ giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học. Vấn đề này

đang được triển khai ở các trường phổ thông trong tất cả các môn học.

Dạy học TPVC nói chung, dạy học thể loại thơ nói riêng, chương trình mới

đòi hỏi phải hình thành và phát triển cho học sinh năng lực cảm thụ thẩm mỹ.

Khi thực thi đổi mới phương pháp dạy học để hình thành năng lực thẩm

mỹ, giáo viên và học sinh gặp nhiều lúng túng và khó khăn trong cả quá trình

dạy - học. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài này với hi vọng phát hiện ra những lung

túng, khó khăn của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học TPVH theo

hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh. Từ đó đề xuất được

những phương án dạy học cụ thể cho từng văn bản thơ trong SGK Ngữ văn 12

theo yêu cầu của chương trình mới.

2. Lịch sử vấn đề

Dạy học thơ theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học

sinh đã được bàn đến trong các tài liệu sau đây:

2.1. Trong cuốn Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo thể loại của

nhóm tác giả Trần Thanh Đạm, Hoàng Như Mai, Huỳnh Lý, Phan Sĩ Tấn, Đàm

Gia Cẩn có bài viết Thơ và giảng dạy thơ tác giả Trần Thanh Đạm đã đề cập

đến vai trò của thơ: “Tác dụng lớn lao của thơ đối với việc giáo dục con người.

Thơ như là một nghệ thuật của ngôn ngữ cân đối, hài hòa, du dương xưa nay

vốn gần gũi, dễ tiếp nhận, dễ quen thân đối với tâm hồn và trí tuệ của thé hệ

trẻ… thơ là nguồn suối mát phát triển những tư tưởng, tình cảm tốt đẹp cũng

như nhiều năng khiếu quý báu khác về cảm xúc, tưởng tượng, ngôn ngữ… Tóm

2

lại khả năng giáo dục của thơ trong nhà trường cho các lứa tuổi, thật hết sức

phong phú và lớn lao” [9].

Bên cạnh đó, các tác giả cũng chỉ ra những hạn chế: “Tuy nhiên, hiện

nay ở trường phổ thông, ta thấy có hiện tượng các em học sinh còn thờ ơ, lãnh

đạm với thơ. Chúng ta thường hay băn khoăn về phương pháp dạy thơ, nghĩa

là băn khoăn tìm con đường làm cho các em hiểu thơ và yêu thơ. Thầy giáo

phải hiểu thơ, yêu thơ mới làm cho học sinh hiểu và yêu thơ được” [9].

Từ đó tác giả đề cập đến phương pháp dạy học thơ: “Dạy thơ phải phục

tùng những phép tắc và phương pháp của việc dạy một TPVH. Giảng thơ chủ yếu

là giảng hình tượng thơ, qua hình thức để giảng nội dung, làm sống dậy hình

tượng với tất cả vẻ đẹp và chiều sâu của nó. Dạy học thơ là phải đọc diễn cảm và

học thuộc lòng và đặc biệt là ngâm thơ. Ngâm thơ là đọc thơ có yếu tố âm nhạc.

Đó là làn gió nâng đôi cánh thơ bay cao và bay xa trong đời sống" [9].

Xuất phát từ đặc trưng của thơ, thầy giáo phải biết hé ra cho học sinh

thấy thế giới tư tưởng, tình cảm, sống, chứa đựng trong hình tượng ngôn ngữ

lắng đọng và ngân vang của những bài thơ qua lời bình giảng.

2.2. GS. Lê Trí Viễn (Những bài giảng văn ở Đại học - NXB GD, H.1982)

thì cho rằng: “Giảng văn tốt cũng như dạy bất cứ môn gì tốt phải nhằm góp phần

đào tạo con người theo mục tiêu cải cách giáo dục với chức năng của mình. Hơn

bất kỳ môn học nào thì môn Ngữ văn có lợi thế để giáo dục tư tưởng, tình cảm,

giáo dục cái đẹp, đặc biệt là rèn luyện óc thông minh sáng tạo. Giảng văn là một

cơ hội có một không hai để rèn luyện cho HS óc thông minh sáng tạo ấy. Văn thơ

là sự sống đã đọng lại im lìm trong chữ nghĩa. Tìm hiểu và cảm thụ là dựng lại sự

sống ấy. Chỗ nào cũng là phát hiện, suy nghĩ, xúc cảm, chỗ nào cũng là vận dụng

óc thông minh để tái tạo, mà tái tạo là một hình thái sáng tạo” [34, tr.12].

Tác giả cũng cho rằng: đã dạy văn thơ hay là phải dạy được những cái

đó, nói rõ hơn, phải từng bước rèn luyện được cho HS những cái trên. Được

như vậy mới gọi là dạy văn, mới giáo dục được tư tưởng, tình cảm, đạo đức,

3

thẩm mỹ bằng văn thơ. Như vậy là dạy được cái hay, dạy hay là đạt yêu cầu tối

đa của giảng văn tốt.

Cũng theo GS. Lê Trí Viễn (Đến với bài thơ hay - NXB GD, H.2004),

“Cảm thụ văn học là hoạt động nhận thức thẩm mỹ có tính đặc thù. Nó vừa có tính

chủ quan vừa có tính khách quan. Nó là một hoạt động tích cực và sáng tạo của chủ

thể cảm thụ. Nó huy động nhiều năng lực bên trong của con người. Nó đặt yêu cầu

là phải đi tới sự cảm xúc hóa nội dung cảm thụ. Nó cũng đòi hỏi con người vượt

giới hạn của mình để thật sự đạt khoái cảm thẩm mỹ, vô tư” [35, tr.31].

GS cũng cho rằng, đối với người đọc thơ, quá trình từ tri giác ngôn ngữ,

vận dụng vốn sống để liên tưởng, tưởng tượng, cảm xúc, suy tưởng đến khái

quát lên vấn đề của cuộc sống từ tác phẩm là cần nhưng chưa đủ. Phát hiện ra

cái hay nằm ở chỗ nào, vì sao mà hay thì cần phải có một sự lóe sáng, một sự

bùng nổ trong tâm lý cảm thụ…

2.3. Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập

theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn Ngữ văn cấp THPT do Bộ

Giáo dục và Đào tạo phát hành năm 2014 cũng đã nêu ra lý thuyết về dạy học

vượt trội được sử dụng trong giáo dục hiện nay đó là thuyết kiến tạo của J.

Bruner và định hướng thiết kế bài học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực

HS và tiến trình của việc dạy học theo thuyết kiến tạo.

Tư tưởng cốt lõi của thuyết kiến tạo là: con người kiến tạo những sự hiểu

biết và tri thức về thế giới thông qua trải nghiệm và phản ánh… Trong mô hình

kiến tạo, HS được tạo cơ hội để hoạt động trong tiến trình học tập của mình.

Giáo viên đóng vai trò như là người cố vấn, giúp HS phát triển và đánh giá

những hiểu biết về việc học tập của các em, một công việc lớn nhất của GV khi

vận dụng thuyết kiến tạo vào dạy học là biết cách “hỏi những câu hỏi tốt”.

Tiến trình của dạy học kiến tạo bao gồm 3 bước:

Bước 1: Làm bộc lộ quan niệm của HS

Bước 2: Tổ chức điều khiển HS thảo luận

Bước 3: Tổ chức điều khiển HS vận dụng kiến thức

4

Theo tinh thần trên, tài liệu cũng đưa ra việc thiết kế bài học trong tài

liệu hướng dẫn theo mô hình trường học mới VNEN. Theo mô hình VNEN,

thiết kế bài học được biên soạn theo các chủ đề, tổ chức hoạt động cho HS theo

5 bước, bao gồm:

Bước 1: Hoạt động trải nghiệm

Bước 2: Hoạt động hình thành kiến thức mới

Bước 3: Hoạt động thực hành

Bước 4: Hoạt động ứng dụng

Bước 5: Hoạt động bổ sung

Trong mỗi chủ đề, các đơn vị kiến thức có mối quan hệ chặt chẽ với

nhau theo một hệ thống gồm các hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm; hoạt

động của GV và gia đình. Mỗi hoạt động trong tiến trình học tập được xây

dựng với mục tiêu, nội dung và cách thức cụ thể.

Định hướng thiết kế bài học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực cho

HS cấp THPT trên là một hướng đi mới. Tham khảo định hướng này là một việc

làm cần thiết để đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường THPT hiện nay.

3. Mục đích nghiên cứu

Phát hiện những khả năng tác động của các tác phẩm thơ đến cảm xúc

thẩm mỹ của người đọc. Từ đó khơi dậy năng lực cảm thụ thẩm mỹ của HS.

Phát hiện những khó khăn, lúng túng của giáo viên và học sinh khi dạy

học các tác phẩm thơ trong SGK Ngữ văn 12 theo hướng phát triển năng lực

cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh.

Trên cơ sở đó đề xuất phương án dạy học cho từng văn bản thơ trong

SGK Ngữ văn lớp 12 theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho

học sinh.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng: Phương pháp dạy học các văn bản thơ trong SGK Ngữ văn

12 theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh.

5

Phạm vi nghiên cứu: 05 văn bản thơ trong SGK Ngữ văn 12, bao gồm:

1. Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng.

2. Bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu.

3. Đoạn trích “Đất Nước” (Trích Trường ca Mặt đường khát vọng) của

Nguyễn Khoa Điềm.

4. Bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh.

5. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” của Thanh Thảo.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài có 3 nhiệm vụ sau:

- Nghiên cứu vấn đề trên bình diện lý thuyết:

+ Khái niệm năng lực, năng lực cảm thụ thẩm mỹ

+ Vấn đề dạy các văn bản thơ theo hướng phát triển năng lực cảm thụ

thẩm mỹ.

+ Vấn đề đặc điểm thơ Việt Nam đương đại.

- Nghiên cứu, khảo sát thực tiễn:

+ Khảo sát đặc điểm các văn bản thơ SGK Ngữ văn 12.

+ Khảo sát năng lực cảm thụ thẩm mỹ của học sinh đối với các văn bản

thơ SGK Ngữ văn 12.

+ Khảo sát thực trạng dạy - học của Giáo viên với các văn bản thơ trong

SGK Ngữ văn 12.

- Thực nghiệm sư phạm gồm:

+ Thiết kế bài học

+ Dạy học thực nghiệm đối chứng.

6. Phương pháp nghiên cứu

6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết

- Phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa các vấn đề lí luận.

- So sánh, đối chiếu.

6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

- Điều tra, khảo sát, thống kê, phân loại

- Thực nghiệm sư phạm.

6

7. Bố cục luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:

- Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài.

- Chương 2: Định hướng dạy học các văn bản thơ hiện đại trong SGK

Ngữ văn 12 theo hướng phát triển năng lực học sinh.

- Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.

7

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Cơ sở lý luận

1.1.1. Khái niệm năng lực và năng lực cảm thụ thẩm mỹ

1.1.1.1. Khái niệm “năng lực”

“Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên (NXB Đà Nẵng, 1998) có giải

thích: Năng lực là “Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực

hiện một hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả

năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao” [26].

Trong Tài liệu tập huấn việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định

hướng phát triển năng lực của học sinh do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát hành

năm 2014 thì “Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có

tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân…

nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh

nhất định” [40, tr.49]. Năng lực thể hiện sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố

(phẩm chất của người lao động, kiến thức và kỹ năng) được thể hiện thông qua

các hoạt động của cá nhân nhằm thực hiện một loại công việc nào đó. Năng lực

bao gồm các yếu tố cơ bản mà mọi người lao động, mọi công dân đều cần phải

có, đó là các năng lực chung, cốt lõi”. Định hướng chương trình giáo dục phổ

thông (GDPT) sau năm 2015 đã xác định một số năng lực những năng lực cốt

lõi mà học sinh Việt Nam cần phải có như:

- Năng lực làm chủ và phát triển bản thân, bao gồm:

+ Năng lực tự học;

+ Năng lực giải quyết vấn đề;

+ Năng lực sáng tạo;

+ Năng lực quản lí bản thân.

8

- Năng lực xã hội, bao gồm:

+ Năng lực giao tiếp;

+ Năng lực hợp tác.

- Năng lực công cụ, bao gồm:

+ Năng lực tính toán;

+ Năng lực sử dụng ngôn ngữ;

+ Năng lực ứng dụng công nghệ thông tin (ITC).

Như vậy có thể hiểu một cách ngắn gọn năng lực là khả năng vận dụng tất

cả những yếu tố chủ quan (mà bản thân có sẵn hoặc được hình thành qua học

tập) để giải quyết các vấn đề trong học tập, công tác và cuộc sống.

Các năng lực mà môn học Ngữ văn hướng đến bao gồm:

. Năng lực sáng tạo

. Năng lực giải quyết vấn đề

. Năng lực hợp tác

. Năng lực tự quản bản thân

. Năng lực giao tiếp tiếng Việt

. Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mỹ

Trong cuốn Lý luận dạy học hiện đại, các nhà nghiên cứu Bernd Meier và

Nguyễn Văn Cường cho rằng: Chương trình dạy học định hướng năng lực

không quy định những nội dung dạy học chi tiết mà quy định những kết quả

đầu ra mong muốn của quá trình đào tạo, trên cơ sở đó đưa ra những hướng dẫn

chung về việc lựa chọn nội dung, phương pháp, tổ chức và đánh giá kết quả dạy

học nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu dạy học, tức là đạt được kết quả đầu ra

mong muốn. Trong chương trình định hướng năng lực, mục tiêu học tập - tức là

kết quả học tập mong muốn thường được mô tả thông qua hệ thống các năng

lực. Kết quả học tập mong muốn được mô tả chi tiết và có thể quan sát, đánh

giá được [4]. Với nội dung, yêu cầu và cách vận hành như vậy, chương trình

giáo dục định hướng năng lực có ưu thế trong việc quản lý chất lượng sản phẩm

đào tạo ở đầu ra - tức năng lực vận dụng vào thực tiễn của HS.

9

Các tác giả của Từ điển giáo dục thì quan niệm “Năng lực là khả năng

được hình thành hoặc phát triển, cho phép con người đạt được thành công

trong một hoạt động thể lực, trí tuệ hoặc nghề nghiệp” [26].

Nhìn chung các quan niệm về năng lực đều giống nhau ở một điểm là khi

nói tới năng lực là nói tới kiến thức, kỹ năng và khả năng huy động các kiến

thức, kỹ năng đó để giải quyết thành công các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Một

người được xem là có năng lực phải là người có khả năng giải quyết thành công

các vấn đề trong cuộc sống thuộc lĩnh vực đang nói tới.

Trong bài viết Phác thảo chương trình Ngữ văn theo định hướng phát

triển năng lực, PGS.TS Bùi Mạnh Hùng cho rằng: "Môn Ngữ văn giúp HS phát

triển các năng lực và phẩm chất tổng quát và đặc thù, góp phần thực hiện mục

tiêu giáo dục của nhà trường Phổ thông nói chung. Năng lực tư duy, năng lực

tưởng tượng và sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự học là những năng lực

tổng quát, liên quan đến nhiều môn học. Năng lực sử dụng ngôn ngữ và năng

lực thẩm mỹ mà chủ yếu là cảm thụ văn học là những năng lực đặc thù, trong

đó năng lực sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và tư duy đóng vai trò hết sức quan

trọng trong học tập của học sinh và công việc của các em trong tương lai, giúp

các em nâng cao chất lượng cuộc sống. Đồng thời với quá trình giúp HS phát

triển các năng lực tổng quát và đặc thù, môn Ngữ văn có sứ mạng giáo dục

tình cảm và nhân cách cho người học" [14].

Như vậy, muốn đánh giá một năng lực nào đó cần đánh giá hai vấn đề:

Một là kiến thức, kỹ năng; hai là khả năng sử dụng các kiến thức, kỹ năng đó

để giải quyết các vấn đề có liên quan đến cuộc sống.

1.1.1.2. Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mỹ

Đây là một trong các năng lực mà môn học Ngữ văn hướng đến. Năng lực

cảm thụ thẩm mỹ thể hiện khả năng của mỗi cá nhân trong việc nhận ra được

các giá trị thẩm mỹ của sự vật, hiện tượng, con người và cuộc sống, thông qua

những cảm nhận, rung động trước cái đẹp và cái thiện, từ đó biết hướng những

10

suy nghĩ, hành vi của mình theo cái đẹp, cái thiện. Như vậy, năng lực cảm thụ

(hay năng lực trí tuệ xúc cảm) thường dùng với hàm nghĩa nói về các chỉ số

cảm xúc của mỗi cá nhân. Chỉ số này mô tả khả năng tự nhận thức để xác định,

đánh giá và điều tiết cảm xúc của chính mỗi người, của người khác, của các

nhóm cảm xúc.

Năng lực cảm xúc thẩm mỹ được thể hiện ở một số nội dung sau:

- Nhận thức được các cảm xúc của bản thân

Ý thức về bản thân - tức là có thể nhận biết các xúc cảm của mình - là cơ sở

của năng lực cảm xúc. Năng lực này có ý nghĩa căn bản đối với sự hiểu biết bản

thân và trực giác tâm lý. Những người không tự biết về những gì mình cảm nhận

sẽ thường phó mặc cho tình cảm của mình. Trái lại, những người biết làm cho

cuộc sống của mình tốt hơn sẽ thấy rõ được những hậu quả sâu xa trong các quyết

định của mình, dù đó là lựa chọn người bạn đời hay sự lựa chọn nghề nghiệp.

- Làm chủ các cảm xúc của bản thân

Đó là năng lực làm cho những tình cảm của mình thích nghi với mỗi hoàn

cảnh, điều này phụ thuộc vào sự tự ý thức về bản thân. Năng lực này giúp mỗi

người biết cách tự trấn an tinh thần của mình trong những tình huống căng

thẳng hoặc những thử thách của cuộc sống, thoát khỏi sự chi phối của lo âu,

buồn rầu và giận dữ, cũng như thấy được hậu quả tiêu cực của tình trạng tiêu

cực không đạt tới điều đó. Những người có năng lực làm chủ bản thân có thể

chấp nhận và vượt qua được một cách tốt nhất những thất bại và những sự trái

ý mà cuộc đời dành cho mình, biết ứng xử hết sức có hiệu quả trong mọi lĩnh

vực của cuộc sống, đồng thời biết thể hiện tình cảm, cảm xúc của bản thân phù

hợp trong những hoàn cảnh giao tiếp.

- Nhận biết các cảm xúc của người khác và những biểu hiện của cuộc

sống từ phương diện thẩm mỹ.

Sự đồng cảm, nhạy cảm trước những trạng thái cảm xúc của người khác

xuất phát từ ý thức về bản thân là yếu tố căn bản tạo nên mối quan hệ tương tác

11

giữa cá nhân và những người xung quanh. Những người đồng cảm biết tiếp

nhận hết sức nhanh nhạy những tín hiệu mà qua đó cho thấy nhu cầu và mong

muốn của người khác, cũng như sự nhạy cảm và sự tương giao giữa cảm xúc

của cá nhân với những biến thái rất tinh tế của các hình ảnh cuộc sống. Đó là

những người biết “Thương người như thể thương thân”, luôn biết “Mở lòng

đón lấy những vang động của cuộc sống”, biết thể hiện những tình cảm, thái độ

phù hợp trước những biểu hiện của cái đẹp, cái thiện cũng như cái ác, cái xấu

trong cuộc sống.

- Làm chủ những liên hệ, những giá trị của con người và cuộc sống

Luôn biết giữ những liên hệ tốt với những người xung quanh, đó chính là

biết chủ động điều khiển các cảm xúc của mình. Những người biết làm cho

mình có được sự cảm mến của mọi người, biết lãnh đạo và định hướng một

cách có hiệu quả những mối liên hệ của mình với người khác đều có sự làm chủ

cảm xúc ở mức cao nhất. Đó cũng là những người biết nhận thức được những

giá trị sống từ phương diện thẩm mỹ, biết hành động vì những gì tốt đẹp trong

môi trường sống của mình. Đây chính là yếu tố quan trọng tạo nên thành công

của mỗi người trong cuộc sống.

Năng lực cảm thụ thẩm mỹ là năng lực đặc thù của môn học Ngữ văn, gắn

với tư duy hình tượng trong việc tiếp nhận văn bản văn học. Quá trình tiếp xúc

với tác phẩm văn chương là quá trình người đọc bước vào thế giới hình tượng

của tác phẩm và thế giới tâm hồn của tác giả từ chính cánh cửa tâm hồn của

mình. Năng lực cảm xúc, như trên đã nói, được thể hiện ở nhiều khía cạnh;

trong quá trình người học tiếp nhận tác phẩm văn chương năng lực cảm xúc

được thể hiện ở những phương diện sau:

- Cảm nhận vẻ đẹp của ngôn ngữ văn học, biết rung động trước những

hình ảnh, hình tượng được khơi gợi trong tác phẩm về thiên nhiên, con người,

cuộc sống qua ngôn ngữ nghệ thuật.

12

- Nhận ra được những giá trị thẩm mỹ được thể hiện trong tác phẩm văn

học: cái đẹp, cái xấu, cái hài, cái bi, cái cao cả, cái thấp hèn,… từ đó cảm nhận

được những giá trị tư tưởng và cảm hứng nghệ thuật của nhà văn được thể hiện

qua tác phẩm.

- Cảm hiểu được những giá trị của bản thân qua việc cảm hiểu tác phẩm văn

học; hình thành và nâng cao nhận thức và xúc cảm thẩm mỹ của cá nhân; biết cảm

nhận và rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên, con người, cuộc sống; có những

hành vi đẹp đối với bản thân và các mối quan hệ xã hội; hình thành thế giới quan

thẩm mỹ cho bản thân qua việc tiếp nhận tác phẩm văn chương.

Từ việc tiếp xúc với các văn bản văn học, HS sẽ biết rung động trước cái

đẹp, biết sống và hành động vì cái đẹp, nhận ra cái xấu và phê phán những

hiện tượng, biểu hiện không đẹp trong cuộc sống, biết đam mê và mơ ước cho

cuộc sống tốt đẹp hơn.

Như vậy, quá trình dạy học Ngữ văn đồng thời giúp HS hình thành và phát

triển các năng lực đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội, thông qua việc rèn

luyện và phát triển các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói. Trong quá trình hướng dẫn

HS tiếp xúc với văn bản, môn Ngữ văn còn giúp HS từng bước hình thành và

nâng cao các năng lực học tập của môn học, cụ thể là năng lực tiếp nhận văn

bản (gồm kỹ năng nghe và đọc) và năng lực tạo lập văn bản (gồm kỹ năng nói

và viết).

1.1.2. Vấn đề phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ khi dạy học các văn bản thơ

Từ điển Văn học (bộ mới) (NXB Thế giới. 1998), tác giả Lại Nguyên Ân

cho rằng: Tiếp nhận thẩm mỹ là một dạng thức hoạt động thẩm mỹ, được thực

hiện ở dạng tiếp nhận (thưởng thức, cảm thụ) tác phẩm nghệ thuật với tư cách

một giá trị thẩm mỹ. Tiếp nhận thẩm mỹ không phải là sự tái hiện giản đơn tác

phẩm nghệ thuật trong ý thức, mà là một quá trình phức tạp: quá trình cùng

tham dự và cùng sáng tạo của chủ thể. Khác với hoạt động thẩm mỹ của nghệ

sỹ - người sáng tạo tác phẩm nghệ thuật, tiếp nhận thẩm mỹ không mang tính

13

công nghệ và nó vận hành theo hướng ngược: từ việc tiếp nhận kết quả (tác

phẩm nghệ thuật nói chung) đi đến tiếp nhận các ý tưởng chứa đựng trong đó.

Giữa tác phẩm và chủ thể tiếp nhận bao giờ cũng có một sự gián cách thẩm mỹ:

phải ý thức rằng trước mắt chỉ là sự miêu tả thực tại chứ không phải là bản thân

thực tại. Để vượt qua sự gián cách, ở chủ thể tiếp nhận phải có một trạng thái

tâm lý nhất định (tâm thế thẩm mỹ) để vừa cảm nhận tác phẩm nghệ thuật như

có thể là thực tại, đồng thời vừa không quên tính ước lệ của nó. Tiếp nhận thẩm

mỹ, vì vậy, mang tính hai chiều (tiếng Pháp: ambivalent): chủ thể tiếp nhận vừa

tin vừa không tin vào tính thực tại của cái được miêu tả [1].

Tiếp nhận thẩm mỹ được xác định phần lớn bởi tác phẩm nghệ thuật: tác

phẩm không chỉ là nguồn thông tin nghệ thuật chủ yếu, mà còn đề ra phương

thức “đọc”, “dịch” nó sang bình diện cảm xúc - hình tượng của chủ thể.

Tính phức tạp của tiếp nhận thẩm mỹ là ở chỗ các ý tưởng của tác phẩm

không thể dịch sang bình diện lời nói, khái niệm (theo lối nói hình ảnh của

Hêminguê, nó giống như 7/8 phần của tảng băng trôi bị chìm dưới nước). Đặc

tính trên là căn cứ để chủ nghĩa tượng trưng xây dựng quan niệm của họ, theo

đó tư tưởng thẩm mỹ bao giờ cũng tiềm ẩn so với ý thức thường ngày. Tuy

nhiên, ở văn bản nghệ thuật, ở hệ thống các phương tiện biểu hiện bao giờ cũng

có khóa mã cho phép giải ra các hàm nghĩa kín đáo của nó. Việc thâm nhập vào

hàm nghĩa của tác phẩm nghệ thuật còn phụ thuộc vào năng lực thẩm mỹ của

chủ thể, vào trình độ phát triển về tình cảm thẩm mỹ ở chủ thể tiếp nhận.

Tính chọn lọc và chiều sâu của tiếp nhận thẩm mỹ bị quy định bởi trạng

thái văn hóa xã hội, bởi tiềm năng văn hóa chung của cá nhân.

Sản phẩm của tiếp nhận thẩm mỹ là một hình tượng và một hàm nghĩa

“thứ sinh”, có thể trùng hoặc không trùng với hình tượng và tư tưởng mà tác

giả trù định.

Có thể phân chia một số điểm chủ chốt trong quá trình tiếp nhận thẩm mỹ:

- Tâm thế hướng vào tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật;

- Cảm xúc sơ bộ từ việc tiếp xúc với nó;

14

- Vui mừng nhận ra ở tác phẩm cái hình tượng chờ đợi, phát triển nó trên

cơ sở liên tưởng với các ý niệm hợp với kinh nghiệm sống và kinh nghiệm văn

hóa của chủ thể.

Do chỗ hình tượng nghệ thuật không bao giờ hoàn toàn phù hợp với sự

chờ đợi của chủ thể, cho nên sự nhận ra bao giờ cũng mang dạng thức một trò

chơi độc đáo: chiếm lĩnh hình tượng nghệ thuật của “kẻ khác” và truyền xúc

cảm của mình vào hình tượng ấy.

Trong trường hợp thông tin nghệ thuật vượt quá sự chờ đợi của chủ thể,

khi đó hoặc là sự tiếp nhận thẩm mỹ bị phá vỡ (chủ thể đánh giá tác phẩm là kỳ

quặc, lố lăng, phi lý, kém cỏi), hoặc là trên cơ sở tăng cường óc tưởng tượng, ở

chủ thể tiếp nhận sẽ hình thành một hình tượng - cảm xúc mới, trong đó tư

tưởng mà nghệ sĩ gửi vào tác phẩm sẽ được khám phá như mới nảy sinh.

Điểm cao nhất của tiếp nhận thẩm mỹ đi kèm với một cảm xúc thẩm mỹ

sâu sắc, có thể gọi là thanh lọc (catharsis), theo thuật ngữ Arixtôt. Hoàn tất quá

trình tiếp nhận thẩm mỹ là phán đoán thẩm mỹ.

Tiếp nhận thẩm mỹ không bao giờ có dạng khai triển; nó có thể dừng lại ở

cảm xúc sơ bộ hoặc ở mức nhận ra những hình tượng quen thuộc, nhưng có thể

đạt tới một độ căng cao, khi chủ thể cảm nhận niềm vui chẳng những do cái

hàm nghĩa được anh ta khám phá, mà còn do bản thân hành vi khám phá ấy.

Với lý thuyết tiếp nhận thẩm mỹ như thế, việc phát triển năng lực cảm thụ

thẩm mỹ trong dạy học Ngữ văn nói chung, dạy học các văn bản thơ nói riêng

là rất quan trọng. Đó chính là chìa khóa để mở tâm hồn, mang đến sự đồng điệu

và đưa học sinh đến với thế giới của Chân - Thiện - Mỹ, đúng như mục tiêu của

môn học.

Hơn nữa, thơ lại là một thể loại hội tụ của cảm xúc, sự thăng hoa trong

sáng tạo của người nghệ sĩ, phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ khi dạy học

các văn bản thơ chính là đưa người học vào thế giới tâm hồn của nhà thơ, để

cảm nhận những không gian của cái đẹp, đắm mình trong cảm xúc…

15

Trong xu thế mới của đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục, chúng ta

đang mở ra hướng lấy người học là trung tâm, phát triển các năng lực của

người học trong lĩnh hội tri thức, việc phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho

học sinh khi dạy học các văn bản thơ là hướng đi thiết thực dù còn nhiều trăn

trở, khó khăn. Muốn phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ trong dạy học các

văn bản thơ trong SGK Ngữ văn 12, trước hết phải hiểu đặc điểm của thơ Việt

Nam giai đoạn từ 1945 đến nay.

1.1.3. Đặc điểm thơ Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến nay

Từ sau cách mạng tháng Tám 1945, lịch sử dân tộc đã bước sang trang

mới, mở ra kỉ nguyên độc lập, tự do. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền văn học

cũng có sự chuyển mình kì diệu. Thơ ca tràn đầy cảm hứng lãng mạn công dân,

lòng yêu nước là tình cảm bao trùm và sâu rộng nhất, nó gắn bó mọi con người

Việt Nam trong khối thống nhất của tình đồng bào đã có từ ngàn xưa, nay lại

càng thêm thắm thiết trong cách mạng và kháng chiến. Trong thơ, tình cảm ấy

được thể hiện cụ thể thành muôn nghìn trạng thái. Lòng yêu nước cũng đi liền

với lòng căm giặc cướp nước, ý chí chiến đấu và chủ nghĩa anh hùng trong

cuộc kháng chiến, tinh thần lạc quan vượt lên mọi gian khổ, hi sinh. Lòng yêu

nước còn được thể hiện bằng lòng tự hào dân tộc và niềm tin vào chiến thắng.

Kế tiếp tinh thần ấy trong lịch sử, ở thời đại cách mạng giải phóng cho quần

chúng thì lòng tự hào dân tộc luôn gắn liền với ý thức làm chủ của nhân dân.

Đặc điểm thơ ca từ 1945 đến 1975

Thơ hướng vào thể hiện hình ảnh quần chúng nhân dân qua hình tượng cái

tôi trữ tình quần chúng và các nhân vật trữ tình. Cách mạng không chỉ giải

phóng cho đông đảo quần chúng nhân dân mà phải dựa hẳn vào lực lượng quần

chúng, phát huy sức mạnh vĩ đại và tiềm năng cách mạng của quần chúng để

thực hiện được sự nghiệp lớn lao.

Thơ kháng chiến đã tạo nên sự thay đổi về quan niệm thẩm mỹ và chất

liệu thi ca. Cách mạng và kháng chiến đưa thơ trở về hiện thực đời sống của đất

16

nước và nhân dân, giúp các nhà thơ tìm thấy chất thơ trong cuộc sống hàng

ngày, trong sinh hoạt, lao động và đấu tranh của quần chúng. Nhà thơ của thời

đại mới trước hết cũng là một công dân, một cán bộ, hay chiến sĩ, sống với

cuộc đời thực, với mọi gian khổ, buồn vui, lo lắng, hi vọng của con người

kháng chiến, cùng với đông đảo mọi người.

Về hình thức thể loại thơ kháng chiến sử dụng phổ biến các thể thơ có

nguồn gốc dân gian, dân tộc, đồng thời phát triển thể thơ tự do và lối thơ hợp

thể. Theo hướng dân tộc và đại chúng, thơ đã tìm về với các thể thơ quen thuộc

của dân gian và dân tộc, như lục bát, bốn tiếng, năm tiếng. Lục bát trong giai

đoạn này nghiêng về phía ca dao hơn là kế tục truyền thống lục bát cổ điển hay

Thơ Mới. Tố Hữu là nhà thơ vận dụng thành thục thể thơ lục bát ca dao mà

đỉnh cao là bài thơ Việt Bắc.

Cùng với sự biến đổi căn bản về nội dung tư tưởng, cảm xúc thì ngôn ngữ

thơ kháng chiến tất yếu cũng có những biến đổi mạnh mẽ so với ngôn ngữ thơ

thời kì trước cách mạng. Xu hướng chung là đưa ngôn ngữ thơ phát triển về

phía hiện thực đời sống, trước hết là đời sống lao động, đấu tranh của quần

chúng nhân dân, về gắn với tiếng nói hàng ngày, tự nhiên, bình dị, sinh động.

Cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước để giải phóng miền Nam, bảo vệ

miền Bắc kéo dài hơn mười năm với nhiều giai đoạn và diễn biến phức tạp, với

nhũng hi sinh to lớn và thắng lợi trọn vẹn, xứng đáng là một trong những cuộc

kháng chiến vĩ đại nhất trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc ta. Như

một lẽ tất yếu trong truyền thống văn học dân tộc, thơ đã trở thành vũ khí tinh

thần, thành sức mạnh tham gia vào cuộc chiến đấu, gắn bó với vận mệnh của

dân tộc, nhân dân. Chủ đề kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước dường

như là sự vận động tự nhiên, liên tục của nền thơ. Giặc Mỹ càn phá miền Bắc

đã chạm đến tình cảm sâu xa và thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam, làm

bừng dậy sức mạnh lớn lao của lòng yêu nước, tinh thần dân tộc. Những tình

cảm lớn lao ấy đã trở thành nguồn mạch dồi dào cho cảm hứng thơ ca.

17

Thơ kháng chiến chống Mỹ mang những tình cảm lớn lao bao tùm trong

đời sống tinh thần của con người thời đại chống Mỹ cứu nước. Chủ nghĩa yêu

nước là nguồn động lực tinh thần lớn nhất của mọi người, cũng là nguồn cảm

hứng bao trùm và thấm sâu trong mọi tác phẩm thi ca. Chủ nghĩa yêu nước đã

được phát triển đến những chiều cao và độ sâu mới, phong phú, đa dạng. Tiếng

gọi Tổ quốc vang lên không chỉ cảm nhận bằng tình cảm, thơ còn phát hiện

khám phá về Tổ quốc bằng nhận thức sâu sắc của lí trí, tư tưởng của thời đại.

Vì thế Đất nước được nhìn từ không gian địa lí, lịch sử, văn hóa; Đất nước

cũng ở ngay trong những gì hết sức gần gũi thân thuộc với mỗi chúng ta

(Trường ca Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm). Thơ chống Mỹ dã xây

dựng được nhiều hình tượng đẹp về con người Việt Nam. Nhận thức về đất

nước luôn gắn liền với nhận thức về nhân dân, đó là nét nổi bật trong chủ nghĩa

yêu nước thời kì này. Tư tưởng đất nước nhân dân đã thấm sâu vào cái nhìn của

các nhà thơ khi nói về Đất nước. Nhân dân là vô vàn những con người bình

thường, vô danh, thầm lặng “Không ai nhớ mặt đặt tên” làm nên đất nước

(Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Duy, Dương Hương Ly).

Không chỉ vậy, thơ kháng chiến chống Mỹ còn tập trung xây dựng hai loại

hình tượng cái “Tôi” trữ tình: Cái tôi sử thi và cái tôi thế hệ.

Cái Tôi sử thi xuất hiện trong thời kì kháng chiến chống Pháp và được tiếp

tục ở những năm hòa bình, đến kháng chiến chống Mĩ, đã trở thành hình tượng

cái Tôi trữ tình chủ đạo. Cái Tôi sử thi tạo cho nhà thơ tâm thế trữ tình cao rộng

và tư cách phát ngôn cho cả dân tộc, đất nước, nhân dân.Tuy vậy cái tôi đó vẫn

thể hiện ở hai bình diện: Một mặt đại diện cho dân tộc, đất nước; một mặt nhà

thơ thể hiện cái nhìn riêng bằng lòng thành kính, tự hào. Nhờ sự kết hợp hai

bình diện đó mà cái Tôi sử thi trong thời kì chống Mĩ tuy rất thống nhất nhưng

không đơn điệu, không hoàn toàn thủ tiêu cái tôi tác giả. Vì thế bản sắc, cá tính

của mỗi nhà thơ vẫn được bộc lộ, phát huy.

18

Cùng với đó là cái Tôi thế hệ là dạng thức tiêu biểu cho cái tôi trữ tình

trong cá nhà thơ trẻ thời chống Mĩ. Các nhà thơ trẻ cùng mang tiếng nói tự ý

thức, tự nguyện nhập cuộc. Họ đều ý thức rõ ràng về thế hệ mình và về tính

chất đại diện cho tiếng nói thế hệ của thơ mình. Họ thấu hiểu trách nhiệm và sứ

mệnh của mình.

“Lớp tuổi hai mươi, ba mươi điệp trùng áo lính

Trùng điệp áo màu xanh là tiếng trả lời”. (Thanh Thảo)

Cái tôi thế hệ được thể hiện trong những con người cụ thể, tiêu biểu cho

thế hệ ấy và đây là đóng góp xuất sắc của các nhà thơ trẻ vào việc xây dựng

hình tượng nghệ thuật về con người Việt Nam của thời đại chống Mĩ.

“Không có sách chúng tôi làm ra sách

Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình.” (Hữu Thỉnh)

Một đặc điểm nữa của thơ kháng chiến là tăng cường tính chính luận, nội

dung chính trị đã thâm nhập và chi phối mạnh mẽ mọi lĩnh vực đời sống kể cả

thơ. Nhằm đề cập và giải đáp những vấn đề mang ý nghĩa chính trị, thơ tìm đến

khuynh hướng trữ tình chính trị và sự tăng cường yếu tố chính luận. Nhà thơ

vừa như một nhà tuyên truyền, cổ động, lại vừa như một nhà suy tưởng, nhà

nghệ sĩ để phát hiện, khám phá và say mê khẳng định Tổ quốc, dân tộc, nhân

dân, thời đại. Những nhà thơ tiêu biểu không thể không kể đến là Chế Lan

Viên, Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm và nhiều nhà thơ khác.

Khuynh hướng vận động thơ 1945 - 1975 tăng cường chất liệu hiện thực

nhằm đưa thơ gắn với đời sống thực, tăng cường tính khái quát, triết lí, suy

tưởng trong thơ. Về hình thức nghệ thuật, thơ 1945 -1975 kế thừa hình thức thơ

ca dân gian, dân tộc và tự do hóa hình thức thơ.

Đặc điểm thơ ca từ sau 1975

Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, kháng chiến chống Mĩ vẫn là nguồn

cảm hứng lớn nhất của thơ. Cảm hứng sử thi vẫn là nền tảng của những trường

ca và nhiều bài thơ về đề tài chiến tranh. Các nhà thơ như Tố Hữu, Xuân Diệu,

19

Thanh Thảo, Hữu Thỉnh… đã mang đến diện mạo mới trong khái quát lịch sử

hào hùng của dân tộc, chiêm nghiệm về lịch sử qua những trải nghiệm của

chính thế hệ mình.

Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã thúc đẩy tinh thần dân chủ và sự

phát triển mạnh mẽ ý thức cá nhân trong văn học. Thơ ở thời kì này thể hiện

khát vọng đào sâu vào bản ngã, vào con người bên trong con người, đặc biệt là

thế giới tâm linh, những vùng mở của tiềm thức, cũng trong tinh thần dân chủ

ấy mà nhiều xu hướng thơ được nảy nở, nhiều thể nghiệm mạnh bạo được ra

mắt công chúng. Quan niệm thơ có nhiều biến đổi và ý thức cách tân thơ ngày

càng mạnh mẽ đã đem lại sự độc đáo, xu hướng hiện đại từ bóng dáng thơ siêu

thực đến thứ thứ thơ vụt hiện, thơ như trò chơi của ngôn từ.

Khuynh hướng trong thơ từ sau 1975 là tiếp tục mạch cảm hứng sử thi,

nhưng thiên về bi tráng và gắn với những trải nghiệm cá nhân, thơ hướng vào

đời sống thế sự và trở về với cái tôi cá nhân, thơ đi sâu vào vùng tâm linh, vô

thức và đưa thơ theo hướng tượng trưng siêu thực.Về hình thức nghệ thuật, thơ

vượt ra khỏi truyền thống duy cảm để đưa thơ về gần với văn xuôi, triết học,

hoặc đưa thơ sang địa hạt của tâm linh, vô thức. Tự do hóa triệt để về hình thức

thơ cũng là điểm nổi bật trong thơ sau 1975.

1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Khái quát đặc điểm nội dung và nghệ thuật các văn bản thơ hiện đại

Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12

* Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng:

Nội dung: Cảm nhận độc đáo về bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc và hình

tượng người lính Tây Tiến qua dòng hồi ức của nhà thơ. Qua đó, nhà thơ góp phần

làm nên bức tượng đài về người lính chống Pháp trong thơ ca Việt Nam.

Nghệ thuật: Bút pháp lãng mạn kết hợp với tả thực, những sáng tạo độc

đáo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu.

20

* Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Nội dung: Cảm nhận một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh

hùng, nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với thiên

nhiên đồng bào Việt Bắc. Khẳng định niềm tin vào Đảng, cách mạng và nhen

lên tình yêu quê hương đất nước của mỗi người Việt Nam.

Nghệ thuật: Hình thức nghệ thuật mang đậm tính dân tộc, giọng điệu ngọt

ngào, sâu lắng. Thể hiện nổi bật phong cách trữ tình, chính trị của nhà thơ Tố Hữu.

* Đoạn trích Đất Nước (Trích trường ca Mặt đường khát vọng) của

Nguyễn Khoa Điềm

Nội dung: Cái nhìn mới mẻ về Đất nước qua cách cảm nhận của nhà thơ. Đất

nước là sự hội tụ, kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân dân. Nhân dân là

người làm ra Đất nước. Tư tưởng đầy tính nhân văn và có ý nghĩa thời đại.

Nghệ thuật: Nổi bật giọng thơ trữ tình - chính luận của Nguyễn Khoa

Điềm, sự vận dụng sáng tạo nhiều yếu tố văn hóa, văn học dân gian làm sáng tỏ

thêm tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”.

*Bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

Nội dung: Vẻ đẹp tâm hồn và niềm khao khát hạnh phúc mãnh liệt của

người phụ nữ trong tình yêu.

Nghệ thuật: Nổi bật sáng tạo trong xây dựng hình ảnh, kết cấu, tạo nhịp

điệu và ngôn ngữ giàu cảm xúc.

*Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo

Nội dung: Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng Lor-ca và mạch cảm xúc, suy tư

đa chiều vừa sâu sắc vừa mãnh liệt của nhà thơ. Bài thơ toát lên giá trị nhân

văn, hun đúc lí tưởng sống cao đẹp: sống có ích và cống hiến hết mình cho Đất

nước, dân tộc.

Nghệ thuật: Phong cách thơ tượng trưng siêu thực. Độc đáo trong hình

thức biểu đạt thơ tự do hiện đại mới mẻ. Thể hiện sự cách tân đào sâu vào cái

tôi nội cảm, xóa bỏ những ràng buộc khuôn sáo.

21

1.2.2. Năng lực cảm thụ thẩm mĩ của học sinh đối với các văn bản thơ hiện

đại Việt Nam trong SGK Ngữ văn 12 và các tiêu chí đánh giá năng lực cảm

thụ thẩm mỹ của HS

Tiếp nhận văn học là quá trình tìm hiểu, lĩnh hội giá trị của tác phẩm từ

những thời đại lịch sử. Đây chính là điều khó khăn cho HS trong quá trình tiếp

nhận văn học. Các văn bản văn học thường tái hiện hoàn cảnh xã hội, không

khí của thời đại… với sự ít ỏi về hiểu biết, vốn sống, kinh nghiệm, học sinh gặp

những trở ngại đặc biệt khi tiếp nhận giá trị thẩm mĩ của các tác phẩm.

Mặt khác, quá trình phát triển của đất nước, nền kinh tế thị trường mang

đến những thuận lợi nhưng cũng đã tạo ra những phức tạp và những ảnh hưởng

không nhỏ đối với đời sống con người, nhất là thế hệ trẻ. Đặc biệt là đối tượng

HS, trong đó có HS bậc THPT. Một bộ phận lớn HS chịu ảnh hưởng của các yếu

tố tiêu cực của xã hội chi phối nên ý thức học tập không cao, thiếu tự giác. Trong

khi đó, văn học là môn học xã hội, đặc biệt phần văn học cách mạng gắn liền với

hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc đòi hỏi ý thức tự giác học tập tìm tòi

của HS. Hơn nữa, xu thế việc làm của xã hội hiện nay cũng tác động vào cách

nhìn nhận của phụ huynh HS coi trọng các môn tự nhiên. Điều đó gây những ảnh

hưởng tiêu cực đến HS khi phát huy năng lực ở môn Ngữ văn. Đây chính là lí do

khiến những người làm công tác giáo dục, đặc biệt là những giáo viên Ngữ văn

trăn trở, nỗ lực tìm ra những giải pháp tích cực để nâng cao chất lượng học môn

Ngữ văn đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện, phát huy năng lực của HS.

1.2.2.1. Tâm lý học sinh THPT với việc học các văn bản thơ hiện đại Việt Nam

trong sách giáo khoa Ngữ văn 12

Trước khi khảo sát khả năng cảm thụ các văn bản thơ trong SGK Ngữ văn

12, chúng tôi đã tiến hành khảo sát tâm lý HS ở 3 lớp 12 mà người viết luận

văn dạy học (các lớp 12E, 12F, 12M Trường THPT Nam Sách - Nam Sách -

Hải Dương với số lượng học sinh là 118 em).

22

Bằng phương pháp điều tra, chúng tôi tiến hành khảo sát tâm lý HS lớp 12

THPT ở 3 lớp 12E, F, M đối với việc học các văn bản thơ hiện đại Việt Nam

trong SGK Ngữ văn 12.

Phiếu khảo sát số 1 với 2 câu hỏi:

Câu hỏi 1: Bản thân em có thích học các văn bản thơ Việt Nam trong sách

giáo khoa Ngữ văn 12 không? Vì sao?

Câu hỏi 2: Trong các văn bản thơ Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn

12 em thích nhất bài thơ nào?

HS viết vào phiếu điều tra ý kiến của mình, kết quả thu được như sau:

Bảng 1.1. Tâm lý HS THPT với các văn bản thơ hiện đại Việt Nam

trong sách giáo khoa Ngữ văn 12

Tâm lý

Đàn ghi

Số

Tây Tiến Việt Bắc Đất Nước

Sóng

ta của

Lớp

Không

HS

Thích học

Lor-ca

thích học

28

12

15

8

5

1

11

12E

40

(70%)

(30%)

(37,50%)

(20,0%)

(12,50%)

(27,50%)

(2,50%)

24

15

10

8

6

0

15

12F

39

(61,54%)

(38,46%)

(25,64%)

(20,51%)

(15,39%)

(38,46%)

(0,0%)

27

12

12

8

7

1

11

12M

39

(69,23%)

(30,77%)

(30,77%)

(20,51%)

(17,95%)

(28,21%)

(2,56%)

79

39

37

24

18

2

37

Tổng 118

(66,95%)

(33,05%)

(31,36%)

(20,34%)

(15,25%)

(31,36%)

(1,69%)

Từ bảng thống kê trên chúng tôi nhận thấy phần lớn HS THPT thích học

các văn bản thơ Việt Nam trong SGK Ngữ văn 12. Qua phiếu điều tra và qua

việc tiếp cận, trao đổi trực tiếp với các em HS, chúng tôi thấy các em rất yêu

thích và trân trọng các văn bản thơ Việt Nam. Bởi theo các em, đó vừa là di sản

quý báu của kho tàng văn học dân tộc lại vừa gần gũi với lý tưởng của tuổi trẻ.

Ở đó, các em được hãnh diện, tự hào về lịch sử dân tộc, về phẩm chất, tâm hồn

con người Việt Nam và được tiếp thêm khát vọng, lý tưởng sống cao đẹp.

23

Em Hoàng Thị Hằng Nga (HS lớp 12E) cho biết: “Em thích học các văn

bản thơ Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12, các bài thơ được ra đời

trong những hoàn cảnh rất ý nghĩa, mỗi bài thơ lại cho em những chiêm nghiệm

về truyền thống dân tộc mình. Mỗi tác phẩm lại mang những màu sắc riêng của

phong cách từng nhà thơ. Được học các bài thơ này, em thêm trân trọng gìn giữ

những truyền thống dân tộc, thêm yêu Đất nước và con người Việt Nam và

hiểu những thông điệp gửi gắm của nhà thơ, em có thêm động lực để sống có

ích cho xã hội…”.

Em Nguyễn Việt Hà (HS lớp 12M) viết: “Em rất thích học các văn bản

thơ Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12, mỗi bài thơ đều đặc sắc, mới lạ

dù đề tài rất quen thuộc: đó là hình ảnh và tâm hồn đầy hào hoa, lãng mạn mà

không kém phần hiên ngang, kiên cường, bất khuất của người lính Tây Tiến

trong bài thơ “Tây Tiến” (Quang Dũng); đó là một Đất Nước Nhân Dân kiêu

hùng mà thân thương trong Đất nước (Trích Trường ca Mặt đường khát vọng

của Nguyễn Khoa Điềm)… Những bài thơ đó đã cho em thêm niềm tự hào về

cha ông và nuôi dưỡng tâm hồn em tình yêu quê hương đất nước”.

Em Nguyễn Vân Anh (HS lớp 12F) viết: “Các văn bản thơ Việt Nam đều

phản ánh thời đại và mang sắc thái riêng. Hầu hết thể hiện truyền thống yêu

nước, ngợi ca tâm hồn con người, nhưng cũng có bài có cấu trúc mới lạ, hình

ảnh thơ mới đi sâu vào thế giới nội tâm thể hiện những cách tân, tìm tòi của tác

giả. Từ đó khiến em biết trân trọng giá trị cuộc sống, biết yêu cuộc đời và nỗ

lực tìm tòi, sáng tạo,…”.

Với một số trích dẫn trên cho thấy các em HS đã có những nhận thức

đúng đắn và khá sâu sắc về các văn bản thơ Việt Nam trong SGK Ngữ văn 12.

Đặc biệt các em có thái độ thích thú khi học thơ Việt Nam hiện đại. Đây là

thuận lợi cho GV khi tổ chức giờ học về chủ đề thơ hiện đại Việt Nam trong

SGK Ngữ văn 12.

24

1.2.2.2. Những khó khăn của học sinh THPT khi tiếp nhận các văn bản thơ hiện

đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12

Tìm hiểu rõ vấn đề này, chúng tôi đã tiến hành khảo sát bằng việc phát

phiếu điều tra, trao đổi trực tiếp với HS.

Phiếu điều tra 1

Câu hỏi: Em hãy cho biết những khó khăn khi học các văn bản thơ hiện

đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12?

Phiếu điều tra 2

Câu hỏi: Em cảm nhận được những điều gì khi được đọc và học các văn

bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12?

Phiếu điều tra 3

Câu hỏi: Nêu cảm nhận của em về nét độc đáo của hình tượng người lính trong

bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng? Nhận xét về phong cách thơ Quang Dũng?

Phiếu điều tra 4

Câu hỏi: Ấn tượng của em về bài Việt Bắc của Tố Hữu là những gì? Nhận

ra nét độc đáo trong tài thơ Tố Hữu ở bài thơ này?

Phiếu điều tra 5

Câu hỏi: Hình tượng Đất Nước trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm

đem đến cho em những suy nghĩ gì? Nhận ra đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích?

Phiếu điều tra 6

Câu hỏi: Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam trong tình yêu thể

hiện như thế nào qua hình tượng “sóng” trong bài thơ cùng tên của Xuân

Quỳnh? Bài thơ mang đến thông điệp gì cho tuổi trẻ?

Phiếu điều tra 7

Câu hỏi: Cảm nhận em về vẻ đẹp hình tượng Lor-ca trong bài thơ Đàn ghi

ta của Lor-ca (Thanh Thảo)? Thông điệp nhà thơ gửi đến chúng ta là gì?

25

Phiếu điều tra 8

Câu hỏi: Thanh Thảo thể sự cách tân thơ ca qua những chi tiết, hình ảnh

nào trong bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca?

Học sinh viết vào phiếu ý kiến và cảm nghĩ của mình.

Kết quả thu được như sau:

* Với phiếu điều tra 1:

Khi học các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn

12, phần lớn HS trả lời đã gặp phải những khó khăn như sau:

Em Trần Tiến Dũng (HS lớp 12E) viết: “Kháng chiến chống Pháp, chống

Mĩ và những năm đầu đất nước thống nhất diễn ra đã lâu, thời gian chính là khó

khăn để thế hệ 9X, 10X tiếp nhận nên chúng em không thể hiểu hết giá trị của

các bài thơ đó”.

Em Phạm Hải Nam (HS lớp 12M) viết: “Các văn bản thơ hiện đại Việt

Nam xây dựng hình tượng có tính sử thi (Tây Tiến - Quang Dũng, Đất Nước -

Nguyễn khoa Điềm), hay sử dụng hình thức thơ siêu thực tượng trưng ( Đàn

ghi ta của Lor-ca-Thanh Thảo).Vì vậy, việc tìm hiểu các văn bản thơ chúng em

gặp không ít khó khăn”.

Em Nguyễn Thị Kim Anh (HS lớp 12M) viết: “Học các văn bản thơ hiện

đại Việt Nam em thấy cái khó nhất là càng trong thơ hiện đại thì mỗi nhà thơ

lại càng thể hiện phong cách riêng. Các nhà thơ luôn tìm sự cách tân riêng: có

khi là từ ngữ, có khi là hình ảnh, có khi lại là xây dựng hình tượng. Hiểu được

nội dung bài thơ và phong cách của từng tác giả chỉ bằng những tiết học ít ỏi

thật quá khó với chúng em…”.

Những khó khăn trên đây là phổ biến mà HS THPT thường gặp khi học văn

bản thơ hiện đại Việt Nam. Bởi vậy dù rất thích học các văn bản thơ hiện đại Việt

Nam nhưng học sinh khi học các bài thơ này vẫn bế tắc về cách thức để phát huy

hết năng lực, Hs chưa thể hiện hết khả năng cảm thụ được cái hay, cái đẹp của các

26

bài thơ, cái tài của các nhà thơ hiện đại. Đó là những khó khăn trong việc dạy học

thơ hiện đại Việt Nam theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho HS.

* Với phiếu điều tra 2 đến 8:

Đây là những phiếu điều tra cụ thể từng mặt nội dung, nghệ thuật của các

bài thơ cụ thể, đòi hỏi Hs phải đọc và cảm thụ trực tiếp văn bản. Với mục đích

là: tìm hiểu, kiểm nghiệm, xem xét đánh giá việc tiếp cận của HS đối với các

văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 như thế nào?

Tìm hiểu những năng lực nào của Hs đã được phát huy, những năng lực nào

còn hạn chế và khó khăn ở đâu?

HS viết câu trả lời (theo các câu hỏi trong phiếu điều tra từ 2 đến 8).

Kết quả thu được:

Bảng 1.2. Năng lực cảm thụ các văn bản thơ hiện đại Việt Nam

trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 của HS THPT

Cảm thụ chưa đúng, Lớp Số HS Cảm thụ đúng, đầy đủ chưa đầy đủ

12E 40 27 (67,50%) 13 (32,50%)

12F 39 18 (46,15%) 21 (53,85%)

12M 39 22 (56,41%) 17 (43,59%)

Cộng 118 67 (56,78%) 51 (43,22%)

Từ bảng số liệu trên chúng tôi thấy: số HS cảm thụ đúng, đầy đủ cao hơn

số HS cảm thụ chưa đúng, chưa đầy đủ. Qua các bài viết của các em, chúng tôi

nhận thấy khả năng cảm thụ các văn bản thơ hiện đại Việt Nam như sau:

Em Nguyễn Phương Thảo (HS lớp 12E) viết: “Được học các bài thơ hiện

đại Việt Nam, em như được sống với những năm tháng hào hùng trong lịch sử

dân tộc, em thêm yêu văn học dân tộc và đất nước mình”.

Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy các em có sự liên tưởng, tưởng tượng

khá nhanh nhạy, phong phú và chính xác về nội dung cũng như hình thức của

27

các bài thơ. Với phiếu điều tra 3, chúng tôi yêu cầu các em viết trong thời gian

rất ngắn (45 phút), khi thu phiếu điều tra chúng tôi nhận thấy có tới trên 60%

các em có cách cảm thụ cơ bản như sau: “Hình tượng người lính xuất hiện phổ

biến trong thơ kháng chiến. Quang Dũng đã khắc họa người lính Tây Tiến

trong bài thơ cùng tên với những nét riêng độc đáo: Vốn là những sinh viên, trí

thức Hà Nội nên người lính Tây Tiến lãng mạn, hào hoa, hóm hỉnh, trẻ trung và

bi tráng. Thiên nhiên Tây Bắc trong cảm nhận của những chàng trai này đầy

quyến rũ: Mường Lát hoa về trong đêm hơi hay phải bồng bềnh như Nhà ai Pha

Luông mưa xa khơi. Đã nhớ người yêu thì phải là Đêm mơ Hà Nội dáng kiều

thơm. Những người lính đó còn mang nét riêng về một đoàn binh “đầu trọc”

gian khổ nhưng “oai hùm”, hiên ngang trước cả cái chết. Từ đây ta thấy nổi bật

phong cách của Quang Dũng: kết hợp hài hòa bút pháp tả thực và lãng mạn.

Quang Dũng không né tránh hiện thực chiến tranh tàn khốc mà từ chính hiện

thực đó khẳng định vẻ đẹp tâm hồn, ý chí của những người lính cụ Hồ”.

Bên cạnh đó, không ít học sinh cảm thụ văn bản thơ chỉ mạng tính đại

khái, cảm tính: cảm thụ thơ chỉ hiểu trên câu chữ văn bản mà không tìm tòi,

đào sâu sau câu chữ là những thông điệp, tình cảm, nỗi niềm của nhà thơ.

Chẳng hạn cũng qua phiếu điều tra, chúng tôi thấy có đến gần 40% các em mới

chỉ cảm nhận được đặc điểm người lính dựa trên phần miêu tả của tác giả chứ

chưa phát hiện được nét riêng, độc đáo của người lính Tây Tiến cũng như tình

cảm của tác giả, phong cách của nhà thơ. Đa phần các em chỉ viết được: “Hình

tượng người lính hiện lên là những chàng trai tiều tuỵ, không mọc tóc vì sốt rét

rừng. Nhưng các anh vẫn lạc quan, quyết tâm chiến trường đi chẳng tiếc đời

xanh. Nhà thơ thật tài tình khi khắc họa hình tượng người lính, tiêu biểu cho

người lính chống pháp”.

Cùng với hạn chế trên về mặt cảm thụ, chúng tôi còn thấy cách diễn đạt,

biểu thị sự cảm thụ thơ của các em bằng ngôn ngữ viết còn rất yếu. Cách diễn

đạt chưa sáng rõ, các em còn mắc lỗi diễn xuôi ý thơ một cách thuần túy…

28

Qua đây chúng tôi thấy rằng bên cạnh những điểm mạnh trong việc cảm

thụ thơ nói chung, thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 nói

riêng như là sự nhanh nhạy, trực tiếp, liên tưởng, tưởng tượng phong phú thì

khó khăn lớn nhất trong phát huy năng lực cảm thụ thẩm mỹ của HS là các em

mới chỉ nhận ra cái đẹp của bài thơ ở bề nổi câu từ mà chưa thấm được chiều

sâu của tác phẩm thông qua tiếng nói tâm hồn và tài năng của nhà thơ. Đó là

một trong những khó khăn trong dạy học các văn bản thơ hiện đại Việt Nam

trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 theo hướng phát triển năng lực cảm thụ

thẩm mỹ cho học sinh.

Để giải quyết những khó khăn đó, điều quan trọng là phải tìm ra nguyên nhân.

1.2.2.3. Những nguyên nhân, hạn chế của HS THPT khi cảm thụ, tiếp nhận các

văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12

Qua việc khảo sát, tìm hiểu chúng tôi thấy có rất nhiều nguyên nhân dẫn

đến tình trạng trên, đó có thể là những nguyên nhân cơ bản sau:

Thứ nhất: Vốn sống, vốn hiểu biết văn hóa, vốn kiến thức văn học, lịch sử,

ngôn ngữ học và các kiến thức khoa học khác ở HS còn hạn chế.

Thứ hai: Bản thân HS chưa biết cách học, chưa biết cách tiếp nhận, chiếm

lĩnh văn bản thơ. Chủ yếu các em cảm thụ theo hướng chủ quan, hiểu đến đâu

trả lời đến đó, không hiểu thì bỏ qua… Học một văn bản thơ thường là đọc văn

bản một vài lần, không biết cảm thụ bắt đầu từ đâu và bỏ rơi nhiều hình ảnh, từ

ngữ ý nghĩa.

Thứ ba: Hs có tính ỷ lại, do ý thức rèn luyện, vượt khó của bản thân HS

chưa cao, việc tự học của HS chưa có chất lượng, sẵn sàng chọn cách “đi chép”

chứ không tìm tòi khi gặp câu hỏi khó.

Thứ tư: Do việc hướng dẫn cho HS cảm thụ bài thơ (như hệ thống câu hỏi,

hướng dẫn học bài, cung cấp tư liệu…) của giáo viên còn sơ sài, có khi là qua loa

chỉ dành một vài phút cuối giờ học dặn dò HS chuẩn bị bài theo câu hỏi sách giáo

29

khoa, thậm chí có khi đọc phân phối chương trình từ đầu học kì, HS tự soạn bài,

giáo viên không hướng dẫn ở cuối tiết học…

Thứ năm: Do sự phát triển của công nghệ, HS luôn bị cuốn bởi sự hấp dẫn

của các trò chơi, phim ảnh… dẫn đến các em thiếu tập trung học tập. Nhất là

những môn học xã hội, sự trừu tượng, cần nhiều thơi gian tư duy, khi gặp

những khó khăn trong tìm hiểu tác phẩm, lập tức buông xuôi hoặc trông chờ

vào giáo viên.

Những nguyên nhân trên đây là những nguyên nhân phổ biến gây khó khăn

cho việc phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ đối với tác phẩm văn học nói chung

và đối với các văn bản thơ hiện đại Việt Nam nói riêng của HS THPT.

1.2.2.4. Những tiêu chí đánh giá năng lực của HS THPT khi cảm thụ, tiếp nhận

các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12

Người dạy thực hiện các khảo sát để thấy năng lực của HS nhận biết vẻ

đẹp khách thể, chủ thể trữ tình trong văn bản thơ. Năng lực HS tái hiện, đánh

giá được những vẻ đẹp của chủ thể trữ tình. HS có năng lực vận dụng, sáng tạo

chuyển hóa từ nhận thức đến thái độ, hành vi ứng xử trong cuộc sống sau khi

học xong văn bản thơ.

1.2.3. Thực trạng dạy học các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo

khoa Ngữ văn 12 của giáo viên

Giáo sư Phan Trọng Luận đã nêu lên thực trạng dạy học ở nhà trường phổ

thông: Chúng ta không thể không thừa nhận một bước tụt hậu khá dài về nhận

thức cũng như thực hành sư phạm so với bước đi của một số nước tiên tiến, nhất

là so với yêu cầu chiến lược của thời đại. Tình trạng đó hình như càng nặng nề

hơn trong giảng dạy văn học. Lập luận văn học có đặc thù riêng, văn chương là

lĩnh vực cảm thụ thẩm mỹ của sáng tạo cá nhân, nhiều khi đã tạo ra một ảo giác

bao che cho sự chậm trễ cũ kỹ về phương pháp… Đã từ lâu vẫn đang diễn ra tình

hình dạy văn chỉ cần biết đến văn bản văn chương, chỉ quan tâm đến nghệ thuật

và tài năng khám phá cho sâu, chỗ độc đáo của tác phẩm văn chương để rồi tìm

30

ra những thủ pháp, những hình thức lôi cuốn HS cảm thông, đồng điệu với

những gì GV đã tìm tòi và phát hiện được. Tác giả khẳng định: một quan niệm

về dạy văn như vậy đã quá ư lỗi thời và cần thực sự có một đổi mới triệt để về

chiến lược dạy học văn trong nhà trường nhằm hướng vào học sinh giúp học sinh

tham gia, khám phá, chiếm lĩnh tác phẩm để họ thực sự tự phát triển.

Trên thực tế, trong quá trình giảng dạy, phần nhiều giáo viên chỉ chú tâm

vào khám phá các tác phẩm văn chương, tìm ra các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc

rồi truyền đạt lại cho HS mà chưa chú ý đến nhu cầu, khát vọng, đặc điểm tâm

lý của học trò. Vì thế học trò bị biến thành “thính giả” người “ngoài cuộc”, trò

không có cơ hội trình bày suy nghĩ, cảm xúc mà mình có được khi học những

văn bản này. Bên cạnh đó, sự ảnh hưởng nặng nề của phương pháp dạy học văn

truyền thống lâu nay vẫn quan niệm dạy học là quá trình truyền thụ và lĩnh hội

tri thức. Do đó quan niệm này không những hạn chế khả năng sáng tạo của thầy

mà còn gây trở ngại cho quá trình đổi mới phương pháp dạy học và khả năng

cảm thụ văn chương của HS.

Đối với văn bản thơ hiện đại Việt Nam, HS muốn cảm thụ tốt phải có khả

năng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, phải có hiểu biết lịch sử, thời đại, văn

hóa. Trong khi đó, không chỉ có học trò mà thế hệ nhà giáo trẻ được sống trong

hòa bình, chưa từng trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử dân tộc sẽ gặp

không ít rào cản khi cảm thụ giá trị các văn bản thơ Việt Nam hiện đại. Từ chính

điều đó, chúng tôi nhận thấy việc dạy học các văn bản thơ hiện đại Việt Nam

trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 theo hướng phát triển năng lực cảm thụ

thẩm mỹ cho HS còn nhiều vấn đề trăn trở.

Với xu thế hiện đại, sự đa dạng hóa hình thức học tập, sự bùng nổ của

các phương tiện thông tin, đòi hỏi người giáo viên chủ động đổi mới phương

pháp, tìm tòi, sáng tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện HS. Đứng trước

những yêu cầu đó, nhiệm vụ của GV là làm cách nào để tiết học trở nên sinh

động, nhẹ nhàng và hiệu quả, phát huy tối đa năng lực cảm thụ thẩm mỹ đối với

tất cả các đối tượng HS, đặc biệt giờ học các văn bản thơ hiện đại Việt Nam.

31

* Những khó khăn mà giáo viên gặp phải khi dạy các văn bản thơ hiện

đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12.

Bằng việc phát phiếu điều tra với câu hỏi: “Những khó khăn mà anh/chị

gặp phải khi dạy các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ

văn 12 là gì?” và: “Dạy học phát huy năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho HS qua

các bài thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 anh/chị đứng

trước những khó khăn nào?”.

Qua thực tế giảng dạy, trao đổi, chia sẻ với các đồng nghiệp; tham dự các

buổi họp tổ, nhóm chuyên môn, các tiết thanh tra, dự giờ, hội giảng, chúng tôi

thu thập được những ý kiến GV trăn trở về những khó khăn gặp phải khi dạy

các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong SGK Ngữ văn 12 như sau:

Thứ nhất: Mơ hồ về cách thức cụ thể trong việc tiếp cận một bài thơ hiện

đại Việt Nam.

Giáo viên tự thấy có rất nhiều khó khăn khi cảm thụ các bài thơ hiện đại

Việt Nam, một số giáo viên còn không nắm vững các bước tiếp cận một bài

thơ? Cô giáo Đỗ Thị Hiền (một trong những giáo viên tâm huyết, chịu khó học

hỏi, tìm tòi trong dạy học Ngữ văn ở trường THPT Nam Sách) đã nói: “Các văn

bản thơ hiện đại Việt Nam có giá trị lớn về tư tưởng và khẳng định sự phát triển

về nghệ thuật, nhưng không dễ dàng trong việc cảm thụ và hướng dẫn học sinh

cảm thụ những văn bản này, nhất là những bài thơ sau năm 1975”.

Thầy giáo Vũ Trung Kiên (Phó Hiệu trưởng, giáo viên Ngữ văn trường

THPT Nam Sách) đã viết: “Ở trường phổ thông, tài liệu cụ thể về cách thức

tiếp cận một văn bản thơ hiện đại Việt Nam rất ít ỏi. Những sáng kiến ngành

cũng có bàn đến phát triển năng lực nhưng còn chung chung, chưa cụ thể về

năng lực cảm thụ thẩm mỹ. Theo tôi, GV cần nắm chắc khái niệm đọc hiểu thơ.

Nghĩa là tiếp cận thơ từ đọc đến cảm. Dựa vào chuẩn kiến thức kĩ năng, sách

giáo viên để làm cơ sở khoa học cho việc dạy học. Ngoài ra, GV trao đổi trong

sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn khi gặp những gì mới lạ, thống nhất phương

pháp rồi mới dạy. Thực chất GV dạy thường dựa vào kinh nghiệm tích lũy của

bản thân để giúp HS tiếp cận, cảm thụ là chính,…”.

32

Thứ hai: Tài liệu tham khảo trong thư viện nhà trường số lượng về đầu

sách phương pháp rất ít, nên sách tham khảo về dạy học các văn bản thơ hiện

đại Việt Nam hạn chế, đặc biệt là sách viết về cách tiếp cận các văn bản này

theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ là rất hiếm.

Tại cơ sở nhà trường phổ thông, thực tế chúng tôi nhận thấy đa phần GV

dạy Ngữ văn đều có cùng nhìn nhận này.

Thứ ba: Vấn đề làm thế nào để tổ chức dẫn dắt học sinh chủ động tiếp cận,

tìm tòi, phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức, thấu hiểu tiếng nói tâm hồn của nhà

thơ… là vấn đề khó khăn mà GV luôn trăn trở.

Muốn áp dụng thành công phương pháp dạy học mới vào thực tiễn, thì

ngoài việc nắm vững cơ sở lý luận, còn đòi hỏi người giáo viên phải đầu tư rất

nhiều thời gian và công sức để có được một giờ dạy hiệu quả. Việc tổ chức dẫn

dắt cho HS tự chiếm lĩnh được tiếng nói tư tưởng, tình cảm của nhà thơ đã gửi

gắm trong các bài thơ là một việc làm không mấy dễ dàng. Đây là cái khó mà

hầu hết GV gặp phải. Việc cảm thụ, phát hiện cho hết cái hay cái đẹp của bài

thơ đã khó, hơn nữa lại là thơ trữ tình trung đại lại càng khó hơn. Có khi chỉ

một từ, một hình ảnh, một câu thơ nhưng cũng gây trở ngại trong việc khai

thác. Song khó khăn hơn là việc tổ chức dẫn dắt để HS cũng cảm thụ như mình

là một công việc còn khó khăn hơn nhiều so với khi mình cảm thụ. Nhiều khi

thấy bí thì lại áp dụng việc dạy áp đặt, cứ nói ra điều mình nghĩ cho HS nghe…

Mặc dù gặp không ít những khó khăn trong quá trình dạy học các văn bản

thơ hiện đại Việt Nam, song qua quá trình điều tra, chúng tôi nhận thấy, đa số

GV Trung học trong quá trình dạy học đã không ngừng cố gắng với mong

muốn đưa các phương pháp dạy học mới, tích cực nhằm phát huy tối đa năng

lực của HS, nhất là năng lực cảm thụ thẩm mỹ qua các tác phẩm thơ.

33

Tiểu kết chương 1

Dạy văn nói chung và dạy các văn bản thơ hiện đại Việt Nam cho HS nói

riêng không phải chỉ đơn giản là truyền kiến thức cho HS. Đa số GV đều nhận

thấy được việc giảng dạy phải rèn luyện HS sinh óc tư duy sáng tạo, phương

pháp tự suy nghĩ tìm hiểu kiến thức, biết vận dụng kiến thức vào cuộc sống, nâng

cao đời sống tư tưởng, tình cảm ngày càng tốt đẹp hơn. Môn Ngữ văn trong nhà

trường có điều kiện để thức dậy khát vọng trong HS. Đó là khát vọng cao đẹp mà

qua mỗi giờ học văn, từ vẻ đẹp hình tượng, ngôn ngữ… GV có thể tạo ra được

một không khí văn chương, không khí ngự trị của cái đẹp. Một lí tưởng sống cao

đẹp qua hình tượng người lính chống Pháp qua bài thơ “Tây Tiến” của Quang

Dũng. Thêm trân trọng tình cảm gắn bó yêu thương đùm bọc tình nghĩa giữa

quân và dân (Việt Bắc- Tố Hữu). Một hình tượng Đất nước gần gũi, thân thuộc

ngay xung quanh ta (Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm). Hay một khát vọng tình

yêu cháy bỏng trong tâm hồn người phụ nữ (Sóng - Xuân Quỳnh). Đặc biệt một

khát vọng phục sinh về tình yêu đất nước, khát vọng tự do và cách tân nghệ thuật

dân tộc (Đàn ghi ta của Lor-ca của nhà thơ Thanh Thảo).

34

Chương 2

ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC CÁC VĂN BẢN THƠ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM

TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 12 THEO HƯỚNG

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CẢM THỤ THẨM MỸ CHO HỌC SINH

2.1. Định hướng chung

Xuất phát từ những tiền đề về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn được nêu ở

chương 1, để hình thành và phát triển năng lực cảm thụ thẩm mĩ cho học sinh,

luận văn đề xuất con đường đưa học sinh đến với ba thế giới trong văn bản

bằng ba giai đoạn như sau:

Giai đoạn 1: Tìm hiểu thế giới hình tượng khách thể trong tác phẩm.

Giai đoạn 2: Khám phá thế giới tâm hồn của nhà thơ (chính là chủ thể trữ

tình) trong tác phẩm.

Giai đoạn 3: Đi sâu tìm hiểu thế giới sáng tạo nghệ thuật của tác giả ở tác phẩm.

Người dạy phải dẫn dắt HS khám phá ba thế giới ấy bằng hệ thống lời

gợi dẫn để phát triển năng lực cảm thụ thẩm mĩ ở từng HS.

Ở giai đoạn 1 và 2, HS sẽ tiến hành các hoạt động (Hđ) sau:

Hoạt động 1: Hình dung, tưởng tượng về thế giới hình tượng trong tác phẩm.

Hoạt động 2: Phân tích vẻ đẹp của hình tượng.

Hoạt động 3: Bộc lộ cảm xúc thẩm mỹ trước hình tượng.

Ở giai đoạn 3, HS sẽ tiến hành các hoạt động:

Hoạt động 1: Phát hiện những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác giả về:

- Ngôn từ (từ ngữ, lời thơ…).

- Hình ảnh thơ.

- Nhịp điệu thơ, giọng điệu.

- Kết cấu bài thơ.

Hoạt động 2: Phân tích giá trị thẩm mỹ của những sáng tạo trên.

Hoạt động 3: Bộc lộ cảm xúc trước những sáng tạo nghệ thuật đó.

Dựa trên cơ sở định hướng chung chúng ta hướng dẫn học sinh cảm thụ

thẩm mĩ từng văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12

như sau:

35

2.2. Định hướng riêng cho từng bài thơ

2.2.1. Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Bài thơ Tây Tiến là một bài thơ trữ tình đặc sắc của thơ hiện đại Việt Nam

từ sau năm 1945. Chủ thể trữ tình ở đây là người chiến sĩ trong đoàn quân Tây

Tiến ở thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta, vào những năm

1946-1948. Người chiến sĩ này vốn là một thanh niên trí thức Hà Nội lãng mạn,

trẻ trung yêu nước. Khi giặc Pháp trở lại xâm lược nước ta năm 1946, cũng như

bao thanh niên khác ở Hà Nội lúc bấy giờ, anh tòng quân vào đoàn binh Tây

Tiến. Cuộc hành quân lên miền núi Tây Bắc của Bắc Bộ để lại cho anh những

ấn tượng sâu sắc, những kỉ niệm vui buồn khó quên về núi rừng làng bản, con

người ở Tây Bắc. Rời xa đoàn quân Tây Tiến, anh nhớ khôn nguôi về những

đồng đội của mình với cuộc sống đầy gian khổ và hi sinh của một thời... Bài

thơ này đã ghi lai chân thật nỗi nhớ ấy của anh. Anh bộ đội vốn xuất thân từ

thanh niên trí thức ấy nhớ đến những gì? Có cảm xúc và suy nghĩ gì? Đó là

hướng dạy học trong bài thơ Tây Tiến.

Dạy bài thơ Tây Tiến theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ

cho học sinh, chúng ta có thể tiến hành bài học theo ba bước sau:

Bước 1: Đưa HS đến với thế giới hình tượng khách thể hiện lên trong bài

thơ để các em rung cảm trước vẻ đẹp của:

- Cảnh núi rừng miền Tây vừa hoang vu, dữ dội vừa thơ mộng, mỹ lệ, ấm áp…

- Cuộc hành quân lên miền Tây của đoàn quân Tây Tiến hết sức gian khổ,

khốc liệt nhưng có những lúc hết sức ấm áp, mộng mơ…

- Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến với nét đẹp hào hoa và

kiên cường.

Bước 2: Khơi gợi HS khám phá tâm hồn nhà thơ được thể hiện trong văn

bản thơ để các em rung cảm trước vẻ đẹp tâm hồn của một thế hệ trẻ thời kì

đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

- Trước hết đó là nỗi nhớ da diết của nhà thơ về đoàn quân Tây Tiến trong

cuộc hành quân lên miền Tây Bắc của miền Bắc nước ta vào những năm đầu

của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

36

- Mạch cảm xúc hồi tưởng của chủ thể trữ tình trong văn bản bài thơ đã

làm lần lượt hiện lên tâm hồn của nhà thơ với nét độc đáo là lãng mạn và hào

hoa. Đó là cái lãng mạn hào hoa của một thanh niên trí thức Hà thành lần đầu

tiên trong đời được trải nghiệm bằng cuộc sống của một người lính trong một

cuộc hành trình đầy gian nan với những thử thách khốc liệt giữa một khung

cảnh miền Tây hoang sơ, bí ẩn.

- Tâm hồn lãng mạn, hào hoa của nhà thơ đã chi phối mọi cái nhìn và cảm

xúc của tác giả trước cảnh sắc và con người mà nhà thơ chúng kiến trong cuộc

hành quân lên miền Tây.

+ Bốn câu thơ đặc sắc của nhà thơ tả cuộc hành quân của đoàn quân Tây

Tiến lên miền Tây cho ta nhận thấy rõ cái nhìn và cảm xúc lãng mạn, hào hoa

trong tâm hồn nhà thơ:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

+ Cảm hứng lãng mạn trong tâm hồn nhà thơ cũng không hề bỏ qua sự

khốc liệt của cuộc hành quân:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

+ Cái nhìn và cảm hứng lãng mạn trong tâm hồn nhà thơ còn thể hiện rõ

trong việc tả lại đêm liên hoan thấm đẫm tình quân dân và một chiều Châu Mộc:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”

37

+ Cái nhìn và cảm hứng lãng mạn đã khiến cho nhà thơ tạo dựng thành

công hình ảnh mang vẻ hiên ngang, lẫm liệt của đoàn quân Tây Tiến:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Đó là đoàn quân của những chàng trai Hà Nội với tâm hồn giàu mộng mơ,

mang đậm nét hào hoa:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”

+ Cái nhìn và cảm xúc lãng mạn đã khiến cho nhà thơ tả trực tiếp giờ phút

vĩnh biệt những người đồng đội bằng những câu thơ mang cảm hứng bi tráng:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Bước 3: Khơi gợi HS khám phá những sáng tạo nghệ thuật rất độc đáo

và tài hoa của nhà thơ Quang Dũng

Bài thơ Tây Tiến là một thi phẩm đặc sắc với những sáng tạo rất độc đáo

và tài hoa của nhà thơ Quang Dũng về ba phương diện:

- Sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh thơ.

- Sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ thơ.

- Sáng tạo trong việc sử dụng giọng điệu thơ.

* Sáng tạo về hình ảnh thơ:

Hình ảnh trong bài thơ Tây Tiến rất đa dạng và được sáng tạo bằng

những bút pháp khác nhau:

- Có hai loại hình ảnh chính: Hình ảnh thiên nhiên miền Tây trong đó có

cuộc sống của đồng bào miền Tây và hình ảnh người lính Tây Tiến.

- Mỗi loại hình ảnh lại có hai sắc thái chính bổ sung cho nhau:

+ Về thiên nhiên: vừa có cái hoang sơ, hùng vĩ, dữ dội lại vừa có cái thơ

mộng, mĩ lệ: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm, “Heo hút cồn mây”, “Chiều

chiều oai linh thác gầm thét/Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”, “Sài Khao

38

sương lấp đoàn quân mỏi”, “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, “Mường Lát hoa

về trong đêm hơi”, “chiều sương ấy”, “hồn lau nẻo bến bờ”, “dáng người trên

độc mộc”, “dòng nước lũ - hoa đong đưa”.

+ Về con người cũng hiện lên vừa hào hùng vừa hào hoa. Hào hùng là ở

ý chí, tư thế hiên ngang, vượt lên mọi gian khổ, thiếu thốn, hi sinh. Còn hào

hoa là ở tâm hồn nhạy cảm trước thiên nhiên và tình người cùng với những

khát khao, mơ mộng.

+ Đặc biệt Quang Dũng rất tài hoa khi ông dựng cảnh bằng những câu

thơ rất đặc sắc: Có câu thơ gồm những từ mang thanh trắc để tả đèo cao dốc

đứng: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”. Lại có câu thơ chỉ toàn thanh

bằng để tả cảnh một bản làng thung lũng trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa

xa khơi”.

* Sáng tạo về ngôn ngữ thơ:

- Đặc sắc trong sáng tạo ngôn ngữ thơ trong bài “Tây Tiến” của Quang

Dũng trước hết là có những kết hợp từ độc đáo, mới lạ tạo nên nghĩa mới, sắc

thái mới cho từ ngữ và tạo nên những câu thơ có cấu trúc mới lạ:”Nhớ về rừng

núi nhớ chơi vơi”, “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống/ Nhà ai Pha Luông

mưa xa khơi”, “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai Châu mùa em thơm nếp

xôi”, “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

- Đặc sắc trong sáng tạo ngôn ngữ thơ ở bài Tây Tiến còn là sự hòa trộn

của nhiều sắc thái phong cách: Có thứ ngôn ngữ trang trọng, giàu màu sắc cổ

kính, lại có thứ ngôn ngữ thông tục, sinh động của ngôn ngữ hàng ngày.

+ Ngôn ngữ trang trọng, có màu sắc cổ kính xuất hiện khi nhà thơ khắc

họa hình tượng kiêu hùng của người lính Tây Tiến trước cái chết:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

39

+ Ngôn ngữ thông tục hàng ngày có trong các câu thơ tiêu biểu khắc

họa chân dung những chàng lính trẻ Hà Nội tinh nghịch, hóm hỉnh, trẻ trung

và lạc quan:

“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

“Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

* Sáng tạo trong giọng điệu thơ:

Xuyên suốt cả bài thơ là nỗi nhớ của nhà thơ với nhiều trạng thái cảm

xúc khác nhau và mỗi trạng thái cảm xúc lại được diễn tả bằng những giọng

điệu phù hợp.

+ Ở đoạn 1: Đoạn thơ nói về nỗi nhớ da diết của nhà thơ về Tây Tiến nên

giọng thơ ở đây tha thiết, bồi hồi:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi…”

Những tiếng gọi được cất lên cùng với những từ cảm thán làm nổi lên

cảm xúc đang dâng trào trong tâm trạng nhà thơ.

+ Ở đoạn 2: Khi tái hiện lại những đêm lửa trại ấm áp tình quân dân thì

giọng thơ chuyển sang hồn nhiên, vui tươi:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ”

Và giọng thơ trở nên man mác bâng khuâng khi nhớ lại cảnh chia tay

trong một chiều hôm nơi Châu Mộc:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”

+ Ở đoạn 3: Khi nhớ lại những người đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến

thì giọng thơ trở nên trang trọng và bi tráng:

40

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

2.2.2. Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Dạy học trích đoạn bài thơ Việt bắc của Tố Hữu theo hướng phát triển

khả năng cảm thụ thẩm mĩ cho HS, chúng ta có thể tiến hành bài học theo

hướng sau:

Bước 1. Đưa HS đến với thế giới hình ảnh khách thể hiện trong văn bản

để các em rung cảm trước vẻ đẹp của:

- Cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp của núi rừng Việt Bắc và cuộc sống của

đồng bào các dân tộc ở nơi ấy.

- Cuộc sống kháng chiến gian lao và hào hùng của quân và dân ta thời

kháng chiến chống Pháp ở chiến khu Việt Bắc.

Việt Bắc là tên gọi của một vùng đất thuộc 6 tỉnh miền núi phía bắc nước

ta: Cao Bằng,Bắc Kạn, Lạng Sơn,Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Từ

năm 1941, khi Bác Hồ về sống ở hang Pắc bó thuộc tỉnh Cao Bằng, thì núi rừng

Việt Bắc trở thành căn cứ địa của cách mạng. Từ năm 1941 đến năm 1945 -

thời kì “kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”, có biết bao sự kiện lịch sử trọng đại

đã diễn ra ở núi rừng Việt Bắc. Tháng 12-1944 Đội Việt Nam tuyên truyền giải

phóng quân được thành lập và làm lễ xuất quân dưới gốc đa Tân Trào ở Tuyên

Quang. Tháng 8-1945, tại đình Hồng Thái đã diễn ra nơi họp quốc dân đại hội

để thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng và phát động cuộc tổng khởi nghĩa

giành chính quyền trong cả nước.

Cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8 -1945 đã thắng lợi. Ngày 2- 9-1945 tại

quảng trường Ba Đình, Hồ Chủ Tịch đã đọc bản tuyên ngôn độc lập - Nước

Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra đời. Dân ta từ thân phận nô lệ trở thành chủ

nhân của đất nước.

41

Nhưng đến năm sau (1946), thực dân Pháp lại trở lại xâm lược nước ta,

buộc nhân dân ta phải tiến hành cuộc kháng chiến.

Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Tháng 7- 1954, Hiệp định

Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại. Miền Bắc Nước ta

được Giải phóng. Tháng 10 - 1954, trung ương Đảng và chính phủ rời chiến

khu Việt Bắc trở về thủ đô.

Nhà thơ Tố Hữu là cán bộ của Trung ương đã từng sống ở chiến khu Việt

Bắc suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, có tình nghĩa sâu nặng với đồng bào

các dân tộc Việt Bắc. Ông sáng tác bài thơ Việt Bắc nhằm tái hiện lại những kỉ

niệm sâu sắc của ông về cảnh sắc thiên nhiên và con người Viêt Bắc thời kì

kháng chiến chống Pháp.

Bởi thế, cảnh sắc thiên nhiên và con người Việt Bắc hiện lên rất rõ nét

trong văn bản bài thơ.

* Cảnh sắc thiên nhiên của núi rừng Việt Bắc hiện lên với những vẻ đẹp

rất đa dạng, phong phú, sinh động. Nơi đó có từng “rừng nứa bờ tre” có những

“bản khói cùng sương”, có “trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”, có

“rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”, có “ngày xuân hoa nở trắng rừng”.

* Cuộc sống bình dị và cảnh sinh hoạt của con người cũng hiện lên với

nhũng nét thanh bình, êm ả:

Nhớ người me nắng cháy lưng.

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô.

…Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

…Nhớ cô em gái hái măng một mình.

…Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều.

Chày đêm nện cối đều đều suối xa…

Và đẹp nhất là nghĩa tình ở con người miền núi Việt Bắc đối với cán bộ

kháng chiến. Họ san sẻ cùng nhau mọi gian khổ và niềm vui trong cuộc sống:

42

Ta đi ta nhớ những ngày.

Mình đây ta đó, cay ngọt bùi.

Thương nhau chia củ sắn lùi.

Bát cơm sẻ nủa chăn sui đắp cùng.

Có thể nói, những câu thơ gợi lên cảnh sinh hoạt và cuộc sống bình dị của

đồng bào miền núi ở Việt Bắc là những câu thơ hay, nó chứa đựng tình cảm

thắm thiết của nhà thơ với cuôc sống và con người nơi chiến khu Việt Bắc.

* Khí thế hào hung của cuộc sống diễn ra tại Việt Bắc cũng hiện lên rõ nét bằng

hình ảnh sống động trong những câu thơ có nhịp điệu sôi nổi, dồn dập, mạnh mẽ:

Những đường Việt Bắc của ta.

Đêm đêm dầm dập như là đất nung.

Quân đi điệp điệp trùng trùng.

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.

Dân công đỏ đuốc từng đoàn.

Mấy câu thơ trên đã tái hiện lại khung cảnh từng đoàn bộ đội và dân công

đang trên đường ra chiến dịch với khí thế mạnh mẽ. Nhờ tinh thần và khí thế ấy

mà quân ta đã lập lên bao chiến tích: từ những trận đánh hồi đầu cuộc kháng

chiến chống Pháp ở Phủ Thông, Đèo Giàng, ở sông Lô và phố Giàng trong

chiến dịch Việt Bắc năm 1947, đến chiến dịch Cao Lạng, giải phóng biên giới

Việt Trung năm 1950 cho đến những chiến dịch lớn trong những năm cuối của

cuộc kháng chiến chống Pháp: Chiến dịch Hòa Bình năm 1951, chiến dịch Tây

Bắc 1952, chiến dịch Điện Biên Phủ mùa xuân 1954.

Ai về ai có nhớ không.

Ta về ta nhớ Phủ thong, Đèo Giàng.

Nhớ sông Lô, nhó phố Ràng.

Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà.

…Tin vui chiến thắng trăm miền.

Hòa Bình, Tây Bắc Điện Biên vui về.

Vui từ Đồng tháp, An Khê.

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng

43

Việt Bắc là đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp cũng được nhà thơ

Tố Hữu tái hiện lại sinh động. Suốt cả 9 năm kháng chiến, Bác Hồ cùng với

Trung ương Đảng và chính phủ đều sống và làm việc ở Việt Bắc để lãnh đạo

toàn dân ta tiến hành cuộc kháng chiến từ những ngày đầu đầy gian khổ cho

đến thắng lợi hoàn toàn.

Ai về ai có nhớ không.

Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng của hang.

Nắng trưa rực rỡ sao vàng

Trung ương, chính phủ luận bàn việc công…

Việt Bắc là nơi đặt niềm tin và hi vọng của con người Việt Nam từ mọi

miền của đất nước:

… Ở đâu u ám quân thù.

Nhìn lên Việt Bắc : cụ Hồ sang soi

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông lên Việt Bắc mà nuôi chí bền…

Bước 2: Khơi gợi HS khám phá thế giới tâm hồn của nhà thơ được gửi

gắm trong văn bản thơ

- Bài thơ được tổ chức theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca.

Nhưng đó chỉ là mặt ngoài của văn bản, còn bên trong là độc thoại nội tâm của

nhà thơ, nhằm biểu hiện tâm tư, tình cảm đầy ắp trong tâm hồn nhà thơ.

- Trước hết là nỗi nhớ da diết của một cán bộ kháng chiến đã từng sống

gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu về xuôi với một tâm

trạng đầy xúc động bâng khuâng…

Nhớ gì như nhớ người yêu.

Trăng lên đầu mũ, nắng chiếu lưng

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi cùng.

44

Nỗi nhớ da diết, mênh mang đã làm sống dậy những kỉ niệm sâu lắng

nghĩa tình với thiên nhiên và con người Việt Bắc, với cuộc kháng chiến gian

khổ và hào hùng.

Nhà thơ có ấn tượng sâu sắc về những nét riêng biệt độc đáo của núi

rừng Việt Bắc, khác hắn với những miền quê khác của đất nước. Đó là cảnh sắc

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”, “mùa xuân mơ nở trắng rừng”, “ve kêu rừng

phách đổ vàng”…

Gắn bó với thiên nhiên ấy là hình ảnh những con người bình dị : người đi

làm nương rẫy “Đèo cao nắng ánh dao cài thắt lưng”, người đan nón “nhớ

người đan nón chuốt từng sợi giang”, người hái măng: “nhớ cô em gái hái

măng một mình”…

Đặc biệt, nhà thơ không thể nào quên được nghĩa tình của nhân dân Việt Bắc

đối với cán bộ, bộ đội, dân công. Đó là một sự đồng cảm và sẻ chia cùng chung mọi

gian khó và niềm vui, cùng gánh vác mọi nhiệm vụ nặng nề khó khăn.

Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Nhà thơ khẳng định nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng

chiến với Việt Bắc. Từ tình cảm thủy chung truyền thống của dân tộc, Tố Hữu đã

nâng lên thành một tình cảm mới in đậm nét thời đại, đó là ân tình cách mạng.

Sự hồi tưởng đầy xúc động của nhà thơ Tố Hữu về Việt bắc trong thời kỳ

kháng chiến chống pháp và ân tình của ông đối với đồng bào các dân tộc ở núi

rừng Việt Bắc đã làm cho bài thơ “Việt Bắc” trở thành khúc ca ân nghĩa thủy

chung của những người kháng chiến với Việt Bắc. Tố Hữu là một nhà thơ đặc

biệt rung động với nghĩa tình của cách mạng. Ở ông, cái chung hòa trong cái

riêng, cái riêng tiêu biểu cho cái chung, bởi thế tiếng lòng của nhà thơ ở bài thơ

Việt Bắc đã trở thành khúc hát ân tình thủy chung của cả dân tộc.

45

Bước 3: Khơi gợi cho học sinh phát hiện những sáng tạo nghệ thuật độc

đáo của nhà thơ Tố Hữu ở bài thơ Việt Bắc.

Bài thơ “Việt Bắc” là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Tố Hữu và phong cách

nhà thơ Tố Hữu. Đó là một hồn thơ và phong cách thơ đậm đà tính dân tộc.

Trước hết, nhà thơ đã dựng lên trong bài thơ những bức tranh chân thực,

đậm đà bản sắc dân tộc về thiên nhiên và con người Việt Bắc bằng những tình

cảm thiết tha gắn bó sâu sắc của chính tác giả.

Đồng thời nhà thơ đã khắc sâu tình nghĩa ân tình, thủy chung của những

người cán bộ kháng chiến với đồng bào Việt Bắc và tình nghĩa của đồng bào

Việt Bắc với Bác Hồ, với cách mạng và kháng chiến. Đó là những tình cảm sâu

đậm của thời đại mới, tiếp nối nguồn mạnh tình cảm yêu nước và đạo lí ân tình

thủy chung truyền thống của dân tộc ta.

Những nội dung trên lại được thể hiện bằng một nghệ thuật đậm đà tính

dân tộc.

Trước hết, nhà thơ đã sử dụng thể thơ lục bát truyền thống tài tình khiến

cho bài thơ có một âm điệu ngọt ngào, êm ái, nhịp nhàng, đưa người đọc vào

thế giới tâm tình đầy ân nghĩa.

Tác giả lại vận dụng rất sáng tạo lối kết cấu đối đáp trong ca dao, dân ca,

với hai nhân vật “mình” và “ta” nhằm thể hiện một cái tôi trí - tình thống nhất.

Đó là nỗi nhớ da diết mênh mang với với nhiều sắc thái khác nhau trong hoài

niệm thiết tha về những kỉ niệm sâu lắng tình nghĩa với thiên nhiên và con

người Việt Bắc, với cuộc sống kháng chiến gian khổ mà hào hùng …

Về ngôn ngữ thơ, Tố Hữu thường sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân

rất giản dị, mộc mạc để tái hiện lại một thời cách mạng và kháng chiến đầy

gian khổ mà dạt dào tình nghĩa…

…Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh.

… Ta đi ta nhớ quê nhà.

Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng…

46

Đặc biệt, Tố Hữu sử dụng rất nhuần nhuyễn phép trùng điệp của ngôn

ngữ dân gian: “Mình về mình có nhớ ta” “Mình về có nhớ chiến khu” “Ta về

mình có nhớ ta.Ta về ta nhớ những hoa cùng người”, “Ta đi ta nhớ những

ngày”, “Nhớ sao lớp học i tờ”, “Nhớ sao ngày tháng cơ quan”, “Nhớ sao tiếng

mõ rừng chiều”…

Những sáng tạo nghệ thuật đó Tố Hữu đã tạo ra một giọng điệu trữ tình

thết tha, êm ái, ngọt ngào, đưa người đọc vào thế giới của những kỷ niệm đầy

ắp tình nghĩa thủy chung.

2.2.3. Đoạn trích Đất Nước (Trích trường ca “Mặt Đường khát vọng”) của

Nguyễn Khoa Điềm

* Trường ca “Mặt Đường Khát Vọng” được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm

viết ở chiến khu Tri Thiên năm 1971, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị

vùng tạm chiến miền Nam về non sông đất nước , về sứ mệnh của thế hệ trẻ

trong cuộc đấu tranh chống giặc Mĩ xâm lược.

Đoạn trích “Đất Nước” trong SGK Ngữ văn 12 là phần đầu chương V

của trường ca. Đây là một đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ Việt Nam

hiện đại, bởi vì ở đây nhà thơ đã trình bầy sự cảm nhận và lí giải mang đậm tư

tưởng đất nước của nhân dân bằng những chất liệu rút ra từ kho tàng văn học

dân gian truyền thống (thành ngữ, ca dao - dân ca, truyền thuyết, truyện cổ

tích…), văn hóa dân gian truyền thống (phong tục tập quán, thắng cảnh thiên

nhiên, tên núi, tên sông, đời sống sinh hoạt…), một sự cảm nhận và lí giải trong

tính toàn vẹn, nhiều mặt, địa lí, lịch sử, văn hóa, tâm hồn, lối sống của dân tộc

Việt Nam.

Đoạn trích “Đất Nước” được coi như một bài thơ trữ tình chính luận đặc

sắc về đất nước. Tính chính luận của bài thơ thể hiện ở chỗ tác giả đã đặt ra và

lí giải về ba vấn đề…

- Đất nước ta có tự bao giờ?

- Đất nước là gì?

- Đất nước do ai gây dựng?

47

Đó cũng là mạch cảm xúc và suy nghĩ của tác giả trong đoạn thơ. Tính

trữ tình của đoạn thơ thể hiện ở chỗ tác giả lí giải những vấn đề trên bằng một

giọng thơ trữ tình sâu lắng, thiết tha, bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc của chủ

thể, bằng thế giới gần gũi quen thuộc của ca dao, dân ca, truyền thuyết, cổ

tích… được phát hiện từ nhiều ý nghĩa mới và sâu sắc.

* Dạy học đoạn trích “Đất Nước”theo hướng phát triển năng lực cảm xúc

thẩm mĩ ở HS, chúng ta có thể tiến hành bài học theo ba bước sau:

- Đưa HS đến với hình tượng Đất Nước qua cái nhìn và lí giải mới mẻ,

độc đáo của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.

- Khơi gợi HS khám phá tư tưởng, tình cảm của nhà thơ gửi gắm trong

văn bản đoạn trích.

- Khơi gợi HS phát hiện những sáng tạo nghệ thuật của tác giả.

Bước 1 Đưa HS đến với hình tượng Đất nước trong văn bản thơ.

Hình tượng Đất Nước ở văn bản thơ này được nhà thơ Nguyễn Khoa

Điềm khắc họa bằng những suy tư mang đậm tư tưởng nhân dân và bằng vốn

kiến thức về văn học dân gian và văn hóa dân gian, nên hiện lên rất mới mẻ và

độc đáo.

* Trước hết nhà thơ đặt ra câu hỏi: Đất nước ta có tự bao giờ? Và lí giải

không bằng tri thức về lịch sử các triều đại (Ngô, Đinh, Lê,Lí, Trần, Lê, Mạc,

Tây Sơn, Nguyễn…), mà lí giải bằng sự cảm nhận ở chiều sâu của văn hóa và

lịch sử, được ghi lại trong văn học dân gian và văn hóa dân gian truyền thống:

“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”

Lịch sử lâu đời của Đất Nước ta đã để lại dấu ấn trong các truyện cổ tích

“mẹ thường hay kể ”; truyện Trầu Cau, truyện Thánh Gióng;

Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc;

Còn để lại dấu ấn trong những phong tục tập quán riêng biệt có từ lâu đời:

48

“Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần sàng

Đất Nước có từ ngày đó”

Như vậy lịch sử lâu đời của đất nước đã được thể hiện rõ trong đời sống vật

chất và đời sống tinh thần gần gũi, thân thiết, bình dị của dân ta từ ngàn đời nay.

Đây là nét riêng biệt và đắc sắc đầu tiên trong cảm nhận của tác giả về

Đất Nước.

* Nét riêng biệt và đặc sắc thứ hai trong cảm nhận của tác giả về đất

nước thể hiện ở sự lí giải của tác giả về câu hỏi; Đất Nước là gì?

“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Như vậy, theo tác giả, Đất Nước là cái không gian rất gần gũi với cuộc

sống của mỗi người, của mỗi cá nhân, nơi hàng ngày diễn ra tình yêu đôi lứa

Đất nước là những ngọn núi, dòng sông, mặt biển:

“Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Hai câu thơ trên là tác giả lấy ý từ câu hò Bình Trị Thiên có nguyên văn:

“con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc - Con cá ngư ông móng nước

ngoài khơi - gặp nhau đây xin phân tỏ đôi lời - kẻo mai kia con cá về sông vịnh,

con chi nọ đổi dời về non xanh”.

* Đất Nước chính là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc trải qua

bao thế hệ, đã từng bao lần chia tách rồi đoàn tụ:

49

“Thời gian đằng đẵng

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ

… Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cái chuyện mai sau.

* Đất Nước không ở đâu xa mà kết tinh, hóa thân trong cuộc sống của

mỗi con người. Sự sống mỗi cá nhân không phải chỉ riêng của cá nhân mà còn

là của Đất Nước, bởi vì mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn

hóa tinh thần và vật chất của dân tộc, của nhân dân:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần đất nước

Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất Nước ven tròn to lớn

Bởi thế, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm giữ gìn, phát triển những di sản

văn hóa của dân tộc, truyền lại cho các thế hệ tiếp theo; mỗi cá nhân phải có

trách nhiệm với Đất Nước:

“Em ơi Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời".

* Nét riêng biệt và đặc sắc thứ ba trong cảm nhận và lí giải về Đất Nước

của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là khắc sâu tư tưởng Đất Nước của nhân dân,

chính nhân dân đã làm nên Đất Nước.

* Để làm sáng tỏ tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” tác giả đã lí giải

bằng một cái nhìn có chiều sâu về cảnh quan thiên nhiên gồm núi sông, các

thắng cảnh, ruộng đồng gò bãi…

50

Theo tác giả các cảnh quan thiên nhiên đó đều gắn liền với cuộc sống

của con người, của nhân dân. Nếu không có những người vợ mòn mỏi nhớ

chồng qua các cuộc li tán thì cũng không có núi vọng phu; nếu không có những

cặp vợ chồng yêu nhau thủy chung, son sắt thì không có hòn Trống Mái; nếu

không có truyền thuyết về Thánh Gióng đánh giặc Ân thì không có trăm ao

đầm để lại; nếu không có truyền thuyết về đàn voi 99 con quây quần chầu phục

đất tổ thì không có những đồi núi bao quanh đền thờ các vua Hùng…

Sau khi đưa ra những dẫn chứng cụ thể như vậy, nhà thơ đi đến kết luận:

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

chẳng mang một dáng hình một ao nước, một lối sống ông cha.

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.”

Có thể nói đây là một phát hiện mới mẻ và độc đáo của nhà thơ Nguyễn

Khoa Điềm về chiều sâu văn hóa của cảnh quan thiên nhiên của đất nước ta.

Những cảnh quan thiên nhiên chỉ có trở thành thắng cảnh khi nó gắn liền với

con người và được cảm nhân qua tâm hồn của nhân dân.

* Lại để làm sáng tỏ tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” nhà thơ đã lí giải

về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước ta bằng một cái nhìn mới mẻ. Thông

thường, khi nói đến lịch sử bốn nghìn năm của đất nước người ta thường nói

đến các triều đại, các nhân vật lịch sử nổi tiếng: Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lí

Công Uẩn, Trần Hung Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,…

Ở đây nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm nói tới những con người vô danh, bình

dị và chính những người dân thường ấy đã gây dựng nên và bảo vệ đất nước

của chúng ta.

“Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Vào bốn nghìn năm đất nước

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

51

Con gái con trai bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái ở nhà nuôi cái cùng con

Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

Nhiều người đã trở thành anh hùng…

… Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm nên đất nước

Và chính những người vô danh, bình dị ấy đã giữ gìn và truyền lại cho

các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa tinh thần và vật chất của đất nước: “Hạt lúa ta

trồng”, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã tên làng, ruộng nương, bờ bãi…

* Từ những điều lí giải trên, nhà thơ khẳng định một cách chắc nịch:

“Để Đất Nước này là đất nước của nhân dân

Đất nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”

Nhà thơ không chỉ nhắc lại hai lần câu chữ “Đất Nước của nhân dân” để

nhấn mạnh ý thơ, mà còn phát triển thêm tư tưởng ấy bằng một kết luận độc

đáo: “Đất Nước của ca dao thần thoại”.

Nói đến ca dao thần thoại là nói đến tâm hồn của nhân dân ta với những

truyền thống quý báu say đắm trong tình yêu (“Yêu em từ thuở trong nôi”), quý

trọng tình nghĩa (“quý ông cầm vàng những ngày lăn lộn”) nhưng cũng quyết

liệt trong căm thù và kiên cường trong chiến đấu (“Biết trồng tre đợi ngày

thành gậy. Đi trả thù mà không đợi dài lâu”) và cũng rất yêu đời (Ôi những

dòng sông bắt mối từ đâu. Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát)

Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” đã từng được nói đến trong thơ của

Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu và trong thơ thời kháng chiến

chống pháp của Nguyễn Đình Thi, Trần Mai Ninh, Hoàng Cầm nhưng đến thơ

52

thời chống Mỹ thì tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” mới được nhận thức sâu

sắc, mà đoạn thơ “Đất Nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một sáng tác

tiêu biểu.

Bước 2. Khơi gợi HS phát hiện những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của

nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm ở văn bản thơ “Đất Nước”.

- Trích đoạn “Đất Nước” là một đoạn thơ trữ tình chính luận, cho nên tư

tưởng, tình cảm của nhà thơ đã được bộc lộ rõ qua việc xây dựng hình tượng

Đất Nước đã được khám phá ở bước 1. Bởi vậy không cần phải tiến hành bước

2 - bước khám phá tâm hồn nhà thơ mà tiến đến bước 3 luôn - bước phát hiện

những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.

- Ở đoạn trích “Đất Nước” nhà thơ có những sáng tạo nghệ thuật độc

đáo sau:

* Sáng tạo thứ nhất: Nội dung tư tưởng và cảm xúc là nói tới những vấn

đền lớn lao về chính trị: Đất Nước ta có từ bao giờ? Đất Nước là gì? Đất Nước

do ai làm nên? Tác giả luận giải những nội dung ấy không phải bằng những câu

thơ nghị luận khô khan, mà tác giả dùng những lời trò chuyện tâm tình của một

người con trai nói với người con gái mình yêu, bằng một giọng thơ trữ tình đằm

thắm, tha thiết, bằng thể thơ tự do với những câu thơ co duỗi linh hoạt, rất giàu

nhạc điệu, phù hợp với nội dung suy tư và cảm xúc.

* Sáng tạo thứ hai: Bằng một vốn kiến thức phong phú về văn học dân

gian (ca dao, dân ca, thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích…) và văn hóa dân

gian (phong tục, tập quán, sinh hoạt, vật dụng quen thuộc, lối sống tâm hồn của

dân tộc) cùng với sự suy tưởng sâu sắc, nên tác giả đã phát hiện được nhiều ý

nghĩa mới và sâu về những địa danh và thắng cảnh quen thuộc của đất nước ta.

Lại bằng việc sử dụng sáng tạo những chất liệu dân gian ấy mà nhà thơ đã tạo

lên trong văn bản một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi vừa bay bổng của ca dao,

truyền thuyết, truyện cổ tích …

- Cách vận dụng ca dao, truyền thuyết, truyện cổ tích… của tác giả cũng

rất sáng tạo: Tác giả thường gợi ra một vài chữ trong câu ca dao hay một vài

53

hình ảnh, chi tiết trong truyền thuyết, truyện cổ tích mà gợi ra bao biểu tương:

“Đất Nước” có trong những cái “Ngày xưa ngày xưa” gợi ra kho tàng truyện cổ

tích; “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” gợi ra truyền

thuyết về Thánh Gióng; “cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” gợi ra

thành ngữ dân gian chỉ tính vợ chồng mặn mà thủy chung; “Đất Nước là nơi em

đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” gợi ra bài ca dao “khăn thương nhớ

ai”… Có khi tác giả trích dẫn nguyên vẹn cả một bài dân ca: Đất là nơi “con

chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”. Nước là nơi “con cá ngư ông móng

nước biển khơi”…

Đặc biệt tác giả đã phát hiện ra nhiều ý nghĩa mới và sâu trong từng dòng

sông, ngọn núi trên đất nước ta:

“Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi vọng phu.

Cặp vợ chồng yêu nhau ngóp nên hòn trống mái

…Người học trò nghèo góp cho đất nước mình núi Bút non Nghiên

Con cóc con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”…

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”…

Nghệ thuật sử dụng sáng tạo các chất liệu dân gian được đưa vào các câu

thơ tự do còn làm nên tính hiện đại của thơ Nguyễn Khoa Điềm với đặc điểm là

có sự kết hợp chặt chẽ giữa chính luận và trữ tình, giữa suy tưởng và cảm xúc.

2.2.4. Bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

Nổi lên trên văn bản bài thơ “Sóng” là hai hình tượng: Sóng và em.

“Sóng” là hình tượng khách thể trữ tình “Em” là hình tượng chủ thể trữ tình.

Và đằng sau hai hình tượng đó là thế giới tâm hồn của nhà thơ. Dạy học bài bài

thơ này theo định hướng phát triển năng lực cảm thụ ở HS, chúng ta có thể tiến

hành theo các bước:

- Hướng dẫn HS thâm nhập vào hình tượng Sóng và hình tượng Em.

- Khơi gợi các em khám phá tâm hồn nhà thơ.

54

- Khơi gợi các em phát hiện đặc điểm thơ của Xuân Quỳnh ở bài thơ “Sóng”.

Bước 1. Hướng dẫn HS thâm nhập vào hình tượng Sóng và hình tượng Em.

* Mở đầu bài thơ là hình ảnh những cơn sóng biển được miêu tả một

cách cụ thể, sinh động: Những lúc giông bão thì sóng “dữ dội” và “ồn ào”, còn

những lúc đẹp trời thì “dịu êm”và “lặng lẽ”. Và con sóng ở đây lại dường như

có tính cách, có tâm trạng:

“Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Thực ra đây là tâm trạng của nhân vật “Em”. Ở đây có sự tương đồng

giữa hình tượng sóng và tâm hồn của Em- một người con gái đang yêu. Tính

khí của những người con gái đang yêu cũng giống như những con sóng biển:

“Dữ dội và dịu êm - ồn ào và lặng lẽ”, nghĩa là: khi thì bồng bột sôi nổi, lúc thì

kín đáo sâu sắc; khi thì nồng nhiệt, khi thì âm thầm; khi thì đắm say, khi thì

tỉnh táo… Đó là trạng thái khác thường ở những người phụ nữ đang tràn đầy

khao khát tình yêu và hạnh phúc lứa đôi, nhất là những người con gái không

chịu chấp nhận tình yêu tầm thường, nhỏ hẹp, muốn vươn tới một tình yêu cao

cả. Nếu “Sông không hiểu nổi mình” thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó

để “tìm ra tận bể để được đến với cái cao rộng… Đó là những phương diện

phong phú, phức tạp, nhiều khi mâu thuẫn trong tâm hồn những người con gái

đang yêu.

* Ba khổ thơ tiếp theo là hình tượng tâm tư của nhân vật “Em”:

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ.

Cũng giống như những con sóng, tình yêu của con người mãi mãi trường

tồn theo thời gian, nỗi khát vọng tình yêu luôn xôn xao, rạo rực trong trái tim

tuổi trẻ.

55

Và tình yêu là một hiện tượng tâm lí đầy huyền bí, không thể giải thích

được về thời điểm bắt đầu của nó: Tình yêu cũng giống như sóng biển, như gió

trời làm sao mà hiểu được:

Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển lớn

Từ nơi nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yên nhau.

“Em” đã có một tình yêu như em mong muốn.Và khi đã yêu rồi thì mỗi

khi xa cách nhau thường là nỗi nhớ. Một nỗi nhớ cồn cào, da diết,thường trực

cả khi thức lẫn khi ngủ, nó cuồn cuộn,dào dạt như như những đợt sóng biển

triền miên,vô tận:

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ tới anh

Cả trong mơ còn thức

Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương

“Em” tin vào hạnh phúc trong tương lai như nhũng con sóng nhất định sẽ

vô bờ, “dù muôn vàn cách trở”

56

Ở ngoài kia đại dương

Trăm ngàn con sóng đó

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vàn cách trở.

Tuy vậy. “em” vẫn thấp thỏm lo âu, vẫn ám ảnh về cái mong manh của

tình yêu:

Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn qua đi

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa.

Cuộc đời con người “tuy dài thế” nhưng so với năm tháng vĩnh hằng

“năm tháng vẫn qua đi” thì cũng chỉ là hữu hạn trước cái vô hạn. Cũng như

“biển kia dẫu rộng” nhưng so với cái bao la của vũ trụ “mây vẫn bay về xa” thì

chẳng qua cũng chỉ là một thực thể nhỏ bé, mong manh mà thôi.

Cuối cùng “Em” có khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn

hóa thân thành những con sóng để vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở:

Làm sao được tan ra

Làm trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ

Bước 2. Khơi gợi HS khám phá tâm hồn của nhà thơ

Nhà thơ Xuân Quỳnh viết bài thơ Sóng vào năm 1967, khi mà chị đã

nếm trải sự đổ vỡ trong hạnh phúc gia đình. Qua hình tượng Sóng và Em, nhà

thơ đã nói lên thật chân thành, táo bạo, không hề giấu giếm khát vọng tình yêu

sôi nổi, mãnh liệt của mình.

Hai hình tượng “Sóng” và “Em” song song tồn tại từ đầu đến cuối bài

thơ, đan cài vào nhau, soi sáng bổ sung cho nhau, nhằm diễn tả một cách sâu

sắc thấm thía khát vọng tình yêu đang cuồn cuộn trào dâng trong trái tim nhà

57

thơ. Đó là những cảm xúc, những tâm trạng, những tình cảm vừa phong phú,

phức tạp, vừa thiết tha sôi nổi của một người con gái đang rạo rực yêu đương,

không chịu yên định mà đầy biến động, khao khát.

Ngay từ đầu nhà thơ đã bộc lộ rõ các rạo rực của trái tim mình, một trái

tim đang cháy bỏng niềm khao khát yêu thương. Nhà thơ bộc bạch: Khi đến với

tình yêu, con sóng lòng trong ai mà chẳng giống như những con sóng ngoài

biển khơi: “Dữ dội và dịu êm, ồn ào và lặng lẽ”, nghĩa là sự thất thường trong

tính khí của kẻ đang yêu và niềm khao khát được giải thoát mình khỏi cái

không gian chật hẹp mà mình đã vướng phải: “Sông không hiểu mình, sóng tìm

ra tận bể”.

Xuân Quỳnh viết bài thơ “Sóng” vào thời điểm nhà thơ đã từng mọt lần

nếm trải sự đổ vỡ trong tình yêu, cho nên nhà thơ vẫn bị ám ảnh về cái mong

manh của tình yêu: “Cuộc đời tuy dài thế… Mây vẫn bay về xa.”, tuy vậy sự

ám ảnh ấy không làm nguội tắt ngọn lửa khát vọng trong tâm hồn nhà thơ.

Bước 3. Khơi gợi HS phát hiện những sáng tạo nghệ thuật của tác giả trong bài

thơ “Sóng”

Sự sáng tạo nghệ thuật đầu tiên của nhà thơ Xuân Quỳnh ở bài thơ “Sóng”

là dùng thể 5 chữ. Nội dung bài thơ là những cảm xúc, tâm trạng, những sắc thái

tình cảm vừa phức tạp, vừa sôi nổi của trái tim người phụ nữ đang rạo rực yêu

đương được tác giả lựa chọn cách diễn đạt rất phù hợp: thể thơ 5 chữ với những

câu thơ ngắt nhịp và phối âm linh hoạt phóng túng đã gợi lên thật ấn tượng, âm

điệu của những cơn sóng biển cả và cả những con sóng lòng trong tâm hồn nhà

thơ khi thì dồn dập, dữ dội; khi thì êm dịu, khoan thai…

Sáng tạo nghệ thuật thứ hai là kết cấu bài thơ. Văn bản bài thơ được kết

cấu trên cơ sở nhận thức về sự tương đồng, hòa hợp giữa nhưng cơn sóng lòng

ở trong một người phụ nữ đang rạo rực yêu đương. Sóng biển xôn xao triền

miên vô tận với trạng thái “Dữ dội và dịu êm- Ồn ào và lặng lẽ” gợi liên tưởng

đến sóng lòng trong lòng người con gái đang yêu với những trạng thái khi bồng

58

bột, sôi nổi, khi kín đáo sâu sắc… Kết cấu ấy đã dựng lên trong bài thơ hai hình

tượng trữ tình Sóng và Em đan cài vào nhau, hỗ trợ, bổ xung cho nhau để làm

nổi bật tâm trạng người con gái đang yêu.

Sáng tạo thứ ba là cách giãi bày tâm trạng rất Xuân Quỳnh. Đó là cách

giãi bày xen kẽ giưa hình ảnh ẩn dụ với những lời bộc lộ trực tiếp:

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức

… Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa.

2.2.5. Bài thơ Đàn Ghi ta của Lor-Ca của nhà thơ Thanh Thảo

Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”là bài thơ hiện đại được viết theo phong

cách tượng trưng, với cách biểu đạt khác lạ so với thơ truyền thống của Việt

Nam.Bởi vậy đây là một bài thơ rất khó tiếp nhận đối với các thầy và trò trong

các trường phổ thông của Việt Nam. Để có thể đọc hiểu được bài thơ, người

đọc cần có những hiểu biết sơ bộ về nhà thơ Lor-ca, về thơ tượng trưng, thơ

siêu thực, về nhà thơ Thanh Thảo.

* Về nhà thơ Lor-ca: “Theo từ điển văn học” (Bộ mới) ở trang 505 thì:

“Federico Gracia Lor-ca (1898-1936) là nhà thơ lớn của Tây Ban Nha. Học đại

học ở Granađa, từ 1919, lên Madrits (thủ đô của Tây ban Nha) và bắt đầu sáng

tác văn học. Nổi tiếng ngay từ những tập thơ đầu tiên.

Những năm 1929-1930, Lor-ca sang Mỹ và Cuba… ông tham gia hiệp

hội tri thức chống phát xít. Ông sáng tác nhiều kịch bản. Kịch bản của Lor-ca

59

có nhiều cách tân về nội dung và nghệ thuật, tràn đầy tình yêu đối với nhân

dân.Tính nhân dân của tác phẩm Lor-ca cũng thể hiện rất rõ trong hai tập thơ

cuối cùng… Lor-ca ca ngợi nhân dân nồng nhiệt, cổ vũ nhân dân trong cuộc

đấu tranh với mọi thế lực phản động, giành quyền sống cho mình, với một nghệ

thuật thơ mới mẻ, táo bạo.

Năm 1936, Lor-ca bị bọn phát xít bắt giam và bị bắn chết ở Granađa. Cái

chết của ông đã làm dâng lên một làn sóng phẫn nộ hết sức mạnh mẽ trên toàn

thế giới đối với bạn bè là Frăng cô.Tên tuổi của ông trở thành biểu tượng ngọn

cờ tập hợp các nhà văn hóa Tây Ban Nha và trên thế giới chiến đấu chống phát

xít, bảo vệ văn hóa dân tộc và văn minh nhân loại.” (Bằng Việt).

* Về chủ nghĩa tượng trưng: Theo” Từ điển văn học” (Bộ mới) ở trang

297: “Chủ nghĩa tượng trưng là một trào lưu nghệ thuật và một quan điểm triết

học, mỹ học ở cuối thể kỷ XIX, đầu thề kỷ XX. Nảy sinh như một khuynh

hướng văn học ở Pháp những năm 60, 70… sau đó lan rộng thành một hiện

tượng văn hóa ở toàn Châu Âu, bao gồm cả sân khấu, hội họa, âm nhạc. Ở Nga

chủ nghĩa tượng trưng nảy sinh những năm 90.

Chủ nghĩa tượng trưng coi vô thức, trực giác là cái chủ yếu trong sáng

tác nghệ thuật… yêu cầu thơ trước hết phải có nhạc tính, hình tượng có khả

năng không chỉ biểu đạt những sự tương hợp của các khách thể và hiện tượng

mà trước hết có khả năng truyền đạt nội dung thể nghiệm của ý thức, do vậy ở

tác phẩm tượng trưng, biểu tượng vật thể được đan bện chặt với các thủ pháp

gây ấn tượng… Vai trò chủ đạo trong nhận thức và sáng tác nghệ thuật của chủ

nghĩa tượng trưng là trực giác - được đồng nhất với sự bừng ngộ thần bí…”

(Lại Nguyên Ân).

* Chủ nghĩa siêu thực là một khuynh hướng văn học và nghệ thuật nảy

sinh trong những năm 10-20 của thế kỉ XX ở Pháp.

Chủ nghĩa siêu thực chủ trương giải thoát cái “tôi” của con người khỏi sự

trói buộc của chủ nghĩa duy vật, của logic, của chân lí của đạo đức, của mĩ học

60

truyền thống… chân lí đích thực của thực tại, theo họ nằm ở khu vực của vô

thức và nghệ thuật cần phải đưa chúng ra, biểu hiện chúng vào tác phẩm…

Trong thơ nhất là thơ trữ tình, mô hình xuất phát của mọi hoạt động sáng tạo là

“viết tự động”, tức là tốc kí lấy những từ, những mẩu lời nói, những hình ảnh

ám ảnh… vừa xuất hiện trong đầu óc”…(trang 293).

* Nhà thơ Thanh Thảo (xem phần “Tiểu dẫn trong SGK Ngữ văn 12-

Tập một)

Dạy học bài thơ “Đàn Ghi ta của Lor-ca” theo định hướng phát triển

năng lực cảm xúc thẩm mĩ ở HS là một việc rất khó khăn, bởi vì bài thơ được

viết theo phong cách thơ tượng trưng có pha màu sắc siêu thực, rất xa lạ với bài

thơ truyền thống.

Cái khó khăn đầu tiên là làm sao cho HS hiểu được ý và nghĩa của những

câu thơ được cấu tạo bằng lối kết hợp “lạ hóa”. Ví dụ: nhà thơ định nói gì ở các

câu thơ:

“Những tiếng đàn bọt nước

Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt

li la li la li la

đi lang thang về miền đơn độc với vầng trăng chếnh choáng

trên yên ngựa mỏi mòn”

Hoặc các câu thơ sau đây nhằm diễn đạt ý gì?

“tiếng ghi ta nâu

bầu trời cô gái ấy

tiếng ghi ta lá xanh biết mấy

tiếng nghi ta tròn bọt nước vỡ tan

tiếng ghi ta

ròng ròng máu chảy.v.v

Chúng ta biết rằng: thơ tượng trưng không coi trọng tả thực mà thiên về

gợi ra những ý nghĩa tượng trưng về những hình ảnh do nhà thơ sáng tạo ra

61

được viết theo lối sắp đặt dựa trên nguyên lí cốt lõi của cấu trúc gián đoạn.Dựa

vào đặc điểm này, người dạy có thể khuyến khích người học khám phá ra ý

nghĩa tượng trưng của những hình ảnh thơ được “lạ hóa’, để từ đó có thể hiểu

được nội dung tư tưởng của bài thơ.

Bước 1: Khơi gợi HS tưởng tượng, hình dung về hình ảnh Lor-ca trên đất nước

Tây Ban Nha

* Trước hết nhà thơ Thanh Thảo đã gợi ra một khung cảnh mang đậm nét

đặc trưng của văn hóa Tây Ban Nha: “Những tiếng đàn bọt nước”, “li-la li-la li-

la”. Hai câu thơ này gợi ra đất nước Tây Ban Nha là một nơi sản sinh ra cây

đàn ghi ta. Bởi thế ở Việt Nam ta, đàn ghi ta còn được gọi là Tây Ban Cầm.

Hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” gợi ra môn đấu bò tót, một hoạt động văn hóa rất

truyền thống của Tây Ban Nha. Rồi các hình ảnh “vầng trăng”, “yên ngựa”,

“Cô gái Di-gan”… đều góp phần khắc họa một không gian văn hóa đậm bản

sắc Tây Ban Nha.

Hình tượng Lor-ca nổi lên trên khung cảnh đậm bản sắc văn hóa Tây

Ban Nha đó “đi lang thang về miền cô độc

với vầng trăng chếnh choáng

trên yên ngựa mỏi mòn

tây Ban Nha

hát nghêu ngao”

Những hình ảnh trên gợi ra hình tượng Lor-ca là một nghệ sĩ hát rong tự

do và cô đơn, đi lang thang “hát ngêu ngao”cùng “tiếng đàn bọt nước”, người

đã dùng tiếng đàn ghi ta để giãi bày nỗi đau và khát vọng yêu thương của nhân

dân mình.

Năm 1936 chính quyền phản động thân phát xít của Tây Ban Nha đã bắt

giam và bắn chết ông.Nhà thơ Thanh thảo đã tái hiện lại cảnh Lor-ca bị sát hại

bằng những câu thơ rất ám ảnh:

62

Bỗng kinh hoàng

áo choàng bê bết đỏ

Lor-ca bị điều về bãi bắn

chàng đi như người mộng du

…tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy

Cái chết bi thảm của Lor-ca diễn ra quá đột ngột

Tây Ban Nha hát nghêu ngao

bỗng kinh hoàng

áo choàng bê bết đỏ

Lor-ca bị điều về bãi bắn

Tiếp theo những câu thơ tả thực trên là những câu thơ được viết theo

kiểu sắp đặt của thơ tượng trưng để nói về những mất mát lớn lao từ sự kiện

thảm khốc đó:

Tiếng ghi ta nâu

bầu trời cô gái ấy

tiếng ghi ta lá xanh biết máy

tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan

tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy

Cái chết của Lor-ca đã làm tiêu tan tất cả: tình yêu (tiếng ghi ta nâu, bầu

trời cô gái ấy), cái đẹp, (tiếng ghi ta lá xanh). Cái chết bi thảm ấy đã đưa đến

một sự mất mát khôn lường (tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan) và một sự đau

đớn khôn xiết (tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy)…

Bước 2. Khơi gợi HS khám phá tâm hồn nhà thơ gửi gắm trong văn bản thơ

* Trước hết nhà thơ Thanh Thảo đã gửi gắm trong văn bản thơ nỗi đau

xót trước cái chết của Lor-ca qua những câu thơ tái hiện cảnh tượng Lorca bị

hành hình và những mất mát dây chuyền từ cái chết của ông.

* Không những thế, nhà thơ Thanh Thảo còn giãi bày nỗi xót đau trước

sự dang dở của một khát vọng cách tân nghệ thuật thơ ca bằng những hình ảnh

đẹp được viết theo lối sắp đặt dựa trên nguyên lí cốt lõi của cấu trúc gián đoạn.

63

Không ai chôn cất tiếng đàn

tiếng đàn như cỏ mọc hoang

giọt nước mắt vầng trăng

long lanh trong đáy giếng

Nhà cách tân Lor-ca đã chết, nghệ thuật thiếu vắng kẻ dẫn đường, nghệ

thuật thành thứ cỏ mọc hoang!

Với khổ thơ trên có người lại hiểu: “Tiếng đàn tượng trưng cho nghệ

thuật của Lor-ca, cho tình yêu tự do và tình yêu con người mà ông suốt đời theo

đuổi. Đấy là cái đẹp không thể hủy diệt, nó sẽ sống và sẽ truyền lan mãi, giản

dị và kiên cường như cỏ dại… Thanh Thảo đã sử dụng các biện pháp so sánh-

ẩn dụ và tượng trưng hóa để khắc đậm niềm tin bất diệt vào sự bất hủ của tiếng

đàn Lorca…

* Cuối cùng nhà thơ Thanh Thảo cũng gửi gắm, giãi bày sự suy tư của

mình về cái chết của Lor-ca, vừa là để an ủi mình, vừa là giãi bày lòng kính

trọng đối với Lor-ca

“đường chỉ tay đã đứt

dòng sông rộng vô cùng

Lor-ca bơi sang ngang

trên chiếc ghi ta màu bạc

chàng ném lá bùa vào cô gái Digan

và xoáy nước

chàng ném trái tim mình

vào lặng yên bất chợt.

“Đường chỉ” tay trên lòng bàn tay của từng người là đường chỉ số mệnh

của người đó. “Đường chỉ tay vừa đứt” là ẩn dụ về số phận, về định mệnh

nghiệt ngã. Thôi đành chấp nhận định mệnh phũ phàng để Lor-ca đi vào cõi

khác: “Lor-ca bơi sang ngang, trên chiếc ghi ta màu bạc”.

Các hình ảnh: ‘Chàng ném lá bùa vào cô gái Digan vào xoáy nước, chàng

ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt” đều là những hình ảnh tượng trưng cho

64

sự giã từ và giải thoát… Thế là Lor-ca đã thực sự chia tay trần gian… Với lòng

kình trọng Lor-ca, hãy để cho Lor-ca có được một sự giải thoát thực sự…

Bước 3. Khơi gợi HS khám phá những sáng tạo nghệ thuật của tác giả

Ở bài thơ này, nhà thơ Thanh Thảo đã có những sáng tạo nghệ thuật độc đáo

* Trước hết, đó là sáng tạo trong cấu trúc văn bản thơ. Văn bản thơ “Đàn

ghita của Lorca” ngoài cấu trúc tự sự có thêm một cấu trúc nữa là cấu trúc nhạc.

Các chuỗi âm “Li-la li-la li-la” đặt sau hai câu thơ đầu và ở cuối bài gợi liên tưởng

tới nhạc đệm của đàn ghi ta sau những ca khúc mở đầu hoặc khi ca khúc đã dừng

lời… Việc “cấy” nhạc vào một văn bản thơ gợi liên tưởng tới nhà thơ hát rong

Lor-ca (Tây Ban Nha hát nghêu ngao…) với lòng kình trọng và tri ân.

* Đây là một bài thơ hiện đại được viết theo phong cách thơ tượng trưng

với cách biểu đạt rất khác lạ so với thơ truyền thống. Nhà thơ Thanh Thảo dùng

phổ biến các kết hợp “lạ hóa” để sáng tạo hình ảnh khiến cho các hình ảnh thơ

mang ý nghĩa tượng trưng. “những tiếng đàn bọt nước” “tiếng ghi ta nâu”, “bầu

trời cô gái ấy”, “tiếng ghi ta lá xanh biết mấy”, “tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ

tan”, “tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy”.

Nhiều hình ảnh trong bài thơ được viết theo lối sắp đặt, dựa trên nguyên

lí cốt lõi của cấu trúc gián đoạn:

…giọt nước mắt vầng trăng

long lanh trong đáy giếng

đường chỉ tay đã dứt

dòng sông rộng vô cùng

Lorca bơi sang sông

trên chiếc đàn ghi ta màu bạc…

65

Tiểu kết chương 2

Dựa trên định hướng chung về dạy học phát huy năng lực thẩm mỹ cho

học sinh khi học các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong SGK 12, chúng tôi

đã vận dụng và tìm ra con đường phát huy năng lực thẩm mỹ cho học sinh ở

từng bài thơ cụ thể. Đây là cơ sở quan trọng để người dạy cũng như người học

thoát khỏi những lúng túng, khó khăn thường gặp và dễ dàng thực nghiệm, áp

dụng trong quá trình dạy học các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong SGK 12.

66

Chương 3

THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM

Dựa vào định hướng dạy học đã được đề xuất ở chương 2, chúng tôi tiến

hành thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng tính khả thi và tính hiệu quả của

định hướng dạy học mà luận văn đề xuất đối với bài thơ Tây Tiến của nhà thơ

Quang Dũng. Chương 3 này bao gồm 2 phần (3.1. Thiết kế dạy học bài thơ Tây

Tiến của Quang Dũng; 3.2. Dạy học thực nghiệm đối chứng bài thơ Tây Tiến

của Quang Dũng).

3.1. Thiết kế dạy học bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng theo định

hướng dạy học do luận văn đề xuất

Ở chương 2- Chương định hướng dạy học các bài thơ trong SGK Ngữ văn

12 - với bài thơ “Tây Tiến”, luận văn đã đề xuất dạy học theo 3 hoạt động chính:

- Đưa HS đến với thế giới hình tượng khách thể: cảnh núi rừng miền

Tây, cuộc hành quân lên miền Tây và hình tượng tập thể những người lính

trong đoàn quân Tây Tiến.

- Khơi gợi Hs khám phá tâm hồn nhà thơ.

- Khơi gợi HS phát hiện những sáng tạo nghệ thuật của tác giả.

Theo định hướng trên luận văn đề xuất một thiết kế dạy học bài thơ như sau:

A. Mục tiêu bài học: Giúp HS

* Kiến thức: Rung cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên miền Tây và vẻ đẹp

của hình ảnh người lính Tây Tiến trong bài thơ. Cảm nhận được vẻ đẹp hào

hoa, tinh tế của tâm hồn nhà thơ được thể hiện trong văn bản thơ. Nắm được

những sáng tạo nghệ thuật độc đáo và tài hoa của tác giả Quang Dũng.

* Kỹ năng: Đọc - hiểu thơ hiện đại Việt Nam theo đặc trưng thể loại.

Nhận biết, phân tích, lí giải, bình luận về một đoạn thơ, bài thơ.

* Thái độ: Từ đó HS yêu mến, tự hào về thế hệ cha ông trong cuộc

kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, có ý thức sống xứng đáng với thế hệ

ông cha.Sống có lý tưởng, sống cống hiến và có ích cho xã hội.

67

* Hình thành và phát triển năng lực ở HS: Năng lực tự học, hợp tác,

năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực giao tiếp. năng lực cảm

thụ thẩm mỹ…

B. Tiến trình bài học

Bước 1. Hoạt động khởi động, trải nghiệm

- Mục tiêu:

+ Tạo tâm thế cho HS tiếp nhận bài thơ, tái hiện không khí những ngày

kháng chiến chống Pháp của dân tộc.

+ Giúp HS có cơ hội thể hiện năng lực tự học để trình bày hiểu biết của

mình về cuộc kháng chiến chống Pháp, về người lính cụ Hồ.

+ Giáo viên nắm được mức độ hiểu biết của HS để có định hướng phù

hợp ở các hoạt động tiếp theo trong bài dạy.

+ Hiểu được những nét cơ bản về nhà thơ Quang Dũng, không khí và

hoàn cảnh ra đời của bài thơ Tây Tiến.

- Phương pháp: trực quan, trải nghiệm, trao đổi.

- Thời gian: 10 phút.

- Nhiệm vụ chuẩn bị: GV giao cho nhóm HS chuẩn bị trước ở nhà

clip hoặc một số hình ảnh về Tây Bắc và về những người lính trong kháng

chiến chống Pháp.

- Nhóm HS đọc tiểu dẫn và trình bày kết quả nhiệm vụ được giao :

+ Một số tranh ảnh người lính chống Pháp.

+ Bài thơ đồng chí của Chính Hữu viết về người lính chống Pháp.

+ Clip về cuộc kháng chiến chống Pháp ở miền Tây Bắc.

- GV: Đánh giá hoạt động của HS và tóm lược bằng diễn giảng.Trang bị

cho HS những hiểu biết cần thiết để tiếp nhận bài thơ:

1.1. Đoàn quân Tây Tiến:

Đó là một đơn vị bộ đội được thành lập vào đầu năm 1947, năm đầu của

cuộc kháng chiến chống Pháp.Đơn vị bộ đội này có nhiệm vụ hành quân lên

68

miền Tây Bắc của Bắc bộ nước ta (bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu. Hòa

Bình và miền Tây tỉnh Thanh Hóa) để tiêu hao lực lượng quân đội Pháp, phối

hợp với bộ đội Lào đánh giặc Pháp ở Thượng Lào. Những nơi này, thời bấy

giờ, còn rất hoang vu và hiểm trở: núi cao, vực sâu, rừng rậm có nhiều thứ

dữ… Vì thế, đơn vị đó được gọi là Đoàn quân Tây Tiến.

Đoàn quân Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng

lớp khác nhau, trong đó có những HS, sinh viên. Cuộc sống của những người

lính Tây Tiến nói riêng, bộ đội ta nói chung vào những năm đầu của cuộc

kháng chiến chống Pháp( 1946,1947,1948,1949,1950…) hết sức gian khổ:ăn

đói, mặc rét,ốm đau không có thuốc men,tử vong vì bị bệnh sốt rét rất

nhiều.Tuy vậy, hộ vẫn sống lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.Riêng những

người lính xuất thân từ HS, sinh viên, mặc dù sống trong hoàn cảnh cực kì gian

khổ, họ vẫn giữ được cốt cách hào hoa,thanh lịch của người Hà Nội, vẫn yêu

đời và lãng mạn…

1.2. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ “Tây Tiến”

Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về tỉnh Hòa

Bình thành lập Trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm

1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa được bao lâu,

ngồi ở Phù Lưu Chanh,một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ, ông viết bài thơ “Tây

Tiến”, ghi lại nỗi nhớ da diết của mình về đoàn quân Tây Tiến trong cuộc hành

quân lên miền tây Bắc Bộ để phối hợp bộ đội Lào tiêu hao lực lượng của giặc

Pháp. (Lúc bấy giờ miền tây Bắc Bộ vẫn bị Pháp chiếm đóng)

1.3. Về nhà thơ Quang Dũng

Nhà thơ Quang Dũng tên khai sinh là Bùi Đình Diệm. Ông sinh năm

1921 và mất năm 1988(thọ 67 tuổi), quê ở làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng

tỉnh Hà Tây cũ (nay thuộc thành phố Hà nội). Ông học đến bậc Trung học ở Hà

Nội. Sau Cách Mạng tháng 8 năm 1945, ông ra nhập quân đội ở đoàn quân Tây

Tiến, rồi chuyển sang các đơn vị khác. Từ sau năm 1945, ông là biên tập viên

Nhà xuất bản Văn học.

69

Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc.

Nhưng trước hết ông là một nhà thơ có phong cách thơ lãng mạn và tài hoa…

Năm 2001, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.

1.4. Về bài thơ “Tây Tiến”:

- Ngay từ khi ra đời, bài thơ Tây Tiến đã được lưu truyền rộng rãi trong

bộ đội và những người yêu thơ. Nhưng sau đó, vào những năm 60, 70 của thế

kỉ XX, do quan niệm đơn giản và ấu trĩ ở một số ngươi lãnh đạo lúc bấy giờ,

bài thơ này bị coi là rơi rớt tư tưởng lãng mạn tiểu tư sản. Mãi tới thời kì đổi

mới vào những năm 90 của thế kỉ XX, bài thơ Tây Tiến mới được khôi phục lại

vị của nó trong lịch sử văn học Việt Nam và được đưa và SGK Văn học.

Bước 2. Đọc hiểu bài thơ - Hoạt động hình thành kiến thức mới

- Mục tiêu:

+ Cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên và con người Tây Bắc trong hoài

niệm của nhà thơ Quang Dũng trên đường hành quân cùng đồng đội Tây Tiến:

Hùng vĩ, dữ dội và mỹ lệ, trữ tình, ấm áp.

+ Cảm nhận được hình tượng tập thể người lính Tây Tiến- người lính

chống Pháp: hào hoa, lãng mạn và hào hùng, bi tráng.

+ Tình yêu Tây Bắc, yêu Đất nước và nỗi nhớ thương đồng đội của nhà thơ.

+ Phát hiện và hiểu được những thành công nghệ thuật của bài thơ: kết

hợp nhuần nhuyễn hiện thực và lãng mạn, ngôn ngữ vừa trang trọng, cổ kính

vừa thông tục, đời thường, giọng điệu hào hùng, âm hưởng bi tráng.

- Phương pháp: Đọc sáng tạo, dạy học theo nhóm, nêu và giải quyết vấn

đề, thảo luận trao đổi.

- Thời gian: 60 phút.

- Năng lực hình thành: Năng lực giao tiếp tiếng Việt, NL giải quyết vấn

đề, NL cảm thụ thẩm mĩ, NL hợp tác.

* Gv chia nhóm HS thảo luận trong thời gian khoảng 5 phút theo các câu

hỏi, sau đó Gv nhận xét, chốt ý.

70

Hoạt động 1: Đọc diễn cảm văn bản thơ

Văn bản thơ tuy dài, nhưng rất hấp dẫn. Bởi vậy, cần đọc diễn cảm một

mạch từ đầu đến cuối văn bản để gây hứng thú ở HS, tạo không khí cho giờ học.

GV: Đảm nhận đọc diễn cảm bài thơ.

HS: Theo dõi trên văn bản và đọc thầm, đọc diễn cảm theo hướng dẫn

của GV.

Hoạt động 2: Thâm nhập vào thế giới hình tượng trong văn bản thơ qua kí ức

của nhà thơ.

2.1. Hình tượng thiên nhiên và con người miền Tây

Gợi dẫn 1: Những câu thơ nào trong văn bản bài thơ vẽ nên bức tranh thiên

nhiên miền Tây?

Yêu cầu: HS tìm kiếm trên văn bản những câu thơ tái hiện cảnh thiên

nhiên miền Tây. HS thảo luận:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

…Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

…Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đung đưa.

Gợi dẫn 2: Những câu thơ trên cho em hình dung được những gì về cảnh sắc

thiên nhiên miền Tây?

Yêu cầu: HS hình dung trong trí tưởng tượng về cảnh sắc thiên nhiên miền Tây,

rồi nói ra bằng ngôn ngữ của mình.

-Bằng những câu thơ trên, nhà thơ Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh

hoành tráng về cảnh sắc thiên nhiên miền Tây, với vẻ hiểm trở và dữ dội, hoang

vu và heo hút của miền núi cao,vực sâu,dốc thăm thẳm,mưa rừng, sương núi…

71

Nơi đó còn chứa đầy những bí mật, luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối

với con người bởi những thác gầm, cọp dữ…

Với những từ đầy giá trị tạo hình: khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng

ngửi trời…; với những câu thơ gồm nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả, nhọc

nhằn…cùng với một câu thơ gồm nhiều vần bằng ở cuối khổ thơ… tác giả đã

vẽ nên một cảnh sắc thiên nhiên vừa đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng miền

Tây Bắc Bộ nước ta.

- Cảnh núi rừng miền Tây không chỉ có hoang vu, heo hút hiểm trở, mà

có còn cả cảnh sắc mĩ lệ, thơ mộng:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Đây là cảnh một buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang ở

vùng núi cao nguyên Mộc Châu. Hồn thơ lãng mạn của nhà thơ Quang Dũng đã

ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thơ mộng của cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa.

Gợi dẫn 3: Những câu thơ nào trong văn bản nói về con người miền Tây?

Yêu cầu: HS tìm kiếm trong văn bản những câu thơ về con người miền Tây:

…Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Gợi dẫn 4: Những câu thơ trên gợi lên trí tưởng tượng của các em cảnh tượng gì?

Yêu cầu: HS hình dung trong trí tưởng tượng cảnh một đêm liên hoan văn nghệ

của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui.

Trong ánh sáng rực sáng của đống lửa trại và trong âm thanh réo rắt của

tiếng khèn, những anh bộ đội Tây Tiến cùng với những cô gái người các dân

72

tộc miền núi ở địa phương có doanh trại bộ đội cùng nhau múa hát, ai cũng đều

như bốc men say, ngây ngất, rạo rực… Những người lính Tây Tiến như vừa

ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vừa mê say, vui sướng trước những vũ điệu đậm màu

sắc xứ lạ của những người đẹp vùng núi rừng…

Người dân của vùng núi miền Tây không chỉ hiện lên trong những đêm

lửa trại, mà còn hiện lên trong cảnh tượng thật đầm ấm tình quân dân:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Sau bao ngày băng rừng, leo dốc cao, vượt suối sâu, những người lính

Tây Tiến tạm dừng chân nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây quần bên

những nồi cơm nếp đang bốc khói của những người dân bản đem ra tiếp. Cảnh

tượng ấm cúng đó được nhà thơ Quang Dũng tái hiện bằng một câu thơ thật tài

hoa: “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.

2.2. Hình ảnh những người lính Tây Tiến trong kí ức của nhà thơ

Gợi dẫn 5: Những câu thơ nào trong văn bản làm xuất hiện hình tập thể những

người lính Tây Tiến?

Yêu cầu: HS tìm kiếm trong văn bản những câu thơ tái hiện hình tượng những

người lính Tây Tiến.

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

- Qua những câu thơ trên,nhà thơ đã khắc họa được vẻ đẹp kiêu dũng của

của những người lính Tây Tiến.Trước hết, đó là đoàn quân đã phải sống và

chiến đấu trong hoàn cảnh hết sức thiếu thốn, gian khổ.Những người lính thời

ấy,trong đoàn quân Tây Tiến thường là cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh

nhau với giặc hoặc là vì bệnh sốt rét hiểm nghèo làm rụng hết tóc và da xanh

xao…Tuy vậy,qua cái nhìn lãng mạn của nhà thơ Quang Dũng,những người

73

lính Tây Tiến vẫn hiện lên với vẻ oai phong, lẫm liệt: “đoàn binh không mọc

tóc,Quân xanh màu lá dữ oai hùm.Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”

- Bên trong cái vẻ bề ngoài oai hùng, dữ dằn đó là những tâm hồn giàu

mơ mộng-nét hào hoa của những chàng trai người Hà Nội: “Đêm mơ Hà Nội

dáng kiều thơm”Trong những ngày tháng chiến đấu nơi núi rừng miền Tây cực

kì gian lao, khắc nghiệt, những người lính Tây Tiến vẫn khát khao yêu

đương,vẫn mang một nỗi nhớ da diết về người yêu nơi phố phường Hà Nội…

- Qua khổ thơ trên,nhà thơ Quang Dũng đã tạo nên bức tượng đài về

những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những nét khắc họa dáng vẻ bên

ngoài,mà còn thể hiện cả thế giới tâm hồn bên trong đầy hào hoa của họ,tạo nên

một vẻ đẹp đầy chất bi tráng.

Gợi dẫn 6: Trong kí ức của nhà thơ Quang Dũng về những người lính Tây

Tiến, bên cạnh vẻ đẹp kiêu dũng còn có kí ức về sự hi sinh của họ. Những câu

thơ nào viết về điều đó?

Yêu cầu: HS tìm kiếm trong văn bản những câu thơ viết về sự hi sinh lớn lao

của những người lính Tây Tiến:

…Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Trong bài thơ “Tây Tiến”, nhà thơ Quang Dũng không những không che

giấu những gian khổ, thiếu thốn mà không che giấu cả sự thật bi thảm: Những

người lính Tây Tiến gục ngã bên đường hành quân không có đến manh chiếu

để bọc thân xác. Nhưng cái sự thật bi thảm ấy được nhà thơ làm giảm đi nhiều

bằng một câu thơ gồm những từ hán Việt cổ kính trang trọng: “Rải rác biên

cương mồ viễn xứ” và bằng một câu thơ nói về lí tưởng quên mình xả thân vì

Tổ quốc ở những người lính Tây Tiến: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

Cái chết của họ mang dáng dấp cái chết của những tráng sĩ ngày xưa, coi cái

74

chết nhẹ như lông hồng: thân xác anh được bọc trong những tấm “áo bào” sang

trọng,và cái chết của anh được nói giảm đi: “anh về đất”. Đặc biệt, “anh về đất”

trong sự tiễn biệt của dòng sông Mã: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”…Nhà

thơ Quang Dũng đã gửi gắm qua giọng điệu của bốn câu thơ tình cảm đau

thương vô hạn và lòng kính cẩn trước sự hi sinh của đồng đội.

Hoạt động 3: Khám phá tâm hồn nhà thơ gửi gắm trong văn bản thơ

3.1. Nỗi nhớ da diết của nhà thơ

Gợi dẫn 7: Trong văn bản, những câu thơ nào thể hiện với nỗi nhớ da diết của

nhà thơ?

Yêu cầu: HS tìm kiếm trong văn bản thơ những câu thơ nói về nỗi nhớ da diết

của nhà thơ và phân tích, bình giảng về nỗi nhớ ấy.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi…”

Bài thơ “Tây Tiến” được viết trong một nỗi nhớ da diết của nhà thơ

Quang Dũng về những kỉ niệm với đoàn quan Tây Tiến trong cuộc hành quân

lên miền Tây Bắc Bộ vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Bài thơ là những kí ức của nhà thơ về cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ hoang sơ và

cũng đầy thơ mộng của núi rừng; về những người đồng đội trong đoàn quân

Tây Tiến trong cuộc hành quân đang gian nan, thử thách; về những kỉ niệm đẹp

của tình quân dân …

Nỗi nhớ ấy trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Nỗi nhớ ấy đưa nhà thơ vào một trạng thái đặc biệt: “nhớ chơi vơi”-

nghĩa là nhà thơ đang đắm chìm trong những kí ức, kí ức này gọi kí ức khác, kỉ

niệm này khơi gợi kỉ niệm khác, như những đợt sóng nối tiếp nhau làm cho tâm

hồn nhà thơ “chơi vơi” giữa buồn vui lẫn lộn,…

75

3.2. Nhà thơ ngỡ ngàng, ngây ngất trước vẻ đẹp của những cô gái vùng sơn cước

Nhà thơ không chỉ nhớ cảnh sắc hùng vĩ, hiểm trở của núi rừng và vẻ đẹp

đầy chất bi tráng của những người lính trong đoàn quân Tây Tiến, mà còn nhớ

đến những kỉ niệm đẹp về tình quân dân:…

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”

…Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp…

Vẻ đẹp của những cô gái vùng sơn cước đã như thu hút cả hồn vía những

chàng lính Tây Tiến. Nhà thơ thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên,

vừa say mê, vui sướng trước vẻ đẹp quyến rũ của con người miền Tây. Điều

này cho ta thấy được nét hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn nhà thơ.

3.3. Nhà thơ xót xa, đau đớn trước sự hy sinh của đồng đội

Gợi dẫn 8: Trong tâm hồn nhà thơ, không chỉ có lúc ngất ngây, vui sướng mà

còn có cả lúc xót xa, đau đớn. Những câu thơ nào nói lên điều đó?

Yêu cầu: HS tìm kiếm trong văn bản những câu thơ thể hiện sự đau đớn, xót xa

trong tâm hồn nhà thơ và phân tích những câu thơ ấy.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nhà thơ đã viết về sự hi sinh của người lính Tây Tiến một cách thấm thía

bằng cảm hứng bi tráng. Hình ảnh những nấm mồ rải rác biên cương viễn xứ

gợi lên cảm xúc bi thương. Nhưng câu thơ tiếp theo đã khẳng định khí phách

của tuổi trẻ một thời đã sẵn sàng hiến dâng cả sự sống cho nghĩa lớn của dân

tộc: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

76

Nhà thơ còn tả trực tiếp giờ phút vĩnh biệt những người đồng đội bằng

một câu thơ rất ám ảnh:

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Câu thơ đã thể hiện rõ tình cảm đau thương và trân trọng kính cẩn của

nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.

Hoạt động 4: Phát hiện những sáng tạo nghệ thuật độc đáo, tài hoa của nhà thơ

Quang Dũng

4.1. Những câu thơ đặc sắc

Gợi dẫn 9: Sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo và tài hoa của nhà thơ Quang Dũng

ở bài thơ Tây Tiến là viết những câu thơ đặc sắc. Theo em có những câu thơ

nào tả cảnh thiên nhiên đặc sắc?

Yêu cầu: HS tùy ý lựa chon những câu thơ tả thiên nhiên đặc sắc có trong văn

bản bài thơ Tây Tiến và nói rõ cái hay của những câu thơ ấy.

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Đây là bốn câu thơ thuộc trong những câu thơ đặc sắc nhất của bài thơ,

do tác giả đã có dụng công nghệ thuật trong việc phối hợp thanh điệu. Câu thơ

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” có 7 chữ mà 5 chữ là thanh trắc, khiến

nó gợi tả rất rõ nét con đường hành quân với những đèo dốc khúc khuỷu. Câu

thơ tiếp theo gợi tả những đỉnh núi cao ẩn trong mây heo hút. “Súng ngửi

trời” là cách nói hóm hỉnh đầy chất lính. Câu thơ tiếp theo được ngắt làm đôi

gợi ra những hình ảnh một con đèo gấp khúc gồm hai đường lên và xuống.

Câu thơ cuối đoạn toàn là thanh bằng gợi ra những cảnh tượng thung lũng Pha

Luông chìm trong màn mưa và xa kia thấp thoáng một vài ngôi nhà của dân

cư vùng núi…

77

Rừng núi vùng Tây Bắc của Bắc Bộ không chỉ có cảnh thiên nhiên hoang

sơ, hùng vĩ, mà còn có cả cảnh thiên nhiên thơ mộng:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Cảnh buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang được tác giả tái

hiện bằng những nét bút tinh tế, tài hoa, làm nổi lên vẻ đẹp lung linh, huyền ảo

của cảnh vật.

Gợi dẫn 10: Và có những câu thơ nào tả con người đặc sắc?

Yêu cầu: HS tìm kiếm trong văn bản những câu thơ tả người đặc sắc của nhà

thơ Quang Dũng và thẩm bình những cái hay của những câu thơ đó.

. “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Ở đây đã có một sáng tạo độc đáo và tài hoa ở sự kết hợp từ mới lạ:

“Cơm lên khói”, “Mai Châu mùa em”, làm cho hiện thực mang đậm tâm hồn

lãng mạn của nhà thơ.

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp”

Bằng bút pháp lãng mạn, nhà thơ Quang Dũng vừa vẽ lên vẻ đẹp quyến

rũ đầy tình tứ của các cô gái dân tộc vùng núi, vừa thể hiện được niềm ngỡ

ngàng, say sưa , đắm đuối của những người lính trẻ Tây Tiến trong đêm lửa trại

của quân và dân

4.2. Sáng tạo đặc sắc về ngôn ngữ

Gợi dẫn 11: Em có nhận xét gì về sự sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ ở

bài thơ Tây Tiến?

Yêu cầu: HS đọc lại văn bản thơ và suy nghĩ để đưa ra phát hiện của mình về

việc sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ

78

Nét đặc sắc trong ngôn ngữ thơ ở bài “Tây Tiến” là sự phối hợp hòa trộn

ngôn ngữ có những sắc thái phong cách khác nhau với một dụng công nghệ

thuật độc đáo.

Có thứ ngôn ngữ trang trọng, có màu sắc cổ kính để miêu tả hình ảnh

người lính Tây Tiến và sự hi sinh đầy bi tráng của họ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

…Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Đoạn thơ gồm nhiều từ Hán Việt: “đoàn binh”, “chiến trường”, “biên

cương” , “viễn xứ”, “khúc độc hành”

Lại có thứ ngôn ngữ sinh động của tiếng nói hàng ngày in đậm phong

cách người lính: “súng ngửi trời, “anh bạn”, “bỏ quên đời”, “cọp trêu người”…

Hoạt động 5. Tổng kết bài học

Gợi dẫn12: Điều gì còn lại ở trong em sau khi học xong bài thơ Tây Tiến?

Yêu cầu: Động viên, khuyến khích HS phát biểu tự do về ấn tượng riêng của

từng em sau khi học xong bài thơ “Tây Tiến”.

Bước 3. Luyện tập vận dụng và mở rộng sáng tạo.

- Mục tiêu: Phát triển năng lực vận dụng kiến thức vào giải quyết các

tình huống thực tiễn; năng lực tự học, năng lực nghiên cứu, sáng tạo, năng lực

cảm thụ thẩm mỹ; tăng cường tính thực tiễn cho bài học.

- Phương pháp: nghiên cứu, tự học, hợp tác nhóm, thuyết minh.

- Thời gian: 20 phút.

- Năng lực hình thành: năng lực tự học, năng lực nghiên cứu, vận dụng,

sáng tạo.

Nội dung cần đạt:

- So sánh hình tượng người lính Tây Tiến với hình tượng người lính

trong “Đồng chí” của Chính Hữu.

79

- Tưởng tượng và vẽ tranh về người lính chống Pháp.

- Clip giới thiệu vẻ đẹp Tây Bắc và bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.

- Từ bài thơ thuyết trình về lòng yêu nước và trách nhiệm của tuổi trẻ

ngày nay đối với Đất nước.

Đây sẽ là những phút giây HS được trình bày những ý tưởng sáng tạo

cũng như khả năng cảm thụ thẩm mỹ của bản thân. Đây là bài tập GV đã giao

cho HS chuẩn bị, các em đã thực hiện bằng chính năng lực sáng tạo của mình

từ việc cảm nhận thế giới hình tượng trong bài thơ. GV yêu cầu HS chuẩn bị

bài tiếp theo “Việt Bắc” của Tố Hữu.

3.2. Dạy học thực nghiệm và đối chứng ở bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

3.2.1. Mục đích

Dạy học thực nghiệm nhằm kiểm chứng tính khả thi của định hướng dạy

học các bài thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 theo

hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho HS do luận văn đề xuất. Từ đó

người viết mong muốn góp phần vào đổi mới phương pháp, đem lại một hướng

đi hiệu quả cho việc dạy học văn bản thơ hiện đại nói riêng và dạy học đọc hiểu

môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông nói chung.

3.2.2. Đối tượng thực nghiệm

HS lớp 12, trường công lập.

Chúng tôi chọn dạy thực nghiệm ở các lớp 12E, 12F, 12M - Trường

THPT Nam Sách - Nam Sách - Hải Dương. Trong đó, lớp 12E, 12M là 2 lớp

HS đăng kí tự chọn môn Ngữ văn ( nghĩa là 2 lớp định hướng khối C,D) và lớp

12F là lớp HS không đăng kí tự chọn môn Ngữ văn (nghĩa là lớp cơ bản).

3.2.3. Kế hoạch thực nghiệm

Chọn bài thực nghiệm: Trong chương trình Ngữ văn lớp 12 chúng tôi

chọn dạy thực nghiệm 1 bài thơ trong 5 bài thơ được đưa vào đọc hiểu trong

SGK Ngữ văn 12, tập 1. Cụ thể là bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.

* Thời gian: Thời gian thực nghiệm được tiến hành ở tuần thứ 06, tiết

17,18 của học kỳ I năm học 2017 - 2018, theo phân phối chương trình Ngữ văn

lớp 12 do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.

80

* Công việc thực nghiệm:

Những nội dung được luận văn xác định trong thực nghiệm bao gồm:

- Bài thực nghiệm: 01

- Số tiết dạy: 06

- Số lớp dạy: 03

- Số bài kiểm tra: 01

- Giáo viên tham gia dạy thực nghiệm: 02

1. Nguyễn Thị Dương, tổ Ngữ văn, Trường THPT Nam Sách - Nam Sách

- Hải Dương dạy thực nghiệm lớp 12M.

2. Nguyễn Thị Huyền, (người thực hiện luận văn) tổ Ngữ văn, Trường

THPT Nam Sách - Nam Sách - Hải Dương dạy thực nghiệm lớp 12E, 12F.

3.2.4. Phương pháp tiến hành thực nghiệm

- Trao đổi với giáo viên tham gia thực nghiệm, tìm hiểu sơ lược về tình

hình học tập bộ môn Ngữ văn của các lớp tham gia thực nghiệm.

- Đưa giáo án thực nghiệm cho giáo viên thực nghiệm nghiên cứu trước,

tiếp thu và trao đổi ý kiến với giáo viên thực nghiệm để hoàn chỉnh giáo án.

- Trao phiếu thực nghiệm cho giáo viên lớp thực nghiệm và lớp đối

chứng để tổ chức cho học sinh thực nghiệm đối chứng

- Dự giờ quan sát quá trình dạy học của giáo viên và học sinh trên lớp để

thấy rõ hơn khả năng thực hiện phương án này của giáo viên và khả năng tiếp

cận, cảm thụ của học sinh.

- Kết thúc buổi thực nghiệm chúng tôi gặp gỡ giáo viên để trao đổi với

giáo viên về những khó khăn, thuận lợi khi dạy học theo giáo án thực nghiệm.

Trao đổi với học sinh về cảm nhận và cảm thụ của các em về tác phẩm sau giờ

học, đồng thời thu lại phiếu điều tra để tiến hành tổng hợp, phân tích.

3.2.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm

* Thuận lợi và khó khăn khi tiến hành thực nghiệm

- Thuận lợi:

+ HS ở cả các lớp tiếp thu bài tương đối đều, các em có tinh thần học

ham hỏi, hăng say phát biểu ý kiến xây dựng bài.

81

+ Lượng HS ở mỗi lớp không quá đông nên GV dễ dàng quản lý và tổ

chức các hoạt động học tập.

+ Bản thân người làm luận văn luôn nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình từ

phía đồng nghiệp.

- Khó khăn:

+ Không nhiều HS biết cách cảm thụ khi đọc văn bản.

+ Cách diễn đạt cảm tính, thiếu logic.

+ Khi thực hiện định hướng dạy học thơ hiện đại Việt Nam theo hướng

hình thành và phát triển NL cảm thụ thẩm mĩ cho HS, vận dụng các phương

pháp dạy học tích cực có những ưu thế nhưng cũng có khó khăn là HS vẫn

quen với lối dạy học cũ (đọc - chép). Hơn nữa những văn bản thơ hiện đại

nhưng cũng đã cách xa các em hơn nửa thế kỉ, HS cũng khó khăn khi đặt tâm

thế vào thời đại lịch sử hào hùng của dân tộc hay những thời gian đầu đất nước

thống nhất.

+ Một số HS còn ỷ lại khi làm việc nhóm, chưa tích cực tham gia các

hoạt động học hoặc làm một cách qua loa, chống đối.

Do đó, để dạy học thành công, người GV không chỉ tích cực vận dụng

các phương pháp dạy học mới mà còn nắm bắt được tâm lí, trình độ của HS. Và

đó là một nghệ thuật.

* Ý kiến của GV tham gia thực nghiệm

Trước và sau khi dạy thực nghiệm, chúng tôi đã tiến hành họp, hội ý

trong tổ và nhóm chuyên môn khối 12 tham gia dự giờ, đặc biệt thảo luận sâu

với nhóm GV tham gia dạy. Các GV trong tổ, nhóm đã góp ý, chia sẻ và đóng

góp ý kiến thẳng thắn, chân thành về phương pháp dạy. Cụ thể các GV có một

số ý kiến sau:

- Ưu điểm: Về nội dung, phương pháp, tổ chức các tiết dạy đã đảm bảo

tốt mục tiêu bài học, chuẩn kiến thức, kĩ năng, phát huy nhiều năng lực của HS

đặc biệt là khả năng cảm thụ thẩm mỹ, vận dụng và sáng tạo.

82

+ Về nội dung: HS chủ động khám phá, tìm hiểu dưới sự hướng dẫn của

GV để chiếm lĩnh những kiến thức chính xác, khoa học, có trọng tâm, có liên

hệ thực tế, HS được hình thành và phát triển các năng lực cá nhân và năng lực

hợp tác.

+ Về phương pháp: Phát huy được tối đa NL của HS, trong giờ dạy học,

GV đã vận dụng sáng tạo, lựa chọn và kết hợp các phương pháp dạy học tích

cực. Đặc biệt, GV tổ chức tốt các hoạt động, hệ thống lời gợi dẫn logic, trí tuệ,

có chất văn, dễ hiểu để dẫn dắt HS cảm thụ được cái hay, cái đẹp trong bài thơ.

Từ phần hướng dẫn HS chuẩn bị bài đến phần tổng kết, củng cố, vận dụng,

sáng tạo, kiểm tra và hướng dẫn về nhà đều được GV thực hiện sáng tạo, phù

hợp với từng đối tượng HS, khắc sâu được kiến thức và nổi bật là phát huy

được năng lực thẩm mỹ, phát triển các năng lực cá nhân của HS, giờ học sôi

nổi. Khi mục tiêu giáo dục hiện nay nói chung và mục tiêu dạy học môn Ngữ

văn nói riêng hướng tới người học là trung tâm, phát triển năng lực của người

học là cốt lõi thì định hướng dạy học theo hướng này là rất phù hợp.

+ Về tổ chức:

Hình thức tổ chức lớp học khoa học, sinh động.

Tổ chức chia nhóm hoạt động phù hợp, hiệu quả

GV chuẩn bị chu đáo cho bài dạy từ giáo án đến các phương tiện hỗ trợ,

đồ dùng dạy học.

Phân phối thời gian hợp lý với mục tiêu bài học nên bài giảng được hoàn

thành đúng như dự kiến.

- Hạn chế: Định hướng mới, phương pháp dạy học tích cực với chuỗi

hoạt động phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ của HS, yêu cầu các em tập

trung, đầu tư nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo (trước, trong, sau giờ học) khiến một

số HS chưa thể thích nghi ngay, nhất là lớp cơ bản, HS vẫn quen trông chờ, ỷ

lại tuyệt đối vào GV. Vì vậy, một số HS vẫn chưa tích cực, chưa chủ động thực

hiện nhiệm vụ được giao, phần trình bày ý kiến còn e dè, thiếu tự tin.

83

Kết quả thực nghiệm

Bài giảng hướng đến đối tượng người học nhằm phát huy tính chủ động

của HS. Vì vậy, HS tham gia vào các hoạt động trước và trong các tiết dạy rất

nghiêm túc, tích cực, hứng thú. Chúng tôi cũng phát hiện ra nhiều em có năng

khiếu đặc biệt, có HS đã bộc lộ những sáng tạo và ý kiến rất mới và độc đáo.

Để kiểm tra kết quả thực nghiệm chúng tôi cho học sinh điền mẫu khảo

sát bằng văn bản viết (mẫu có in sẵn câu hỏi) để các em bộc lộ kiến thức, kĩ

năng, thái độ cá nhân sau khi học xong bài dạy thực nghiệm.

Câu hỏi trong phiếu khảo sát như sau:

Câu hỏi 1: Bức tranh Tây Bắc trong hồi ức của người lính Tây Tiến trên

đường hành quân hiện lên như thế nào?

Câu hỏi 2: Vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên như thế nào

trong nỗi nhớ của nhà thơ Quang Dũng qua bài thơ Tây Tiến?

Câu hỏi 3: Em ấn tượng với những chi tiết, hình ảnh nào trong bài thơ?

Điểm độc đáo trong nghệ thuật của bài thơ này là gì?

* Kết quả thu được như sau:

Tiêu chí Đạt yêu cầu Chưa đạt yêu cầu Số

lượng Đối Số lượng % Số lượng % học sinh tượng

40 34 85,0 6 15,0 Thực

nghiệm 39 30 76,9 9 23,1

Đối chứng 39 20 51,3 19 48,7

Nhìn vào bảng thống kê, so sánh chúng ta thấy rằng, số HS trả lời đạt yêu

cầu ở lớp thực nghiệm cao hơn lớp đối chứng (kể cả là lớp cơ bản). Lớp đối chứng

(lớp 12M) tuy là lớp có định hướng khối C, D nhưng số lượng HS chưa đạt yêu cầu

còn nhiều hơn lớp cơ bản (12F). Sự chênh lệch này minh chứng rõ rệt cho vấn đề

phương pháp dạy học.

84

Từ những đánh giá, kết quả thu được qua quá trình thực nghiệm, chúng

ta thấy việc định hướng dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực cảm

thụ thẩm mỹ cho HS là rất cần thiết. Định hướng này không chỉ đáp ứng việc

phát triển năng lực cảm thụ (năng lực chuyên biệt của môn Ngữ văn) mà nó

mang lại hiệu quả cao trong giờ học và tạo hứng thú cho người học khi đưa tác

phẩm vào thực tiễn. Kết quả đó cũng là mục đích của đề tài khi phần nào kiểm

chứng được tính khả thi.

3.2.6. Kết luận chung về thực nghiệm

- Khi xây dựng giáo án chúng tôi đã bám sát vào định hướng dạy học đã

đề xuất đồng thời bám sát với mục tiêu, yêu cầu chuẩn kiến thức, kĩ năng do Bộ

Giáo dục quy định.

- Xây dựng giáo án chúng tôi đã tham khảo ý kiến của đồng nghiệp và

tiến hành dạy thực nghiệm ở ba lớp với trình độ HS không giống nhau (02 lớp

định hướng, 01 lớp cơ bản). Đây là cơ hội để kiểm định khả năng áp dụng và

hiệu quả của đề tài với cả HS đại trà và HS có trình độ chuyên sâu. Tuy nhiên,

do điều kiện nên người viết chưa mở rộng được địa bàn thực nghiệm, số lượng

giờ dạy thực nghiệm cũng chưa nhiều.

Song, với kết quả thực nghiệm trên, chúng tôi tin rằng phương án dạy

học do luận văn đề xuất có tính khả thi khi ứng dụng vào thực tế dạy học trong

nhà trường phổ thông.

Qua quá trình thực nghiệm chúng tôi thấy:

- Đối với giáo viên:

+ Giáo án khoa học, logic, các hoạt động rõ ràng nên những yêu cầu

trong giáo án đều được giáo viên thực hiện tốt, tạo hiệu quả trong giờ học. Khi

tiến hành thực nghiệm giáo án giáo viên không gặp bất kỳ trở ngại nào.

+ Thời gian thực nghiệm giáo án là 90 phút (2 tiết dạy). Hoạt động của

GV và HS đều được chủ động, bài dạy vận dụng những phương pháp dạy học

tích cực, GV là người hướng dẫn, tổ chức HS khám phá những giá trị của tác

phẩm. Sau đó có bài kiểm tra, đánh giá vận dụng kiến thức.

85

- Đối với học sinh:

Chúng tôi sử dụng hệ thống câu hỏi nêu vấn để gợi dẫn HS với từng nội

dung bài học. Nhìn chung giờ học sôi nổi, HS chủ động, tích cực, từng bước

khám phá đầy đủ, sâu sắc và có những phát hiện mới, sáng tạo cả về nghệ thuật

và nội dung của bài thơ.

Kết quả bài làm của HS cho thấy, các em đã chiếm lĩnh được những kiến

thức quan trọng nhất về nội dung và nghệ thuật trong bài thơ Tây Tiến của

Quang Dũng. Từ đó HS cảm nhận được cái hay, cái đẹp của tác phẩm thơ hiện

đại Việt Nam tiêu biểu. Đó là vẻ đẹp bi tráng, hào hùng và hào hoa lãng mạn

của người lính Tây Tiến với chặng đường hành quân qua miền Tây hùng vĩ, trữ

tình trong nỗi nhớ và niềm tự hào của một người lính từng gắn bó với đoàn

binh Tây Tiến. Đó là lý tưởng sống cao đẹp của thanh niên Việt Nam trong một

thời đại lịch sử hào hùng; đó cũng là lẽ sống của tuổi trẻ ngày nay khi sẵn sàng

cống hiến, dựng xây và hi sinh vì Tổ quốc. HS cảm thấy gần gũi khi tìm hiểu

bài thơ bởi các em phát hiện ở nhà thơ Quang Dũng - một hồn thơ rất trẻ trung,

rất nhạy cảm, thẳng thắn, hồn nhiên chia sẻ những hiện thực gian khổ và cũng

rất lãng mạn, hào hoa hướng về lý tưởng, về người thân yêu để vượt qua những

thử thách.

Quá trình thực nghiệm cũng cho thấy, HS còn hạn chế trong việc diễn đạt

suy nghĩ của bản thân. Đây là vấn đề khó tránh khỏi khi vốn từ hạn chế và các

em ít có điều kiện thể hiện, trau dồi khả năng giao tiếp trong và sau giờ học như

định hướng dạy học này.

86

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở lý thuyết dạy học tích cực, dạy học phát huy năng lực cảm thụ

thẩm mỹ cho học sinh và định hướng dạy học cụ thể ở chương 1 và 2, chúng tôi

tiến hành thực nghiệm sư phạm ở chương 3. Kết quả thực nghiệm và đối chứng

trên đã cho thấy sự chuyển biến thực sự của GV và HS trong giờ dạy học Ngữ

văn. Điều đó khẳng định tính khả thi của việc áp dụng đề tài: Dạy học một số

văn bản thơ trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 theo định hướng phát triển năng

lực thẩm mỹ cho học sinh.

Trên thực tế, chúng tôi chưa có điều kiện mở rộng địa bàn thực nghiệm

và chưa có nhiều giờ dạy thực nghiệm. Chúng tôi sẽ tiếp tục tìm tòi, học hỏi

thêm và mở rộng theo hướng nghiên cứu của đề tài.

87

PHẦN KẾT LUẬN

1. Đề tài Dạy học một số văn bản thơ trong sách giáo khoa Ngữ văn 12

theo định hướng phát triển năng lực thẩm mỹ cho học sinh hướng tới mục đích

định hướng phương pháp dạy học phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học

sinh qua các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa ngữ văn 12.

Luận văn đã thực hiện từng bước theo trình tự phù hợp và đi sâu làm rõ các vấn

đề: Đặc điểm thơ ca hiện đại Việt Nam trong các thời kì (1945 - 1975; sau

1795), đặc điểm của các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa

Ngữ văn 12. Định hướng dạy học phù hợp khả năng tiếp cận, phát huy năng lực

đặc biệt là năng lực cảm thụ thẩm mỹ của HS trong từng văn bản thơ được đọc

hiểu trong chương trình sách giáo khoa 12. Từ đó, luận văn đã thiết kế dạy học

một văn bản thơ cụ thể theo định hướng đề xuất thông qua hệ thống lời gợi dẫn

vừa tạo hứng thú cho học sinh vừa đem lại hiệu quả cho giờ học.

2. Quá trình triển khai luận văn: Chúng tôi đã nghiên cứu lý luận về tiếp

nhận thẩm mỹ, xu hướng dạy học phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ của

học sinh, dạy đọc hiểu văn bản văn chương theo hướng phát triển năng lực

cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh, khảo sát thực tiễn tình hình dạy học các văn

bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 ở trường phổ

thông hiện nay để làm cơ sở cho đề xuất định hướng dạy học các văn bản thơ

hiện đại Việt Nam theo hướng phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học

sinh (Chương I). Luận văn cũng đã đề xuất định hướng HS tiếp cận và cảm

thụ thơ qua các giai đoạn: Hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ khi đến với

thế giới hình tượng trong tác phẩm, hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ khi

đến với thế giới tâm hồn nhà thơ và hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ khi

đến với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác giả. Từ đó, luận văn đã

định hướng các phương án dạy học cụ thể cho từng văn bản thơ này (Chương

II). Cuối cùng, luận văn tiến hành thực nghiệm sư phạm và thu được kết quả

88

bước đầu khả quan. Từ thiết kế giáo án dạy học bài thơ Tây Tiến của Quang

Dũng, luận văn tiến hành dạy thực nghiệm trên 03 lớp (với hai đối tượng: lớp

cơ bản và lớp định hướng) cho HS trường THPT Nam Sách, huyện Nam Sách,

tỉnh Hải Dương để kiểm tra tính khả thi của phương án mà luận văn đề xuất

(Chương III).

3. Trên cơ sở lí luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất định hướng về

phương pháp dạy học nhằm phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho học sinh

qua các văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12. Theo

đó, học sinh chủ động thể hiện và phát huy khả năng cảm thụ thẩm mỹ khi đọc

hiểu các sáng tạo nghệ thuật của các nhà thơ. Từ đọc văn bản, đến tái hiện hình

tượng trữ tình trong văn bản thơ, phát hiện những sáng tạo độc đáo của nhà thơ

rồi bộc lộ cảm nhận của cá nhân về tác phẩm, định hướng do luận văn đề xuất

muốn đạt đến là tạo cho học sinh có hứng thú và có cơ hội thể hiện khả năng

cảm thụ thẩm mỹ của mình trước một văn bản thơ.

4. Với luận văn này, tuy chúng tôi đã khảo sát, thực nghiệm trong thực

tiễn để kiểm nghiệm tính khả thi của đề tài nhưng muốn hoàn thiện thì vẫn cần

sự kiểm nghiệm và giải quyết một số vấn đề khác. Vì vậy, trong thời gian tới,

chúng tôi sẽ tiếp tục triển khai dạy học theo định hướng đã đề xuất và có thể

mở rộng nghiên cứu ở những thể loại khác. Chúng tôi luôn trân trọng những

góp ý chân thành, sâu sắc của các giáo sư, tiến sĩ, các thầy cô và bạn bè đồng

nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.

89

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (1998), Từ điển Văn học, (bộ mới), NXB Thế giới.

2. Diệp Quang Ban (2003), Giao tiếp - Văn bản - Mạch lạc - Đoạn văn,

NXB Khoa học xã hội.

3. Hoàng Hòa Bình (chủ biên) (2014), Dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông,

NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.

4. Bernd Meier - Nguyễn Văn Cường (2014), Lý luận dạy học hiện đại - cơ

sở đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học, NXB Đại học Sư

phạm, Hà Nội.

5. Hoàng Hữu Bội - Nguyễn Huy Quát (2001), Một số vấn đề về phương

pháp dạy - học văn trong nhà trường, NXB Giáo dục.

6. Hoàng Hữu Bội (2007), Thiết kế dạy học Ngữ văn 12 - phần Văn học,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

7. Nguyễn Viết Chữ (2001), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương,

NXBĐHQG, Hà Nội.

8. Hồ Ngọc Đại (1994), Tâm lý dạy học, Nxb Giáo dục.

9. Trần Thanh Đạm (chủ biên) - Huỳnh Lý - Hoàng Như Mai - Phạm Sĩ Tấn

- Đàm Gia Cẩn (1971), Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

10. Phạm Văn Đồng (1973), "Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện",

Tạp chí nghiên cứu giáo dục (tháng 11).

11. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2009), Từ điển

thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

12. Trần Mạnh Hảo (1999), Văn học, phê bình, nhận diện, NXB Văn học.

13. Bùi Hiền (Chủ biên) (2015), Từ điển Giáo dục, NXB Khoa học và kỹ thuật.

14. Bùi Mạnh Hùng (2006), Phác thảo chương trình Ngữ văn theo định hướng

phát triển năng lực, NXB Giáo dục.

15. Nguyễn Thanh Hùng (2000), Hiểu văn dạy văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.

16. Nguyễn Thanh Hùng (2002), Định hướng phương pháp giảng tác phẩm

trữ tình, văn học tầm nhìn và biến đổi, NXB Khoa học xã hội.

90

17. Nguyễn Thanh Hùng (2002), Đọc và tiếp nhận tác phẩm văn chương,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

18. Nguyễn Thị Thanh Hương (2001), Dạy học văn ở trường phổ thông,

NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

19. Phan Trọng Luận - Trương Dĩnh - Nguyễn Thanh Hùng - Trần Thế Phiệt

(1998), Phương pháp dạy học văn, NXBĐHQG, Hà Nội.

20. Phan Trọng Luận (1999), Đổi mới giờ học tác phẩm văn chương ở nhà

trường phổ thông, Nxb Giáo dục.

21. Phan Trọng Luận (2003), Văn chương và bạn đọc sáng tạo, Nxb ĐHQG

Hà Nội.

22. Phan Trọng Luận (2005), Văn học với nhà trường không phải là một, Báo

Văn nghệ (số 24, 6).

23. Phan Trọng Luận (2007), Phương pháp dạy học văn, Nxb ĐHQG Hà Nội.

24. Phan Trọng Luận (2008), Văn học trong nhà trường, nhận diện, tiếp cận,

đổi mới, Nxb Đại học sư phạm.

25. Phan Trọng Luận (chủ biên) (2009), Thiết kế bài học Ngữ văn 12, tập một,

NXB Giáo dục Việt Nam.

26. Hoàng Phê (chủ biên) (1998), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

27. Nguyễn Huy Quát (2008), Nghiên cứu văn học và đổi mới phương pháp

dạy - học văn, NXB ĐH Thái Nguyên.

28. Sách giáo khoa Ngữ văn 12 - tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007.

29. Sách giáo viên Ngữ văn 12 - tập 1, nâng cao, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007.

30. Sách giáo viên Ngữ văn 12 - tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007.

31. Trần Đình Sử, Đọc văn, học văn, NXB Giáo dục Việt Nam.

32. Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hướng

phát triển năng lực học sinh môn Ngữ văn cấp THPT, NXB Hà Nội, 2014.

33. Trúc Thông (1982), "Mấy suy nghĩ về thơ", Tạp chí Văn nghệ Quân đội,

số 7.

34. Lê Trí Viễn (1982), Những vấn đề bài giảng văn ở Đại học, NXB GD, Hà Nội.

35. Lê Trí Viễn (2004), Đến với bài thơ hay, NXB GD, Hà Nội.

91

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

Phiếu số 1:

Họ và tên học sinh: …………………………………….

Lớp: …………………………………………………….

Trường: ………………………………………………...

PHIẾU KHẢO SÁT TÂM LÝ HS THPT VỚI VIỆC HỌC CÁC VĂN

BẢN THƠ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM TRONG SGK NGỮ VĂN LỚP 12

Câu hỏi 1: Bản thân em có thích học các văn bản thơ Việt Nam trong

sách giáo khoa Ngữ văn 12 không? Vì sao?

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………

Câu hỏi 2: Trong các văn bản thơ Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ

văn 12 em thích nhất bài thơ nào?

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………

Phụ lục 2

Phiếu số 2:

Họ và tên học sinh: …………………………………….

Lớp: …………………………………………………….

Trường: ………………………………………………...

PHIẾU ĐIỀU TRA

Những khó khăn của học sinh THPT khi cảm thụ, tiếp nhận các văn bản

thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12

Học sinh viết vào phiếu ý kiến và cảm nghĩ của mình.

Câu hỏi 1: Em hãy cho biết những khó khăn khi học các văn bản thơ hiện

đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 ?

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………….

Câu hỏi 2: Em cảm nhận được những điều gì khi được đọc và học các

văn bản thơ hiện đại Việt Nam trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 ?

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………….

Câu hỏi 3: Nêu cảm nhận của em về nét độc đáo của hình tượng người

lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng? Nhận xét về phong cách thơ

Quang Dũng?

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………..

Câu hỏi 4: Ấn tượng của em về bài Việt Bắc của Tố Hữu là những gì?

Nhận ra nét độc đáo trong tài thơ Tố Hữu ở bài thơ này?

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

Câu hỏi 5: Hình tượng Đất Nước trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm

đem đến cho em những suy nghĩ gì? Nhận ra đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích?

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………….

Câu hỏi 6: Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam trong tình yêu

thể hiện như thế nào qua hình tượng “sóng” trong bài thơ cùng tên của Xuân

Quỳnh? Bài thơ mang đến thông điệp gì cho tuổi trẻ?

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………….

Câu hỏi 7: Cảm nhận của em về vẻ đẹp hình tượng Lor-ca trong bài thơ

Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo)? Thông điệp nhà thơ gửi đến chúng ta là gì?

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………….

Câu hỏi 8: Thanh Thảo thể sự cách tân thơ ca qua những chi tiết, hình

ảnh nào trong bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca?

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

Phụ lục 3

Họ và tên học sinh: …………………………………….

Lớp: …………………………………………………….

Trường: ………………………………………………...

PHIẾU BÀI TẬP

1. Bức tranh Tây Bắc trong hồi ức của người lính Tây Tiến trên đường hành

quân hiện lên như thế nào?

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………

2. Vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên như thế nào trong nỗi nhớ

của nhà thơ Quang Dũng qua bài thơ Tây Tiến?

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………

3. Em ấn tượng với những chi tiết, hình ảnh nào trong bài thơ? Điểm độc đáo

trong nghệ thuật của bài thơ này là gì?

……………………………………………………………………………….....

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………

Phụ lục 4

Phiếu khảo sát trắc nghiệm với GV:

Họ và tên giáo viên: ....................................

Trường: .........................................................

Tỉnh: ......................................................................................................

Các thầy (cô) vui lòng trả lời các câu hỏi sau bằng cách chọn một phương án

đúng và khoanh tròn đáp án mà mình chọn :

1 . Thầy (cô) đánh giá như thế nào về việc tiếp nhận tác phẩm thơ hiện đại VN

trong SGK Ngữ văn 12 hiện nay?

A .Tốt

B .Khá

C .Trung bình

D .Yếu

2. Theo thầy (cô) khi dạy tác phẩm thơ hiện đại VN trong SGK Ngữ văn 12

hiện nay gặp phải những khó khăn gì?

A . Thời lượng dạy học còn ít

B . Nội dung lý thuyết, tài liệu tham khảo còn sơ sài

C . Học sinh không hứng thú với các tác phẩm

D . Nội dung bài học , câu hỏi bài tập trong SGK , sách bài tập chưa hướng vào

phát triển năng lực cho học sinh.

3. Trong quá trình dạy tác phẩm thơ hiện đại thầy (cô) có vận dụng biện phát

phát triển năng lực cảm thụ thẩm mĩ nào không?

A . Có

B. Không

D . Có nhưng ít

4. Theo thầy (cô) nguyên nhân nào dẫn đến học sinh không hứng thú học tác

phẩm thơ hiện đại VN trong SGK 12?

A . Giáo viên sử dụng phương pháp dạy học chưa phù hợp

B . Nội dung , văn hóa và ngôn từ trong tác phẩm khó hiểu

C . Tài liệu về các tác phẩm trên ít và sơ sài .

D. Tất cả các phương án trên

(Xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo!)

Phiếu khảo sát trắc nghiệm với HS:

Họ và tên học sinh: .........................................................................................

Trường: .............................................................................................................

Lớp: .........................................

Các em vui lòng trả lời các câu hỏi sau bằng cách chọn một phương án đúng và

khoanh tròn đáp án mà các em chọn:

Tác phẩm thơ hiện đại VN trong SGK Ngữ văn 12 gồm 5 tác phẩm:

1. Em thấy nội dung các tác phẩm đó như thế nào?

A . Dễ

B . Khó

C . Bình thường

2 .Em có thấy hứng thú khi học tác phẩm đó không?

A . Có

B . Không

3 .Trong giờ học về các tác phẩm thơ hiện đại VN thầy (cô) chú trọng

phát triển năng lực nào của các em?

A . Năng lực tạo lập văn bản

B . Năng lực đọc hiểu văn bản

C . Năng lực giao tiếp

D . Năng lực thưởng thức văn học

4. Sau khi được học và nghiên cứu các tác phẩm thơ đó em thấy cảm xúc

của mình thay đổi như nào?

A . Tự nhận thức được cảm xúc của bản thân

B . Làm chủ được cảm xúc của bản thân

C . Nhận biết được cảm xúc của người khác

D . Biết chủ động điều khiểm cảm xúc của mình , biết giữ những mối

quan hệ tốt với người xung quanh

5.Các em đã hình thành những cảm xúc thẩm mĩ vào lúc nào?

A. Giờ học lý thuyết trên lớp

B. Giờ học ngoại khóa

C. Giờ thực hành

D. Làm bài tập ở nhà.

(Xin trân trọng cảm ơn các em!)