BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI ------------
PHẠM QUẾ ANH
GIẢI PHÁP ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
HUẤN LUYỆN VIÊN CÁC MÔN THỂ THAO VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
LUẬN VĂN THẠC SĨ KỸ THUẬT QUẢN TRỊ KINH DOANH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN DANH NGUYÊN
Hà Nội, Năm 2013
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bản luận văn: “Giải pháp đào tạo và phát triển đội ngũ huấn
luyện viên các môn thể thao trong thời kỳ hội nhập”. Tôi đã nhận được sự giúp
đỡ nhiệt tình của các cơ quan, các cấp lãnh đạo và cá nhân của các đồng chí trong
Tổng cục Thể dục Thể thao, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Tôi xin bày tỏ lời
cảm ơn và kính trọng tới tất cả tập thể và cá nhân đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong
quá trình học tập và nghiên cứu.
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Danh Nguyên
người đã hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Viện sau Đại học, Viện kinh tế và
quản lý, các đơn vị liên quan của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Tôi xin trân
trọng cảm ơn các GS, TS của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, những người đã
trang bị cho tôi những kiến thức quý báu để giúp tôi hoàn thành công trình này.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã động viên chia sẻ,
giúp đỡ nhiệt tình và đóng góp nhiều ý kiến quý báu để tôi hoàn thành luận văn
này.
Xin trân trọng cảm ơn !
Hà Nội, ngày 22 tháng 2 năm 2013
HỌC VIÊN THỰC HIỆN
Phạm Quế Anh
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn thạc sĩ kinh tế ngành Quản trị Kinh doanh với đề tài “Giải pháp
đào tạo và phát triển đội ngũ huấn luyện viên các môn thể thao trong thời kỳ
hội nhập” tác giả viết dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Danh Nguyên. Luận văn
này được viết trên cơ sở vận dụng lý luận chung về quản trị nhân lực, thực trạng
nguồn nhân lực của Ngành thể dục, thể thao Việt Nam để phân tích đề xuất một số
giải pháp đào tạo và phát triển đội ngũ huẩn luyện viên các môn thể thao.
Khi viết bản luận văn này, tác giả có tham khảo và kế thừa 1 số lý luận chung
về quản trị nhân lực và sử dụng những thông tin số liệu theo danh mục tham khảo.
Tác giả cam đoan không có sự sao chép nguyên văn từ bất kỳ luận văn nào
hay nhờ người khác viết. Tác giả xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về cam đoan của
mình và chấp nhận mọi hình thức kỷ luật theo quy định của Trường Đại học Bách
khoa Hà Nội
Người cam đoan
Phạm Quế Anh
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
3
Chương 1. Khái quát chung về công tác đào tạo và phát triển
cán bộ quản lý- huấn luyện viên.
1.1. Khái quát về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
3
1.1.1. Một số khái niệm
3
1.1.1.1. Nguồn nhân lực
3
1.1.1.2. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
4
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác đào tạo và phát triển cán
6
bộ quản lý trong doanh nghiệp.
1.1.2.1. Bối cảnh quốc tế
6
1.1.2.2. Bối cảnh trong nước
8
1.2. Các phương pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
9
1.3. Tổ chức thực hiện công tác đào tạo và phát triển cán bộ quản lý
10
trong doanh nghiệp.
1.3.1. Xác định nhu cầu đào tạo.
11
1.3.2. Xác định mục tiêu đào tạo.
12
12
1.3.3. Xác định đối tượng đào tạo
13
1.3.4. Xác định nội dung đào tạo và lựa chọn phương pháp đào tạo
1.3.5. Lựa chọn và đào tạo giảng viên.
13
1.3.6. Dự tính chi phí đào tạo.
14
1.3.7. Tổ chức thực hiện và quản lý chương trình đào tạo.
14
1.3.8. Đánh giá kết quả của chương trình đào tạo.
15
16
1.4. Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực trong doanh nghiệp.
16
1.4.1.1. Mục đích của đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
1.4.1.2. Vai trò của công tác đào tạo và phát triển cán bộ quản lý trong 17
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
doanh nghiệp.
1.4.1.3. Ý nghĩa của công tác đào tạo và phát triển cán bộ quản lý đối với
18
doanh nghiệp.
1.4.2.1. Đào tạo huấn luyện viên thể thao-nền tảng và linh hồn của
20
nền TDTT
1.4.2.2. Sự cần thiết của huấn luyện viên trong hoạt động
20
TDTT
1.4.2.3. Vai trò đặc biệt của HLV
21
1.4.2.4. Những đặc điểm nghề nghiệp của HLV
26
1.4.2.5. Trình độ chuyên môn của HLV
27
31
Chương 2. Thực trạng công tác đào tạo và phát triển huấn
luyện viên các môn thể thao trong thời kỳ hội nhập.
2.1. Thực trạng thể dục, thể thao Việt Nam
31
2.1.1. Thực trạng thể dục, thể thao nước ta hiện nay
31
2.1.2. Bối cảnh trong nước và quốc tế
38
2.2. Thực trạng HLV của nền TDTT Việt Nam-nhân tố liên quan
40
trực tiếp đến hiện trạng nền TDTT Việt Nam
2.2.1. Sự đảm bảo về số lượng
40
2.2.2. Sự bảo đảm về đẳng cấp chuyên môn
41
2.3. Công tác đào tạo và phát triển HLV các môn thể thao
42
2.3.1. Thực trạng công tác đào tạo huấn luyện viên hiện nay
44
2.3.2. Đánh giá quá trình đào tạo HLV xuất phát từ Vận động viên
51
2.3.3. Đánh giá quá trình đào tạo HLV từ học sinh, sinh viên
51
2.3.4. Công tác phân bổ HLV
52
3.3.4. Công tác chăm sóc, đãi ngộ HLV
55
57
Chương 3. Một số giải pháp đào tạo và phát triển đội ngũ huấn
luyện viên các môn thể thao trong thời kỳ hội nhập
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
3.1. Định hướng cho việc đào tạo và phát triển đội ngũ HLV thể
57
thao Việt Nam
3.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về TDTT
57
3.1.2. Đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển
58
nên TDTT và đối với việc xây dựng đội ngũ HLV thể thao
3.1.3. Đòi hỏi của công chúng Việt Nam đối với TDTT Việt Nam
62
3.1.3.1. Những nhân tố tạo nên những đòi hỏi mới của công chúng
62
Việt Nam đối với TDTT Việt Nam
3.1.3.2. Hệ quả do các nhân tố trên đưa lại
63
3.1.3.3. Ý nghĩa của những điều trên đây trong việc định hướng
64
TDTT Việt Nam và định hướng công tác đào tạo và phát triển đối
với đội ngũ HLV thể thao Việt Nam
3.1.4. Đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam đối với
65
TDTT
3.1.5. Sự tác động của kinh tế thị trường đến hoạt động TDTT và
66
hoạt động huấn luyện của HLV thể thao
3.1.5.2. Nền TDTT sẽ trôi nổi theo cơ chế nói trên
68
3.1.5.3. Sự tiêu cực trong hoạt động TDTT và các hoạt động phù
68
hợp là rất lớn và khó loại riêng
3.1.6. Những định hướng lớn về hoạt động TDTT Việt Nam trong
70
khoảng thời gian từ nay đến năm 2020
3.1.6.1. Về TDTT quần chúng
70
3.1.6.2. Về thể thao thành tích cao
71
3.2. Yêu cầu có tính định hướng đối với đội ngũ HLV thể thao Việt
73
Nam trong thời kỳ mới
3.2.1.1. Đội ngũ HLV thể thao Việt Nam trong tương lai phải là
73
một đội ngũ những người thầy đặc biệt
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
3.2.1.2. Những yêu cầu cụ thể phẩm chất “Thầy” của HLV thể thao 75
3.2.2. Đội ngũ HLV thể thao Việt Nam phải đa dạng về thể loại
79
3.2.2.1. Các hướng đa dạng hóa
79
3.2.2.2. Vì sao cần như vậy
79
3.2.3. Đội ngũ HLV thể thao Việt Nam phải đi trước về loại hình
80
TDTT cần có ở Việt Nam
3.2.3.1. Quan niệm về sự đi trước về loại hình
80
3.2.3.2. Sự cần thiết của việc đi trước này
80
3.2.4. Đội ngũ HLV thể thao Việt Nam phải là một bộ phận của
81
lực lượng khai thác và bảo tồn di sản văn hóa dân tộc dưới hình
thức TDTT
82
3.3. Phương hướng đào tạo và phát triển đội ngũ HLV thể thao
Việt Nam
82
3.3.1. Những nguyên tắc chung
3.3.2. Bổ sung những chính sách cụ thể
82
3.3.3. Những khâu QLNN cụ thể cần tăng cường
83
3.3.3.1. Công tác định hướng phát triển TDTT
83
83
3.3.3.2. Công tác chuẩn hóa HLV
84
3.3.3.3. Khâu tổ chức đào tạo HLV
3.3.3.4. Việc hỗ trợ các HLV hành nghề
85
3.34. Những giải pháp cơ bản để đạo tạo và phát triển đội ngũ HLV
85
thể thao Việt Nam
3.3.4.1. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng
85
3.3.4.2. Bổ sung, đổi mới một số chính sách của Nhà nước
86
Phụ lục1
89
Tài liệu tham khảo
92
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, BẢNG SỐ LIỆU
Nội dung
Trang
TT
1 Bảng 1.1. Các môn thể thao trọng điểm (nguồn Tổng cục TDTT)
7
2 Sơ đồ 1.1: Sơ đồ đào tạo và phát triển nguồn nhân lực (Nguồn:
11
Trần Kim Dung, Quản trị nhân lực, trang 157)
3 Bảng 2.1. Trình độ đội ngũ HLV
45
4 Bảng 2.2. Đào tạo Huấn luyện viên qua các khóa học(theo nguồn
48
Trường Đại học TDTT TP. Hồ Chí Minh)
5 Bảng 2.3. Số lượng và trình độ HLV các môn thể thao thành tích
49
cao cấp cơ cở (theo nguồn TDTT Đà Nẵng)
6
Biểu đồ 2.2. Tỉ lệ phân bổ số lượng HLV thể thao giữa các vùng
54
miền trên toàn quốc
7 Biểu đồ 2.3. Tỉ lệ cơ cấu giữa các ngạch HLV
54
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Giải pháp đào tạo và phát triển đội ngũ huấn luyện viên các môn thể thao
trong thời kỳ hội nhập”được chọn làm đề tài luận văn Cao học, chuyên ngành
quản trị kinh doanh là với những lý do sau đây:
- Hoạt động TDTT là một lĩnh vực hoạt động lớn của xã hội, một bộ phận
cấu thành, không thể thiếu của mỗi xã hội được coi là phát triển toàn diện và
bền vững. Kết quả của hoạt động này vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự
phát triển xã hội. Là động lực, với kết quả đó tạo nên sức mạnh cho sự phát
triển nhiều lĩnh vực khác của hoạt động xã hội. Là mục tiêu, với kết quả đó chính là một phần tốt đẹp của một xã hội phát triển.
- Đội ngũ HLV các môn thể thao ở nước ta đóng vai trò quan trọng đến sự thành công của hoạt động TDTT trong Xã hội. Theo quan điểm của Đảng và
chính sách của Nhà nước về xã hội hóa TDTT thì hoạt động TDTT do nhân
dân thực hiện, dưới hình thức chuyên nghiệp, không chuyên. Kết quả của hoạt
động này do nhân dân quyết định. Tuy nhiên, nhân dân chỉ có thể hoạt động TDTT tốt khi có những thủ lĩnh đủ tầm chuyên môn về mặt tổ chức và huấn
luyện, đó chính là đội ngũ HLV các môn thể thao trong cả nước.
- Thể thao phong trào và Thể thao thành tích cao (TTTTC) ở Việt Nam
tuy có nhiều kết quả và thành tựu, nhưng cũng có nhiều tồn tại và yếu tố.
Nguyên nhân của những yếu tố này có nhiều, nhưng một trong những nguyên
nhân đó là sự bất cập của đội ngũ HLV các môn thể thao.
- Huấn luyện viên các môn thể thao được coi là những nhà quản lý, những
ông bầu của doanh nghiệp thể thao đảm trách một vị trí vô cùng quan trọng
trong công tác quản lý và nâng cao chất lượng đào tạo vận động viên.
Luận văn với đề tài “Giải pháp đào tạo và phát triển đội ngũ huấn
luyện viên các môn thể thao trong thời kỳ hội nhập” được xây dựng trên cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động thể dục, thể thao và vai trò của huấn 1
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
luyện viên các môn thể thao với mong muốn góp phần đưa ra các giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng công tác đào tạo và phát triển đội ngũ huấn luyện
viên các môn thể thao.
Bài viết đi vào nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, ý nghĩa
công tác đào tạo huấn luyện viên, đồng thời phân tích thực trạng công tác đào tạo và phát triển huấn luyện viên các môn thể thao và nền thể dục thể thao
nước nhà, trên cơ sở đó kiến nghị một số phương hướng và giải pháp chủ yếu
đào tạo và phát triển huấn luyện viên các môn thể thao trong thời kỳ nhập.
Về phạm vi nghiên cứu, bài viết chỉ tập trung vào nghiên cứu, phân tích
thực trạng công tác đào tạo và phát triển của nền thể thao Việt Nam và huấn
luyện viên các môn thể thao từ khi Việt Nam tham gia SEAGAME 15 (1991).
Việc đưa ra phương hướng và giải pháp chỉ nhằm vào những vấn đề nổi bật, cấp thiết nhất.
Bài viết, sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp; phương
pháp điều tra mẫu…
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung bài viết được chia thành
3 phần:
Chương I: Khái quát chung về công tác đào tạo và phát triển đội
ngũ huấn luyện viên- Nguồn nhân lực quan trọng.
Chương II: Thực trạng công tác đào tạo và phát triển đội ngũ huấn
luyện viên các môn thể thao trong thời kỳ hội nhập.
Chương III: Một số giải pháp đào tạo và phát triển đội ngũ huấn
luyện viên các môn thể thao trong thời kỳ hội nhập.
2
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN
ĐỘI NGŨ HUẤN LUYỆN VIÊN- NGUỒN NHÂN LỰC QUAN TRỌNG
1.1. Khái quát về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Nguồn nhân lực
Nhân lực: Là nguồn lực của mỗi con người có thể huy động được trong
quá trình sản xuất kinh doanh, bao gồm trí lực và thể lực.
Trí lực chỉ sức suy nghĩ, sự hiểu biết sự tiếp thu kiến thức, tài năng,
năng khiếu cũng như quan điểm, lòng tin, nhân cách… của từng con người.
Thể lực là chỉ sức khoẻ của thân thể, khả năng sử dụng cơ bắp tay chân
tay. Nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như gen di truyền, giới tính, tuổi tác,
tầm vóc con người, chế độ ăn uống, chế độ nghỉ ngơi, mức sống, thu nhập và
chế độ y tế…
Tóm lại: Nhân lực bao gồm tất cả các tiềm năng của con người trong
một tổ chức hay xã hội (kể cả những thành viên trong ban lãnh đạo doanh nghiệp), tức là tất cả các thành viên trong doanh nghiệp sử dụng kiến thức,
khả năng, hành vi ứng xử và giá trị đạo đức để thành lập, duy trì và phát triển
doanh nghiệp.
Nguồn nhân lực: Có thể hiểu là tổng hợp cá nhân những con người cụ
thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh
thần được huy động vào quá trình lao động.
Nguồn nhân lực trong tổ chức bao gồm: Nhân viên và cán bộ quản lý
Cán bộ quản lý: Là một trong hai bộ phận cấu thành nên đội ngũ lao
động trong tổ chức.
3
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Trong thể thao, huấn luyện viên là người trực tiếp huấn luyện, đào tạo
và hướng dẫn các hoạt động của một đội thể thao hoặc của một cá nhân vận
động viên. Một huấn luyện viên, đặc biệt trong một trận đấu lớn, thường được hỗ trợ bởi một hoặc nhiều trợ lý huấn luyện viên. Họ có thể là điều phối viên
hoặc chuyên gia thể lực.
1.1.1.2. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là tổng thể các hoạt động nhằm để
duy trì và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tổ chức.
Phát triển nguồn nhân lực (theo nghĩa rộng) là tổng thể các hoạt động
học tập có tổ chức được tiến hành trong những khoảng thời gian nhất định để nhằm tạo ra sự thay đổi hành vi nghề nghiệp của người lao động. Phát triển
nguồn nhân lực bao gồm ba hoạt động là: Giáo dục, đào tạo và phát triển.
Giáo dục: Giáo dục là các hoạt động học tập để chuẩn bị cho con người
bước vào một nghề nghiệp hoặc chuyển sang một nghề mới thích hợp hơn trong
tương lai.
Giáo dục bao gồm các hoạt động nhằm cải tiến, nâng cao sự thuần thục,
khéo léo của một cá nhân một cách toàn diện theo một hướng nhất định nào
đó vượt ra ngoài công việc hiện hành.
Giáo dục mang tính chất cung cấp cho học viên các kiến thức chung có
thể sử dụng vào trong các lĩnh vực khác nhau.
Đào tạo: Đào tạo (hay còn gọi là đào tạo kỹ năng) là các hoạt động học
tập nhằm giúp cho người lao động có thể thực hiện kết quả hơn chức năng
nhiệm vụ của mình.
Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên
môn nghiệp vụ cho người lao động, để họ có thể đảm nhận được một công việc nhất định.
4
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Như vậy, bản chất của đào tạo là các hoạt động nhằm mục tiêu nâng cao
năng lực để người lao động có thể hoàn thành tốt một công việc cụ thể.
Phát triển: Phát triển là các hoạt động học tập vươn ra khỏi phạm vi
công việc trước mắt của người lao động, nhằm mở ra cho họ những công việc
mới dựa trên cơ sở những định hướng tương lai của tổ chức.
Phát triển bao gồm các hoạt động nhằm chuẩn bị cho công nhân viên
theo kịp với cơ cấu tổ chức khi nó thay đổi và phát triển.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực bao gồm không chỉ đào tạo, giáo
dục và phát triển trong một tổ chức mà còn bao gồm một loạt các hoạt động
khác được thực hiện từ bên ngoài, bao gồm: Học việc, học nghề, các hoạt động dạy nghề ở ngoài xã hội.
1.1.1.3. Đào tạo và phát triển Huấn luyện viên (HLV)
Huấn luyện viên là người trực tiếp huấn luyện, đào tạo và hướng dẫn các
hoạt động của một đội thể thao hoặc của một cá nhân vận động viên. Một huấn luyện viên, đặc biệt trong một trận đấu lớn, thường được hỗ trợ bởi một
hoặc nhiều trợ lý huấn luyện viên. Họ có thể là điều phối viên hoặc chuyên
gia thể lực.
Đào tạo và phát triển HLV là tất cả các hoạt động để duy trì và nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, là một bộ phận của đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực.
Nhìn chung, công tác đào tạo và phát triển HLV nằm trong công tác đào
tạo và phát triển nguồn nhân lực cho nền thể dục thể thao nước nhà. Về các
hoạt động, chương trình… của công tác đào tạo và phát triển HLV giống như công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Nhưng về phạm vi, mức độ,
nội dung cụ thể thì giữa chúng có sự khác biệt.
5
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác đào tạo và phát triển Huấn
luyện viên
1.1.2.1. Bối cảnh quốc tế
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu của thể dục, thể thao ở
mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Ngày 28/04/1980 Ủy ban Olympic quốc
tế (IOC) chính thức công nhận Ủy ban Olympic Việt Nam là thành viên của
phong trào Olympic Quốc tế. Cạnh tranh giành chiến thắng về thể thao, thể
hiện sức mạnh của dân tộc, chính là đặc trưng của thể thao.
Tóm lược xu thế phát triển TDTT quốc tế trong những năm gần đây:
- Xu thể phát triển thể dục, thể thao trường học:
+ Phát triển nhận thức về mục tiêu giáo dục thể chất trường học: Xác định
tăng cường sức khỏe tinh thần và thể chất cho học sinh là mục tiêu cuối cùng;
chú trọng cho học sinh tự chọn các nội dung hoạt động thể dục, thể thao.
+ Nhiều quốc gia thực hiện cải cách nội dung giáo dục thể chất
+ Nhiều quốc gia thực hiện cải cách tổ chức giáo dục thể chất
+ Nhiều quốc gia thay đổi phương pháp đánh giá về giáo dục thể chất
- Xu thế phát triển thể dục, thể thao quần chúng:
+ Số ngời tham gia hoạt động thể dục, thể thao quần chúng tăng nhanh,
thể dục, thể thao giải trí phát triển ngày càng phong phú.
+ Chính phủ các quốc gia tích cực tham gia và tăng cường chỉ đạo, tổ
chức thể dục, thể thao quần chúng.
+ Chính phủ các quốc gia tăng cường xây dựng cơ sở vật chất thể dục, thể
thao phúc lợi công.
+ Đo lường thể chất và phương pháp vận động (tập luyện, thi đấu) ngày 6
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
càng được khoa học hóa, tự động hóa bằng ứng dụng công nghệ IT.
+ Môi giới, truyền thông thể dục, thể thao quần chúng phát triển mạnh.
+ Hợp tác và giao lưu TDTT quần chúng quốc tế ngày càng tăng cường.
- Xu thế phát triển thể thao thành tích cao:
+ Các quốc gia rất coi trọng tranh Huy chương vàng Olympic, trình độ thi
đấu thể thao tăng rõ rệt.
+ Về chiến lược, các quốc gia đều điều chỉnh thu hẹp số môn thể thao
trọng điểm, đầu tư có trọng điểm (ví dụ, đầu tư trọng điểm trước Olympic Bắc
Kinh năm 2008)
Bảng 1.1. Các môn thể thao trọng điểm (nguồn Tổng cục TDTT)
TT Đất nước Môn thể thao Ghi chú
Mỹ Điền kinh, bơi lội, Boxing, Vật
Nga
Thể dục dụng cụ, Vật, Điền kinh, Bắn súng, Bơi lội, Cử tạ, Boxing Ngoài ra có 6 môn trọng điểm loại 2
Pháp Xe đạp, Kiếm, Thể thao dưới
nước
Đức Đua thuyền, Canoeing, Ngựa,
Điền kinh
Trung Quốc Bóng bàn, nhảy cầu, Thể dục
dụng cụ, Bắn súng, Cử tạ, Cầu
lông
+ Nhìn chung các quốc gia, đặc biệt Trung Quốc vừa chú trọng xác định môn thể thao trọng điểm, vừa chú trọng xác định vận động viên trọng điểm
(kể cả bao gồm vận động viên ở những môn thể thao không phải trọng điểm).
+ Nhiều quốc gia thành lập một số trung trong huấn luyện thể thao trọng
điểm (Mỹ thành lập 4 trung tâm huấn luyện Olympic, Trung Quốc thành lập 5
trung tâm huấn luyện TT trọng điểm).
7
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
+ Tiêu chí để xác định môn thể thao trọng điểm và vận động viên trọng
điểm ở các quốc gia là: Giành huy chương vàng Thế vận hội, ưu tiên môn thể
thao nhiều lần giành huy chương vàng thế vận hội.
+ Tối ưu hóa phương thức huấn luyện, nâng cao trình độ thi đấu của vận
động viên ưu tú trong thời gian ngắn.
+ Tăng cường giao lưu quốc tế về nhân tài thể thao, kỹ thuật và công nghệ
thể thao.
+ Tần suất các cuộc thi đấu thể thao ngày càng nhiều, dẫn đến sự thay đổi
quan niệm huấn luyện thể thao truyền thống.
+ Hàm lượng khoa học cộng nghệ ngày càng cao, trở thành nhân tố quan
trọng để nâng cao thành tích thể thao.
+ Kinh doanh thể thao và thể thao nhà nghề tác động lớn đế sự phát triển
kinh tế thể thao thành tích cao.
- Xu thế cải cách quản lý thể dục, thể thao trên thế giới:
Xu thế chung của các quốc gia là quản lý nhà nước kết hợp với quản lý xã
hội về thể dục, thể thao (trừ Mỹ, chỉ quản lý xã hội về thể dục, thể thao).
1.1.2.2.Bối cảnh trong nước
- Phát triển sự nghiệp thể dục, thể thao nước ta trong những năm qua, đặc
biệt trong thời kỳ đổi mới đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp tục phát
triển thể dục, thể thao đến năm 2020:
+ Sự phát triển TDTT đã bước đầu ra khỏi cơ chế kế hoạch tập trung, có
sự tham gia điều chỉnh của yếu tố thị trường, có sự tham gia đầu tư của xã
hội, của doanh nghiệp. Giải thi đấu của một số môn thể thao đã tìm được tài
trợ.
+ Các lĩnh vực trong cơ cấu thể dục, thể thao nước ta về cơ bản đã theo xu
8
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
hướng phát triển chung của thế giới.
+ hệ thống tổ chức TDTT nước ta bước đầu theo xu hướng phát triển
chung của thế giới, kết hợp hệ thống quản lý Nhà nước với hệ thống quản lý
xã hội về thể dục, thể thao.
+ Hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật thể dục, thể thao được cải thiện nhiều
so với thời gian đầu sau khi thống nhất đất nước.
+ Hệ thống cán bộ, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công tác khoa học
công nghệ và y học TT đã khách hơn nhiều so với thời gian trước đây.
- Tuy nhiên, để tiếp tục phát triển thể dục, thể thao trong giai đoạn mới,
chúng ta phải vượt qua một số thách thức chủ yếu sau đây:
+ Nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, nhiều ngành về TDTT
còn hạn chế. Chưa coi đầu tư cho TDTT cũng là đầu tư đảm bảo an sinh
xã hội.
+ Thể chế quản lý thể dục, thể thao ở nước ta, trong đó có hệ thống các
thiết chế thể dục, thể thao còn chưa thống nhất, chưa được Nhà nước phê
duyệt.
+ Công tác kế hoạch hóa, xây dựng chiến lược, quy hoạch thể dục thể
thao dài hạn; xây dựng các chương trình, dự án đầu tư thể dục, thể thao mang quy mô quốc gia còn chưa được chú trọng.
+ Trong những năm tới do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, sự tăng trưởng kinh tế nước ta bị chậm lại so với những năm qua.
1.2. Các phương pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Phương pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp rất
phong phú và đa dạng. Đào tạo kỹ năng là nền tảng của việc phát triển nhân
viên với 2 mục đích chính:
9
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
- Giúp nhân viên có được kỹ năng phù hợp với công nghệ tiên tiến và
các hoạt động kinh doanh của Công ty.
- Giúp nhân viên làm chủ được các kỹ năng cần thiết để phát triển trong
nội bộ Công ty.
Với mục đích như vậy người ta thường sử dụng các phương pháp đào
tạo chính thức và không chính thức:
- Đào tạo không chính thức nhìn chung được đào tạo thông qua hình thức
đào tạo tại chỗ trong công việc. Đây là hình thức đào tạo ít tốn kém nhất vì nó
không tách nhân viên ra khỏi quy trình sản xuất
- Đào tạo chính thức, hình thức này có thể được sử dụng để nâng cao kỹ năng dành riêng cho công ty lẫn kỹ năng có thể chuyển giao. Hình thức đào
tạo này tốn kém hơn đào tạo tại chỗ vì nhân viên bị tách ra khỏi công việc của
họ, phải dùng đến giảng viên, phải phát triển cũng như cập nhật tài liệu.
1.3. Tổ chức thực hiện công tác đào tạo và phát triển cán bộ quản lý trong
doanh nghiệp.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là một công tác quản lý nguồn
nhân lực cần được thực hiện trong mọi tổ chức. Quá trình xây dựng chương
trình đào tạo phát triển là một chuỗi các giai đoạn liên tục và có thứ tự. Trong
quá trình thực hiện tổ chức công tác đào tạo, phát triển luôn phải xem xét
chương trình đó có phù hợp với mục tiêu đã đặt ra chưa nếu chưa thì chương
trình đó phải được điều chỉnh lại và cũng phải đánh giá kết quả kinh tế của nó
đem lại. Chương trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực được thể hiện
theo sơ đồ sau:
10
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Môi trường bên ngoài Môi trường bên trong
Xác định nhu cầu đào tạo
Xác định mục tiêu đào tạo
Xác định đối tượng đào tạo
Xây dựng chương trình và lựa chọn phương pháp
Đánh giá (nếu cần thiết)
Lựa chọn và đào tạo giáo viên
Dự tính chi phí đào tạo
Thực hiện
Đánh giá kết quả của chương trình đào tạo.
(Nguồn : Trần Kim Dung, Quản trị nhân lực, trang 157)
1.3.1. Xác định nhu cầu đào tạo.
Xác định nhu cầu đào tạo trả lời cho các câu hỏi: Khi nào tiến hành
đào tạo? Bộ phận nào? Loại lao động nào? Loại kiến thức, kỹ năng nào cần
đạt tới? Số lượng người cần đào tạo là bao nhiêu? Có thể nói đây là bước
rất quan trọng không thể coi nhẹ.
Các cơ sở để xác định nhu cầu đào tạo là thông qua việc phân tích nhu cầu lao động của tổ chức, các yêu cầu về kiến thức kỹ năng cần thiết để thực
11
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
hiện công việc và phân tích trình độ, kiến thức, kỹ năng hiện có của người
lao động. Đặc điểm riêng của công việc quản lý đó là không thể định lượng
được khối lượng công việc một cách cụ thể. Do vậy việc xác định nhu cầu đào tạo, phát triển cho lao động quản lý có những nét đặc thù riêng. Nó phụ
thuộc vào đặc điểm,chiến lược,chính sách sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, đặc biệt là chính sách quản trị nguồn nhân lực.
Để xác định được nhu cầu đào tạo và phát triển lao động quản lý, trưởng
các bộ phận, phòng ban đánh giá các nhân viên dưới quyền, tìm ra điểm mạnh
điểm yếu, trong thực hiện công việc của họ và dự đoán khả năng thăng tiến
của người đó. Đồng thời cũng phải so sánh khả năng hiện tại của họ với yêu cầu công việc trong tương lai. Qua đó xây dựng các kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ lao động quản lý của doanh nghiệp giúp họ có thể hoàn thành
tốt công việc trong tương lai phát huy các khả năng còn chưa được sử dụng
của họ.
1.3.2. Xác định mục tiêu đào tạo.
Mục tiêu đào tạo của một chương trình đào tạo là những kết quả cần
phải đạt được của chương trình đào tạo đó về các mặt như kiến thức, kỹ năng
cần đạt tới, số lượng, cơ cấu học viên, khoảng thời gian nào cần phải hoàn thành… Xác định đúng được mục tiêu đào tạo sẽ nâng cao được kết quả của
chương trình đào tạo. Mục tiêu có thể là mục tiêu chung của toàn công tác đào
tạo, phát triển của doanh nghiệp hoặc là mục tiêu của từng chương trình đào
tạo và phát triển Cán bộ quản lý. Mục tiêu càng cụ thể, càng chính xác bao
nhiêu việc định hướng cho công tác đánh giá kết quả càng dễ dàng bấy nhiêu. Đánh giá được kết quả cần có mục tiêu. Và các mục tiêu đều phải tập trung
phục vụ cho mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3.3. Xác định đối tượng đào tạo.
Đối tượng đào tạo là danh sách những học viên, những vị trí cần được
đào tạo của chương trình đào tạo đó. Việc xác định đúng đối tượng đào tạo để
đảm bảo đào tạo đúng người cần được đào tạo, đúng khả năng và nguyện
12
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
vọng của họ, tránh tình trạng lầm lẫn gây lãng phí thời gian và tiền bạc. Để
xác định được đúng đối tượng đào tạo, người xây dựng chương trình đào tạo
cần phải trao đổi với những người lãnh đạo bộ phận, trưởng các phòng ban để biết được thực trạng thực hiện công việc, triển vọng nghề nghiệp, nhu cầu đào
tạo của người lao động và xem lại tác dụng của các chương trình đào tạo
trước.
1.3.4. Xác định nội dung đào tạo và lựa chọn phương pháp đào tạo
Nội dung đào tạo là kế hoạch giảng dạy gồm các môn học, bài học
được giảng dạy, các phương tiện phục vụ cho đào tạo, thời lượng của các môn
học và việc phân bố các môn học trong suốt thời gian của khoá đào tạo. Nội
dung đào tạo phải được thiết kế sao cho thoả mãn được các mục tiêu của
chương trình đào tạo đã đặt ra và phù hợp với điều kiện thực tế của doanh nghiệp.
Phương pháp đào tạo có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả của toàn bộ chương trình đào tạo, do vậy doanh nghiệp cần phải thận trọng lựa chọn
phương pháp đào tạo thích hợp. Người thiết kế cần phải căn cứ vào mục tiêu
của chương trình đào tạo, nội dung đào tạo, đặc điểm sản xuất kinh
doanh…của doanh nghiệp để xác định phương pháp đào tạo phù hợp nhất với doanh nghiệp.
1.3.5. Lựa chọn và đào tạo giảng viên.
Các giảng viên tham gia giảng dạy có thể là của doanh nghiệp hoặc đi
thuê bên ngoài, việc lựa chọn giảng viên phụ thuộc vào số lượng các học viên,
phương pháp đào tạo… Việc chọn lựa giảng viên cho chương trình đào tạo là
một trong những việc quan trọng nhất quyết định đến sự thành công của của mỗi
chương trình đào tạo. Các giảng viên được lựa chọn dựa vào trình độ chuyên
môn, khả năng sư phạm, kinh nghiệm, uy tín và đối với hình thức đào tạo trong
công việc thì người giảng viên còn phải là người có kỹ năng tốt trong thực hiện
công việc, giỏi chuyên môn.
13
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Giảng viên là người lao động trong doanh nghiệp mặc dù họ có kỹ năng
và kinh nghiệm trong thực hiện công việc nhưng có thể họ chưa có khả năng
sư phạm. Do vậy họ cần được đào tạo để biết cách tổ chức các kiến thức kỹ năng sẽ truyền đạt cho học viên một cách hợp lý, nâng cao kết quả đào tạo.
Khi doanh nghiệp đi thuê các giảng viên giảng dạy bên ngoài thì việc đào tạo
họ cũng rất cần thiết, để họ có thể nắm bắt được các điều kiện và yêu cầu cụ
thể của doanh nghiệp, từ đó họ lựa chọn kiến thức và phương pháp truyền đạt phù hợp.
1.3.6. Dự tính chi phí đào tạo.
Các doanh nghiệp thường có quỹ đầu tư phát triển và kinh phí cho đào
tạo và phát triển cán bộ quản lý được trích ra từ đây hoặc có nhiều doanh
nghiệp sẽ sử dụng chi phí sản xuất kinh doanh. Tuỳ thuộc vào quy mô và tình trạng hoạt động của doanh nghiệp mà quỹ này có tỷ trọng lớn hay nhỏ. Vì
kinh phí cho đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là một loại chi phí nên phải
được dự tính ở mức độ hợp lý mà doanh nghiệp có thể chấp nhận được. Kinh
phí đào tạo phụ thuộc vào nhu cầu đào tạo, mục tiêu đào tạo, phương pháp đào tạo và nó cũng quyết định phần nào đến kết quả của chương trình đào tạo.
Do vậy nó phải ở mức hợp lý chứ không thể quá thấp làm ảnh hưởng đến kết
quả đào tạo. Chi phí dành cho đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có thể
gồm các chi phi sau: Chi phí về học phí, lương , mua tài liệu… cho người tham gia khoá đào tạo. Và các chi phí về việc mua sắm trang bị cơ sở vật chất
lớp học, tiền lương cho người quản lý cùng một số chi phí có liên quan.
1.3.7. Tổ chức thực hiện và quản lý chương trình đào tạo.
Sau khi đã xây dựng kế hoạch tổng thể về đào tạo và phát triển mà được
chấp nhận thì doanh nghiệp sẽ triển khai thực hiện kế hoạch đó. Trong quá trình thực hiện kế hoạch tổng thể về đào tạo và phát triển, doanh nghiệp phải
cung cấp đầy đủ các phương tiện cho khoá đào tạo và tiến hành hoạt động
quản lý, theo dõi học viên, người giảng dạy để có các điều chỉnh kịp thời.
14
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
1.3.8. Đánh giá kết quả của chương trình đào tạo.
Kết quả của chương trình đào tạo luôn là mối quan tâm hàng đầu của
việc xây dựng chương trình đào tạo. Đánh giá kết quả của chương trình đào tạo
xem nó có đạt được các mục tiêu đã đặt ra chưa, các kiến thức mà học viên thu
thập được và việc ứng dụng kiến thức đó vào thực hiện công việc như thế nào, khâu nào là tốt, khâu nào chưa tốt, lý do vì sao lại có khâu chưa tốt để có thể
rút ra kinh nghiệm cho các lần đào tạo sau. Mỗi phương pháp đào tạo có thể lựa
chọn các hình thức đánh giá kết quả khác nhau. Việc xác định đúng phương
pháp đánh giá kết quả đào tạo cho ta biết được chính xác hiệu quả mà chương
trình đó mang lại. Thông thường có các hình thức đánh giá kết quả chương trình đào tạo và phát triển cán bộ quản lý như sau:
Phân tích thực nghiệm.
Phương pháp này được tiến hành dựa trên kết quả thực hiện công việc
của hai nhóm có kết quả thực hiện công việc tương tự nhau, chọn một nhóm tham gia vào chương trình đào tạo. Sau quá trình đào tạo, so sánh kết quả thực
hiện công việc của hai nhóm đó. Nếu nhóm được đào tạo có kết quả thực hiện
tốt hơn hẳn nhóm chưa được đào tạo thì ta kết luận chương trình đào tạo đó
có kết quả và ngược lại. Phương pháp này đơn giản, tốn ít chi phí và thời gian nhưng kết quả lại không cao và không nói lên được vấn đề tồn tại của chương
trình đào tạo.
Phương pháp đánh giá kết quả dựa vào những thay đổi của học viên.
Phương pháp này dựa vào những sự thay đổi trong thực hiện của các
học viên so với kết quả thực hiện công việc trước đây của họ và mục tiêu đào
tạo. So sánh dựa trên những nhận xét của người lãnh đạo bộ phận trực tiếp
của học viên về sự tiến bộ của họ. Phương pháp này có ưu điểm, nhược điểm
giống với phương pháp phân tích thực nghiêm nhưng kết quả chính xác hơn.
Phương pháp đánh giá kết quả thông qua bài kiểm tra.
Thời gian tiến hành bài kiểm tra có thể là định kỳ, cuối kỳ hoặc giữa kỳ 15
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
người quản lý có thể cho học viên thực hiện các bài kiểm tra về các kiến thức,
kỹ năng đã được học. Kết quả của chương trình đào tạo chính là tỷ lệ các học
viên đạt yêu cầu của khoá đào tạo. Phương pháp này có ưu điểm là khá chính xác, có thể phản ánh được một số vấn đề tồn tại của chương trình đào tạo.
Nhưng có nhược điểm là tốn chi phí thiết kế, tiến hành bài kiểm tra, có
khoảng cách giữa lý thuyết và thực hiện công việc trong thực tế.
Phương pháp đánh giá dựa vào phản ứng của học viên.
Phương tiện để tiến hành đánh giá của phương pháp này là bảng hỏi để
tìm hiểu ý kiến của học viên sau khoá học. Các câu hỏi trong bảng hỏi phải
được thiết kế dễ hiểu, đầy đủ và có câu hỏi mở giúp học viên được bày tỏ ý
kiến riêng của họ. Thông thường các câu hỏi có thể về các vấn đề: Sự phù hợp
của khoá học với thời gian, công việc của học viên; Ý kiến đánh giá của học viên về những kiến thức, kỹ năng và cách truyền đạt của người giảng dạy;
Những kiến thức mà học viên thu thập được từ khoá học…
Phương pháp này có ưu điểm là chính xác, phản ánh được cụ thể các tồn
tại của khoá đào tạo. Nhưng tốn chi phí cho việc thiết kế và tiến hành điều tra
bằng bảng hỏi, yêu cầu người thiết kế bảng hỏi phải có kỹ năng thiết kế bảng
hỏi, và những ý kiến đánh giá này chỉ là chủ quan của học viên.
1.4.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực
1.4.1.1. Mục đích của đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Đào tạo người lao động là giúp cho họ hiểu sâu hơn các yêu cầu của
công việc về mục tiêu, văn hóa doanh nghiệp, về các công nghệ khoa học kĩ
thuật tiên tiến hiện đại...
Thông qua đào tạo và phát triển thì người lao đông nâng cao được kiến
thức của mình từ đó thúc đẩy được doanh nghiệp phát triển, do đó giúp cho
doanh nghiệp nâng cao vị trí, vị thế của mình trên thị trường trong nước cũng như trên thế giới.
16
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Như vậy mục đích cuối cùng của đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
đó là nhằm sử dụng tối đa nguồn nhân lực hiện có và nâng cao hiệu quả sử
dụng của tổ chức thông qua việc giúp cho họ hiểu hơn về công việc giúp họ nắm vững về nghề nghiệp của họ và thực hiện được chức năng của mình một
cách tự giác và thái độ làm việc tốt hơn trước và để tăng sự thích ứng của họ
với công việc trong tương lai.
1.4.1.2. Vai trò của công tác đào tạo và phát triển cán bộ quản lý trong doanh
nghiệp.
Để có được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp đáp ứng
được những yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở ban hành tiêu chuẩn đối với từng vị trí
chức danh thì giải pháp đào tạo, bồi dưỡng có tầm quan trọng đặc biệt vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế kinh tế, việc thích ứng với cơ chế thị trường để làm ăn đúng đắn có hiệu quả đòi hỏi phải có quá trình. Điều
đó có nghĩa là chúng ta phải tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức
về kinh tế thị trường cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp để họ
có đủ tự tin khi quyết định các phương án sản xuất kinh doanh và điều hành doanh nghiệp theo yêu cầu của các quy luật kinh tế thị trường.
Thứ hai, đào tạo bồi dưỡng để thích ứng với sự thay đổi và phát triển.
Kỹ năng, phương pháp quản lý và luật pháp trong bối cảnh hội nhập
quốc tế ngày càng nhiều, càng phức tạp và luôn thay đổi, cạnh tranh trên thị
trường trong nước và quốc tế ngày càng gay gắt, nhu cầu của người tiêu dùng
ngày càng phong phú đa dạng. Để đáp ứng sự thay đổi và phát triển này, đòi
hỏi phải nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh
nghiệp thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng nhằm cung cấp những kiến thức cơ
bản cũng như cập nhật thông tin và vấn đề quan trọng là cần tiến hành thường
xuyên, liên tục.
17
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Nói chung có rất nhiều lý do để nói rằng công tác đào tạo và phát triển
cán bộ quản lý là quan trọng và cần được quan tâm đúng mức. Trong đó có ba
lý do chủ yếu sau:
- Để đáp ứng yêu cầu công việc của tổ chức hay nói cách khác là để đáp
ứng nhu cầu tồn tại và phát triển tổ chức.
- Để đáp ứng nhu cẩu học tập, phát triển của người lao động.
- Đào tạo và phát triển là những giải pháp có tính chiến lược tạo ra lợi
thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
Đào tạo và phát triển Cán bộ quản lý là điều kiện quan trọng để doanh
nghiệp tồn tại và phát triển bền vững. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, để
doanh nghiệp nâng cao vị thế cạnh tranh thì vốn nhân lực trở thành tài sản có
giá trị nhất và phải được đầu tư thích đáng.
1.4.1.3. Ý nghĩa của công tác đào tạo và phát triển cán bộ quản lý đối với doanh
nghiệp.
Đối với hoạt động kinh doanh, công tác đào tạo được coi là một trong
những hoạt động quản lý quan trọng. Nếu đào tạo đúng hướng sẽ mang lại lợi
ích hữu hình cho doanh nghiệp, đó là tăng chất lượng sản phẩm, dịch vụ, thái
độ phục vụ chân thành. Đặc biệt nếu đào tạo tốt còn rút ngắn thời gian học
hỏi, thời gian tích lũy đối với các cán bộ mới thay đổi vị trí công tác.
Với vai trò quan trọng trong hoạt động tổ chức lao động, quản trị nguồn
nhân lực, việc đào tạo và phát triển đội cán bộ quản lý giúp cho nâng cao trình
độ, kỹ năng quản lý của nhà quản lý, tăng kết quả kinh doanh của công ty.
Quá trình đào tạo và phát triển có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với tổ
chức, thể hiện qua những lợi ích mà nó đem lại cho tổ chức:
- Nâng cao kết quả thực hiện công việc vì cán bộ quản lý qua đào tạo sẽ
quản lý và điều hành tổ chức các hoạt động hợp lý hơn.
18
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
- Nâng cao tính ổn định và năng động của tổ chức.
- Duy trì và nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực.
- Tạo điều kiện cho áp dụng tiến bộ kỹ thuật và quản lý vào doanh
nghiệp.
- Tạo ra được lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Giảm được lãng phí trong quá trình sản xuất vì năng lực quản lý của
cán bộ quản lý qua đào tạo được tăng lên.
- Nhà quản lý giỏi không những đem lại không khí làm việc thoải mái,
có sức sáng tạo tạo động lực trong lao động. Để doanh nghiệp hoạt động hợp
lý, đạt kết quả kinh tế cao. Mà còn có tầm nhìn chiến lược giúp công ty có hướng phát triển đúng trong tương lai.
- Nhà quản lý giỏi đưa ra được những giải pháp hữu hiệu trong mọi tình
huống bất ngờ có thể xảy ra trong sản xuất kinh doanh.
Đối với người lao động, đào tạo và phát triển có vai trò rất quan trọng.
- Tạo ra được sự gắn bó giữa người lao động và doanh nghiệp.
- Tạo ra tính chuyên nghiệp của người lao động nói chung và người
quản lý nói riêng.
- Tạo ra sự thích ứng giữa người lao động và công việc hiện tại cũng
như tương lai.
- Đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng phát triển của người lao động.
- Tạo cho người lao động cách nhìn, cách tư duy mới trong công việc
của họ là cơ sở để phát huy tính sáng tạo của người lao động trong công việc.
19
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
1.4.2.1. Đào tạo huấn luyện viên thể thao-nền tảng và linh hồn của nền
TDTT
Nói đến thể thao của một quốc gia là nói đến sự mạnh yếu của cạnh
tranh trong hoạt động thể thao và ảnh hưởng của nền kinh tế. Người huấn
luyện viên như là một ông chủ doanh nghiệp xác lập kế hoạch, xây dựng mục tiêu cho bộ môn của mình.
Trước đây huấn luyện viên thường sinh hoạt và hưởng lương từ các
Trung tâm huấn luyện thể thao các tỉnh, thành phố như một công cụ của Nhà
nước thuộc các bộ môn chuyên sâu. Hiện nay xu hướng toàn cầu hóa, xã hội
hóa công tác thể thao thì vai trò huấn luyện viên được đẩy lên một tầm cao
mới đó là các nhà quản lý đặt trong bối cảnh là các doanh nghiệp mỗi huấn
luyện viên là các nhà quản lý, là người thầy, các liên đoàn, hiệp hội là một doanh nghiệp. Huấn luyện viên là một cán bộ quản lý trong đó.
Để chuẩn hóa đội ngũ Huấn luyện viên trong những năm tới cần phải
thường xuyên đào tạo và có quy hoạch cụ thể.
Như vậy, Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho ngành Thể dục thể
thao chủ yếu là Huấn luyện viên là hoạt động cần thiết và không thể thiếu
trong giai đoạn phát triển thể thao và kinh tế hiện nay.
1.4.2.2. Sự cần thiết của huấn luyện viên trong hoạt động TDTT
Hoạt động TDTT cần có huấn luyện viên với tư cách là các nhà quản lý
với lý do sau đây:
- Hoạt động TDTT, nhất là thể thao chuyên nghiệp, là một nghề, nên phải
học, bởi “không có thày đố mày làm nên”, như ông cha ta ngày xưa đó dạy.
- Nghề TDTT là “nghề võ”, nên phải “văn ôn võ luyện”, ông cha ta ngày
xưa cũng dạy thế.
- Khác với văn, là nghề không phải đấu, nếu có đấu cũng là đấu không
20
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
trực diện, nghề võ đó hành nghề là đấu, đó đấu là đấu trực diện đối thủ. Trong
cuộc đối đầu trực diện, đối thủ thì thường thiên biến vạn hoá, không ngừng
tiến bộ, nên sự học không bao giờ đủ bởi thế, “nghề võ” phải học không ngừng. Điều phải học không chỉ là về nguyên lý, mà cũng là cách ứng xử
trong từng cuộc đấu, là đòi hỏi hành động từng ngày, từng giờ, trước từng trận
đấu. Điều này không thể tự học như nghề Văn, mà phải có huấn luyện viên
ngay cả khi hành nghề.
Hoạt động TDTT thường là hoạt động tập thể, nhất là các bộ môn súng.
Những hoạt động này càng cần có huấn luyện viên với có vấn đề đấu pháp
mang tính đồng đội. Với các bộ môn đấu đơn, các VĐV có thể tự điều khiển lấy mình, nhưng các bộ môn tập thể kể trên thì phải có chỉ huy, như một dàn
hợp xướng, cần có nhạc trưởng vậy.
1.4.2.3. Vai trò đặc biệt của HLV
a. HLV là người Thầy phụ đạo về lý thuyết
Trong nền TDTT hiện đại, chuyên nghiệp, tuyệt đại bộ phận VĐV đều tốt
nghiệp các trường TDTT. Nghĩa là, họ đều được trang bị lý luận nhất định về nghề.
Nhưng đó mới chỉ là bước đầu. Những kiến thức này có thể chưa nhập hết
vào đầu trò, có thể nhập hết rồi, nhưng rơi rụng, có thể chưa rơi rụng, nhưng
trò chưa hiểu. Đó cũng là hiện tượng phổ biến trong giới học trò. Với thế, nên
chỉ khi hành nghề, các cựu học trò này mới bộc lộ hết những kiến thức bất
cập, rơi rụng hoặc hiểu sai của mình.
Đối với các nghề khác, sự bất cập này có thể chậm được bù đắp, với tốc
độ và sự khắc nghiệt của nghề không cao. Nhưng nghề TDTT thì không thế.
Cuộc đời nghề của mỗi VĐV không dài như mọi nghề, thường chỉ bằng nửa hoặc non nửa đời nghề của các nghề khác. Tốc độ hành nghề của nghề TDTT
tính bằng giõy, chậm thì tính bằng phút. Với thế, nghề TDTT không cho phộp
võa làm võa mũ mẫm lý thuyết, mà phải am tường kiến thức đến mức trở
21
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
thành bản lĩnh, thành ý thức. HLV chính là người Thầy bổ sung, củng cố và
chỉ cách vận dụng cho Trò những kiến thức mà học cần.
b. HLV là Thầy luyện nghề
Trong nền TDTT hiện đại, chuyện nghiệp, tuyệt đại bộ phận VĐV đều tốt
nghiệp các trường TDTT. Nghĩa là, họ đều được trang bị về nghề nghiệp nhất
định. Nhưng từ biết nghề đến thạo nghề là cả một lộ trình, mà nếu không có
người kèm cặp, thì VĐV khó có thể hành nghề thắng lợi.
Điều này cũng không là lạ đối với các nghề khác. Người học nghề nào
cũng vậy, từ biết đến thạo nghề có khi là cả cuộc đời. Nhưng, như đó nêu ở
trên về mảng lý thuyết, mảng thực hành của nghề TDTT cũng có nét khác biệt so với mảng thực hành các nghề khác. Với VĐV, không thể đợi đến lúc già
đời mới thạo nghề. Với thế, VĐV phải thạo nghề ngay khi cũng trẻ, cũng sức.
Đó là một Đòi hỏi rất khắc nghiệt đối với nghề này. Nó có nét khắc nghiệt
như những Đòi hỏi đối với nghề ca hát. Nghề giáo có thể chấp nhận thầy già. Nghề hát lại cần "con hát trẻ". Mà trẻ thì đâu có khôn. Mà không khôn thì sao
có hồn mà chuyển vào lời ca, điệu hát.
Mâu thuẫn này cần đến HLV, người luôn luôn bên cạnh VĐV để hướng
dẫn "Tay-Chân" nghề cho VĐV, là người thợ cả bên người thợ bạn, kèm cặp
từng động tác nghề nghiệp để giúp người thợ trẻ thao tác cho chuẩn, cho
nhanh, cho khéo và trở nên nghệ thuật.
c. HLV là người chỉ huy mỗi trận chiến
Mọi điều đó học của VĐV đều là cái biết rồi, cái lộ diện. Nhưng mọi cuộc
chiến đều phải đối mặt với cái chưa biết. Điều tối kỵ đối với người quân tử là
khinh xuất, nông nổi. Điều tối cần đối với người quân tử, võ thượng là trước
kẻ thù chuă vội cầm súng, cầm gươm, mà phải biết: Kẻ thù là ai, nó từ đâu đến, nó muốn gì, nó đánh ta bằng cách nào?
Nhưng các VĐV lại không thể biết được câu trả lời cho các câu hỏi trên. Chính HLV giúp họ việc này. Thầy là mưu sỹ, là kiến trúc sư của thế trận cho 22
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
mỗi trận trước mỗi đối thủ.
d. HLV là điểm tựa tinh thần của VĐV
Nhà vô địch trước hết nhờ tài năng. Đó là điều không ai phủ nhận. Nhưng
người có tài năng chưa chắc đó vô địch. Ngoài ra, kết quả của thể thao không
chỉ là huy chương và danh hiệu, mà cũng là nhân cách, mà những VĐV bộc lộ
trên con đường đi tới huy chương và danh hiệu cao quý đó.
Với thế, VĐV rất cần có nguồn nhân cách này. Nguồn đó có nhiều, nhưng
sát sườn nhất, hiệu nghiệm nhất, sâu đậm nhất là HLV. Bởi với HLV có cơ hội
nghề nghiệp, có môi trường tâm sinh lý thuận lợi cho việc tẩm ướp những giá
trị nhân cách vào VĐV. Những giá trị nhân cách có đường vào mỗi người rất đặc biệt, hiếm hoi, mà không phải người có nhân cách nào cũng biết, cũng có
cơ hội để truyền cho người khác nhân cách đó. HLV là người có nhiều cơ hội
đó. Đó là lúc chia nhau một niềm vui, chia nhau một nỗi buồn, cùng đứng trước
một thách thức, cùng cần một quyết tâm... Chính những giây phút đó, các trò hé mở chỗ yếu của tâm hồn, nhân cách của họ. Cũng chính lúc đó, tất cả những
cái đẹp nhân cách của HLV: Sự bình tĩnh, tỉnh táo, ý chí sắt đá, tình thương
đồng đội, lòng yêu tổ quốc... được VĐV nhìn thấy riêng nhất, với đầy đủ giá trị
của nó và họ kính phục, nâng HLV lên thành thần tượng, thành tín ngưỡng và tự thấy, cần phải sống xứng đáng với Thầy. Giác ngộ về trách nhiệm đối với Tổ
quốc có thể là quá lớn đối với VĐV, vốn là những người rất trẻ. Nhưng tình
yêu kính Thầy, sự giác ngộ về trách nhiệm đối với người mà mình yêu kính, thì
không cần tuổi tác, trái lại càng trẻ càng giầu cảm xúc yêu thương, những tình
thương nhỏ bé, nhưng trong trắng, chân thành và mãnh liệt.
Thấm đẫm một cái nhân về sự cao cả của HLV thể thao chân chính như
thế, người ta đó coi mỗi câu lạc bộ, mỗi đội tuyển quốc gia... như “chiếc thuyền - con tàu”, trong đó, Thuyền trưởng chính là HLV.
e. HLV là nhà quản lý VĐV có hiệu quả nhất
Quản lý con người là nội dung cơ bản của mọi loại quản lý Xã hội, với tác
23
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
giả của mọi hoạt động Xã hội là con người. Người có tốt, việc mới tốt.
Hoạt động thể thao là việc rất cần kết quả tốt, với vai trò, tác dụng của
hoạt động này đối với sự phát triển Xã hội là rất lớn, đó được nói đến ở các
phần trên.
Với thế việc tạo ra con người làm TDTT, nhất là TDTT chuyên nghiệp,
càng là quan trọng. Họ là tác giả của những sản phẩm TDTT, có giá trị cao
như đó nêu.
Nhưng con người trong hoạt động TDTT nói chung, trong TDTT chuyên
nghiệp nói riêng, phần lớn đều rất trẻ, khó quản lý.
Rất nhiều phương sách quản lý nhân sự, vẫn được dùng rất phổ biến và có
hiệu quả riêng rệt trong quân sự, trong lao động sản xuất,... đều tỏ ra không
hợp, không có hiệu quả trong quản lý các VĐV.
Với thế, việc quản lý VĐV cần một phương thức đặc thù, mà chỉ có người
Thầy - HLV mới có thể vận dụng được.
Nói đến HLV, nhiều người, trong đó có cả HLV, chỉ thấy HLV là nhà
huấn luyện. Những ai nhỡn rộng thì có thể thấy, HLV cũng là nhà quản lý,
nhưng hiểu về công việc quản lý này thuần tuý như sự quản lý lao động.
Đóng ra, phải nhỡn sự quản lý VĐV của HLV với con mắt toàn diện,
sâu sắc như sau :
- Trong quá trình huấn luyện, nhiệm vụ cơ bản của HLV là đào tạo và bồi dưỡng VĐV chủ yếu nhằm không ngừng nâng cao hoặc duy trì trình độ thể
thao, làm cho VĐV được phát triển toàn diện. Trong quá trình đó, HLV đóng
vai trò chủ đạo, dẫn dắt, cũng VĐV phải là đối tượng tác động HLV là người
trực tiếp tổ chức huấn luyện, là người quản lý thứ nhất của huấn luyện. Họ là
lực lượng chủ yếu tin cậy để làm công tác huấn luyện và nâng cao trình độ thể thao.
24
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
- Trong quản lý huấn luyện, HLV là người quản lý toàn diện đối với
VĐV, trong đó quan trọng nhất là vận dụng kiến thức khoa học - kỹ thuật
chung và quy luật huấn luyện mà định kế hoạch và chỉ đạo thực hiện kế hoạch huấn luyện nhằm đạt được mục tiêu huấn luyện.
HLV có trách nhiệm giáo dục chính trị - tư tưởng đối với VĐV. Dùng
nhiều biện pháp để giáo dục tinh thần yêu nước, ý chí phấn đấu ngoan cường,
tính tổ chức kỷ luật cho VĐV. HLV là người chịu trách nhiệm toàn diện đối
với công tác huấn luyện và thi đấu của VĐV. HLV có trách nhiệm tuyển chọn
VĐV định kế hoạch huấn luyện, tham gia định phương án thi đấu, tổ chức chỉ
đạo các hoạt động thi đấu, nắm thông tin huấn luyện và kịp thời báo cáo lên cấp trên.
HLV có trách nhiệm kiểm tra đôn đốc tình hình học tập văn hoá và đời
sống của vận động viên, quản lý sinh hoạt của họ.
Trong phạm vi giáo dục, vai trò hướng dẫn, huấn luyện của HLV được hiểu theo nghĩa rộng là ngoài các tác động giáo dục trực tiếp của mình trong
huấn luyện, HLV phải biết hợp tác chặt chẽ với các thành viên giáo dục khác.
HLV có nhiệm vụ quan trọng là phải kích thích, động viên và kiểm tra VĐV
sao cho họ không chỉ tập luyện tốt mà cũng phải học tập tốt, nghiên cứu tốt và có ước mơ nâng cao nghề nghiệp.
Vai trò hướng dẫn, huấn luyện của HLV không cho phép họ lý thuyết
suông. Các thành tích thể thao cao nhất không thể có được nếu không có sự
suy nghĩ và hành động độc lập của VĐV, không có sự hợp tác sáng tạo và tích
cực của họ. Các phẩm chất này cũng là tiền đề quan trọng đạt được thành tích
cao trong các cuộc thi đấu. Nhiệm vụ của HLV phải hướng vào việc xây dựng
mối quan hệ tốt đẹp với VĐV, từ tình cảm thầy - trò trong giai đoạn huấn luyện VĐV trẻ tới tình cảm đồng chí gắn bó giữa HLV - VĐV trong giai đoạn
huấn luyện VĐV cấp cao. Mục đích cuối cùng của HLV là tạo cho VĐV có
khả năng độc lập trong tập luyện và thi đấu.
Tuy thành tích thể thao là kết quả tổng hợp không chỉ là năng khiếu, tài
25
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
năng của VĐV, điều kiện vật chất của Xã hội (sân bãi, trang thiết bị, dinh
dưỡng...) mức phát triển và ứng dụng khoa học kỹ thuật thể thao, HLV mà
cũng của nhiều khâu, yếu tố quan trọng khác nữa; nhưng chúng ta có thể khẳng định được một điều: Người thầy - HLV - có vai trò nòng cốt trong việc
nâng cao thành tích thể thao cho từng VĐV. Trình độ thể thao nước nhà có
phát triển, có thành công được hay không chính là nhờ lực lượng HLV này.
1.4.2.4. Những đặc trưng nghề nghiệp của HLV
HLV là một nghề đặc biệt, với các nét đặc biệt như sau:
Với vai trò đặc biệt của HLV như vừa trình bày, chúng ta thấy, HLV cùng
lúc phải làm các nghề sau:
- Phụ đạo lý thuyết nhằm củng cố, cập nhật kiến thức hiện đại cho VĐV
về bộ môn thể thao đó.
- Huấn luyện nghề nghiệp, biến kiến thức lý thuyết thành hành động thực
tế, biến người biết nghề thành người thạo nghề.
- “Tình báo” TDTT, nắm đối thủ và lập mưu chiến thuật, kỹ thuật cho
VĐV trước từng trận đấu, từng đối thủ.
- Điều hành tác nghiệp, chỉ đạo cụ thể các cuộc giao tranh.
- Giáo dưỡng nhân cách chung cho tập thể và giáo dục cá biệt.
- Quản trị hành chính nhân sự.
Tất cả các nghề trên đều được chuyên môn hoá khi các nghề đó được làm
trong các lĩnh vực khác. Chẳng hạn:
Trong lĩnh vực quân sự; việc rèn luyện quân sỹ do Trường làm, việc nắm
bắt tư tưởng tình cảm của chiến sỹ do chính trị viên làm, việc quản lý quân
phong, quân kỷ do nhiều trợ lý chuyên ngành làm.
26
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Trong sản xuất kinh doanh, việc tham mưu do bộ phận kế hoạch
làm, việc chỉ đạo kỹ thuật do phũng kỹ thuật làm, việc quản lý kỷ luật
lao động do phòng tổ chức nhân sự làm...
Trong lĩnh vực quản lý một CLB, một VĐV, tất cả các việc đó không thể
chuyên môn hoá kiểu trên, mà cần do một người làm. Chỉ khi đó, các mặt quản lý trên mới hài hũa, ăn nhịp và tạo nên một sức mạnh tổng hợp, đủ sức
làm nên những VĐV tài năng.
1.4.2.5. Trình độ chuyên môn của HLV
Trình độ chuyên môn của người HLV được thể hiện qua các nhân tố sau:
- Thứ nhất: Sự phối hợp nhiều kiến thức
Người HLV phải có kiến thức sâu sắc trong nhiều lĩnh vực và phải biết
phối hợp những kiến thức đó. Chính những kiến thức đó sẽ là nền móng tốt
cho một HLV, giúp họ có cách nhìn đóng và hiểu được cái gỡ là cốt yếu trong
quá trình huấn luyện, cụ thể:
+ Sự hiểu biết chung: Ví dụ như y sinh học, các kỹ năng huấn luyện, Xã
hội học, giáo dục học, nhân loại học, áp dụng triết học, với một kiến thức hiểu
biết rộng lớn sẽ đưa ra những bản phân tích tốt. Mặt khác nếu kiến thức
không nhiều nó cũng sẽ phải giới hạn của sự phân tích.
+ Kiến thức về chuyên môn: Ví dụ như tâm lý thể thao, y học thể thao,
huấn luyện thể thao, quản lý thể thao, Xã hội học thể thao,... và tất cả những
điều đó nếu có được để tạo nên một HLV có chuyên môn tốt.
+ Một HLV có kiến thức tốt sẽ đưa đến quyết định tốt, sẽ mang lại tài
năng và chiến thắng cho VĐV.
- Thứ hai: Sự từng trải
Sử dụng kiến thức chuyên môn là một trong những điều kiện của sự quyết
định chiến thắng. Mục đích của việc trên là người HLV phải biết sử dụng nó, 27
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
kiến thức về chuyên môn sẽ không chỉ tác động vào sự tập luyện của VĐV
mà cũng tác động vào kết quả của nó. Áp dụng những kinh nghiệm lâu năm
phải được các HLV sử dụng một cách đóng đắn. Sự từng trải bao gồm khả năng phán đoán chính xác, có sự tưởng tượng và tư duy logic tốt, thêm vào đó
sự tích luỹ kinh nghiệm lâu năm là một kho báu lớn cho các HLV. Tất cả
những nhân tố trên tạo nên khả năng thành công lớn cho những HLV. Trong
các cuộc thi đấu, sự phân tích tốt các tình huống trong thi đấu, những thông tin về kinh nghiệm được lưu giữ trong trí nhớ, trí tưởng tượng và lôgic được
đưa ra một cách nhanh chóng sẽ đưa đến một quyết định mới trong việc chỉ
đạo trận đấu.
- Thứ ba: Kinh nghiệm phong phú
Kinh nghiệm phong phú là điều kiện rất quan trọng tạo nên sự thành công cho HLV. Kinh nghiệm rộng lớn và sự hiểu biết sâu sắc mang lại cho HLV
những quyết định có ý nghĩa, những kinh nghiệm trực tiếp hoặc gián tiếp sẽ
được áp dụng trong quá trình huấn luyện hoặc trong những hoàn cảnh cụ thể
trong huấn luyện cũng như trong thi đấu. Do vậy, trong mọi hoàn cảnh kinh nghiệm là rất cần thiết và quan trọng cho HLV.
- Thứ tư, tính tình điềm đạm
Tính điềm đạm trong cuộc sống cũng là điều kiện quan trọng tạo nên sự
thành công cho các HLV, bởi với các VĐV trong thi đấu luôn không được bình tĩnh, vậy Đòi hỏi HLV phải có tính tình điềm đạm để nhắc nhở cho VĐV
của mình những lúc cần thiết, phải biết kiềm chế bản thân mình. Sự phản
chiếu trong tính tình của người HLV là người có văn hóa, có trình độ hiểu biết
và kinh nghiệm, biết lo lắng và luôn ở bên VĐV. Một HLV có tính cách nóng
nảy không chỉ phá huỷ năng lực của HLV đó mà nó cũng gây áp lực không tốt cho các VĐV. Một HLV tốt, thậm chí trong một điều kiện không thuận lợi
cũng có thể điều khiển được tâm trạng của mình một cách rất tốt, điều đó sẽ
tạo nên một chiến thắng.
28
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
- Thứ năm: Sự tự chủ
Sự tự chủ là một trong những điều cũng rất cần thiết của người HLV,
nó quyết định nên thành công của HLV đó. Một HLV có Sự tự chủ là điều
kiện cần để đảm bảo cho một kết quả thi đấu tốt. Mọi hoạt động của HLV
đều được điều khiển bởi sự tự chủ. Trong suốt quá trình phấn đấu để làm nên thành công đều rất khó khăn và vất vả, đặc biệt trong những điều kiện
thi đấu rất ác liệt, thành công không thể đến được nếu không có ý chuẩn
tốt, miễn là có Sự tự chủ thì sẽ có thành công. Mặt khác nếu có thất bại thì
cũng là điều không thể tránh khỏi. Do vậy, một Sự tự chủ sẽ trở thành
điều kiện quyết định trước hết.
- Thứ sáu: Biết điều chỉnh những lúc nguy cấp
Biết điều chỉnh những lúc nguy cấp là một sự đổi mới của logic, bằng
những sự hiện diện của những hình ảnh mới, vớ như là hình ảnh tai nạn, đó là
những hiện tượng mà con người trên thế giới đều phải gặp và nếu vượt qua được nó, biết điều khiển nó sẽ càng làm tăng cho con người. Trong các cuộc
thi đấu cũng vậy, nếu HLV thiếu khả năng sẽ làm cho mọi kết quả chậm lại.
Đối lập với nó, một HLV có thể biết đối mặt với nguy hiểm, biến khó khăn
thành thuận lợi, sử dụng những kiến thức của mình giải quyết mọi vấn đề một cách riêng ràng sẽ mang lại chiến thắng trong trận đấu.
- Thứ bảy: Biết kiềm chế trong mọi lĩnh vực
Một HLV biết kiềm chế tốt có liên quan đến tính cách của họ. Do vậy,
tính cách của HLV cũng phải là người rất lạc quan. Tính cách khác nhau của
người HLV dựa vào thái độ của họ những lúc quyết định trong những tình
huống quyết định trận đấu. Nhìn chung, một HLV mạo hiểm là biết cổ vũ
VĐV và biết cạnh tranh trong thi đấu. Một HLV chín chắn là người luôn
riêng ràng và cẩn thận trong công việc. Một người HLV có lý trí là người luôn
có chiến lược. Một HLV thiếu quyết tâm là người kém cỏi trong chỉ đạo các
cuộc thi đấu của VĐV.
29
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Người HLV phải biết nắm bắt được công việc và dũng cảm khi phải đối
mặt với hoàn cảnh khó khăn. Mặt khác phải đủ linh hoạt để làm sáng tỏ mọi
vấn đề một cách rõ ràng.
Người HLV phải luôn là người khích lệ và hiểu được VĐV của mình do
vậy mới thúc đẩy họ đoàn kết và sẽ nỗ lực vượt qua khó khăn để dành chiến thắng.
Trong thể thao luôn có những tình trạng khẩn cấp, do vậy Đòi hỏi người
HLV phải biết rằng đổi mới phải dựa trên hoàn cảnh thực tế. [13]
Tóm lại, Huấn luyện viên các môn thể thao là một nhà quản lý đặc thù-
Doanh nghiệp là các liên đoàn, hiệp hội từng bước tiến tới các hoạt động như những doanh nghiệp, các nhà quản lý đặc thù.
30
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN HUẤN LUYỆN VIÊN CÁC MÔN THỂ THAO
2.1. Thực trạng thể dục, thể thao Việt Nam
2.1.1. Thực trạng thể dục, thể thao nước ta hiện nay a, Một số thành tựu
- Trong những năm qua, phong trào tập luyện thể dục, thể thao của quần
chúng nhân dân đã có bước phát triển mới cả về bề rộng và chiều sâu. Tính đến năm 2009, cả nước gần 25% dân số thường xuyên tập luyện thể dục, thể
thao (chưa tính học sinh, sinh viên); có 15,8% tổng số hộ gia đình đạt tiêu
chuẩn gia đình thể thao; có khoảng 40.000 câu lạc bộ thể dục, thể thao quần
chúng hoạt động thường xuyên, trong đó, có khoảng 5000 câu lạc bộ võ thuật, 3000 câu lạc bộ sức khỏe ngoài trời, 3000 câu lạc bộ Billiard. Hầu hết các xã,
phường, thị trấn có Hội đồng thể dục, thể thao, câu lạc bộ hoặc nhà văn hóa
thể thao, khoảng 30% xã, phường, thị trấn có sân chơi, bãi tập. Chương trình
phát triển thể dục, thể thao xã, phường, thị trấn đến năm 2010 (Quyết định số
100/2005/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2005) đã đóng vai trò tích cực trong
việc duy trì và đẩy mạnh phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương
Bác Hồ vĩ đại”. Thể dục, thể thao quần chúng trong vùng đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi có những bước tiến đáng kể; số người luyện tập thể dục,
thể thao thường xuyên tính trung bình trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số
và miền núi đạt khoảng 6-8% dân số; khoảng 2-3% tổng số hộ gia đình đạt
chuẩn gia đình luyện tập thể dục thể thao. Các trường phổ thông dân tộc nội
trú và các đồn biên phòng đóng trên địa bàn đóng vai trò hạt nhân thúc đẩy
phong trào tập luyện thể dục, thể thao trong đồng bào dân tộc nhất là đối với lứa tuổi thanh, thiếu niên. Phong trào thể dục, thể thao người cao tuổi phát
triển mạnh và được duy trì thường xuyên với khoảng 9000 câu lạc bộ; thể dục
phòng, chữa bệnh bắt đầu được áp dụng thử nghiệm, tuy nhiên chưa có định
hướng rõ rệt.
- Hiệp hội Thể thao Người khuyết tật Việt Nam được thành lập từ năm
1995 ngày càng phát triển rộng trong cộng đồng người khuyết tật và trở thành
31
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
một hoạt động có ý nghĩa, giúp người khuyết tật vượt lên hoàn cảnh khó
khăn, hòa nhập với cộng đồng; hiện nay, 46/65 đơn vị tỉnh, thành phố tổ chức
hoạt động thường xuyên phong trào thể dục, thể thao cho người khuyết tật. Việt Nam đã tham dự ba kỳ Paralympic (tại Sydney-2000, Athens-2004 và
Bắc Kinh - 2008), các cuộc thi cấp châu lục, khu vực và đã đạt được thành
tích, thứ hạng cao (đứng thứ 14/45 ở châu Á, thứ 3/11 ở Đông Nam Á).
- Về công tác giáo dục thể chất và thể thao trong nhà trường, đến năm
học 2007-2008 cả nước có trên 70% số trường học triển khai áp dụng chương
trình giáo dục thể chất chính khóa và một số trường đã có hoạt động ngoại
khóa thường xuyên. Hội khỏe Phù Đổng toàn quốc và Đại hội Thể dục, thể thao sinh viên toàn quốc được tổ chức theo chu kỳ 4 năm/lần cùng với hàng
chục giải thể thao của học sinh, sinh viên đã thu hút hàng chục triệu lượt học
sinh, sinh viên tham gia, góp phần tạo nguồn tài năng thể thao trẻ cho thể thao
đỉnh cao quốc gia.
- Thể dục, thể thao trong lực lượng vũ trang luôn được quan tâm và phát
triển mạnh mẽ trong những năm gần đây. Huấn luyện thể lực trong quân đội là một trong 4 nội dung huấn luyện quân sự bắt buộc đối với từng quân nhân;
tỷ lệ trung bình về số quân nhân tham gia tập luyện thường xuyên so với quân
số biên chế tại các đơn vị đạt 68,6%. Lực lượng công an chú trọng phát triển
các môn thể thao võ thuật, bắn súng, bơi, chạy vũ trang nhằm phục vụ trực tiếp cho tác nghiệp chuyên môn, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu cho
cán bộ chiến sĩ. Các Trung tâm huấn luyện thể thao quân đội là những trung
tâm thể thao lớn của nước ta đã đào tạo được nhiều vận động viên thể thao
trình độ cao tham gia thi đấu quốc gia, quốc tế và giành được nhiều huy
chương ở nhiều môn thể thao chủ đạo.
- Về thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp, từ năm 2000 đến
nay, đặc biệt sau khi đăng cai tổ chức thành công SEA Games 22, thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp đã đạt được những thành tựu đáng
khích lệ, góp phần nâng cao vị trí của thể thao Việt Nam trên đấu trường quốc
tế và đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân.
32
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Trước thời kỳ đổi mới, thể thao thành tích cao về cơ bản hoạt động theo
cơ chế bao cấp, Nhà nước quản lý toàn diện. Từ năm 2000 trở lại đây, đã có
sự kết hợp quản lý giữa các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội, trong đó quản lý nhà nước đóng vai trò chủ đạo, tỷ trọng đầu tư của Nhà nước cho phát
triển thể dục, thể thao chiếm phần lớn.
Từ năm 2003 tới nay, thành tích thi đấu thể thao của nước ta liên tục
được xếp hạng trong top 3 các kỳ SEA Games, trong top 20 của Đại hội Thể
thao châu Á; tham gia thi đấu ở 40 môn thể thao thành tích cao, giành được
huy chương vàng tại các Đại hội Thể thao châu Á ở 4 môn: Taekwondo,
Karatedo, Billiard & Snooker, thể dục thể hình, cầu mây, huy chương bạc tại Olympic năm 2000 (môn Taekwondo) và tại Olympic năm 2008 (môn cử tạ).
Ngành thể thao Việt Nam đã hoàn thành tốt nhiệm vụ đăng cai tổ chức các
giải thể thao đỉnh cao, các kỳ Đại hội thể thao khu vực (SEA Games 22 năm
2003), châu lục (Asian Indoor Games III năm 2009), được các tổ chức, liên
đoàn thể thao quốc tế đánh giá cao về năng lực tổ chức cũng như trình độ
chuyên môn.
Từ năm 2000-2001, ngành thể dục thể thao đã tiến hành thí điểm thực
hiện chuyên nghiệp hóa một số môn thể thao, trong đó có bóng đá nam. Sau
10 năm thí điểm chuyên nghiệp, Liên đoàn đã thành lập và tổ chức các giải thi
đấu cho 14 câu lạc bộ (CLB) bóng đá chuyên nghiệp và 14 CLB hạng nhất; kinh phí thu được từ kinh doanh bóng đá đáp ứng được khoảng 28%, ngân
sách nhà nước hỗ trợ khoảng 72% tổng kinh phí chi cho phát triển bóng đá
chuyên nghiệp.
- Về điều kiện và nguồn lực phát triển ngành thể dục thể thao
Cơ chế, thể chế quản lý nhà nước về thể dục, thể thao tiếp tục được củng
cố và hoàn thiện; đã hình thành hệ thống các tổ chức xã hội về thể dục, thể
thao. Hiện nay, nước ta có khoảng 20000 vận động viên thể thao thành tích
cao, trong đó có khoảng 3500 vận động viên trẻ (chiếm khoảng 40%), kinh
phí đào tạo chủ yếu do ngân sách nhà nước bảo đảm.
33
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Nhà nước ra đã chú trọng đầu tư xây dựng các công trình phục vụ nhu
cầu luyện tập, giải trí thể thao của nhân dân, đến năm 2005, các công trình thể
dục, thể thao đã có sự tăng đáng kể cả về lượng và chất, nhất là thời kỳ chuẩn bị tổ chức SEA Games 22 năm 2003; hiện nay có 572 công trình đủ tiêu
chuẩn thi đấu cấp quốc gia và quốc tế. Ngoài ra, có khoảng 27149 công trình
thể thao công cộng phục vụ nhu cầu tập luyện thể dục, thể thao của nhân dân
do Nhà nước và các tổ chức kinh tế - xã hội đầu tư xây dựng; khoảng 60-70% xã, phường, thị trấn đã dành đất cho thể dục, thể thao, trong đó khoảng 30%
xã, phường có sân bóng, hồ bơi, nhà tập.
Tiềm lực khoa học công nghệ và y học thể thao tăng lên rõ rệt trong
những năm gần đây. Tính đến tháng 7 năm 2009 toàn ngành thể dục, thể thao
có 99 tiến sĩ, trong đó có 4 giáo sư và 19 phó giáo sư; có 649 thạc sĩ được đào
tạo trong nước và ở nước một số nước như Nga, Úc, Trung Quốc, Đài Loan,
Thái Lan, Hàn Quốc… Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nghiên cứu của Viện
Khoa học Thể dục thể thao và một số Trường đại học thể dục, thể thao đã
được bổ sung thêm nhiều trang thiết bị nghiên cứu hiện đại. Bệnh viện Thể
thao Việt Nam (bệnh viện loại II) đã được xây dựng và chính thức hoạt động
từ năm 2007 với hơn 100 y, bác sỹ; 22% số tỉnh, thành phố có bác sỹ thể thao; các trường đại học thể dục, thể thao đều có trung tâm y học thể thao hoặc
trung tâm nghiên cứu khoa học và y học thể thao.
Xã hội hóa hoạt động thể thao thành tích cao đã thu hút thêm nguồn lực
xã hội cho phát triển thể thao thành tích cao và phù hợp với xu thế phát triển
thể thao thành tích cao hiện đại trên thế giới. Đời sống của nhân dân được cải
thiện, nhu cầu văn hóa tinh thần của nhân dân tăng lên đã thu hút ngày càng
đông đảo khán giả đến với các cuộc thi đấu thể thao thành tích cao, thể thao chuyên nghiệp như: Bóng đá, Bóng chuyền, Bóng bàn, Cầu lông, Tennis,
Taekwondo, Golf…, đây là điều kiện thuận lợi để thể thao chuyên nghiệp
phát triển kinh doanh dịch vụ thể thao liên quan và kêu gọi đóng góp cho các
hoạt động từ thiện.
34
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
- Hiện nay, nước ta có 21 Liên đoàn thể thao quốc gia, một số Hiệp hội,
Hội thể thao quốc gia, cả nước có trên 200 Liên đoàn, Hiệp hội các môn thể
thao cấp tỉnh, các tổ chức này đều là thành viên của Liên đoàn, Hiệp hội thể thao quốc gia. Ủy ban Olympic Việt Nam (là thành viên chính thức của phong
trào Olympic quốc tế năm 1980), là thành viên Hội đồng Olympic Châu Á và
Liên đoàn thể thao Đông Nam Á đóng vai trò quan trọng trong phát triển
phong trào thể dục thể thao Việt Nam, làm cầu nối giữa các tổ chức xã hội về thể thao của Việt Nam với phong trào Olympic thế giới và các tổ chức thể
thao quốc tế. Việt Nam là thành viên của 64 tổ chức thể thao quốc tế, có hơn
40 cán bộ tham gia, làm việc trong bộ máy lãnh đạo của các tổ chức thể thao
quốc tế, hơn 100 trọng tài được công nhận là trọng tài đẳng cấp châu Á và thế
giới; ngành thể thao Việt Nam có quan hệ hợp tác với hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, đã đăng cai và tổ chức thành công nhiều giải thi
đấu thể thao quốc tế (trung bình hàng năm có từ 20 đến 30 cuộc thi đấu thể
thao quốc tế lớn được tổ chức tại Việt Nam). Hoạt động hợp tác quốc tế về thể
thao không chỉ góp phần nâng cao trình độ vận động viên, mà còn góp phần
nâng cao năng lực tổ chức, điều hành của đội ngũ cán bộ quản lý, trọng tài,
nhân viên y tế… của ngành thể thao Việt Nam; đồng thời thông qua tổ chức
các sự kiện thể thao, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam yêu hòa bình, là
bạn với tất cả các dân tộc sống trên trái đất đã được quảng bá rộng rãi trên
toàn thế giới.
b) Tồn tại, yếu kém và nguyên nhân
- Tồn tại, yếu kém
+ Phong trào thể dục, thể thao quần chúng phát triển mạnh nhưng chưa
đều, chất lượng chưa cao. Các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo còn thiếu
các phương tiện tập luyện và thiếu cán bộ hướng dẫn viên thể dục, thể thao.
Chưa chú trọng xây dựng và quản lý hệ thống các đơn vị cơ sở, các câu lạc bộ thể dục, thể thao quần chúng ở cơ sở;
+ Công tác giáo dục thể chất trong nhà trường và các hoạt động thể thao
ngoại khóa của học sinh, sinh viên chưa được coi trọng, chưa đáp ứng yêu cầu 35
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
duy trì và nâng cao sức khỏe cho học sinh, là một trong số các nguyên nhân
khiến cho thể lực và tầm vóc người Việt Nam thua kém rõ rệt so với một số
nước trong khu vực. Các cơ sở giáo dục đào tạo còn thiếu sân bãi, phòng tập, dụng cụ phục vụ cho nhu cầu tập luyện, thi đấu và vui chơi giải trí của học
sinh, sinh viên; đội ngũ giáo viên thể dục còn thiếu; chương trình chính khóa
cũng như nội dung hoạt động ngoại khóa còn nghèo nàn, chưa hợp lý, không
hấp dẫn học sinh tham gia các hoạt động thể dục, thể thao ngoại khóa;
+ Công tác quản lý ngành còn ảnh hưởng bởi cơ chế bao cấp trước đây,
chưa bắt kịp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay; còn thiếu chính
sách thu hút nhân tài thể thao; thiếu hụt nguồn vận động viên, huấn luyện viên, trọng tài… quy chế tuyển dụng vận động viên nước ngoài đối với các
đội tuyển thể thao chưa phù hợp với thực tiễn phát triển thể thao chuyên
nghiệp. Công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức trong thi đấu, thưởng thức thể
thao chưa được quan tâm đúng mức, còn để xảy ra nhiều vụ việc tiêu cực,
nhất là trong thi đấu bóng đá; còn có hiện tượng, trường hợp sử dụng doping;
+ Chưa có chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho thể dục, thể thao, thiếu chính sách và các quy định về đào tạo nguồn nhân lực cho thể dục, thể
thao, nhất là đối với thể thao thành tích cao. Tỷ trọng ngân sách nhà nước đầu
tư cho phát triển ngành thể dục, thể thao nói chung còn thấp. Việc đầu tư xây
dựng các công trình thể dục, thể thao nói chung, nhất là các công trình thể thao cho giáo dục thể chất, thể thao trong nhà trường và thể thao thành tích
cao còn hạn chế (chỉ có 3,33 công trình thể dục, thể thao trên một vạn dân,
trong khi ở nhiều quốc gia châu Á, tỷ lệ này đạt 6,58); chất lượng các công
trình thể dục, thể thao chưa đồng đều, thiếu đồng bộ; số lượng các công trình
cho lĩnh vực thể thao thành tích cao đạt tiêu chuẩn thi đấu quốc tế rất ít (chỉ chiếm 2% trong tổng số các công trình hiện có);
+ Hoạt động của một số Liên đoàn, Hiệp hội Thể dục, thể thao còn bị
động, phụ thuộc vào sự hỗ trợ của cơ quan quản lý nhà nước; còn thiếu các
quy định pháp lý về việc tham gia thực hiện một số hoạt động tác nghiệp
trong lĩnh vực thể dục, thể thao;
36
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
+ Hợp tác quốc tế về thể dục thể thao chưa tương xứng với tiềm năng
của ngành; nội dung hợp tác thiếu đa dạng; phạm vi, mức độ hội nhập quốc tế
còn hẹp và chưa sâu, nhất là trong quan hệ với các tổ chức quốc tế đa phương về thể dục, thể thao.
- Nguyên nhân khách quan
Nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước và cộng đồng xã hội cho phát
triển thể dục, thể thao còn thấp; cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị thể dục,
thể thao còn thiếu thốn, lạc hậu; chưa chú trọng đầu tư cho khoa học, công
nghệ và y học thể thao. Tỷ trọng đầu tư của Nhà nước và xã hội trong những
năm qua tuy có xu hướng tăng, song mức độ đầu tư hiện nay vẫn chưa thỏa
đáng nhu cầu phát triển thể dục, thể thao trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng
gay gắt về thành tích thi đấu giữa các quốc gia trong khu vực, châu lục và thế giới.
- Nguyên nhân chủ quan
Công tác chỉ đạo, điều hành của cơ quan quản lý thể dục, thể thao các
cấp đối với hoạt động thể dục, thể thao cơ sở chưa thường xuyên và thiếu sâu sát; còn thiếu các kế hoạch trung hạn và dài hạn và các chương trình, dự án
phát triển thể thao thành tích cao, thể thao chuyên nghiệp.
Nhận thức của một bộ phận cán bộ về vai trò của công tác phát triển thể
dục, thể thao quần chúng ở xã, phường, thị trấn chưa đúng và đủ. Việc tuyên
truyền, hướng dẫn, vận động nhân dân tham gia vào các hoạt động thể dục,
thể thao còn mang tính hình thức, thiếu gắn bó với thực tiễn đời sống và
phong tục, tập quán của đồng bào địa phương. Chưa chú trọng chỉ đạo và đầu
tư cho thể dục, thể thao trường học.
Chưa có chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và quản lý trong công tác phát triển thể thao thành tích cao, thể thao chuyên nghiệp; công tác chuyển
giao một số hoạt động tác nghiệp trong hoạt động thể dục, thể thao cho các tổ
chức xã hội còn chậm.
37
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Một số chính sách, chế độ đối với giáo viên thể dục trong các cơ sở giáo
dục đào tạo, đối với vận động viên, huấn luyện viên chưa phù hợp với thực
tiễn.
Công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp đối với huấn luyện
viên, vận động viên, trọng tài… chưa được quan tâm đúng mức. Công tác quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ, trọng tài, chuyên gia đẳng cấp quốc tế … chưa
đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ phát triển ngành.
2.1.2. Bối cảnh trong nước và quốc tế
a) Xu thế quốc tế
Thể dục, thể thao Việt Nam sớm hội nhập quốc tế, có nhiều cơ hội tiếp
cận với xu thế toàn cầu. Trong những năm gần đây, chính phủ các quốc gia
ngày càng quan tâm và tích cực tham gia chỉ đạo, tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao quần chúng, nhất là tăng cường đầu tư xây dựng các công trình
công cộng về thể dục, thể thao và thúc đẩy phát triển, kinh doanh dịch vụ thể
dục, thể thao giải trí; chương trình giáo dục thể chất trong các cơ sở giáo dục
đào tạo các cấp được cải cách theo hướng học sinh được tự chọn các nội dung hoạt động thể dục, thể thao phù hợp với thể trạng tâm – sinh lý cá nhân.
Trong phát triển thể thao đỉnh cao, các quốc gia có xu hướng điều chỉnh
thu hẹp số môn thể thao chủ đạo, số lượng vận động viên thể thao có tiềm
năng giành huy chương để đầu tư có trọng điểm nhằm mục tiêu giành Huy
chương vàng Olympic và ưu tiên môn thể thao nhiều lần giành huy chương
vàng Olympic; có sự thay đổi quan niệm trong huấn luyện thể thao truyền
thống như tối ưu hóa phương thức huấn luyện, nâng cao trình độ thi đấu của
vận động viên trong thời gian ngắn.
Xu hướng ứng dụng khoa học, công nghệ thông tin, tự động hóa phương pháp vận động và đo lường thể chất trong hoạt động thể dục, thể thao ngày
càng phát triển và được coi là yếu tố quan trọng để nâng cao thành tích thể
38
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
thao. Hoạt động giao lưu quốc tế trong đào tạo nhân tài, hợp tác trao đổi kỹ
thuật và công nghệ thể thao cũng được khuyến khích, đẩy mạnh.
b) Bối cảnh trong nước
- Ngành thể dục, thể thao nước ta là một trong số các ngành sớm triển
khai chủ trương xã hội hóa của Đảng và Nhà nước, bước đầu ngành thể thao
đã huy động được một phần không nhỏ nguồn lực từ người dân, doanh nghiệp
và xã hội đầu tư phát triển thể dục thể thao, tạo sự chuyển biến tích cực trong
nhận thức của cán bộ quản lý ngành, huấn luyện viên, trọng tài và vận động
viên; tuy nhiên, hiệu quả thu được vẫn chưa cao vì vẫn bị chi phối bởi tâm lý
ỷ lại, trông chờ vào sự bao cấp của Nhà nước.
- Thể dục, thể thao cơ bản đã hòa nhập với xu thế chung của phong trào
thể thao thế giới, thể hiện ở các hoạt động: cải tiến hệ thống thi đấu quốc gia
phù hợp với hệ thống giải thể thao quốc tế; bước đầu có sự kết hợp của Nhà
nước và các tổ chức xã hội nghề nghiệp về thể dục, thể thao trong quản lý, tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao; hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật thể
dục, thể thao đã được cải thiện nhiều cả về số lượng và chất lượng; công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nghiên cứu khoa học, công nghệ và y học thể thao
có bước chuyển biến đột phá.
- Một số thách thức
+ Sự quan tâm chỉ đạo công tác phát triển thể dục, thể thao còn hạn chế;
chưa ý thức được việc đầu tư phát triển thể dục, thể thao là một trong những
yếu tố quan trọng trong sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực và góp phần bảo
đảm an sinh xã hội;
+ Thể chế về quản lý hoạt động thể dục, thể thao ở nước ta còn thiếu
đồng bộ; chưa chú trọng xây dựng chính sách phát triển dài hạn, trung hạn, thiếu chiến lược phát triển ngành, ít các chương trình, dự án quy mô quốc gia;
+ Đầu tư phát triển thể dục, thể thao thiếu tính hệ thống và chưa phù hợp với quy mô, mức độ phát triển thể dục, thể thao Việt Nam, nhất là trong thời 39
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
gian từ năm 2008 đến nay có phần giảm sút do ảnh hưởng của suy thoái kinh
tế thế giới đối với nước ta.
2.2. Thực trạng HLV của nền TDTT Việt Nam - nhân tố liên quan
trực tiếp đến hiện trạng nền TDTT Việt Nam
Thực trạng lực lượng HLV thể thao Việt Nam, có liên quan đến thực
trạng của TDTT Việt Nam, có những điểm đáng chú ý như sau.
2.2.1. Sự bảo đảm về số lượng
Hiện nay trên toàn quốc có 2955 HLV, trong đó:
- Có 2790 HLV thuộc ngành TDTT quản lý.
- Và 168 HLV thuộc các ngành khác quản lý. (Phụ lục số 1).
Theo kết quả nghiên cứu năm 2006 cho thấy lực lượng HLV các môn thể
thao khá đông đảo: Cứ 1 vạn VĐV các cấp thì có 102 HLV.
Xét theo từng môn, kết quả nghiên cứu cho thấy:
- HLV bóng đá chiếm tỉ trọng cao nhất: 28,9% tổng số HLV sau đó đến võ thuật, thể dục thể dụng cụ, điền kinh, vật, bơi lội, bóng bàn: (8,95 -
11,1%). Đây cũng chính là những môn thể thao đó đạt nhiều thành tích cao.
Có tỉ trọng HLV thấp hơn là các môn bắn súng, quyền anh, cầu lông, bóng
chuyền (4,4% - 6,7%).
- Nhưng nếu xét theo tỉ lệ so với VĐV thì đứng đầu là thể dục dụng cụ
(16%) sau đó là bắn súng, quyền anh (5,3% - 5,7%). Các môn khác có tỉ lệ thấp hơn nhiều.
Trên thực tế, do thiếu biên chế, thiếu kinh phí tại Trung tâm TDTT một số
tỉnh, thành một HLV có thể kiêm phụ trách một số môn (như các môn võ:
Taekwondo, Karatedo, Judo...) hoặc một số nội dung của một môn (như điền
kinh: nhảy cao, nhảy xa, chạy vượt rào...) nên không có điều kiện chuyên sâu
40
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
về một môn, một nội dung với vậy chất lượng huấn luyện có phần nào bị hạn
chế, chỉ phát triển cầm chừng, thành tích phấn đấu chỉ đề ra tại một số giải
trong nước và không có điếu kiện để bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ, không có dịp để cọ sát thi đấu tại các giải thi đấu khu vực, châu lục và trên thế
giới.
Qua phân tích trên, chúng ta thấy lực lượng HLV tương đối đông, bảo
đảm về số lượng, tập trung nhiều ở một số môn thể thao trọng điểm. Tuy
nhiên, lực lượng HLV đông có thể đáp ứng được việc phát triển thể thao
phong trào, cũng việc đảm bảo về số lượng phải đi đôi với việc đảm bảo về
chất lượng chuyên môn thì mới có thể đáp ứng được nhiệm vụ đặt ra.
2.2.2. Sự bảo đảm về đẳng cấp chuyên môn
Đây là vấn đề nhạy cảm và khó đánh giá. Với vậy, trong luận văn này,
chúng tôi chỉ có thể phác họa một cái nhìn chung về đẳng cấp chuyên môn
của đội ngũ HLV thể thao Việt Nam. Đó là cái nhìn gián tiếp qua chất lượng chuyên môn của chính nền TDTT đó, cụ thể là qua các trận đấu, qua những
biến động của phong trào, của chuỗi thành tích và các lỗi chuyên môn, mà
VĐV mắc phải. Cũng như là nhân sự nuôi dạy con, trình độ nuôi dạy con của
cha mẹ qua chính những đứa trẻ, được cha mẹ nó nuôi dạy.
Những trận thi đấu thật sự là những trận thi đấu rất ác liệt, do vậy những
bộc lộ về ý nghĩa chiến thuật và chiến lược các hoạt động thi đấu làm nên quyết định chiến thắng, về bản chất các cuộc thi đấu là sự đối đầu của các
HLV trong việc đưa ra những quyết định nhanh chóng đề dành chiến thắng.
Bất cứ người nào dám nghĩ dám làm sẽ là những người chiến thắng, người
HLV biết tận dụng những khả năng để đưa đến những quyết định bằng cách
sử dụng những kiến thức của mình, sự từng trải, kinh nghiệm và tính tình là rất quan trọng chứ không chỉ là kết quả của trận đấu mà cũng là trình độ
chuyên môn của người HLV đó.
Để quyết định một HLV có tài năng trong huấn luyện và khi chịu ảnh
hưởng riêng ràng phải dựa vào hiệu quả của sự tập luyện và kết quả của cuộc
41
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
thi đấu, sự khác nhau về tri thức, tài năng, tính cách hay chính là đẳng cấp
chuyên môn sẽ là kết quả của sự quyết định các tài năng thể thao khác nhau.
Những nhân tố để tạo nên những HLV có tài năng là những người có tri
thức hiểu biết, sự từng trải, có kinh nghiệm, tính tình tốt, ý trí tốt, biết ra lệnh
hoặc hạn chế những lúc khẩn cấp và là người biết kiềm chế tốt. Cho dù có tìm được một tài năng thể thao tốt, đào tạo để trở thành VĐV chuyên nghiệp,
nhưng nếu không có người thầy - người HLV - đảm bảo về đẳng cấp chuyên
môn thì VĐV đó cũng khó có thể phát triển được.
Hiện nay, chưa có một nghiên cứu nào để có thể đánh giá được đẳng cấp
chuyên môn của HLV nước ta đạt được đến mức nào, trung bình hội tụ được
mấy nhân tố?
Chỉ mới có thống kê về trình độ đào tạo: Đại học và trên đại học cao:
Chiếm 71,1%; trung học và cao đẳng có tỉ lệ thấp thua so với chưa qua đào
tạo TDTT: 4,45% so với 24,4%. Tuy nhiên, trên thực tế để có được người HLV hội tụ được cả bảy nhân tố trên là rất khó đặc biệt là đối với HLV Việt
Nam. Chính với vậy, thành tích thể thao của chúng ta đạt được cũng khá
khiêm tốn trên đấu trường châu lục và thế giới. Hiện nay, chúng ta vẫn phải
thuê khoảng 50 HLV người nước ngoài với lương tháng từ 1.500USD/tháng đến 10.000USD/tháng. Vấn đề ở đây đặt ra là chúng ta phải đầu tư, phải có
chiến lược phát triển, xây dựng đội ngũ HLV như thế nào để đáp ứng được
nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
2.3. Công tác đào tạo và phát triển HLV các môn thể thao
Trong một vài năm trở lại đây, đất nước ta đang chuyển mình trong công
việc đổi mới, xoá bỏ bao cấp, từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Cơ chế thị trường đang và sẽ chi phối mọi ngành kinh tế - Xã hội. Công tác
quản lý TDTT cũng cần phải đổi mới và hoàn thiện để thích ứng với tình hình
mới. Vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu các cơ chế, phương pháp quản lý, tổ
chức phong trào TDTT trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, “Quy trình
hóa” quá trình quản lý TDTT. Như đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức, viên
42
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
chức để trên cơ sở đó có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng. Ngoài những tiêu
chuẩn chung về đánh giá năng lực cán bộ, công chức cũng xây dựng những
tiêu chuẩn riêng phù hợp với đặc thù của ngành TDTT làm căn cứ cho việc đánh giá năng lực cán bộ, công chức. Nâng cao năng lực của cán bộ, công
chức phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa...
Nhiệm vụ mang tính chất chiến lược đối với ngành TDTT đó là công tác
đào tạo HLV. Với hệ thống huấn luyện thể thao là hệ thống nhiều năm chuẩn
bị cho VĐV theo kế hoạch khoa học, trong đó gồm các tác động sư phạm có
chủ đích, được tổ chức từ bên ngoài và từ bản thân VĐV, nhằm phát huy hết mức và hiệu quả tiềm năng con người, làm cho VĐV phát triển đóng yêu cầu
của môn thể thao, phát triển nhân cách toàn diện. [10]
Đặc biệt sự khác biệt chuyên môn của từng môn thể thao dẫn đến người
HLV phải huấn luyện sao cho có khoa học, đóng trọng điểm cần thiết, theo
đặc trưng riêng trong từng môn về hình thái, tố chất thể lực, tâm lý... Hàng
năm có khoảng 15 lớp bồi dưỡng HLV các môn thể thao, trong đó mỗi năm có 3 lớp cho 3 môn thể thao do Uỷ ban Olympic quốc tế (IOC) tài trợ. Có
nhiều lớp chất lượng tốt như các lớp IOC của thể dục, điền kinh, bắn súng...
trong đó có những môn chương trình bồi dưỡng HLV được xây dựng nhiều
năm theo một hệ thống từ thấp đến cao như xe đạp, thể dục. Tuy chất lượng các lớp có khác nhau, nhưng đó góp phần bồi dưỡng nâng cao trình độ cho
HLV đáp ứng một phần cho công tác huấn luyện.
Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay chưa có mô hình chuẩn để đào tạo HLV. Các HLV chỉ được đào tạo đại trà chung với các chuyên ngành khác trong các
trường đại học TDTT (phần lớn là học chuyên ngành Giáo dục thể chất
chuyên sâu một môn thể thao nào đó). Sau đó chỉ nâng cao trình độ chuyên
môn qua một lớp bồi dưỡng nghiệp vụ HLV ngắn hạn (thời gian khoảng 1 tuần). Trên thực tế, rất nhiều HLV của chúng ta là từ nguồn VĐV được đào
tạo đại học theo hình thức tại chức. Phần lớn các HLV tham gia huấn luyện
VĐV trong chương trình đó từng là VĐV điều đó cũng tốt với họ đó có nhiều
43
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
kinh nghiệm trong thi đấu để truyền đạt cho VĐV. Nhưng như đó trình bày ở
phần "sự đảm bảo về đẳng cấp chuyên môn" (tại tiết 2.2.2. mục 2.1, phần II,
chương 2), kinh nghiệm chỉ là một nhân tố để tạo nên một người HLV tài năng. Họ cần phải có kiến thức cơ bản về chuyên môn cũng như tầm hiểu biết
sâu rộng về các lĩnh vực khác có liên quan đến công tác huấn luyện. Chính sự
không được đào tạo có bài bản, khoa học mà đội ngũ HLV của chúng ta cũng
yếu, phần lớn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác huấn luyện trong điều kiện và tình hình mới.
2.3.1. Thực trạng công tác đào tạo huấn luyện viên hiện nay
Trước đây, huấn luyện viên các môn thể thao ở nước ta chủ yếu lấy từ
hai nguồn: Từ những vận động viên hết tuổi thi đấu do thiếu huấn luyện viên
nên họ được chuyển ngang sang làm công tác huấn luyện và những sinh viên tốt nghiệp các trường đại học và cao đẳng TDTT. Cả hai lực lượng này đều có
những ưu nhược điểm riêng. Những vận động viên hết tuổi thi đấu tuy có
chuyên môn giỏi nhưng họ lại chưa được học tập những kiến thức rất quan
trọng của chương trình đại học mà mỗi huấn luyện viên cần được trang bị. Vì vậy, khi huấn luyện họ chỉ thực hiện theo cảm tính mà không có bài bản,
phương pháp huấn luyện khoa học, cho nên sử dụng các bài tập, khối lượng,
cường độ không phù hợp làm ảnh hưởng đến kết quả huấn luyện. Đối với
những học sinh tốt nghiệp đại học, rất ít người trong số họ xuất phát là vận động viên, cho nên trong quá trình huấn luyện, việc lựa chọn bài tập là một
trong những khó khăn lớn trong công tác chuyên môn. Cho nên giáo án của
họ thường nghèo nàn trong việc đưa ra các bài tập nhằm củng cố và nâng cao
thành tích cho vận động viên.
Hiện nay, rất nhiều vận động viên sau khi giải nghệ đã không ngừng học
tập để trở thành những huấn luyện viên giỏi cả về lý thuyết và thực hành. Tuy
nhiên, có một thực tế không thể phủ nhận đó là việc học văn hoá hiện nay cho vận động viên chưa được quan tâm, hầu hết chỉ là học cho xong chứ không
phải học để trang bị kiến thức. Điều này dẫn đến tình trạng trình độ văn hoá
của vận động viện nước ta hiện nay còn thấp. Vì vậy, khi họ trở thành huấn
44
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
luyện viên, việc tiếp thu phương pháp huấn luyện hiện đại gặp rất nhiều khó
khăn. Họ không có đủ trình độ ngoại ngữ, tin học để cập nhật thông tin (trừ
một số ít tự học). Cho nên, việc tự nâng cao trình độ cho mình của mỗi huấn luyện viên gặp muôn vàn khó khăn, dẫn đến mặt bằng trình độ của huấn luyện
viên Việt Nam hiện nay còn thấp so với quốc tế.
Để thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về thể thao thành tích cao,
thiết nghĩ chúng ta rất cần quan tâm đến công tác đào tạo và bồi dưỡng đội
ngũ huấn luyện viên cho các môn thể thao, nhất là các môn thể thao trọng
điểm ở các địa phương. Mà điều đặc biệt quan tâm là huấn luyện viên cho lớp
vận động viên trẻ để ngay từ đầu đã trang bị cho các em kỹ thuật cơ bản chuẩn xác nhất để làm cơ sở nâng cao thành tích sau này.
Bảng 2.1. Trình độ đội ngũ HLV
Tỉ lệ % Ghi chú Trình độ Tổng
Trình độ đào tạo 141 Ths 4.9
2288 CN 79.6
123 CĐ 4.3
322 Khác 11.2
Trình độ ngoại ngữ 101 C 3.5
1.053 B 36.6
640 A 22.3
Chưa 1.080 37.6
Trình độ tin học 31 C 1.1
662 B 23.3
1225 A 42.6
33.3 Chưa 956
Theo nguồn Tổng cục TDTT
Qua bảng 2.3. Trình độ đội ngũ HLV số liệu do Tổng cục Thể dục, thể
thao
HLV hầu hết được đào tạo chính quy, có trình độ từ cao đẳng trở lên.
45
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Qua số liệu Tổng cục Thể dục, Thể thao cung cấp số lượng HLV đạt trình độ
Thạc sĩ có 141/2.874 chiếm 4.9%.
Cử nhân có 2.288/2.874 chiếm 79.6%
Cao đẳng có 123/2.874 chiếm 4.3%
Trình độ khác có 322/2.874 chiếm 11.2%
Với số lượng HLV đạt trình độ cao chỉ có 4.9% đây là số lượng quá ít so
với nhu cầu và sự phát triển của thể thao nước ta. Ở trình độ cử nhân chiếm
79.6% đây cũng là điều đáng mừng cho nền thể thao nước ta vì tính đến năm
2012 thì HLV đang được đào tạo bài bản hơn.
Trình độ ngoại ngữ
Trình độ ngoại ngữ của HLV nước ta hiện nay đã được chú trọng đào
tạo hơn, song cũng chỉ dừng lại ở các trình độ:
Trình độ A là phần lớn 640/2.874 chiếm 22.3%
Trình độ B có 1.053/2.874 chiếm 36.6%
Trình độ C có 101/2.874 chiếm 3.5%
Chưa đào tạo có 1.080/2.874 chiếm 37.6%
Như vậy, số HLV đã được đào tạo ngoại ngữ chiếm 62.4% , số lượng
HLV có thể giao tiếp tiếng anh cơ bản chiếm 36.6%, đây là một thuận lợi cho
việc giao lưu quốc tế và học hỏi kinh nghiệm với các nước thành công trong
lĩnh vực thể thao. Song cũng nhìn qua số liệu đối tượng HLV chưa đào tạo
qua trình độ ngoại ngữ nào chiếm 37.6% cũng là số lượng không nhỏ. Nếu
đội ngũ HLV được bồi dưỡng ngoại ngữ thường xuyên thì đây sẽ là yếu tố rất
quan trọng trong việc phát triển đội ngũ HLV nói riêng và thể dục thể thao nói
chung, để Thể thao nước ta phát triển đồng đều về trí lực và thể lực.
46
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Trình độ tin học
HLV biết tin học chiếm 67%, qua đây có thấy tin học ngày càng được
quan tâm hơn, song phải quan tâm và đầu tư đúng mức để thấy được hiệu quả
trong việc nâng cao trình độ tin học lên.
Trình độ A 1225/2.874 chiếm 42.6%
Trình độ B có 662/2.874 chiếm 23.3%
Trình độ C có 31/2.874 chiếm 1.1.%
Chưa đào tạo 956/2.874 chiếm 33.3%
Vì số HLV có thể dùng tin học ở trình độ cao chiếm 1% rất nhỏ. Cần
phải đầu tư và có chiến lược đầu tư để nâng cao chất lượng đội ngũ HLV
trong giai đoạn mới với trình độ tin học phải đạt ít nhất từ trình độ B trở lên.
Một cách cửa duy nhất mở ra thế giới của giới HLV Việt Nam chính là
máy tính, tiếng Anh. Thế hệ HLV trước không biết ngoại ngữ, vi tính nên họ
chỉ huấn luyện dựa trên những giáo án cũ, lạc hậu và dựa trên kinh nghiệm
bản thân. Trong khi đó, thế hệ trẻ với chiếc laptop luôn là vật bất ly thân. Họ
không chỉ đọc được những tài liệu chuyên môn bằng tiếng Anh mà còn có thể
trao đổi thẳng với các ngoại binh. Điều này thực sự là công cụ, là hành trang
để tiến bộ và thành công trong nghề.
Biết sử dụng máy tính, nói tiếng Anh ổn và thường xuyên gặp gỡ các
đồng nghiệp, các chuyên gia hàng đầu thế giới nên giới HLV Việt Nam có cơ hội để trao đổi kinh nghiệm và nhận thêm những tài liệu cập nhật nhất. Nhờ
sự cải tiến cả về suy nghĩ lẫn "công cụ lao động", các HLV đã có nhiều bài
giảng sinh động cho các học trò. Thay vì những tình huống xử lý trên sa bàn,
các cầu thủ giờ được học bằng video. Với các cầu thủ trẻ, những động tác thị
phạm như vậy là cực kỳ quan trọng.
47
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Trước đây, cả HLV Riedl và Calisto đã đề nghị rằng giới HLV Việt
Nam nên thành lập hiệp hội HLV chuyên nghiệp Việt Nam và mời các nhà
chuyên môn, HLV nổi tiếng thế giới sang giảng dạy, truyền đạt kinh nghiệm. Hơn nữa, các bộ phận kỹ thuật của các Liên đoàn bóng đá khu vực, châu lục
và thế giới thường xuyên có những cuộc hội thảo để phân tích những yếu tố
liên quan đến chuyên môn, ưu điểm của từng lối chơi, sơ đồ chiến thuật và
cách phá lối chơi ấy. Những HLV Việt Nam cần có mặt hoặc có tài liệu ở những hội thảo như thế.
Bảng 2.2. Đào tạo Huấn luyện viên qua các khóa học (theo nguồn Trường Đại học TDTT TP. Hồ Chí Minh)
Khóa học Khoa HL Tỉ lệ% Tỉ lệ %tăng Tỉ lệ %giảm
100 46.3 0 0 2003-2007
110 46.8 0.5 2004-2008
114 41.8 5.0 2005-2009
175 55.9 4.1 2006-2010
224 57.7 1.6 2007-2011
199 38.3 19.4 2008-2012
384 41.2 2.9 2009-2013
438 44.5 3.3 2010-2014
439 33.9 10.6 2011-2015
568 44.2 10.3 2012-2016
2.751 Tổng cộng
Qua các khóa học từ năm 2003-2012 (10 năm) số lượng sinh viên đăng
ký vào ngành HLV có năm giảm, năm tăng nhưng nhìn chung lại vẫn giữ ở
mức ổn định. Lý do giảm vì những năm gần đây có nhiều khoa mới, nhiều sự
lựa chọn nên sự tập trung số lượng đăng ký các ngành bị phân tán. Qua số liệu thống kê trên bảng 2.2 chúng ta dễ nhìn thấy ngành HLV vẫn là ngành được
nhiều sinh viên quan tâm. Trường đại học Thể dục thể thao đã không ngừng
xây dựng chương trình, giáo trình tài liệu cho các lớp HLV, đây là điều đáng
mừng đối với nền thể thao Việt Nam trong tương lại sẽ có một đội ngũ HLV
kế cận.
48
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Bảng 2.3. Số lượng và trình độ HLV các môn thể thao thành tích cao cấp cơ cở
(theo nguồn TDTT Đà Nẵng)
HLV
TT MÔN
Số lượng
Đại học
Chưa đào tạo
Điền kinh Bơi Lặn Đua thuyền hiện đại Đua thuyền truyền thống Cử tạ Cờ vua Biliards Snooker
Bóng chuyền bãi biển
10 6 4 1 1 1 4 1 1 4 3 1 1 2 1 1 2 1 2 3 3 2 1 1 1 1 1 9 6 4 1 1 4 1 2 3 1 1 1 1 1 1 1 3 2 2 1 1 1 1 1 1 1 1 2 1 1 2 1
1 2 3 4 5 6 7 8 9 Wushu 10 Kartedo 11 Pencak Silat 12 Võ cổ truyền Cờ vây 13 Cờ tướng 14 Thể dục thể hình 15 Taekwondo 16 17 Judo 18 Vật 19 Quyền anh Cầu lông 20 21 Bóng bàn 22 Quần vợt 23 24 Đá cầu 25 Đẩy gậy Bắn nỏ 26 27 Vovinam Chuyển bán chuyên nghiệp TỔNG CỘNG 60 50 10
Đội ngũ HLV cấp cơ sở đang được tập trung đào tạo, qua bảng 2.3 ta có thể nhận thấy các môn Điền kinh, Bơi, Lặn cũng có số lượng HLV được đào
tạo nhiều hơn so với các môn khác. “Không thầy đố mày làm nên” vì vậy
trong tất cả các môn thể thao đều phải có người chỉ huy, dẫn dắt đội tuyển của
mình. Để khẳng định vai trò của HLV vô cùng quan trọng trong TDTT và đặc
49
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
biệt hơn là thể thao thành tích cao, vì vậy công tác đào tạo HLV là được ưu
tiên và quan tâm hàng đầu đối với ngành TDTT cả nước. Tổng có 83.3% số
HLV được đào tạo bài bản ở trình độ Đại học, số chưa đào tạo chiếm rất ít.
Qua bảng 2.4. Dự kiến số lượng HLV các môn thể thao giai đoạn 2011-
2020
Về số lượng: Có sự phát triển các môn thể thao, vận động viên và huấn
luyện viên. Từ năm 2000, có 14 môn thể thao với 120 VĐV, 19 HLV, đến
nay đã tăng lên 26 môn thể thao với 500 VĐV, 60 HLV.
- Về chất lượng: Một số môn thể thao phát triển nhanh như: Bơi, Cử tạ,
Điền kinh, Billiards - Snooker, Judo, Đua thuyền Rowing, Canoeing… những môn này đã đạt được nhiều huy chương tại các giải quốc gia và quốc tế. Đặc
biệt là
- Đội ngũ HLV từng bước được chuẩn hóa (trên 80% đạt trình độ đại
học), và đạt được nhiều thành tích trong việc đào tạo vận động viên. Hiện
nay, 90% lực lượng huấn luyện viên của Ngành có khả năng đào tạo vận động
viên đạt
Với sự nỗ lực như trên, Thể thao thành tích cao ở các tỉnh, thành phố đã
khẳng định được vị trí đối với thể thao Việt Nam.
- Căn cứ hiệu quả huấn luyện từng năm và định kỳ giai đoạn Đại hội
TDTT (4 năm) tiến hành đánh giá để tuyển chọn, luân chuyển lại đội ngũ
huấn luyện viên có đầy đủ trình độ và năng lực công tác.
- Cử các huấn luyện viên tham gia các khóa học, bồi dưỡng nâng cao
trình độ và cập nhật những kiến thức mới nhất về công tác huấn luyện do Tổng cục TDTT, Liên đoàn, Hiệp hội thể thao các môn và Uỷ ban Olympic
quốc gia, quốc tế (IOC) tổ chức, tạo điều kiện thuận lợi cho các huấn luyện
viên có năng lực và trình độ ngoại ngữ ra nước ngoài học tập, nâng cao trình
độ huấn luyện.
50
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
- Chọn lọc các vận động viên có trình độ cao, có kiến thức văn hóa, có
phẩm chất đạo đức tốt và có lòng say mê nghề nghiệp để đưa đi đào tạo đại
học; - Thu hút những huấn luyện viên giỏi trong và ngoài nước cho các môn thể
thao mũi nhọn và một số môn thể thao mới phát triển.
2.3.2. Đánh giá quá trình đào tạo HLV xuất phát từ Vận động viên
Sự từng trải: HLV được đào tạo và xuất phát từ vận động viên có những
lợi thể nhất định về kiến thức chuyên môn, sẽ không chỉ tác động vào sự tập
luyện của vận động viên mà cũng tác động vào kết quả của nó. Áp dụng
những kinh nghiệm lâu năm được các HLV sử dụng đúng đắn. Sự từng trải
bao gồm khả năng phán đoán chính xác, có sự tưởng tượng và tư duy logic
tốt, thêm vào đó sự tích luỹ kinh nghiệm lâu năm là một kho báu lớn cho các HLV. Tất cả những nhân tố trên tạo nên khả năng thành công lớn cho những
HLV. Trong các cuộc thi đấu, sự phân tích tốt các tình huống trong thi đấu,
những thông tin về kinh nghiệm được lưu giữ trong trí nhớ, trí tưởng tượng và
lôgic được đưa ra một cách nhanh chóng sẽ đưa đến một quyết định mới trong việc chỉ đạo trận đấu.
Kinh nghiệm phong phú: Kinh nghiệm phong phú là điều kiện rất quan
trọng tạo nên sự thành công cho HLV. Kinh nghiệm rộng lớn và sự hiểu biết
sâu sắc mang lại cho HLV những quyết định có ý nghĩa, những kinh nghiệm
trực tiếp hoặc gián tiếp sẽ được áp dụng trong quá trình huấn luyện hoặc trong
những hoàn cảnh cụ thể trong huấn luyện cũng như trong thi đấu. Do vậy,
trong mọi hoàn cảnh kinh nghiệm là rất cần thiết và quan trọng cho HLV.
2.3.3. Đánh giá quá trình đào tạo HLV từ học sinh, sinh viên
Sự phối hợp nhiều kiến thức: Xuất phát từ học sinh thì việc học Văn hóa
tại trường học đã tôi luyện nên những con người trưởng thành về kiến thức,
chín chắn trong tư duy. Người HLV phải có kiến thức sâu sắc trong nhiều lĩnh
vực và phải biết phối hợp những kiến thức đó. Chính những kiến thức đó sẽ là
nền móng tốt cho một HLV, giúp họ có cách nhìn đóng và hiểu được cái gỡ là
51
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
cốt yếu trong quá trình huấn luyện, cụ thể:
+ Sự hiểu biết chung: Ví dụ như y sinh học, các kỹ năng huấn luyện, Xã
hội học, giáo dục học, nhân loại học, áp dụng triết học, với một kiến thức hiểu
biết rộng lớn sẽ đưa ra những bản phân tích tốt. Mặt khác nếu kiến thức
không nhiều nó cũng sẽ phải giới hạn của sự phân tích.
+ Kiến thức về chuyên môn: Ví dụ như tâm lý thể thao, y học thể thao,
huấn luyện thể thao, quản lý thể thao, Xã hội học thể thao,... và tất cả những
điều đó nếu có được để tạo nên một HLV có chuyên môn tốt.
+ Một HLV có kiến thức tốt sẽ đưa đến quyết định tốt, sẽ mang lại tài
năng và chiến thắng cho VĐV.
Sự tự chủ: Sự tự chủ là một trong những điều cũng rất cần thiết của
người HLV, nó quyết định nên thành công của HLV đó. Một HLV có Sự tự chủ là điều kiện cần để đảm bảo cho một kết quả thi đấu tốt. Mọi hoạt
động của HLV đều được điều khiển bởi sự tự chủ. Trong suốt quá trình
phấn đấu để làm nên thành công đều rất khó khăn và vất vả, đặc biệt trong
những điều kiện thi đấu rất ác liệt, thành công không thể đến được nếu không có ý chuẩn tốt, miễn là có sự tự chủ thì sẽ có thành công. Mặt khác
nếu có thất bại thì cũng là điều không thể tránh khỏi. Do vậy, một sự tự
chủ sẽ trở thành điều kiện quyết định trước hết.
3.2.4. Công tác phân bổ HLV
Công tác phân bổ HLV như thế nào cho hợp lý giữa các vùng miền, giữa
các cấp đội tuyển, giữa các bộ môn thể thao là vô cùng quan trọng. Ngay như
tại một trung tâm huấn luyện thể thao nếu có được một cơ cấu ngạch viên
chức chuẩn (tỷ lệ của: Huấn luyện viên - huấn luyện viên chính - huấn luyện
viên cao cấp) thì sẽ hiệu quả công việc sẽ cao hơn, cụ thể:
- Thông qua cơ cấu ngạch viên chức xác định riêng vị trí từng thành viên
trong đơn vị, từ đó có kế hoạch tuyển dụng, quản lý và sử dụng phù hợp;
52
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
- Trên cơ sở cơ cấu ngạch viên chức từng đơn vị chủ động triển khai công
tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ viên chức đáp ứng yêu cầu công tác theo từng
chức danh cụ thể.
- Bảo đảm cho sự phân công công tác thuận lợi, sự chủ động và phát huy
sáng tạo trong công tác của mỗi thành viên và tăng cường kỷ cương trong đơn vị;
- Xây dựng tốt mối quan hệ công tác, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của đơn
vị, loại bỏ sự chồng chéo trong công việc.
Hiện nay, ở nước ta kết hợp với các nguyên lý quản lý TDTT chúng ta có
thể thấy những yếu tố chi phối đến nhu cầu và việc phân bổ đội ngũ HLV được xác định là:
- Căn cứ vào mục tiêu phát triển TDTT của mỗi đơn vị, địa phương.
- Căn cứ vào dân số, diện tích và khối lượng công việc của mỗi đơn vị và
địa phương.
- Căn cứ vào các quy định định biên của Chính phủ và các bộ, ngành liên
quan.
Qua bảng số liệu phân bổ HLV giữa các vùng miền dưới đây cho chúng ta
thấy, HLV vẫn chủ yếu tập trung ở các vùng Đồng bằng sông Hồng (34%), Đông Nam Bộ (18%), những vùng kinh tế phát triển - đó cũng là nguyên nhân
tại sao phong trào cũng như thành tích thể thao của một số vùng như Tây
Nguyên (3%), Tây Bắc (3%)... lại chậm phát triển.
53
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Biểu đồ 2.2. Tỉ lệ phân bổ số lượng HLV
thể thao giữa các vùng miền trên toàn quốc
Ngoài ra, tỷ lệ cơ cấu xếp theo ngạch viên chức ngành TDTT trong cả
nước là quá chênh lệch: HLV: 2790 người, HLVC: 281 người, HLVCC: 50 người. Điều đó chứng tỏ chúng ta đang thiếu trầm trọng những vị trí huấn
luyện ở trình độ cao.
Biểu đồ 2.3. Tỉ lệ cơ cấu giữa các ngạch HLV
Do ngành TDTT cũng như nhiều ngành khác chưa xây dựng được một
định mức chuẩn cho các loại hình đơn vị sự nghiệp TDTT, cũng như từng địa
phương, vùng miền chưa có quy hoạch chính xác mang tính dài hạn cho đội
ngũ này, có những nơi là người tìm việc nên hiệu quả sử dụng đội ngũ HLV
này chưa cao. Đây cũng là một yếu tố then chốt dẫn đến trình độ thể thao giữa
các vùng miền của nước ta có sự khác biệt khá lớn và thành tích thể thao của chúng ta chưa theo kịp trình độ thể thao của các nước.
54
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Vấn đề đặt ra ở đây là chúng ta cần xây dựng được định mức chuẩn giúp
cho công tác quản lý đội ngũ này chặt chẽ, hiệu quả, sát thực, bảo đảm được
tính cân đối, đồng bộ của đội ngũ theo các ngành, theo khu vực và trước hết là sự phân bổ, mật độ HLV phù hợp với nhu cầu công tác huấn luyện của đơn vị.
Bảo đảm tương ứng của độ phức tạp công việc đối với ngạch trên, ngạch
dưới, giữa các môn thể thao, sự tương quan ngạch bậc các vùng trong cả
nước, tạo nên kỷ cương công tác thống nhất trong lãnh thổ nước ta.
2.3.5. Công tác chăm sóc, đãi ngộ HLV
Trong giai đoạn từ năm 1990 đến 2012, Nhà nước và ngành TDTT đó ban
hành nhiều văn bản pháp quy quy định các chế độ đói ngộ đối với HLV, VĐV
phù hợp với đặc điểm, tính chất lao động đặc thù. Đó là cơ sở pháp lý hết sức
cần thiết để bổ sung hoàn thiện chính sách đói ngộ đối với HLV, VĐV ngành TDTT, tạo ra động lực mới thúc đẩy tinh thần trách nhiệm, hiệu quả trong lao
động, học tập và rèn luyện để đạt thành tích ngày càng tốt hơn.
Tuy nhiên, cùng với sự đổi mới của đất nước, theo cơ chế thị trường và
đặc biệt do tính chất công việc của người HLV thể thao là một loại lao động
đặc biệt như đó trình bày tại mục 2.3 phần II chương 1 nên một số chế độ về
tiền công, tiền thưởng, bảo hiểm Xã hội (được quy định tại Quyết định số 234/QĐ-TTg) và chế độ dinh dưỡng đối với HLV (được quy định tại Thông
tư liên tịch số 103/TTLT-BTC-UBTDTT) thì rất khó khăn và thực sự chưa
bảo đảm để người HLV thực hiện nhiệm vụ của mình.
Chế độ phụ cấp nghề nghiệp đối với HLV một số môn thể thao cũng chưa
hoàn chỉnh, một số môn thể thao chưa có quy định như: Bắn đĩa bay, Sport
Aerobic, Khiêu vũ thể thao, Bi sắt... Cần phân biệt riêng phụ cấp nguy hiểm
cho môn Xe đạp địa hình, đỗ đèo và môn Xe đạp đường trường.
Kinh phí đầu tư cho thể thao là quá khiêm tốn. Ngay cả việc đầu tư cho
cơ sở vật chất, cho công tác đào tạo huấn luyện chưa đáp ứng được yêu cầu
ngày càng cao của một số môn thể thao, đặc biệt trước Đòi hỏi phát triển của
TTTTC, chứ chưa nói đến chế độ chính sách đối với HLV. Mà trong xu thế
55
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
phát triển thể thao mạnh mẽ trên toàn cầu như hiện nay thì Nhà nước ta cần
phải có một chế độ đói ngộ đặc biệt cho đội ngũ HLV, VĐV lập thành tích
xuất sắc đó thi đấu hết mình mang lại vinh quang cho Tổ quốc để thu hút nhân tài cho ngành TDTT.
Tóm lại: Công tác đào tạo đội ngũ HLV đã được chú trọng về cả số lượng
và chất lượng. Đội ngũ HLV đào tạo từ các cấp Ngành, xuất phát từ nhu cầu
thực tiễn, bối cảnh trong nước và quốc tế. Chất lượng đội ngũ HLV ngày càng
được nâng cao, phát triển đồng đều về cả chất và lượng.
56
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ HUẤN
LUYỆN VIÊN CÁC MÔN THỂ THAO TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
3.1. Định hướng cho việc đào tạo và phát triển đội ngũ HLV thể thao
Việt Nam
3.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về TDTT
Ngay trong thời kỳ bí mật, lúc ở Hải ngoại, kể cả khi sống trong tù ngục
của kẻ thù, cũng như khi về chiến khu Việt Bắc, Người luôn nhắc nhở các
đồng chí của mình và tự mình giữ nghiêm kỷ luật thể dục buổi sáng, tự rèn
luyện cơ thể trong bất kỳ giờ phút nào có thể. Tinh thần, ý thức tập luyện
bằng TDTT của Hồ Chủ tịch phần nào đó thể hiện trong tập thơ "Nhật ký trong tự" và trong nhiều mẩu chuyện kỉ niệm của những người được sống bên
Bác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đó luôn coi trọng nhân tố con người trong phát
triển Xã hội. Người khẳng định TDTT là phương thức đào tạo và phát triển
con người toàn diện, nó là phương tiện phục vụ lợi ích giai cấp, lợi ích Xã
hội, phục vụ nhân dân, công tác TĐTT phải là một trong các công tác cách
mạng.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ngay từ những hoạt động đầu
tiên của Chính phủ Cách mạng, với tư cách là người đứng đầu Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đó quan tâm ngay đến việc
nâng cao sức khoẻ cho toàn dân. Tháng 3 năm 1946, Người ra "Lời kêu gọi
toàn dân tập thể dục", trong đó, Người khẳng định: "Giữ gìn dân chủ, xây dựng nhà nước, gây đời sống mới, việc gỡ cũng cần Đòi hỏi có sức khoẻ mới
làm thành công.” Người chỉ riêng : "Dân cường thì nước thịnh". [15]
Xác định vị trí công tác TDTT là một công tác cách mạng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh yêu cầu: "Cán bộ TDTT phải học tập chính trị, nghiên cứu nghiệp
57
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
vụ và hăng hái công tác". [14]
Như vậy, nhiệm vụ của cán bộ, công tác trong lĩnh vực TDTT, được
Người chỉ ra rất riêng ràng và đầy đủ. Người cán bộ TDTT trong Xã hội mới
phải có kiến thức về chính trị, nắm vững chuyên môn và hết mình phục vụ sự
nghiệp phát triển TDTT nước nhà. Đó là bản lĩnh của người cán bộ TDTT cách mạng.
3.1.2. Đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển nền
TDTT và đối với việc xây dựng đội ngũ HLV thể thao
Đảng Cộng sản Việt Nam, kể cả khi chưa cầm quyển, trong đường lối
lãnh đạo Cách mạng Việt Nam đó luôn luôn coi trọng hoạt động TDTT, coi đó là một bộ phận của hoạt động Xã hội, mà sự lãnh đạo của Đảng không thể
không có.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về lĩnh vực TDTT thể hiện
dưới nhiều hình thức, từ hình thức lớn là các văn kiện của Đảng, của Ban
chấp hành TW của Đảng, các văn kiện pháp lý của Nhà nước, đến những ý
kiến chỉ đạo của các nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước ta, mà tiêu biểu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chúng ta có thể thấy được những tư tưởng lớn của Đảng và Nhà nước ta
về sự nghiệp TDTT trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam
XHCN qua những văn kiện chính trị - pháp lý quan trọng sau đây:
Trong chương trình hành động của Mặt trận Việt Minh, ngay từ năm 1941
đó đề ra: "Cần khuyến khích và giúp đỡ nền thể dục quốc dân, làm cho nũi
giống ngày càng thêm khỏe mạnh".
Năm 1958, Ban chấp hành Trung ương Đảng có chỉ thị về công tác
TDTT. Đó là Chỉ thị 106-CT/TW về công tác TDTT của Ban Bí thư Trung
ương Đảng. Đây là chỉ thị đầu tiên của Ban bí thư Trung ương Đảng về công
tác TDTT.
58
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Chỉ thị khẳng định: “Công tác TDTT là một phương pháp rất có hiệu quả
để tăng cường lực lượng sản xuất và lực lượng quốc phòng của cán bộ và
nhân dân ta, tăng cường dũng khí và Sự tự chủ của mọi người dân, tăng cường sức khoẻ của nhân dân để chống lại bệnh tật" [15].
Chỉ thị cũng yêu cầu các cấp uỷ đảng, các đồng chí phụ trách ngành ở
Trung ương nghiên cứu và chấp hành nghiêm chỉnh. Sau khi nêu những
khuyết điểm, tồn tại, làm hạn chế sự phát triển phong trào TDTT ở miền Bắc,
Chỉ thị đó nêu những biện phỏp lớn nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
và Chính phủ đối với công tác TDTT.
- Năm 1960 Đảng ta tiến hành Đại hội toàn quốc lần thứ III, nhằm khẳng
định đường lối xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu tranh giải phẫng dân miền
Nam. Trong văn kiện lớn của một Đại hội lịch sử, Đại hội quyết định sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, vấn đề TDTT cũng được
giành một phần đáng kể.
Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng đó xác định nhiệm vụ
cho công tác TDTT đó là:
"Phát triển TDTT rộng rãi trong cả nước, bảo vệ và bồi dưỡng sức khoẻ
con người, góp phần mở rộng quan hệ quốc tế, trên tinh thần hữu nghị với
các nước anh em, phát triển phong trào đoàn kết kết hợp với phong trào vệ
sinh yêu nước trong lực lượng sinh viên, học sỡnh, công nhân viên chức, trong lực lượng vũ trang (công an, quân đội)."
- Thực hiện nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng, Ban chấp
hành Trung ương Đảng đó ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết về công tác
TDTT, trong đó có :
Chỉ thị số 181-CT/TW ngày 31/10/1960 về cuộc vận động phong trào
thể dục vệ sinh,
Chỉ thị số 38-CT/TW ngày 28/02/1962 về tăng cường công tác thể
thao quốc phòng.
59
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
- Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cùng với việc tổ
chức công cuộc ổn định dân sinh, khôi phục kinh tế thời hậu chiến, Đảng và
Nhà nước ta đó quan tâm ngay đến việc khôi phục, duy trì và phát triển phong trào TDTT trong vùng mới giải phóng. Nhiều văn kiện chính trị, pháp lý về
TDTT thời kỳ này đó được Đảng, Nhà nước các cấp ban hành, trong đó có
Chỉ thị số 227-CT/TW ngày 18/11/1975. Chỉ thị khẳng định quan điểm và
mục đích của TDTT trong tình hình mới là: "Khôi phục và tăng cường sức khoẻ của nhân dân, góp phần xây dựng con người phát triển toàn diện... Và
xây dựng một nền TDTT Xã hội chủ nghĩa phát triển cõn đối, có tính dân tộc,
nhân dân và khoa học”.
- Trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV năm 1976, Nghị quyết Đại hội
Đảng cũng đề ra nhiệm vụ cho ngành TDTT là tập trung vào khôi phục và
nâng cao sức khoẻ con người góp phần đào tạo con người mới phát triển toàn
diện. Muốn thực hiện được mục tiêu trên cần phải đẩy mạnh phong trào
TDTT quần chúng rộng rói trong cả nước, trước hết là ở cơ sở nhằm thiết
thực phục vụ sản xuất, công tác và học tập, phục vụ quốc phòng, góp phần
xây dựng con người mới.
Riêng về công tác cán bộ, Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng đề ra
cho ngành TDTT là:
"Mở rộng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, HDV, HLV, VĐV, cán bộ
quản lý”.
- Trong xu thế hoà nhập, xuất hiện từ những năm 80 của thế kỉ trước, sự
nghiệp xây dựng đất nước đó đặt ra cho lĩnh vực TDTT nhiệm vụ xây dựng
và phát triển phong trào TDTT không chỉ ở trong nước, mà cũng phải từng
bước hoà nhập vào thể thao thế giới. Cụ thể là: Năm 1980, lần đầu tiên thể thao nước Việt Nam XHCN tham gia Thế vận hội Olympic tại Liên Xô cũ.
Năm 1982, Việt Nam tham gia Đại hội Thể thao Châu Á lần thứ 9 tại Ấn Độ.
Năm 1989, Việt Nam tham gia trở lại đấu trường SEA Games (lần thứ 15 tại
Malaixia). Từ đó đến nay, thể thao Việt Nam đó thiết lập quan hệ với nhiều tổ
chức thể thao quốc tế, là thành viên tích cực của các SEA Games, ASIAD và 60
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
thế vận hội Olympic.
- Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V năm 1982, Nghị quyết Đại hội đó
xác định mục tiêu cho ngành TDTT là: "Phát triển phong trào TDTT quần
chúng rộng rãi, có chất lượng, cùng với việc tích cực xây dựng đội ngũ VĐV
ngày càng đông đảo, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt và đạt thành tích cao".
Quán triệt mục tiêu và quan điểm của Đảng với công tác TDTT, ngành
TDTT đó luôn chú trọng đến việc phát triển và nâng cao chất lượng phong
trào TDTTQC. Năm 1983 lần đầu tiên chúng ta đó tổ chức Hội khoẻ Phự
Đổng trên toàn quốc dành cho lứa tuổi học sinh. Năm 1985 tiến hành tổ chức
Đại hội TDTT các cấp và Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ nhất.
- Trong thời kỳ đổi mới, được mở ra từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI (năm 1986), quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác
TDTT được tiếp tạc khẳng định TDTT với nhân tố con người, với con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của CHXH.
Các Nghị quyết từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X đều khẳng định mục tiêu của TDTT Việt Nam là:
"Phát triển TDTT gắn liền với phát triển kinh tế - Xã hội của đất nước.
Mục tiêu xuyên suốt đó được phân chia cho từng giai đoạn: 1996 - 2000,
2001 - 2005, 2006 - 2010 và định hướng 2020, nhiệm vụ của TDTT Việt Nam
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nâng cao thể lực và
tầm vóc con người Việt Nam, thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng ta là
đa dạng hoá, đa phương húa, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng"
Riêng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X năm 2006 đó chỉ
riêng nhiệm vụ và phương hướng của ngành TDTT đến năm 2020 là: "Xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ, tầm vóc con người Việt Nam,
tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nũi, tăng cường thể lực của thanh
niên, phát triển mạnh TDTT quần chúng, kết hợp tốt thể thao phong trào và
61
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
thể thao thành tích cao, dân tộc và hiện đại. Có chính sách và cơ chế phù hợp
để phát hiện, bồi dưỡng và phát triển tài năng, đưa thể thao nước ta đạt vị trí
cao của khu vực, từng bước tiếp cận với châu lục và thế giới ở bộ môn Việt Nam có ưu thế”. [4]
Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước ta đó có chủ trương hình thành
mở rộng TDTT chuyên nghiệp đỉnh cao.
3.1.3. Đòi hỏi của công chúng Việt Nam đối với TDTT Việt Nam
3.1.3.1. Những nhân tố tạo nên những Đòi hỏi mới của công chúng Việt
Nam đối với TDTT Việt Nam
Sau hơn 20 năm đổi mới toàn diện đất nước, đó xuất hiện những tiền đề
sau đây, khiến cho Đòi hỏi của Xã hội Việt Nam đối với sự nghiệp TDTT của nước nhà đó không cũng như trước. Đó là:
- Sự phát triển toàn diện về thông tin, đặc biệt là truyền thông nghe nhìn.
Nhân tố này đó làm cho công chúng Việt Nam được tiếp xúc thường xuyên
với nền TDTT thế giới. Công chúng Việt Nam ngày nay quá biết về bóng đá
mọi châu lục, quá quen mắt với nền nghệ thuật bóng đá cao cấp của Nam Mỹ,
Anh Quốc, quen "thưởng thức" những "cao lương, mỹ vị" của nền TDTT đỉnh
cao quốc tế. Đó là điều mà trước 1986 không thể có ở Việt Nam, ít ra là ở
miền Bắc Việt Nam.
- Mức sống của người dân Việt Nam đó được nâng lên đáng kể. Nói đến
mức sống của nhân dân Việt Nam, có thể có nhiều đánh giá khác nhau.
Nhưng dù sự khác nhau đó như thế nào, nhưng có một thực tế, không thể phủ
nhận được là, ngày nay, từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền
nêu, vùng sâu, vùng xa, Tivi không cũng là của hiếm đối với toàn dân. Bên cạnh đó, Truyền hình Việt Nam đó phủ súng gần như toàn quốc. Kênh truyền
hình này đó đưa người dân Việt Nam đến với mọi miền trái đất, tiếp cận với
muôn mầu, muôn vẻ của cuộc sống nhân loại, trong đó có nghệ thuật bóng đá
62
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
cao cấp nói riêng, TDTT hiện đại nói chung.
- Sự giao lưu ngày càng thường xuyên và mở rộng của TDTT Việt Nam
với các sân chơi quốc tế.
Đây là nhân tố, làm cho công chúng Việt Nam có nhiều dịp nhìn thấy
hình ảnh TDTT Việt Nam trong sự tương phản với TDTT khu vực và quốc tế.
3.1.3.2. Hệ quả do các nhân tố trên đưa lại
Ba nhân tố nói trên đó đưa đến một thực tế lòng dân Việt Nam về TDTT
Việt Nam là:
- Người dân gần như không muốn xem TDTT Việt Nam, triêng khi có sự
giao đấu, mà một trong hai bên giao đấu có quan hệ tình cảm với người xem, với tâm thế “lo lắng và cổ vũ đội nhà” hoặc đội mà mình có chút thiện cảm
nào đó. Bên cạnh đó, sự quan tâm cũng có thể với lý do cá cược, cá độ.
Điều này thật dễ hiểu. Khi người dân đó "nghiện” những đường ban siêu
đẳng của Ronaldo, Maradona, Ronadinho,... thì làm sao có thể thấy võa mắt
khi nhìn các cầu thủ Việt dẫn ban, đó từng háo hức và no mắt với búng đá
ngoại hạng Anh, với Cup C1 châu Âu, với các WoldCup,... thì làm sao cũng
có thể vừa mắt khi xem V-leaguer.
Và điều này có nghĩa là, TDTT Việt Nam không có công chúng, TDTT Việt Nam muốn "sống" ở Việt Nam, phải nâng mình lờn, đẹp mình hơn. Công
chúng Việt Nam chán TDTT Việt Nam cũng giống như khán giả Việt Nam
chán phim Việt Nam, kể cả phim nhựa, chứ không chỉ phim truyền hình. Xa
hơn nữa, nó cũng giống như việc chuộng hàng ngoại của đông đảo người tiêu
dùng Việt Nam.
- Công chúng Việt Nam không cũng hào hứng với TDTT Việt Nam, khi
họ thấy sự thua kém của TDTT Việt Nam trước bạn bè quốc tế, mà thua cả bạn bè "thấp bé, nhẹ cân", chứ đâu phải thua các anh hùng. Trong khi, sự đầu
tư của Nhà nước cho TDTT Việt Nam cũng không phải là quá ít. Chỉ riêng sự
63
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
thất bại của đấu thủ Taekonwdo Văn Hùng cũng đó nêu lên phần nào về điều,
mà chúng tôi vừa lập luận.
TDTT Việt Nam không chỉ thua mà cũng biểu hiện nhiều nét không đẹp
khác. Những biểu hiện thiếu tự tin về tâm lý thi đấu, suy cho cùng, cũng là
một kết quả của sự non yếu về văn hóa trong hoạt động TDTT chuyên nghiệp. Tại sao trong các cuộc thi ca nhạc, nghệ thuật sân khấu, các thí sinh ít bị tác
động bởi môi trường, ít bị sức ép tâm lý, mà hầu như ai cũng hóa thân được
vào tác phẩm của mình, với sự đắm say công việc và hết mình trình diễn. Chỉ
đến khi công bố kết quả, thớ sinh mới biết mình thua tố ai. Cũng trong lúc thi,
họ đều hào hứng, tự tin. Nhưng các đấu thủ Việt Nam trên lĩnh vực TDTT thì hình như không khách quan được như thế về tâm lý, bị đối thủ dễ dàng điều
khiển về tâm lý, để rồi, tiêu biến mất những gỡ mà mình đó có, do dày công
tập luyện. Chính điều này làm công chúng Việt Nam không yêu thích TDTT
Việt Nam chứ không hẳn chỉ là thành tích đạt được trong các cuộc tranh tài
cũng quá thấp. Trong khi đó, công chúng Việt Nam lại thấy, TDTT quốc tế
không như thế. Trên thao trường, các đấu thủ quốc tế, dù thua vẫn chơi hết
mình, vẫn giữ được nét đáng yêu của người say mê nghệ thuật. Chơi tốt để
giành chiến thắng. Điều đó là hiển nhiên. Không ai thi đấu mà không cần chiến thắng. Nhưng các "đấu sĩ' quốc tế chơi thể thao cũng với danh giá nghề
nghiệp, mà ngay cả khi thua, họ vẫn cũng cơ hội trình diễn tài nghệ của mình
và họ trọng cỏi đó.
3.1.3.3. Ý nghĩa của những điều trên đây trong việc định hướng TDTT
Việt Nam và định hướng công tác đào tạo và phát triển đối với đội ngũ HLV
thể thao Việt Nam
Có thể nói vắn tắt về ý nghĩa đó như sau:
- TDTT Việt Nam đó đến lúc vươn cao hơn nữa. Nó cần phải được nâng
cao hơn nữa về trình độ để đáp ứng khát vọng thưởng thức của công chúng
Việt Nam, để góp phần củng cố và phát triển bản sắc dân tộc của văn hóa Việt
Nam đến độ đậm đà, một trong những nội lực để Tổ quốc Việt Nam là bất
diệt.
64
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
- Để TDTT Việt Nam phát triển, cần có đội ngũ "Thày ra Thày". Đó
chính là đội ngũ HLV.
- Để có "Thày ra Thày”, Nhà nước cần phải biết mình phải làm gỡ. Thày
không “tự mọc ra", nếu không có người trồng, người chăm sóc. Người trồng
đó phải là Nhà nước.
3.1.4. Đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam đối với TDTT
Chúng ta đều đó biết một triết luận rất quan trong, được cấu thành bởi các
định đề như sau:
- Nhiều ngàn năm đô hộ Việt Nam, quân xâm lược không đồng hoá được
người Việt Nam, nền độc lập quốc gia bị mất nhưng lại được khôi phục.
- Nhân tố sâu xa của sự bất diệt của dân tộc Việt chính là văn hoá Việt.
- TDTT là một bộ phận của văn hoá Việt.
Từ nhận thức về triết luận trên, cho phép và buộc chúng ta phải ghi nhận
Đòi hỏi của công cuộc xây dựng đất nước trong thời đại mới đối với TDTT
Việt Nam, theo một lập luận, bao gồm các định đề sau đây:
Một là, trong công cuộc hội nhập quốc tế về kinh tế, theo đó là sự hội nhập không thể tránh khái của nhiều lĩnh vực đời sống Xã hội, vấn đề "chống
đồng hóa" Việt Nam là một vấn đề cấp thiết, hiện thực, chứ không phải là sự
quá lo xa. Hộí nhập kinh tế đe dọa cả hội nhập chính trị - ý thức hệ chứ không
chỉ văn hóa, đạo đức.
Hai là, với thế, ngay bõy giờ, việc xây dựng một nền văn hóa đậm đà bản
sắc dân tộc, phải được coi là một trong những biện pháp quan trọng để giữ
nước.
Ba là, với tư cách là một hình thỏi của văn hóa, TDTT Việt Nam phải lấy
chuẩn ''đậm đà bản sắc dân tộc" làm một trong những căn cứ định hướng phát triển của mình và hướng tạo dựng một thế hệ mới các HLV cũng như các 65
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
VĐV.
3.1.5. Sự tác động của kinh tế thị trường đến hoạt động TDTT và hoạt
động huấn luyện của HLV thể thao
Nhân tố này có nhiều biệt, giống như nhân tố kinh tế thị trường đối với
hoạt động giáo dục nói chung. Kinh tế thị trường ảnh hưởng đến nền giáo dục
Việt Nam như thế nào thì cũng ảnh hưởng đến VĐV và HLV thể thao như thế
hoặc gần như thế. Bởi với, VĐV trước khi là VĐV cũng là học trò, HLV thể
thao thì đích thực là Thầy. Báo chí đó nhiều lần dựng hai chữ “Thầy- Trò” để
chỉ mối quan hệ giữa HLV và VĐV. Chẳng hạn, nói về đội tuyển bóng đá
Việt Nam trong những lần chuẩn bị giao đấu, các báo Việt Nam đó từng dựng
cụm từ “Thầy-Trò ông Readle” hoặc “Thầy-Trò ông Lê Thụy Hải”.
Ảnh hưởng của kinh tế thị trường là cách nói tượng trưng. Chủ thể thật sự
tạo nên ảnh hưởng này chính là lối sống thụng qua đồng tiền, đó phổ cập
trong nhiều quan hệ Xã hội, thay cho quan hệ tình nghĩa, đậm chất nhân hậu, nhân văn, từng tồn tại dưới thời bao cấp. Nếu trước đổi mới, mọi người sống
theo triết lý “mình với mọi người”, theo đó, mỗi người làm hết khả năng để
cống hiến cho Xã hội và nhận lại sự chăm sóc của Xã hội qua sự cung cấp của
Nhà nước, thì ngày nay, nhiều quan hệ kiểu đó đó biến thành quan hệ Mua - Bán, đổi chác. Hoạt động TDTT cũng như thế, từ hoạt động thi đấu, trình diễn
của VĐV đến hoạt động huấn luyện của các HLV, nhất là các HLV người
nước ngoài và một số HLV người Việt, nhưng hoạt động tự do.
Ảnh hưởng của kinh tế thị trường sẽ tác động vào sự phát triển TDTT ở
nước ta về nhiều mặt, theo hướng sau đây:
3.1.5.1. Sẽ hình thành một thị trường TDTT, trong đó:
- Về chủ thể quan hệ thị trường sẽ xuất hiện (thực tế đó xuất hiện, tuy nhiều chủ thể cũng xuất hiện dưới dạng “ngầm”, theo đó, cũng có thị trường
“ngầm”, giống như trong lĩnh vực chứng khoán và nhiều lĩnh vực khác).
Những chủ thể đó là:
66
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
* Những nhà cung cấp “sản phẩm TDTT”. Đó là những trận đấu, giống
như các buổi biểu diễn ca nhạc, sân khấu.
* Những nhà cung cấp dụng cụ cho hoạt động TDTT. Đó là những nhà
cung cấp bóng các loại, vợt các loại, dày các loại, xà đơn, xà kép, cầu thăng
bằng...
* Những nhà cung cấp tri thức hoạt động TDTT. Đó là đội ngũ HLV cho
mọi môn TDTT...
* Các nhà tổ chức thi đấu, giống như các bầu Show ca nhạc.
* Và rất nhiều loại khách hàng, từ những người dân cần hàng hoá TDTT
như một thứ giải trí và các dịch vụ, giúp họ rèn luyện thân thể, đến các Đội -
Đoàn TDTT, các cá nhân VĐV, muốn thành tài, thành danh trên võ đài
TDTT.
- Về hàng hóa TDTT, sẽ có nhiều thứ biến thành hàng hoá, điển hình là:
* Bản thân các trận đấu, mà giá của nó là giá vé. Chỉ riêng trận đấu giao
hữu bóng đá giữa đội tuyển quốc gia Việt Nam với đội Olimpic Brazil đó có
vụ bán tới tiền triệu, tương đương một tháng lương của công nhân trong các
khu công nghiệp.
* Thành tích của các Đội cũng là giá cả cho những người cá độ bóng đá. Loại hàng hoá này là loại xấu đối với cách nhìn của mọi quốc gia, chứ không
chỉ đối với cách nhìn của Xã hội Việt Nam, nhưng lại là một thực tế, không
thể làm ngơ.
* Toàn bộ dịch vụ hoạt động TDTT đều trở thành hàng hoá, từ dụng cụ
TDTT đến dịch vụ huấn luyện, dịch vụ tổ chức thi đấu, dịch vụ trọng tài.
- Sẽ thay đổỉ căn bản cách quan hệ Xã hội trên lĩnh vực TDTT, đặc biệt
là TDTT trình diễn.
Cách mới này trong quan hệ Xã hội, có liên quan đến hoạt động TDTT 67
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
chính là sự Mua - Bán. Không chỉ có bán độ, mà cũng bỏn nhiều thứ khác.
3.1.5.2. Nền TDTT sẽ trôi nổi theo cơ chế nói trên
Các quy luật kinh tế tác động đến TDTT: Quy luật giá trị tác động đến sự
phát triển TDTT. Thành tích VĐV, chất xám trong TDTT... được coi là một
loại hàng hoá đặc biệt. Quy luật cung cầu ảnh hưởng đến hoạt động TDTT.
Xã hội phát triển thì nhu cầu tập TDTT và hưởng thụ giá trị văn hoá càng cao.
Hiện nay các điều kiện về TDTT: Cơ sở vật chất, cỏn bộ, dịch vụ TDTT
không đáp ứng nhu cầu Xã hội về TDTT. Quy luật cạnh tranh cũng có tác
động đến TDTT. Sự cạnh tranh thể hiện ngay trong những người trực tiếp
tham gia hoạt động TDTT (HLV, VĐV, cán bộ quản lý, cỏn bộ khoa học...)
và giữa các ngành, lĩnh vực khác trong Xã hội. Đây là sự cạnh tranh lành
mạnh là động lực để phát triển TDTT.
Trong cơ chế thị trường việc điều hành quản lý, đánh giá sự phát triển
TDTT phải lấy kết quả kinh tế, hiệu quả Xã hội là chính. Các hình thức tổ chức hoạt động TDTT rất đa dạng phong phú đáp ứng nhu cầu của Xã hội và
động viên huy động được đông đảo nhân dân tập luyện.
- Tuy trong cơ chế thị trường mục tiêu của TDTT không thay đổi: TDTT
luôn luôn do con người, với con người TDTT phục vụ, tăng cường sức khỏe,
phát triển hoàn thiện thể chất, cải tạo con người, TDTT phục vụ lao động sản
xuất, quốc phòng, góp phần xây dựng nếp sống văn minh, lành mạnh, TDTT vẫn phải mang tính dân tộc, nhân dân và khoa học, và xây dựng đội ngũ cán
bộ, hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý thống nhất, những phương thức thực
hiện các giá trị trên.
3.1.5.3. Sự tiêu cực trong hoạt động TDTT và các hoạt động phù trợ là
rất lớn và khó loại riêng
Có nhiều mặt tiêu cực, trong đó, đáng kể là:
- Không chú ý đến con người
68
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Mọi người bán đều dễ dàng hy sinh quyền lợi người mua: Đá “không
đẹp” với bán độ, quảng cáo sai để lừa người mua các dụng cụ TDTT, phương
tiện vật lý trị liệu, Thầy không ra Thầy trong dạy dỗ học trò, từ chuyên môn đến lối sống cá nhân, cách ứng xử các quan hệ lợi ích, có liên quan đến học
trò và liên quan đến bên thuê HLV.
Những tiêu cực trên trong TDTT Việt Nam nhiều năm qua không hiếm,
khiến Xã hội nhìn vào TDTT Việt Nam với nhiều nỗi nghi ngờ và thiếu hy
vọng, kể cả Trò lẫn Thầy, kể cả Thầy Nội lẫn Thầy ngoại.
- Không chú ý đến tính Dân tộc
Các nhà truyền bá các môn TDTT, các nhà huấn luyện, các nhà tổ chức giải, các VĐV,... sẽ chỉ chú ý đến môn nào có khán giả, bán được vé, thu lợi
cao, bất kể các môn đó có phục vụ được hay không cho việc góp phần tạo
dựng một bộ phận của nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
- Xuất hiện nhiều hành vi phi văn hóa trong hoạt động TDTT, từ người
Mua đến người Bán, trong đó, đáng kể là:
* Nạn côn đồ bạo lực trong thể thao.
* Gian dối khả năng sức khỏe, mà cụ thể là dùng Doping để tạo khả năng
nhất thời cho việc chiến thắng.
* Bán rẻ trách nhiệm để đổi lấy tiền tài, từ VĐV đến HLV, trọng tài và
những người ở vị trí, có thể chi phối kết quả các cuộc đấu.
* Sản xuất và bán những dụng cụ TDTT giả nhãn mác, tố chất lượng.
Thực trạng về tình hình kinh tế - Xã hội ở nước ta, những đặc điểm của
nền kinh tế thị trường và ảnh hưởng của nó đối với phong trào TDTT là những yêu cầu và tác động mới đối với sự nghiệp phát triển TDTT hiện nay.
Các mặt tiêu cực dễ dẫn đến sự phát triển TDTT đi chệch hướng do đó
cần sự tăng cường lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Tóm lại, TDTT trong cơ chế 69
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
thị trường không những không bị bó hẹp mà có nhiều điều kiện thuận lợi để
phát triển, đồng thời để phong ngừa hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế
thị trường. Do đó cần phải đổi mới quản lý tổ chức TDTT trong đó đẩy mạnh Xã hội húa TDTT và tăng cường QLNN đối với các hoạt động TDTT trong
Xã hội.
3.1.6. Những dự định lớn về hoạt động TDTT Việt Nam trong khoảng
thời gian từ nay đến năm 2020
Đây là một căn cứ có tính “Kỹ thuật”. Có nghĩa là, từ những việc lớn về
TDTT mà nước ta định làm trong thời gian tới buộc chúng ta phải tạo dựng
một đội ngũ HLV thể thao như thế nào?
Theo cách tư duy đó, việc xây dựng đội ngũ HLV thể thao Việt Nam
trong thời gian hiện nay cần tính tới những Dự định lớn về hoạt động TDTT
Việt Nam, sẽ diễn ra từ nay đến năm 2020, như dưới đây:
3.1.6.1. Về TDTT quần chúng
Trên lĩnh vực này, Dự định của Chính phủ, thể hiện trong Quyết định số
100/2005/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ, bao
gồm những vấn đề lớn như sau:
Một là, TDTT ở Xã, phường, thị trấn được phát triển mạnh mẽ hơn cho
tới năm 2015, tạo điều kiện tiếp tục phát triển tới năm 2020.
Hai là, nội dung TDTTQC sẽ phát triển phong phú hơn, đặc biệt là thể
thao giải trí, TDTT đối với người cao tuổi.
Ba là, làm cho số người tập TDTT thường xuyên tăng lên riêng rệt, đặc
biệt nếu đưa số lượng học sinh nằm trong số lượng người tập thường xuyên
như các quốc gia khác (có thể đạt trên 50% dân số). Số người tham gia tiêu
thụ TDTT liên quan đến kinh tế dịch vụ TDTT có thể đạt khoảng 60-70% dân số.
70
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Bốn là, các cơ sở phúc lợi TDTT vẫn tiếp tục được mở rộng, nhưng đặc
biệt các cơ sở dịch vụ TDTT sẽ tăng lên đột biến do nhận thức của Xã hội đối
với TDTT và đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Năm là, có chương trình nâng cao thể lực và tầm vóc người Việt Nam.
Chương trình này bao gồm những biện pháp dinh dưỡng và TDTT, do
Chính phủ và nhân dân cùng làm, được thực hiện từ TDTT trường học, với cơ
sở vật chất kỹ thuật được cải thiện riêng rệt.
3.1.6.2. Về thề thao thành tích cao
Xuất phát từ những tiền đề nội tại, từ nguyện vọng của nhân dân Việt
Nam, trước hết là những người hâm mộ, từ yêu cầu xây dựng và nâng cao vị
thế của đất nước trên trường quốc tế, các nhà quản lý TDTT Việt Nam dự tính
và dự định các mục tiêu như sau:
- Phấn đấu nâng hạng TDTT Việt Nam trong khu vực
Điều chắc chắn là, sự tranh đua giành huy chương, giành thứ hạng cao
trong khu vực Châu Á và Đông Nam Á của TDTT Việt Nam sẽ khó khăn
hơn, nhưng thể thao Việt Nam ở giai đoạn 2015-2020, chậm lắm là đến 2020,
phải đạt thứ hạng 10-12 ở Châu Á, vẫn giữ thứ hạng từ 1-3 trong khu vực
Đông Nam Á và có huy chương vàng tại Thế vận hội Olympic.
- Tập trung củng cố và nâng cấp các môn có thế mạnh
Các môn thể thao có thế mạnh của nước ta vẫn tiếp tục phát huy tác dụng tốt, đặc biệt đối với các môn phụ nữ Việt Nam có thế mạnh. Các nội dung này
nếu Việt Nam chuẩn bị tốt để tham gia thì rất có thể giành thành tích cao tại
các đấu trường Đông Nam Á, Châu Á và thế giới.
- Đăng cai tổ chức thi đấu các giải và các đại hội thể thao quốc tế và
khu vực tại Việt Nam
Những sự kiện này sẽ diễn ra theo chu kỳ hàng năm, 2 năm và 4 năm và 71
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
luân phiên tổ chức tại các nước thành viên của Liên đoàn thể thao Đông Nam
Á, Hội đồng Olympic Châu Á và Ủy ban Olympic quốc tế mà Việt Nam là
thành viên của 3 tổ chức này. Để làm tròn trách nhiệm nhà tổ chức các cuộc tranh tài quốc tế, tranh tài Á Châu hay tranh tài Đông Nam Á, chúng ta phải
nỗ lực nhiều, không chỉ về tài chính, mà cũng và chủ yếu là về chuyên môn
và về chính lực lượng TDTT nước nhà, được cử tham dự các cuộc đua tranh
lớn này. Đương nhiên, những Đại hội này cũng là động lực giúp thể thao Việt Nam phát triển mạnh hơn.
Năm 2003 Việt Nam đó là chủ nhà của SEA Games lần thứ 22. Năm
2009, Việt Nam sẽ là chủ nhà của Đại hội thể thao Châu Á trong nhà lần thứ 3 (Indoor Games 3). Sau năm 2010 Việt Nam sẽ đăng cai Đại hội thể thao Châu
Á mùa hè.
- Hiện đại hóa hệ thống các môn TTTTC và các trung tâm huấn luyện
VĐV của các môn thể thao này
Theo dự định, hệ thống quản lý tổ chức TTTTC ở nước ta sẽ có sự cải
thiện riêng rệt theo hướng phát triển một cách cơ bản, tập trung hơn.
Về việc đào tạo VĐV, các cơ sở huấn luyện thể thao tập trung ở quốc gia
và ở một số tỉnh thành sẽ cải thiện riêng rệt, mở ra những khả năng mới để
ứng dụng khoa học công nghệ cao, chuẩn bị cho bước phát triển mới sau năm
2020.
- Gia tăng đáng kể việc Xã hội húa hoạt động TDTT
Các giải phỏp Xã hội hóa TTTTC, đặc biệt đối với các môn thể thao có
khán giả, có thị trường (Bóng đá, Bóng chuyền, Quần vợt, Cầu lông) sẽ có tác
dụng tốt hơn.
3.2. Yêu cầu có tính định hướng đối với đội ngũ HLV thể thao Việt
Nam trong thời kỳ mới
Những gỡ mà chúng tôi đó nêu và phân tích trong mục “I” với Đề mục là
72
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
“Những căn cứ để đào tạo và phát triển đội ngũ HLV thể thao Việt Nam” đó
nêu lên rằng:
- Đất nước ta cần có một nền TDTT như thế.
- Việc xây dựng đội ngũ HLV thể thao cần phải lấy đó làm căn cứ xác
định và những việc cần làm trong QLNN để có được một đội ngũ HLV thể
thao Việt Nam như thế.
- Vậy, để có một nền TDTT mới cho Việt Nam, đáp ứng được mong mỏi
của công chúng yêu Việt Nam yêu thể thao Việt Nam, đáp ứng được những
Đòi hỏi của công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN, cần có
một đội ngũ HLV thể thao Việt Nam như thế nào?
Căn cứ vào những bất cập của TDTT Việt Nam, mà nguyên nhân của nó
thuộc về những bất cập của đội ngũ HLV thể thao Việt Nam, như đó nêu ở chương 2, nói về thực trạng TDTT Việt Nam và nguyên nhân của những bất
cập của TDTT Việt Nam.
Căn cứ vào Đòi hỏi thực tế như đó nêu ở phần đầu chương III.
Căn cứ vào thiên chức của HLV thể thao nói chung, như đó nêu ở chương
I.
Chúng ta có thể thấy rằng, trong 10-15 năm tới, đội ngũ HLV thể thao
Việt Nam cần phải được hình thành với các tiêu chuẩn như sau:
3.2.1. Đội ngũ HLV thể thao Việt Nam trong tương lai phải là một đội
ngũ những người Thầy đặc biệt
3.2.1.1. Quan niệm chung về tính đặc biệt cần có ở đội ngũ HLV
HLV thể thao phải là một người Thầy hơn những người Thầy mà nhân
gian vẫn dùng để chỉ những người làm nghề dạy học.
Những VĐV thể thao được học đầy đủ thường có hai loại Thầy: Thầy
73
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
trong nhà trường, nơi họ học hành cơ bản về môn thể thao mà họ dấn thân lập
danh, lập nghiệp và HLV, người luôn luôn bên họ trong suốt hành trình nghề
nghiệp của họ.
HLV là một loại Thầy hơn mọi người Thầy với lý do sau đây:
- Một là, họ gắn bó suốt đời với VĐV - những học trò của họ, nếu họ
không có nguyện vọng chuyển địa bàn huấn luyện hoặc không bị sa thải với
lý do bất đồng với người thuê HLV.
Điều này khiến cho sự ảnh hưởng của HLV đến VĐV cũng hơn nhiều
mọi loại Thầy khác trong các cơ sở GD&ĐT, nơi người Thầy chỉ gắn với Trò
chừng vài trăm tiết là cùng, dù mỗi khoá đại học có thể dài đến 5-6 năm.
- Hai là, họ gắn bó liên tục với trò trong thời gian huấn luyện, có khi suốt
ngày và trong mọi sinh hoạt.
Thật vậy! Các Thầy trong các trường chỉ gần trò trên lớp, trên giảng
đường. Thầy - HLV gắn bú với trò suốt ngày trên sân tập, với từng người. Ngoài ra, nếu việc huấn luyện được thực hiện cùng với các chuyến công du,
Thầy - Trò cũng gắn bó với nhau cả ngoài giờ tập, trong bữa ăn, trong lúc tâm
tình, giao lưu văn hoá, văn nghệ.
Điều này khiến cho người Thầy - HLV có ảnh hưởng đến VĐV một cách
sâu sắc từ những kênh ngoài chuyên môn, nhưng lại tác động đến kênh
chuyên môn không nhỏ. Những giao tiếp sinh hoạt của HLV với các trò của
họ có thể tạo nên sự yêu thương, kính trọng trong lòng Trò, truyền cho trò cả
những tính tốt của Thầy, như bản lĩnh kiên cường, đức hy sinh, sự thận trọng,
tính kỷ luật và đặc biệt là, lòng yêu nghệ thuật thể thao không với thành tích
mà chỉ với khỏt vọng chiếm lĩnh đỉnh cao của nghệ thuật. Những giá trị ngoài
chuyên môn trên đây, mà học trò chịu được ảnh hưởng từ người Thầy của họ, sẽ làm nên “phần hồn” của VĐV, cơ sở để tạo nên cỗ máy thể thao khi được
tiếp cận khoa học thực hành thể thao mà Thầy truyền giáo. Thiếu cái phần
hồn kia, VĐV khó có thể tiếp thu được các bài học chuyên môn của Thầy, đặc
74
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
biệt là phần chí và khí, dù lực có thể hơn người. Ngoài ra và cao hơn thế,
HLV phải là một chỗ dựa tinh thần của VĐV, phải biết phát hiện những dấu
hiệu bất lọi về tâm lý học trò và có ngay những tác động uyên bác về mặt nâng đỡ tâm hồn con người để các trò vững vàng vào trận, kịp thời ngăn chặn
những hành vi thiếu chuẩn mực mà trò dự định tiến hành, những sa sút thi đấu
mà trò có thể mắc phải.
Cũng với thế, có người cũng gọi HLV là chính trị viên. Cách gọi này chỉ
đóng khi người chính trị viên thực sự là một nhà nhân học.
- Ba là, VĐV là những người non trẻ về mọi mặt, nhiều VĐV cũng ở tuổi
nhi đồng.
Điều này khiến cho Thầy không chỉ là Thầy dạy học mà cũng có phần là
Thầy - Cha - Mẹ của các VĐV. Họ không chỉ có dạy mà phải biết “dỗ” trò
học hành, tập luyện và vào trận với tầm thế phải thế nào. Họ không chỉ có dạy
chuyên môn cho Trò mà cũng phải như Cha - Mẹ dạy con cả lời ăn, tiếng nói, cách ngủ, cách thức, cách chọn bạn mà chơi.
Không ai dùng Hợp đồng thuê HLV để cột HLV vào các chức trách trên.
Nhưng, nếu HLV nào quên điều đó trong tiến trình dẫn dắt các học trò của mình,
họ nhất định thất bại. Những ý định mở lò để luyện cầu thủ từ tuổi măng non
chưa chắc đó thành công, nếu các lò đó chỉ chuyên luyện phần chuyên mà quên
luyện phần Người, phần Hồn. Mà không ai luyện phần Người, phần Hồn cho các VĐV tốt hơn là chính người luyện phần chuyên.
3.2.1.2. Những yêu cầu cụ thể về phẩm chất “Thầy” của HLV thể thao
Những gỡ, được coi là phẩm chất người Thầy của HLV thể thao Việt
Nam, mà chúng tôi nêu ra ở đây chỉ là những tiêu chí ngoài chuyên môn thể
thao. Bởi luận văn này không phải là một công trình về khoa học búng đá, bóng chuyền, Taekowndo, Karatedo hay Boxing, mà là công trình về khoa
học làm Thầy - HLV mà Nhà nước cần biết để lựa chọn. Những gỡ thuộc về
trình độ chuyên môn TDTT cụ thể của HLV cần có, cần được nghiên cứu ở
75
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
công trình thuộc mó ngành khoa học khác.
Trên giác độ đó, HLV thể thao Việt Nam trong tương lai cần phải là
những người có phẩm chất như sau:
- HLV tương lai của TDTT Việt Nam phải là người yêu Việt Nam và
biết riêng giá trị của TDTT đối với việc làm cho Việt Nam vững mạnh.
Chỉ có như thế họ mới là người đi đầu khai thác và gây dựng các bộ môn
thể thao mang hồn cốt văn hoá Việt Nam, mới làm TDTT không chỉ với mục
đích đi thi đấu với nước ngoài, mà cũng và chủ yếu là dựng lờn trên đất nước
Việt Nam một nền TDTT, có khả năng làm Đậm đà thêm bản sắc văn hoá
Việt Nam.
Những năm tiếp theo của thế kỷ 21, TDTT Việt Nam sẽ khó tránh khái
sức hút của đấu trường quốc tế. Và với thế, chỉ những môn thể thao nào có trong các chương trình thi đấu Olympic, sẽ mới có người dạy, người học. Đó
là điều đáng lo ngại.
Với thế, đất nước đang cần một thế hệ những người Thầy - HLV không
chỉ lo “bán chữ kiếm cơm” mà biết lo lôi cuốn đồng bào mình vào các môn
TDTT mang đậm bản sắc văn hoá Việt Nam, lo trau dồi nghề nghiệp để
truyền bá sâu sắc nghệ thuật TDTT dân tộc cho công đồng Việt Nam. Họ phải
thực sự là người đi gieo mầm cho những giống cây, đang có nguy cơ tuyệt
chủng.
Cũng chỉ với lòng yêu Việt Nam, những HLV có tài của những môn thể
thao quốc tế mà Việt Nam đang ở trình độ thấp, mới sẵn lòng chấp nhận huấn
luyện các VĐV Việt Nam bằng những kỳ công sư phạm để rút ngắn khoảng
cách giữa thể thao Việt Nam với thể thao quốc tế ở các môn này.
Có thể nêu một cách chắc chắn rằng, với các môn thể thao quốc tế, VĐV
Việt Nam chỉ có thể sánh vai được với bạn bè năm châu khi có một thế hệ
những HLV không sốt ruột về huy chương, cho Trò và cho Thày, không hám danh và lợi, chấp nhận hy sinh cả đời mình, kiên trì và có cách làm căn bản 76
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
trong việc gây dựng TDTT Việt Nam, giống như người Mẹ đầy lòng yêu
thương đứa con tật nguyền của mình, kiên trì, kiên nhẫn tập rèn cho nú trả lại
làm người khoẻ mạnh binh thường.
Rất tiếc, các HLV cho TDTT Việt Nam phần lớn là những người “ăn xổi
ở thì”, “bóc ngắn, cắn dài”, làm đủ mọi cách để tạo ra chiến thắng trước mắt, chưa có tầm nhìn xa để bồi dưỡng, huấn luyện VĐV một cách khoa học.
Vấn đề đặt ra để xảy ra tình trạng trên có phải lỗi hoàn toàn ở người HLV
hay do các nhà quản lý đặt ra chỉ tiêu thành tích quá cao cho thầy trò HLV,
VĐV phải đạt được.
- HLV tương lai của TDTT Việt Nam phải là một nhà sư phạm thực thụ
Chúng tôi đó nêu nhiều về nghề huấn luyện thể thao. Nghề TDTT khác
hẳn nghề công, nghề nông, những nghề mà đối tượng hành nghề là các vật tự nhiên. Nghề TDTT có đối tượng là con người, là đối thủ. Với thế nghề này
không dễ học. Cũng với thế, nghề huấn luyện VĐV cũng không dễ chút nào.
Trong sản xuất công nông nghiệp, bất kỳ người thợ lành nghề nào cũng
có thể truyền nghề được cho thợ bạn. Bởi với, cục sắt, con dao bào, dào tiện,
cỏi cầy, con lợn, cây lúa,... muôn đời nay vẫn vậy.
Nhưng trong hoạt động TDTT, nhất là trong thi đấu, đối thủ là con người
có trí tuệ, có ý chuẩn. Với thế, các đấu thủ tấn công được đối thủ đó khó,
chiến thắng được đối thủ càng khó hơn.
Trong làng võ, có một câu dạy của võ sư, rằng: “Đối với người quân tử,
trước kẻ thù chuẩn có vội cầm súng, cầm gươm. Điều quan trọng cần phải biết
là, kẻ thù là ai, nó từ đâu tới, nó muốn gỡ, nó đánh ta bằng cách nào”?
Những ông Thầy - Võ Sư biết để nói ra được câu hỏi đó đó khó. Những
ông Thầy -Võ Sư dạy ta trả lời được câu hỏi đó cũng khó hơn nhiều. Làm sao để trò tự biết được nó là ai, nó từ đâu tới, nó muốn gỡ, nó đánh ta bằng cách
nào?
77
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Yêu cầu HLV thể thao phải là một nhà sư phạm thực thụ chính là xuất
phát từ chỗ đó. Thầy - HLV không chỉ đưa ra đáp án cho các câu hỏi trên, mà
cũng dạy trò cách tỡm đáp án... Trên sân cỏ mênh mông, Thầy ngồi trên khán đài, cách trò 5-7 chục một, làm sao chỉ mặt kẻ thự cho trò, chỉ cho trò cách
đánh của đối thủ. HLV giỏi lắm cũng chỉ đoán được đấu pháp chung. Mỗi trò
phải biết thử nghiệm đối thủ để phát hiện cách đánh của đối thủ, từ đó mà vận
đóng bài để có đấu pháp mà chiến thắng.
Trình độ sư phạm của các Thầy - HLV cho TDTT Việt Nam chưa đạt tới
tầm, đủ làm cho trò biết tìm đáp án, mà mới chỉ cho trò các bài làm mẫu để
học trò chộp, nếu trùng đề.
HLV như thế chưa phải là thầy thực thụ, với chưa là nhà sư phạm. Có
phải cứ đá bóng giỏi là dạy được người khác đá bóng đâu. Biết bao người Việt nói tiếng Việt rất hay, nhưng mấy ai biết cách dạy người nước ngoài nói
tiếng Việt một cách nhanh chóng và chuẩn xác. Vậy yếu tố quan trọng là khi
lựa chọn HLV trước tiên là phải có khả năng sư phạm.
- HLV tương lai của TDTT VN phải là người có ý thức phỏp luật và
thực sự sống và làm việc theo pháp luật.
Điều này tưởng như bình thường, không có gì để nói. Nhưng trên lĩnh vực
TDTT, yêu cầu này đối với người Thầy là rất cần thiết.
Tất cả những hành vi gian lận trong thi đấu của VĐV khó qua mắt HLV.
HLV là người trao bài cho VĐV, HLV là người hiểu tính nết VĐV, HLV là
người quyết định số phận VĐV, ít ra là trong trận đấu, cao hơn là trong danh
sách đội tuyển. Nhưng VĐV dám làm điều đó bởi ít ra là họ coi thường tính
tôn nghiêm của người Thầy về mặt pháp luật, chưa nói rằng, chính Thầy bật
đèn xanh cho Trò gian lận trong thi đấu.
Bóng đá nói riêng, TDTT nói chung của Việt Nam đang rất cần những
người Thầy có phẩm chất này - sống và làm việc theo pháp luật.
- HLV tương lai của nền TDTT VN phải là một tấm gương trong sáng 78
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
về lối sống cá nhân.
Như đó nêu ở trên, do VĐV phần nhiều non trẻ, do cự ly và thời gian giao
tiếp Thầy - Trò trong làng thể thao là rất gần gũi, nên phần lớn Trò là “âm
bản” của Thầy. Chính ở quan hệ này, có thể vận câu “Rau nào sâu ấy”, “Cha
nào con ấy” để nói lên ảnh hưởng sâu đậm của Thầy - HLV đối với Trò - VĐV.
Và với thế, nhân cách của Thầy - HLV là một trong những yếu tố rất cần
được coi trọng trong xây dựng đội ngũ HLV thể thao Việt Nam trong thời đại
ngày nay.
3.2.2. Đội ngũ HLV thể thao Việt Nam phải đa dạng về thể loại
3.2.2.1. Các hướng đa dạng hóa
- Đa dạng về bộ môn TDTT, phù hợp với chiến lược phát triển hệ thống
các bộ môn TDTT ở nước ta, được lập ra trên cơ sở tính toán toàn diện lợi ích
quốc gia, không chỉ về thành tích thể thao mà cũng về nhiều lợi ớch khác.
- Đa dạng về nguồn quốc tịch, có HLV người Việt, có HLV người nước
ngoài, có HLV đến từ châu Âu, có HLV đến từ châu Á, nam Mỹ hoặc châu
Phi, được lựa chọn không chỉ xuất phát từ danh tiếng chuyên môn của cỏ
nhân họ mà cũng dựa trên nhiều bảo đảm khác từ đất nước họ, nhân dân họ,
từ thiện chí giữa nước ta và đất nước họ, nhân dân họ.
- Đa dạng về tư cách hành nghề: Có HLV hoạt động với tư cách chuyên
gia TDTT của Nhà nước, làm việc theo chế độ công chức, có HLV hoạt động
với tư cách của người hành nghề tự do.
3.2.2.2. Vì sao cần như vậy?
Chỉ có đội ngũ HLV, được cấu thành bởi nhiều thể loại như thế mới có thể
đáp ứng được nền TDTT của thời đại mới, với nhiều nét đặc biệt, mà chúng tôi
đó nêu ở mục “Căn cứ định hướng cho việc xây dựng đội ngũ HLV thể thao ở
79
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
nước ta” Cơ cấu đội ngũ HLV như thế trước hết đáp ứng được nhu cầu to lớn
và đa dạng của thị trường HLV. Đồng thời nó cũng đáp ứng được nhu cầu
HLV đỉnh cao cho nền TDTT thành tích cao của Việt Nam. Và chính sự đa dạng về thể loại của đội ngũ HLV là một môi trường cạnh tranh để phấn đấu
tồn tại và phát triển của bản thân mỗi HLV. Giúp HLV không ngừng học hỏi
phấn đấu nâng cao về mọi mặt giúp trình độ của HLV sẽ được nâng lên một
tầm cao mới.
3.2.3. Đội ngũ HLV thể thao Việt Nam phải đi trước về loại hình TDTT
cần có ở Việt Nam
3.2.3.1. Quan niệm về sự đi trước về loại hình
Đi trước về loại hình TDTT có nghĩa là, đội ngũ HLV có trước nhu cầu
huấn luyện về một môn thể thao nào đó. Chẳng hạn, ngay từ bây giờ, nhu cầu
HLV trượt băng, HLV Hokey chưa có ở Việt Nam, nhưng đó có HLV trượt
băng, HLV Hokey rồi, với biết rằng, nhiều người Việt rất thích chơi các môn này do họ từng sống và học tập ở châu Âu, bắc Mỹ, nhưng điều kiện đất nước
chưa cho phép. Trong tương lai không xa, khi mức sống của toàn Xã hội Việt
Nam cao lờn rồi, khi công dân chõu Âu, bắc Mỹ vào sống và làm việc ở Việt
Nam đông lên rồi, các sân băng trong nhà sẽ có thể được xây dựng tại các đô thị lớn. Khi đó sẽ có phong trào học trượt băng, học chơi Hokey, trước hết là
khởi nguồn từ giới thượng lưu, giống như giới những người chơi Golf hiện
nay.
3.2.3.2. Sự cần thiết của việc đi trước này
Sự “đi trước” này của giới HLV chính là sự chủ động đón đầu nhu cầu Xã
hội, là cách làm thụng thường của giới kinh doanh trong kinh tế khi họ dự
đoán “Cầu”. Sở dĩ cần chuẩn bị trước HLV với việc chuẩn bị HLV không thể
một sớm một chiều. Người Thầy của một bộ môn TDTT phải là người dạn
dày về chuyên môn và có thời gian tích đức của nghề. Nếu chờ cho nhu cầu
huấn luyện xuất hiện mới chuẩn bị HLV tất không trỏnh khái nạn “Thầy
rởm”. Một khi “Thầy rởm” gặp “Trò đua Đòi thời thượng” tất sẽ xuyên tạc vẻ
80
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
đẹp của một môn TDTT nào đó, như đó có trong lĩnh vực Dacing. Chưa nói
rằng, ở những bộ môn TDTT có chút mạo hiểm, “Thầy rởm” cộng với “Trò
đua Đòi” cũng có thể dẫn đến tai nạn chết người. Thiết nghĩ các trò trượt băng, đua ôtô địa hình,... là những môn thể thao hoàn toàn có thể dẫn đến
những tai nạn như thế, nếu Thầy và Trò là những người thiếu nghiêm chỉnh
trước môn học này.
3.2.4. Đội ngũ HLV thể thao Việt Nam phải là một bộ phận của lực
lượng khai thác và bảo tồn di sản văn hoá dân tộc dưới hình thức TDTT
Về giá trị văn hóa của TDTT, chúng tôi đó nêu và phân tích ở phần trên.
Vấn đề là, nếu không có người nghiên cứu, phục dung và truyền bá thì các bộ môn TDTT truyền thống này nhất định sẽ bị chỡm lấp cựng thời gian
và cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú như ngày nay.
Vấn đề là, ai sẽ là người có khả năng sưu tầm, lưu giữ và phục dung các
môn TDTT truyền thống dân tộc này.
Chắc chắn rằng đó có các nhà văn hóa dân gian làm việc này. Nhưng các
nhà văn hóa dân gian chỉ có thể sưu tầm, khảo cổ để mô tả. Vấn đề cao hơn
là, phải dựng lại hiện thực cổ và làm cho chúng sống lại với nhân dân hôm
nay. Việc làm ấy cần đến đội ngũ HLV.
Đội ngũ HLV này trước hết phải là các nhà sưu tầm, khảo cổ. Đồng thời
họ phải là những người thực hành, chứ không sưu tầm, khảo cổ để mô tả như
các nhà văn hóa dân gian.
Sau khi thực hành được, họ cũng có thiờn chức của cán bộ phong trào, đi
truyền dung các môn TDTT này trong dân chúng, từ trường học đến các lực lượng vũ trang.
Thiết nghĩ, đất nước ta trong tương lai có được một đội ngũ những người
làm được công việc như trên sẽ chẳng hữu ích lắm sao.
81
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
3.3. Phương hướng đào tạo và phát triển đội ngũ HLV thể thao Việt
Nam
Để có được một đội ngũ HLV thể thao cho TDTT tương lai của Việt Nam
như trên, công tác QLNN đối với TDTT nói chung, HLV thể thao nói riêng,
cần chuyển hướng và nâng cấp theo chiều hướng dưới đây:
3.3.1. Những nguyên tắc chung
QLNN đối với TDTT hoặc Đào tạo và phát triển đội ngũ HLV thể thao là
một bộ phận của QLNN nói chung, là một phần của toàn bộ công việc của bộ
máy hành chính nhà nước, nên nó cũng phải tuân theo các nguyên tắc chung,
đó được đề ra cho mọi hoạt động QLNN.
Đó là các nguyên tắc: Tập trung dân chủ, Kết hợp QLNN theo ngành và
theo lãnh thổ,...
Tuy nhiên, là một chuyên ngành, thậm chí, một bộ phận của chuyên
ngành TDTT, nên việc đổi mới QLNN đối với các HLV thể thao cần tuân thủ một số nguyên tắc đặc thù.
Từ kinh nghiệm quốc tế, từ thực tế thành công và thất bại trong việc đào
tạo, sử dụng và đãi ngộ HLV, chúng tôi thấy, giải pháp đào tạo và phát triển
đội ngũ HLV thể thao cần tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
3.3.2. Bổ sung những chính sách cụ thể
- Xây dựng cơ chế, chính sách đối với hoạt động và hưởng thụ TDTT của
nhân dân vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
- Xây dựng cơ chế, chính sách về Xã hội hóa các hoạt động TDTT. Áp
dụng mức thuế ưu đói nhằm khuyến khích, huy động các nguồn lực của nhân dân và Xã hội hỗ trợ, đầu tư vào lĩnh vực TDTT, dịch vụ TDTT (xây dựng
các công trình TDTT, sản xuất và lưu thông thiết bị, dụng cụ TDTT và đa
dạng hoá hình thức thi đấu TDTT.. .).
82
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
- Xây dựng cơ chế, chính sách ưu tiên về cho thuê đất và cơ sở hạ tầng
TDTT của Nhà nước.
- Xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan QLNN với các tổ chức Xã hội,
doanh nghiệp để phát triển TDTT.
- Xây dựng cơ chế, chính sách và kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao trong đội ngũ cán bộ, HLV, VĐV thành tích cao.
- Tăng cường đầu tư đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ thường xuyên cho
cán bộ TDTT cấp Xã, phường, thị trấn, đặc biệt chú trọng đến đối tượng các
Xã vùng sâu, vựng xa, biên giới, hải đảo.
- Cơ chế, chính sách về khen thưởng thoả đáng để động viên các hoạt
động của ngành nhất là phong trào “Khoẻ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” và
cuộc vận động "Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”.
- Xây dựng cơ chế, chính sách đối với VĐV thể thao thành tích cao, cán
bộ, HLV, trọng tài và chính sách thu hút tài năng thể thao; cơ chế, chính sách đối với VĐV thể thao thành tích cao có nhiều cống hiến cho đất nước sau khi
nghỉ thi đấu, hướng nghiệp.
3.3.3. Những khâu QLNN cụ thể cần tăng cường
3.3.3.1. Công tác định hướng phát triển TDTT
Hướng phát triển TDTT là Dự định về một tương lai của TDTT Việt
Nam, bao gồm những giá trị phải có, mô hình hoạt động TDTT các loại.
Đây là cơ sở để chính nhà nước có hướng đào tạo HLV, đồng thời cũng là
căn cứ để các chuyên gia TDTT lựa chọn con đường làm HLV cho mình, tìm
con đường tự đào tạo mình để hành nghề suốt đời.
3.3.3.2. Công tác chuẩn hóa HLV
Chuẩn hóa HLV là xây dựng một hệ tiêu chuẩn làm HLV.
83
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Việc làm này rất cần thiết. Một mặt, đó là định hướng cho những ai muốn
làm HLV thì phải phấn đấu. Mặt khác, đó là cơ sở pháp lý để các cơ quan
chức năng của Nhà nước kiểm tra sự hành nghề của các HLV, tránh tình trạng “thầy rởm”.
- Việc chuẩn hóa HLV phải đi kèm với việc cấp thẻ hành nghề HLV.
Người có thẻ hành nghề có được nơi nào thuê làm HLV hay không là do
thị trường quyết định. Nhưng chỉ những ai có thẻ hành nghề mới được ký hợp
đồng làm thuê huấn luyện cho người khác.
3.3.3.3. Khâu tổ chức đào tạo HLV
Nhà nước cần:
- Trực tiếp xây dựng các trung tâm đào tạo HLV, với trang thiết bị hiện
đại và mời các chuyên gia huấn luyện quốc tế làm thầy cho thầy tương lai.
- Có quy hoạch mang tính chất lâu dài đối với phát triển từng môn thể
thao trên tổng thể quy hoạch phát triển của toàn ngành TDTT để có kế hoạch
tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng HLV có chất lượng, phù hợp với nhu cầu phát
triển của từng môn thể thao và tránh được tình trạng hẫng hụt giữa các thế hệ
HLV.
- Gửi học viên đi học nước ngoài để đào tạo thầy cho tương lai dưới nhiều hình thức: Gửi tới các trung tâm đào tạo HLV của các cường quốc TDTT, gửi
làm trợ lý HLV cho các HLV giỏi ở các nước,..
- Trong đào tạo HLV, cần coi trọng toàn diện, bao gồm không chỉ chuyên
môn mà cả về phẩm chất chính trị, đạo đức, có nhiệt huyết sẵn sàng cống
hiến, phục vụ trong ngành, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế hội nhập nhanh
và toàn diện với khu vực và quốc tế.
- Tăng cường liên kết với các cơ sở đào tạo HLV nước ngoài để HLV
nước ta có cơ hội giao lưu, học hỏi kinh nghiệm chuyên môn và dần chuẩn
84
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
hoá đội ngũ HLV này.
3.3.3.4. Việc hỗ trợ các HLV hành nghề
Trong khâu này, cần đặc biệt quan tâm đến lực lượng HLV hành nghề tự
do, các Trung tâm huấn luyện không của nhà nước.
Việc hỗ trợ này nhằm giúp họ triển khai thuận lợi nghề nghiệp của họ, với
lợi ích Xã hội, lợi ích quốc gia.
Trong QLNN về kinh tế, Nhà nước thường hỗ trợ doanh nhân lập nghiệp
về ý chuẩn, về vốn, về hạ tầng cơ sở, về thông tin,.. Trong đối xử với các HLV hành nghề tự do, các Trung tâm huấn luyện thể thao không của Nhà
nước, Nhà nước cũng cần có hành vi hỗ trợ như thế.
Nội dung hỗ trợ có nhiều, rất đa dạng, tùy từng bộ môn mà họ là HLV.
- Môi giới việc làm;
- Tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật;
- Môi giới quan hệ quốc tế;
- Cung cấp thông tin TDTT quốc tế, liên quan đến hoạt động tiếp thị;
- Tổ chức các dịch vụ thể thao.
Nhưng tựu trung lại, sự hỗ trợ cần hướng vào các mặt sau:
3.3.4. Những giải pháp cơ bản để đào tạo và phát triển đội ngũ HLV thể thao Việt Nam
3.3.4.1. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng
Đào tạo và phát triển đội ngũ HLV thể thao Việt Nam hiện đại là vấn đề
đầu tư cơ bản. Nếu nền TDTT là một cái cây, thì đội ngũ HLV thể thao chính
là người trồng nên cây đó. Nếu đội ngũ này non tay, lạc hướng thì cây thể thao Việt Nam trồng nên sẽ không là cái cây mà ta mong muốn, không ra hoa
kết trái, không cả bóng mát.
85
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Việc đào tạo đội ngũ HLV cũng chẳng khác nào việc đào tạo đội ngũ
Thày giáo Việt Nam. Thậm chí, phải nói rằng, đó chính là một bộ phận của sự
nghiệp đào tạo đội ngũ Thầy giáo Việt Nam, là một bộ phận của sự nghiệp sư phạm. Với thế, nó cần được đặt ngang, đặt trong chương trình tổng thể của cải
cách giáo dục ở Việt Nam, trong đó có việc chấn chỉnh, hiện đại hóa và ưu
đói ngành sư phạm.
Với tầm vóc vấn đề như vậy, cần có một Nghị quyết của Ban bí thư Trung
ương Đảng về phát triển TDTT Việt Nam, trong đó vấn đề xây dựng đội ngũ
HLV thể thao cần được đề cập thành một chương mục của Nghị quyết này.
3.3.4.2. Bổ sung, đổi mới một số chính sách của Nhà nước
Cũng với cách nhỡn, cách đặt vấn đề về đội ngũ HLV như trên, Nhà nước
cũng cần có những động thái cần bản, ở tầm sau đây:
a.Chính phủ cần có chương trình tổng thể phát triển thể thao Việt Nam
trong dài hạn, trong đó thể hiện riêng:
- Những mục tiêu phát triển của thể thao Việt Nam đến năm 2020-2030.
- Mô hình thể thao Việt Nam và lộ trình thực hiện.
- Những tư tưởng lớn về chính sách nhằm đưa TDTT đạt được các mục
tiêu đó.
b, Chính phủ cần có những quyết định cụ thể về các mặt sau đây, liên
quan đến sự hành nghề của HLV
- Quyết định về quyền hành nghề HLV tự do
Văn kiện này sẽ tạo cơ sở pháp lý để những cán bộ, công chức giỏi nghề
huấn luyện nhưng không phát huy được tài năng, do cơ chế quản lý cán bộ,
công chức, có thể rời bỏ cơ quan nhà nước ra hoạt động tự do, tránh tình trạng
“công tư lẫn lộn” như một số HLV hiện nay.
86
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Một khi HLV hoạt động tự do, QLNN mới dễ đối xử về mặt pháp luật.
- “Quyết định về việc xây dựng các trung tâm huấn luyện TDTT tư
nhân trong và ngoài nước
Đây là loại quyết định rất cần có hiện nay. Trong giáo dục phổ thông, cao
đẳng, đại học, dạy nghề,.. Nhà nước đó cho phép lập trường tư. Trên lĩnh vực
vực dạy nghề TDTT cũng cần được quản lý như vậy.
Khi các Trung tâm này ra đời, họ sẽ làm hai chức năng: Vừa đào tạo cơ
bản, vừa cung cấp HLV cho các câu lạc bộ TDTT, các cơ quan cần HLV
phong trào, các đội thể thao tự do cần Thầy huấn luyện.
Đồng thời, qua Trung tâm, việc quản lý bằng pháp luật đối với các HLV
sẽ tốt hơn là để các HLV hoạt động tự do.
- Quyết định về chế độ công chức công vụ riêng đối với HLV thể thao là
viên chức nhà nước
Hiện nay, không riêng trong hoạt động huấn luyện thể thao, trong nhiều
lĩnh vực văn học nghệ thuật, nghiên cứu khoa học, nhiều người là cán bộ,
công chức nhưng trong chức trách công vụ của họ không riêng đâu là việc cơ
quan, đâu là việc làm thêm kiếm tiền. Nhiều người vẫn hưởng lương nhà
nước đầy đủ, nhưng công việc của họ thì chủ yếu là thực thi các hợp đồng cá
nhân trực tiếp, với mức thù lao mà tiền lương chỉ là số lẻ.
Với thế, Chính phủ cần có một văn bản để minh bạch hóa điều này.
- Quyết định về phong danh hiệu đối với HLV thể thao
Như đó trình bày ở trên, nghề huấn luyện thể thao cũng cần đặt ngang
hàng với nghề dạy học. Vậy mà, có Nhà giáo ưu tú, hay Nghệ sĩ nhân dân trong lĩnh vực văn hoá, nhưng hiện nay chưa có một văn bản pháp lý nào
công nhận hoặc phong danh hiệu cao quý đối với những HLV lập thành tích
đặc biệt xuất sắc. Với vậy, cần bổ sung ngay một quyết định về vấn đề này để
87
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
đảm bảo công bằng cho các HLV, đồng thời đây cũng là nguồn động viên,
động lực thúc đẩy cho các HLV tiếp tục phấn đấu cho sự nghiệp TDTT của
nước nhà.
88
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
Phụ lục 1
Số lượng huấn luyện viên thể thao trên toàn quốc
Tính đến ngày 31/12/2012
Ngành khác Tổng số Bộ quản lý
Huấn luyện STT Tên tỉnh Huấn luyện viên viên
T.Số T. Số T Số T đó: Nữ T đó: Nữ T đó: Nữ
B 1 2 3 4 5 6 A
CẢ NƯỚC 2955 1103 2790 1078 168 25
Đồng bằng 999 307 917 297 10 82 I sông Hồng
Hà Nội 364 169 309 161 8 55 1
Vĩnh Phúc 24 2 24 2 0 0 2
Bắc Ninh 44 2 44 2 0 0 3
Hải Dương 34 1 34 1 0 0 4
Hải Phòng 176 15 176 15 0 0 5
Hưng Yên 92 15 65 13 2 27 6
Thái Bình 60 22 60 22 0 0 7
Hà Nam 44 20 44 20 0 0 8
Nam Định 110 36 110 36 0 0 9
10 Ninh Bình 51 25 51 25 0 0
II Đông Bắc 371 87 351 80 7 20
11 Hà Giang 24 0 24 0 0 0
Cao Bằng 16 5 16 5 0 0 12
Bắc Kạn 28 6 28 6 0 0 13
Tuyên Quang 13 3 13 3 0 0 14
Lào Cai 12 2 12 2 0 0 15
89
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
34 16 Yên Bái 46 46 34 0 0
6 Thái Nguyên 17 26 26 6 0 0
9 Lạng Sơn 18 31 31 9 0 0
19 Quảng Ninh 102 20 13 20 82 7
2 20 Bắc Giang 45 45 2 0 0
0 21 Phú Thọ 28 28 0 0 0
15 III. Tây Bắc 92 89 11 6 4
1 22 Điện Biên 11 11 1 0 0
1 23 Lai Châu 10 13 1 0 0
1 24 Sơn La 35 35 1 0 0
12 25 Hòa Bình 36 30 8 6 4
IV Bắc Trung Bộ 270 255 15 40 36 4
10 26 Thanh Hóa 56 56 10 0 0
5 27 Nghệ An 42 42 5 0 0
1 28 Hà Tĩnh 41 41 1 0 0
6 29 Quảng Bình 76 62 2 14 4
15 30 Quảng Trị 23 22 15 1 0
Thừa Thiên - 3 31 32 32 3 0 0 Huế
Duyên hải
0 0 V Nam Trung 213 17 213 17
Bộ
7 32 Đà Nẵng 49 49 7 0 0
2 33 Quảng Nam 22 22 2 0 0
1 34 Quảng Ngãi 52 52 1 0 0
1 35 Bình Định 46 46 1 0 0
1 36 Phú Yên 16 16 1 0 0
5 37 Khánh Hòa 28 28 5 0 0
5 VI Tây Nguyên 79 76 5 3 0
0 38 Kon Tum 10 10 0 0 0
1 39 Gia Lai 20 20 1 0 0
90
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
20 1 0 0 40 Đắk Lắk 20 1
8 0 0 0 41 Đắc Nông 8 0
8 0 0 0 42 Lâm Đồng 21 0
VII Đông Nam Bộ 547 581 505 581 42 0
15 3 0 0 43 Ninh Thuận 15 3
13 1 36 0 Bình Thuận 44 49 1
44 0 0 0 Bình Phước 45 44 0
55 3 0 0 Tây Ninh 46 55 3
42 0 1 0 Bình Dương 47 43 0
44 6 0 0 48 Đồng Nai 44 6
Bà Rịa-Vũng 41 0 5 0 49 46 0 Tàu
TP. Hồ Chí 0 0 251 568 251 568 50 Minh
Đồng bằng
VIII sông Cửu
0 0 Long 384 51 384 51
23 9 0 0 51 Long An 23 9
52 3 0 0 52 Tiền Giang 52 3
44 2 0 0 53 Bến Tre 44 2
17 1 0 0 54 Trà Vinh 17 1
39 0 0 17 17 55 Vĩnh Long 39
49 2 0 0 56 Đồng Tháp 49 2
30 4 0 0 57 An Giang 30 4
21 4 0 0 58 Kiên Giang 21 4
28 1 0 0 59 Cần Thơ 28 1
28 0 0 0 60 Hậu Giang 28 0
9 2 0 0 61 Sóc Trăng 9 2
26 4 0 0 62 Bạc Liêu 26 4
18 2 0 0 63 Cà Mau 18 2
91
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thư Trung ương Đảng, Chỉ thị số 36/CT-TW ngày 24/3/1994 về
công tác TDTT trong giai đoạn mới.
2. Ban Bí thư Trung ương Đảng, Chỉ thị số 17/CT-TW ngày 23/10/2002
về phát triển ngành TDTT đến năm 2010.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Các Nghị quyết của Trung ương Đảng 1996
- 1999, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2000.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2006.
5. Cơ sở khoa học của quản lý, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 1997.
6. Đề tài KHCN cấp nhà nước "Vai trò của giáo dục thể chất và hoạt
động TDTT trong sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam, mã số KX 07 - 06, Hà nội 1995, tr 83.
7. Harold Koontz Cyril O’donnell Heinz Weihrich, Những vấn đề cốt yếu
của quản lý , Nxb khoa học và kỹ thuật, Hà Nội -1992.
8. Luật Thể dục, thể thao và các văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Thể
dục thể thao, Hà Nội - 2007.
9. Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn, Lý luận và phương pháp TDTT, Nxb,
Thể dục thể thao, Hà Nội - 2006.
10. Nguyễn Tóan, Cơ sở lý luận và phương pháp đào tạo VĐV, Nxb Thể
dục thể thao, Hà Nội - 1998.
11. Phạm Đình Bẩm, Nguyễn Tuấn Hiếu, Quản lý TDTT, Nxb Thể dục
thể thao, Hà Nội - 2008.
12. TDTT và lối sống lành mạnh, Nxb Thể dục thể thao, Hà Nội - 1995.
92
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
13. Tuyển tập nghiên cứu khoa học TDTT, Nxb Thể dục thể thao, Hà Nội,
năm 2006, tr 348 - 352.
14. Trương Quốc Uyên, Chủ tịch Hồ Chí Minh với TDTT, Nxb Thể dục
thể thao, Hà Nội, năm 2003.
15. Ủy ban thể dục Thể thao, 60 năm Thể dục Thể thao Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Nxb Thể dục Thể thao, Hà Nội - 2006.
16. Ủy ban Thể dục Thể thao, Kỷ yếu Đại hội đại biểu Đảng bộ cơ quan
uỷ ban Thể dục Thể thao tiến tới Đại hội X của Đảng, Nxb Thể dục Thể thao,
Hà Nội - 2006.
17. Uỷ ban Thể dục Thể thao, Một số văn bản quy phạm phỏp luật về Thể
dục Thể thao năm 2004, Nxb Thể dục Thể thao, Hà Nội - 2004.
18. Ủy ban Thể dục Thể thao, Thể thao Việt Nam con số và sự kiện 2005,
Nxb Thể dục Thể thao, Hà Nội - 2005.
19. Tô Tử Hạ, Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ công chức
hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2010.
20. Võ Kim Sơn, Quản lý nguồn nhân lực trong các cơ quan quản lý hành
chính nhà nước, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội – 2002
21. Quyết định 2198/QĐ-TTg ngày 03 tháng 12 năm 2010 về việc về phê
duyệt Chiến lược phát triển thể dục thể thao Việt Nam 2020
93
Học viên: Phạm Quế Anh Lớp 10BQTKDCB 2010-2012
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
94