VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHI
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO PHÁP LUẬT
ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VÂN ĐỒN,
TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHI
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO PHÁP LUẬT
ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VÂN ĐỒN,
TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa sử dụng để bảo vệ bất cứ luận văn của một học vị nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan trên.
Hà Nội, ngày tháng 6 năm 2019
Tác giả
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
ĐẤT ĐAI .......................................................................................................... 7
1.1. Lý luận về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai ..................... 7
1.2. Lý luận về pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai .................................. 16
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI HUYỆN VÂN ĐỒN,
TỈNH QUẢNG NINH .................................................................................... 28
2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai ............................. 28
2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng
Ninh ................................................................................................................. 35
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG
NINH .............................................................................................................. 60
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và nâng
cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
......................................................................................................................... 60
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và nâng
cao hiệu quả thi hành tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh .......................... 63
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Công tác GQTCĐĐ của UBND huyện và UBND các xã thị trấn
trên địa bàn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh .................................... 37
Bảng 2.2. Công tác GQTCĐĐ thông qua TAND huyện Vân Đồn,
Quảng Ninh .......................................................................................... 41
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
GCNQSDĐ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
GQTCĐĐ Giải quyết tranh chấp đất đai
HĐND Hội đồng nhân dân
TAND Tòa án nhân dân
TCĐĐ Tranh chấp đất đai
UBND Ủy ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tranh chấp đất đai (TCĐĐ) là một hiện tượng phát sinh trong đời sống
xã hội, ở mọi quốc gia và mọi thời kỳ, không phụ thuộc vào chế độ sở hữu đất
đai. Ở Việt Nam, sự kiện Bộ Tài nguyên - Môi trường từng đề xuất thành lập
một cơ quan tài phán chuyên trách để giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện về
đất đai đã phần nào cho thấy tính chất nghiêm trọng của vấn đề. Có rất nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, mà một trong số đó chính là do quy định
của pháp luật về vấn đề TCĐĐ trong thời gian qua còn nhiều bất cập, hạn chế.
Trong thời gian vừa qua, Nhà nước ta đã cố gắng trong việc giải quyết
các TCĐĐ nhằm ổn định tình hình chính trị - xã hội. Hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật đất đai ngày càng được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện,
trong đó có quy định thẩm quyền GQTCĐĐ thuộc thẩm quyền của Ủy ban
nhân dân (UBND) và Tòa án nhân dân (TAND). Tuy nhiên, các quy định về
thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai (GQTCĐĐ) mới chỉ dừng lại ở mức
độ chung chung, nên thực tiễn dẫn đến sự chồng chéo, đùn đẩy giữa UBND
và TAND. Do đó tình hình GQTCĐĐ của các cơ quan hành chính và TAND
trong những năm qua vừa chậm trễ, vừa không thống nhất.
Qua nghiên cứu thực tiễn giải quyết các tranh chấp dân sự hiện nay,
việc GQTCĐĐ được các chủ thể liên quan đánh giá là dạng tranh chấp khó
khăn, phức tạp nhất, có liên quan đến nhiều vấn đề nhất. Do đó, việc nghiên
cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật về đất đai, thẩm quyền
GQTCĐĐ của các cơ quan có thẩm quyền (qua thực tiễn tại huyện Vân Đồn)
trong những năm gần đây, trên cơ sở đó nhằm đề xuất những kiến nghị, bổ
sung chính sách, pháp luật về đất đai và đưa ra hướng giải quyết các TCĐĐ
một cách hợp lý, có hiệu quả, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho công
1
dân là việc làm có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn hiện nay.
Với nhận thức như vậy, tôi đã lựa chọn đềtài:“Giải quyết tranh chấp đất đai
theo pháp luật đất đai ở Việt Nam từ thực tiễn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng
Ninh” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xoay quanh chủ đề giải quyết tranh chấp đất đai theo pháp luật Việt
Nam,trong quá trình nghiên cứu tác giả đã tìm thấy nhiều công trình nghiên
cứu, bài viết có liên quan, với nhiều cách viết và tiếp cận khác nhau, trong đó
có các công trình sau đây:
Luận văn Tiến sĩ Luật học, “TCĐĐ và GQTCĐĐ bằng tòa án ở nước
ta” của tác giả Mai Thị Tú Oanh, được thực hiện tại Học viện Khoa học xã
hội Việt Nam năm 2013 đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
TCĐĐ và GQTCĐĐ thông qua tòa án, trên cơ sở phân tích và làm rõ những
vấn đề nghiên cứu của thực trạng, đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp
luật và tổ chức thực hiện pháp luật về GQTCĐĐ ở Việt Nam trong giai đoạn
05 năm tiếp theo [25].
Luận văn Thạc sĩ Luật học, “GQTCĐĐ theo thủ tục hành chính trong
vùng đồng bào dân tộc trên địa bàn tỉnh An Giang” của tác giảNguyễn Thành
Đoàn, được thực hiện tại Trường Đại học Luật TP.HCM năm 2009, tác giả đã
trình bày được Cơ sở lí luận và pháp lí GQTCĐĐ theo thủ tục hành chính.
Thực trạng giải quyết ranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính đối với đồng
bào dân tộc trên địa bàn tỉnh An Giang và một số giải pháp nâng cao hiệu quả.
Đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả việc giải quyết tranh chấp đối với
đồng bào dân tộc, góp phần đảm bảo an ninh chính trị và phục vụ yêu cấu
phát triển kinh tế xã hội [9].
Ngoài ra tác giả còn tìm thấy một số bài viết đăng trên tạp chí khoa học
2
có liên quan đến đề tài như:
Đỗ Thị Hằng, Những bất cập về hòa giải cơ sở trong GQTCĐĐ theo
Luật đất đai 2013, Thanh tra, Thanh tra chính phủ số 05/2016, tr. 20-236.
Nguyễn Vinh Diện, Một số điểm mới về GQTCĐĐ theo Luật đất đai
năm 2013, Dân chủ & Pháp luật, Bộ Tư pháp, số 11(272), tr. 37-398.
Đặng Thị Phượng, Thẩm quyền GQTCĐĐ của Tòa án theo Luật Đất
năm 2013, TAND, TAND tối cao, số 6/2014 trang 11-1611.
Qua nghiên cứu các công trình đã thực hiện trước đây liên quan đến
GQTCĐĐ, học viên nhận thấy, những kết quả nghiên cứu của các công trình
này đã giúp cho tác giả thu thập có được thông tin đa dạng với nhiều góc độ
tiếp cận khác nhau về GQTCĐĐ của các cấp có thẩm quyền. Đây là những tài
liệu bổ ích để học viên tham khảo để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
GQTCĐĐ, đánh giá thực trạng GQTCĐĐ tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng
Ninh, qua đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đất đai và cơ chế
áp dụng pháp luật để giải quyết có hiệu quả hơn các vụ TCĐĐ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn (thông qua nghiên cứu tình hình tranh chấp đất đai và giải quyết
tranh chấp đất đất đai tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh), từ đó, đưa ra các
giải pháp hoàn thiện pháp luật về GQTCĐĐ và nâng cao hiệu quả GQTCĐĐ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài luận văn đưa ra
những nhiệm vụ nghiên cứu cần thực hiện cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật GQTCĐĐ tham chiếu
với hoạt động GQTCĐĐ của các cơ quan hành chính và hoạt động xét xử của
3
TAND thông qua việc giải quyết những vấn đề cụ thể sau: Phân tích khái
niệm và đặc điểm của TCĐĐ; các dạng TCĐĐ; nguyên nhân của TCĐĐ.Phân
tích khái niệm GQTCĐĐ và pháp luật GQTCĐĐ; ý nghĩa của quan hệ pháp
luật vềGQTCĐĐ; các nguyên tắc GQTCĐĐ; cơ cấunội dung pháp luật về
GQTCĐĐ, các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật GQTCĐĐ.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về GQTCĐĐ và thực tiễn
thực hiện của cơ quan quản lý hành chính và tại TAND huyện Vân Đồn,
tỉnh Quảng Ninh.
- Đề xuất và nghiên cứu định hướng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện
pháp luật về GQTCĐĐ và nâng cao hiệu quả thi hành từ thực tiễn huyện Vân
Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật Việt
Nam về GQTCĐĐ và kết quả thực hiện pháp luật về GQTCĐĐ thông qua cơ
quan hành chính và TAND huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
Việc GQTCĐĐ ở huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh hiện nay, tùy theo
loại vụ việc, thuộc thẩm quyền giải quyết tại cơ quan hành chính và cơ quan
tư pháp giải quyết.
Khi khảo sát thực tiễn tổ chức thực hiện và thực tiễn vụ việc, luận văn
chỉ phân tích thực tiễn và các vụ việc TCĐĐ được giải quyết tại huyện Vân
Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
Các thông tin, số liệu thu thập trong luận văn là những thông tin, số liệu
từ khi Luật Đất đai 2013 có hiệu lực (năm 2014) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài, trong quá trình nghiên
cứu, phân tích và làm rõ các nhiệm vụ, luận văn đã vận dụng hợp lýcơ sở lý
4
luận của các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lê nin
với phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là cơ sở để tiến hành nghiên
cứu lý luận, phân tích thực trạng và đề xuất các giải pháp phù hợp.
- Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
cụ thể sau:
i) Phương pháp phân tích được sử dụng khi nghiên cứu Chương 1.
Những vấn đề lý luận pháp luật về GQTCĐĐ ở Việt Nam.
ii) Phương pháp diễn giải, phương pháp phân tích kết hợp với luận giải
được sử dụng nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả thi hành pháp
luật về GQTCĐĐ tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh; yêu cầu của áp dụng
pháp luật về GQTCĐĐ từ hoạt động xét xử của TAND…
iii) Phương pháp bình luận, phương pháp đánh giá, phương pháp so
sánh, phương pháp nghiên cứu hệ thống… được sử dụng khi đánh giá thực
trạng thi hành pháp luật về GQTCĐĐ tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
iv) Phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp… được sử dụng khi
đề cập định hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về
GQTCĐĐ tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
v) Phương pháp lập luận logic các luận điểm, luận cứ được sử dụng khi
nghiên cứu đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật về GQTCĐĐ tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Đề tài nghiên cứu này được thực hiện dựa trên cơ sở phân tích đánh giá
thực trạng về GQTCĐĐ ở huyện Vân Đồn. Trên cơ sở đó chỉ ra những bất
cập, tồn tại của pháp luật đất đai hiện hành về thẩm quyền và thủ tục
GQTCĐĐ; đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về GQTCĐĐ
nhằm đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của
5
Việt Nam.
Các kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn cũng như các giải pháp
được đề xuất của đề tài này có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ
sở đào tạo và nghiên cứu luật học tại Việt Nam. Một số kiến nghị được tác giả
đề xuất khi làm rõ các nguyên nhân của hạn chế đề tài có giá trị tham khảo
đối với cơ quan xây dựng và thực thi pháp luật về đất đai nói chung, pháp luật
về GQTCĐĐ nói riêng ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về GQTCĐĐ và về pháp luật
GQTCĐĐ;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về GQTCĐĐ và thực tiễn thực hiện tại
huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh;
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về GQTCĐĐ từ thực tiễn tại huyện Vân Đồn,
6
tỉnh Quảng Ninh.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT
ĐAI VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
1.1. Lý luận về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên nhân và phân loại các tranh chấp
đất đai
1.1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai
Đất đai là một loại tài sản quý giá, một tài nguyên do thiên nhiên ban
tặng cho con người. Vì lẽ đó, có thể nói việc hưởng lợi từ đất đai trao cho, đất
đai có vị trí là một đối tượng quan trọng trọng bậc nhất của quyền sở hữu.
Cũng vì thế mà TCĐĐ đã trở thành một trong những hiện tượng xảy ra trong
bất kỳ một quốc gia và ở bất kỳ một thể chế chính trị nào [49, tr.8].
Trong ngôn ngữ thông thường của cuộc sống hàng ngày, tranh chấp
được hiểu là sự giành nhau một cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào.
TCĐĐ là tranh chấp có đối tượng tranh chấp là đất đai. Nếu coi đối tượng của
tranh chấp là đất đai thì TCĐĐ cũng có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác
nhau [63, tr.512].
Nếu hiểu theo nghĩa rộng, TCĐĐ là sự mâu thuẫn, bất đồng trong việc
xác định quyền sở hữu, quản lý hoặc quyền sử dụng đất đai. Tranh chấp này
có thể được phát sinh trực tiếp hoặc phát sinh một cách gián tiếp trong quá
trình các bên tranh chấp quản lý và sử dụng đất đai [23, tr.17].
Nghiên cứu dưới góc độ hẹp hơn thì TCĐĐ được hiểu là tranh chấp
phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền và
nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai [23, tr.18].
Trong xã hội tồn tại lợi ích giai cấp đối kháng thì TCĐĐ mang màu sắc
7
chính trị, đất đai luôn là đối tượng tranh chấp giữa giai cấp bóc lột và giai cấp
bị bóc lột, việc giải quyết triệt để các TCĐĐ ở các xã hội được thực hiện bằng
một cuộc cách mạng xã hội.
Theo quy định mới nhất tại Điều 3, Luật Đất đai năm 2013, khái
niệm TCĐĐ đã được kế thừa và phát triển và được hiểu là tranh chấp về
quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan
hệ đất đai [32].
Từ nội dung khái niệm và các quan điểm về TCĐĐ, chúng ta có thể
nhận định rằng khi các bên xảy ra tranh chấp mà không thể cùng nhau tự giải
quyết các tranh chấp đó mà phải yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phán xử
nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các bên trong tranh chấp. Trong phạm
vi luận văn, tác giả sử dụng khái niệm TCĐĐ của Luật Đất đai năm 2013 [6].
1.1.1.2. Đặc điểm tranh chấp đất đai
Là một dạng đặc biệt và phổ biến của tranh chấp dân sự, TCĐĐ vừa
chứa đựng những đặc điểm chung của một tranh chấp dân sự, đồng thời lại
vừa có những đặc điểm đặc trưng riêng khác với các tranh chấp dân sự, tranh
chấp lao động, tranh chấp kinh doanh, thương mại khác... mà những đặc điểm
này sẽ giúp các nhà làm luật, nhà nghiên cứu và những người quan tâm có thể
dễ dàng hơn trong tiếp cận và tiềm hiểu về TCĐĐ có thể chỉ ra những điểm
khác biệt chủ yếu sau đây:
Một là, xét về chủ thể tranh chấp, TCĐĐ chỉ xuất hiện giữa các chủ thể
có quyền quản lý và quyền sử dụng đất chứ không phải là các chủ thể của của
quyền sở hữu đất đai. Bởi lẽ, ở Việt Nam, quyền sở hữu đất thuộc về toàn dân
do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu. Các chủ thể được Nhà nước giao cho
quyền sử dụng đất được xác lập trên cơ sở được nhà nước trao quyền sử dụng
đất (thông qua quyết định giao đất, hợp đồng cho thuê đất của Nhà nước hoặc
được Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với diện tích đất
8
đang sử dụng) hoặc được Nhà nước cho phép nhận chuyển nhượng từ các chủ
thể khác theo quy định của pháp luật về đất đai hiện hành. Vì thế, chủ thể của
TCĐĐ là người sử dụng đất (các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân) tham gia vào
tranh chấp đó với tư cách là những người được trao quyền quản lý hoặc trao
quyền sử dụng đất [6].
Hai là, so với các loại tranh chấp khác, TCĐĐ có nội dung rất đa dạng
và phức tạp. Điều này xuất phát từ việc trong nền kinh tế thị trường, các hoạt
động quản lý và sử dụng đất ngày càng trở nên rất đa dạng, phong phú do đất
đai được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, với diện tích, nhu cầu sử
dụng khác nhau [23].
Ba là, khi xảy ra TCĐĐ thì sẽ ảnh hưởng đến các biên liên quan và có
thể làm phát sinh những hậu quả xấu về nhiều mặt trong mối quan hệ này
như: làm mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân, phá vỡ trật tự quản lý đất đai,
gây đình trệ sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích không những của bản
thân các bên tranh chấp mà còn gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và xã
hội. Hơn thế nữa, khi nghiên cứu thực tiễn các vụ án về TCĐĐ, có thể thấy
các vấn đề này còn có thể gây mất ổn định về chính trị, phá vỡ mối quan hệ
xã hội của địa phương, đất nước [23].
Bốn là, TCĐĐ có đối tượng là quyền quản lý và quyền sử dụng đất. đất
đai là loại tài sản đặc biệt không thuộc quyền sở hữu của các bên tranh chấp
mà thuộc quyền sở hữu của Nhà nước.
1.1.1.3. Nguyên nhân của tranh chấp đất đai
(1) Nguyên nhân khách quan
Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự thay đổi cơ
chế quản lý làm cho đất đai ngày càng trở nên có giá trị đã tác động đến tâm
lý của nhiều người dẫn đến tình trạng tranh chấp, đòi lại nhà, đất mà trước đó
đã bán, cho thuê, cho mượn, đã bị tịch thu hoặc giao cho người khác sử dụng
9
hoặc khi thực hiện một số chính sách về đất đai ở các giai đoạn trước đây mà
không có các văn bản xác định việc sử dụng đất ổn định của họ. Những tổ chức
đó bao chiếm quá nhiều diện tích đất nhưng sử dụng lại kém hiệu quả [49].
Đất nước ta trải qua thời gian chiến tranh kéo dài, gây xáo trộn lớn về
nơi cư trú cùng với những chính sách đất đai khác nhau áp dụng của từng thời
kỳ, đã dẫn đến những biến động lớn về chủ sử dụng đất. Mặc dù Luật Đất đai
năm 1993 và 2003 đã quy định, Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất
Nhà nước đã quản lý và giao cho người khác sử dụng nhưng nhiều trường hợp
vẫn tranh chấp, khiếu nại đòi lại đất cũ.
(2) Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, về hệ thống ván bản quản lý: Hệ thống chính sách, pháp luật
về đất đai thiếu đồng bộ, thiếu cụ thể phù hợp với địa phương này nhưng
không phù hợp với địa phương khác và thường xuyên thay đổi, từ đó dẫn đến
có một số trường hợp áp dụng pháp luật một cách tùy tiện hoặc thiếu khách
quan, không quan tâm đầy đủ đến quyền lợi của người sử dụng đất, gây nên
những bức xúc. Mặt khác, chính sách, pháp luật đất đai từng bước thay đổi
theo chiều hướng ngày càng quan tâm đến lợi ích chính đáng của người sử
dụng đất, từ đó tạo ra sự suy bì, nhất là trong chính sách bồi thường, giải
phóng mặt bằng. Hơn nữa, việc giao đất lại không được tiến hành theo một
quy trình chặt chẽ, nên hồ sơ đất đai không đồng bộ và bị thất lạc. Chưa kịp
thời ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành để cụ thể hóa các văn bản qui
phạm pháp luật đất đai đã giao quyền cho địa phương; chưa đầu tư kinh phí
thỏa đáng để xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính, đảm bảo quản lý chặt chẽ
đối với từng thửa đất; công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn
chậm, công tác thanh tra, kiểm tra về đất đai còn hạn chế, việc tuyên truyền,
10
phổ biến pháp luật về đất đai chưa kịp thời, thường xuyên.
Thứ hai, về công tác cán bộ thực hiện công vụ liên quan đến đất đai
Đất đai là vấn đề phức tạp, đã và đang phát sinh nhiều khiếu kiện, giải
quyết một vụ việc cần phải có một khoảng thời gian nhất định, phải có các
bước cụ thể. Vì vậy, cần phải có đội ngũ những người am hiểu pháp luật, có
nghiệp vụ chuyên sâu và làm việc chuyên trách. Nhưng, lực lượng làm công
tác giải quyết khiếu nại, tranh chấp đất đai ở địa phương hiện nay phần lớn là
kiêm nhiệm. Khiếu nại về đất đai chủ yếu xảy ra ở cấp huyện nhưng bộ máy
làm công tác ở cấp này lại không tương xứng. Đây là nguyên nhân chủ yếu
dẫn đến tình trạng giải quyết khiếu nại, tranh chấp về đất đai chậm chạp, thiếu
chất lượng, tái khiếu nhiều, công dân phát sinh đơn vượt cấp.
Thứ ba, về đường lối chính sách đất đai: Chính sách đất đai và các
chính sách khác có liên quan đến đất đai hiện nay của nước ta chưa đồng bộ,
có mặt không rõ ràng và đang còn biến động và phức tạp. Thực tế áp dụng các
chính sách đất đai còn tùy tiện dẫn đến tình trạng: Người có khả năng sản
xuất nông nghiệp thì thiếu ruộng đất, ngược lại, người có ruộng lại không có
khả năng hoặc nhu cầu sản xuất, để đất đai hoang hóa hoặc sử dụng đất kém
hiệu quả. Tình trạng người nông dân phải ra các đô thị bán sức lao động, gây
mất ổn định cơ cấu lao động sản xuất cũng có nguyên nhân từ việc thiếu đất
để sản xuất. Thực tiễn đã chứng minh những sai lầm trong phong trào hợp tác
hóa nông nghiệp như nóng vội, gò ép, đưa quy mô hợp tác xã nhỏ lên quy mô
lớn không phù hợp với trình độ năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ, đặc biệt
là đội ngũ cán bộ cơ sở đã dẫn đến hậu quả là đất đai sử dụng bừa bãi, lãng
phí và kém hiệu quả. Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp
được đổi mới, người sử dụng đất có nhu cầu sử dụng đất ngày càng cao, đòi
hỏi phải có một diện tích đất nhất định để sản xuất. Do đó đã xuất hiện tư
tưởng đòi lại đất để sản xuất. Chính sách đất đai chưa phù hợp, chậm đổi mới
11
đã tạo cơ sở cho việc lấn chiếm đất đai diễn ra khá phổ biến, song chưa được
giải quyết và xử lý kịp thời. Sự không đồng nhất về cơ chế chính sách, về bồi
thường hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở từng thời điểm khác
nhau trên cùng địa bàn, không chấp hành đúng hoặc chưa đầy đủ qui định về
trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường, tái định cư. Bên cạnh đó, một số bộ
phận làm công tác bồi thường, cán bộ địa chính không nắm vững chính sách,
pháp luật đất đai nên quá trình thực hiện các bước trong công tác bồi thường,
giải phóng mặt bằng người dân chưa thỏa mãn, còn nghi ngờ dẫn đến phát
đơn khiếu kiện [49].
Thứ tư, về công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật về đất
đai: Công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật đất đai hiện nay
mặc dù đã được triển khai nhưng chưa được coi trọng, làm cho nhiều văn bản
pháp luật đất đai của Nhà nước chưa được phổ biến sâu rộng trong nhân dân
để giúp cán bộ, nhân dân nhanh chóng cập nhật kiến thức về pháp luật liên
quan.
1.1.1.4. Phân loại tranh chấp đất đai
Theo Khoản 24, Điều 3, Luật Đất đai 2013 thì TCĐĐ là tranh chấp về
quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ
đất đai. Trong khái niệm này chúng ta cần lưu ý: đối tượng của TCĐĐ không
phải là quyền sở hữu đất, các chủ thể tham gia tranh chấp không phải là các chủ
thể có quyền sở hữu đối với đất. Đây là điều không phải bàn cãi vì Điều 53, Hiến
pháp 2013 hay điều 4, Luật đất đai 2013 quy định rất rõ đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý [32].
Trên thực tế, TCĐĐ không chỉ là hiện tượng phổ biến mà trong đó còn
hết sức đa dạng về chủ thể cũng như nội dung tranh chấp. Tuy nhiên, về cơ
bản TCĐĐ được chia thành ba dạng như sau:
Tranh chấp về quyền sử dụng đất: là những tranh chấp giữa các bên với
12
nhau về việc ai có quyền sử dụng hợp pháp đối với một mảnh đất nào đó.
Tranh chấp về quyền, nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất:
dạng tranh chấp này thường xảy ra khi các chủ thể có những giao dịch dân sự
về quyền sử dụng đất hoặc các tranh chấp liên quan đến việc bồi thường giải
phóng mặt bằng, tái định cư…
Tranh chấp xác định chủ thể có quyền sử dụng đất: Đây là tranh chấp
phát sinh trong quá trình sử dụng đất không liên quan đến các giao dịch về đất
đai và tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất. Về bản chất khi giaỉ quyết tranh
chấp này tòa án phải xác định quyền sử dụng đất thuộc về ai. Theo điển a,
khoản 3 Điều 159 Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi và bổ sung năm
2011, có hiệu lực kể từ ngày 1/01/2012 thì dạng tranh chấp này không áp
dụng thời hiệu khởi kiện.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và yêu cầu của giải quyết tranh chấp đất đai
1.1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai
Trên cơ sở khái niệm tranh chấp đất đai chúng ta có khái niệm giải
quyết tranh chấp đất đai như sau: “giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm giải quyết các bất đồng, mâu
thuẫn giữa các bên để tìm ra các giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật
nhằm xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ đất đai”.
Việc giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay phải đảm bảo ba nguyên tắc
dưới đây:
- Thứ nhất, luôn đảm bảo nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân và
Nhà nước là đại diện chủ sở hữu.
- Thứ hai, bảo đảm lợi ích của người sử dụng đất, nhất là lợi ích kinh
tế, khuyến khích tự hòa giải trong nội bộ nhân dân.
- Thứ ba, việc giải quyết nhằm mục đích ổn định kinh tế, xã hội, gắn
với phát triển sản xuất, mở mang ngành nghề, tạo điều kiện cho lao động có
13
việc làm, phù hợp với đặc điểm và quy hoạch của từng địa phương
1.1.2.2. Đặc điểm của giải quyết tranh chấp đất đai
Hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai có những đặc điểm sau:
- Giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Để giải quyết một tranh chấp, các chủ thể có thể sử dụng nhiều
biện pháp như tự thương lượng, thỏa thuận với nhau. Pháp luật đất đai không
quan tâm cách thức họ thỏa thuận thế nào, thương lượng ra sao mà chỉ đưa ra
các quy định điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp khi có sự tham gia
của cơ quan nhà nước vào việc giải quyết đó mà thôi. Điều này nhằm thể hiện
sự tôn trọng của Nhà nước với tự do ý chí, tự do định đoạt của các chủ thể và
Nhà nước sẽ cung cấp một công cụ giải quyết tranh chấp cho họ nếu như họ
không có được sự thống nhất. Một khi đã có sự tham gia của cơ quan nhà
nước thì các quy phạm pháp luật về giải quyết tranh chấp là cần thiết, bởi lẽ
có những quy phạm pháp luật này thì người dân cũng như chính cơ quan nhà
nước mới biết chủ thể nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và giải quyết
theo trình tự, thủ tục gì.
- Đối tượng của hoạt động giải quyết tranh chấp là tranh chấp đất đai,
trong đó các đương sự yêu cầu cơ quan nhà nước xác định rõ những quyền và
nghĩa vụ của các bên đối với khu đất đang bị tranh chấp.
- Hệ quả pháp lý của việc giải quyết tranh chấp là quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể trong quan hệ đất đai sẽ được làm rõ bằng bản án hoặc quyết
định có hiệu lực pháp luật.
- Đề cao hòa giải, huy động đoàn thể địa phương tham gia.
- Liên quan đến nhiều lĩnh vực khác, như: nhà, xây dựng...
- Cần phải hiểu phong tục, tập quán địa phương để có cách giải quyết
14
thỏa đáng.
1.1.2.3. Mục đích và yêu cầu của giải quyết tranh chấp đất đai
Giải quyết tranh chấp kịp thời và hiệu quả các tranh chấp cho phép hạn
chế đến mức tối thiểu sự gián đoạn của sản xuất kinh doanh cũng như đặt ở
mức chi phí thấp nhất. Song, quan trọng đó là phải bảo vệ một cách có hiệu
quả lợi ích hợp pháp và chính đáng của các bên khi tham gia vào kinh tế
thương mại.
Giải quyết tốt tranh chấp là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế. Muốn có một nền kinh tế phát triển thì các quan hệ xã hội nói chung
và quan hệ kinh tế thương mại nói riêng phải được điều chỉnh bằng pháp luật,
phải đảm bảo bằng pháp luật. Việc đầu tiên là hạn chế các tranh chấp có thể
xảy ra bằng cách đặt ra các chế định và chế tài tạo thành một “sân chơi” lành
mạnh và công bằng. Khi tranh chấp xảy ra phải có các thủ tục, biện pháp để
giải quyết, nếu không giải quyết kịp thời thì hậu quả sẽ dây dưa kéo dài và
thiệt hại rất lớn. Điều đó không những làm thiệt hại, kìm hãm phát triển nền
kinh tế mà còn gây nên một khuyết điểm lớn của môi trường kinh doanh, các
chủ thể sau tranh chấp có thể “quay lưng” lại với nhau đố kỵ và không tin
tưởng lẫn nhau. Một tâm lý yên tâm làm ăn kinh tế, mạnh dạn đầu tư sẽ góp
phần cải thiện nền kinh tế.
Giải quyết hậu quả kịp thời tranh chấp còn có ý nghĩa cực kỳ quan
trong việc quản lý xã hội bằng pháp luật, vừa tháo gỡ khó khăn cho các doanh
nghiập, vừa góp phần tạo môi trường pháp lý có kỷ cương. Trong sản xuất
kinh doanh tạo niềm tin, thực hiện công bằng và bình đẳng cho các doanh
nghiệp trong nước và ngoài nước. Thực hiện sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Tính hiệu quả được xét ở hai góc độ hiệu quả chuyên môn và hiệu quả
kinh tế. Muốn vậy trong khi tiến hành một hình thức giải quyết tranh chấp
15
nào cũng phải tuân thủ một số nguyên tắc.
1.2. Lý luận về pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai
1.2.1. Sự cần thiết của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật đất đai là quan hệ giữa người với người, được các
quy phạm pháp luật đất đai điều chỉnh, biểu hiện thành quyền và nghĩa vụ
pháp lý cụ thể của các bên, được đảm bảo bằng cưỡng chế Nhà nước.
Trên cơ sở quan niệm như vậy, quan hệ pháp luật đất đai có các đặc
điểm sau:
- Quan pháp luật đất đai là quan hệ giữa người với người (các quan hệ
xã hội). Quan hệ này có thể là quan hệ phát sinh giữa các cơ quan quản lý nhà
nước với người sử dụng đất, quan hệ giữa những người sử dụng đất với nhau,
quan hệ giữa các cơ quan nhà nước khi thực hiện chức năng đại diện chủ sở
hữu và quản lý nhà nước về đất đai;
- Quan hệ pháp luật đất đai phải là loại quan hệ được các quy phạm
pháp luật đất đai điều chỉnh, quy định cho các bên trong quan hệ có những
quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định;
- Quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên được đảm bảo thực hiện bằng
cưỡng chế Nhà nước.
Sự cần thiết điều chỉnh quan hệ GQTCĐĐ bằng pháp luật
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình trên tất cả các phương
diện của đời sống xã hội, các vấn đề trong quá trình phát triển kinh tế đất
nước sẽ không thể tránh được những mâu thuẫn, bất đồng phát sinh giữa chủ
thể quản lý nhà nước và đối tượng quản lý và trong lĩnh vực đất đai cũng
không ngoại lệ. Quá trình quản lý và sử dụng đất đai cũng sẽ không thể tránh
khỏi việc phát sinh mâu thuẫn, bất đồng giữa cá nhân, tổ chức với tư cách là
những người quản lý, sử dụng đất đai với cơ quan thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về đất đai, tranh chấp giữa cá nhân và tổ chức về đất đai. Đó
16
chính là tranh chấp trong lĩnh vực đất đai. Đã từ lâu ở nước ta, để giải quyết
loại tranh chấp này, Nhà nước đã thiết lập con đường giải quyết hành chính,
tòa án, theo đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện khiếu nại đến các cơ quan
quản lý nhà nước về đất đai để được giải quyết theo thủ tục tố tụng theo quy
định của pháp luật đất đai và pháp luật khiếu nại [6]. Sau khi Luật Tổ chức
Toà án nhân dân năm 1995 và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính năm 1996 ra đời và có hiệu lực thi hành, việc giải quyết các tranh chấp
hành chính về đất đai còn được Toà án nhân dân thực hiện theo thủ tục tố
tụng hành chính. Kể từ đó tới nay, pháp luật điều chỉnh giải quyết tranh chấp
hành chính trong lĩnh vực đất đai liên tục được sửa đổi, bổ sung và hoàn
thiện. Sự tồn tại song song hai phương thức giải quyết trong gần 20 năm qua
mang lại hiệu quả tích cực, đã góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của các các chủ thể sử dụng đất, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và
bảo đảm pháp chế trong hoạt động của các cơ quan nhà nước hữu quan. Tuy
nhiên, sau khi Luật đất đai 2013 có hiệu lực thi hành ngày đến nay, tranh chấp
hành chính trong lĩnh vực đất đai có xu hướng gia tăng cả về số lượng, tính
chất phức tạp và phản ứng bức xúc của người dân, trong khi đó, việc giải
quyết loại tranh chấp này cũng bộc lộ nhiều bất cập [41].
1.2.2. Các nguyên tắc của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
Muốn đáp ứng được các yêu cầu đó, thì việc GQTCĐĐ phải tuân thủ
các nguyên tắc sau đây:
(1) Nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ
sở hữu và thống nhất quản lý trên toàn quốc
Hiến pháp 2013, Luật Đất đai hiện hành khẳng định toàn bộ đất đai trên
lãnh thổ Việt Nam đều thuộc quyền sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ
sở hữu và thống nhất quản lý. Trong thực tế vừa qua có mâu thuẫn về quy định
đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, nhưng quyền
17
của đại diện chủ sở hữu, nhất là quyền định đoạt và quyền hưởng lợi từ đất đai
chưa được định rõ; trong khi đó, người được Nhà nước giao đất (người sử
dụng) tự coi như người chủ sở hữu, tùy tiện mua bán, chuyển nhượng. Trên
thực tế, Nhà nước phải mặc cả với người sử dụng đất khi thu hồi đất sử dụng
vào các mục đích công cộng và phát triển kinh tế - xã hội. Việc thu hồi đất gặp
rất nhiều khó khăn, phức tạp, dẫn đến nhiều vụ khiếu kiện liên quan đến việc
thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư... [41].
(2) Nguyên tắc bảo đảm lợi ích của người sử dụng đất, nhất là lợi ích
kinh tế, khuyến khích việc tự thương lượng, tự hòa giải trong nội bộ nhân dân
Để bảo vệ một cách tốt nhất những lợi ích thiết thân đó, trước hết các
bên tranh chấp phải gặp nhau để bàn bạc, thảo luận và thương lượng. Đó cũng là
cơ sở quan trọng đảm bảo quyền tự do định đoạt cho các đương sự. Cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai chỉ thụ lý đơn khi các bên đã
tiến hành qua thủ tục này mà không đạt được sự nhất trí cần thiết [41].
(3) Việc GQTCĐĐ phải nhằm mục đích ổn định tình hình kinh tế - xã
hội của đất nước, địa phương, gắn việc GQTCĐĐ với việc tổ chức lại sản
xuất, kinh doanh, tạo điều kiện cho người bị thu hồi đất có việc làm phù hợp
với quá trình chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng trong quá trình triển khai các chính sách
về nông nghiệp, nông thôn. Do ảnh hưởng tiêu cực của TCĐĐ đến mọi mặt
của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội nên việc giải quyết các TCĐĐ phải nhằm
vào mục đích bình ổn các quan hệ xã hội. [41].
(4) Nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa
Mọi hoạt động trong đời sống kinh tế, xã hội đều hoạt động theo Hiến
pháp và pháp luật, việc giải quyết các tranh chấp dân sự nối chung và giải
quyết tranh chấp đất đai nói riêng cũng phải chú ý và tuân thủ các nguyên tắc,
trình tự, thủ tục, thẩm quyền mà hiến pháp, pháp luật của Nhà nước đã quy
18
định nói chung và phát luật về tố tụng, pháp luật về đất đai nói riêng. Đồng
thời, việc giải quyết các tranh chấp đất đai phải được các cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền phát hiện và giải quyết kịp thời các vụ tranh chấp theo
đúng quy trình nhằm giảm thiểu các vi phạm pháp luật về đất đai, tránh tình
trạng để các TCĐĐ kéo dài, làm ảnh hưởng tới tâm lý và lợi ích của người
dân cũng như trật tự, an toàn tại địa phương.
1.2.3. Cơ cấu về nội dung của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
Một quan hệ pháp luật đất đai được cấu thành bởi các yếu tố: chủ thể,
nội dung và khách thể của quan hệ pháp luật đất đai
Chủ thể của quan hệ pháp luật đất đai: Chủ thể của quan hệ pháp luật đất
đai là các chủ thể dựa trên cơ sở các quy phạm pháp luật mà tham gia vào một
quan hệ pháp luật đất đai để hưởng quyền và làm nghĩa vụ trong quan hệ đó.
Chủ thể của quan hệ pháp luật đất đai gồm có Nhà nước và người sử dụng đất.
Nhà nước tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai với tư cách là đại diện
chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý nhà nước về đất đai. Nhà
nước tham gia vào các quan hệ pháp luật thông qua các cơ quan nhà nước.
Chủ thể sử dụng đất là người đang thực tế chiếm hữu đất đai do Nhà
nước giao, cho thuê, cho phép nhận quyền sử dụng đất hoặc được Nhà nước
công nhận quyền sử dụng đất. Các chủ thể sử dụng đất này gồm các tổ chức
trong nước; cá nhân, hộ gia đình trong nước; cộng đồng dân cư, cơ sở tôn
giáo; tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao; Người Việt Nam định cư ở
nước ngoài; tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam (Điều 5 Luật
Đất đai năm 2013) [32].
Chủ thể đang thực tế chiếm hữu đất đai được phân chia thành: chủ thể
đã có giấy tờ hợp pháp về quyền sử dụng đất (đã có giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất); chủ thể có giấy tờ hợp lệ về quyền sử dụng đất (chưa có giấy
19
chứng nhận quyền sử dụng đất, những đủ điều kiện để được cấp giấy chứng
nhận); và chủ thể không đủ giấy tờ theo quy định nhưng được công nhận
quyền sử dụng đất.
Nội dung của quan hệ pháp luật đất đai: Nội dung của quan hệ pháp
luật đất đai là tổng thể quyền hạn và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ
pháp luật đất đai. Các quyền hạn, nghĩa vụ này được pháp luật quy định và
bảo vệ.
Khách thể của quan hệ pháp luật đất đai: Khách thể của quan hệ pháp
luật đất đai là cái mà các chủ thể nhằm hướng tới, đạt được khi tham gia vào
quan hệ pháp luật đất đai.
Cơ cấu về nội dung của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
bao gồm:
Thứ nhất, nhóm các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
theo quy định của pháp luật hiện hành
Căn cứ để GQTCĐĐ là một nội dung không thể thiếu của pháp luật
về giải quyết tranh chấp đất đai. Đây chính là vấn đề xác định cơ quan, tổ
chức nào có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp đất đai giữa các chủ thể
tranh chấp.
Thứ hai, nhóm các quy định về trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp
đất đai theo quy định của pháp luật
Đây chính là các quy định về các bước cần phải thực hiện trong quá
trình giải quyết tranh chấp đất đai. Đó là các quy định về hòa giải, về trình tự,
thủ tục giải quyết các tranh chấp đất đai tại cơ quan hành chính nhà nước và
tại tòa án nhân dân.
Thứ ba, pháp luật nội dung về giải quyết tranh chấp đất đai. Đây chính
là các quy định của pháp luật đất đai về quản lý, sử dụng đất, về quyền và
20
nghĩa vụ của người sử dụng đất; là các quy định của pháp luật dân sự, pháp
luật đất đai, pháp luật về kinh doanh bất động sản về các giao dịch liên quan
đến quyền sử dụng đất…
1.2.4. Lịch sử hình thành và phát triển về giải quyết tranh chấp
đất đai
1.2.4.1. Thời kỳ trước khi ban hành Hiến pháp 1980
Từ năm 1976 đến trước khi Hiến pháp năm 1980 được thông qua Nhà
nước ta đã ban hành trên 800 văn bản pháp luật, trong đó có một luật, 3 pháp
lệnh. 532 văn bản của Chính phủ, 241 văn bản của các Bộ và các cơ quan
thuộc Hội đồng Chính phủ. Như vậy, giai đoạn này thẩm quyền GQTCĐĐ
của ủy ban hành chính các cấp chưa được quy định rõ ràng. Thực tế, việc giải
quyết các TCĐĐ chủ yếu do ủy ban hành chính cấp xã thực hiện với vai trò
của tổ chức nông hội địa phương (tham gia nhiều vào công việc chính quyền),
cơ quan tư pháp chỉ xuất hiện khi giải quyết tranh chấp hoa màu trên đất bãi
sa bồi [52].
1.2.4.2. Thời kỳ sau khi ban hành Hiến pháp 1980
- Giai đoạn từ khi Hiến pháp 1980 có hiệu lực đến trước khi Luật Đất
đai 1987 ra đời
Hiến pháp 1980 ra đời đã khép lại một chặng đường dài phấn đấu
không ngừngcủa Nhà nước ta nhằm mục tiêu xã hội hóa toàn bộ vốn đất đai
trong phạm vi cả nước. Điều 19 và Điều 20 Hiến pháp 1980 quy định:
“Những tập thể và cá nhân đang sử dụng đất đai được tiếp tục sử dụng”. Do
đó, một số hợp tác xã, tổ chức và các tập đoàn sản xuất nông nghiệp thời kỳ
bấy giờ đi đến tan rã, đất đai lại có sự chia cấp lại theo quy định mới. Tuy
vậy, việc GQTCĐĐ còn quan liêu, mang nặng tính mệnh lệnh hành chính.
- Giai đoạn từ khi Luật Đất đai 1987 được ban hành đến trước khi Luật
21
Đất đai 1993 ra đời.
Hiến pháp 1980 cũng như khi Luật Đất đai 1987 được ban hành và có
hiệu lực đều khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất
quản lý. Song các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành đã không xác định rõ
ràng quyền lợi của người sử dụng đất đã làm hạn chế hiệu quả sử dụng đất.
Trong giai đoạn này, nổi trội nhất phải kể đến chủ trương thực hiện cơ chế quản
lý kinh tế mới trong nông nghiệp theo Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 5/4/1988 của
Bộ Chính trị [52]…
Đối với nhà ở, các tranh chấp phát sinh trong giai đoạn này thường liên
quan đến nhà cải tạo, nhà vắng chủ, đòi lại nhà cho thuê trước ngày 1/7/1991
(Pháp lệnh về nhà ở có hiệu lực). Ngoài ra, còn xuất hiện các tranh chấp về
nhà ở khi vợ chồng ly hôn. Để tạo cơ sở pháp lý giải quyết tình hình TCĐĐ
kể trên. Nghị định 30-HĐBT ngày 23/3/1989 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) về việc thi hành Luật Đất đai (Điều 15, 16).Chỉ thị số 364-CT
ngày 06/11/1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính
phủ) về việc GQTCĐĐ liên quan đến địa giới hành chính. Các văn bản pháp
luật được Nhà nước ban hành trong thời kỳ này đã tạo cơ sở pháp lý quan
trọng cho việc thực hiện các nội dung GQTCĐĐ, góp phần vào việc giải
quyết mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, ổn định sản xuất, kinh doanh và phát
triển kinh tế [49] [52].
- Giai đoạn từ khi Luật Đất đai 1993 ban hành đến trước khi có Luật
Đất đai 2003 ra đời.
Luật Đất đai 1993 dựa trên cơ sở của Hiến pháp 1992, đã khắc phục
được nhiều nhược điểm của Luật Đất đai 1987, đã sửa đổi, bổ sung một số
quy định không còn phù hợp để giải quyết những vấn đề quan trọng trong
việc quản lý và sử dụng đất đai. Sau hai lần sửa đổi, bổ sung, Luật Đất đai
1993 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua
22
ngày 2 tháng 12 năm 1998 và ngày 29 tháng 6 năm 2001, cùng hệ thống các
văn bản dưới luật, đã hình thành một ngành luật đất đai, góp phần tích cực
vào công cuộc đổi mới nền kinh tế - xã hội của đất nước.
Luật Đất đai 1993 đã chế định cơ sở pháp lý cơ bản để quan hệ đất đai
ở nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Luật này đã đề cập đến.nhiều nội dung quan
trọng song có thể nêu lên bốn nội dung cơ bản nhất sau đây [49].
Thông tư liên tịch số 02/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-TCĐC của
TAND tối cao (TANDTC), Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) và
Tổng cục Địa chính ngày 28/7/1997 hướng dẫn về thẩm quyền của TAND
trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất theo quy định tại
khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai. Thông tư liên tịch số 01/2002/TTLT-TAND-
VKSNDTC-TCĐC ngày03/1/2002 của TANDTC, VKSNDTC và Tổng cục
Địa chính “Hướng dẫn về thẩm quyền của TAND trong việc giải quyết tranh
chấp liên quan đến quyền sử dụng đất”.
- Giai đoạn từ khi Luật Đất đai 2003 ban hành đến trước khi có Luật
Đất đai 2013 ra đời
Kế thừa các quy định của Luật Đất đai năm 1993, ngày 26/11/2003,
Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật Đất đai mới - Luật Đất đai
năm 2003, có hiệu lực thi hành vào ngày 1/7/2004. (trong đó quy định thẩm
quyền GQTCĐĐ từ Điều 135 đến Điều 137). Kế thừa những nội dung còn
phù hợp của Luật đất đai hiện hành, luật hoá một số quy định tại các văn bản
hướng dẫn thi hành Luật đất đai đã được cuộc sống chấp nhận, đồng thời đưa
vào Luật đất đai những nội dung mới cần sửa đổi, bổ sung nhằm tạo lập một
hệ thống pháp luật, đáp ứng cho thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Luật Đất đai 2003 tăng cường vai trò giải quyết tranh chấp của Toà án
23
nhân dân. Cụ thể, Luật này quy định: Tranh chấp đất đai mà đương sự có giấy
chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất, tranh
chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết. Việc giải
quyết tranh chấp đất đai được thực hiện ở 2 cấp, trong đó cấp thứ 2 là cấp giải
quyết cuối cùng. Như vậy, một mặt đảm bảo quyền của công dân, mặt khác
xác định rõ phạm vi, chức năng, thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
giữa Toà án nhân dân và cơ quan hành chính các cấp [52].
Như vậy, Luật đất đai năm 2003 quy định về thẩm quyền GQTCĐĐ
của TAND có những điểm mới cơ bản như sau:
Thứ nhất, pháp luật đất đai ngày càng đề cao vị trí và vai trò của TAND
trong việc giải quyết các TCĐĐ. Điều này phù hợp với thông lệ và tập quán
pháp luật của nhiều nước trên thế giới. Hơn nữa thẩm quyền GQTCĐĐ của
TAND ngày càng đươc mở rộng và được quy định rất cụ thể.
Thứ hai, so với quy định của luật Đất đai năm 1993 thì Luật đất đai
năm 2003 đã mở rộng phạm vi GQTCĐĐ của TAND. Theo đó, TAND không
chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về tài sản gắn liền với đất và các
TCĐĐ mà người sử dụng đất đã có GCNQSDĐ được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp, mà còn giải quyết các TCĐĐ tuy người sử dụng đất chưa
được Nhà nước cấp GCNQSDĐ, nhưng có một trong các loại giấy tờ về SDĐ
quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50. Từ những phân tích ở trên cho thấy,
việc mở rộng thẩm quyền GQTCĐĐ của TAND các cấp theo Luật Đất đai
năm 2003 đã kế thừa các quy định của Luật Đất đai năm 1993 và đáp ứng
được đòi hỏi của thực tiễn quản lý và sử dụng đất đai ở nước ta tại thời điểm
này. Bởi lẽ, nếu chỉ quy định cho TAND có thẩm quyền giải quyết các TCĐĐ
mà người sử dụng đất đã có GCNQSDĐ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
theo quy định của Luật đất đai năm 1993 thì sẽ nảy sinh những rắc rối là
người sử dụng đất được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp nhiều loại
24
GCNQSDĐ [49] [52].
Ngày 29/11/2013, tại kỳ họp lần thứ 6, Quốc hội khóa 13 đã chính thức
thông qua Luật đất đai 2013. Luật này có hiệu lực từ ngày 1/7/2014 đã có
những thay đổi các quy định về GQTCĐĐ ở Việt Nam [52].
1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về giải quyết tranh
chấp đất đai
1.2.5.1. Các yếu tố về điều kiện kinh tế - xã hội
Pháp luật và kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau, đặc biệt là
phát luật về đất đai có sự thay đổi rất nhiều, gắn với thực tiễn của thị trường
bất động sản và thực tiễn chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong việc phát
triển sản xuất kinh doanh. Nếu hệ thống văn bản pháp luật về đất đai phản ánh
chính xác, kịp thời và phù hợp với những vấn đề đặt ra từ thực tiễn thị trường
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chứa đựng nội dung phù hợp với các điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, địa phương và yêu cầu các quản
lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai và kinh tế - xã hội sẽ tạo những “đòn bẩy”
tăng trưởng kinh tế - xã hội nói chung và thị trường về chuyển nhượng quyền
sử dụng đất nói riêng, góp phần thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế
phát triển, xã hội được ổn định. Ngược lại, sự phát triển của kinh tế - xã hội
với những diễn biến khác nhau với nhiều mâu thuẫn, tranh chấp có thể xảy ra,
để ổn định kinh tế và xã hội thì việc ban hành văn bản pháp luật quản lý cũng
như giải quyết các tranh chấp về đất đai là hết sức cần thiết.
1.2.5.2. Đường lối chính sách của Đảng, và lợi ích của các bên có liên quan
Với tư cách là phương tiện cơ bản của Nhà nước trong quản lý, các văn
bản pháp luật đất đai phải có nội dung phù hợp với đường lối, chính sách của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình thể chế hóa thành pháp luật hoặc
trong việc tổ chức thực hiện trên thực tế các đường lối, chính sách đó, có như
vậy mới bảo đảm thực hiện có hiệu quả và mới bảo vệ hữu hiệu lợi ích cơ bản
25
của giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác.
1.2.5.3. Yếu tố xã hội
Vì muốn tác động vào các đối tượng quản lý, trước hết chủ thể có thẩm
quyền phải sử dụng văn bản để tác động tới nhận thức của những đối tượng
có liên quan, qua đó mới điều chỉnh hành vi của họ, trong khi đó nhận thức
của các đối tượng này bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau thuộc đời sống ý
thức xã hội nên giữa ý thức xã hội với nội dung văn bản pháp luật có mối liên
hệ mật thiết, có sự tác động qua lại rất sâu sắc.
1.2.5.4. Yếu tố hội nhập kinh tế quốc tế
Trong điều kiện hội nhập kinh tế và mở rộng giao lưu hợp tác nhiều
mặt với các nước, các tổ chức quốc tế như hiện nay, sự phù hợp này là cần
thiết, đặc biệt là đối với các quy định về quản lý kinh tế, tuy nhiên cũng cần
xác định rõ những vấn đề nào có thể tiếp thu có chọn lọc để nội luật hóa,
những vấn đề nào mang tính nguyên tắc bất di bất dịch, không thể tiếp thu
“nội hóa”, có như vậy mới có thể vừa tạo điều kiện thuận lợi cho những hoạt
động hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới mở rộng
quan hệ nhiều mặt. Vừa giữa vững lập trường, không bị chệch hướng phát
triển đã lựa chọn và không làm mất đi bản sắc dân tộc trong quá trình chủ
26
động hội nhập kinh tế quốc tế.
Tiểu kết chương 1
TCĐĐ là một vấn đề khá phức tạp và rất tế nhị. Chương 1 của luận văn
đã trình bày những vấn đề lý luận chung về TCĐĐ và pháp luật về GQTCĐĐ.
Nội dung chương đã trình bày các quan điểm khác nhau về khái niệm TCĐĐ
và giới hạn khái niệm này trong khuôn khổ luận văn là TCĐĐ là tranh chấp
về quyền sử dụng đất, trên cơ sở đó đã làm rõ những đặc điểm, các dạng
TCĐĐ, những nguyên nhân dẫn đến TCĐĐ, những nội dung này là cơ sở
quan trọng để thực hiện GQTCĐĐ. Phần thứ hai của chương này đã làm rõ
khái niệm, sự cần thiết của pháp luật GQTCĐĐ và các nguyên tắc thực hiện
pháp luật GQTCĐĐ. Một khi đã nhận diện rõ những tác động kinh tế, xã hội
của việc GQTCĐĐ sẽ giúp cho việc thực hiện và phát hiện những bất cập
trong hệ thống pháp luật liên quan đến GQTCĐĐ, để từ đó có những kiến
27
nghị phù hợp được trình bày trong các chương tiếp theo của Luận văn.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT
ĐAI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI HUYỆN VÂN ĐỒN,
TỈNH QUẢNG NINH
2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
2.1.1. Quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Căn cứ để GQTCĐĐ là một nội dung cực kỳ quan trọng, là cơ sở để việc
ra quyết định tranh chấp. Vì lẽ đó, Luật Đất đai 2013 đã có những sửa đổi, bổ
sung quy định căn cứ để GQTCĐĐ trong trường hợp các bên tranh chấp không
có giấy tờ về quyền sử dụng đất. Luật Đất đai năm 2013 được ban hành trong
bổi cảnh thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã hình thành qua đó
đã khắc phục và giải quyết được một số hạn chế phát hiện được trong quá
trình thi hành Luật Đất đai năm 2003 trong giai đoạn trước đó. Đây là một
đạo luận quan trọng có tác động sâu rộng đến đời sống chính trị, kinh tế, xã
hội của đất nước. Luật đất đai năm 2013 quy định các chủ thể có thẩm quyền
GQTCĐĐ rõ ràng, bao gồm: TAND, UBND và Bộ Tài nguyên & Môi
trường. Các nội dung sửa đổi, bổ sung của Luật này nhằm đáp ứng yêu cầu
của quá trình đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới tạo nền tảng để đến năm
2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện
đại [52].
Thẩm quyền GQTCĐĐ được quy định tại Luật Đất đai số 45/2013/QH13
ngày 29/11/2013. Hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã, phường, thị trấn
được qui định tại Điều 202 Luật đất đai năm 2013 và hướng dẫn cụ thể tại Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ.
Theo đó, tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được
thì gửi đơn đến UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải. Chủ tịch
28
UBND cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa
phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận,
các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân
cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận
được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.
Khi nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai, UBND cấp
xã có trách nhiệm thẩm tra, xác minh tìm hiểu nguyên nhân phát sinh tranh
chấp, thu thập giấy tờ, tài liệu có liên quan do các bên cung cấp về nguồn gốc
đất, quá trình sử dụng đất và hiện trạng sử dụng đất; thành lập Hội đồng hòa
giải tranh chấp đất đai để thực hiện hòa giải. Thành phần Hội đồng gồm: Chủ
tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND là Chủ tịch Hội đồng; đại diện Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc xã, phường, thị trấn; tổ trưởng tổ dân phố đối với khu vực đô thị;
trưởng thôn, ấp đối với khu vực nông thôn; đại diện của một số hộ dân sinh
sống lâu đời tại xã, phường, thị trấn biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng
đối với thửa đất đó; cán bộ địa chính, cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn. Tùy
từng trường hợp cụ thể, có thể mời đại diện Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội
Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
2.1.2. Các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai
2.1.2.1. Quy định của pháp luật về thủ tục hòa giải TCĐĐ
Pháp luật về thủ tục hòa giải TCĐĐ tại Điều 202 Luật Đất đai 2013
[32]. Như vậy, việc hòa giải trong GQTCĐĐ theo pháp luật Việt Nam hiện
hành được quy định như sau:
Thứ nhất, tự hòa giải hoặc hòa giải tại cơ sở.
TCĐĐ được nhà nước khuyến khích việc sử dụng biện pháp tự hòa giải
hoặc hòa giải tại cơ sở. Điều này có nghĩa là tự hòa giải hoặc hòa giải tại cơ
sở không phải là một thủ tục bắt buộc trong GQTCĐĐ. Một TCĐĐ nếu chưa
29
qua hòa giải tại cơ sở hoặc chưa thực hiện tự hòa giải giữa các bên tranh chấp
thì vẫn có thể được chuyển sang bước giải quyết kế tiếp. Tự hòa giải là việc
các bên tranh chấp tự tiếp xúc với nhau, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp để
đàm phán, trao đổi và đi đến giải quyết tranh chấp, kết quả giải quyết tranh
nếu đạt được thành công thì đó là kết qủa của sự thống nhất ý chí giữa các bên
tranh chấp. Hòa giải tại cơ sở là việc hòa giải được tiến hành tại thôn, xóm,
ấp, bản, khu phố do ban hòa giải cơ sở tiến hành theo pháp luật hòa giải tại cơ
sở năm 2013. Việc giải quyết tranh chấp bằng tự hòa giải hoặc hòa giải ở cơ
sở giúp giữ gìn mối quan hệ tốt đẹp trong nội bộ người dân, không những thế
nó còn làm giảm bớt áp lực giải quyết tranh chấp lên cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Mặt khác, việc giải quyết tranh chấp này có tính khả thi cao
trong việc thi hành các nội dung tranh chấp được giải quyết. Vì lý do đó mà
pháp luật khuyến khích các bên tranh chấp sử dụng biện pháp này để giải
quyết trước khi yêu cầu đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền [52].
Thứ hai, hòa giải tại UBND cấp xã
Khi các bên đã giải quyết qua biện pháp tự hòa giải, hòa giải tại cơ sở
mà không thành công hoặc không sử dụng hai biện pháp này thì các bên có
đơn yêu cầu UBND cấp xã nơi có đất giải quyết theo khoản 2, điều 202 Luật
Đất đai năm 2013: “TCĐĐ mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi
đơn đến UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải”. Như vậy, hòa giải
tại UBND cấp xã là một thủ tục mang tính bắt buộc. tính bắt buộc này thể
hiện ở cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ chấp nhận đơn yêu cầu GQTCĐĐ
của các bên đương sự khi vụ việc đã trải qua giai đoạn hòa giải tại UBND cấp
xã nơi có tranh chấp (điều 203 Luật Đất đai năm 2013).
2.1.2.2. Quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án
nhân dân
Theo quy định tại Điều 203 của Luật đất đai 2013 thì việc giải quyết
30
tranh chấp đất đai được thực hiện tiếp theo sau khi hòa giải không thành công
tại cơ sở: TCĐĐ đã được hòa giải tại UBND cấp xã mà không thành thì được
giải quyết như sau: “1. TCĐĐ mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một
trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài
sản gắn liền với đất thì do TAND giải quyết; 2. TCĐĐ mà đương sự không có
Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều
100 của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức
GQTCĐĐ theo quy định sau đây: a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại
UBND cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này; b) Khởi kiện tại
TAND có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự;” [32]
Về cơ bản, các loại giấy tờ được quy định tại Điều 100 Luật Đất đai
2013 hiện nay vẫn giữ nguyên nội dung các quy định tại khoản 1,2 và khoản 5
Điều 50 Luật Đất đai 2003 và có sự bổ sung thêm một số trường hợp cụ thể.
Như vậy căn cứ theo khoản 2 Điều 203 Luật đất đai 2013 thì thẩm
quyền giải quyết tranh chấp của tòa án đã được mở rộng hơn, TAND có thẩm
quyền giải quyết những TCĐĐ bao gồm [52]:
- TCĐĐ mà đương sự có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có
một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai
- Tranh chấp về tài sản gắn liền với đất
- TCĐĐ mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một
trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai.
TCĐĐ mà đương sự không có giấy chứng nhận hoặc không có một
trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai thì đương sự
được lựa chọn một trong hai hình thức: Khởi kiện tại TAND có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự hoặc nộp đơn yêu cầu giải
quyết tranh chấp tại UBND cấp có thẩm quyền theo quy định của Luật Đất
đai [32] [52].
31
Thủ tục khởi kiện tại Tòa án nhân dân
Bước 1. Chuẩn bị đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ
Chuẩn bị 01 bộ hồ sơ khởi kiện, gồm: Đơn khởi kiện theo mẫu; Giấy tờ
chứng minh quyền sử dụng đất như: Sổ đỏ hoặc một trong các loại giấy tờ
theo quy định tại Điều 100; Biên bản hòa giải có chứng nhận của UBND xã
và có chữ ký của các bên tranh chấp; Giấy tờ của người khởi kiện: Sổ hộ
khẩu; chứng minh thư nhân dân hoặc thẻ căn cước nhân dân; Các giấy tờ
chứng minh khác (Tùy theo yêu cầu khởi kiện của bên khởi kiện - vì theo quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự, ai khởi kiện vấn đề gì thì phải có tài liệu,
chứng cứ, chứng minh cho chính yêu cầu khởi kiện đó của mình).
Ví dụ: Tranh chấp ranh giới về thửa đất giữa các hộ gia đình, cá nhân
thì phải có:
+ Văn bản đo đạc, xác minh về việc thửa đất bị lấn chiếm;
+ Trích lục hồ sơ địa chính đối với thửa đất có tranh chấp…
Bước 2. Nộp đơn khởi kiện
- Nơi nộp: Tòa án nhân dân cấp huyện có đất đang tranh chấp.
- Hình thức nộp: Nộp bằng 1 trong 3 hình thức sau (khoản 1 Điều 90
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015): Nộp trực tiếp tại Tòa án; Gửi đến Tòa án theo
đường dịch vụ bưu chính; Gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng
thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).
Bước 3. Tòa thụ lý và giải quyết
- Nếu hồ sơ chưa đủ mà đúng thẩm quyền của Tòa án thì Tòa án yêu
cầu bổ sung.
- Nếu hồ sơ đủ: Tòa thông báo nộp tạm ứng án phí; Người khởi kiện
nộp tạm ứng án phí tại cơ quan thuế theo giấy báo tạm ứng án phí và mang
biên lai nộp cho Tòa; Sau đó Tòa sẽ thụ lý.
32
Lưu ý:
- Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo, người khởi
kiện phải nộp tạm ứng án phí và nộp lại biên lai cho Tòa án
- Trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì
Thẩm phán sẽ thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ
kèm theo.
Bước 4. Thủ tục chuẩn bị xét xử và xét xử
Thời hạn 04 tháng, vụ việc phức tạp được gia hạn không quá 02 tháng
(Tổng 06 tháng - Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự). Trong giai đoạn này Tòa
sẽ tổ chức hòa giải tại Tòa, nếu các bên không hòa giải thành thì sẽ Tòa sẽ
đưa vụ án tranh chấp ra xét xử sơ thẩm (nếu không thuộc trường hợp tạm đình
chỉ hoặc đình chỉ). Sau khi có bản án sơ thẩm các bên tranh chấp có quyền
kháng cáo nếu không đồng ý với bản án nếu có căn cứ.
2.1.2.3. Quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai của cơ
quan hành chính
Trình tự GQTCĐĐ tại cơ quan hành chính được áp dụng đối với những
tranh chấp thỏa mãn đủ hai điều kiện sau đây:
Thứ nhất, các đương sự không có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng
đất theo quy định.
Thứ hai,đương sự lựa chọn giải quyết tranh chấp tại UBND.
Cơ quan hành chính có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lần đầu được
quy định tùy thuộc loại chủ thể tranh chấp.
Một trong những điểm mới của Luật Đất đai 2013 so với luật đất đai
2003 là luật đã bổ sung quy định người có thẩm quyền GQTCĐĐ phải ra
quyết định giải quyết tranh chấp. Trường hợp các bên không chấp hành sẽ bị
33
cưỡng chế (khoản 4 điều 203 Luật Đất đai 2013) [52].
Ngoài ra, Luật đất đai 2013 còn bổ sung quy định thủ tục GQTCĐĐ
thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp huyện, cấp tỉnh, bao gồm các
bước sau đây:
Bước 1: Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp: Người có đơn yêu cầu
GQTCĐĐ nộp đơn tại UBND cấp có thẩm quyền;
Bước 2: Tham mưu và giải quyết tranh chấp. Chủ tịch UBND cấp có
thẩm quyền thực hiện việc giao trách nhiệm cho cơ quan tham mưu giải quyết
các vấn đề về tranh chấp đất đai; cơ quan tham mưu có nhiệm vụ thẩm tra,
kiểm tra, xác minh vụ việc, tổ chức hòa giải giữa các bên tranh chấp, tổ chức
cuộc họp các ban, ngành có liên quan để tư vấn GQTCĐĐ (nếu cần thiết) và
hoàn chỉnh hồ sơ trình Chủ tịch UBND cùng cấp ban hành quyết định
GQTCĐĐ [52].
Luật còn quy định chi tiết về hồ sơ GQTCĐĐ bao gồm:
1. Đơn yêu cầu GQTCĐĐ;
2. Biên bản hòa giải tại UBND cấp xã;
3. Biên bản làm việc với các bên tranh chấp và người có liên quan;
4. Biên bản kiểm tra hiện trạng đất tranh chấp;
5. Biên bản cuộc họp các ban, ngành có liên quan để tư vấn GQTCĐĐ
đối với trường hợp hòa giải không thành;
6. Biên bản hòa giải trong quá trình giải quyết tranh chấp; trích lục bản
đồ, hồ sơ địa chính qua các thời kỳ liên quan đến diện tích đất tranh chấp và
các tài liệu làm chứng cứ, chứng minh trong quá trình giải quyết tranh chấp;
7. Báo cáo đề xuất và dự thảo quyết định giải quyết tranh chấp hoặc dự
thảo quyết định công nhận hòa giải thành;
Đối với việc GQTCĐĐ thuộc thẩm quyền của Bộ Tài nguyên và Môi
trường, Luật Đất đai 2013 bổ sung quy định thủ tục GQTCĐĐ thuộc thẩm
34
quyền của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Hồ sơ GQTCĐĐ gồm:
1. Đơn yêu cầu GQTCĐĐ;
2. Biên bản làm việc với các bên tranh chấp, với các tổ chức, cá nhân
có liên quan; biên bản kiểm tra hiện trạng đất tranh chấp;
3. Biên bản hòa giải trong quá trình giải quyết tranh chấp;
4. Trích lục bản đồ, hồ sơ địa chính qua các thời kỳ liên quan đến diện
tích đất tranh chấp, hồ sơ, tài liệu làm chứng cứ, chứng minh trong quá trình
GQTCĐĐ tại địa phương;
5. Báo cáo đề xuất và dự thảo quyết định GQTCĐĐ hoặc dự thảo quyết
định công nhận hòa giải thành;
Quyết định GQTCĐĐ hoặc quyết định công nhận hòa giải thành được
gửi cho các bên xảy ra tranh chấp về đất đai, các tổ chức, cá nhân có quyền và
nghĩa vụ liên quan đến giải quyết tranh chấp đất đai [52].
2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai tại huyện Vân Đồn,
tỉnh Quảng Ninh
2.2.1. Khái quát tình hình giải quyết tranh chấp đất đai tại huyện
Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
2.2.1.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
ảnh hưởng đến việcgiải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn huyện
Vân Đồn có diện tích đất tự nhiên 551,33 km2, gồm 600 hòn đảo lớn
nhỏ nằm trong vịnh Bái Tử Long, trong đó có hơn 20 đảo đất có người ở. Lớn
nhất là đảo Cái Bầu rộng 303,26km2 (chiếm 55%), trong đó có thị trấn huyện
lỵ Cái Rồng và 6 xãgồm Đông Xá, Hạ Long, Bình Dân, Đoàn Kết, Đài
Xuyên, Vạn Yên. Vùng đảo phía ngoài trải rộng 248,07m2 (chiếm 45%) gồm
5 xã đảogồm Minh Châu, Quan Lạn, Ngọc Vừng, Bản Sen, Thắng Lợi. Các
đảo đều có địa hình đồi núi, độ cao từ 200 đến 300m (Núi Nàng Tiên ở đảo
35
Trà Bản cao 450 m, núi Vạn Hoa ở đảo Cái Bầu cao 397 m). Quy hoạch
chung xây dựng Khu kinh tế Vân Đồn được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
tại Quyết định số 1296/QĐ-TTg ngày 19/8/2009, định hướng chiến lược của
quốc gia và tỉnh Quảng Ninh đối với khu vực Vân Đồn nhằm khai thác phát
triển tối ưu các quỹ đất, tiềm năng phát triển từng khu vực; đề xuất các khu
chức năng, hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật hợp lý cho khu kinh tế [60].
Tại huyện Vân Đồn mức giá đất thực tế trên thị trường bất động sản và
theo khung giá đất của thành phố có mức bình quân tương đối cao, đặc biệt là
sau khi Quốc hội phê duyệt Quy hoạch phát triển Khu Kinh tế Vân Đồn với
nhựng hạ tầng về kinh tế - xã hội lớn. Chính những nội dung này đã góp phần
tác động không nhỏ, làm cho những TCĐĐ trên địa bàn huyện thời gian vừa
qua luôn phức tạp, gay gắt, khó giải quyết và kéo dài. Trong những năm trở
lại đây, những TCĐĐ trên địa bàn huyện Vân Đồn hết sức phức tạp, không
chỉ tăng về số lượng mà còn tăng cả về tính chất phức tạp của tranh chấp. Kết
quả nghiên cứu và phân tích thực trạng TCĐĐ trên địa bàn huyện Vân Đồn
cho thầy trong năm 2018, đã xảy ra 121 vụ việc liên quan đến TCĐĐ, trong
số đó các cơ quan nhà nước đã làm thủ tục khởi tố cho 32 vụ bằng con đường
Tòa án, với các nội dung tranh chấp chủ yếu về vấn đề quyền sử dụng đất,
chuyển nhượng quyền sử dụng đất liên quan đến sản xuất, kinh doanh [60]...
2.2.1.2. Tình hình giải quyết tranh chấp đất đai tại huyện Vân Đồn, tỉnh
Quảng Ninh
(1) Việc GQTCĐĐ thông qua cơ quan quản lý hành chính
Từ sau năm 2013 khi Luật Đất đai năm 2013 ra đời và có hiệu lực thì
các TCĐĐ trên địa bàn huyện chủ yếu là những tranh chấp sau: Tranh chấp
ranh giới đất ở, đất vườn. Tranh chấp về việc đòi lại ruộng đất cũ trước đây đã
vào Hợp tác xã, nayHợp tác xã giải thể, chính quyền đã giao cho người khác
sử dụng. Chủ cũ đòi lại ruộng đất đã cho mượn, cho ở nhờ. Đòi quyền thừa kế
36
đất ông cha để lại. Đền bù giải phóng mặt bằng [59], [62]…
Thống kê từ năm 2014 đến nay UBND huyện và UBND các xã, thị trấn
đã tiếp nhận đơn và giải quyết các vụ việc về tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về
đất đai.
Bảng 2.1. Công tác GQTCĐĐ của UBND huyện và UBND các xã thị trấn
trên địa bàn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
Năm UBND huyện giải quyết UBND xã, thị trấn giải quyết
2014 22 37
2015 32 51
2016 34 71
2017 31 74
2018 46 53
Tổng 165 286
(Nguồn: Phòng Tài nguyên và môi trường huyện Vân Đồn)
Đánh giá chung về công tác GQTCĐĐ của UBND huyện, xã:
Ưu điểm: Việc giải quyết các TCĐĐ tại UBND diễn ra nhanh gọn và ít
tốn kém vì: UBND có một đội ngũ cán bộ địa chính nắm bắt tình hình quản lý
và sử dụng đất một cách chính xác và kịp thời, Đồng thời là cơ quan có thẩm
quyền GQTCĐĐ, cho nên việc xác minh, thu thập chứng cứ cho vụ kiện sẽ
nhanh chóng hơn và sát thực hơn.
Hạn chế: Việc GQTCĐĐ của UBND ngay trong giai đoạn hiện nay
cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định như việc UBND vừa là cơ quan quản
lý đất đai vừa thực hiện việc GQTCĐĐ nên dễ nảy sinh xu hướng vi phạm
nguyên tắc khách quan, công bằng, vô tư trong GQTCĐĐ, đặc biệt trong
trường hợp TCĐĐ phát sinh trực tiếp từ các quyết định của UBND các cấp.
Hơn nữa, thủ tục hành chính trong việc GQTCĐĐ rất phức tạp, rắc rối… nên
37
các TCĐĐ không được giải quyết dứt điểm, để dây dưa, kéo dài phát sinh các
khiếu kiện vượt cấp gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định tình hình
chính trị, trật tự an toàn - xã hội của địa phương.
Ví dụ 1: Trường hợp không phân định rõ thẩm quyền giải quyết vụ
việc: Ngày 08/5/2015, UBND huyện Vân Đồn nhận được đơn đề nghị giải
quyết khiếu nại việc cấp GCNQSD đất và đền bù đất canh tác đường K73 của
bà Trần Thị Tỵ - xóm 7, xã Đoàn Kết, huyện Vân Đồn. Nội dung vụ việc như
sau [56]:
Ngày 18/11/1994 gia đình bà Trần Thị Tỵ nhận chuyển nhượng của gia
đình bà Đình Thị Cỏi trú tại xóm 7, xã Đoàn Kết diện tích là 48m2 đất 10% tại
khu T6-xóm 7, xã Đoàn Kết. Hai bên lập Giấy chuyển nhượng đất phần trăm
lâu dài, vĩnh viễn. Giấy chuyển nhượng đứng tên em gái bà Tỵ là bà Trần Thị
Tân, phía gia đình bà Cỏi ủy quyền cho hai con trai bà là anh Nguyễn Bá Tỵ
và anh Nguyễn Bá Quang thay mặt bà lập giấy chuyển nhượng với nội dung:
“bà Tân toàn quyền sử dụng mảnh đất trên từ nay trở đi....”.
Cùng ngày, gia đình bà Tỵ lại nhận chuyển nhượng của gia đình ông
Nguyễn Bỉnh Dính và bà Trần Thị Nghĩa diện tích 144m2 đất 10% tại khu
T6,xóm 7, xã Đoàn Kết. Hai bên lập giấy chuyển nhượng đất phần trăm lâu
dài, vĩnh viễn. Giấy chuyển nhượng đứng tên em gái bà Trần Thị Tân có nội
dung: “bà Tân toàn quyền sử dụng mảnh đất trên từ nay trở đi...”.
Sau khi nhận chuyển nhượng, bà Tân đã yêu cầu gia đình bà Cỏi và gia
đình ông Dính ra UBND xã Đoàn Kết làm thủ tục chuyển toàn bộ số diện tích
trên sang sổ ruộng đất nhà bà Tỵ (Sổ đứng tên ông Nguyễn Xuân Phúc - bố
chồng). Toàn bộ số diện tích trên đã được chuyển sang sổ gia đình nhà bà Tỵ
và đã được sang sổ trong sổ đăng ký ruộng đất của UBND xã, Hợp tác xã
nông nghiệp xã và sổ quản lý đất của xóm 7, xã Đoàn Kết.
Năm 1999, UBND huyện tiến hành cấp Giấy CNQSD đất cho các hộ
38
dân trong xã. Tuy nhiên, trong Giấy CNQSD đất của gia đình bà Tỵ không có
số diện tích mà gia đình bà Cỏi và ông Dính đã chuyển nhượng nói trên. Giấy
CNQSD đất của anh Nguyễn Bá Mùi (con trai cả của bà Cỏi) và Giấy
CNQSD đất của ông Nguyễn Bỉnh Dính vẫn có số diện tích mà họ đã chuyển
nhượng cho gia đình bà Tỵ.
Gia đình bà Tỵ thường xuyên liên tục sử dụng và đóng thuế trên số diện
tích nhận chuyển nhượng trên và được Hợp tác xã Bình Minh xác nhận việc
chuyển nhượng và đóng thuế ngày 18/12/2006.
Ngày 05/02/2007 bà Tân làm đơn gửi Chủ tịch UBND xã Đoàn Kết về
việc giải quyết tranh chấp sổ đỏ quyền sử dụng đất phần trăm nói trên của gia
đình bà Cỏi và ông Dính đã chuyển nhượng cho bà Tân.
Sự việc chưa được giải quyết, đến tháng 3/2007 gia đình ông nguyễn
Bá Mùi (con trai bà Cỏi) và gia đình ông Nguyễn Bỉnh Dính lại tiếp tục
chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích đã bán cho bà Tân cho gia đình ông
Nguyễn Văn Thông (cán bộ địa chính xã) và gia đình ông Điều Huy Sơn. Gia
đình ông Nguyễn Văn Thông đã được UBND huyện Vân Đồn cấp Giấy
CNQSD đất số AG 802419 ngày 28/3/2007 và gia đình ông Điều Huy Sơn
được cấp Giấy CNQSD đất số AG 802418 ngày 28/3/2007.
Từ ngày 29/01/2013 đến nay, gia đình bà Tân và bà Tỵ đã hai lần gửi
đơn đến UBND huyện Vân Đồn đề nghị hủy bỏ Giấy CNQSD đất số
AG802419 đã cấp cho gia đình ông Nguyễn Văn Thông, Giấy CNQSD đất số
AG 802418 đã cấp cho gia đình ông Điều Huy Sơn, Giấy CNQSD đất số
00455 ngày 21/9/1999 cấp cho hộ ông nguyễn Bá Mùi, Giấy CNQSD đất số
00292 ngày 03/9/1999 cấp cho hộ ông Nguyễn Bỉnh Dính và đề nghị Chủ tịch
UBND huyện Vân Đồn cấp Giấy CNQSD đất số diện tích mà gia đình bà Tỵ
đã nhận chuyển nhượng.
Hiện nay, UBND huyện đang tiến hành đền bù đất canh tác tại khu T6
39
để làm đường liên xã có đi qua diện tích mà bà Tỵ đã nhận chuyển nhượng
nhưng gia đình bà Tỵ lại không được đứng tên nhận tiền đền bù. Do đó, bà Tỵ
đề nghị Chủ tịch UBND huyện giữ lại số tiền đền bù trên đợi sau khi giải
quyết xong sẽ trả lại cho gia đình bà Tỵ.
Ngày 03/6/2015, UBND huyện ban hành văn bản số 530/UBND-
TNMT trả lời đơn khiếu nại của bà Trần Thị Tỵ với nội dung cụ thể như sau:
Việc UBND huyện Vân Đồn cấp GCNQSD đất cho hộ ông Nguyễn Bá
Mùi và ông Nguyễn Bỉnh Dính năm 1999 đã ảnh hưởng đến quyền lợi của bà
Trần Thị Tỵ và Trần Thị Tân. Do đó, việc bà Trần Thị Tân và Trần Thị Tỵ có
đơn khiếu nại đến UBND huyện Vân Đồn về việc cấp GCNQSD đất cho hai
hộ trên là hoàn toàn chính đáng. Vì vậy, việc UBND huyện Vân Đồn đã cấp
GCNQSD đất cho hộ ông Nguyễn Bá Mùi và ông Nguyễn Bỉnh Dính vào thời
điểm năm 1999 mà đến tận năm 2013 bà Trần Thị Tân và bà Trần Thị Tỵ mới
có đơn khiếu nại đến UBND huyện nên thời hiệu khiếu nại đối với hành vi
trên đã hết. Do đó, để đảm bảo quyền lợi cho công dân, căn cứ Điều 136 Luật
Đất đai năm 2003 thì công dân có thể đề nghị TAND huyện Vân
ĐồnGQTCĐĐ theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, sau khi nhận được văn bản trả lời của UBND huyện Vân
Đồn, công dân Trần Thị Tỵ đã có đơn đề nghị GQTCĐĐ tại TAND huyện
Vân Đồn nhưng cũng bị từ chối giải quyết.
Nhận xét: Trường hợp này, khi xảy ra tranh chấp đương sự phát hiện
diện tích đất của mình đã bị cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho người khác. Trước tình thế này, đương sự thường
không khởi kiện đến TAND huyện mà họ sẽ khiếu nại yêu cầu UBND huyện
thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho người khác không
đúng pháp luật. Nhưng nếu đương sự không có căn cứ hoặc không chứng
minh được quyền hợp pháp của mình trên thửa đất đó. Thời điểm xét duyệt và
40
công khai hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không có đơn thư
khiếu kiện, quy trình xét cấp giấy chứng nhận đúng quy định và hồ sơ địa
chính không thể hiện rõ ràng thì đây không phải là khiếu nại về đất đai mà là
vụ việc TCĐĐ. Đối với các trường hợp này UBND huyện thường hướng dẫn
đương sự chuyển đơn đến TAND để được giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên,
TAND thường không đồng nhất với quan điểm của UBND vì cho rằng đây là
khiếu nại của công dân đối với việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
của huyện. Do đó, Tòa án cũng không thụ lý giải quyết [56].
(2) Tình hình GQTCĐĐ tại toà án nhân dân huyện
Trong những năm gần đây tình hình tranh chấp quyền sử dụng đất trên
địa bàn huyện Vân Đồn diễn ra chủ yếu là các vụ việc: Tranh chấp về hợp
đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất và tranh chấp đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm đất đai, tranh
chấp đất do bố mẹ, ông bà để lại.
Theo số liệu thống kê của TAND huyện, số vụ tranh chấp quyền sử
dụng đất được các TAND huyện xét xử sơ thẩm từ năm 2014 đến năm 2018
như sau:
Bảng 2.2. Công tác GQTCĐĐ thông qua TAND huyện Vân Đồn,
Quảng Ninh
Kết quả Tổng số vụ Năm án thụ lý Hòa giải Đình chỉ Xét xử sơ thẩm Kháng án
2014 15 4 9 2 0
2015 18 4 13 1 0
2016 26 7 18 0 1
2017 28 6 21 1 0
2018 31 8 22 1 0
Tổng 118 29 83 5 1
41
(Nguồn: TAND huyện Vân Đồn)
Thực tế những khó khăn, vướng mắc của TAND thường gặp khi giải
quyết các tranh chấp về đất đai trên địa bàn huyện Vân Đồn:
- Tiến độ làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chậm, giá
đất biến động nhanh và cao; nhu cầu của người sử dụng đất ngày càng đa
dạng; mặt khác người có đất cũng muốn chuyển nhượng đất để có thêm thu
nhập cải thiện cuộc sống. Vì vậy, việc chuyển nhượng đất rất sôi động, phần
nhiều người dân lập hồ sơ chuyển nhượng đất chưa đúng, chưa đủ thủ tục
theo quy định của pháp luật và chỉ thể hiện bằng giấy viết tay. Đây là điều
kiện để phát sinh nhiều tranh chấp về chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
- Đối với các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập
trong giai đoạn trước 1/7/1980 hoặc từ ngày 15/10/1993 trở về sau thường là
chỉ có viết giấy tay, bên mua đã xây dựng nhà ở hoặc công trình khác, khi giá
nhà lên cao, bên bán xin hủy hợp đồng, đường lối giải quyết thường không
thống nhất, có vụ án thì xử công nhận hợp đồng, có vụ án lại xử hủy hợp đồng.
- Đối với trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác định
trong giai đoạn từ 1/7/1980 đến trước ngày 15/10/1993 (thời gian pháp luật
chưa cho phép chuyển quyền sử dụng đất) đường lối giải quyết lại càng khó
khăn. Cụ thể là khi hai bên lập hợp đồng chuyển nhượng đất đó, chưa được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bên mua đã làm nhà trên đất đó. Quá
trình tranh chấp kéo dài nay một bên kiện hủy hợp đồng mua bán đất. Nếu
Tòa án thụ lý và xử hủy hợp đồng theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch 01
năm 2002) thì nảy sinh nhiều bất hợp lý.
- Trường hợp tặng cho có điều kiện. Trên thực tế có trường hợp chủ sở
hữu tặng cho người khác nhà, đất nhưng với điều kiện người được tặng cho,
phải làm một công việc nào đó (ví dụ: như nuôi dưỡng chủ sở hữu hoặc một
người khác đến khi chết và chịu trách nhiệm thờ cúng…) nhưng người được
42
tặng đã không thuộc điều kiện này một cách trọn vẹn nên chủ sở hữu, người
có quyền sử dụng yêu cầu tòa án hủy hợp đồng tặng cho, hiện nay tồn tại
nhiều quan điểm về vấn đề này.
- Một bên thuê nhà của Nhà nước đã chuyển nhượng quyền thuê nhà
cho người khác, nhưng không có ý kiến của cơ quan có thẩm quyền thì giải
quyết thế nào? hiện các thẩm phán xét xử có quan điểm rất khác nhau.
- Tuy TAND tối cao đã có hướng dẫn việc đánh giá quyền sử dụng đất
nhưng khi giải quyết các trường hợp cụ thể thì vẫn gặp những khó khăn,
thường là các bên không thỏa thuận được. Đối với trường hợp hủy hợp đồng
thì việc đánh giá, tính lỗi và bồi thường, nhất là trong tình hình giá đất sốt cao
lại gặp rất nhiều khó khăn và giải quyết không thống nhất.
- Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, việc thanh toán hàng trả
lại tiền đã giao nhận để chuyển quyền sử dụng đất, việc tính lãi của số tiền này
cũng giải quyết khác nhau. Những công trình, cây trái, hoa lợi, công bồi bổ đất
được tính toán và giải quyết không đơn giản, thường tranh chấp rất gay gắt.
- Đối với trường hợp khi ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất các bên có đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nhưng
khi thực hiện hợp đồng các bên lại thanh toán trong hợp đồng mua bán nhà,
đất bằng tiền ngoại tệ, hiện nay có hai quan điểm khác nhau, có quan điểm
cho rằng hợp đồng mua bán nhà nêu trên vi phạm vào điều cấm của pháp luật
nên vô hiệu nhưng cũng có quan điểm cho rằng, việc thanh toán bằng ngoại tệ
là vi phạm các quy định về quản lý ngoại hối, nhưng ở giai đoạn này thực
hiện hợp đồng không nên nhất thiết phải hủy hợp đồng chuyển nhượng.
Ví dụ 2: Về việc cán bộ làm công tác địa chính không kiểm tra thực tế
đã đề xuất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sai vị trí, chồng lên phần
đất đã được cấp của người khác gây mâu thuẫn trong nhân dân [56]:
Năm 1999 ông Đỗ Văn Phi đã chia một mảnh đất nằm trong tổng diện
43
tích đất của mình tại xòm 3, xã Quan Lạn, Vân Đồn, Quảng Ninh cho con gái
tên là Đỗ Thị Kiên. Sau đó ông Phi nhà cho chị Kiên ở trên mảnh đất đó. Đến
năm 2001 ông Phi làm thủ tục chuyển nhượng đất cho chị Kiên. Năm 2002
UBND huyện Vân Đồn không xác minh xem xét thực tế hiện trạng đã cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 00641/1999/QSDĐ theo quyết định số
555/1999/UBND ngày 29/12/1999 cho chị Đỗ Thị Kiên nhưng không phải
mảnh đất nơi chi Kiên đang ở mà là mảnh đất nơi ông Phi đang ở. Chị Kiên
nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng không kiểm tra lại ông
Phi không biết việc này. Năm 2003 ông Đỗ Văn Phi và con trai là anh Đỗ Văn
Lùy đã dỡ bỏ nhà cũ nơi ông Phi và anh Lùy đang ở để xây nhà hai tầng. Chị
Kiên không có ý kiến gì về việc ông Phi và anh Lùy xây nhà. Năm 2005 ông
Phi và vợ chết không để lại di chúc. Năm 2011 anh Lùy tự lập giả di chúc, sau
đó làm thủ tục sang tên đất và xin UBND xã Quan Lạn và UBND huyện Vân
Đồn cấp GCNQSDĐ cho mình. Quá trình làm thủ tục sang tên anh Lùy và các
cơ quan chức năng đã không hỏi ý kiến của chị Kiên, không đo đạc kiểm tra
thực tế và không thu hồi lại GCNQSDĐ của chị Kiên. Ngày 08/12/2011
UBND huyện Vân Đồn đã cấp GCNQSDĐ số 2071/QĐ-UBND cho anh Đỗ
Văn Lùy chồng lên GCNQSDĐ của chị Kiên và chồng lên cả một phần đất
mà chị Kiên đang ở hiện tại. Năm 2013 cán bộ địa chính xã đi kiểm tra thực
tế, phát hiện đất của chị Kiên không phải nơi chị Kiên đang ở mà là diện tích
đất nơi nhà anh Lùy đang ở. Cùng thời điểm đó chị Kiên và anh Lùy sảy ra
mâu thuẫn cá nhân nên ngày 17/3/2014 chị Kiên đã khởi kiện đến TAND
huyện Vân Đồn đòi anh Lùy trả lại đất cho chị Kiên [56].
Sau một thời gian điều tra, xác minh TAND huyện Vân Đồn xác định:
Phòng Tài nguyên và Môi trường thuộc UBND huyện Vân Đồn không
tiến hành xác minh, đo đạc và xem xét thẩm định đối với hiện trạng đất, cán
bộ địa chính cấp xã chỉ ký vào biên bản giao đất chứ không tham gia trực tiếp
44
vào việc giao đất cho chị Kiên dẫn đến cấp sai vị trí đất cho chị Kiên.
Việc anh Lùy làm giả giấy di chúc để làm đơn xin UBND xã, huyện
cấp đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cán bộ địa chính cấp xã, cán
bộ thuộc UBND huyện đã không kiểm tra, đo đạc xác minh rõ nguồn gốc đất
mà đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chồng lên toàn bộ số đất trong
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho chị kiên và chồng lên một phần
đất nơi chị Kiên đang sống hiện tại là sai, không hợp pháp
Căn cứ vào các lẽ trên và các điều luật quy định TAND huyện Vân Đồn
tuyên xử (Bản án dân sự sơ thẩm số: 04/2015/DSST ngày 28/01/2015): Hủy
GCNQSDĐ số: 00641/1999/QSDĐ của chị Đỗ Thị Kiên và GCNQSDĐ số:
2071/QĐ-UBND của anh Đỗ Văn Lùy. Đề nghị UBND huyện Vân Đồn cấp
lại GCNQSDĐ đất cho chị Đỗ Thị Kiên đúng theo hiện trạng [40].
Sau khi tuyên án chị Đỗ Thị Kiên không chấp nhận quyết định của tòa
án và kháng cáo đề nghị TAND tỉnh Quảng Ninh xét xử phúc thẩm đồng thời
còn đề nghị thêm với nội dung: Gia đình ông Đỗ Văn Phi có hai con là chị Đỗ
Thị Kiên và anh Đỗ Văn Lùy. Sau khi ông Đỗ Văn Phi và vợ chết không để lại
di chúc chia tài sản và đất cho ai. Theo quy định của việc thừa kế chị Kiên phải
được hưởng một nửa mảnh đất và một phần tài sản của bố, mẹ để lại. Do vậy,
chị Kiên đề nghị TAND tỉnh Quảng Ninh xử chia đất và tài sản cho chị Kiên.
Ví dụ 3:Năm 2015, khi chuẩn bị cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất (GCNQSDĐ) cho gia đình bà Nguyễn Thị Hương (chồng là Phạm
Văn Khôn), UBND xã Hạ Long, huyện Vân Đồn đã nhận được đơn của 3 hộ:
Nguyễn Văn Ly, Nguyễn Văn Ước, Nguyễn Văn Huy (thôn 10, xã Hạ Long,
Vân Đồn), đề nghị xác định lại diện tích ngõ đi chung (nằm tiếp giáp với bức
tường phía Nam của gia đình bà Hương). Trong những lá đơn này, các hộ cho
rằng, gia đình bà Hương đã xây tường bao, lấn 0,5m ngõ xóm, khiến con ngõ
45
này bị thu hẹp, gây khó khăn và ảnh hưởng đến sinh hoạt của các hộ. Căn cứ
để 3 hộ khẳng định gia đình bà Hương lấn ngõ là trên GCNQSDĐ của các hộ
(kể cả GCNQSDĐ của gia đình bà Hương) đều ghi ngõ đi chung là 2m.
Mảnh đất của gia đình bà Hương có hai mặt giáp với đường xóm. Phía
Tây giáp với đường chính của thôn; phía Nam giáp với ngõ nhỏ đi vào nhà
ông Ly, ông Ước, ông Huy. Quan sát mắt thường cho thấy các bờ tường của
gia đình bà Hương được xây bằng gạch xỉ vôi, móng đá. Trên bề mặt các bức
tường, toàn bộ rêu phủ đã chuyển màu đen cũ kỹ... So hiện trạng thửa đất
trong khuôn viên tường bao với diện tích ghi trong GCNQSDĐ (cấp năm
2004) có sự sai lệch tương đối lớn (tổng diện tích theo hiện trạng nhà bà
Hương đang sử dụng là trên 543m2 nhưng GCNQSDĐ năm 2004 chỉ có
360m2; trong đó, chiều ngang thửa đất theo hiện trạng sử dụng là 15,5m còn
trên GCNQSDĐ là 14,5m).
Con ngõ đi chung rộng 1,5m theo như khẳng định của bà Hương cũng
được nhiều người xác nhận. Trong đó, ông Hà Đức Bành, nguyên trưởng thôn
10 khẳng định: “Năm 2004, triển khai việc đo đạc làm hồ sơ cấp GCNQSDĐ
cho nhân dân, tôi là người trực tiếp dẫn cán bộ địa chính đi đo đạc từng nhà
dân. Trường hợp ngõ vào 3 nhà: Anh Ước, anh Ly, anh Huy, đoạn tiếp giáp
với nhà anh Khôn và nhà ông Lâm, lúc bấy giờ rất nhỏ hẹp, đo đạc chỉ có
chiều rộng 1,5m”.
Ông Lê Quốc Ngữ, nguyên cán bộ địa chính xã, người trực tiếp đo đạc
làm hồ sơ cấp GCNQSDĐ cũng xác nhận: “Khi ấy, thực hiện nội dung giao
thông nông thôn của Nghị quyết HĐND xã, khóa XVII, nhiệm kỳ 1999-2004
về mở rộng đường ngõ trong thôn, nên khi cấp sổ đỏ cho ông Khôn, ông Ước,
ông Ly, ông Huy đã trừ diện tích mỗi hộ là 0,3m để khi dân có điều kiện thì
mở rộng đường. Tuy nhiên, từ đó đến nay, các hộ ở thôn 10 chưa thực hiện
theo Nghị quyết HĐND năm 1999, nên ngõ đi vào nhà ông Huy, ông Ly, ông
46
Ước chưa mở rộng 2m”...
Trong Công văn số 186/UBND, ngày 16/5/2016 của UBND huyện Vân
Đồn về việc trả lời đơn của bà Nguyễn Thị Hương, ông Nguyễn Văn Ước,
Nguyễn Như Ly (còn tên gọi khác là Nguyễn Văn Ly), Nguyễn Văn Huy, trú
tại thôn 10, xã Hạ Long có khẳng định: Việc các hộ gia đình ông Ước, ông
Ly, ông Huy kiến nghị giải quyết việc hộ gia đình bà Hương có xây tường rào
lấn vào ngõ đi chung 0,5m là chưa có cơ sở. Kết luận này được căn cứ trên
một số kết quả xác minh hiện trạng ngõ đi chung của Phòng Tài nguyên - Môi
trường huyện. Cụ thể: Tại tờ bản đồ địa chính số 64 được Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh Quảng Ninh phê duyệt năm 2013, phần hiện trạng ngõ đi tiếp
giáp với thửa đất số 193, tờ bản đồ địa chính số 64 có chiều rộng phía đầu ngõ
(tính từ tường rào nhà bà Hương đến tường rào nhà ông Lâm) là 1,7m; chiều
rộng trung bình ngõ là 1,5m. Ranh giới thửa đất đã được các hộ giáp ranh với
hộ gia đình bà Hương ký xác nhận tại bản mô tả ranh giới, mốc giới ngày 11-
4-2015 (trong đó có hộ ông Ước)...
Sau rất nhiều lần hòa giải, rồi trì hoãn vì nguyên đơn không có mặt,
cuối cùng, ngày 28/9/2017, phiên tòa giải quyết tranh chấp ngõ đi chung giữa
2 hộ là ông Nguyễn Văn Ly, Nguyễn Văn Ước và gia đình bà Nguyễn Thị
Hương cùng trú tại thôn 10, xã Hạ Long, Vân Đồn đã được đưa ra xét xử
công khai [57].
Tại phiên tòa, đại diện UBND huyện Vân Đồn khẳng định, từ năm
2004-2006, UBND huyện Vân Đồn cấp GCNQSDĐ cho gia đình bà Hương,
ông Ly, ông Ước đều thể hiện diện tích ngõ đi là 2m. Căn cứ vào xác nhận
của những người nguyên là trưởng thôn, địa chính xã Hạ Long khi đo đạc làm
hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho các hộ dân trong xã (trong đó có gia đình bà
Hương, ông Ly, ông Ước), thực hiện theo Nghị quyết của HĐND xã năm
1999 nên đã trừ đi một phần đất của các hộ đang sử dụng ổn định để mở
47
đường thôn, nên trong trích lục các thửa đất đều thể hiện ngõ đi chung là 2m
trở lên. Vì vậy, kích thước ngõ đi chung trên GCNQSDĐ đã cấp cho các hộ
thời điểm 2004-2006 là chưa phản ánh chính xác hiện trạng chiều rộng của ngõ
xóm cũng như hiện trạng sử dụng đất của gia đình bà Hương. Căn cứ điểm d
của khoản 2 và khoản 3 điều 106 Luật Đất đai 2013 thì các GCNQSDĐ đã cấp
trên thuộc trường hợp Nhà nước sẽ thu hồi để cấp lại cho đúng hiện trạng sử
dụng đất.Đại diện UBND xã Hạ Long, ông Dương Văn Ninh, Phó Chủ tịch
UBND xã Hạ Long lại vẫn giữ quan điểm cho rằng, có sự lấn chiếm diện tích
ngõ đi chung [57].
Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem
xét tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử
nhận định: Gia đình bà Hương, ông Ly, ông Ước sinh sống tại thôn 10, xã Hạ
Long từ những năm 1990-1991. Đến 2004, hộ bà Hương được UBND huyện
cấp GCNQSDĐ thể hiện ngõ đi vào hộ ông Ly, ông Ước là 2m. Đến năm
2006, hộ ông Ly, ông Ước được cấp GCNQSDĐ thể hiện ngõ đi giáp tường
rào nhà bà Hương là 2m. Năm 2015, hộ bà Hương nhận thấy diện tích
GCNQSDĐ được cấp không đúng thực tế sử dụng nên đã đề nghị UBND
huyện Vân Đồn cấp lại theo hiện trạng thì 2 hộ không đồng ý cho rằng gia đình
bà Hương xây tường gạch lấn ngõ đi 0,5m và kiện ra tòa án yêu cầu bà Hương
trả lại diện tích ngõ đi chung là 2m như GCNQSDĐ đã cấp cho các hộ [57].
Tại phiên tòa, đại diện UBND xã Hạ Long nêu quan điểm ngõ đi vào
nhà 2 hộ từ những năm 1978-2004 rộng khoảng hơn 2m, đến năm 2004 có
thay đổi hiện trạng do lấn chiếm, tuy nhiên UBND xã Hạ Long không có văn
bản pháp lý nào chứng minh về việc ngõ đi chung vào các hộ dân trên bị lấn
chiếm. Căn cứ GCNQSDĐ cấp cho hộ ông Huy năm 1997 thì ngõ đi từ nhà
ông Huy ra đường thôn có chiều rộng 1,5m. UBND huyện Vân Đồn cũng nêu
quan điểm khi vẽ trên GCNQSDĐ cho các hộ thời điểm năm 2004-2006, có
48
thể hiện ngõ đi chung rộng 2m là không chính xác, nên cần xác minh làm rõ,
cấp lại cho các hộ theo quy định Luật Đất đai. Do đó, tài liệu chứng cứ mà
nguyên đơn, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn chứng
minh theo yêu cầu của mình là không có căn cứ chấp nhận [40].
Vì các lẽ trên, TAND huyện Vân Đồn tuyên xử không chấp nhận yêu
cầu của các nguyên đơn ông Nguyễn Văn Ly, ông Nguyễn Văn Ước về việc
yêu cầu gia đình bà Nguyễn Thị Hương trả lại diện tích 12,75m2 đất ngõ đi
chung cho ông Ly, ông Ước tại thôn 10, xã Hạ Long. Đồng thời, kiến nghị
UBND huyện Vân Đồn thu hồi GCNQSDĐ của các hộ đang tranh chấp trên
để xác minh, làm rõ và cấp lại GCNQSDĐ theo quy định [40].
2.2.2. Đánh giá việc giải quyết tranh chấp đất đai tại huyện Vân Đồn,
tỉnh Quảng Ninh
2.2.2.1. Những mặt tích cực
Thực hiện quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về vấn đề GQTCĐĐ, trong thời gian qua, Huyện ủy, HĐND,
UBND huyện Vân Đồn đã có sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời đối với công tác
GQTCĐĐ. Đảng bộ huyện Vân Đồn đã đặt công tác này là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị,
trật tự an toàn xã hội; đã đề ra mục tiêu giải quyết cơ bản, dứt điểm số vụ
TCĐĐ; đề cao công tác hòa giải cơ sở để giữ mối đoàn kết trong nội bộ nhân
dân; ổn định tình hình quản lý và sử dụng đất đai; hạn chế tối đa các điểm
nóng phát sinh và tình trạng tranh chấp, khiếu kiện đất đai đông người kéo lên
huyện, tỉnh và trung ương. HĐND huyện Vân Đồn thường xuyên ban hành
nghị quyết về công tác quản lý và sử dụng đất đai để tạo cơ sở pháp lý rõ
ràng, rành mạch, cụ thể cho việc quản lý và sử dụng đất trên địa bàn, từ đó
hạn chế được những TCĐĐ mới phát sinh; đồng thời, HĐND tăng cường chỉ
đạo và giám sát UBND trong công tác GQTCĐĐ đảm bảo tính hợp hiến, hợp
49
pháp và hợp lý đối với từng vụ việc.UBNDhuyện luôn chỉ đạo tăng cường
công tác quản lý và sử dụng đất đai; đổi mới công tác tiếp công dân; kiện toàn
bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp công dân và
GQTCĐĐ. Thường xuyên quán triệt các bộ phận chuyên môn GQTCĐĐ phải
vận dụng linh hoạt các quy định pháp luật; cải tiến phương pháp GQTCĐĐ;
nghiên cứu thật kỹ nội dung TCĐĐ để nắm bắt được nguyên nhân dẫn đến
tranh chấp; cũng như xem xét, phân tích các chứng cứ, hồ sơ, tài liệu, sổ
sách... liên quan đến đất tranh chấp để các TCĐĐ được giải quyết kịp thời,
nhanh chóng, tránh tình trạng dây dưa, kéo dài, dai dẳng. Việc ban hành các
văn bản GQTCĐĐ phải có lý, có tình, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp
pháp, tạo sự hài hòa thỏa đáng cho các bên đương sự, hạn chế đơn thư khiếu
kiện lên cấp trung ương; đặc biệt là tránh tình trạng giải quyết tranh chấp
không đúng pháp luật gây bức xúc trong nhân dân và mất niềm tin đối với
cơ quan nhà nước. Kết quả công tác GQTCĐĐ trên địa bàn huyện Vân Đồn
thể hiện:
Thứ nhất, về công tác hòa giải cơ sở. Công tác hòa giải cơ sở luôn nhận
được sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương trong việc tổ
chức và hoạt động; nhận được sự quan tâm, hướng dẫn của Sở Tư pháp tỉnh
Quảng Ninh, Phòng Tư pháp huyện Vân Đồn về thực hiện công tác hòa giải ở
cơ sở. Thành viên Tổ hòa giải là trưởng các tổ chức quần chúng ở cơ sở,
nhiều người là cán bộ, công chức, sĩ quan quân đội… nghỉ hưu và đã tham gia
công tác hòa giải nhiều năm, có uy tín trong cộng động dân cư, mặt khác các
tổ viên tổ hòa giải là những người trực tiếp ở cơ sở nên sớm nắm bắt được các
mâu thuẫn phát sinh, kịp thời giải quyết trên cơ sở tình làng, nghĩa xóm,
phong tục tập quán, truyền thống đạo lý và các quy định của pháp luật liên
quan, nên kết quả hòa giải đảm bảo chất lượng. Sự phối kết hợp của cơ quan
tư pháp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của
50
Mặt trận các cấp từ tỉnh đến cơ sở được thực hiện đồng bộ và thường xuyên
trong việc triển khai, thực hiện việc hòa giải. Hầu hết các thôn, xóm, tổ dân
phố trên địa bàn tỉnh đã xây dựng được hương ước, quy ước về nếp sống văn
hóa khu dân cư. Chính từ các lý do đó mà công tác hòa giải trên địa bàn
huyện Vân Đồn đã đạt được nhiều kết quả tốt, góp phần giải quyết được mâu
thuẫn xích mích, vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân nói
chung và những mâu thuẫn, xích mích trong lĩnh vực đất đai nói riêng, từ đó
giữ gìn trật tự xóm, làng, bình yên xóm ngõ ở khu dân cư, góp phần vào việc
tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai, nâng cao nhận thức và ý
thức chấp hành pháp luật đất đai của người dân.
Thứ hai, về công tác GQTCĐĐ. Các vụ TCĐĐ thuộc thẩm quyền của
cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn huyện Vân Đồn đã được giải quyết
theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định, từ việc hòa giải tại UBND
cấp xã đến việc giải quyết lần một tại UBND cấp huyện. Kết quả giải quyết từ
ngày 01/01/2014 đến 31/12/2018, UBND cấp huyện đã giải quyết 165 vụ
tranh chấp và UBND cấp xã, thị trấn giải quyết 286 vụ; số vụ tồn đọng chủ
yếu là do nguyên nhân khách quan bắt nguồn từ những quy định của pháp
luật, chế độ quản lý và sử dụng đất đai khác nhau qua các thời kỳ và sự phối
hợp giải quyết từ các đương sự. Kết quả giải quyết các vụ TCĐĐ phần lớn đạt
được sự đồng thuận, chấp hành từ các bên đương sự, điều này đã hạn chế
được việc tiếp tục kiến nghị giải quyết lên cấp tỉnh và trung ương.
Thứ ba, số lượng các vụ việc GQTCĐĐ nói chung cũng như GQTCĐĐ
bằng Toà án nói riêng năm sau đều cao hơn năm trước. Các TCĐĐ đều được
TAND huyện Vân Đồn giải quyết dứt điểm, nhanh chóng, theo tinh thần
thượng tôn pháp luật, được các bên tham gia tranh chấp và dư luận trong nhân
dân đồng tình.Trong quá trình giải quyết, về mặt hình thức TAND huyện Vân
51
Đồn đã tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Thứ tư, việc GQTCĐĐ tại huyện Vân Đồn đảm bảo vận dụng một cách
phù hợp các đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước.
2.2.2.2. Những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân
Tuy vậy, việc GQTCĐĐ còn có những khó khăn, tồn tại nhất định:
Một là, hệ thống pháp luật GQTCĐ, văn bản có giá trị phá lý cao nhất
là hiến pháp cao nhất là Hiến pháp; sau đó luật về đất đai và các văn bản dưới
luật hướng dẫn điều chỉnh các mối quan hệ về đất đa.
Có thể nói rằng một trong những nguyên nhân cơ bản phát sinh tranh
chấp hành chính về đất đai vừa qua gay gắt là do các nguyên nhân như Luật
đất đai cũ có quá nhiều bất cập trong việc thu hồi, định giá, đền bù, hỗ trợ tái
định cư... Đây cũng là những nội dung mà trong quá trình sửa đổi, bổ sung
Luật Đất đai 2013, đã qua có nhiều ý kiến của Đại biểu Quốc hội cũng như các
chuyên gia đề xuất, tuy nhiên vẫn còn những hạn chế, bất cập mà nếu việc
hướng dẫn, tổ chức thực hiện không tốt sẽ tiếp tục gây mâu thuẫn, xung đột về
quyền và lợi ích với người sử dụng đất, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Về thu hồi đất, Hiến pháp năm 2013 khẳng định Nhà nước chỉ thu hồi
đất trong trường hợp thật cần thiết vì mục đích an ninh, quốc phòng, để phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và Luật đất đai năm
2013 củng khẳng định rõ các dự án quan trọng cấp quốc gia phải do Thủ
tướng và Quốc hội quyết định, cấp tỉnh sẽ có thêm sự tham gia của HĐND
nhưng vẫn chưa làm rõ được giới hạn của “thật cần thiết” đã chỉ ra trong Hiến
pháp. Trong hệ thống pháp luật hiện nay đã cụ thể hóa một phạm vi quá rộng
các trường hợp được phép thu hồi đất đặc biệt là đất nông nghiệp, chỉ có một
điểm khác là những trường hợp đó, tùy thuộc vào quy mô, sẽ cần có sự chấp
thuận của HĐND cấp tỉnh, huyện, bên cạnh cơ quan chính quyền có thẩm
quyền thu hồi đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013. Nếu việc hướng
52
dẫn và tổ chức thực hiện không tốt về vấn đề này như mục đích thu hồi đất,
giải phóng mặt bằng, đền bù và tái định cư… có thể lại dẫn đến tình trạng lạm
quyền, thu hồi đất tràn lan, tiếp tục gây bức xúc trong nhân dân [52].
Hai là, Ban hành các quyết định hành chính vừa qua còn thiếu các căn
cứ pháp lý về thực hiện hành vi hành chính trong quản lý nhà nước về đất đai,
vì việc phân biệt giữa quyết định hành chính và hành vi hành chính trong các
cơ quan có thẩm quyền đôi khi còn lúng túng, thực tế khó xác định hành vi
hành chính mang tính nội bộ hay hành vi hành chính là đối tượng của khiếu
nại hành chính và khởi kiện hành chính, do chưa có đạo luật quy định về việc
ban hành quyết định hành chính trong quản lý nhà nước nói chung, trong quản
lý về đất đai nói riêng cho nên việc ban hành các quyết định hành chính trong
việc thu hồi, bồi thường giải phóng mặt bằng, chuyển mục đích sử dụng đất,
còn có hiện tượng sai đối tượng, thiếu căn cứ, không tuân thủ trình tự thủ tục,
thiếu công khai, dân chủ, công bằng, không thẩm tra xem xét xem người được
giao có nhu cầu sử dụng đất hay không...
Liên quan đến hệ thống pháp luật GQTCĐĐ trong lĩnh vực hành chính
còn có Luật Tố tụng hành chính 2010, Luật Khiếu nại 2011 và các văn bản
khác liên quan. Các văn bản hướng dẫn vừa qua có những quy định không
thống nhất dẫn đến khó áp dụng trên thực tiễn, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả
GQTCĐĐ trong lĩnh vực hành chính.
Ba là, trong công tác hòa giải, các vụ TCĐĐ mà các tổ hòa giải ở cơ sở
và UBND cấp xã hòa giải thành công là những vụ tranh chấp đơn giản, cơ sở
pháp lý để giải quyết tương đối rõ ràng hoặc các bên đương sự là những
người hiểu biết, có thiện chí hòa giải. Còn đối với những vụ án phức tạp, thiếu
cơ sở pháp lý để giải quyết như hồ sơ địa chính thiếu hoặc không có hoặc thay
đổi do những yêu cầu của chính sách đất đai của Nhà nước; việc sao lục giấy
tờ nhà đất tại các cơ quan có thẩm quyền gặp khó khăn... thì tổ hòa giải ở cơ
53
sở cũng như UBND cấp xã khó hòa giải thành công. Hơn nữa thành viên tổ
hòa giải và cán bộ làm công tác hòa giải chưa đủ trình độ, năng lực để hòa
giải các vụ TCĐĐ; việc theo dõi kết quả sau hòa giải không được duy trì nên
sau một thời gian các bên lại tiến hành tranh chấp. Do thế mà tỷ lệ hòa giải ở
cơ sở liên quan đến đất đai chỉ mới đạt 75%; tỷ lệ hòa giải TCĐĐ tại UBND
cấp xã đạt khoảng 85%. Mặt khác, một số UBND xã khi tiến hành hòa giải
không lập biên bản (biên bản hòa giải thành hoặc biên bản hòa giải không
thành) mà lại ban hành công văn hoặc thông báo gửi đến cơ quan có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp. Như vậy về hình thức pháp lý của công tác hòa
giải tại UBND xã là không đúng theo quy định của pháp luật.
Bốn là, tình trạng tiếp nhận đơn về đất đai của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền làm chưa tốt, ở cấp xã sau khi hòa giải TCĐĐ không thành chưa
hướng dẫn cụ thể theo quy định của pháp luật cho đương sự, còn để xảy ra
tình trạng đương sự đi nhiều nơi đề nghị giải quyết tranh chấp, đơn đề nghị
giải quyết tranh chấp gửi đến nhiều cơ quan. Tại các huyện, thành phố cán bộ
tiếp dân liên quan đến khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai làm việc theo
lịch tiếp dân của UBND huyện nên chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho
công dân; một số phiên tiếp dân đạt hiệu quả chưa cao. Đối với công tác xử lý
đơn thư TCĐĐ: thực tế cho thấy hầu như tất cả các vụ việc khiếu nại, tố cáo,
tranh chấp về đất đai UBND huyện, UBND tỉnh đều giao cho Phòng Tài
nguyên Môi trường và Sở Tài nguyên Môi trường đảm nhận, trong khi đó lực
lượng mỏng, chức năng nhiệm vụ ngoài giải quyết khiếu nại, tố cáo, TCĐĐ
còn nhiều nên công tác xử lý các đơn thư về đất đai nói chung và TCĐĐ nói
riêng đôi khi còn chậm, thậm chí có những trường hợp không đảm bảo được
thời hạn theo pháp luật quy định.
Năm là, về trình tự, thủ tục GQTCĐĐ, còn tồn tại một số vụ ở huyện
và thành phố việc GQTCĐĐ chưa đảm bảo về trình tự, thủ tục; việc giải
54
quyết chưa kịp thời, không dứt điểm dẫn đến tình trạng tranh chấp kéo dài.
Hơn nữa, trong quá trình xem xét, giải quyết các vụ việc, vẫn còn một số
trường hợp xác định tính chất vụ việc không đúng, chưa phân định rõ vụ việc
thuộc dạng khiếu nại hay tranh chấp dẫn đến việc giải quyết luẩn quẩn, hao
tốn thời gian, công sức, tiền bạc và gây bức xúc cho các bên đương sự. Trước
khi Luật Tố tụng hành chính năm 2010 có hiệu lực còn nhiều tình trạng các
vụ TCĐĐ đã có quyết định giải quyết cuối cùng nhưng đương sự vẫn cố tình
không thực hiện hoặc tiến độ thực hiện quyết định chậm bởi việc tổ chức thi
hành quyết định chưa nghiêm; đương sự cho rằng việc giải quyết vẫn chưa
thỏa đáng; cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thiếu
kiểm tra, đôn đốc để giải quyết dứt điểm. Sau khi Luật tố tụng hành chính
năm 2010 có hiệu lực thì nhiều vụ việc đã được giải quyết lần hai, tức là đã có
quyết định giải quyết cuối cùng rồi nhưng đương sự vẫn tiếp tục khởi kiện vụ
việc ra TAND theo thủ tục tố tụng hành chính, dẫn đến các vụ TCĐĐ diễn
biến ngày càng phức tạp, dây dưa, kéo dài.
Nguyên nhân của những khó khăn, tồn tại
Nguyên nhân của những khó khăn, tồn tại trong việc áp dụng các quy
định của pháp luật về GQTCĐĐ thông qua cơ quan hành chính nhà nước trên
địa bàn huyện Vân Đồn được chia thành hai loại: nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan.
* Nguyên nhân khách quan
Việc phân cấp thẩm quyền trong quản lý đất đai chưa đi đôi với qui
định cơ chế bảo đảm quản lý thống nhất; công tác thanh tra, giám sát thi hành
pháp luật chưa nghiêm, quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu
nại về đất đai chưa đủ rõ dẫn đến công tác xét xử, giải quyết các tranh chấp,
khiếu kiện về đất đai còn nhiều hạn chế; chế tài xử lý chưa đủ mạnh để ngăn
55
ngừa các hành vi vi phạm.
Cấp ủy, chính quyền địa phương một số nơi chưa nhận thức thấy hết
tầm quan trọng của công tác hòa giải ở cơ sở nên chưa tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo cơ sở thực hiện một cách triệt để. Nhiều địa phương không, chưa bố trí
được các cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất, kỹ năng nghề nghiệp và kinh
nghiệm đảm nhiệm công việc này nên việc hòa giải các tranh chấp đạt hiệu
quả chưa cao gây ra những hiệu ứng không tốt trong nhân dân. Nhiều vụ việc
giải quyết không triệt để dẫn đến tranh chấp kéo dài, khiếu kiện đông người,
có trường hợp dẫn đến vụ án hình sự. Mặt khác, một số địa phương chưa làm
tốt trách nhiệm phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời những hành vi vi phạm
pháp luật về đất đai trên địa bàn như lấn chiếm đất đai, tự ý chuyển mục đích
sử dụng đất, tự ý xây dựng nhà trên đất nông nghiệp, đất công ích…; nhiều
địa phương thực hiện pháp luật đất đai chưa nghiêm còn để xảy ra tình trạng
giao đất, cho thuê đất không đúng thẩm quyền, thu hồi đất, giải phóng mặt
bằng, đền bù, tái định cư không đúng quy định… dẫn đến tình hình khiếu nại,
tình trạng TCĐĐ ngày càng nhiều và phức tạp, công tác giải quyết không thể
đáp ứng kịp với những khiếu nại, tranh chấp mới phát sinh.
Việc quy hoạch sử dụng đất chất lượng chưa cao, chưa đồng bộ với các
quy hoạch chuyên ngành, tính kết nối liên vùng và quản lý quy hoạch còn
yếu; đăng ký đất đai, đặc biệt là đăng ký biến động làm chưa tốt; lập chưa đầy
đủ, thống nhất; việc cập nhật, chỉnh lý biến động chưa được thực hiện thường
xuyên, đồng bộ theo quy định và chưa được đầu tư thỏa đáng để xây dựng
thành một hệ thống khoa học, đầy đủ; cấp giấy chứng nhận lần đầu đến nay
chưa hoàn thành, nhu cầu cấp giấy chứng nhận còn rất lớn… chính những
điều này là nguyên nhân dẫn đến những khó khăn trong quá trình tiến hành
giải quyết tranh chấp của cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền vì
không có hoặc khó thu thập được chứng cứ, số liệu, tài liệu làm cơ sở pháp lý
56
GQTCĐĐ.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đất đai chưa tốt,
còn mang tính hình thức và thời điểm nên ý thức chấp hành pháp luật đất đai
của một bộ phận cán bộ và nhân dân còn hạn chế, chưa nắm được một nguyên
tắc cơ bản trong chính sách đất đai đó là “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước đại diện chủ sở hữu” mà vẫn quan niệm đất đai thuộc sở hữu tư
nhân, sở hữu của hộ gia đình, cá nhân, có toàn quyền với đất của mình; đặc
biệt trong công cuộc đổi mới như hiện nay đất đai ngày càng trở nên có giá và
người sử dụng càng thấy nhiều lợi ích từ đất đai mang lại thì người sử dụng
đất càng khó từ bỏ các quyền và lợi ích của họ gắn liền với đất.
Bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác GQTCĐĐ chưa được kiện toàn
củng cố, cán bộ còn yếu về năng lực. Các phòng Tài nguyên và Môi trường ở
các huyện, thành phố có chức năng và nhiệm vụ lớn, công tác giải quyết đơn
thư khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai chỉ là một mảng nhiệm vụ của
phòng, nhưng thực tế nhiệm vụ này chiếm một quỹ thời gian rất lớn, trong khi
đó các phòng Tài nguyên và Môi trường chưa được bố trí cán bộ chuyên môn
về luật, chỉ có chuyên môn về địa chính, đất đai nên chưa đáp ứng hết được
nhiệm vụ giải quyết tranh chấp rất phức tạp đang đặt ra.
Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc quản lý đất đai còn lạc hậu,
chưa đáp ứng yêu cầu; nguồn kinh phí phục vụ cho công tác giải quyết tranh
chấp còn gặp nhiều khó khăn.
* Nguyên nhân chủ quan
Về phía cơ quan giải quyết: Cơ quan hành chính nhà nước vừa là cơ
quan quản lý đất đai vừa thực hiện việc GQTCĐĐ nên việc GQTCĐĐ nhiều
khi còn mang tính chủ quan, nể nang, nặng về mệnh lệnh hành chính, chưa
thường xuyên tham vấn cộng đồng, thậm chí nhiều quyết định giải quyết chưa
thấu tình đạt lý. Việc tổ chức thực hiện các quyết định giải quyết đã có hiệu
57
lực pháp luật còn thiếu kiên quyết, các bên tranh chấp đất đi không chấp hành
quyết định mà không phải chịu một biện pháp cưỡng chế nào, dẫn đến vụ việc
không được giải quyết dứt điểm, tranh chấp kéo dài. Hình thức văn bản giải
quyết một số vụ việc chưa đảm bảo theo quy định của pháp luật như việc ban
hành công văn, thông báo... để thay thế quyết định giải quyết tranh chấp về
đất đai.
Về phía các bên tranh chấp: Nhiều vụ việc TCĐĐ mặc dù đã được cơ
quan hành chính nhà nước có thẩm quyền nỗ lực cố gắng vận dụng chính sách
giải quyết có lý, có tình, phù hợp với tình hình thực tế và đúng với quy định
của pháp luật, tổ chức đối thoại trực tiếp nhiều lần nhưng do nhiều động cơ
khác nhau các bên tranh chấp vẫn cố tình đeo bám, đề nghị giải quyết và làm
cho tình hình trở nên phức tạp hơn. Thậm chí, trong một số vụ việc, có một số
đối tượng chưa nhận thức đúng vấn đề và hiểu rõ vấn đề đã có hành vi vượt
quá giới hạn, vi phạm pháp luật, lợi dụng quyền công dân đã có hành vi quá
khích gây mất trật tự an toàn công cộng, ảnh hưởng đến công tác và hoạt động
bình thường của các cơ quan nhà nước. Tình trạng các bên tranh chấp gửi đơn
tràn lan, vượt cấp đến các cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước không có thẩm
quyền giải quyết vẫn diễn ra phổ biến.
Về phía cán bộ, công chức có thẩm quyền xem xét, GQTCĐĐ: Vẫn còn
một bộ phận cán bộ, công chức có những hành vi vụ lợi trong quản lý, sử
dụng đất đai; nhũng nhiễu, thiếu công tâm là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
việc GQTCĐĐ không đúng pháp luật...
Tiểu kết chương 2
Qua thực tiễn GQTCĐĐ tại huyện Vân Đồn có thể thấy TCĐĐ là một
trong những tranh chấp phổ biến và cũng khó giải quyết nhất hiện nay. Mỗi
năm, cơ quan hành chính và TAND huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh thụ lý
cả trăm vụ TCĐĐ và số lượng tranh chấp này tăng dần qua từng năm.TAND
58
huyện Vân Đồn đã tiến hành thụ lý, giải quyết dứt điểm các TCĐĐ không để
xảy ra “điểm nóng” trên địa bàn. Chương 2 của luận văn đã đi sâu phân tích
các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp đất đai, so sánh
với các quy định trước đây trong giải quyết các tranh chấp đất đai. Trên cơ sở
đó, nội dung chương đã phân tích thực tiến áp dụng các quy định về giải
quyết tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật hiện trên địa bàn huyện
Vân Đồn, rút ra những hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế để làm cơ sở
59
đề xuất các giải pháp tại chương 3.
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VÂN ĐỒN,
TỈNH QUẢNG NINH
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất
đai và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai tại huyện Vân Đồn,
tỉnh Quảng Ninh
3.1.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật GQTCĐĐ phải dựa trên sự quán triệt
quan điểm, đường lối của Đảng về lĩnh vực đất đai.
Việc hoàn thiện pháp luật đất đai nói chung và các quy định về
GQTCĐĐ nói riêng phải dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng nhằm đảm
bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động trong lĩnh vực đất đai. Theo đó, hoàn thiện các quy
định về GQTCĐĐ cần dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng về quản lý và
sử dụng đất đai. Qua những văn kiện Đại hội Đảng và những hội nghị của
Ban chấp hành Trung ương Đảng những khóa gần đây về đổi mới chính sách,
pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước đã khẳng định rằng: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước là đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc
biệt, là nguồn động lực và vốn to lớn của đất nước, quyền sử dụng đất là loại
hàng hóa đặc biệt. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước, phát huy vai tò của Ủy ban Mặt trận tổ quốc, các tổ chức thành viên và
60
toàn dân trong thực hiện chính sách pháp luật đất đai. Đảm bảo sự quản lý
thống nhất của Trung ương, đồng thời phân cấp cho địa phương, có chế tài
nghiêm khắc trong thực thi chính sách pháp luật đất đai...
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật GQTCĐĐ phải gắn kết với việc tăng
cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với công tác
GQTCĐĐ.
Việc GQTCĐĐ phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của
Nhà nước. Các cấp ủy đảng phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo việc GQTCĐĐ
nhằm đảm bảo giải quyết nhanh chóng, dứt điểm “tháo ngòi nổ” những nguy
cơ gây mất ổn định chính trị, góp phần duy trì, củng cố tình đoàn kết trong nội
bộ nhân dân.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật GQTCĐĐ phải gắn liền với việc nâng cao
hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đất đai.
GQTCĐĐ là một nội dung không thể thiếu được của công tác quản lý
nhà nước về đất đai. Mục đích của hoạt động này không chỉ giải quyết bất
đồng mâu thuẫn giữa các bên, ngăn ngừa việc phát sinh những điểm nóng
tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định về chính trị, mà còn thông qua nội dung này
giúp Nhà nước nhận diện được những bất cập, hạn chế trong các chính sách,
pháp luật đất đai, trên cơ sở đó kịp thời sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nhằm đáp
ứng nhu cầu của xã hội.
3.1.2. Định hướng nâng cao hiệu quả về giải quyết tranh chấp đất đai
từ thực tiễn tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
Thứ nhất, cần đẩy mạnh công tác hướng dẫn thi hành pháp luật về đất đai
Để nâng cao hiệu quả GQTCĐĐ của cơ quan hành chính nhà nước,
chúng tôi cho rằng việc hướng dẫn thi hành pháp luật đất đai là rất quan trọng.
Cần có hướng dẫn cụ thể, chi tiết về áp dụng pháp luật trong GQTCĐĐ để
tránh tất cả mọi kẽ hở, xung đột, thiếu đồng bộ trong áp dụng pháp luật hiện
61
nay có liên quan đến đất đai và GQTCĐĐ. Đồng thời cần giải thích, tư vấn
đầy đủ, rõ ràng, minh bạch các quy định pháp luật đất đai, nhất là các quy
định có liên quan đến giải quyết tranh chấp nhằm tạo cơ hội để mọi người tiếp
cận, hiểu biết pháp luật đất đai một cách đồng thuận, thống nhất; tránh được
những bất đồng về quan điểm giữa các cơ quan có thẩm quyền GQTCĐĐ và
giữa người ra quyết định giải quyết tranh chấp với các bên tham gia TCĐĐ.
Thứ hai, tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực trong công tác GQTCĐĐ của các cấp, các cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền liên quan
Cần tăng cường lực lượng, kiện toàn, củng cố tổ chức, nâng cao năng
lực, trình độ cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đất đai và GQTCĐĐ
các cấp, nhất là đối với cấp huyện và cấp xã. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng
nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ này bằng nhiều hình thức phù hợp để họ
hiểu rõ chính sách pháp luật đất đai qua các thời kỳ, nắm vững được các chính
sách, quy định pháp luật đất đai hiện hành, có được những kỹ năng, kinh
nghiệm trong GQTCĐĐ nhằm phục vụ cho việc giải quyết tranh chấp đạt
hiệu quả cao.
Thứ ba, cần tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp
luật về đất đai cho nhân dân
Khi người dân nhận thức, nắm bắt được các quy định của pháp luật về
đất đai họ sẽ không vi phạm, từ đó hạn chế được tranh chấp. Thậm chí ngay
cả khi xảy ra tranh chấp nếu hiểu biết pháp luật họ sẽ dễ dàng chấp nhận
quyết định giải quyết đúng đắn của cơ quan hành chính nhà nước có thẩm
quyền.
Thứ tư, cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc triển
khai thực hiện pháp luật đất đai, việc thực thi các quy định GQTCĐĐ
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát để nâng cao hiệu lực,
62
hiệu quả việc chấp hành pháp luật đất đai và GQTCĐĐ đối với các cấp, các
ngành. Kiên quyết xử lý cán bộ thiếu trách nhiệm trong GQTCĐĐ; lợi dụng
chức vụ, quyền hạn để tham nhũng trong lĩnh vực đất đai. Xử lý nghiêm
những hành vi vi phạm của chủ thể sử dụng đất, lợi dụng tranh chấp, khiếu
nại, tố cáo đất đai để kích động, lôi kéo gây rối làm ảnh hưởng đến an ninh,
trật tự an toàn xã hội.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất
đai và nâng cao hiệu quả thi hành tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
Tại điểm 4 Điều 114 Luật Đất đai 2013 quy định giá đất cụ thể đối với
trường hợp nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua đấu giá
quyền sử dụng đất mâu thuẫn với Điều 15 nghị định 44/2014/NĐ-CP quy
định giá đất cụ thể làm căn cứ để xác định giá khởi điểm đấu giá quyền sử
dụng đất.
Điều 105 Luật Đất đai 2013 quy định: UBND tỉnh cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất cho tổ
chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài thực hiện dự án đầu tư, Tổ chức nước ngoài có chức
năng ngoại giao. Điều luật không quy định cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất cho cá nhân người
nước ngoài. Nhưng tại điểm a khoản 2 điều 37 nghị định 43/2014/NĐ-CP
hướng dẫn sở tài nguyên và môi trường cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Sửa đổi Điều 34 nghị định 47/2014/NĐ-CP quy định về việc trả bồi
thường chi phí đầu tư đất theo nghi định 197/2004/NĐ-CP mâu thuẫn với
điều 35 quy định nghị định 47/2014/NĐ-CP thay thế nghị định 197/2004/NĐ-
CP. Luật Đất đai 2013 và các nghị định, thông tư hướng dẫn chưa quy định cụ
63
thể về việc xác định hệ số điều chỉnh giá đất; quy định đối với thửa đất hoặc
khu đất có giá trị cao hơn 10 tỉ đồng và 20 tỉ đồng; quy định mức giá trần cho
việc nhận chuyển nhượng; hướng dẫn về việc nộp tiền giao đất; quy định về
thẩm định điều kiện giao đất, kí quỹ của nhà đầu tư… Mức giá bồi thường
giữa nhà nước thu hồi và doanh nghiệp thu hồi để thực hiện dự án đầu tư
chênh lệch khá cao, chưa phù hợp với giá cả thị trường.
Hoàn thiện trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai
Trong thực tế giải quyết những vụ việc TCĐĐ cho thấy, việc xem xét,
thẩm định tại chỗ nhà đất là rất cần thiết bởi TCĐĐ là một loại tranh chấp đặc
thù, đối tượng tranh chấp là loại tài sản đặc biệt, có giá trị và trải qua nhiều
biến động trong quá trình Nhà nước thực hiện các chính sách cải tạo đất đai.
Giải quyết tranh chấp đất đai theo luật tố tụng hành chính là nội dung
nằm trong Luật đất đai 2013 được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XII ban hành. Luật có nhiều sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện
những quy định, thủ tục đảm bảo quyền có đất, sử dụng đất của nhân dân.
Tranh chấp đất đai luôn là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội, buộc pháp
luật phải đứng ra giải quyết để đảm bảo sự công bằng cho toàn dân. Luật đất
đai mới đã có nhiều thay đổi trong giải quyết tranh chấp đất đai, đặc biệt là
thủ tục giải quyết tranh chấp. Luật ban hành trong hoàn cảnh ngày càng nhiều
các vụ án tranh chấp đất đai giữa nhiều mối quan hệ phức tạp khiến cho
người dân không biết phải giải quyết như thế nào, thủ tục ra sao, cơ quan nào
có thẩm quyền giải quyết,…
Để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm kỷ
luật, kỷ cương của nền hành chính, bảo đảm tính tuân thủ pháp luật của các cơ
quan hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập
quốc tế, cần phải có cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc cho việc ban hành các
quyết định hành chính. Điều này không chỉ thuận lợi cho phía chủ thể quản lý
64
về tranh chấp đất đai mà còn tạo thuận lợi cho người dân trong việc phối hợp
cùng nhau thực hiện các thủ tục cần thiết trong hoạt động quản lý hành chính,
vừa bảo đảm tính dân chủ, minh bạch, vừa bảo đảm tính quyền uy, quyền lực
phục tùng được xem là bản chất của các quan hệ hành chính. Theo đó, pháp
luật phải làm rõ những gì được coi là quyết định hành chính cũng như thẩm
quyền, căn cứ pháp lý ban hành quyết định hành chính, các nguyên tắc về tính
hợp pháp về nội dung và hình thức của quyết định hành chính như vậy cần
thiết phải xây dựng Luật ban hành quyết định hành chính nói chung và lĩnh
vực hành chính về đất đai nói riêng nhằm bảo đảm tính hợp pháp, tính hợp lý,
tính khả thi và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; đồng
thời đề cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân. Qua đó, tạo thuận lợi cho
việc bảo đảm và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người sử dụng đất,
hạn chế phát sinh các TCĐĐ. Đồng thời, việc ban hành Luật này sẽ bảo đảm
cho người dân có cơ sở để khiếu nại các quyết định hành chính có dấu hiệu vi
phạm pháp luật.
Luật Đất đai năm 2013 đã khắc phục được tình trạng trên khi coi quyền
sử dụng đất là quyền tài sản, vì vậy, khi có tranh chấp các bên có quyền yêu
cầu Tòa án nhân dân bảo vệ quyền lợi cho mình. Do đó, theo Luật Đất đai
năm 2013 thì đối với những tranh chấp mà đương sự không có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các giấy tờ theo quy định
thì có quyền lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp là Tòa án nhân dân hoặc
cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền. Quy định này được kỳ vọng sẽ
tạo thuận lợi hơn cho người dân trong giải quyết tranh chấp đất đai, giảm
thiểu áp lực đối với nhân dân, ổn định trật tự xã hội, góp phần quan trọng
trong việc hạn chế tình trạng khiếu nại kéo dài.
Tuy nhiên, trong tương lai, khi sửa đổi Luật Đất đai, để phù hợp với xu
thế phát triển và hội nhập của đất nước thì pháp luật đất đai nên quy định theo
65
hướng “thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đất đai chỉ do Tòa án
nhân dân giải quyết” nhằm bảo đảm sự minh bạch trong quan hệ quản lý Nhà
nước về đất đai và trong hoạt động giải quyết tranh chấp. Bởi Ủy ban nhân
dân là cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai, có quyền quyết định giao đất,
cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất... Do đó, điều không thể phủ nhận là khi trao trách nhiệm giải quyết
tranh chấp đất đai cho hệ thống cơ quan này sẽ khó tránh khởi tình trạng “vừa
đá bóng, vừa thổi còi” có thể làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của người dân.
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về giải quyết
tranh chấp đất đai tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
3.2.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, bồi dưỡng kiến thức pháp
luật về đất đai
Các cơ quan quản lý nhà nước cần xác định rõ công tác tuyên truyền,
phổ biến giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật về đất đai là một nhiệm vụ
quan trọng, bức thiết đầu tiên của quá trình triển khai, thi hành pháp luật, là
phương pháp, là cầu nối để chuyển tải các chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước về đất đai, giải quyết tranh chấp đất đai đến với mọi
người dân, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân.
Nhiều người dân vẫn chưa nhận thức được hết ý nghĩa của việc đứng
tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cũng như chưa hiểu biết quy
định của pháp luật dân sự về việc xác lập quyền sở hữu và chuyển giao quyền
sở hữu. Người dân đơn thuần nghĩ rằng, cha mẹ, con cái sống chung với nhau
nên tài sản đứng tên ai cũng được, mặc dù con cái đã lấy vợ, lấy chồng nhưng
vẫn sống chung với cha mẹ thì tài sản của con cái cũng là tài sản của cha mẹ,
66
đất đai do chính cha mẹ tạo dựng mà có, dù có cho con cái đứng tên thì đó
vẫn là tài sản của cha mẹ, họ có quyền đối với tài sản đó, con dâu hoặc con rể
không có quyền gì hết; họ không biết rằng khi họ cho con cái của họ đứng tên
trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là họ đã từ bỏ quyền sở hữu của
mình, đồng thời đã xác lập quyền sở hữu cho người khác… Hoặc một số
trường hợp, trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cấp huyện,
cán bộ phụ trách đã có vi phạm trong việc thực thi pháp luật đất đai, thiếu tinh
thần trách nhiệm trong công việc, trong tham mưu cho lãnh đạo; thiếu sự
kiểm tra, rà soát lại thực tế nguồn gốc và quá trình sử dụng đất, kiểm tra lại
quy trình cách thức làm việc của cấp dưới mà chỉ căn cứ vào đề nghị, vào hồ
sơ trình duyệt rồi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đối tượng được
đề nghị.
Phổ biến Luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành để
người sử dụng đất nắm được các quy định cơ bản của pháp luật trong lĩnh vực
đất đai; tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật về luật đất
đai, luật dân sự cho cán bộ, chuyên viên chuyên trách, qua đó nâng cao nhận
thức, ý thức chấp hành pháp luật về đất đai; nâng cao nhận thức, ý thức trách
nhiệm cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về đất đai.
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về luật dân sự, về luật đất đai
phải được tổ chức sâu rộng, có trọng tâm, trọng điểm, bằng nhiều hình thức
phong phú, đa dạng, phù hợp với từng đối tượng như là hình thức tư vấn pháp
luật, trợ giúp pháp lý lưu động, hòa giải, tọa đàm, tuyên truyền miệng, thông
qua các hoạt động văn hóa ở địa phương, các tiểu phẩm, các câu chuyện cụ
thể,…; lựa chọn các nội dung tuyên truyền liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa
vụ của người dân như quy định pháp luật dân sự về các loại hợp đồng liên quan
đến đất đai, về tặng cho tài sản là quyền sử dụng đất, về di chúc thừa kế tài sản là
67
quyền sử dụng đất, về việc xác lập, về chuyển giao quyền sở hữu là quyền sử
dụng đất, ý nghĩa của việc đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
về quy trình, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…
Đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp phổ biến, tuyên truyền
pháp luật về đất đai theo hướng không chỉ đáp ứng nhu cầu kiến thức cơ bản
về pháp luật đất đai, mà còn phải thiết thực, đáp ứng yêu cầu thực tiễn để một
mặt nâng cao trình độ nhận thức cho các đối tượng, mặt khác giúp họ có khả
năng vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cuộc sống. Cần đa dạng hóa hình thức,
phương pháp tuyền truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, không chỉ thông qua
các hội nghị, hệ thống truyền thanh, công tác hòa giải ở cơ sở, hoạt động câu
lạc bộ pháp luật mà bằng những cách thức khác như tọa đàm, buổi nói
chuyện, cung cấp các tin bài, cấp phát tài liệu hỏi đáp, tờ gấp, tờ rơi, panô, áp
phích, khai thác, tìm hiểu pháp luật qua tủ sách pháp luật,....
3.2.2.2. Tăng cường giải pháp hướng dẫn thi hành pháp luật
Để nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các tranh chấp về đất đai tại
Toà án nhân dân các cấp, phải hết sức chủ trọng khâu hướng dẫn thi hành
pháp luật với các văn bản rõ ràng, phù hợp với tình hình thực tiễn. Đây là một
trong những khâu hết sức quan trọng. Kinh nghiệm thông qua hoạt động xét
xử toà án nhân dân đã chỉ rõ tầm quan trọng của hoạt động này. Toà án nhân
dân tối cao và các cơ quan có liên quan ở Trung ương cần có văn bản hướng
dẫn kịp thời, đồng thời tổng kết công tác xét xử, uốn lắn những sai lầm.
Thứ nhất, giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng đất đai
Như đã trình bày ở trên, tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất diễn ra rất phổ biến trong các TCĐĐ hiện nay. Những TCĐĐ mà
giữa các bên có hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng hợp đồng
chuyển nhượng này chỉ nhằm mục đích che giấu một giao dịch khác như (thế
68
chấp, cầm cố, vay tai sản, tặng cho,...) thì Tòa án cần xem xét bản chất, mục
đích của các bên khi tiến hành giao dịch để tuyên hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất đó có bị vô hiệu hay không.
Thứ hai, giải quyết vướng mắc trong thực tiễn xét xử tranh chấp hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất
Xuất phát từ tình hình thực tế, trên cơ sở vận dụng các quy định của
pháp luật về hợp đồng tặng cho, luật hôn nhân và gia đình, đặc điểm tâm lý,
xã hội, theo quan điểm cá nhân nên giải quyết một số trường hợp tranh chấp
về tặng cho quyền sử dụng đất. Việc tặng cho quyền sử dụng đất chỉ được
thực hiện bằng lời nói, không có chứng cứ nào để chứng minh về việc cho tài
sản thì không công nhận việc tặng cho quyền sử dụng đất.
Thứ ba, hướng GQTCĐĐ trong trường hợp đòi lại đất cho mượn, cho
ở nhờ
TCĐĐ trong trường hợp đất cho mượn, cho ở nhờ về bản chất là giao
dịch dân sự nhưng lại liên quan đến những chính sách, pháp luật đất đai trong
các thời kỳ nên việc giải quyết gặp nhiều khó khăn:
Một là, trường hợp người có quyền sử dụng đất hợp pháp đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khởi kiện yêu cầu người ở nhờ trên đất
phải trả lại đất cho họ.
Hai là, trường hợp người đang sử dụng đất là người mua lại đất của
người ở nhờ hoặc được người ở nhờ cho sử dụng nhưng người có quyền sử
dụng đất không có ý kiến gì, nay mới khởi kiện.
Thứ năm, hướng giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất bị lấn
chiếm
Như đã phân tích ở trên, tranh chấp quyền sử dụng đất trong thực tế tại
huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh nhiều khi chỉ là các tranh chấp một diện
69
tích đất rất nhỏ hoặc bên lấn chiếm đã xây dựng phần kiến trúc kiên cố trên
đất lấn chiếm thì Tòa án cần phải xác minh thực tế để từ đó có phán quyết
hợp tình, hợp lý và có hiệu lực thi hành cao.
Thứ sáu, hướng giải quyết một số TCĐĐ khác
Trong thực tiễn giải quyết các TCĐĐ trên địa bàn huyện Vân Đồn, tỉnh
Quảng Ninh còn gặp phải dạng tranh chấp có yếu tố nước ngoài như TCĐĐ
liên quan đến người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà đất nhưng nhờ
người khác đứng tên hộ.
3.2.2.3. Về cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp đất đai
Tại địa bàn huyện Vân Đồn nên thành lập Hội đồng tư vấn giải quyết
khiếu nại, tố cáo, tranh chấp trong đó có TCĐĐ. Hội đồng tư vấn có trách
nhiệm cung cấp giấy tờ hồ sơ, chứng cứ liên quan cho Tòa án, Viện kiểm sát
làm rõ nội dung các vụ án tranh chấp. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, phối
hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành trong giải quyết KN,TC, khắc phục tình
trạng chuyển đơn thư của công dân lòng vòng hoặc chậm giải quyết, né tránh
trách nhiệm. Thường xuyên kiểm tra, thanh tra, phát hiện, chấn chỉnh những
yếu kém, vi phạm trong thực hiện các quy định về giao đất, cho thuê đất, cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất, trong giải quyết các thủ tục hành chính về đất đai. Đề
nghị quy định rõ cơ quan, người có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính
về đất đai phải chịu trách nhiệm về tính đúng đắn của quyết định ban hành, có
trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra để xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh trong quá
trình thực hiện các quyết định hành chính liên quan đến đất đai.
3.2.2.4. Giải pháp củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực trong công tác giải quyết tranh chấp đất đai
Hồ Chủ tịch đã từng nói rằng: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”,
“muôn việc tốt thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Do vậy,
70
việc nâng cao năng lực, trình độ cho đội ngũ cán bộ quản lý đất đai, đặc biệt
là đội ngũ cán bộ GQTCĐĐ là một trong những khâu then chốt để bảo đảm
công tác giải quyết các TCĐĐ đạt hiệu quả cao. Chúng tôi xin đề xuất những
giải pháp như sau:
- Củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác GQTCĐĐ các cấp:
cán bộ công chức Thanh tra các cấp, công chức thanh tra Tài nguyên và Môi
trường các cấp, công chức Phòng Tài nguyên và Môi trường, công chức địa
chính cấp xã...; nâng cao chất lượng của đội ngũ hòa giải viên cơ sở; phát huy
vai trò của Hội đồng tư vấn cấp xã gồm các thành phần Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận ở xã trong việc thực hiện hòa
giải và GQTCĐĐ.
- Tổ chức các khóa bồi dưỡng về kiến thức pháp luật đất đai, kỹ năng
nghiệp vụ trong việc giải quyết các TCĐĐ, như: bồi dưỡng, tập huấn các kiến
thức pháp luật mới về đất đai; tập huấn kỹ năng thu thập chứng cứ, hồ sơ,
giấy tờ, lấy ý kiến của các cấp chính quyền, đoàn thể...; bồi dưỡng, tập huấn
khả năng phân tích, tổng hợp các chứng cứ, tài liệu, hồ sơ hiện có; bồi dưỡng
kỹ năng vận dụng, áp dụng các quy định pháp luật vào từng tình huống,
trường hợp cụ thể để có thể giải quyết vụ việc TCĐĐ đạt hiệu quả. Việc đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ cho đội ngũ làm công tác
GQTCĐĐ phải được thực hiện thường xuyên, liên tục, mang tính ứng dụng,
sát thực tiễn; kết hợp chặt chẽ giữa trang bị kiến thức lý luận và rèn luyện kỹ
năng thực hành... Đặc biệt, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ phải đạt được mục
tiêu chuyên môn hóa, đó là đội ngũ chuyên gia có đầy đủ năng lực và phẩm
chất để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Thường xuyên cung cấp cho lực lượng làm công tác GQTCĐĐ các tài
liệu, thông tin pháp luật, tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ GQTCĐĐ.
- Tổ chức cuộc giao lưu tìm hiểu pháp luật để giúp lực lượng làm công
tác GQTCĐĐ nâng cao hiểu biết pháp luật phục vụ công tác chuyên môn, trao
71
đổi kinh nghiệm trong thực hiện công tác GQTCĐĐ.
- Phối hợp với các ngành có liên quan, đặc biệt là với Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể các cấp trong việc xây dựng các mô
hình, cơ chế phối hợp nhằm nâng cao kiến thức pháp luật và kỹ năng hòa giải
TCĐĐ cho lực lượng hòa giải viên cơ sở của các hội đoàn thể góp phần tích
cực vào việc hòa giải thành công những mâu thuẫn, xích mích, bất đồng trong
lĩnh vực đất đai tại cơ sở.
- Cùng với việc nâng cao trình độ , năng lưc ̣ của cán bộ, công chức làm
công tác GQTCĐĐ thì việc đềcao yếu tốđạo đức cóýnghiã rất cơ bản, quan
trọng. Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác giải quyết tranh chấp cần phải
có các chuẩn mực đạo đức nhất định để thông qua đó mới tự rèn luyện và
khép minh̀ vào khuôn khổ, tránh tình trạng có hành vi vụ lợi trong quản lý, sử
dụng đất đai; nhũng nhiễu, thiếu công tâm trong GQTCĐĐ.
3.2.2.5. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đất đai
GQTCĐĐ là nội dung không thể thiếu của công tác quản lý nhà nước
về đất đai, do vậy, để tăng cường hiệu quả công tác GQTCĐĐ thông qua các
cơ quan hành chính nhà nước cần gắn với việc nâng cao hiệu quả công tác
quản lý nhà nước đối với đất đai. Luận văn đề xuất một số giải pháp nâng cao
hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với đất đai sau:
Cần làm tốt công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng, công tác quy hoạch
sử dụng đất phải đi trước một bước trong việc xác định mặt bằng sử dụng, tạo
điều kiện cho các cơ quan GQTCĐĐ có căn cứ để phân định đất tranh chấp
có thuộc diện quy hoạch hay không để có được những quyết định giải quyết
đúng pháp luật.
Đẩy mạnh hoạt động cấp GCNQSDĐ theo bản đồ địa chính, trích đo
địa chính có tọa độ. Xây dựng bản đồ địa chính, hồ sơ địa chính và cơ sở dữ
liệu đất đai một cách có hệ thống, bảo đảm tiêu chuẩn hiện đại hóa đáp ứng
72
nhu cầu quản lý đất đai hiện nay.
Cần hoàn chỉnh cơ chế quản lý giá đất, xây dựng hệ thống theo dõi giá
đất trên thị trường; ban hành quy trình định giá đất, thẩm định giá đất để xác
định giá đất hợp lý cho việc giải quyết các trường hợp trong quản lý và sử
dụng đất đai.
3.2.2.6. Giải pháp nâng cao trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước
có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Một là, cơ quan hành chính Nhà nước theo thẩm quyền chủ động xem
xét từng vụ việc TCĐĐ trong phạm vi quản lý để giải quyết kịp thời, dứt
điểm, công bố công khai kết quả GQTCĐĐ, không để khiếu kiện vượt cấp,
diễn biến phức tạp, khiếu kiện đông người.
Hai là, quy định cụ thể cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền
phải chịu trách nhiệm về tính đúng đắn của quyết định GQTCĐĐ ban hành,
có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra để xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh
trong quá trình thực hiện các quyết định GQTCĐĐ.
Ba là, cơ quan hành chính nhà nước cần tăng cường công tác đối thoại,
hòa giải khi GQTCĐĐ để giảm bớt áp lực và quá tải số lượng lớn đơn thư đề
nghị GQTCĐĐ như hiện nay. Trong quá trình giải quyết cơ quan hành chính
nhà nước cần tổ chức các hội nghị tham vấn các vụ việc TCĐĐ nhằm ban
hành quyết định giải quyết tranh chấp phù hợp, đảm bảo quyền lợi chính đáng
của người dân.
Đặc biệt, một trong những trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà
nước có thẩm quyền là phải tập trung xử lý dứt điểm các vụ việc TCĐĐ tồn
đọng và hạn chế việc phát sinh các vụ TCĐĐ mới. Do vậy: Để xử lý dứt điểm
các vụ việc tranh chấp đang tồn đọng thì cần chỉ đạo cơ quan chuyên môn
quản lý đất đai, GQTCĐĐ ở từng cấp phối hợp rà soát các vụ việc hiện có,
tập trung giải quyết dứt điểm những vụ TCĐĐ chưa giải quyết và những vụ
73
TCĐĐ đã giải quyết nhưng chưa phù hợp với pháp luật và tình hình thực tế.
Xử lý nghiêm khắc người có thẩm quyền, có trách nhiệm giải quyết nhưng đã
không GQTCĐĐ, dẫn tới đơn thư vượt cấp; xử lý trách nhiệm người đứng
đầu cơ quan, địa phương có nhiều đơn, thư tồn đọng hoặc có nhiều vụ việc
TCĐĐ chưa được giải quyết cần xem xét. Đối với những vụ việc TCĐĐ đã
được các cơ quan hành chính nhà nước giải quyết đúng pháp luật và đã vận
dụng pháp luật phù hợp với thực tế mà các bên tranh chấp vẫn không đồng ý
thì tổ chức đối thoại để thuyết phục các bên tranh chấp chấp hành. Trường
hợp các bên tranh chấp vẫn cố tình không chấp hành và có hành động kích
động, gây rối thì cần áp dụng các biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.
Để hạn chế việc phát sinh các vụ TCĐĐ mới thì cần nâng cao hiệu quả
công tác quản lý và sử dụng đất của cơ quan hành chính nhà nước trong đó
tập trung xây dựng hồ sơ địa chính hoàn chỉnh, kịp thời theo dõi biến động
đất đai, quản lý tốt các sổ sách, bản đồ địa chính và tư liệu có liên quan; xây
dựng một hệ thống quản lý khoa học bảo đảm đầy đủ cơ sở pháp luật và dữ
liệu pháp lý giúp cho quá trình quản lý đất đai đạt hiệu quả; đẩy nhanh tiến độ
cấp GCNQSDĐ; tăng cường thanh tra, kiểm tra, chấn chỉnh những yếu kém,
xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật các trường hợp vi phạm nhằm
tạo niềm tin trong nhân dân đối với các cấp chính quyền trong lĩnh vực quản
lý đất đai. Bên cạnh đó, cũng cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật đất đai để nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật
đất đai trong nhân dân. Tăng cường thực hiện tốt công tác hòa giải các TCĐĐ
tại cơ sở nhằm hóa giải những mâu thuẫn, bất đồng trong lĩnh vực đất đai, giữ
74
gìn đoàn kết nội bộ trong nhân dân, phòng ngừa các TCĐĐ phát sinh mới.
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về pháp luật GQTCĐĐ, thực trạng pháp
luật về GQTCĐĐ và thực tiễn áp dụng trong xét xử tại TAND huyện Vân Đồn,
tỉnh Quảng Ninh. Nhận thức được vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc
GQTCĐĐ, luận văn đã hệ thống hóa, phân tích các quy định của phápluật về
tranh chấp đất đai và GQTCĐĐ, đánh giá thực trạng của việc vận dụng các quy
định pháp luật hiện hành về GQTCĐĐ trên địa bàn huyện Vân Đồn, qua đó đã
chỉ ra một số những tồn tại, bất cập của các quy định pháp luật về đất đai; trên
cơ sở đó luận văn đã đóng góp một số các giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu
quả công tác GQTCĐĐ thông qua cơ quan hành chính nhà nước. Đề đã đưa ra
các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về GQTCĐĐ và nâng cao
hiệu quả giải quyết các TCĐĐ thì trong thời gian tới cần tiến hành đồng bộ các
giải pháp: tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách,
pháp luật đất đai; thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ,
kiến thức và kỹ năng GQTCĐĐ cho đội ngũ cán bộ TAND nói chung và các
Thẩm phán nói riêng. Đồng thời, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
75
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật đất đai cho người dân...
KẾT LUẬN
Trước bối cảnh tác động của cơ chế thị trường, cả nước thời gian qua
đã xuất hiện nhiều tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về TCĐĐ, gây nên những tác
động xấu đến xã hội, làm mất niềm tin của người dân vào cơ quan công
quyền. Có thể nói giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai
trong giai đoạn vừa qua đã có những kết quả tích cực, nhưng vẫn còn nhiều
tồn tại, hạn chế. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật và đổi mới cơ chế giải quyết
tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai, đòi hỏi phải có nhiều giải pháp
đồng bộ, kịp thời và đặt trong mối quan phụ thuộc, tác động lẫn nhau như:
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; đổi mới tư duy nhận thức về tranh chấp
hành chính và giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai đối với
cả cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước và toàn
thể nhân dân; tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật
để nâng cao nhận thức, hiểu biết về pháp luật cho nhân dân để họ thực hiện
quyền khiếu nại, khởi kiện đúng quy định của pháp luật; bảo đảm cơ sở vật
chất cho công tác giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai và
các giải pháp hỗ trợ khác. Hiện nay, TCĐĐ đã diễn ra ở hầu hết các địa
phương trong cả nước. Do đó, vấn đề GQTCĐĐ đóng vai trò rất quan trọng,
việc xác lập một cơ chế GQTCĐĐ thích hợp, dứt điểm, nhanh chóng góp
phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế và duy trì sự bình ổn xã hội.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, trong những năm gần đây kết quả
GQTCĐĐ chưa cao xuất phát từ nhiều nguyên nhân, một phần là do Luật và
các văn bản dưới Luật điều chỉnh lĩnh vực này còn thiếu, yếu chưa đáp ứng
được sự đòi hỏi cấp thiết, tính phức tạp của lĩnh vực đất đai; một phần là do
cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính thực hiện chức năng quản lý lĩnh
vực đất đai và đội ngũ cán bộ làm công tác GQTCĐĐ còn có những hạn chế,
76
thiếu sót nhất định về năng lực, trình độ và những tiêu cực khác nên thực
trạng công tác quản lý lĩnh vực đất đai từ Trung ương, đến địa phương vẫn
còn xảy ra những bất cập và hạn chế.
Khi nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn thông qua việc phân tích,
đánh giá các quy định pháp luật đất đai hiện hành về GQTCĐĐ; một số tồn
tại, vướng mắc trong việc GQTCĐĐ thông qua con đường hành chính sẽ là cơ
sở để đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm xác lập cơ chế GQTCĐĐ hiệu
quả trong thời gian tới.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do còn hạn chế về mặt lý luận và
thực tiễn nên học viên không thể đi sâu phân tích, đánh giá một cách toàn
diện, đầy đủ, khách quan các khía cạnh về lý luận và thực tiễn áp dụng pháp
luật về giải quyết tranh chấp trên địa bàn huyện nơi tôi công tác. Bên cạnh đó,
luận văn cũng không tránh khỏi những khiếm khuyết, sai sót về mặt nội dung
và hình thức trình bày. Do đó, tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng
góp, nhận xét từ Hội đồng chấm luận văn, các thầy cô và đồng nghiệp để đề
77
tài được hoàn thiện hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thanh Bình (2015), Trình tự thủ tục GQTCĐĐ, Tài nguyên- môi
trường, Bộ Tài nguyên môi trường, số 10 (216)/2015, tr. 30-312.
2. Bộ Công an (2008), Quyết định 1501/2008/QĐ-BCA Quy trình hỗ trợ
cưỡng chế thi hành án dân sự của lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ
tư pháp
3. Bộ Tư pháp, TAND tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2016),
Thông tư liên tịch 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Quy định
vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi
hành án dân sự (Hiệu lực 30/9/2016)
4. Nguyễn Thị Quỳnh Chi (2018), Vướng mắc và giải pháp phân định
thẩm quyền GQTCĐĐ, Tài nguyên môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi
trường, số 11(145), tr. 17-1815.
5. Chính phủ (2014), Nghị định số 43/2014/NĐ-CP Quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Đất đai năm 2013, Hà Nội.
6. Nguyễn Vĩnh Diện (2013), Một số điểm mới về GQTCĐĐ theo Luật
Đất đai năm 2013, Dân chủ & Pháp luật, Bộ tư pháp, số 11(272), tr.
37-398.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Các Nghị quyết của Trung ương
Đảng 2001 - 2004, (Sách phục vụ thảo luận các dự án văn kiện Đại hội
X), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Nguyễn Thành Đoàn (2009), GQTCĐĐ theo thủ tục hành chính trong
vùng đồng bào dân tộc trên địa bàn tỉnh An Giang, luận văn thạc sĩ luật
78
học, Trường Đại học Luật TP.HCM.
10. Đỗ Thị Hằng (2013), Những bất cập về hòa giải cơ sở trong GQTCĐĐ
theo Luật Đất đai 2013, Thanh tra, Thanh tra chính phủ số 05/2016, tr.
20-236.
11. Ninh Thị Hiền (2016), Vai trò của Tòa án trong hoạt động điều phối
quyền sử dụng đất tại Việt Nam, Tạp chí TAND số 21/2016.
12. Nguyễn Thị Thu Hiền (2012), Pháp luật về giao đất, cho thuê đất, thu
hồi đất đối với doanh nghiệp ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
13. Nguyễn Thúy Hiền (2006), Pháp luật về bất động sản và các ngiải pháp
hoàn thiện, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật - số chuyên đề về bất động
sản, Hà Nội.
14. Phan Trung Hiền (2015), Báo cáo các vấn đề về Luật Đất đai, Bài báo
cáo tại Hội thảo: “Lấy ý kiến đóng góp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc
trong quá trình thi hành Luật Đất đai năm 2013”, Khoa Luật - Đại học
Cần Thơ.
15. Nguyễn Thu Hoài (2016), Đánh giá thực trạng tình hình giao đất, cho
thuê đất đối với tổ chức kinh tế trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, Khoa Luật,
Đại học quốc gia Hà Nội.
16. Hội đồng thẩm pháp TAND tối cao (2004), Nghị quyết 02/2004/NQ-
HĐTP hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án
dân sự, Hà Nội.
17. Hội đồng thẩm pháp TAND tối cao (2006), Nghị quyết số 05/2006/NQ-
HĐTP ngày 04/08/2006 của Hội đồng thẩm phán – Toà án nhân dân
Tối cao, Hà Nội.
18. Hội đồng thẩm pháp TAND tối cao (2012), Nghị quyết của
HĐTPTANDTC số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 hướng dẫn thi
79
hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại
tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS, Hà Nội.
19. Hội đồng thẩm pháp TAND tối cao (2016), Nghị quyết 02/2016/NQ-
HĐTP hướng dẫn thi hành quy định của Nghị quyết 103/2015/QH13 về
thi hành Bộ luật tố tụng dân sự (Hiệu lực 01/08/2016)
20. Tưởng Duy Lượng (2001), Bình luận một số vụ án về TCĐĐ, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Nguyễn Thị Xuân Ngọc (2013), Liên ngành tư pháp trung ương cần
sớm có văn bản hướng dẫn GQTCĐĐ liên quan đến hộ gia đình, Kiểm
sát, viện kiểm sát nhân dân tối cao, số 23/2013, tr 43-4512.
22. Phan Hồng Nguyên (2015), Công nhận kết quả hòa giải thành ngoài tòa
án trong Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Dân chủ & Pháp luật, Bộ
Tư pháp, Số 10 (295)/2016, tr. 38 - 41.
23. Doãn Hồng Nhung (2017), Những bất cập trong GQTCĐĐ và nhà ở tại
tòa án, Tài nguyên môi trường, Bộ Tài nguyên Môi trường, số 3(137),
tr. 20-2214.
24. Nguyễn Thị Hồng Nhung (2012), Pháp luật về chuyển nhượng quyền
sử dụng đất trong kinh doanh bất động sản,Luận án tiến sĩ luật học,
Đại học Luật Hà Nội.
25. Mai Thị Tú Oanh (2013), TCĐĐ và GQTCĐĐ bằng tòa án ở nước ta,
Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam
26. Đặng Thị Phượng (2013), Thẩm quyền GQTCĐĐ của Tòa án theo Luật
Đất năm 2013, TAND, TAND tối cao, số 6/2014 trang 11-1611.
27. Quốc hội (1992), Hiến pháp năm 1992, Hà Nội.
28. Quốc hội (2005), Luật đất đai số 13/2003/QH11, Hà Nội.
29. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11, Hà Nội.
80
30. Quốc hội (2005), Bộ luật tố tụng dân sự số 24/2004/QH11, Hà Nội.
31. Quốc hội (2009), Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12, ngày 27/02/2009
về án phí, lệ phí tòa án, Hà Nội.
32. Quốc hội (2013), Luật đất đai số 45/2013/QH13, Hà Nội.
33. Quốc hội (2014), Luật tổ chức TAND số 62/2014/QH13, Hà Nội.
34. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13, Hà Nội.
35. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, Hà Nội.
36. Quốc hội (2015), Nghị quyết 103/2015/QH13 về thi hành Bộ luật tố
tụng dân sự, Hà Nội.
37. Thân Văn Tài, Nguyễn Phi Yến (2016), Giá trị pháp lý của Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam, Tạp chí khoa học
pháp lý, Số 96, tr 47, Hà Nội.
38. TAND Tối cao (2002), Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu
quả giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất tại Toà án nhân
dân, tr. 25-26-27 – Đề tài ghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
39. TAND tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2016), Thông tư liên
tịch 02/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC quy định việc phối hợp giữa
Viện kiểm sát nhân dân và TAND trong việc thi hành quy định của Bộ
luật tố tụng dân sự, Hà Nội.
40. TAND huyện Vân Đồn (2018), Báo cáo kết quả xét xử các năm 2014-
2018, Vân Đồn.
41. Nguyễn Quang Tuyến, Nguyễn Vinh Diện (2014), Một số điểm mới về
GQTCĐĐ theo Luật đất đai 2013, Dân chủ & Pháp luật, số 11(272), tr.
37-3919.
42. Lưu Quốc Thái (2016), Những vấn đề pháp lý về thị trường quyền sử
81
dụng đất Việt Nam, Nxb Hồng Đức, TP. Hồ Chí Minh.
43. Lưu Quốc Thái (2016), Bàn về thẩm quyền, thủ tục GQTCĐĐ tại cơ
quan hành chính, Khoa học pháp lý, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh, số 05(90)/2016, tr 31-3613.
44. Thủ tướng (2012), Quyết định 41/2012/QĐ-TTg về chế độ bồi dưỡng đối
với người tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết việc dân sự, Hà Nội.
45. Nguyễn Thị Thu Thủy (2014), Một số vấn đề về chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ở theo quy định của pháp luật Việt nam, luận văn thạc sĩ
luật học, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam.
46. Vũ Thị Thanh Thủy (2016), Pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất từ thực tiễn tỉnh Hải Dương, Viện Đại học Mở Hà Nội.
47. Nguyễn Thùy Trang (2016), Quyền sử dụng đất - Một số quan điểm
tiếp cận và đề xuất hướng giải quyết trong khoa học pháp lý của Việt
Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 98, tr. 57 - 64, Hà Nội.
48. Đỗ Xuân Trọng (2013), Vấn đề hòa giải trong GQTCĐĐ, Tài nguyên
môi trường, Bộ Tài nguyên môi trường, số 10 (168)/2013, tr. 17-193.
49. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật Đất đai, Nxb.Tư
pháp, Hà Nội
50. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Luật tố tụng dân sự,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
51. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Từ điển Giải thích Thuật ngữ luật
học (Luật Đất đai, Luật Lao động, Tư pháp quốc tế, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
52. Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình luật đất đai, Nhà xuất
bản công an Nhân Dân.
53. UBND huyện Vân Đồn (2014), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -
82
xã hội huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030, Quảng Ninh.
54. UBND huyện Vân Đồn (2006), Quyết định số 429b/QĐ-UBND ngày
06/1/2006 về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, Quảng Ninh.
55. UBND huyện Vân Đồn (2011), Quyết định số 21/QĐ- UBND ngày
21/2/2011 về việc GQTCĐĐ, Quảng Ninh.
56. UBND huyện Vân Đồn (2016), Báo cáo số 221/BC-UBND ngày
23/9/2016 của UBND huyện về kết quả công tác tiếp nhận đơn thư, giải
quyết khiếu nại, tố cáo giai đoạn 2011 - 2015, Quảng Ninh.
57. UBND huyện Vân Đồn (2018), Báo cáo số 197/BC-UBND ngày
02/10/2018 về kết quả công tác tiếp nhận đơn thư, giải quyết khiếu nại,
tố cáo năm 2017, Quảng Ninh.
58. UBND huyện Vân Đồn (2018), Công văn số 530/UBND-TNMT ngày
03/6/2018 về việc trả lời đơn khiếu nại, Quảng Ninh.
59. UBND huyện Vân Đồn (2018), Báo cáo số 164/BC-UBND ngày
28/9/2018 của UBND huyện về kết quả công tác tiếp nhận đơn thư, giải
quyết khiếu nại, tố cáo năm 2018, Quảng Ninh.
60. UBND huyện Vân Đồn (2018), Báo cáo số 269/BC-UBND ngày
27/11/2018 về kết quả công tác quản lý, sử dụng đất đai giai đoạn 2016
- 2018, Quảng Ninh.
61. UBND huyện Vân Đồn (2019), Báo cáo số 530/UBND-TNMT ngày
03/01/2019 về những tồn tại, vướng mắc khi thi hành quyết định có
hiệu lực pháp luật, Quảng Ninh.
62. UBND tỉnh Quảng Ninh (2011), Quyết định số 4045/QĐ-UBND ngày
31/8/2011 công bố thủ tục hành chính đang thực hiện tại cấp huyện
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Quảng Ninh.
63. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2001), Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb.
83
Giáo dục, Hà Nội.