VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHI

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO PHÁP LUẬT

ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VÂN ĐỒN,

TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHI

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THEO PHÁP LUẬT

ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VÂN ĐỒN,

TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật kinh tế

Mã số: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ

HÀ NỘI, 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn này là

trung thực và chưa sử dụng để bảo vệ bất cứ luận văn của một học vị nào.

Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được

cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan trên.

Hà Nội, ngày tháng 6 năm 2019

Tác giả

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH

CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

ĐẤT ĐAI .......................................................................................................... 7

1.1. Lý luận về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai ..................... 7

1.2. Lý luận về pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai .................................. 16

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH

CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI HUYỆN VÂN ĐỒN,

TỈNH QUẢNG NINH .................................................................................... 28

2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai ............................. 28

2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng

Ninh ................................................................................................................. 35

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH

CHẤP ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG

NINH .............................................................................................................. 60

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và nâng

cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

......................................................................................................................... 60

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và nâng

cao hiệu quả thi hành tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh .......................... 63

KẾT LUẬN .................................................................................................... 76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Công tác GQTCĐĐ của UBND huyện và UBND các xã thị trấn

trên địa bàn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh .................................... 37

Bảng 2.2. Công tác GQTCĐĐ thông qua TAND huyện Vân Đồn,

Quảng Ninh .......................................................................................... 41

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

GCNQSDĐ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

GQTCĐĐ Giải quyết tranh chấp đất đai

HĐND Hội đồng nhân dân

TAND Tòa án nhân dân

TCĐĐ Tranh chấp đất đai

UBND Ủy ban nhân dân

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tranh chấp đất đai (TCĐĐ) là một hiện tượng phát sinh trong đời sống

xã hội, ở mọi quốc gia và mọi thời kỳ, không phụ thuộc vào chế độ sở hữu đất

đai. Ở Việt Nam, sự kiện Bộ Tài nguyên - Môi trường từng đề xuất thành lập

một cơ quan tài phán chuyên trách để giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện về

đất đai đã phần nào cho thấy tính chất nghiêm trọng của vấn đề. Có rất nhiều

nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, mà một trong số đó chính là do quy định

của pháp luật về vấn đề TCĐĐ trong thời gian qua còn nhiều bất cập, hạn chế.

Trong thời gian vừa qua, Nhà nước ta đã cố gắng trong việc giải quyết

các TCĐĐ nhằm ổn định tình hình chính trị - xã hội. Hệ thống các văn bản

quy phạm pháp luật đất đai ngày càng được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện,

trong đó có quy định thẩm quyền GQTCĐĐ thuộc thẩm quyền của Ủy ban

nhân dân (UBND) và Tòa án nhân dân (TAND). Tuy nhiên, các quy định về

thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai (GQTCĐĐ) mới chỉ dừng lại ở mức

độ chung chung, nên thực tiễn dẫn đến sự chồng chéo, đùn đẩy giữa UBND

và TAND. Do đó tình hình GQTCĐĐ của các cơ quan hành chính và TAND

trong những năm qua vừa chậm trễ, vừa không thống nhất.

Qua nghiên cứu thực tiễn giải quyết các tranh chấp dân sự hiện nay,

việc GQTCĐĐ được các chủ thể liên quan đánh giá là dạng tranh chấp khó

khăn, phức tạp nhất, có liên quan đến nhiều vấn đề nhất. Do đó, việc nghiên

cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật về đất đai, thẩm quyền

GQTCĐĐ của các cơ quan có thẩm quyền (qua thực tiễn tại huyện Vân Đồn)

trong những năm gần đây, trên cơ sở đó nhằm đề xuất những kiến nghị, bổ

sung chính sách, pháp luật về đất đai và đưa ra hướng giải quyết các TCĐĐ

một cách hợp lý, có hiệu quả, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho công

1

dân là việc làm có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn hiện nay.

Với nhận thức như vậy, tôi đã lựa chọn đềtài:“Giải quyết tranh chấp đất đai

theo pháp luật đất đai ở Việt Nam từ thực tiễn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng

Ninh” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Xoay quanh chủ đề giải quyết tranh chấp đất đai theo pháp luật Việt

Nam,trong quá trình nghiên cứu tác giả đã tìm thấy nhiều công trình nghiên

cứu, bài viết có liên quan, với nhiều cách viết và tiếp cận khác nhau, trong đó

có các công trình sau đây:

Luận văn Tiến sĩ Luật học, “TCĐĐ và GQTCĐĐ bằng tòa án ở nước

ta” của tác giả Mai Thị Tú Oanh, được thực hiện tại Học viện Khoa học xã

hội Việt Nam năm 2013 đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về

TCĐĐ và GQTCĐĐ thông qua tòa án, trên cơ sở phân tích và làm rõ những

vấn đề nghiên cứu của thực trạng, đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp

luật và tổ chức thực hiện pháp luật về GQTCĐĐ ở Việt Nam trong giai đoạn

05 năm tiếp theo [25].

Luận văn Thạc sĩ Luật học, “GQTCĐĐ theo thủ tục hành chính trong

vùng đồng bào dân tộc trên địa bàn tỉnh An Giang” của tác giảNguyễn Thành

Đoàn, được thực hiện tại Trường Đại học Luật TP.HCM năm 2009, tác giả đã

trình bày được Cơ sở lí luận và pháp lí GQTCĐĐ theo thủ tục hành chính.

Thực trạng giải quyết ranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính đối với đồng

bào dân tộc trên địa bàn tỉnh An Giang và một số giải pháp nâng cao hiệu quả.

Đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả việc giải quyết tranh chấp đối với

đồng bào dân tộc, góp phần đảm bảo an ninh chính trị và phục vụ yêu cấu

phát triển kinh tế xã hội [9].

Ngoài ra tác giả còn tìm thấy một số bài viết đăng trên tạp chí khoa học

2

có liên quan đến đề tài như:

Đỗ Thị Hằng, Những bất cập về hòa giải cơ sở trong GQTCĐĐ theo

Luật đất đai 2013, Thanh tra, Thanh tra chính phủ số 05/2016, tr. 20-236.

Nguyễn Vinh Diện, Một số điểm mới về GQTCĐĐ theo Luật đất đai

năm 2013, Dân chủ & Pháp luật, Bộ Tư pháp, số 11(272), tr. 37-398.

Đặng Thị Phượng, Thẩm quyền GQTCĐĐ của Tòa án theo Luật Đất

năm 2013, TAND, TAND tối cao, số 6/2014 trang 11-1611.

Qua nghiên cứu các công trình đã thực hiện trước đây liên quan đến

GQTCĐĐ, học viên nhận thấy, những kết quả nghiên cứu của các công trình

này đã giúp cho tác giả thu thập có được thông tin đa dạng với nhiều góc độ

tiếp cận khác nhau về GQTCĐĐ của các cấp có thẩm quyền. Đây là những tài

liệu bổ ích để học viên tham khảo để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về

GQTCĐĐ, đánh giá thực trạng GQTCĐĐ tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng

Ninh, qua đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đất đai và cơ chế

áp dụng pháp luật để giải quyết có hiệu quả hơn các vụ TCĐĐ.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và

thực tiễn (thông qua nghiên cứu tình hình tranh chấp đất đai và giải quyết

tranh chấp đất đất đai tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh), từ đó, đưa ra các

giải pháp hoàn thiện pháp luật về GQTCĐĐ và nâng cao hiệu quả GQTCĐĐ.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài luận văn đưa ra

những nhiệm vụ nghiên cứu cần thực hiện cụ thể sau đây:

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật GQTCĐĐ tham chiếu

với hoạt động GQTCĐĐ của các cơ quan hành chính và hoạt động xét xử của

3

TAND thông qua việc giải quyết những vấn đề cụ thể sau: Phân tích khái

niệm và đặc điểm của TCĐĐ; các dạng TCĐĐ; nguyên nhân của TCĐĐ.Phân

tích khái niệm GQTCĐĐ và pháp luật GQTCĐĐ; ý nghĩa của quan hệ pháp

luật vềGQTCĐĐ; các nguyên tắc GQTCĐĐ; cơ cấunội dung pháp luật về

GQTCĐĐ, các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật GQTCĐĐ.

- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về GQTCĐĐ và thực tiễn

thực hiện của cơ quan quản lý hành chính và tại TAND huyện Vân Đồn,

tỉnh Quảng Ninh.

- Đề xuất và nghiên cứu định hướng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện

pháp luật về GQTCĐĐ và nâng cao hiệu quả thi hành từ thực tiễn huyện Vân

Đồn, tỉnh Quảng Ninh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật Việt

Nam về GQTCĐĐ và kết quả thực hiện pháp luật về GQTCĐĐ thông qua cơ

quan hành chính và TAND huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.

Việc GQTCĐĐ ở huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh hiện nay, tùy theo

loại vụ việc, thuộc thẩm quyền giải quyết tại cơ quan hành chính và cơ quan

tư pháp giải quyết.

Khi khảo sát thực tiễn tổ chức thực hiện và thực tiễn vụ việc, luận văn

chỉ phân tích thực tiễn và các vụ việc TCĐĐ được giải quyết tại huyện Vân

Đồn, tỉnh Quảng Ninh.

Các thông tin, số liệu thu thập trong luận văn là những thông tin, số liệu

từ khi Luật Đất đai 2013 có hiệu lực (năm 2014) đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:

Để đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài, trong quá trình nghiên

cứu, phân tích và làm rõ các nhiệm vụ, luận văn đã vận dụng hợp lýcơ sở lý

4

luận của các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:

- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lê nin

với phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là cơ sở để tiến hành nghiên

cứu lý luận, phân tích thực trạng và đề xuất các giải pháp phù hợp.

- Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu

cụ thể sau:

i) Phương pháp phân tích được sử dụng khi nghiên cứu Chương 1.

Những vấn đề lý luận pháp luật về GQTCĐĐ ở Việt Nam.

ii) Phương pháp diễn giải, phương pháp phân tích kết hợp với luận giải

được sử dụng nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả thi hành pháp

luật về GQTCĐĐ tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh; yêu cầu của áp dụng

pháp luật về GQTCĐĐ từ hoạt động xét xử của TAND…

iii) Phương pháp bình luận, phương pháp đánh giá, phương pháp so

sánh, phương pháp nghiên cứu hệ thống… được sử dụng khi đánh giá thực

trạng thi hành pháp luật về GQTCĐĐ tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.

iv) Phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp… được sử dụng khi

đề cập định hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về

GQTCĐĐ tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.

v) Phương pháp lập luận logic các luận điểm, luận cứ được sử dụng khi

nghiên cứu đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả

áp dụng pháp luật về GQTCĐĐ tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Đề tài nghiên cứu này được thực hiện dựa trên cơ sở phân tích đánh giá

thực trạng về GQTCĐĐ ở huyện Vân Đồn. Trên cơ sở đó chỉ ra những bất

cập, tồn tại của pháp luật đất đai hiện hành về thẩm quyền và thủ tục

GQTCĐĐ; đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về GQTCĐĐ

nhằm đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của

5

Việt Nam.

Các kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn cũng như các giải pháp

được đề xuất của đề tài này có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ

sở đào tạo và nghiên cứu luật học tại Việt Nam. Một số kiến nghị được tác giả

đề xuất khi làm rõ các nguyên nhân của hạn chế đề tài có giá trị tham khảo

đối với cơ quan xây dựng và thực thi pháp luật về đất đai nói chung, pháp luật

về GQTCĐĐ nói riêng ở nước ta.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,

Luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về GQTCĐĐ và về pháp luật

GQTCĐĐ;

Chương 2: Thực trạng pháp luật về GQTCĐĐ và thực tiễn thực hiện tại

huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh;

Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao

hiệu quả thực hiện pháp luật về GQTCĐĐ từ thực tiễn tại huyện Vân Đồn,

6

tỉnh Quảng Ninh.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT

ĐAI VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI

1.1. Lý luận về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên nhân và phân loại các tranh chấp

đất đai

1.1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai

Đất đai là một loại tài sản quý giá, một tài nguyên do thiên nhiên ban

tặng cho con người. Vì lẽ đó, có thể nói việc hưởng lợi từ đất đai trao cho, đất

đai có vị trí là một đối tượng quan trọng trọng bậc nhất của quyền sở hữu.

Cũng vì thế mà TCĐĐ đã trở thành một trong những hiện tượng xảy ra trong

bất kỳ một quốc gia và ở bất kỳ một thể chế chính trị nào [49, tr.8].

Trong ngôn ngữ thông thường của cuộc sống hàng ngày, tranh chấp

được hiểu là sự giành nhau một cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào.

TCĐĐ là tranh chấp có đối tượng tranh chấp là đất đai. Nếu coi đối tượng của

tranh chấp là đất đai thì TCĐĐ cũng có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác

nhau [63, tr.512].

Nếu hiểu theo nghĩa rộng, TCĐĐ là sự mâu thuẫn, bất đồng trong việc

xác định quyền sở hữu, quản lý hoặc quyền sử dụng đất đai. Tranh chấp này

có thể được phát sinh trực tiếp hoặc phát sinh một cách gián tiếp trong quá

trình các bên tranh chấp quản lý và sử dụng đất đai [23, tr.17].

Nghiên cứu dưới góc độ hẹp hơn thì TCĐĐ được hiểu là tranh chấp

phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền và

nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai [23, tr.18].

Trong xã hội tồn tại lợi ích giai cấp đối kháng thì TCĐĐ mang màu sắc

7

chính trị, đất đai luôn là đối tượng tranh chấp giữa giai cấp bóc lột và giai cấp

bị bóc lột, việc giải quyết triệt để các TCĐĐ ở các xã hội được thực hiện bằng

một cuộc cách mạng xã hội.

Theo quy định mới nhất tại Điều 3, Luật Đất đai năm 2013, khái

niệm TCĐĐ đã được kế thừa và phát triển và được hiểu là tranh chấp về

quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan

hệ đất đai [32].

Từ nội dung khái niệm và các quan điểm về TCĐĐ, chúng ta có thể

nhận định rằng khi các bên xảy ra tranh chấp mà không thể cùng nhau tự giải

quyết các tranh chấp đó mà phải yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phán xử

nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các bên trong tranh chấp. Trong phạm

vi luận văn, tác giả sử dụng khái niệm TCĐĐ của Luật Đất đai năm 2013 [6].

1.1.1.2. Đặc điểm tranh chấp đất đai

Là một dạng đặc biệt và phổ biến của tranh chấp dân sự, TCĐĐ vừa

chứa đựng những đặc điểm chung của một tranh chấp dân sự, đồng thời lại

vừa có những đặc điểm đặc trưng riêng khác với các tranh chấp dân sự, tranh

chấp lao động, tranh chấp kinh doanh, thương mại khác... mà những đặc điểm

này sẽ giúp các nhà làm luật, nhà nghiên cứu và những người quan tâm có thể

dễ dàng hơn trong tiếp cận và tiềm hiểu về TCĐĐ có thể chỉ ra những điểm

khác biệt chủ yếu sau đây:

Một là, xét về chủ thể tranh chấp, TCĐĐ chỉ xuất hiện giữa các chủ thể

có quyền quản lý và quyền sử dụng đất chứ không phải là các chủ thể của của

quyền sở hữu đất đai. Bởi lẽ, ở Việt Nam, quyền sở hữu đất thuộc về toàn dân

do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu. Các chủ thể được Nhà nước giao cho

quyền sử dụng đất được xác lập trên cơ sở được nhà nước trao quyền sử dụng

đất (thông qua quyết định giao đất, hợp đồng cho thuê đất của Nhà nước hoặc

được Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với diện tích đất

8

đang sử dụng) hoặc được Nhà nước cho phép nhận chuyển nhượng từ các chủ

thể khác theo quy định của pháp luật về đất đai hiện hành. Vì thế, chủ thể của

TCĐĐ là người sử dụng đất (các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân) tham gia vào

tranh chấp đó với tư cách là những người được trao quyền quản lý hoặc trao

quyền sử dụng đất [6].

Hai là, so với các loại tranh chấp khác, TCĐĐ có nội dung rất đa dạng

và phức tạp. Điều này xuất phát từ việc trong nền kinh tế thị trường, các hoạt

động quản lý và sử dụng đất ngày càng trở nên rất đa dạng, phong phú do đất

đai được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, với diện tích, nhu cầu sử

dụng khác nhau [23].

Ba là, khi xảy ra TCĐĐ thì sẽ ảnh hưởng đến các biên liên quan và có

thể làm phát sinh những hậu quả xấu về nhiều mặt trong mối quan hệ này

như: làm mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân, phá vỡ trật tự quản lý đất đai,

gây đình trệ sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích không những của bản

thân các bên tranh chấp mà còn gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và xã

hội. Hơn thế nữa, khi nghiên cứu thực tiễn các vụ án về TCĐĐ, có thể thấy

các vấn đề này còn có thể gây mất ổn định về chính trị, phá vỡ mối quan hệ

xã hội của địa phương, đất nước [23].

Bốn là, TCĐĐ có đối tượng là quyền quản lý và quyền sử dụng đất. đất

đai là loại tài sản đặc biệt không thuộc quyền sở hữu của các bên tranh chấp

mà thuộc quyền sở hữu của Nhà nước.

1.1.1.3. Nguyên nhân của tranh chấp đất đai

(1) Nguyên nhân khách quan

Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự thay đổi cơ

chế quản lý làm cho đất đai ngày càng trở nên có giá trị đã tác động đến tâm

lý của nhiều người dẫn đến tình trạng tranh chấp, đòi lại nhà, đất mà trước đó

đã bán, cho thuê, cho mượn, đã bị tịch thu hoặc giao cho người khác sử dụng

9

hoặc khi thực hiện một số chính sách về đất đai ở các giai đoạn trước đây mà

không có các văn bản xác định việc sử dụng đất ổn định của họ. Những tổ chức

đó bao chiếm quá nhiều diện tích đất nhưng sử dụng lại kém hiệu quả [49].

Đất nước ta trải qua thời gian chiến tranh kéo dài, gây xáo trộn lớn về

nơi cư trú cùng với những chính sách đất đai khác nhau áp dụng của từng thời

kỳ, đã dẫn đến những biến động lớn về chủ sử dụng đất. Mặc dù Luật Đất đai

năm 1993 và 2003 đã quy định, Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất

Nhà nước đã quản lý và giao cho người khác sử dụng nhưng nhiều trường hợp

vẫn tranh chấp, khiếu nại đòi lại đất cũ.

(2) Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, về hệ thống ván bản quản lý: Hệ thống chính sách, pháp luật

về đất đai thiếu đồng bộ, thiếu cụ thể phù hợp với địa phương này nhưng

không phù hợp với địa phương khác và thường xuyên thay đổi, từ đó dẫn đến

có một số trường hợp áp dụng pháp luật một cách tùy tiện hoặc thiếu khách

quan, không quan tâm đầy đủ đến quyền lợi của người sử dụng đất, gây nên

những bức xúc. Mặt khác, chính sách, pháp luật đất đai từng bước thay đổi

theo chiều hướng ngày càng quan tâm đến lợi ích chính đáng của người sử

dụng đất, từ đó tạo ra sự suy bì, nhất là trong chính sách bồi thường, giải

phóng mặt bằng. Hơn nữa, việc giao đất lại không được tiến hành theo một

quy trình chặt chẽ, nên hồ sơ đất đai không đồng bộ và bị thất lạc. Chưa kịp

thời ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành để cụ thể hóa các văn bản qui

phạm pháp luật đất đai đã giao quyền cho địa phương; chưa đầu tư kinh phí

thỏa đáng để xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính, đảm bảo quản lý chặt chẽ

đối với từng thửa đất; công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn

chậm, công tác thanh tra, kiểm tra về đất đai còn hạn chế, việc tuyên truyền,

10

phổ biến pháp luật về đất đai chưa kịp thời, thường xuyên.

Thứ hai, về công tác cán bộ thực hiện công vụ liên quan đến đất đai

Đất đai là vấn đề phức tạp, đã và đang phát sinh nhiều khiếu kiện, giải

quyết một vụ việc cần phải có một khoảng thời gian nhất định, phải có các

bước cụ thể. Vì vậy, cần phải có đội ngũ những người am hiểu pháp luật, có

nghiệp vụ chuyên sâu và làm việc chuyên trách. Nhưng, lực lượng làm công

tác giải quyết khiếu nại, tranh chấp đất đai ở địa phương hiện nay phần lớn là

kiêm nhiệm. Khiếu nại về đất đai chủ yếu xảy ra ở cấp huyện nhưng bộ máy

làm công tác ở cấp này lại không tương xứng. Đây là nguyên nhân chủ yếu

dẫn đến tình trạng giải quyết khiếu nại, tranh chấp về đất đai chậm chạp, thiếu

chất lượng, tái khiếu nhiều, công dân phát sinh đơn vượt cấp.

Thứ ba, về đường lối chính sách đất đai: Chính sách đất đai và các

chính sách khác có liên quan đến đất đai hiện nay của nước ta chưa đồng bộ,

có mặt không rõ ràng và đang còn biến động và phức tạp. Thực tế áp dụng các

chính sách đất đai còn tùy tiện dẫn đến tình trạng: Người có khả năng sản

xuất nông nghiệp thì thiếu ruộng đất, ngược lại, người có ruộng lại không có

khả năng hoặc nhu cầu sản xuất, để đất đai hoang hóa hoặc sử dụng đất kém

hiệu quả. Tình trạng người nông dân phải ra các đô thị bán sức lao động, gây

mất ổn định cơ cấu lao động sản xuất cũng có nguyên nhân từ việc thiếu đất

để sản xuất. Thực tiễn đã chứng minh những sai lầm trong phong trào hợp tác

hóa nông nghiệp như nóng vội, gò ép, đưa quy mô hợp tác xã nhỏ lên quy mô

lớn không phù hợp với trình độ năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ, đặc biệt

là đội ngũ cán bộ cơ sở đã dẫn đến hậu quả là đất đai sử dụng bừa bãi, lãng

phí và kém hiệu quả. Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp

được đổi mới, người sử dụng đất có nhu cầu sử dụng đất ngày càng cao, đòi

hỏi phải có một diện tích đất nhất định để sản xuất. Do đó đã xuất hiện tư

tưởng đòi lại đất để sản xuất. Chính sách đất đai chưa phù hợp, chậm đổi mới

11

đã tạo cơ sở cho việc lấn chiếm đất đai diễn ra khá phổ biến, song chưa được

giải quyết và xử lý kịp thời. Sự không đồng nhất về cơ chế chính sách, về bồi

thường hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở từng thời điểm khác

nhau trên cùng địa bàn, không chấp hành đúng hoặc chưa đầy đủ qui định về

trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường, tái định cư. Bên cạnh đó, một số bộ

phận làm công tác bồi thường, cán bộ địa chính không nắm vững chính sách,

pháp luật đất đai nên quá trình thực hiện các bước trong công tác bồi thường,

giải phóng mặt bằng người dân chưa thỏa mãn, còn nghi ngờ dẫn đến phát

đơn khiếu kiện [49].

Thứ tư, về công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật về đất

đai: Công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật đất đai hiện nay

mặc dù đã được triển khai nhưng chưa được coi trọng, làm cho nhiều văn bản

pháp luật đất đai của Nhà nước chưa được phổ biến sâu rộng trong nhân dân

để giúp cán bộ, nhân dân nhanh chóng cập nhật kiến thức về pháp luật liên

quan.

1.1.1.4. Phân loại tranh chấp đất đai

Theo Khoản 24, Điều 3, Luật Đất đai 2013 thì TCĐĐ là tranh chấp về

quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ

đất đai. Trong khái niệm này chúng ta cần lưu ý: đối tượng của TCĐĐ không

phải là quyền sở hữu đất, các chủ thể tham gia tranh chấp không phải là các chủ

thể có quyền sở hữu đối với đất. Đây là điều không phải bàn cãi vì Điều 53, Hiến

pháp 2013 hay điều 4, Luật đất đai 2013 quy định rất rõ đất đai thuộc sở hữu

toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý [32].

Trên thực tế, TCĐĐ không chỉ là hiện tượng phổ biến mà trong đó còn

hết sức đa dạng về chủ thể cũng như nội dung tranh chấp. Tuy nhiên, về cơ

bản TCĐĐ được chia thành ba dạng như sau:

Tranh chấp về quyền sử dụng đất: là những tranh chấp giữa các bên với

12

nhau về việc ai có quyền sử dụng hợp pháp đối với một mảnh đất nào đó.

Tranh chấp về quyền, nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất:

dạng tranh chấp này thường xảy ra khi các chủ thể có những giao dịch dân sự

về quyền sử dụng đất hoặc các tranh chấp liên quan đến việc bồi thường giải

phóng mặt bằng, tái định cư…

Tranh chấp xác định chủ thể có quyền sử dụng đất: Đây là tranh chấp

phát sinh trong quá trình sử dụng đất không liên quan đến các giao dịch về đất

đai và tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất. Về bản chất khi giaỉ quyết tranh

chấp này tòa án phải xác định quyền sử dụng đất thuộc về ai. Theo điển a,

khoản 3 Điều 159 Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi và bổ sung năm

2011, có hiệu lực kể từ ngày 1/01/2012 thì dạng tranh chấp này không áp

dụng thời hiệu khởi kiện.

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và yêu cầu của giải quyết tranh chấp đất đai

1.1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai

Trên cơ sở khái niệm tranh chấp đất đai chúng ta có khái niệm giải

quyết tranh chấp đất đai như sau: “giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động

của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm giải quyết các bất đồng, mâu

thuẫn giữa các bên để tìm ra các giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật

nhằm xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ đất đai”.

Việc giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay phải đảm bảo ba nguyên tắc

dưới đây:

- Thứ nhất, luôn đảm bảo nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân và

Nhà nước là đại diện chủ sở hữu.

- Thứ hai, bảo đảm lợi ích của người sử dụng đất, nhất là lợi ích kinh

tế, khuyến khích tự hòa giải trong nội bộ nhân dân.

- Thứ ba, việc giải quyết nhằm mục đích ổn định kinh tế, xã hội, gắn

với phát triển sản xuất, mở mang ngành nghề, tạo điều kiện cho lao động có

13

việc làm, phù hợp với đặc điểm và quy hoạch của từng địa phương

1.1.2.2. Đặc điểm của giải quyết tranh chấp đất đai

Hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai có những đặc điểm sau:

- Giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền. Để giải quyết một tranh chấp, các chủ thể có thể sử dụng nhiều

biện pháp như tự thương lượng, thỏa thuận với nhau. Pháp luật đất đai không

quan tâm cách thức họ thỏa thuận thế nào, thương lượng ra sao mà chỉ đưa ra

các quy định điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp khi có sự tham gia

của cơ quan nhà nước vào việc giải quyết đó mà thôi. Điều này nhằm thể hiện

sự tôn trọng của Nhà nước với tự do ý chí, tự do định đoạt của các chủ thể và

Nhà nước sẽ cung cấp một công cụ giải quyết tranh chấp cho họ nếu như họ

không có được sự thống nhất. Một khi đã có sự tham gia của cơ quan nhà

nước thì các quy phạm pháp luật về giải quyết tranh chấp là cần thiết, bởi lẽ

có những quy phạm pháp luật này thì người dân cũng như chính cơ quan nhà

nước mới biết chủ thể nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và giải quyết

theo trình tự, thủ tục gì.

- Đối tượng của hoạt động giải quyết tranh chấp là tranh chấp đất đai,

trong đó các đương sự yêu cầu cơ quan nhà nước xác định rõ những quyền và

nghĩa vụ của các bên đối với khu đất đang bị tranh chấp.

- Hệ quả pháp lý của việc giải quyết tranh chấp là quyền và nghĩa vụ

của các chủ thể trong quan hệ đất đai sẽ được làm rõ bằng bản án hoặc quyết

định có hiệu lực pháp luật.

- Đề cao hòa giải, huy động đoàn thể địa phương tham gia.

- Liên quan đến nhiều lĩnh vực khác, như: nhà, xây dựng...

- Cần phải hiểu phong tục, tập quán địa phương để có cách giải quyết

14

thỏa đáng.

1.1.2.3. Mục đích và yêu cầu của giải quyết tranh chấp đất đai

Giải quyết tranh chấp kịp thời và hiệu quả các tranh chấp cho phép hạn

chế đến mức tối thiểu sự gián đoạn của sản xuất kinh doanh cũng như đặt ở

mức chi phí thấp nhất. Song, quan trọng đó là phải bảo vệ một cách có hiệu

quả lợi ích hợp pháp và chính đáng của các bên khi tham gia vào kinh tế

thương mại.

Giải quyết tốt tranh chấp là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền

kinh tế. Muốn có một nền kinh tế phát triển thì các quan hệ xã hội nói chung

và quan hệ kinh tế thương mại nói riêng phải được điều chỉnh bằng pháp luật,

phải đảm bảo bằng pháp luật. Việc đầu tiên là hạn chế các tranh chấp có thể

xảy ra bằng cách đặt ra các chế định và chế tài tạo thành một “sân chơi” lành

mạnh và công bằng. Khi tranh chấp xảy ra phải có các thủ tục, biện pháp để

giải quyết, nếu không giải quyết kịp thời thì hậu quả sẽ dây dưa kéo dài và

thiệt hại rất lớn. Điều đó không những làm thiệt hại, kìm hãm phát triển nền

kinh tế mà còn gây nên một khuyết điểm lớn của môi trường kinh doanh, các

chủ thể sau tranh chấp có thể “quay lưng” lại với nhau đố kỵ và không tin

tưởng lẫn nhau. Một tâm lý yên tâm làm ăn kinh tế, mạnh dạn đầu tư sẽ góp

phần cải thiện nền kinh tế.

Giải quyết hậu quả kịp thời tranh chấp còn có ý nghĩa cực kỳ quan

trong việc quản lý xã hội bằng pháp luật, vừa tháo gỡ khó khăn cho các doanh

nghiập, vừa góp phần tạo môi trường pháp lý có kỷ cương. Trong sản xuất

kinh doanh tạo niềm tin, thực hiện công bằng và bình đẳng cho các doanh

nghiệp trong nước và ngoài nước. Thực hiện sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

Tính hiệu quả được xét ở hai góc độ hiệu quả chuyên môn và hiệu quả

kinh tế. Muốn vậy trong khi tiến hành một hình thức giải quyết tranh chấp

15

nào cũng phải tuân thủ một số nguyên tắc.

1.2. Lý luận về pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai

1.2.1. Sự cần thiết của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai

Quan hệ pháp luật đất đai là quan hệ giữa người với người, được các

quy phạm pháp luật đất đai điều chỉnh, biểu hiện thành quyền và nghĩa vụ

pháp lý cụ thể của các bên, được đảm bảo bằng cưỡng chế Nhà nước.

Trên cơ sở quan niệm như vậy, quan hệ pháp luật đất đai có các đặc

điểm sau:

- Quan pháp luật đất đai là quan hệ giữa người với người (các quan hệ

xã hội). Quan hệ này có thể là quan hệ phát sinh giữa các cơ quan quản lý nhà

nước với người sử dụng đất, quan hệ giữa những người sử dụng đất với nhau,

quan hệ giữa các cơ quan nhà nước khi thực hiện chức năng đại diện chủ sở

hữu và quản lý nhà nước về đất đai;

- Quan hệ pháp luật đất đai phải là loại quan hệ được các quy phạm

pháp luật đất đai điều chỉnh, quy định cho các bên trong quan hệ có những

quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định;

- Quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên được đảm bảo thực hiện bằng

cưỡng chế Nhà nước.

Sự cần thiết điều chỉnh quan hệ GQTCĐĐ bằng pháp luật

Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình trên tất cả các phương

diện của đời sống xã hội, các vấn đề trong quá trình phát triển kinh tế đất

nước sẽ không thể tránh được những mâu thuẫn, bất đồng phát sinh giữa chủ

thể quản lý nhà nước và đối tượng quản lý và trong lĩnh vực đất đai cũng

không ngoại lệ. Quá trình quản lý và sử dụng đất đai cũng sẽ không thể tránh

khỏi việc phát sinh mâu thuẫn, bất đồng giữa cá nhân, tổ chức với tư cách là

những người quản lý, sử dụng đất đai với cơ quan thực hiện chức năng quản

lý nhà nước về đất đai, tranh chấp giữa cá nhân và tổ chức về đất đai. Đó

16

chính là tranh chấp trong lĩnh vực đất đai. Đã từ lâu ở nước ta, để giải quyết

loại tranh chấp này, Nhà nước đã thiết lập con đường giải quyết hành chính,

tòa án, theo đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện khiếu nại đến các cơ quan

quản lý nhà nước về đất đai để được giải quyết theo thủ tục tố tụng theo quy

định của pháp luật đất đai và pháp luật khiếu nại [6]. Sau khi Luật Tổ chức

Toà án nhân dân năm 1995 và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành

chính năm 1996 ra đời và có hiệu lực thi hành, việc giải quyết các tranh chấp

hành chính về đất đai còn được Toà án nhân dân thực hiện theo thủ tục tố

tụng hành chính. Kể từ đó tới nay, pháp luật điều chỉnh giải quyết tranh chấp

hành chính trong lĩnh vực đất đai liên tục được sửa đổi, bổ sung và hoàn

thiện. Sự tồn tại song song hai phương thức giải quyết trong gần 20 năm qua

mang lại hiệu quả tích cực, đã góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp

của các các chủ thể sử dụng đất, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và

bảo đảm pháp chế trong hoạt động của các cơ quan nhà nước hữu quan. Tuy

nhiên, sau khi Luật đất đai 2013 có hiệu lực thi hành ngày đến nay, tranh chấp

hành chính trong lĩnh vực đất đai có xu hướng gia tăng cả về số lượng, tính

chất phức tạp và phản ứng bức xúc của người dân, trong khi đó, việc giải

quyết loại tranh chấp này cũng bộc lộ nhiều bất cập [41].

1.2.2. Các nguyên tắc của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai

Muốn đáp ứng được các yêu cầu đó, thì việc GQTCĐĐ phải tuân thủ

các nguyên tắc sau đây:

(1) Nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ

sở hữu và thống nhất quản lý trên toàn quốc

Hiến pháp 2013, Luật Đất đai hiện hành khẳng định toàn bộ đất đai trên

lãnh thổ Việt Nam đều thuộc quyền sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ

sở hữu và thống nhất quản lý. Trong thực tế vừa qua có mâu thuẫn về quy định

đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, nhưng quyền

17

của đại diện chủ sở hữu, nhất là quyền định đoạt và quyền hưởng lợi từ đất đai

chưa được định rõ; trong khi đó, người được Nhà nước giao đất (người sử

dụng) tự coi như người chủ sở hữu, tùy tiện mua bán, chuyển nhượng. Trên

thực tế, Nhà nước phải mặc cả với người sử dụng đất khi thu hồi đất sử dụng

vào các mục đích công cộng và phát triển kinh tế - xã hội. Việc thu hồi đất gặp

rất nhiều khó khăn, phức tạp, dẫn đến nhiều vụ khiếu kiện liên quan đến việc

thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư... [41].

(2) Nguyên tắc bảo đảm lợi ích của người sử dụng đất, nhất là lợi ích

kinh tế, khuyến khích việc tự thương lượng, tự hòa giải trong nội bộ nhân dân

Để bảo vệ một cách tốt nhất những lợi ích thiết thân đó, trước hết các

bên tranh chấp phải gặp nhau để bàn bạc, thảo luận và thương lượng. Đó cũng là

cơ sở quan trọng đảm bảo quyền tự do định đoạt cho các đương sự. Cơ quan nhà

nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai chỉ thụ lý đơn khi các bên đã

tiến hành qua thủ tục này mà không đạt được sự nhất trí cần thiết [41].

(3) Việc GQTCĐĐ phải nhằm mục đích ổn định tình hình kinh tế - xã

hội của đất nước, địa phương, gắn việc GQTCĐĐ với việc tổ chức lại sản

xuất, kinh doanh, tạo điều kiện cho người bị thu hồi đất có việc làm phù hợp

với quá trình chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và cơ cấu kinh tế theo hướng

công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng trong quá trình triển khai các chính sách

về nông nghiệp, nông thôn. Do ảnh hưởng tiêu cực của TCĐĐ đến mọi mặt

của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội nên việc giải quyết các TCĐĐ phải nhằm

vào mục đích bình ổn các quan hệ xã hội. [41].

(4) Nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa

Mọi hoạt động trong đời sống kinh tế, xã hội đều hoạt động theo Hiến

pháp và pháp luật, việc giải quyết các tranh chấp dân sự nối chung và giải

quyết tranh chấp đất đai nói riêng cũng phải chú ý và tuân thủ các nguyên tắc,

trình tự, thủ tục, thẩm quyền mà hiến pháp, pháp luật của Nhà nước đã quy

18

định nói chung và phát luật về tố tụng, pháp luật về đất đai nói riêng. Đồng

thời, việc giải quyết các tranh chấp đất đai phải được các cơ quan quản lý nhà

nước có thẩm quyền phát hiện và giải quyết kịp thời các vụ tranh chấp theo

đúng quy trình nhằm giảm thiểu các vi phạm pháp luật về đất đai, tránh tình

trạng để các TCĐĐ kéo dài, làm ảnh hưởng tới tâm lý và lợi ích của người

dân cũng như trật tự, an toàn tại địa phương.

1.2.3. Cơ cấu về nội dung của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai

Một quan hệ pháp luật đất đai được cấu thành bởi các yếu tố: chủ thể,

nội dung và khách thể của quan hệ pháp luật đất đai

Chủ thể của quan hệ pháp luật đất đai: Chủ thể của quan hệ pháp luật đất

đai là các chủ thể dựa trên cơ sở các quy phạm pháp luật mà tham gia vào một

quan hệ pháp luật đất đai để hưởng quyền và làm nghĩa vụ trong quan hệ đó.

Chủ thể của quan hệ pháp luật đất đai gồm có Nhà nước và người sử dụng đất.

Nhà nước tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai với tư cách là đại diện

chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý nhà nước về đất đai. Nhà

nước tham gia vào các quan hệ pháp luật thông qua các cơ quan nhà nước.

Chủ thể sử dụng đất là người đang thực tế chiếm hữu đất đai do Nhà

nước giao, cho thuê, cho phép nhận quyền sử dụng đất hoặc được Nhà nước

công nhận quyền sử dụng đất. Các chủ thể sử dụng đất này gồm các tổ chức

trong nước; cá nhân, hộ gia đình trong nước; cộng đồng dân cư, cơ sở tôn

giáo; tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao; Người Việt Nam định cư ở

nước ngoài; tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam (Điều 5 Luật

Đất đai năm 2013) [32].

Chủ thể đang thực tế chiếm hữu đất đai được phân chia thành: chủ thể

đã có giấy tờ hợp pháp về quyền sử dụng đất (đã có giấy chứng nhận quyền

sử dụng đất); chủ thể có giấy tờ hợp lệ về quyền sử dụng đất (chưa có giấy

19

chứng nhận quyền sử dụng đất, những đủ điều kiện để được cấp giấy chứng

nhận); và chủ thể không đủ giấy tờ theo quy định nhưng được công nhận

quyền sử dụng đất.

Nội dung của quan hệ pháp luật đất đai: Nội dung của quan hệ pháp

luật đất đai là tổng thể quyền hạn và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ

pháp luật đất đai. Các quyền hạn, nghĩa vụ này được pháp luật quy định và

bảo vệ.

Khách thể của quan hệ pháp luật đất đai: Khách thể của quan hệ pháp

luật đất đai là cái mà các chủ thể nhằm hướng tới, đạt được khi tham gia vào

quan hệ pháp luật đất đai.

Cơ cấu về nội dung của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai

bao gồm:

Thứ nhất, nhóm các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai

theo quy định của pháp luật hiện hành

Căn cứ để GQTCĐĐ là một nội dung không thể thiếu của pháp luật

về giải quyết tranh chấp đất đai. Đây chính là vấn đề xác định cơ quan, tổ

chức nào có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp đất đai giữa các chủ thể

tranh chấp.

Thứ hai, nhóm các quy định về trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp

đất đai theo quy định của pháp luật

Đây chính là các quy định về các bước cần phải thực hiện trong quá

trình giải quyết tranh chấp đất đai. Đó là các quy định về hòa giải, về trình tự,

thủ tục giải quyết các tranh chấp đất đai tại cơ quan hành chính nhà nước và

tại tòa án nhân dân.

Thứ ba, pháp luật nội dung về giải quyết tranh chấp đất đai. Đây chính

là các quy định của pháp luật đất đai về quản lý, sử dụng đất, về quyền và

20

nghĩa vụ của người sử dụng đất; là các quy định của pháp luật dân sự, pháp

luật đất đai, pháp luật về kinh doanh bất động sản về các giao dịch liên quan

đến quyền sử dụng đất…

1.2.4. Lịch sử hình thành và phát triển về giải quyết tranh chấp

đất đai

1.2.4.1. Thời kỳ trước khi ban hành Hiến pháp 1980

Từ năm 1976 đến trước khi Hiến pháp năm 1980 được thông qua Nhà

nước ta đã ban hành trên 800 văn bản pháp luật, trong đó có một luật, 3 pháp

lệnh. 532 văn bản của Chính phủ, 241 văn bản của các Bộ và các cơ quan

thuộc Hội đồng Chính phủ. Như vậy, giai đoạn này thẩm quyền GQTCĐĐ

của ủy ban hành chính các cấp chưa được quy định rõ ràng. Thực tế, việc giải

quyết các TCĐĐ chủ yếu do ủy ban hành chính cấp xã thực hiện với vai trò

của tổ chức nông hội địa phương (tham gia nhiều vào công việc chính quyền),

cơ quan tư pháp chỉ xuất hiện khi giải quyết tranh chấp hoa màu trên đất bãi

sa bồi [52].

1.2.4.2. Thời kỳ sau khi ban hành Hiến pháp 1980

- Giai đoạn từ khi Hiến pháp 1980 có hiệu lực đến trước khi Luật Đất

đai 1987 ra đời

Hiến pháp 1980 ra đời đã khép lại một chặng đường dài phấn đấu

không ngừngcủa Nhà nước ta nhằm mục tiêu xã hội hóa toàn bộ vốn đất đai

trong phạm vi cả nước. Điều 19 và Điều 20 Hiến pháp 1980 quy định:

“Những tập thể và cá nhân đang sử dụng đất đai được tiếp tục sử dụng”. Do

đó, một số hợp tác xã, tổ chức và các tập đoàn sản xuất nông nghiệp thời kỳ

bấy giờ đi đến tan rã, đất đai lại có sự chia cấp lại theo quy định mới. Tuy

vậy, việc GQTCĐĐ còn quan liêu, mang nặng tính mệnh lệnh hành chính.

- Giai đoạn từ khi Luật Đất đai 1987 được ban hành đến trước khi Luật

21

Đất đai 1993 ra đời.

Hiến pháp 1980 cũng như khi Luật Đất đai 1987 được ban hành và có

hiệu lực đều khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất

quản lý. Song các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành đã không xác định rõ

ràng quyền lợi của người sử dụng đất đã làm hạn chế hiệu quả sử dụng đất.

Trong giai đoạn này, nổi trội nhất phải kể đến chủ trương thực hiện cơ chế quản

lý kinh tế mới trong nông nghiệp theo Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 5/4/1988 của

Bộ Chính trị [52]…

Đối với nhà ở, các tranh chấp phát sinh trong giai đoạn này thường liên

quan đến nhà cải tạo, nhà vắng chủ, đòi lại nhà cho thuê trước ngày 1/7/1991

(Pháp lệnh về nhà ở có hiệu lực). Ngoài ra, còn xuất hiện các tranh chấp về

nhà ở khi vợ chồng ly hôn. Để tạo cơ sở pháp lý giải quyết tình hình TCĐĐ

kể trên. Nghị định 30-HĐBT ngày 23/3/1989 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là

Chính phủ) về việc thi hành Luật Đất đai (Điều 15, 16).Chỉ thị số 364-CT

ngày 06/11/1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính

phủ) về việc GQTCĐĐ liên quan đến địa giới hành chính. Các văn bản pháp

luật được Nhà nước ban hành trong thời kỳ này đã tạo cơ sở pháp lý quan

trọng cho việc thực hiện các nội dung GQTCĐĐ, góp phần vào việc giải

quyết mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, ổn định sản xuất, kinh doanh và phát

triển kinh tế [49] [52].

- Giai đoạn từ khi Luật Đất đai 1993 ban hành đến trước khi có Luật

Đất đai 2003 ra đời.

Luật Đất đai 1993 dựa trên cơ sở của Hiến pháp 1992, đã khắc phục

được nhiều nhược điểm của Luật Đất đai 1987, đã sửa đổi, bổ sung một số

quy định không còn phù hợp để giải quyết những vấn đề quan trọng trong

việc quản lý và sử dụng đất đai. Sau hai lần sửa đổi, bổ sung, Luật Đất đai

1993 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua

22

ngày 2 tháng 12 năm 1998 và ngày 29 tháng 6 năm 2001, cùng hệ thống các

văn bản dưới luật, đã hình thành một ngành luật đất đai, góp phần tích cực

vào công cuộc đổi mới nền kinh tế - xã hội của đất nước.

Luật Đất đai 1993 đã chế định cơ sở pháp lý cơ bản để quan hệ đất đai

ở nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo

định hướng xã hội chủ nghĩa. Luật này đã đề cập đến.nhiều nội dung quan

trọng song có thể nêu lên bốn nội dung cơ bản nhất sau đây [49].

Thông tư liên tịch số 02/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-TCĐC của

TAND tối cao (TANDTC), Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) và

Tổng cục Địa chính ngày 28/7/1997 hướng dẫn về thẩm quyền của TAND

trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất theo quy định tại

khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai. Thông tư liên tịch số 01/2002/TTLT-TAND-

VKSNDTC-TCĐC ngày03/1/2002 của TANDTC, VKSNDTC và Tổng cục

Địa chính “Hướng dẫn về thẩm quyền của TAND trong việc giải quyết tranh

chấp liên quan đến quyền sử dụng đất”.

- Giai đoạn từ khi Luật Đất đai 2003 ban hành đến trước khi có Luật

Đất đai 2013 ra đời

Kế thừa các quy định của Luật Đất đai năm 1993, ngày 26/11/2003,

Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật Đất đai mới - Luật Đất đai

năm 2003, có hiệu lực thi hành vào ngày 1/7/2004. (trong đó quy định thẩm

quyền GQTCĐĐ từ Điều 135 đến Điều 137). Kế thừa những nội dung còn

phù hợp của Luật đất đai hiện hành, luật hoá một số quy định tại các văn bản

hướng dẫn thi hành Luật đất đai đã được cuộc sống chấp nhận, đồng thời đưa

vào Luật đất đai những nội dung mới cần sửa đổi, bổ sung nhằm tạo lập một

hệ thống pháp luật, đáp ứng cho thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước.

Luật Đất đai 2003 tăng cường vai trò giải quyết tranh chấp của Toà án

23

nhân dân. Cụ thể, Luật này quy định: Tranh chấp đất đai mà đương sự có giấy

chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất, tranh

chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết. Việc giải

quyết tranh chấp đất đai được thực hiện ở 2 cấp, trong đó cấp thứ 2 là cấp giải

quyết cuối cùng. Như vậy, một mặt đảm bảo quyền của công dân, mặt khác

xác định rõ phạm vi, chức năng, thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai

giữa Toà án nhân dân và cơ quan hành chính các cấp [52].

Như vậy, Luật đất đai năm 2003 quy định về thẩm quyền GQTCĐĐ

của TAND có những điểm mới cơ bản như sau:

Thứ nhất, pháp luật đất đai ngày càng đề cao vị trí và vai trò của TAND

trong việc giải quyết các TCĐĐ. Điều này phù hợp với thông lệ và tập quán

pháp luật của nhiều nước trên thế giới. Hơn nữa thẩm quyền GQTCĐĐ của

TAND ngày càng đươc mở rộng và được quy định rất cụ thể.

Thứ hai, so với quy định của luật Đất đai năm 1993 thì Luật đất đai

năm 2003 đã mở rộng phạm vi GQTCĐĐ của TAND. Theo đó, TAND không

chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về tài sản gắn liền với đất và các

TCĐĐ mà người sử dụng đất đã có GCNQSDĐ được cơ quan nhà nước có

thẩm quyền cấp, mà còn giải quyết các TCĐĐ tuy người sử dụng đất chưa

được Nhà nước cấp GCNQSDĐ, nhưng có một trong các loại giấy tờ về SDĐ

quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50. Từ những phân tích ở trên cho thấy,

việc mở rộng thẩm quyền GQTCĐĐ của TAND các cấp theo Luật Đất đai

năm 2003 đã kế thừa các quy định của Luật Đất đai năm 1993 và đáp ứng

được đòi hỏi của thực tiễn quản lý và sử dụng đất đai ở nước ta tại thời điểm

này. Bởi lẽ, nếu chỉ quy định cho TAND có thẩm quyền giải quyết các TCĐĐ

mà người sử dụng đất đã có GCNQSDĐ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền

theo quy định của Luật đất đai năm 1993 thì sẽ nảy sinh những rắc rối là

người sử dụng đất được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp nhiều loại

24

GCNQSDĐ [49] [52].

Ngày 29/11/2013, tại kỳ họp lần thứ 6, Quốc hội khóa 13 đã chính thức

thông qua Luật đất đai 2013. Luật này có hiệu lực từ ngày 1/7/2014 đã có

những thay đổi các quy định về GQTCĐĐ ở Việt Nam [52].

1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về giải quyết tranh

chấp đất đai

1.2.5.1. Các yếu tố về điều kiện kinh tế - xã hội

Pháp luật và kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau, đặc biệt là

phát luật về đất đai có sự thay đổi rất nhiều, gắn với thực tiễn của thị trường

bất động sản và thực tiễn chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong việc phát

triển sản xuất kinh doanh. Nếu hệ thống văn bản pháp luật về đất đai phản ánh

chính xác, kịp thời và phù hợp với những vấn đề đặt ra từ thực tiễn thị trường

chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chứa đựng nội dung phù hợp với các điều

kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, địa phương và yêu cầu các quản

lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai và kinh tế - xã hội sẽ tạo những “đòn bẩy”

tăng trưởng kinh tế - xã hội nói chung và thị trường về chuyển nhượng quyền

sử dụng đất nói riêng, góp phần thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế

phát triển, xã hội được ổn định. Ngược lại, sự phát triển của kinh tế - xã hội

với những diễn biến khác nhau với nhiều mâu thuẫn, tranh chấp có thể xảy ra,

để ổn định kinh tế và xã hội thì việc ban hành văn bản pháp luật quản lý cũng

như giải quyết các tranh chấp về đất đai là hết sức cần thiết.

1.2.5.2. Đường lối chính sách của Đảng, và lợi ích của các bên có liên quan

Với tư cách là phương tiện cơ bản của Nhà nước trong quản lý, các văn

bản pháp luật đất đai phải có nội dung phù hợp với đường lối, chính sách của

Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình thể chế hóa thành pháp luật hoặc

trong việc tổ chức thực hiện trên thực tế các đường lối, chính sách đó, có như

vậy mới bảo đảm thực hiện có hiệu quả và mới bảo vệ hữu hiệu lợi ích cơ bản

25

của giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác.

1.2.5.3. Yếu tố xã hội

Vì muốn tác động vào các đối tượng quản lý, trước hết chủ thể có thẩm

quyền phải sử dụng văn bản để tác động tới nhận thức của những đối tượng

có liên quan, qua đó mới điều chỉnh hành vi của họ, trong khi đó nhận thức

của các đối tượng này bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau thuộc đời sống ý

thức xã hội nên giữa ý thức xã hội với nội dung văn bản pháp luật có mối liên

hệ mật thiết, có sự tác động qua lại rất sâu sắc.

1.2.5.4. Yếu tố hội nhập kinh tế quốc tế

Trong điều kiện hội nhập kinh tế và mở rộng giao lưu hợp tác nhiều

mặt với các nước, các tổ chức quốc tế như hiện nay, sự phù hợp này là cần

thiết, đặc biệt là đối với các quy định về quản lý kinh tế, tuy nhiên cũng cần

xác định rõ những vấn đề nào có thể tiếp thu có chọn lọc để nội luật hóa,

những vấn đề nào mang tính nguyên tắc bất di bất dịch, không thể tiếp thu

“nội hóa”, có như vậy mới có thể vừa tạo điều kiện thuận lợi cho những hoạt

động hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới mở rộng

quan hệ nhiều mặt. Vừa giữa vững lập trường, không bị chệch hướng phát

triển đã lựa chọn và không làm mất đi bản sắc dân tộc trong quá trình chủ

26

động hội nhập kinh tế quốc tế.

Tiểu kết chương 1

TCĐĐ là một vấn đề khá phức tạp và rất tế nhị. Chương 1 của luận văn

đã trình bày những vấn đề lý luận chung về TCĐĐ và pháp luật về GQTCĐĐ.

Nội dung chương đã trình bày các quan điểm khác nhau về khái niệm TCĐĐ

và giới hạn khái niệm này trong khuôn khổ luận văn là TCĐĐ là tranh chấp

về quyền sử dụng đất, trên cơ sở đó đã làm rõ những đặc điểm, các dạng

TCĐĐ, những nguyên nhân dẫn đến TCĐĐ, những nội dung này là cơ sở

quan trọng để thực hiện GQTCĐĐ. Phần thứ hai của chương này đã làm rõ

khái niệm, sự cần thiết của pháp luật GQTCĐĐ và các nguyên tắc thực hiện

pháp luật GQTCĐĐ. Một khi đã nhận diện rõ những tác động kinh tế, xã hội

của việc GQTCĐĐ sẽ giúp cho việc thực hiện và phát hiện những bất cập

trong hệ thống pháp luật liên quan đến GQTCĐĐ, để từ đó có những kiến

27

nghị phù hợp được trình bày trong các chương tiếp theo của Luận văn.

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT

ĐAI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI HUYỆN VÂN ĐỒN,

TỈNH QUẢNG NINH

2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai

2.1.1. Quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai

Căn cứ để GQTCĐĐ là một nội dung cực kỳ quan trọng, là cơ sở để việc

ra quyết định tranh chấp. Vì lẽ đó, Luật Đất đai 2013 đã có những sửa đổi, bổ

sung quy định căn cứ để GQTCĐĐ trong trường hợp các bên tranh chấp không

có giấy tờ về quyền sử dụng đất. Luật Đất đai năm 2013 được ban hành trong

bổi cảnh thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã hình thành qua đó

đã khắc phục và giải quyết được một số hạn chế phát hiện được trong quá

trình thi hành Luật Đất đai năm 2003 trong giai đoạn trước đó. Đây là một

đạo luận quan trọng có tác động sâu rộng đến đời sống chính trị, kinh tế, xã

hội của đất nước. Luật đất đai năm 2013 quy định các chủ thể có thẩm quyền

GQTCĐĐ rõ ràng, bao gồm: TAND, UBND và Bộ Tài nguyên & Môi

trường. Các nội dung sửa đổi, bổ sung của Luật này nhằm đáp ứng yêu cầu

của quá trình đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới tạo nền tảng để đến năm

2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện

đại [52].

Thẩm quyền GQTCĐĐ được quy định tại Luật Đất đai số 45/2013/QH13

ngày 29/11/2013. Hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã, phường, thị trấn

được qui định tại Điều 202 Luật đất đai năm 2013 và hướng dẫn cụ thể tại Nghị

định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ.

Theo đó, tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được

thì gửi đơn đến UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải. Chủ tịch

28

UBND cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa

phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận,

các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân

cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận

được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.

Khi nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai, UBND cấp

xã có trách nhiệm thẩm tra, xác minh tìm hiểu nguyên nhân phát sinh tranh

chấp, thu thập giấy tờ, tài liệu có liên quan do các bên cung cấp về nguồn gốc

đất, quá trình sử dụng đất và hiện trạng sử dụng đất; thành lập Hội đồng hòa

giải tranh chấp đất đai để thực hiện hòa giải. Thành phần Hội đồng gồm: Chủ

tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND là Chủ tịch Hội đồng; đại diện Ủy ban Mặt trận

Tổ quốc xã, phường, thị trấn; tổ trưởng tổ dân phố đối với khu vực đô thị;

trưởng thôn, ấp đối với khu vực nông thôn; đại diện của một số hộ dân sinh

sống lâu đời tại xã, phường, thị trấn biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng

đối với thửa đất đó; cán bộ địa chính, cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn. Tùy

từng trường hợp cụ thể, có thể mời đại diện Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội

Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.

2.1.2. Các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai

2.1.2.1. Quy định của pháp luật về thủ tục hòa giải TCĐĐ

Pháp luật về thủ tục hòa giải TCĐĐ tại Điều 202 Luật Đất đai 2013

[32]. Như vậy, việc hòa giải trong GQTCĐĐ theo pháp luật Việt Nam hiện

hành được quy định như sau:

Thứ nhất, tự hòa giải hoặc hòa giải tại cơ sở.

TCĐĐ được nhà nước khuyến khích việc sử dụng biện pháp tự hòa giải

hoặc hòa giải tại cơ sở. Điều này có nghĩa là tự hòa giải hoặc hòa giải tại cơ

sở không phải là một thủ tục bắt buộc trong GQTCĐĐ. Một TCĐĐ nếu chưa

29

qua hòa giải tại cơ sở hoặc chưa thực hiện tự hòa giải giữa các bên tranh chấp

thì vẫn có thể được chuyển sang bước giải quyết kế tiếp. Tự hòa giải là việc

các bên tranh chấp tự tiếp xúc với nhau, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp để

đàm phán, trao đổi và đi đến giải quyết tranh chấp, kết quả giải quyết tranh

nếu đạt được thành công thì đó là kết qủa của sự thống nhất ý chí giữa các bên

tranh chấp. Hòa giải tại cơ sở là việc hòa giải được tiến hành tại thôn, xóm,

ấp, bản, khu phố do ban hòa giải cơ sở tiến hành theo pháp luật hòa giải tại cơ

sở năm 2013. Việc giải quyết tranh chấp bằng tự hòa giải hoặc hòa giải ở cơ

sở giúp giữ gìn mối quan hệ tốt đẹp trong nội bộ người dân, không những thế

nó còn làm giảm bớt áp lực giải quyết tranh chấp lên cơ quan nhà nước có

thẩm quyền. Mặt khác, việc giải quyết tranh chấp này có tính khả thi cao

trong việc thi hành các nội dung tranh chấp được giải quyết. Vì lý do đó mà

pháp luật khuyến khích các bên tranh chấp sử dụng biện pháp này để giải

quyết trước khi yêu cầu đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền [52].

Thứ hai, hòa giải tại UBND cấp xã

Khi các bên đã giải quyết qua biện pháp tự hòa giải, hòa giải tại cơ sở

mà không thành công hoặc không sử dụng hai biện pháp này thì các bên có

đơn yêu cầu UBND cấp xã nơi có đất giải quyết theo khoản 2, điều 202 Luật

Đất đai năm 2013: “TCĐĐ mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi

đơn đến UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải”. Như vậy, hòa giải

tại UBND cấp xã là một thủ tục mang tính bắt buộc. tính bắt buộc này thể

hiện ở cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ chấp nhận đơn yêu cầu GQTCĐĐ

của các bên đương sự khi vụ việc đã trải qua giai đoạn hòa giải tại UBND cấp

xã nơi có tranh chấp (điều 203 Luật Đất đai năm 2013).

2.1.2.2. Quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án

nhân dân

Theo quy định tại Điều 203 của Luật đất đai 2013 thì việc giải quyết

30

tranh chấp đất đai được thực hiện tiếp theo sau khi hòa giải không thành công

tại cơ sở: TCĐĐ đã được hòa giải tại UBND cấp xã mà không thành thì được

giải quyết như sau: “1. TCĐĐ mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một

trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài

sản gắn liền với đất thì do TAND giải quyết; 2. TCĐĐ mà đương sự không có

Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều

100 của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức

GQTCĐĐ theo quy định sau đây: a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại

UBND cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này; b) Khởi kiện tại

TAND có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự;” [32]

Về cơ bản, các loại giấy tờ được quy định tại Điều 100 Luật Đất đai

2013 hiện nay vẫn giữ nguyên nội dung các quy định tại khoản 1,2 và khoản 5

Điều 50 Luật Đất đai 2003 và có sự bổ sung thêm một số trường hợp cụ thể.

Như vậy căn cứ theo khoản 2 Điều 203 Luật đất đai 2013 thì thẩm

quyền giải quyết tranh chấp của tòa án đã được mở rộng hơn, TAND có thẩm

quyền giải quyết những TCĐĐ bao gồm [52]:

- TCĐĐ mà đương sự có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có

một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai

- Tranh chấp về tài sản gắn liền với đất

- TCĐĐ mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một

trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai.

TCĐĐ mà đương sự không có giấy chứng nhận hoặc không có một

trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai thì đương sự

được lựa chọn một trong hai hình thức: Khởi kiện tại TAND có thẩm quyền

theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự hoặc nộp đơn yêu cầu giải

quyết tranh chấp tại UBND cấp có thẩm quyền theo quy định của Luật Đất

đai [32] [52].

31

Thủ tục khởi kiện tại Tòa án nhân dân

Bước 1. Chuẩn bị đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ

Chuẩn bị 01 bộ hồ sơ khởi kiện, gồm: Đơn khởi kiện theo mẫu; Giấy tờ

chứng minh quyền sử dụng đất như: Sổ đỏ hoặc một trong các loại giấy tờ

theo quy định tại Điều 100; Biên bản hòa giải có chứng nhận của UBND xã

và có chữ ký của các bên tranh chấp; Giấy tờ của người khởi kiện: Sổ hộ

khẩu; chứng minh thư nhân dân hoặc thẻ căn cước nhân dân; Các giấy tờ

chứng minh khác (Tùy theo yêu cầu khởi kiện của bên khởi kiện - vì theo quy

định của Bộ luật Tố tụng dân sự, ai khởi kiện vấn đề gì thì phải có tài liệu,

chứng cứ, chứng minh cho chính yêu cầu khởi kiện đó của mình).

Ví dụ: Tranh chấp ranh giới về thửa đất giữa các hộ gia đình, cá nhân

thì phải có:

+ Văn bản đo đạc, xác minh về việc thửa đất bị lấn chiếm;

+ Trích lục hồ sơ địa chính đối với thửa đất có tranh chấp…

Bước 2. Nộp đơn khởi kiện

- Nơi nộp: Tòa án nhân dân cấp huyện có đất đang tranh chấp.

- Hình thức nộp: Nộp bằng 1 trong 3 hình thức sau (khoản 1 Điều 90

Bộ luật Tố tụng dân sự 2015): Nộp trực tiếp tại Tòa án; Gửi đến Tòa án theo

đường dịch vụ bưu chính; Gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng

thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).

Bước 3. Tòa thụ lý và giải quyết

- Nếu hồ sơ chưa đủ mà đúng thẩm quyền của Tòa án thì Tòa án yêu

cầu bổ sung.

- Nếu hồ sơ đủ: Tòa thông báo nộp tạm ứng án phí; Người khởi kiện

nộp tạm ứng án phí tại cơ quan thuế theo giấy báo tạm ứng án phí và mang

biên lai nộp cho Tòa; Sau đó Tòa sẽ thụ lý.

32

Lưu ý:

- Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo, người khởi

kiện phải nộp tạm ứng án phí và nộp lại biên lai cho Tòa án

- Trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì

Thẩm phán sẽ thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ

kèm theo.

Bước 4. Thủ tục chuẩn bị xét xử và xét xử

Thời hạn 04 tháng, vụ việc phức tạp được gia hạn không quá 02 tháng

(Tổng 06 tháng - Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự). Trong giai đoạn này Tòa

sẽ tổ chức hòa giải tại Tòa, nếu các bên không hòa giải thành thì sẽ Tòa sẽ

đưa vụ án tranh chấp ra xét xử sơ thẩm (nếu không thuộc trường hợp tạm đình

chỉ hoặc đình chỉ). Sau khi có bản án sơ thẩm các bên tranh chấp có quyền

kháng cáo nếu không đồng ý với bản án nếu có căn cứ.

2.1.2.3. Quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai của cơ

quan hành chính

Trình tự GQTCĐĐ tại cơ quan hành chính được áp dụng đối với những

tranh chấp thỏa mãn đủ hai điều kiện sau đây:

Thứ nhất, các đương sự không có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng

đất theo quy định.

Thứ hai,đương sự lựa chọn giải quyết tranh chấp tại UBND.

Cơ quan hành chính có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lần đầu được

quy định tùy thuộc loại chủ thể tranh chấp.

Một trong những điểm mới của Luật Đất đai 2013 so với luật đất đai

2003 là luật đã bổ sung quy định người có thẩm quyền GQTCĐĐ phải ra

quyết định giải quyết tranh chấp. Trường hợp các bên không chấp hành sẽ bị

33

cưỡng chế (khoản 4 điều 203 Luật Đất đai 2013) [52].

Ngoài ra, Luật đất đai 2013 còn bổ sung quy định thủ tục GQTCĐĐ

thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp huyện, cấp tỉnh, bao gồm các

bước sau đây:

Bước 1: Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp: Người có đơn yêu cầu

GQTCĐĐ nộp đơn tại UBND cấp có thẩm quyền;

Bước 2: Tham mưu và giải quyết tranh chấp. Chủ tịch UBND cấp có

thẩm quyền thực hiện việc giao trách nhiệm cho cơ quan tham mưu giải quyết

các vấn đề về tranh chấp đất đai; cơ quan tham mưu có nhiệm vụ thẩm tra,

kiểm tra, xác minh vụ việc, tổ chức hòa giải giữa các bên tranh chấp, tổ chức

cuộc họp các ban, ngành có liên quan để tư vấn GQTCĐĐ (nếu cần thiết) và

hoàn chỉnh hồ sơ trình Chủ tịch UBND cùng cấp ban hành quyết định

GQTCĐĐ [52].

Luật còn quy định chi tiết về hồ sơ GQTCĐĐ bao gồm:

1. Đơn yêu cầu GQTCĐĐ;

2. Biên bản hòa giải tại UBND cấp xã;

3. Biên bản làm việc với các bên tranh chấp và người có liên quan;

4. Biên bản kiểm tra hiện trạng đất tranh chấp;

5. Biên bản cuộc họp các ban, ngành có liên quan để tư vấn GQTCĐĐ

đối với trường hợp hòa giải không thành;

6. Biên bản hòa giải trong quá trình giải quyết tranh chấp; trích lục bản

đồ, hồ sơ địa chính qua các thời kỳ liên quan đến diện tích đất tranh chấp và

các tài liệu làm chứng cứ, chứng minh trong quá trình giải quyết tranh chấp;

7. Báo cáo đề xuất và dự thảo quyết định giải quyết tranh chấp hoặc dự

thảo quyết định công nhận hòa giải thành;

Đối với việc GQTCĐĐ thuộc thẩm quyền của Bộ Tài nguyên và Môi

trường, Luật Đất đai 2013 bổ sung quy định thủ tục GQTCĐĐ thuộc thẩm

34

quyền của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Hồ sơ GQTCĐĐ gồm:

1. Đơn yêu cầu GQTCĐĐ;

2. Biên bản làm việc với các bên tranh chấp, với các tổ chức, cá nhân

có liên quan; biên bản kiểm tra hiện trạng đất tranh chấp;

3. Biên bản hòa giải trong quá trình giải quyết tranh chấp;

4. Trích lục bản đồ, hồ sơ địa chính qua các thời kỳ liên quan đến diện

tích đất tranh chấp, hồ sơ, tài liệu làm chứng cứ, chứng minh trong quá trình

GQTCĐĐ tại địa phương;

5. Báo cáo đề xuất và dự thảo quyết định GQTCĐĐ hoặc dự thảo quyết

định công nhận hòa giải thành;

Quyết định GQTCĐĐ hoặc quyết định công nhận hòa giải thành được

gửi cho các bên xảy ra tranh chấp về đất đai, các tổ chức, cá nhân có quyền và

nghĩa vụ liên quan đến giải quyết tranh chấp đất đai [52].

2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai tại huyện Vân Đồn,

tỉnh Quảng Ninh

2.2.1. Khái quát tình hình giải quyết tranh chấp đất đai tại huyện

Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

2.2.1.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

ảnh hưởng đến việcgiải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn huyện

Vân Đồn có diện tích đất tự nhiên 551,33 km2, gồm 600 hòn đảo lớn

nhỏ nằm trong vịnh Bái Tử Long, trong đó có hơn 20 đảo đất có người ở. Lớn

nhất là đảo Cái Bầu rộng 303,26km2 (chiếm 55%), trong đó có thị trấn huyện

lỵ Cái Rồng và 6 xãgồm Đông Xá, Hạ Long, Bình Dân, Đoàn Kết, Đài

Xuyên, Vạn Yên. Vùng đảo phía ngoài trải rộng 248,07m2 (chiếm 45%) gồm

5 xã đảogồm Minh Châu, Quan Lạn, Ngọc Vừng, Bản Sen, Thắng Lợi. Các

đảo đều có địa hình đồi núi, độ cao từ 200 đến 300m (Núi Nàng Tiên ở đảo

35

Trà Bản cao 450 m, núi Vạn Hoa ở đảo Cái Bầu cao 397 m). Quy hoạch

chung xây dựng Khu kinh tế Vân Đồn được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt

tại Quyết định số 1296/QĐ-TTg ngày 19/8/2009, định hướng chiến lược của

quốc gia và tỉnh Quảng Ninh đối với khu vực Vân Đồn nhằm khai thác phát

triển tối ưu các quỹ đất, tiềm năng phát triển từng khu vực; đề xuất các khu

chức năng, hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật hợp lý cho khu kinh tế [60].

Tại huyện Vân Đồn mức giá đất thực tế trên thị trường bất động sản và

theo khung giá đất của thành phố có mức bình quân tương đối cao, đặc biệt là

sau khi Quốc hội phê duyệt Quy hoạch phát triển Khu Kinh tế Vân Đồn với

nhựng hạ tầng về kinh tế - xã hội lớn. Chính những nội dung này đã góp phần

tác động không nhỏ, làm cho những TCĐĐ trên địa bàn huyện thời gian vừa

qua luôn phức tạp, gay gắt, khó giải quyết và kéo dài. Trong những năm trở

lại đây, những TCĐĐ trên địa bàn huyện Vân Đồn hết sức phức tạp, không

chỉ tăng về số lượng mà còn tăng cả về tính chất phức tạp của tranh chấp. Kết

quả nghiên cứu và phân tích thực trạng TCĐĐ trên địa bàn huyện Vân Đồn

cho thầy trong năm 2018, đã xảy ra 121 vụ việc liên quan đến TCĐĐ, trong

số đó các cơ quan nhà nước đã làm thủ tục khởi tố cho 32 vụ bằng con đường

Tòa án, với các nội dung tranh chấp chủ yếu về vấn đề quyền sử dụng đất,

chuyển nhượng quyền sử dụng đất liên quan đến sản xuất, kinh doanh [60]...

2.2.1.2. Tình hình giải quyết tranh chấp đất đai tại huyện Vân Đồn, tỉnh

Quảng Ninh

(1) Việc GQTCĐĐ thông qua cơ quan quản lý hành chính

Từ sau năm 2013 khi Luật Đất đai năm 2013 ra đời và có hiệu lực thì

các TCĐĐ trên địa bàn huyện chủ yếu là những tranh chấp sau: Tranh chấp

ranh giới đất ở, đất vườn. Tranh chấp về việc đòi lại ruộng đất cũ trước đây đã

vào Hợp tác xã, nayHợp tác xã giải thể, chính quyền đã giao cho người khác

sử dụng. Chủ cũ đòi lại ruộng đất đã cho mượn, cho ở nhờ. Đòi quyền thừa kế

36

đất ông cha để lại. Đền bù giải phóng mặt bằng [59], [62]…

Thống kê từ năm 2014 đến nay UBND huyện và UBND các xã, thị trấn

đã tiếp nhận đơn và giải quyết các vụ việc về tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về

đất đai.

Bảng 2.1. Công tác GQTCĐĐ của UBND huyện và UBND các xã thị trấn

trên địa bàn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

Năm UBND huyện giải quyết UBND xã, thị trấn giải quyết

2014 22 37

2015 32 51

2016 34 71

2017 31 74

2018 46 53

Tổng 165 286

(Nguồn: Phòng Tài nguyên và môi trường huyện Vân Đồn)

Đánh giá chung về công tác GQTCĐĐ của UBND huyện, xã:

Ưu điểm: Việc giải quyết các TCĐĐ tại UBND diễn ra nhanh gọn và ít

tốn kém vì: UBND có một đội ngũ cán bộ địa chính nắm bắt tình hình quản lý

và sử dụng đất một cách chính xác và kịp thời, Đồng thời là cơ quan có thẩm

quyền GQTCĐĐ, cho nên việc xác minh, thu thập chứng cứ cho vụ kiện sẽ

nhanh chóng hơn và sát thực hơn.

Hạn chế: Việc GQTCĐĐ của UBND ngay trong giai đoạn hiện nay

cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định như việc UBND vừa là cơ quan quản

lý đất đai vừa thực hiện việc GQTCĐĐ nên dễ nảy sinh xu hướng vi phạm

nguyên tắc khách quan, công bằng, vô tư trong GQTCĐĐ, đặc biệt trong

trường hợp TCĐĐ phát sinh trực tiếp từ các quyết định của UBND các cấp.

Hơn nữa, thủ tục hành chính trong việc GQTCĐĐ rất phức tạp, rắc rối… nên

37

các TCĐĐ không được giải quyết dứt điểm, để dây dưa, kéo dài phát sinh các

khiếu kiện vượt cấp gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định tình hình

chính trị, trật tự an toàn - xã hội của địa phương.

Ví dụ 1: Trường hợp không phân định rõ thẩm quyền giải quyết vụ

việc: Ngày 08/5/2015, UBND huyện Vân Đồn nhận được đơn đề nghị giải

quyết khiếu nại việc cấp GCNQSD đất và đền bù đất canh tác đường K73 của

bà Trần Thị Tỵ - xóm 7, xã Đoàn Kết, huyện Vân Đồn. Nội dung vụ việc như

sau [56]:

Ngày 18/11/1994 gia đình bà Trần Thị Tỵ nhận chuyển nhượng của gia

đình bà Đình Thị Cỏi trú tại xóm 7, xã Đoàn Kết diện tích là 48m2 đất 10% tại

khu T6-xóm 7, xã Đoàn Kết. Hai bên lập Giấy chuyển nhượng đất phần trăm

lâu dài, vĩnh viễn. Giấy chuyển nhượng đứng tên em gái bà Tỵ là bà Trần Thị

Tân, phía gia đình bà Cỏi ủy quyền cho hai con trai bà là anh Nguyễn Bá Tỵ

và anh Nguyễn Bá Quang thay mặt bà lập giấy chuyển nhượng với nội dung:

“bà Tân toàn quyền sử dụng mảnh đất trên từ nay trở đi....”.

Cùng ngày, gia đình bà Tỵ lại nhận chuyển nhượng của gia đình ông

Nguyễn Bỉnh Dính và bà Trần Thị Nghĩa diện tích 144m2 đất 10% tại khu

T6,xóm 7, xã Đoàn Kết. Hai bên lập giấy chuyển nhượng đất phần trăm lâu

dài, vĩnh viễn. Giấy chuyển nhượng đứng tên em gái bà Trần Thị Tân có nội

dung: “bà Tân toàn quyền sử dụng mảnh đất trên từ nay trở đi...”.

Sau khi nhận chuyển nhượng, bà Tân đã yêu cầu gia đình bà Cỏi và gia

đình ông Dính ra UBND xã Đoàn Kết làm thủ tục chuyển toàn bộ số diện tích

trên sang sổ ruộng đất nhà bà Tỵ (Sổ đứng tên ông Nguyễn Xuân Phúc - bố

chồng). Toàn bộ số diện tích trên đã được chuyển sang sổ gia đình nhà bà Tỵ

và đã được sang sổ trong sổ đăng ký ruộng đất của UBND xã, Hợp tác xã

nông nghiệp xã và sổ quản lý đất của xóm 7, xã Đoàn Kết.

Năm 1999, UBND huyện tiến hành cấp Giấy CNQSD đất cho các hộ

38

dân trong xã. Tuy nhiên, trong Giấy CNQSD đất của gia đình bà Tỵ không có

số diện tích mà gia đình bà Cỏi và ông Dính đã chuyển nhượng nói trên. Giấy

CNQSD đất của anh Nguyễn Bá Mùi (con trai cả của bà Cỏi) và Giấy

CNQSD đất của ông Nguyễn Bỉnh Dính vẫn có số diện tích mà họ đã chuyển

nhượng cho gia đình bà Tỵ.

Gia đình bà Tỵ thường xuyên liên tục sử dụng và đóng thuế trên số diện

tích nhận chuyển nhượng trên và được Hợp tác xã Bình Minh xác nhận việc

chuyển nhượng và đóng thuế ngày 18/12/2006.

Ngày 05/02/2007 bà Tân làm đơn gửi Chủ tịch UBND xã Đoàn Kết về

việc giải quyết tranh chấp sổ đỏ quyền sử dụng đất phần trăm nói trên của gia

đình bà Cỏi và ông Dính đã chuyển nhượng cho bà Tân.

Sự việc chưa được giải quyết, đến tháng 3/2007 gia đình ông nguyễn

Bá Mùi (con trai bà Cỏi) và gia đình ông Nguyễn Bỉnh Dính lại tiếp tục

chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích đã bán cho bà Tân cho gia đình ông

Nguyễn Văn Thông (cán bộ địa chính xã) và gia đình ông Điều Huy Sơn. Gia

đình ông Nguyễn Văn Thông đã được UBND huyện Vân Đồn cấp Giấy

CNQSD đất số AG 802419 ngày 28/3/2007 và gia đình ông Điều Huy Sơn

được cấp Giấy CNQSD đất số AG 802418 ngày 28/3/2007.

Từ ngày 29/01/2013 đến nay, gia đình bà Tân và bà Tỵ đã hai lần gửi

đơn đến UBND huyện Vân Đồn đề nghị hủy bỏ Giấy CNQSD đất số

AG802419 đã cấp cho gia đình ông Nguyễn Văn Thông, Giấy CNQSD đất số

AG 802418 đã cấp cho gia đình ông Điều Huy Sơn, Giấy CNQSD đất số

00455 ngày 21/9/1999 cấp cho hộ ông nguyễn Bá Mùi, Giấy CNQSD đất số

00292 ngày 03/9/1999 cấp cho hộ ông Nguyễn Bỉnh Dính và đề nghị Chủ tịch

UBND huyện Vân Đồn cấp Giấy CNQSD đất số diện tích mà gia đình bà Tỵ

đã nhận chuyển nhượng.

Hiện nay, UBND huyện đang tiến hành đền bù đất canh tác tại khu T6

39

để làm đường liên xã có đi qua diện tích mà bà Tỵ đã nhận chuyển nhượng

nhưng gia đình bà Tỵ lại không được đứng tên nhận tiền đền bù. Do đó, bà Tỵ

đề nghị Chủ tịch UBND huyện giữ lại số tiền đền bù trên đợi sau khi giải

quyết xong sẽ trả lại cho gia đình bà Tỵ.

Ngày 03/6/2015, UBND huyện ban hành văn bản số 530/UBND-

TNMT trả lời đơn khiếu nại của bà Trần Thị Tỵ với nội dung cụ thể như sau:

Việc UBND huyện Vân Đồn cấp GCNQSD đất cho hộ ông Nguyễn Bá

Mùi và ông Nguyễn Bỉnh Dính năm 1999 đã ảnh hưởng đến quyền lợi của bà

Trần Thị Tỵ và Trần Thị Tân. Do đó, việc bà Trần Thị Tân và Trần Thị Tỵ có

đơn khiếu nại đến UBND huyện Vân Đồn về việc cấp GCNQSD đất cho hai

hộ trên là hoàn toàn chính đáng. Vì vậy, việc UBND huyện Vân Đồn đã cấp

GCNQSD đất cho hộ ông Nguyễn Bá Mùi và ông Nguyễn Bỉnh Dính vào thời

điểm năm 1999 mà đến tận năm 2013 bà Trần Thị Tân và bà Trần Thị Tỵ mới

có đơn khiếu nại đến UBND huyện nên thời hiệu khiếu nại đối với hành vi

trên đã hết. Do đó, để đảm bảo quyền lợi cho công dân, căn cứ Điều 136 Luật

Đất đai năm 2003 thì công dân có thể đề nghị TAND huyện Vân

ĐồnGQTCĐĐ theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, sau khi nhận được văn bản trả lời của UBND huyện Vân

Đồn, công dân Trần Thị Tỵ đã có đơn đề nghị GQTCĐĐ tại TAND huyện

Vân Đồn nhưng cũng bị từ chối giải quyết.

Nhận xét: Trường hợp này, khi xảy ra tranh chấp đương sự phát hiện

diện tích đất của mình đã bị cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất cho người khác. Trước tình thế này, đương sự thường

không khởi kiện đến TAND huyện mà họ sẽ khiếu nại yêu cầu UBND huyện

thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho người khác không

đúng pháp luật. Nhưng nếu đương sự không có căn cứ hoặc không chứng

minh được quyền hợp pháp của mình trên thửa đất đó. Thời điểm xét duyệt và

40

công khai hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không có đơn thư

khiếu kiện, quy trình xét cấp giấy chứng nhận đúng quy định và hồ sơ địa

chính không thể hiện rõ ràng thì đây không phải là khiếu nại về đất đai mà là

vụ việc TCĐĐ. Đối với các trường hợp này UBND huyện thường hướng dẫn

đương sự chuyển đơn đến TAND để được giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên,

TAND thường không đồng nhất với quan điểm của UBND vì cho rằng đây là

khiếu nại của công dân đối với việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

của huyện. Do đó, Tòa án cũng không thụ lý giải quyết [56].

(2) Tình hình GQTCĐĐ tại toà án nhân dân huyện

Trong những năm gần đây tình hình tranh chấp quyền sử dụng đất trên

địa bàn huyện Vân Đồn diễn ra chủ yếu là các vụ việc: Tranh chấp về hợp

đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng

đất và tranh chấp đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm đất đai, tranh

chấp đất do bố mẹ, ông bà để lại.

Theo số liệu thống kê của TAND huyện, số vụ tranh chấp quyền sử

dụng đất được các TAND huyện xét xử sơ thẩm từ năm 2014 đến năm 2018

như sau:

Bảng 2.2. Công tác GQTCĐĐ thông qua TAND huyện Vân Đồn,

Quảng Ninh

Kết quả Tổng số vụ Năm án thụ lý Hòa giải Đình chỉ Xét xử sơ thẩm Kháng án

2014 15 4 9 2 0

2015 18 4 13 1 0

2016 26 7 18 0 1

2017 28 6 21 1 0

2018 31 8 22 1 0

Tổng 118 29 83 5 1

41

(Nguồn: TAND huyện Vân Đồn)

Thực tế những khó khăn, vướng mắc của TAND thường gặp khi giải

quyết các tranh chấp về đất đai trên địa bàn huyện Vân Đồn:

- Tiến độ làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chậm, giá

đất biến động nhanh và cao; nhu cầu của người sử dụng đất ngày càng đa

dạng; mặt khác người có đất cũng muốn chuyển nhượng đất để có thêm thu

nhập cải thiện cuộc sống. Vì vậy, việc chuyển nhượng đất rất sôi động, phần

nhiều người dân lập hồ sơ chuyển nhượng đất chưa đúng, chưa đủ thủ tục

theo quy định của pháp luật và chỉ thể hiện bằng giấy viết tay. Đây là điều

kiện để phát sinh nhiều tranh chấp về chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

- Đối với các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập

trong giai đoạn trước 1/7/1980 hoặc từ ngày 15/10/1993 trở về sau thường là

chỉ có viết giấy tay, bên mua đã xây dựng nhà ở hoặc công trình khác, khi giá

nhà lên cao, bên bán xin hủy hợp đồng, đường lối giải quyết thường không

thống nhất, có vụ án thì xử công nhận hợp đồng, có vụ án lại xử hủy hợp đồng.

- Đối với trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác định

trong giai đoạn từ 1/7/1980 đến trước ngày 15/10/1993 (thời gian pháp luật

chưa cho phép chuyển quyền sử dụng đất) đường lối giải quyết lại càng khó

khăn. Cụ thể là khi hai bên lập hợp đồng chuyển nhượng đất đó, chưa được

cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bên mua đã làm nhà trên đất đó. Quá

trình tranh chấp kéo dài nay một bên kiện hủy hợp đồng mua bán đất. Nếu

Tòa án thụ lý và xử hủy hợp đồng theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch 01

năm 2002) thì nảy sinh nhiều bất hợp lý.

- Trường hợp tặng cho có điều kiện. Trên thực tế có trường hợp chủ sở

hữu tặng cho người khác nhà, đất nhưng với điều kiện người được tặng cho,

phải làm một công việc nào đó (ví dụ: như nuôi dưỡng chủ sở hữu hoặc một

người khác đến khi chết và chịu trách nhiệm thờ cúng…) nhưng người được

42

tặng đã không thuộc điều kiện này một cách trọn vẹn nên chủ sở hữu, người

có quyền sử dụng yêu cầu tòa án hủy hợp đồng tặng cho, hiện nay tồn tại

nhiều quan điểm về vấn đề này.

- Một bên thuê nhà của Nhà nước đã chuyển nhượng quyền thuê nhà

cho người khác, nhưng không có ý kiến của cơ quan có thẩm quyền thì giải

quyết thế nào? hiện các thẩm phán xét xử có quan điểm rất khác nhau.

- Tuy TAND tối cao đã có hướng dẫn việc đánh giá quyền sử dụng đất

nhưng khi giải quyết các trường hợp cụ thể thì vẫn gặp những khó khăn,

thường là các bên không thỏa thuận được. Đối với trường hợp hủy hợp đồng

thì việc đánh giá, tính lỗi và bồi thường, nhất là trong tình hình giá đất sốt cao

lại gặp rất nhiều khó khăn và giải quyết không thống nhất.

- Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, việc thanh toán hàng trả

lại tiền đã giao nhận để chuyển quyền sử dụng đất, việc tính lãi của số tiền này

cũng giải quyết khác nhau. Những công trình, cây trái, hoa lợi, công bồi bổ đất

được tính toán và giải quyết không đơn giản, thường tranh chấp rất gay gắt.

- Đối với trường hợp khi ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử

dụng đất các bên có đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nhưng

khi thực hiện hợp đồng các bên lại thanh toán trong hợp đồng mua bán nhà,

đất bằng tiền ngoại tệ, hiện nay có hai quan điểm khác nhau, có quan điểm

cho rằng hợp đồng mua bán nhà nêu trên vi phạm vào điều cấm của pháp luật

nên vô hiệu nhưng cũng có quan điểm cho rằng, việc thanh toán bằng ngoại tệ

là vi phạm các quy định về quản lý ngoại hối, nhưng ở giai đoạn này thực

hiện hợp đồng không nên nhất thiết phải hủy hợp đồng chuyển nhượng.

Ví dụ 2: Về việc cán bộ làm công tác địa chính không kiểm tra thực tế

đã đề xuất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sai vị trí, chồng lên phần

đất đã được cấp của người khác gây mâu thuẫn trong nhân dân [56]:

Năm 1999 ông Đỗ Văn Phi đã chia một mảnh đất nằm trong tổng diện

43

tích đất của mình tại xòm 3, xã Quan Lạn, Vân Đồn, Quảng Ninh cho con gái

tên là Đỗ Thị Kiên. Sau đó ông Phi nhà cho chị Kiên ở trên mảnh đất đó. Đến

năm 2001 ông Phi làm thủ tục chuyển nhượng đất cho chị Kiên. Năm 2002

UBND huyện Vân Đồn không xác minh xem xét thực tế hiện trạng đã cấp

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 00641/1999/QSDĐ theo quyết định số

555/1999/UBND ngày 29/12/1999 cho chị Đỗ Thị Kiên nhưng không phải

mảnh đất nơi chi Kiên đang ở mà là mảnh đất nơi ông Phi đang ở. Chị Kiên

nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng không kiểm tra lại ông

Phi không biết việc này. Năm 2003 ông Đỗ Văn Phi và con trai là anh Đỗ Văn

Lùy đã dỡ bỏ nhà cũ nơi ông Phi và anh Lùy đang ở để xây nhà hai tầng. Chị

Kiên không có ý kiến gì về việc ông Phi và anh Lùy xây nhà. Năm 2005 ông

Phi và vợ chết không để lại di chúc. Năm 2011 anh Lùy tự lập giả di chúc, sau

đó làm thủ tục sang tên đất và xin UBND xã Quan Lạn và UBND huyện Vân

Đồn cấp GCNQSDĐ cho mình. Quá trình làm thủ tục sang tên anh Lùy và các

cơ quan chức năng đã không hỏi ý kiến của chị Kiên, không đo đạc kiểm tra

thực tế và không thu hồi lại GCNQSDĐ của chị Kiên. Ngày 08/12/2011

UBND huyện Vân Đồn đã cấp GCNQSDĐ số 2071/QĐ-UBND cho anh Đỗ

Văn Lùy chồng lên GCNQSDĐ của chị Kiên và chồng lên cả một phần đất

mà chị Kiên đang ở hiện tại. Năm 2013 cán bộ địa chính xã đi kiểm tra thực

tế, phát hiện đất của chị Kiên không phải nơi chị Kiên đang ở mà là diện tích

đất nơi nhà anh Lùy đang ở. Cùng thời điểm đó chị Kiên và anh Lùy sảy ra

mâu thuẫn cá nhân nên ngày 17/3/2014 chị Kiên đã khởi kiện đến TAND

huyện Vân Đồn đòi anh Lùy trả lại đất cho chị Kiên [56].

Sau một thời gian điều tra, xác minh TAND huyện Vân Đồn xác định:

Phòng Tài nguyên và Môi trường thuộc UBND huyện Vân Đồn không

tiến hành xác minh, đo đạc và xem xét thẩm định đối với hiện trạng đất, cán

bộ địa chính cấp xã chỉ ký vào biên bản giao đất chứ không tham gia trực tiếp

44

vào việc giao đất cho chị Kiên dẫn đến cấp sai vị trí đất cho chị Kiên.

Việc anh Lùy làm giả giấy di chúc để làm đơn xin UBND xã, huyện

cấp đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cán bộ địa chính cấp xã, cán

bộ thuộc UBND huyện đã không kiểm tra, đo đạc xác minh rõ nguồn gốc đất

mà đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chồng lên toàn bộ số đất trong

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho chị kiên và chồng lên một phần

đất nơi chị Kiên đang sống hiện tại là sai, không hợp pháp

Căn cứ vào các lẽ trên và các điều luật quy định TAND huyện Vân Đồn

tuyên xử (Bản án dân sự sơ thẩm số: 04/2015/DSST ngày 28/01/2015): Hủy

GCNQSDĐ số: 00641/1999/QSDĐ của chị Đỗ Thị Kiên và GCNQSDĐ số:

2071/QĐ-UBND của anh Đỗ Văn Lùy. Đề nghị UBND huyện Vân Đồn cấp

lại GCNQSDĐ đất cho chị Đỗ Thị Kiên đúng theo hiện trạng [40].

Sau khi tuyên án chị Đỗ Thị Kiên không chấp nhận quyết định của tòa

án và kháng cáo đề nghị TAND tỉnh Quảng Ninh xét xử phúc thẩm đồng thời

còn đề nghị thêm với nội dung: Gia đình ông Đỗ Văn Phi có hai con là chị Đỗ

Thị Kiên và anh Đỗ Văn Lùy. Sau khi ông Đỗ Văn Phi và vợ chết không để lại

di chúc chia tài sản và đất cho ai. Theo quy định của việc thừa kế chị Kiên phải

được hưởng một nửa mảnh đất và một phần tài sản của bố, mẹ để lại. Do vậy,

chị Kiên đề nghị TAND tỉnh Quảng Ninh xử chia đất và tài sản cho chị Kiên.

Ví dụ 3:Năm 2015, khi chuẩn bị cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất (GCNQSDĐ) cho gia đình bà Nguyễn Thị Hương (chồng là Phạm

Văn Khôn), UBND xã Hạ Long, huyện Vân Đồn đã nhận được đơn của 3 hộ:

Nguyễn Văn Ly, Nguyễn Văn Ước, Nguyễn Văn Huy (thôn 10, xã Hạ Long,

Vân Đồn), đề nghị xác định lại diện tích ngõ đi chung (nằm tiếp giáp với bức

tường phía Nam của gia đình bà Hương). Trong những lá đơn này, các hộ cho

rằng, gia đình bà Hương đã xây tường bao, lấn 0,5m ngõ xóm, khiến con ngõ

45

này bị thu hẹp, gây khó khăn và ảnh hưởng đến sinh hoạt của các hộ. Căn cứ

để 3 hộ khẳng định gia đình bà Hương lấn ngõ là trên GCNQSDĐ của các hộ

(kể cả GCNQSDĐ của gia đình bà Hương) đều ghi ngõ đi chung là 2m.

Mảnh đất của gia đình bà Hương có hai mặt giáp với đường xóm. Phía

Tây giáp với đường chính của thôn; phía Nam giáp với ngõ nhỏ đi vào nhà

ông Ly, ông Ước, ông Huy. Quan sát mắt thường cho thấy các bờ tường của

gia đình bà Hương được xây bằng gạch xỉ vôi, móng đá. Trên bề mặt các bức

tường, toàn bộ rêu phủ đã chuyển màu đen cũ kỹ... So hiện trạng thửa đất

trong khuôn viên tường bao với diện tích ghi trong GCNQSDĐ (cấp năm

2004) có sự sai lệch tương đối lớn (tổng diện tích theo hiện trạng nhà bà

Hương đang sử dụng là trên 543m2 nhưng GCNQSDĐ năm 2004 chỉ có

360m2; trong đó, chiều ngang thửa đất theo hiện trạng sử dụng là 15,5m còn

trên GCNQSDĐ là 14,5m).

Con ngõ đi chung rộng 1,5m theo như khẳng định của bà Hương cũng

được nhiều người xác nhận. Trong đó, ông Hà Đức Bành, nguyên trưởng thôn

10 khẳng định: “Năm 2004, triển khai việc đo đạc làm hồ sơ cấp GCNQSDĐ

cho nhân dân, tôi là người trực tiếp dẫn cán bộ địa chính đi đo đạc từng nhà

dân. Trường hợp ngõ vào 3 nhà: Anh Ước, anh Ly, anh Huy, đoạn tiếp giáp

với nhà anh Khôn và nhà ông Lâm, lúc bấy giờ rất nhỏ hẹp, đo đạc chỉ có

chiều rộng 1,5m”.

Ông Lê Quốc Ngữ, nguyên cán bộ địa chính xã, người trực tiếp đo đạc

làm hồ sơ cấp GCNQSDĐ cũng xác nhận: “Khi ấy, thực hiện nội dung giao

thông nông thôn của Nghị quyết HĐND xã, khóa XVII, nhiệm kỳ 1999-2004

về mở rộng đường ngõ trong thôn, nên khi cấp sổ đỏ cho ông Khôn, ông Ước,

ông Ly, ông Huy đã trừ diện tích mỗi hộ là 0,3m để khi dân có điều kiện thì

mở rộng đường. Tuy nhiên, từ đó đến nay, các hộ ở thôn 10 chưa thực hiện

theo Nghị quyết HĐND năm 1999, nên ngõ đi vào nhà ông Huy, ông Ly, ông

46

Ước chưa mở rộng 2m”...

Trong Công văn số 186/UBND, ngày 16/5/2016 của UBND huyện Vân

Đồn về việc trả lời đơn của bà Nguyễn Thị Hương, ông Nguyễn Văn Ước,

Nguyễn Như Ly (còn tên gọi khác là Nguyễn Văn Ly), Nguyễn Văn Huy, trú

tại thôn 10, xã Hạ Long có khẳng định: Việc các hộ gia đình ông Ước, ông

Ly, ông Huy kiến nghị giải quyết việc hộ gia đình bà Hương có xây tường rào

lấn vào ngõ đi chung 0,5m là chưa có cơ sở. Kết luận này được căn cứ trên

một số kết quả xác minh hiện trạng ngõ đi chung của Phòng Tài nguyên - Môi

trường huyện. Cụ thể: Tại tờ bản đồ địa chính số 64 được Sở Tài nguyên và

Môi trường tỉnh Quảng Ninh phê duyệt năm 2013, phần hiện trạng ngõ đi tiếp

giáp với thửa đất số 193, tờ bản đồ địa chính số 64 có chiều rộng phía đầu ngõ

(tính từ tường rào nhà bà Hương đến tường rào nhà ông Lâm) là 1,7m; chiều

rộng trung bình ngõ là 1,5m. Ranh giới thửa đất đã được các hộ giáp ranh với

hộ gia đình bà Hương ký xác nhận tại bản mô tả ranh giới, mốc giới ngày 11-

4-2015 (trong đó có hộ ông Ước)...

Sau rất nhiều lần hòa giải, rồi trì hoãn vì nguyên đơn không có mặt,

cuối cùng, ngày 28/9/2017, phiên tòa giải quyết tranh chấp ngõ đi chung giữa

2 hộ là ông Nguyễn Văn Ly, Nguyễn Văn Ước và gia đình bà Nguyễn Thị

Hương cùng trú tại thôn 10, xã Hạ Long, Vân Đồn đã được đưa ra xét xử

công khai [57].

Tại phiên tòa, đại diện UBND huyện Vân Đồn khẳng định, từ năm

2004-2006, UBND huyện Vân Đồn cấp GCNQSDĐ cho gia đình bà Hương,

ông Ly, ông Ước đều thể hiện diện tích ngõ đi là 2m. Căn cứ vào xác nhận

của những người nguyên là trưởng thôn, địa chính xã Hạ Long khi đo đạc làm

hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho các hộ dân trong xã (trong đó có gia đình bà

Hương, ông Ly, ông Ước), thực hiện theo Nghị quyết của HĐND xã năm

1999 nên đã trừ đi một phần đất của các hộ đang sử dụng ổn định để mở

47

đường thôn, nên trong trích lục các thửa đất đều thể hiện ngõ đi chung là 2m

trở lên. Vì vậy, kích thước ngõ đi chung trên GCNQSDĐ đã cấp cho các hộ

thời điểm 2004-2006 là chưa phản ánh chính xác hiện trạng chiều rộng của ngõ

xóm cũng như hiện trạng sử dụng đất của gia đình bà Hương. Căn cứ điểm d

của khoản 2 và khoản 3 điều 106 Luật Đất đai 2013 thì các GCNQSDĐ đã cấp

trên thuộc trường hợp Nhà nước sẽ thu hồi để cấp lại cho đúng hiện trạng sử

dụng đất.Đại diện UBND xã Hạ Long, ông Dương Văn Ninh, Phó Chủ tịch

UBND xã Hạ Long lại vẫn giữ quan điểm cho rằng, có sự lấn chiếm diện tích

ngõ đi chung [57].

Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem

xét tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử

nhận định: Gia đình bà Hương, ông Ly, ông Ước sinh sống tại thôn 10, xã Hạ

Long từ những năm 1990-1991. Đến 2004, hộ bà Hương được UBND huyện

cấp GCNQSDĐ thể hiện ngõ đi vào hộ ông Ly, ông Ước là 2m. Đến năm

2006, hộ ông Ly, ông Ước được cấp GCNQSDĐ thể hiện ngõ đi giáp tường

rào nhà bà Hương là 2m. Năm 2015, hộ bà Hương nhận thấy diện tích

GCNQSDĐ được cấp không đúng thực tế sử dụng nên đã đề nghị UBND

huyện Vân Đồn cấp lại theo hiện trạng thì 2 hộ không đồng ý cho rằng gia đình

bà Hương xây tường gạch lấn ngõ đi 0,5m và kiện ra tòa án yêu cầu bà Hương

trả lại diện tích ngõ đi chung là 2m như GCNQSDĐ đã cấp cho các hộ [57].

Tại phiên tòa, đại diện UBND xã Hạ Long nêu quan điểm ngõ đi vào

nhà 2 hộ từ những năm 1978-2004 rộng khoảng hơn 2m, đến năm 2004 có

thay đổi hiện trạng do lấn chiếm, tuy nhiên UBND xã Hạ Long không có văn

bản pháp lý nào chứng minh về việc ngõ đi chung vào các hộ dân trên bị lấn

chiếm. Căn cứ GCNQSDĐ cấp cho hộ ông Huy năm 1997 thì ngõ đi từ nhà

ông Huy ra đường thôn có chiều rộng 1,5m. UBND huyện Vân Đồn cũng nêu

quan điểm khi vẽ trên GCNQSDĐ cho các hộ thời điểm năm 2004-2006, có

48

thể hiện ngõ đi chung rộng 2m là không chính xác, nên cần xác minh làm rõ,

cấp lại cho các hộ theo quy định Luật Đất đai. Do đó, tài liệu chứng cứ mà

nguyên đơn, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn chứng

minh theo yêu cầu của mình là không có căn cứ chấp nhận [40].

Vì các lẽ trên, TAND huyện Vân Đồn tuyên xử không chấp nhận yêu

cầu của các nguyên đơn ông Nguyễn Văn Ly, ông Nguyễn Văn Ước về việc

yêu cầu gia đình bà Nguyễn Thị Hương trả lại diện tích 12,75m2 đất ngõ đi

chung cho ông Ly, ông Ước tại thôn 10, xã Hạ Long. Đồng thời, kiến nghị

UBND huyện Vân Đồn thu hồi GCNQSDĐ của các hộ đang tranh chấp trên

để xác minh, làm rõ và cấp lại GCNQSDĐ theo quy định [40].

2.2.2. Đánh giá việc giải quyết tranh chấp đất đai tại huyện Vân Đồn,

tỉnh Quảng Ninh

2.2.2.1. Những mặt tích cực

Thực hiện quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của

Nhà nước về vấn đề GQTCĐĐ, trong thời gian qua, Huyện ủy, HĐND,

UBND huyện Vân Đồn đã có sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời đối với công tác

GQTCĐĐ. Đảng bộ huyện Vân Đồn đã đặt công tác này là một trong những

nhiệm vụ trọng tâm của phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị,

trật tự an toàn xã hội; đã đề ra mục tiêu giải quyết cơ bản, dứt điểm số vụ

TCĐĐ; đề cao công tác hòa giải cơ sở để giữ mối đoàn kết trong nội bộ nhân

dân; ổn định tình hình quản lý và sử dụng đất đai; hạn chế tối đa các điểm

nóng phát sinh và tình trạng tranh chấp, khiếu kiện đất đai đông người kéo lên

huyện, tỉnh và trung ương. HĐND huyện Vân Đồn thường xuyên ban hành

nghị quyết về công tác quản lý và sử dụng đất đai để tạo cơ sở pháp lý rõ

ràng, rành mạch, cụ thể cho việc quản lý và sử dụng đất trên địa bàn, từ đó

hạn chế được những TCĐĐ mới phát sinh; đồng thời, HĐND tăng cường chỉ

đạo và giám sát UBND trong công tác GQTCĐĐ đảm bảo tính hợp hiến, hợp

49

pháp và hợp lý đối với từng vụ việc.UBNDhuyện luôn chỉ đạo tăng cường

công tác quản lý và sử dụng đất đai; đổi mới công tác tiếp công dân; kiện toàn

bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp công dân và

GQTCĐĐ. Thường xuyên quán triệt các bộ phận chuyên môn GQTCĐĐ phải

vận dụng linh hoạt các quy định pháp luật; cải tiến phương pháp GQTCĐĐ;

nghiên cứu thật kỹ nội dung TCĐĐ để nắm bắt được nguyên nhân dẫn đến

tranh chấp; cũng như xem xét, phân tích các chứng cứ, hồ sơ, tài liệu, sổ

sách... liên quan đến đất tranh chấp để các TCĐĐ được giải quyết kịp thời,

nhanh chóng, tránh tình trạng dây dưa, kéo dài, dai dẳng. Việc ban hành các

văn bản GQTCĐĐ phải có lý, có tình, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp

pháp, tạo sự hài hòa thỏa đáng cho các bên đương sự, hạn chế đơn thư khiếu

kiện lên cấp trung ương; đặc biệt là tránh tình trạng giải quyết tranh chấp

không đúng pháp luật gây bức xúc trong nhân dân và mất niềm tin đối với

cơ quan nhà nước. Kết quả công tác GQTCĐĐ trên địa bàn huyện Vân Đồn

thể hiện:

Thứ nhất, về công tác hòa giải cơ sở. Công tác hòa giải cơ sở luôn nhận

được sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương trong việc tổ

chức và hoạt động; nhận được sự quan tâm, hướng dẫn của Sở Tư pháp tỉnh

Quảng Ninh, Phòng Tư pháp huyện Vân Đồn về thực hiện công tác hòa giải ở

cơ sở. Thành viên Tổ hòa giải là trưởng các tổ chức quần chúng ở cơ sở,

nhiều người là cán bộ, công chức, sĩ quan quân đội… nghỉ hưu và đã tham gia

công tác hòa giải nhiều năm, có uy tín trong cộng động dân cư, mặt khác các

tổ viên tổ hòa giải là những người trực tiếp ở cơ sở nên sớm nắm bắt được các

mâu thuẫn phát sinh, kịp thời giải quyết trên cơ sở tình làng, nghĩa xóm,

phong tục tập quán, truyền thống đạo lý và các quy định của pháp luật liên

quan, nên kết quả hòa giải đảm bảo chất lượng. Sự phối kết hợp của cơ quan

tư pháp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của

50

Mặt trận các cấp từ tỉnh đến cơ sở được thực hiện đồng bộ và thường xuyên

trong việc triển khai, thực hiện việc hòa giải. Hầu hết các thôn, xóm, tổ dân

phố trên địa bàn tỉnh đã xây dựng được hương ước, quy ước về nếp sống văn

hóa khu dân cư. Chính từ các lý do đó mà công tác hòa giải trên địa bàn

huyện Vân Đồn đã đạt được nhiều kết quả tốt, góp phần giải quyết được mâu

thuẫn xích mích, vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân nói

chung và những mâu thuẫn, xích mích trong lĩnh vực đất đai nói riêng, từ đó

giữ gìn trật tự xóm, làng, bình yên xóm ngõ ở khu dân cư, góp phần vào việc

tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai, nâng cao nhận thức và ý

thức chấp hành pháp luật đất đai của người dân.

Thứ hai, về công tác GQTCĐĐ. Các vụ TCĐĐ thuộc thẩm quyền của

cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn huyện Vân Đồn đã được giải quyết

theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định, từ việc hòa giải tại UBND

cấp xã đến việc giải quyết lần một tại UBND cấp huyện. Kết quả giải quyết từ

ngày 01/01/2014 đến 31/12/2018, UBND cấp huyện đã giải quyết 165 vụ

tranh chấp và UBND cấp xã, thị trấn giải quyết 286 vụ; số vụ tồn đọng chủ

yếu là do nguyên nhân khách quan bắt nguồn từ những quy định của pháp

luật, chế độ quản lý và sử dụng đất đai khác nhau qua các thời kỳ và sự phối

hợp giải quyết từ các đương sự. Kết quả giải quyết các vụ TCĐĐ phần lớn đạt

được sự đồng thuận, chấp hành từ các bên đương sự, điều này đã hạn chế

được việc tiếp tục kiến nghị giải quyết lên cấp tỉnh và trung ương.

Thứ ba, số lượng các vụ việc GQTCĐĐ nói chung cũng như GQTCĐĐ

bằng Toà án nói riêng năm sau đều cao hơn năm trước. Các TCĐĐ đều được

TAND huyện Vân Đồn giải quyết dứt điểm, nhanh chóng, theo tinh thần

thượng tôn pháp luật, được các bên tham gia tranh chấp và dư luận trong nhân

dân đồng tình.Trong quá trình giải quyết, về mặt hình thức TAND huyện Vân

51

Đồn đã tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Thứ tư, việc GQTCĐĐ tại huyện Vân Đồn đảm bảo vận dụng một cách

phù hợp các đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước.

2.2.2.2. Những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân

Tuy vậy, việc GQTCĐĐ còn có những khó khăn, tồn tại nhất định:

Một là, hệ thống pháp luật GQTCĐ, văn bản có giá trị phá lý cao nhất

là hiến pháp cao nhất là Hiến pháp; sau đó luật về đất đai và các văn bản dưới

luật hướng dẫn điều chỉnh các mối quan hệ về đất đa.

Có thể nói rằng một trong những nguyên nhân cơ bản phát sinh tranh

chấp hành chính về đất đai vừa qua gay gắt là do các nguyên nhân như Luật

đất đai cũ có quá nhiều bất cập trong việc thu hồi, định giá, đền bù, hỗ trợ tái

định cư... Đây cũng là những nội dung mà trong quá trình sửa đổi, bổ sung

Luật Đất đai 2013, đã qua có nhiều ý kiến của Đại biểu Quốc hội cũng như các

chuyên gia đề xuất, tuy nhiên vẫn còn những hạn chế, bất cập mà nếu việc

hướng dẫn, tổ chức thực hiện không tốt sẽ tiếp tục gây mâu thuẫn, xung đột về

quyền và lợi ích với người sử dụng đất, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Về thu hồi đất, Hiến pháp năm 2013 khẳng định Nhà nước chỉ thu hồi

đất trong trường hợp thật cần thiết vì mục đích an ninh, quốc phòng, để phát

triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và Luật đất đai năm

2013 củng khẳng định rõ các dự án quan trọng cấp quốc gia phải do Thủ

tướng và Quốc hội quyết định, cấp tỉnh sẽ có thêm sự tham gia của HĐND

nhưng vẫn chưa làm rõ được giới hạn của “thật cần thiết” đã chỉ ra trong Hiến

pháp. Trong hệ thống pháp luật hiện nay đã cụ thể hóa một phạm vi quá rộng

các trường hợp được phép thu hồi đất đặc biệt là đất nông nghiệp, chỉ có một

điểm khác là những trường hợp đó, tùy thuộc vào quy mô, sẽ cần có sự chấp

thuận của HĐND cấp tỉnh, huyện, bên cạnh cơ quan chính quyền có thẩm

quyền thu hồi đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013. Nếu việc hướng

52

dẫn và tổ chức thực hiện không tốt về vấn đề này như mục đích thu hồi đất,

giải phóng mặt bằng, đền bù và tái định cư… có thể lại dẫn đến tình trạng lạm

quyền, thu hồi đất tràn lan, tiếp tục gây bức xúc trong nhân dân [52].

Hai là, Ban hành các quyết định hành chính vừa qua còn thiếu các căn

cứ pháp lý về thực hiện hành vi hành chính trong quản lý nhà nước về đất đai,

vì việc phân biệt giữa quyết định hành chính và hành vi hành chính trong các

cơ quan có thẩm quyền đôi khi còn lúng túng, thực tế khó xác định hành vi

hành chính mang tính nội bộ hay hành vi hành chính là đối tượng của khiếu

nại hành chính và khởi kiện hành chính, do chưa có đạo luật quy định về việc

ban hành quyết định hành chính trong quản lý nhà nước nói chung, trong quản

lý về đất đai nói riêng cho nên việc ban hành các quyết định hành chính trong

việc thu hồi, bồi thường giải phóng mặt bằng, chuyển mục đích sử dụng đất,

còn có hiện tượng sai đối tượng, thiếu căn cứ, không tuân thủ trình tự thủ tục,

thiếu công khai, dân chủ, công bằng, không thẩm tra xem xét xem người được

giao có nhu cầu sử dụng đất hay không...

Liên quan đến hệ thống pháp luật GQTCĐĐ trong lĩnh vực hành chính

còn có Luật Tố tụng hành chính 2010, Luật Khiếu nại 2011 và các văn bản

khác liên quan. Các văn bản hướng dẫn vừa qua có những quy định không

thống nhất dẫn đến khó áp dụng trên thực tiễn, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả

GQTCĐĐ trong lĩnh vực hành chính.

Ba là, trong công tác hòa giải, các vụ TCĐĐ mà các tổ hòa giải ở cơ sở

và UBND cấp xã hòa giải thành công là những vụ tranh chấp đơn giản, cơ sở

pháp lý để giải quyết tương đối rõ ràng hoặc các bên đương sự là những

người hiểu biết, có thiện chí hòa giải. Còn đối với những vụ án phức tạp, thiếu

cơ sở pháp lý để giải quyết như hồ sơ địa chính thiếu hoặc không có hoặc thay

đổi do những yêu cầu của chính sách đất đai của Nhà nước; việc sao lục giấy

tờ nhà đất tại các cơ quan có thẩm quyền gặp khó khăn... thì tổ hòa giải ở cơ

53

sở cũng như UBND cấp xã khó hòa giải thành công. Hơn nữa thành viên tổ

hòa giải và cán bộ làm công tác hòa giải chưa đủ trình độ, năng lực để hòa

giải các vụ TCĐĐ; việc theo dõi kết quả sau hòa giải không được duy trì nên

sau một thời gian các bên lại tiến hành tranh chấp. Do thế mà tỷ lệ hòa giải ở

cơ sở liên quan đến đất đai chỉ mới đạt 75%; tỷ lệ hòa giải TCĐĐ tại UBND

cấp xã đạt khoảng 85%. Mặt khác, một số UBND xã khi tiến hành hòa giải

không lập biên bản (biên bản hòa giải thành hoặc biên bản hòa giải không

thành) mà lại ban hành công văn hoặc thông báo gửi đến cơ quan có thẩm

quyền giải quyết tranh chấp. Như vậy về hình thức pháp lý của công tác hòa

giải tại UBND xã là không đúng theo quy định của pháp luật.

Bốn là, tình trạng tiếp nhận đơn về đất đai của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền làm chưa tốt, ở cấp xã sau khi hòa giải TCĐĐ không thành chưa

hướng dẫn cụ thể theo quy định của pháp luật cho đương sự, còn để xảy ra

tình trạng đương sự đi nhiều nơi đề nghị giải quyết tranh chấp, đơn đề nghị

giải quyết tranh chấp gửi đến nhiều cơ quan. Tại các huyện, thành phố cán bộ

tiếp dân liên quan đến khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai làm việc theo

lịch tiếp dân của UBND huyện nên chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho

công dân; một số phiên tiếp dân đạt hiệu quả chưa cao. Đối với công tác xử lý

đơn thư TCĐĐ: thực tế cho thấy hầu như tất cả các vụ việc khiếu nại, tố cáo,

tranh chấp về đất đai UBND huyện, UBND tỉnh đều giao cho Phòng Tài

nguyên Môi trường và Sở Tài nguyên Môi trường đảm nhận, trong khi đó lực

lượng mỏng, chức năng nhiệm vụ ngoài giải quyết khiếu nại, tố cáo, TCĐĐ

còn nhiều nên công tác xử lý các đơn thư về đất đai nói chung và TCĐĐ nói

riêng đôi khi còn chậm, thậm chí có những trường hợp không đảm bảo được

thời hạn theo pháp luật quy định.

Năm là, về trình tự, thủ tục GQTCĐĐ, còn tồn tại một số vụ ở huyện

và thành phố việc GQTCĐĐ chưa đảm bảo về trình tự, thủ tục; việc giải

54

quyết chưa kịp thời, không dứt điểm dẫn đến tình trạng tranh chấp kéo dài.

Hơn nữa, trong quá trình xem xét, giải quyết các vụ việc, vẫn còn một số

trường hợp xác định tính chất vụ việc không đúng, chưa phân định rõ vụ việc

thuộc dạng khiếu nại hay tranh chấp dẫn đến việc giải quyết luẩn quẩn, hao

tốn thời gian, công sức, tiền bạc và gây bức xúc cho các bên đương sự. Trước

khi Luật Tố tụng hành chính năm 2010 có hiệu lực còn nhiều tình trạng các

vụ TCĐĐ đã có quyết định giải quyết cuối cùng nhưng đương sự vẫn cố tình

không thực hiện hoặc tiến độ thực hiện quyết định chậm bởi việc tổ chức thi

hành quyết định chưa nghiêm; đương sự cho rằng việc giải quyết vẫn chưa

thỏa đáng; cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thiếu

kiểm tra, đôn đốc để giải quyết dứt điểm. Sau khi Luật tố tụng hành chính

năm 2010 có hiệu lực thì nhiều vụ việc đã được giải quyết lần hai, tức là đã có

quyết định giải quyết cuối cùng rồi nhưng đương sự vẫn tiếp tục khởi kiện vụ

việc ra TAND theo thủ tục tố tụng hành chính, dẫn đến các vụ TCĐĐ diễn

biến ngày càng phức tạp, dây dưa, kéo dài.

Nguyên nhân của những khó khăn, tồn tại

Nguyên nhân của những khó khăn, tồn tại trong việc áp dụng các quy

định của pháp luật về GQTCĐĐ thông qua cơ quan hành chính nhà nước trên

địa bàn huyện Vân Đồn được chia thành hai loại: nguyên nhân khách quan và

nguyên nhân chủ quan.

* Nguyên nhân khách quan

Việc phân cấp thẩm quyền trong quản lý đất đai chưa đi đôi với qui

định cơ chế bảo đảm quản lý thống nhất; công tác thanh tra, giám sát thi hành

pháp luật chưa nghiêm, quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu

nại về đất đai chưa đủ rõ dẫn đến công tác xét xử, giải quyết các tranh chấp,

khiếu kiện về đất đai còn nhiều hạn chế; chế tài xử lý chưa đủ mạnh để ngăn

55

ngừa các hành vi vi phạm.

Cấp ủy, chính quyền địa phương một số nơi chưa nhận thức thấy hết

tầm quan trọng của công tác hòa giải ở cơ sở nên chưa tập trung lãnh đạo, chỉ

đạo cơ sở thực hiện một cách triệt để. Nhiều địa phương không, chưa bố trí

được các cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất, kỹ năng nghề nghiệp và kinh

nghiệm đảm nhiệm công việc này nên việc hòa giải các tranh chấp đạt hiệu

quả chưa cao gây ra những hiệu ứng không tốt trong nhân dân. Nhiều vụ việc

giải quyết không triệt để dẫn đến tranh chấp kéo dài, khiếu kiện đông người,

có trường hợp dẫn đến vụ án hình sự. Mặt khác, một số địa phương chưa làm

tốt trách nhiệm phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời những hành vi vi phạm

pháp luật về đất đai trên địa bàn như lấn chiếm đất đai, tự ý chuyển mục đích

sử dụng đất, tự ý xây dựng nhà trên đất nông nghiệp, đất công ích…; nhiều

địa phương thực hiện pháp luật đất đai chưa nghiêm còn để xảy ra tình trạng

giao đất, cho thuê đất không đúng thẩm quyền, thu hồi đất, giải phóng mặt

bằng, đền bù, tái định cư không đúng quy định… dẫn đến tình hình khiếu nại,

tình trạng TCĐĐ ngày càng nhiều và phức tạp, công tác giải quyết không thể

đáp ứng kịp với những khiếu nại, tranh chấp mới phát sinh.

Việc quy hoạch sử dụng đất chất lượng chưa cao, chưa đồng bộ với các

quy hoạch chuyên ngành, tính kết nối liên vùng và quản lý quy hoạch còn

yếu; đăng ký đất đai, đặc biệt là đăng ký biến động làm chưa tốt; lập chưa đầy

đủ, thống nhất; việc cập nhật, chỉnh lý biến động chưa được thực hiện thường

xuyên, đồng bộ theo quy định và chưa được đầu tư thỏa đáng để xây dựng

thành một hệ thống khoa học, đầy đủ; cấp giấy chứng nhận lần đầu đến nay

chưa hoàn thành, nhu cầu cấp giấy chứng nhận còn rất lớn… chính những

điều này là nguyên nhân dẫn đến những khó khăn trong quá trình tiến hành

giải quyết tranh chấp của cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền vì

không có hoặc khó thu thập được chứng cứ, số liệu, tài liệu làm cơ sở pháp lý

56

GQTCĐĐ.

Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đất đai chưa tốt,

còn mang tính hình thức và thời điểm nên ý thức chấp hành pháp luật đất đai

của một bộ phận cán bộ và nhân dân còn hạn chế, chưa nắm được một nguyên

tắc cơ bản trong chính sách đất đai đó là “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do

Nhà nước đại diện chủ sở hữu” mà vẫn quan niệm đất đai thuộc sở hữu tư

nhân, sở hữu của hộ gia đình, cá nhân, có toàn quyền với đất của mình; đặc

biệt trong công cuộc đổi mới như hiện nay đất đai ngày càng trở nên có giá và

người sử dụng càng thấy nhiều lợi ích từ đất đai mang lại thì người sử dụng

đất càng khó từ bỏ các quyền và lợi ích của họ gắn liền với đất.

Bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác GQTCĐĐ chưa được kiện toàn

củng cố, cán bộ còn yếu về năng lực. Các phòng Tài nguyên và Môi trường ở

các huyện, thành phố có chức năng và nhiệm vụ lớn, công tác giải quyết đơn

thư khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai chỉ là một mảng nhiệm vụ của

phòng, nhưng thực tế nhiệm vụ này chiếm một quỹ thời gian rất lớn, trong khi

đó các phòng Tài nguyên và Môi trường chưa được bố trí cán bộ chuyên môn

về luật, chỉ có chuyên môn về địa chính, đất đai nên chưa đáp ứng hết được

nhiệm vụ giải quyết tranh chấp rất phức tạp đang đặt ra.

Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc quản lý đất đai còn lạc hậu,

chưa đáp ứng yêu cầu; nguồn kinh phí phục vụ cho công tác giải quyết tranh

chấp còn gặp nhiều khó khăn.

* Nguyên nhân chủ quan

Về phía cơ quan giải quyết: Cơ quan hành chính nhà nước vừa là cơ

quan quản lý đất đai vừa thực hiện việc GQTCĐĐ nên việc GQTCĐĐ nhiều

khi còn mang tính chủ quan, nể nang, nặng về mệnh lệnh hành chính, chưa

thường xuyên tham vấn cộng đồng, thậm chí nhiều quyết định giải quyết chưa

thấu tình đạt lý. Việc tổ chức thực hiện các quyết định giải quyết đã có hiệu

57

lực pháp luật còn thiếu kiên quyết, các bên tranh chấp đất đi không chấp hành

quyết định mà không phải chịu một biện pháp cưỡng chế nào, dẫn đến vụ việc

không được giải quyết dứt điểm, tranh chấp kéo dài. Hình thức văn bản giải

quyết một số vụ việc chưa đảm bảo theo quy định của pháp luật như việc ban

hành công văn, thông báo... để thay thế quyết định giải quyết tranh chấp về

đất đai.

Về phía các bên tranh chấp: Nhiều vụ việc TCĐĐ mặc dù đã được cơ

quan hành chính nhà nước có thẩm quyền nỗ lực cố gắng vận dụng chính sách

giải quyết có lý, có tình, phù hợp với tình hình thực tế và đúng với quy định

của pháp luật, tổ chức đối thoại trực tiếp nhiều lần nhưng do nhiều động cơ

khác nhau các bên tranh chấp vẫn cố tình đeo bám, đề nghị giải quyết và làm

cho tình hình trở nên phức tạp hơn. Thậm chí, trong một số vụ việc, có một số

đối tượng chưa nhận thức đúng vấn đề và hiểu rõ vấn đề đã có hành vi vượt

quá giới hạn, vi phạm pháp luật, lợi dụng quyền công dân đã có hành vi quá

khích gây mất trật tự an toàn công cộng, ảnh hưởng đến công tác và hoạt động

bình thường của các cơ quan nhà nước. Tình trạng các bên tranh chấp gửi đơn

tràn lan, vượt cấp đến các cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước không có thẩm

quyền giải quyết vẫn diễn ra phổ biến.

Về phía cán bộ, công chức có thẩm quyền xem xét, GQTCĐĐ: Vẫn còn

một bộ phận cán bộ, công chức có những hành vi vụ lợi trong quản lý, sử

dụng đất đai; nhũng nhiễu, thiếu công tâm là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến

việc GQTCĐĐ không đúng pháp luật...

Tiểu kết chương 2

Qua thực tiễn GQTCĐĐ tại huyện Vân Đồn có thể thấy TCĐĐ là một

trong những tranh chấp phổ biến và cũng khó giải quyết nhất hiện nay. Mỗi

năm, cơ quan hành chính và TAND huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh thụ lý

cả trăm vụ TCĐĐ và số lượng tranh chấp này tăng dần qua từng năm.TAND

58

huyện Vân Đồn đã tiến hành thụ lý, giải quyết dứt điểm các TCĐĐ không để

xảy ra “điểm nóng” trên địa bàn. Chương 2 của luận văn đã đi sâu phân tích

các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp đất đai, so sánh

với các quy định trước đây trong giải quyết các tranh chấp đất đai. Trên cơ sở

đó, nội dung chương đã phân tích thực tiến áp dụng các quy định về giải

quyết tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật hiện trên địa bàn huyện

Vân Đồn, rút ra những hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế để làm cơ sở

59

đề xuất các giải pháp tại chương 3.

Chương 3

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ

NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH

CHẤP ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VÂN ĐỒN,

TỈNH QUẢNG NINH

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất

đai và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai tại huyện Vân Đồn,

tỉnh Quảng Ninh

3.1.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật GQTCĐĐ phải dựa trên sự quán triệt

quan điểm, đường lối của Đảng về lĩnh vực đất đai.

Việc hoàn thiện pháp luật đất đai nói chung và các quy định về

GQTCĐĐ nói riêng phải dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng nhằm đảm

bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi của giai cấp công

nhân, nhân dân lao động trong lĩnh vực đất đai. Theo đó, hoàn thiện các quy

định về GQTCĐĐ cần dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng về quản lý và

sử dụng đất đai. Qua những văn kiện Đại hội Đảng và những hội nghị của

Ban chấp hành Trung ương Đảng những khóa gần đây về đổi mới chính sách,

pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước đã khẳng định rằng: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước là đại

diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.

Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc

biệt, là nguồn động lực và vốn to lớn của đất nước, quyền sử dụng đất là loại

hàng hóa đặc biệt. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà

nước, phát huy vai tò của Ủy ban Mặt trận tổ quốc, các tổ chức thành viên và

60

toàn dân trong thực hiện chính sách pháp luật đất đai. Đảm bảo sự quản lý

thống nhất của Trung ương, đồng thời phân cấp cho địa phương, có chế tài

nghiêm khắc trong thực thi chính sách pháp luật đất đai...

Thứ hai, hoàn thiện pháp luật GQTCĐĐ phải gắn kết với việc tăng

cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với công tác

GQTCĐĐ.

Việc GQTCĐĐ phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của

Nhà nước. Các cấp ủy đảng phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo việc GQTCĐĐ

nhằm đảm bảo giải quyết nhanh chóng, dứt điểm “tháo ngòi nổ” những nguy

cơ gây mất ổn định chính trị, góp phần duy trì, củng cố tình đoàn kết trong nội

bộ nhân dân.

Thứ ba, hoàn thiện pháp luật GQTCĐĐ phải gắn liền với việc nâng cao

hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đất đai.

GQTCĐĐ là một nội dung không thể thiếu được của công tác quản lý

nhà nước về đất đai. Mục đích của hoạt động này không chỉ giải quyết bất

đồng mâu thuẫn giữa các bên, ngăn ngừa việc phát sinh những điểm nóng

tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định về chính trị, mà còn thông qua nội dung này

giúp Nhà nước nhận diện được những bất cập, hạn chế trong các chính sách,

pháp luật đất đai, trên cơ sở đó kịp thời sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nhằm đáp

ứng nhu cầu của xã hội.

3.1.2. Định hướng nâng cao hiệu quả về giải quyết tranh chấp đất đai

từ thực tiễn tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

Thứ nhất, cần đẩy mạnh công tác hướng dẫn thi hành pháp luật về đất đai

Để nâng cao hiệu quả GQTCĐĐ của cơ quan hành chính nhà nước,

chúng tôi cho rằng việc hướng dẫn thi hành pháp luật đất đai là rất quan trọng.

Cần có hướng dẫn cụ thể, chi tiết về áp dụng pháp luật trong GQTCĐĐ để

tránh tất cả mọi kẽ hở, xung đột, thiếu đồng bộ trong áp dụng pháp luật hiện

61

nay có liên quan đến đất đai và GQTCĐĐ. Đồng thời cần giải thích, tư vấn

đầy đủ, rõ ràng, minh bạch các quy định pháp luật đất đai, nhất là các quy

định có liên quan đến giải quyết tranh chấp nhằm tạo cơ hội để mọi người tiếp

cận, hiểu biết pháp luật đất đai một cách đồng thuận, thống nhất; tránh được

những bất đồng về quan điểm giữa các cơ quan có thẩm quyền GQTCĐĐ và

giữa người ra quyết định giải quyết tranh chấp với các bên tham gia TCĐĐ.

Thứ hai, tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức và nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực trong công tác GQTCĐĐ của các cấp, các cơ quan quản lý

nhà nước có thẩm quyền liên quan

Cần tăng cường lực lượng, kiện toàn, củng cố tổ chức, nâng cao năng

lực, trình độ cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đất đai và GQTCĐĐ

các cấp, nhất là đối với cấp huyện và cấp xã. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng

nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ này bằng nhiều hình thức phù hợp để họ

hiểu rõ chính sách pháp luật đất đai qua các thời kỳ, nắm vững được các chính

sách, quy định pháp luật đất đai hiện hành, có được những kỹ năng, kinh

nghiệm trong GQTCĐĐ nhằm phục vụ cho việc giải quyết tranh chấp đạt

hiệu quả cao.

Thứ ba, cần tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp

luật về đất đai cho nhân dân

Khi người dân nhận thức, nắm bắt được các quy định của pháp luật về

đất đai họ sẽ không vi phạm, từ đó hạn chế được tranh chấp. Thậm chí ngay

cả khi xảy ra tranh chấp nếu hiểu biết pháp luật họ sẽ dễ dàng chấp nhận

quyết định giải quyết đúng đắn của cơ quan hành chính nhà nước có thẩm

quyền.

Thứ tư, cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc triển

khai thực hiện pháp luật đất đai, việc thực thi các quy định GQTCĐĐ

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát để nâng cao hiệu lực,

62

hiệu quả việc chấp hành pháp luật đất đai và GQTCĐĐ đối với các cấp, các

ngành. Kiên quyết xử lý cán bộ thiếu trách nhiệm trong GQTCĐĐ; lợi dụng

chức vụ, quyền hạn để tham nhũng trong lĩnh vực đất đai. Xử lý nghiêm

những hành vi vi phạm của chủ thể sử dụng đất, lợi dụng tranh chấp, khiếu

nại, tố cáo đất đai để kích động, lôi kéo gây rối làm ảnh hưởng đến an ninh,

trật tự an toàn xã hội.

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất

đai và nâng cao hiệu quả thi hành tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai

Tại điểm 4 Điều 114 Luật Đất đai 2013 quy định giá đất cụ thể đối với

trường hợp nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua đấu giá

quyền sử dụng đất mâu thuẫn với Điều 15 nghị định 44/2014/NĐ-CP quy

định giá đất cụ thể làm căn cứ để xác định giá khởi điểm đấu giá quyền sử

dụng đất.

Điều 105 Luật Đất đai 2013 quy định: UBND tỉnh cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất cho tổ

chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có

vốn đầu tư nước ngoài thực hiện dự án đầu tư, Tổ chức nước ngoài có chức

năng ngoại giao. Điều luật không quy định cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất cho cá nhân người

nước ngoài. Nhưng tại điểm a khoản 2 điều 37 nghị định 43/2014/NĐ-CP

hướng dẫn sở tài nguyên và môi trường cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất cho tổ chức, cá nhân nước ngoài.

Sửa đổi Điều 34 nghị định 47/2014/NĐ-CP quy định về việc trả bồi

thường chi phí đầu tư đất theo nghi định 197/2004/NĐ-CP mâu thuẫn với

điều 35 quy định nghị định 47/2014/NĐ-CP thay thế nghị định 197/2004/NĐ-

CP. Luật Đất đai 2013 và các nghị định, thông tư hướng dẫn chưa quy định cụ

63

thể về việc xác định hệ số điều chỉnh giá đất; quy định đối với thửa đất hoặc

khu đất có giá trị cao hơn 10 tỉ đồng và 20 tỉ đồng; quy định mức giá trần cho

việc nhận chuyển nhượng; hướng dẫn về việc nộp tiền giao đất; quy định về

thẩm định điều kiện giao đất, kí quỹ của nhà đầu tư… Mức giá bồi thường

giữa nhà nước thu hồi và doanh nghiệp thu hồi để thực hiện dự án đầu tư

chênh lệch khá cao, chưa phù hợp với giá cả thị trường.

Hoàn thiện trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai

Trong thực tế giải quyết những vụ việc TCĐĐ cho thấy, việc xem xét,

thẩm định tại chỗ nhà đất là rất cần thiết bởi TCĐĐ là một loại tranh chấp đặc

thù, đối tượng tranh chấp là loại tài sản đặc biệt, có giá trị và trải qua nhiều

biến động trong quá trình Nhà nước thực hiện các chính sách cải tạo đất đai.

Giải quyết tranh chấp đất đai theo luật tố tụng hành chính là nội dung

nằm trong Luật đất đai 2013 được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam khóa XII ban hành. Luật có nhiều sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện

những quy định, thủ tục đảm bảo quyền có đất, sử dụng đất của nhân dân.

Tranh chấp đất đai luôn là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội, buộc pháp

luật phải đứng ra giải quyết để đảm bảo sự công bằng cho toàn dân. Luật đất

đai mới đã có nhiều thay đổi trong giải quyết tranh chấp đất đai, đặc biệt là

thủ tục giải quyết tranh chấp. Luật ban hành trong hoàn cảnh ngày càng nhiều

các vụ án tranh chấp đất đai giữa nhiều mối quan hệ phức tạp khiến cho

người dân không biết phải giải quyết như thế nào, thủ tục ra sao, cơ quan nào

có thẩm quyền giải quyết,…

Để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm kỷ

luật, kỷ cương của nền hành chính, bảo đảm tính tuân thủ pháp luật của các cơ

quan hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập

quốc tế, cần phải có cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc cho việc ban hành các

quyết định hành chính. Điều này không chỉ thuận lợi cho phía chủ thể quản lý

64

về tranh chấp đất đai mà còn tạo thuận lợi cho người dân trong việc phối hợp

cùng nhau thực hiện các thủ tục cần thiết trong hoạt động quản lý hành chính,

vừa bảo đảm tính dân chủ, minh bạch, vừa bảo đảm tính quyền uy, quyền lực

phục tùng được xem là bản chất của các quan hệ hành chính. Theo đó, pháp

luật phải làm rõ những gì được coi là quyết định hành chính cũng như thẩm

quyền, căn cứ pháp lý ban hành quyết định hành chính, các nguyên tắc về tính

hợp pháp về nội dung và hình thức của quyết định hành chính như vậy cần

thiết phải xây dựng Luật ban hành quyết định hành chính nói chung và lĩnh

vực hành chính về đất đai nói riêng nhằm bảo đảm tính hợp pháp, tính hợp lý,

tính khả thi và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; đồng

thời đề cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân. Qua đó, tạo thuận lợi cho

việc bảo đảm và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người sử dụng đất,

hạn chế phát sinh các TCĐĐ. Đồng thời, việc ban hành Luật này sẽ bảo đảm

cho người dân có cơ sở để khiếu nại các quyết định hành chính có dấu hiệu vi

phạm pháp luật.

Luật Đất đai năm 2013 đã khắc phục được tình trạng trên khi coi quyền

sử dụng đất là quyền tài sản, vì vậy, khi có tranh chấp các bên có quyền yêu

cầu Tòa án nhân dân bảo vệ quyền lợi cho mình. Do đó, theo Luật Đất đai

năm 2013 thì đối với những tranh chấp mà đương sự không có giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các giấy tờ theo quy định

thì có quyền lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp là Tòa án nhân dân hoặc

cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền. Quy định này được kỳ vọng sẽ

tạo thuận lợi hơn cho người dân trong giải quyết tranh chấp đất đai, giảm

thiểu áp lực đối với nhân dân, ổn định trật tự xã hội, góp phần quan trọng

trong việc hạn chế tình trạng khiếu nại kéo dài.

Tuy nhiên, trong tương lai, khi sửa đổi Luật Đất đai, để phù hợp với xu

thế phát triển và hội nhập của đất nước thì pháp luật đất đai nên quy định theo

65

hướng “thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đất đai chỉ do Tòa án

nhân dân giải quyết” nhằm bảo đảm sự minh bạch trong quan hệ quản lý Nhà

nước về đất đai và trong hoạt động giải quyết tranh chấp. Bởi Ủy ban nhân

dân là cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai, có quyền quyết định giao đất,

cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất... Do đó, điều không thể phủ nhận là khi trao trách nhiệm giải quyết

tranh chấp đất đai cho hệ thống cơ quan này sẽ khó tránh khởi tình trạng “vừa

đá bóng, vừa thổi còi” có thể làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp,

chính đáng của người dân.

3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về giải quyết

tranh chấp đất đai tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

3.2.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, bồi dưỡng kiến thức pháp

luật về đất đai

Các cơ quan quản lý nhà nước cần xác định rõ công tác tuyên truyền,

phổ biến giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật về đất đai là một nhiệm vụ

quan trọng, bức thiết đầu tiên của quá trình triển khai, thi hành pháp luật, là

phương pháp, là cầu nối để chuyển tải các chủ trương, chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nước về đất đai, giải quyết tranh chấp đất đai đến với mọi

người dân, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà

nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì

nhân dân.

Nhiều người dân vẫn chưa nhận thức được hết ý nghĩa của việc đứng

tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cũng như chưa hiểu biết quy

định của pháp luật dân sự về việc xác lập quyền sở hữu và chuyển giao quyền

sở hữu. Người dân đơn thuần nghĩ rằng, cha mẹ, con cái sống chung với nhau

nên tài sản đứng tên ai cũng được, mặc dù con cái đã lấy vợ, lấy chồng nhưng

vẫn sống chung với cha mẹ thì tài sản của con cái cũng là tài sản của cha mẹ,

66

đất đai do chính cha mẹ tạo dựng mà có, dù có cho con cái đứng tên thì đó

vẫn là tài sản của cha mẹ, họ có quyền đối với tài sản đó, con dâu hoặc con rể

không có quyền gì hết; họ không biết rằng khi họ cho con cái của họ đứng tên

trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là họ đã từ bỏ quyền sở hữu của

mình, đồng thời đã xác lập quyền sở hữu cho người khác… Hoặc một số

trường hợp, trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cấp huyện,

cán bộ phụ trách đã có vi phạm trong việc thực thi pháp luật đất đai, thiếu tinh

thần trách nhiệm trong công việc, trong tham mưu cho lãnh đạo; thiếu sự

kiểm tra, rà soát lại thực tế nguồn gốc và quá trình sử dụng đất, kiểm tra lại

quy trình cách thức làm việc của cấp dưới mà chỉ căn cứ vào đề nghị, vào hồ

sơ trình duyệt rồi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đối tượng được

đề nghị.

Phổ biến Luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành để

người sử dụng đất nắm được các quy định cơ bản của pháp luật trong lĩnh vực

đất đai; tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật về luật đất

đai, luật dân sự cho cán bộ, chuyên viên chuyên trách, qua đó nâng cao nhận

thức, ý thức chấp hành pháp luật về đất đai; nâng cao nhận thức, ý thức trách

nhiệm cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về đất đai.

Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về luật dân sự, về luật đất đai

phải được tổ chức sâu rộng, có trọng tâm, trọng điểm, bằng nhiều hình thức

phong phú, đa dạng, phù hợp với từng đối tượng như là hình thức tư vấn pháp

luật, trợ giúp pháp lý lưu động, hòa giải, tọa đàm, tuyên truyền miệng, thông

qua các hoạt động văn hóa ở địa phương, các tiểu phẩm, các câu chuyện cụ

thể,…; lựa chọn các nội dung tuyên truyền liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa

vụ của người dân như quy định pháp luật dân sự về các loại hợp đồng liên quan

đến đất đai, về tặng cho tài sản là quyền sử dụng đất, về di chúc thừa kế tài sản là

67

quyền sử dụng đất, về việc xác lập, về chuyển giao quyền sở hữu là quyền sử

dụng đất, ý nghĩa của việc đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

về quy trình, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…

Đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp phổ biến, tuyên truyền

pháp luật về đất đai theo hướng không chỉ đáp ứng nhu cầu kiến thức cơ bản

về pháp luật đất đai, mà còn phải thiết thực, đáp ứng yêu cầu thực tiễn để một

mặt nâng cao trình độ nhận thức cho các đối tượng, mặt khác giúp họ có khả

năng vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cuộc sống. Cần đa dạng hóa hình thức,

phương pháp tuyền truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, không chỉ thông qua

các hội nghị, hệ thống truyền thanh, công tác hòa giải ở cơ sở, hoạt động câu

lạc bộ pháp luật mà bằng những cách thức khác như tọa đàm, buổi nói

chuyện, cung cấp các tin bài, cấp phát tài liệu hỏi đáp, tờ gấp, tờ rơi, panô, áp

phích, khai thác, tìm hiểu pháp luật qua tủ sách pháp luật,....

3.2.2.2. Tăng cường giải pháp hướng dẫn thi hành pháp luật

Để nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các tranh chấp về đất đai tại

Toà án nhân dân các cấp, phải hết sức chủ trọng khâu hướng dẫn thi hành

pháp luật với các văn bản rõ ràng, phù hợp với tình hình thực tiễn. Đây là một

trong những khâu hết sức quan trọng. Kinh nghiệm thông qua hoạt động xét

xử toà án nhân dân đã chỉ rõ tầm quan trọng của hoạt động này. Toà án nhân

dân tối cao và các cơ quan có liên quan ở Trung ương cần có văn bản hướng

dẫn kịp thời, đồng thời tổng kết công tác xét xử, uốn lắn những sai lầm.

Thứ nhất, giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng đất đai

Như đã trình bày ở trên, tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền

sử dụng đất diễn ra rất phổ biến trong các TCĐĐ hiện nay. Những TCĐĐ mà

giữa các bên có hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng hợp đồng

chuyển nhượng này chỉ nhằm mục đích che giấu một giao dịch khác như (thế

68

chấp, cầm cố, vay tai sản, tặng cho,...) thì Tòa án cần xem xét bản chất, mục

đích của các bên khi tiến hành giao dịch để tuyên hợp đồng chuyển nhượng

quyền sử dụng đất đó có bị vô hiệu hay không.

Thứ hai, giải quyết vướng mắc trong thực tiễn xét xử tranh chấp hợp

đồng tặng cho quyền sử dụng đất

Xuất phát từ tình hình thực tế, trên cơ sở vận dụng các quy định của

pháp luật về hợp đồng tặng cho, luật hôn nhân và gia đình, đặc điểm tâm lý,

xã hội, theo quan điểm cá nhân nên giải quyết một số trường hợp tranh chấp

về tặng cho quyền sử dụng đất. Việc tặng cho quyền sử dụng đất chỉ được

thực hiện bằng lời nói, không có chứng cứ nào để chứng minh về việc cho tài

sản thì không công nhận việc tặng cho quyền sử dụng đất.

Thứ ba, hướng GQTCĐĐ trong trường hợp đòi lại đất cho mượn, cho

ở nhờ

TCĐĐ trong trường hợp đất cho mượn, cho ở nhờ về bản chất là giao

dịch dân sự nhưng lại liên quan đến những chính sách, pháp luật đất đai trong

các thời kỳ nên việc giải quyết gặp nhiều khó khăn:

Một là, trường hợp người có quyền sử dụng đất hợp pháp đã được cấp

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khởi kiện yêu cầu người ở nhờ trên đất

phải trả lại đất cho họ.

Hai là, trường hợp người đang sử dụng đất là người mua lại đất của

người ở nhờ hoặc được người ở nhờ cho sử dụng nhưng người có quyền sử

dụng đất không có ý kiến gì, nay mới khởi kiện.

Thứ năm, hướng giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất bị lấn

chiếm

Như đã phân tích ở trên, tranh chấp quyền sử dụng đất trong thực tế tại

huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh nhiều khi chỉ là các tranh chấp một diện

69

tích đất rất nhỏ hoặc bên lấn chiếm đã xây dựng phần kiến trúc kiên cố trên

đất lấn chiếm thì Tòa án cần phải xác minh thực tế để từ đó có phán quyết

hợp tình, hợp lý và có hiệu lực thi hành cao.

Thứ sáu, hướng giải quyết một số TCĐĐ khác

Trong thực tiễn giải quyết các TCĐĐ trên địa bàn huyện Vân Đồn, tỉnh

Quảng Ninh còn gặp phải dạng tranh chấp có yếu tố nước ngoài như TCĐĐ

liên quan đến người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà đất nhưng nhờ

người khác đứng tên hộ.

3.2.2.3. Về cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp đất đai

Tại địa bàn huyện Vân Đồn nên thành lập Hội đồng tư vấn giải quyết

khiếu nại, tố cáo, tranh chấp trong đó có TCĐĐ. Hội đồng tư vấn có trách

nhiệm cung cấp giấy tờ hồ sơ, chứng cứ liên quan cho Tòa án, Viện kiểm sát

làm rõ nội dung các vụ án tranh chấp. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, phối

hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành trong giải quyết KN,TC, khắc phục tình

trạng chuyển đơn thư của công dân lòng vòng hoặc chậm giải quyết, né tránh

trách nhiệm. Thường xuyên kiểm tra, thanh tra, phát hiện, chấn chỉnh những

yếu kém, vi phạm trong thực hiện các quy định về giao đất, cho thuê đất, cho

phép chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

khi Nhà nước thu hồi đất, trong giải quyết các thủ tục hành chính về đất đai. Đề

nghị quy định rõ cơ quan, người có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính

về đất đai phải chịu trách nhiệm về tính đúng đắn của quyết định ban hành, có

trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra để xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh trong quá

trình thực hiện các quyết định hành chính liên quan đến đất đai.

3.2.2.4. Giải pháp củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng nguồn

nhân lực trong công tác giải quyết tranh chấp đất đai

Hồ Chủ tịch đã từng nói rằng: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”,

“muôn việc tốt thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Do vậy,

70

việc nâng cao năng lực, trình độ cho đội ngũ cán bộ quản lý đất đai, đặc biệt

là đội ngũ cán bộ GQTCĐĐ là một trong những khâu then chốt để bảo đảm

công tác giải quyết các TCĐĐ đạt hiệu quả cao. Chúng tôi xin đề xuất những

giải pháp như sau:

- Củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác GQTCĐĐ các cấp:

cán bộ công chức Thanh tra các cấp, công chức thanh tra Tài nguyên và Môi

trường các cấp, công chức Phòng Tài nguyên và Môi trường, công chức địa

chính cấp xã...; nâng cao chất lượng của đội ngũ hòa giải viên cơ sở; phát huy

vai trò của Hội đồng tư vấn cấp xã gồm các thành phần Ủy ban Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận ở xã trong việc thực hiện hòa

giải và GQTCĐĐ.

- Tổ chức các khóa bồi dưỡng về kiến thức pháp luật đất đai, kỹ năng

nghiệp vụ trong việc giải quyết các TCĐĐ, như: bồi dưỡng, tập huấn các kiến

thức pháp luật mới về đất đai; tập huấn kỹ năng thu thập chứng cứ, hồ sơ,

giấy tờ, lấy ý kiến của các cấp chính quyền, đoàn thể...; bồi dưỡng, tập huấn

khả năng phân tích, tổng hợp các chứng cứ, tài liệu, hồ sơ hiện có; bồi dưỡng

kỹ năng vận dụng, áp dụng các quy định pháp luật vào từng tình huống,

trường hợp cụ thể để có thể giải quyết vụ việc TCĐĐ đạt hiệu quả. Việc đào

tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ cho đội ngũ làm công tác

GQTCĐĐ phải được thực hiện thường xuyên, liên tục, mang tính ứng dụng,

sát thực tiễn; kết hợp chặt chẽ giữa trang bị kiến thức lý luận và rèn luyện kỹ

năng thực hành... Đặc biệt, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ phải đạt được mục

tiêu chuyên môn hóa, đó là đội ngũ chuyên gia có đầy đủ năng lực và phẩm

chất để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

- Thường xuyên cung cấp cho lực lượng làm công tác GQTCĐĐ các tài

liệu, thông tin pháp luật, tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ GQTCĐĐ.

- Tổ chức cuộc giao lưu tìm hiểu pháp luật để giúp lực lượng làm công

tác GQTCĐĐ nâng cao hiểu biết pháp luật phục vụ công tác chuyên môn, trao

71

đổi kinh nghiệm trong thực hiện công tác GQTCĐĐ.

- Phối hợp với các ngành có liên quan, đặc biệt là với Ủy ban Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể các cấp trong việc xây dựng các mô

hình, cơ chế phối hợp nhằm nâng cao kiến thức pháp luật và kỹ năng hòa giải

TCĐĐ cho lực lượng hòa giải viên cơ sở của các hội đoàn thể góp phần tích

cực vào việc hòa giải thành công những mâu thuẫn, xích mích, bất đồng trong

lĩnh vực đất đai tại cơ sở.

- Cùng với việc nâng cao trình độ , năng lưc ̣ của cán bộ, công chức làm

công tác GQTCĐĐ thì việc đềcao yếu tốđạo đức cóýnghiã rất cơ bản, quan

trọng. Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác giải quyết tranh chấp cần phải

có các chuẩn mực đạo đức nhất định để thông qua đó mới tự rèn luyện và

khép minh̀ vào khuôn khổ, tránh tình trạng có hành vi vụ lợi trong quản lý, sử

dụng đất đai; nhũng nhiễu, thiếu công tâm trong GQTCĐĐ.

3.2.2.5. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đất đai

GQTCĐĐ là nội dung không thể thiếu của công tác quản lý nhà nước

về đất đai, do vậy, để tăng cường hiệu quả công tác GQTCĐĐ thông qua các

cơ quan hành chính nhà nước cần gắn với việc nâng cao hiệu quả công tác

quản lý nhà nước đối với đất đai. Luận văn đề xuất một số giải pháp nâng cao

hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với đất đai sau:

Cần làm tốt công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng, công tác quy hoạch

sử dụng đất phải đi trước một bước trong việc xác định mặt bằng sử dụng, tạo

điều kiện cho các cơ quan GQTCĐĐ có căn cứ để phân định đất tranh chấp

có thuộc diện quy hoạch hay không để có được những quyết định giải quyết

đúng pháp luật.

Đẩy mạnh hoạt động cấp GCNQSDĐ theo bản đồ địa chính, trích đo

địa chính có tọa độ. Xây dựng bản đồ địa chính, hồ sơ địa chính và cơ sở dữ

liệu đất đai một cách có hệ thống, bảo đảm tiêu chuẩn hiện đại hóa đáp ứng

72

nhu cầu quản lý đất đai hiện nay.

Cần hoàn chỉnh cơ chế quản lý giá đất, xây dựng hệ thống theo dõi giá

đất trên thị trường; ban hành quy trình định giá đất, thẩm định giá đất để xác

định giá đất hợp lý cho việc giải quyết các trường hợp trong quản lý và sử

dụng đất đai.

3.2.2.6. Giải pháp nâng cao trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước

có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai

Một là, cơ quan hành chính Nhà nước theo thẩm quyền chủ động xem

xét từng vụ việc TCĐĐ trong phạm vi quản lý để giải quyết kịp thời, dứt

điểm, công bố công khai kết quả GQTCĐĐ, không để khiếu kiện vượt cấp,

diễn biến phức tạp, khiếu kiện đông người.

Hai là, quy định cụ thể cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền

phải chịu trách nhiệm về tính đúng đắn của quyết định GQTCĐĐ ban hành,

có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra để xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh

trong quá trình thực hiện các quyết định GQTCĐĐ.

Ba là, cơ quan hành chính nhà nước cần tăng cường công tác đối thoại,

hòa giải khi GQTCĐĐ để giảm bớt áp lực và quá tải số lượng lớn đơn thư đề

nghị GQTCĐĐ như hiện nay. Trong quá trình giải quyết cơ quan hành chính

nhà nước cần tổ chức các hội nghị tham vấn các vụ việc TCĐĐ nhằm ban

hành quyết định giải quyết tranh chấp phù hợp, đảm bảo quyền lợi chính đáng

của người dân.

Đặc biệt, một trong những trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà

nước có thẩm quyền là phải tập trung xử lý dứt điểm các vụ việc TCĐĐ tồn

đọng và hạn chế việc phát sinh các vụ TCĐĐ mới. Do vậy: Để xử lý dứt điểm

các vụ việc tranh chấp đang tồn đọng thì cần chỉ đạo cơ quan chuyên môn

quản lý đất đai, GQTCĐĐ ở từng cấp phối hợp rà soát các vụ việc hiện có,

tập trung giải quyết dứt điểm những vụ TCĐĐ chưa giải quyết và những vụ

73

TCĐĐ đã giải quyết nhưng chưa phù hợp với pháp luật và tình hình thực tế.

Xử lý nghiêm khắc người có thẩm quyền, có trách nhiệm giải quyết nhưng đã

không GQTCĐĐ, dẫn tới đơn thư vượt cấp; xử lý trách nhiệm người đứng

đầu cơ quan, địa phương có nhiều đơn, thư tồn đọng hoặc có nhiều vụ việc

TCĐĐ chưa được giải quyết cần xem xét. Đối với những vụ việc TCĐĐ đã

được các cơ quan hành chính nhà nước giải quyết đúng pháp luật và đã vận

dụng pháp luật phù hợp với thực tế mà các bên tranh chấp vẫn không đồng ý

thì tổ chức đối thoại để thuyết phục các bên tranh chấp chấp hành. Trường

hợp các bên tranh chấp vẫn cố tình không chấp hành và có hành động kích

động, gây rối thì cần áp dụng các biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.

Để hạn chế việc phát sinh các vụ TCĐĐ mới thì cần nâng cao hiệu quả

công tác quản lý và sử dụng đất của cơ quan hành chính nhà nước trong đó

tập trung xây dựng hồ sơ địa chính hoàn chỉnh, kịp thời theo dõi biến động

đất đai, quản lý tốt các sổ sách, bản đồ địa chính và tư liệu có liên quan; xây

dựng một hệ thống quản lý khoa học bảo đảm đầy đủ cơ sở pháp luật và dữ

liệu pháp lý giúp cho quá trình quản lý đất đai đạt hiệu quả; đẩy nhanh tiến độ

cấp GCNQSDĐ; tăng cường thanh tra, kiểm tra, chấn chỉnh những yếu kém,

xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật các trường hợp vi phạm nhằm

tạo niềm tin trong nhân dân đối với các cấp chính quyền trong lĩnh vực quản

lý đất đai. Bên cạnh đó, cũng cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến,

giáo dục pháp luật đất đai để nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật

đất đai trong nhân dân. Tăng cường thực hiện tốt công tác hòa giải các TCĐĐ

tại cơ sở nhằm hóa giải những mâu thuẫn, bất đồng trong lĩnh vực đất đai, giữ

74

gìn đoàn kết nội bộ trong nhân dân, phòng ngừa các TCĐĐ phát sinh mới.

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về pháp luật GQTCĐĐ, thực trạng pháp

luật về GQTCĐĐ và thực tiễn áp dụng trong xét xử tại TAND huyện Vân Đồn,

tỉnh Quảng Ninh. Nhận thức được vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc

GQTCĐĐ, luận văn đã hệ thống hóa, phân tích các quy định của phápluật về

tranh chấp đất đai và GQTCĐĐ, đánh giá thực trạng của việc vận dụng các quy

định pháp luật hiện hành về GQTCĐĐ trên địa bàn huyện Vân Đồn, qua đó đã

chỉ ra một số những tồn tại, bất cập của các quy định pháp luật về đất đai; trên

cơ sở đó luận văn đã đóng góp một số các giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu

quả công tác GQTCĐĐ thông qua cơ quan hành chính nhà nước. Đề đã đưa ra

các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về GQTCĐĐ và nâng cao

hiệu quả giải quyết các TCĐĐ thì trong thời gian tới cần tiến hành đồng bộ các

giải pháp: tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách,

pháp luật đất đai; thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ,

kiến thức và kỹ năng GQTCĐĐ cho đội ngũ cán bộ TAND nói chung và các

Thẩm phán nói riêng. Đồng thời, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

75

nâng cao ý thức chấp hành pháp luật đất đai cho người dân...

KẾT LUẬN

Trước bối cảnh tác động của cơ chế thị trường, cả nước thời gian qua

đã xuất hiện nhiều tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về TCĐĐ, gây nên những tác

động xấu đến xã hội, làm mất niềm tin của người dân vào cơ quan công

quyền. Có thể nói giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai

trong giai đoạn vừa qua đã có những kết quả tích cực, nhưng vẫn còn nhiều

tồn tại, hạn chế. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật và đổi mới cơ chế giải quyết

tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai, đòi hỏi phải có nhiều giải pháp

đồng bộ, kịp thời và đặt trong mối quan phụ thuộc, tác động lẫn nhau như:

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; đổi mới tư duy nhận thức về tranh chấp

hành chính và giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai đối với

cả cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước và toàn

thể nhân dân; tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật

để nâng cao nhận thức, hiểu biết về pháp luật cho nhân dân để họ thực hiện

quyền khiếu nại, khởi kiện đúng quy định của pháp luật; bảo đảm cơ sở vật

chất cho công tác giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai và

các giải pháp hỗ trợ khác. Hiện nay, TCĐĐ đã diễn ra ở hầu hết các địa

phương trong cả nước. Do đó, vấn đề GQTCĐĐ đóng vai trò rất quan trọng,

việc xác lập một cơ chế GQTCĐĐ thích hợp, dứt điểm, nhanh chóng góp

phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế và duy trì sự bình ổn xã hội.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, trong những năm gần đây kết quả

GQTCĐĐ chưa cao xuất phát từ nhiều nguyên nhân, một phần là do Luật và

các văn bản dưới Luật điều chỉnh lĩnh vực này còn thiếu, yếu chưa đáp ứng

được sự đòi hỏi cấp thiết, tính phức tạp của lĩnh vực đất đai; một phần là do

cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính thực hiện chức năng quản lý lĩnh

vực đất đai và đội ngũ cán bộ làm công tác GQTCĐĐ còn có những hạn chế,

76

thiếu sót nhất định về năng lực, trình độ và những tiêu cực khác nên thực

trạng công tác quản lý lĩnh vực đất đai từ Trung ương, đến địa phương vẫn

còn xảy ra những bất cập và hạn chế.

Khi nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn thông qua việc phân tích,

đánh giá các quy định pháp luật đất đai hiện hành về GQTCĐĐ; một số tồn

tại, vướng mắc trong việc GQTCĐĐ thông qua con đường hành chính sẽ là cơ

sở để đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm xác lập cơ chế GQTCĐĐ hiệu

quả trong thời gian tới.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do còn hạn chế về mặt lý luận và

thực tiễn nên học viên không thể đi sâu phân tích, đánh giá một cách toàn

diện, đầy đủ, khách quan các khía cạnh về lý luận và thực tiễn áp dụng pháp

luật về giải quyết tranh chấp trên địa bàn huyện nơi tôi công tác. Bên cạnh đó,

luận văn cũng không tránh khỏi những khiếm khuyết, sai sót về mặt nội dung

và hình thức trình bày. Do đó, tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng

góp, nhận xét từ Hội đồng chấm luận văn, các thầy cô và đồng nghiệp để đề

77

tài được hoàn thiện hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thanh Bình (2015), Trình tự thủ tục GQTCĐĐ, Tài nguyên- môi

trường, Bộ Tài nguyên môi trường, số 10 (216)/2015, tr. 30-312.

2. Bộ Công an (2008), Quyết định 1501/2008/QĐ-BCA Quy trình hỗ trợ

cưỡng chế thi hành án dân sự của lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ

tư pháp

3. Bộ Tư pháp, TAND tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2016),

Thông tư liên tịch 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Quy định

vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi

hành án dân sự (Hiệu lực 30/9/2016)

4. Nguyễn Thị Quỳnh Chi (2018), Vướng mắc và giải pháp phân định

thẩm quyền GQTCĐĐ, Tài nguyên môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi

trường, số 11(145), tr. 17-1815.

5. Chính phủ (2014), Nghị định số 43/2014/NĐ-CP Quy định chi tiết thi

hành một số điều của Luật Đất đai năm 2013, Hà Nội.

6. Nguyễn Vĩnh Diện (2013), Một số điểm mới về GQTCĐĐ theo Luật

Đất đai năm 2013, Dân chủ & Pháp luật, Bộ tư pháp, số 11(272), tr.

37-398.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Các Nghị quyết của Trung ương

Đảng 2001 - 2004, (Sách phục vụ thảo luận các dự án văn kiện Đại hội

X), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban

Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Nguyễn Thành Đoàn (2009), GQTCĐĐ theo thủ tục hành chính trong

vùng đồng bào dân tộc trên địa bàn tỉnh An Giang, luận văn thạc sĩ luật

78

học, Trường Đại học Luật TP.HCM.

10. Đỗ Thị Hằng (2013), Những bất cập về hòa giải cơ sở trong GQTCĐĐ

theo Luật Đất đai 2013, Thanh tra, Thanh tra chính phủ số 05/2016, tr.

20-236.

11. Ninh Thị Hiền (2016), Vai trò của Tòa án trong hoạt động điều phối

quyền sử dụng đất tại Việt Nam, Tạp chí TAND số 21/2016.

12. Nguyễn Thị Thu Hiền (2012), Pháp luật về giao đất, cho thuê đất, thu

hồi đất đối với doanh nghiệp ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học,

Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.

13. Nguyễn Thúy Hiền (2006), Pháp luật về bất động sản và các ngiải pháp

hoàn thiện, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật - số chuyên đề về bất động

sản, Hà Nội.

14. Phan Trung Hiền (2015), Báo cáo các vấn đề về Luật Đất đai, Bài báo

cáo tại Hội thảo: “Lấy ý kiến đóng góp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc

trong quá trình thi hành Luật Đất đai năm 2013”, Khoa Luật - Đại học

Cần Thơ.

15. Nguyễn Thu Hoài (2016), Đánh giá thực trạng tình hình giao đất, cho

thuê đất đối với tổ chức kinh tế trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, Khoa Luật,

Đại học quốc gia Hà Nội.

16. Hội đồng thẩm pháp TAND tối cao (2004), Nghị quyết 02/2004/NQ-

HĐTP hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án

dân sự, Hà Nội.

17. Hội đồng thẩm pháp TAND tối cao (2006), Nghị quyết số 05/2006/NQ-

HĐTP ngày 04/08/2006 của Hội đồng thẩm phán – Toà án nhân dân

Tối cao, Hà Nội.

18. Hội đồng thẩm pháp TAND tối cao (2012), Nghị quyết của

HĐTPTANDTC số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 hướng dẫn thi

79

hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại

tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật

sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS, Hà Nội.

19. Hội đồng thẩm pháp TAND tối cao (2016), Nghị quyết 02/2016/NQ-

HĐTP hướng dẫn thi hành quy định của Nghị quyết 103/2015/QH13 về

thi hành Bộ luật tố tụng dân sự (Hiệu lực 01/08/2016)

20. Tưởng Duy Lượng (2001), Bình luận một số vụ án về TCĐĐ, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Nguyễn Thị Xuân Ngọc (2013), Liên ngành tư pháp trung ương cần

sớm có văn bản hướng dẫn GQTCĐĐ liên quan đến hộ gia đình, Kiểm

sát, viện kiểm sát nhân dân tối cao, số 23/2013, tr 43-4512.

22. Phan Hồng Nguyên (2015), Công nhận kết quả hòa giải thành ngoài tòa

án trong Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Dân chủ & Pháp luật, Bộ

Tư pháp, Số 10 (295)/2016, tr. 38 - 41.

23. Doãn Hồng Nhung (2017), Những bất cập trong GQTCĐĐ và nhà ở tại

tòa án, Tài nguyên môi trường, Bộ Tài nguyên Môi trường, số 3(137),

tr. 20-2214.

24. Nguyễn Thị Hồng Nhung (2012), Pháp luật về chuyển nhượng quyền

sử dụng đất trong kinh doanh bất động sản,Luận án tiến sĩ luật học,

Đại học Luật Hà Nội.

25. Mai Thị Tú Oanh (2013), TCĐĐ và GQTCĐĐ bằng tòa án ở nước ta,

Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam

26. Đặng Thị Phượng (2013), Thẩm quyền GQTCĐĐ của Tòa án theo Luật

Đất năm 2013, TAND, TAND tối cao, số 6/2014 trang 11-1611.

27. Quốc hội (1992), Hiến pháp năm 1992, Hà Nội.

28. Quốc hội (2005), Luật đất đai số 13/2003/QH11, Hà Nội.

29. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11, Hà Nội.

80

30. Quốc hội (2005), Bộ luật tố tụng dân sự số 24/2004/QH11, Hà Nội.

31. Quốc hội (2009), Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12, ngày 27/02/2009

về án phí, lệ phí tòa án, Hà Nội.

32. Quốc hội (2013), Luật đất đai số 45/2013/QH13, Hà Nội.

33. Quốc hội (2014), Luật tổ chức TAND số 62/2014/QH13, Hà Nội.

34. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13, Hà Nội.

35. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, Hà Nội.

36. Quốc hội (2015), Nghị quyết 103/2015/QH13 về thi hành Bộ luật tố

tụng dân sự, Hà Nội.

37. Thân Văn Tài, Nguyễn Phi Yến (2016), Giá trị pháp lý của Giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam, Tạp chí khoa học

pháp lý, Số 96, tr 47, Hà Nội.

38. TAND Tối cao (2002), Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu

quả giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất tại Toà án nhân

dân, tr. 25-26-27 – Đề tài ghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội.

39. TAND tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2016), Thông tư liên

tịch 02/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC quy định việc phối hợp giữa

Viện kiểm sát nhân dân và TAND trong việc thi hành quy định của Bộ

luật tố tụng dân sự, Hà Nội.

40. TAND huyện Vân Đồn (2018), Báo cáo kết quả xét xử các năm 2014-

2018, Vân Đồn.

41. Nguyễn Quang Tuyến, Nguyễn Vinh Diện (2014), Một số điểm mới về

GQTCĐĐ theo Luật đất đai 2013, Dân chủ & Pháp luật, số 11(272), tr.

37-3919.

42. Lưu Quốc Thái (2016), Những vấn đề pháp lý về thị trường quyền sử

81

dụng đất Việt Nam, Nxb Hồng Đức, TP. Hồ Chí Minh.

43. Lưu Quốc Thái (2016), Bàn về thẩm quyền, thủ tục GQTCĐĐ tại cơ

quan hành chính, Khoa học pháp lý, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí

Minh, số 05(90)/2016, tr 31-3613.

44. Thủ tướng (2012), Quyết định 41/2012/QĐ-TTg về chế độ bồi dưỡng đối

với người tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết việc dân sự, Hà Nội.

45. Nguyễn Thị Thu Thủy (2014), Một số vấn đề về chuyển nhượng quyền

sử dụng đất ở theo quy định của pháp luật Việt nam, luận văn thạc sĩ

luật học, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam.

46. Vũ Thị Thanh Thủy (2016), Pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng quyền

sử dụng đất từ thực tiễn tỉnh Hải Dương, Viện Đại học Mở Hà Nội.

47. Nguyễn Thùy Trang (2016), Quyền sử dụng đất - Một số quan điểm

tiếp cận và đề xuất hướng giải quyết trong khoa học pháp lý của Việt

Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 98, tr. 57 - 64, Hà Nội.

48. Đỗ Xuân Trọng (2013), Vấn đề hòa giải trong GQTCĐĐ, Tài nguyên

môi trường, Bộ Tài nguyên môi trường, số 10 (168)/2013, tr. 17-193.

49. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật Đất đai, Nxb.Tư

pháp, Hà Nội

50. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Luật tố tụng dân sự,

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

51. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Từ điển Giải thích Thuật ngữ luật

học (Luật Đất đai, Luật Lao động, Tư pháp quốc tế, Nxb Công an nhân

dân, Hà Nội.

52. Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình luật đất đai, Nhà xuất

bản công an Nhân Dân.

53. UBND huyện Vân Đồn (2014), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -

82

xã hội huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030, Quảng Ninh.

54. UBND huyện Vân Đồn (2006), Quyết định số 429b/QĐ-UBND ngày

06/1/2006 về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, Quảng Ninh.

55. UBND huyện Vân Đồn (2011), Quyết định số 21/QĐ- UBND ngày

21/2/2011 về việc GQTCĐĐ, Quảng Ninh.

56. UBND huyện Vân Đồn (2016), Báo cáo số 221/BC-UBND ngày

23/9/2016 của UBND huyện về kết quả công tác tiếp nhận đơn thư, giải

quyết khiếu nại, tố cáo giai đoạn 2011 - 2015, Quảng Ninh.

57. UBND huyện Vân Đồn (2018), Báo cáo số 197/BC-UBND ngày

02/10/2018 về kết quả công tác tiếp nhận đơn thư, giải quyết khiếu nại,

tố cáo năm 2017, Quảng Ninh.

58. UBND huyện Vân Đồn (2018), Công văn số 530/UBND-TNMT ngày

03/6/2018 về việc trả lời đơn khiếu nại, Quảng Ninh.

59. UBND huyện Vân Đồn (2018), Báo cáo số 164/BC-UBND ngày

28/9/2018 của UBND huyện về kết quả công tác tiếp nhận đơn thư, giải

quyết khiếu nại, tố cáo năm 2018, Quảng Ninh.

60. UBND huyện Vân Đồn (2018), Báo cáo số 269/BC-UBND ngày

27/11/2018 về kết quả công tác quản lý, sử dụng đất đai giai đoạn 2016

- 2018, Quảng Ninh.

61. UBND huyện Vân Đồn (2019), Báo cáo số 530/UBND-TNMT ngày

03/01/2019 về những tồn tại, vướng mắc khi thi hành quyết định có

hiệu lực pháp luật, Quảng Ninh.

62. UBND tỉnh Quảng Ninh (2011), Quyết định số 4045/QĐ-UBND ngày

31/8/2011 công bố thủ tục hành chính đang thực hiện tại cấp huyện

trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Quảng Ninh.

63. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2001), Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb.

83

Giáo dục, Hà Nội.