VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN HUY HÙNG PHONG
HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI - NĂM 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN HUY HÙNG PHONG
HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐẶNG VŨ HUÂN
HÀ NỘI, NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là Luận văn do tôi tự nghiên cứu. Những số liệu
thống kê và trích dẫn trong luận văn là trung thực đảm bảo tính khách quan
và phù hợp với tình hình thực tiễn. Những kết luận khoa học của luận văn là
do tôi tự nghiên cứu rút ra và kế thừa những công trình nghiên cứu trước đó.
Tôi đã hoàn thành chương trình các môn học và các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Học viện khoa học xã hội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị khoa Luật Học viện khoa học xã
hội xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
TÁC GIẢ
TRẦN HUY HÙNG PHONG
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬTVỀ HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN ..................................................................................................................... 13
1.1. Một số vấn đề về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai ..................... 13
1.2. Một số vấn đề về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân ............................................................................................................... 21
Kết luận chương 1 .............................................................................................. 33
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐÁT ĐAI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ......................................................................... 34
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân .................................................................................. 34
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh ....................... 47
Kết luận chương 2 .............................................................................................. 65
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM ........ 67
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân ở Việt Nam ...................................................................................................................... 67
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân ở Việt Nam ... 72
Kết luận chương 3 .............................................................................................. 77
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 80
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
- TAND : Tòa án nhân dân
- TA : Tòa án
- VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
- UBND : Ủy ban nhân dân
- GCNQSDĐ : Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
- BLDS : Bộ luật Dân sự
- BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự
- LĐĐ : Luật Đất đai
- LNƠ : Luật Nhà ở
- LKDBĐS : Luật Kinh doanh bất động sản
- VBQPPL : Văn bản quy phạm pháp luật
- BTP : Bộ Tư pháp
- GCN : Giấy chứng nhận
- TTLT : Thông tư liên tịch
- QĐ : Quyết định
- GQTC : Giải quyết tranh chấp
- HĐXX : Hội đồng xét xử
DANH MỤC BẢNG THỐNG KÊ, BIỂU ĐỒ
Bảng 1: Bảng số liệu thống kê công tác giải quyết các tranh chấp tại
Tòa án nhân dân quận Bình Tân từ 2015-2019;
Bảng 2: Bảng số liệu thống kê các tranh chấp đất đai được hòa giải ở
cấp sơ thẩm tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân từ 2015-2019;
Bảng 3: Bảng thống kê kết quả hòa giải các tranh chấp đất đại ở cấp sơ
thẩm tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân từ 2015-2019;
Bảng 4: Bảng số liệu thống kê số vụ án tranh chấp đất đai được Tòa án
nhân dân quận Bình Tân xét xử sơ thẩm từ 2015-2019;
Bảng 5: Bảng thống kê số vụ tranh chấp đất đai có kháng cáo, kháng
nghị tại quận Bình Tân từ 2015-2019.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong những năm gần đây, tranh chấp đất đai là một trong những tranh
chấp xảy ra phổ biến, rất phức tạp và gay gắt, mà hậu quả khi xảy ra tác động
xấu đến các mối quan hệ trong xã hội như: từ huyết thống, hôn nhân gia đình
và tình làng nghĩa xóm cho đến xã hội nó còn gây mất trật tự và an toàn xã
hội. Rất khó để hạn chế tranh chấp, khi tranh chấp xảy ra rồi thì làm thế nào
để hóa giải tranh các chấp đó là vấn đề được nhiều cá nhân cũng như các cơ
quan có thẩm quyền quan tâm. Hòa giải là một trong những biện pháp hữu
hiệu để giải quyết tranh chấp đất đai, tuy nhiên, pháp luật về hòa giải đối với
tranh chấp đất đai hiện nay chưa có sự thống nhất, chưa có quy định cụ thể, từ
đó, gây khó khăn cho việc giải quyết tranh chấp đất đai trên thực tế. Việc giải
thích hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền cũng chưa đầy đủ và kịp
thời, vẫn còn có những thẩm phán chưa xác định đúng vị trí, vai trò, ý nghĩa
của hòa giải trong tố tụng dân sự; chưa coi trọng đúng mức công tác hòa giải;
kinh nghiệm, kỹ năng, phương pháp hòa giải còn có những hạn chế, thiếu
hiệu quả; công tác tập huấn, đào tạo chuyên sâu về kỹ năng hòa giải
chưa được tổ chức thường xuyên v.v...Vì vậy, việc hòa giải tranh chấp đất đai
của Tòa án nhân dân (TAND) trong những năm qua vừa không thống nhất,
vừa không đạt hiệu quả cao. Có nhiều vụ án vì hòa giải mà kéo dài trong
nhiều năm, khiếu kiện kéo dài và làm giảm lòng tin của người dân đối với
đường lối chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Hòa giải tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân là một giai đoạn của
quá trình tố tụng dân sự và đồng thời là phương thức giải quyết tranh chấp đất
đai có hiệu quả mà không cần phải thực hiện việc xét xử. Về bản chất, nó là
biện pháp hòa giải nhưng do thẩm phán trực tiếp thực hiện và được bảo đảm
thực thi như một quyết định của Tòa án. Ở giai đoạn hiện nay, khi đời sống,
kinh tế, xã hội ngày càng phát triển sẽ kéo theo nhiều tranh chấp, phức tạp
phát sinh trên nhiều lĩnh vực, trong đó tranh chấp đất đai là một điển hình.
Thực trạng này đòi hỏi hệ thống pháp luật áp dụng giải quyết cần phảiđược bổ
sung và hoàn thiện. Vì vậy, đặt vấn đề nghiên cứu các quy định pháp luật về
hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai và thực trạng giải quyết tranh chấp
đất đai thông qua hòa giải tại Tòa án nhân dân để đề xuất những giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích cho công dân là vấn đề
có tính cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Hòa giải trong
giải quyết tranh chấp đất đai từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân quận Bình
Tân, thành phố Hồ Chí Minh”làm Luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Qua tìm hiểu và xuất phát từ nhu cầu thực tế để giải quyết tranh chấp
đất đai, trong thời gian qua đã có một số tác giả có các công trình nghiên cứu
khoa học đề cập và nghiên cứu về hòa giải tranh chấp đất đai. Cụ thể:Các
công trình nghiên cứu, khóa luận, luận văn, luận án chuyên đề như:
Sách chuyên khảo “Hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt
Nam hiện nay ” do TS. Phạm Thị Hương Lan biên soạn;
Luận án Tiến sĩ luật học“Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam - Cơ sở lý luận và thực tiễn”, của tác giả Trần Văn Quảng, Đại
học Luật Hà Nội, năm 2008;
Luận văn Thạc sĩ luật học “Hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất
đai” của tác giả Nguyễn Thị Hảo, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm
2014;
Khóa luận tốt nghiệp Đại học “ Đánh giá thực trạng công tác giải
quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn huyện Tủa Chùa, tỉnh Điện Biên giai
đoạn 2012-2014” của tác giả Mùa A Tùng, Đại học Nông lâm – Đại học Thái
Nguyên, năm 2015;
Luận văn thạc sĩ luật học “ Pháp luật hòa giải trong giải quyết tranh
chấp đất đai từ thực tiễn huyện Chương Mỹ” của tác giả Nguyễn Văn Hoàng,
Học viện khoa học xã hội năm 2017;
Luận án Tiến sĩ luật học “Hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai
ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Phạm Thị Hương Lan, Học viện Khoa học
Xã hội, năm 2017;
Luận văn Thạc sĩ luật học “ Hòa giải tranh chấp đất đai tại cấp chính
quyền cơ sở từ thực tiễn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội” của tác giả Đỗ
Hải Long, Học viện Khoa học Xã hội, năm 2018;
Luận văn thạc sĩ luật học “ Thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất từ thực tiễn huyện Eahleo, tỉnh Đăk Lăk”, của tác giả Phan Thanh Tùng,
Học viện Khoa học Xã hội, năm 2019.
Các công trình nghiên cứu trên đã giải quyết và tiếp cận ở nhiều khía
cạnh và góc nhìn khác nhau về hòa giải nói chung và hòa giải trong giải quyết
tranh chấp đất đai nói riêng. Vấn đề đặt ra trong đề tài tuy không mới, nhưng
trong thực tế hiện nay, khi mà LĐĐ2013, BLTTDS 2015 và Quốc hội vừa
thông qua Luật Hòa giải, đối thoại tại TAcó những quy định về hòa giải nói
chung và hòa giải tranh chấp đất đai nói riêng, thì việc tiếp tục nghiên cứu
nhằm làm sáng tỏ dưới góc độ lý luận và thực tiễn hòa giải tranh chấp đất đai
và hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại TA trong điều kiện có sự ra
đời của những chế định mới là rất cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại TAND,
từ đó, đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại TAND cấp sơ thẩm ở Việt
Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu ở trên, luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận pháp luật về hòa giải trong giải
quyết tranh chấp đất đai tại TAND;
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh
chấp đất đai tại TAND cấp sơ thẩm và đánh giá thực trạng thi hành chế định
pháp luật này tại TAND quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh;
- Đưa ra định hướng và giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp
đất đai tại TAND cấp sơ thẩm từ thực tiễn TAND quận Bình Tân, thành phố
Hồ Chí Minh.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượngnghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận và thực tiễn
pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đaitại TAND; các quy
định pháp luật của Việt Nam hiện hành về hòa giải trong giải quyết tranh chấp
đất đai tại TAND; thực tiễn thi hành pháp luật về hòa giải trong giải quyết
tranh chấp đất đai tại TAND quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, Luận văn đi sâu nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực tiễn
pháp luật và thực tiễn tổ chức hoạt động hòa giải trong giải quyết tranh chấp
đất đai tại TAND cấp sơ thẩm qua thực tiễn của TAND quận Bình Tân, thành
phố Hồ Chí Minh. Từ đó mở rộng phạm vi nghiên cứu hoạt động hòa giải các
tranh chấp đất đai tại TAND các cấp trên phạm vi cả nước. Các vấn đề liên
quan đến lý luận về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai nói chung chỉ
là tiền đề hoặc có tính chất tham khảo và so sánh để làm sáng tỏ nội dung
nghiên cứu nội hàm đề tài luận văn.
Về không gian và thời gian, Luận văn nghiên cứu và đánh giá thực
trạng pháp luật kể từ khi LĐĐ 2013 và BLTTDS 2015 có hiệu lực thi hành và
thực tiễn thi hành pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại
TAND nói chung và TAND quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh nói
riêng.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin; tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và Pháp luật; đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về
vấn đề đất đai trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp phân tích, luận giải, bình luận,… được sử dụng trong
Chương 1 khi nghiên cứu cơ sở lý luận pháp luật về hòa giải trong giải quyết
tranh chấp đất đai tại TAND cấp sơ thẩm;
- Phương pháp phân tích, đánh giá, diễn giải, so sánh, tổng hợp, quy
nạp… được sử dụng trong Chương 2 khi nghiên cứu thực trạng pháp luật hiện
hành và thực tiễn thi hành pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp
đất đai tại TAND quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh.
- Phương pháp bình luận, tổng hợp… được sử dụng trong Chương 3 khi
nghiên cứu các định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai
tại TAND từ thực tiễn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần vào việc xây
dựng các luận cứ khoa học trong quá trình hoàn thiện những vấn đề lý luận
pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại TAND cấp sơ
thẩm ở Việt Nam hiện nay;
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần giúp chính
quyền và các cơ quan ban ngành nghiên cứu hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thi hành pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại
TAND cấp sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về hòa giải trong giải quyết
tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về hòa
giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân,
thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao
hiệu quả hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân ở
Việt Nam.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI TRONG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Một số vấn đề về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hòa giải trong giải quyết tranh
chấp đất đai
1.1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử với những chính sách, pháp luật đất đai
khác nhau, cho dù đất đai là tài sản thuộc sở hữu tư nhân, hay chỉ được giao
quyền sử dụng cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân,… thì ở nước ta, hiện tượng
tranh chấp đất đai vẫn xảy ra phổ biến, diễn biến phức tạp, ảnh hưởng xấu đến
công tác quản lý nhà nước về đất đai nói chung và việc sử dụng đất nói riêng,
gây ra nhiều bất ổn nhất định đối với đời sống kinh tế-xã hội. Nhà nước phải
ban hành nhiều quy định pháp luật để giải quyết mâu thuẩn, tranh chấp. Vậy,
tranh chấp đất đai là gì? Khái niệm này tưởng chừng đơn giản nhưng lại có
nhiều ý nghĩa trong việc phân định thẩm quyền, xác định nội dung cần giải
quyết đối với các tranh chấp đất đai trong thực tiễn hiện nay.
Trong thực tiễn xã hội hiện nay thì có rất nhiều loại tranh chấp xảy ra
như: tranh chấp dân sự, tranh chấp thương mại, tranh chấp hành
chính,…Trong quan hệ đất đai có thể phát sinh tranh chấp đất đai, tranh chấp
quyền sử dụng đất, tranh chấp quyền định đoạt đất, tranh chấp quyền sở hữu
nhà và tài sản gắng liền với đất, tranh chấp về xác định ranh giới đất, tranh
chấp giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tổ chức và tổ chức với tổ
chức,…Vì vậy, tranh chấp đất đai rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Hiện
nay có rất nhiều khái niệm liên quan đến tranh chấp đất đai, các khái niệm
này được nhìn nhận dưới nhiều góc độ, quan điểm:
Theo Từ điển tiếng Việt – Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2010, “tranh
chấp là đấu tranh, giằng co khi có ý kiến bất đồng thường là trong vấn đề
quyền lợi giữa hai bên” [39]. Theo khái niệm này, thì tranh chấp đất đai là
việc đấu tranh giằng co khi có bất đồng trong lĩnh vực đất đai liên quan đến
quyền lợi như quyền sử dụng, quyền chuyển nhượng, quyền sở hữu nhà và tài
sản gắn liền với đất,…
Theo giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội thì:“Tranh chấp đất
đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ
giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai,… các chủ thể
tranh chấp đất đai chỉ là chủ thể quản lý và sử dụng đất, không có quyền sở
hữu đối với đất đai” [31]. Còn theo giáo trình của Trường Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh ghi nhận: “Tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn
giữa các chủ thể (sử dụng đất) trong việc xác định ai là người có quyền sử
dụng đối với một hoặc những thửa đất nhất định. Tranh chấp đất đai có thể
bao hàm cả tranh chấp về địa giới các đơn vị hành chính,…”[31].
Như vậy có thể nói rằng đứng trên các quan điểm khác nhau thì khái
niệm về tranh chấp đất đai được hình thành và được diễn giải khác nhau. Vì
vậy, khái niệm tranh đất đai hiện nay rất đa dạng trong cách hiểu, quy định
pháp luật và thực tiễn đời sống.
Khoản 24 Điều 3 LĐĐ 2013 đã quy định về khái niệm tranh chấp đất
đai như sau: “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người
sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”. Có thể thấy,
khái niệm tranh chấp đất đai quy định trong LĐĐ là một khái niệm mang tính
pháp lý, bao trùm cả tranh chấp về quyền sử dụng đất, tranh chấp về tài sản
gắn liền với đất, tranh chấp về địa giới hành chính. Đất đang có tranh chấp về
tài sản gắn liền với đất, tranh chấp về địa giới hành chính. Đất đang có tranh
chấp được hiểu là loại đất mà giữa người sử dụng hợp pháp đất đó với các cá
nhân khác, với Nhà nước hoặc giữa những người sử dụng chung mảnh đất đó
với nhau đang có tranh chấp về quyền sử dụng đất, về tài sản gắn liền với đất,
về ranh giới, mục đích sử dụng đất hoặc về quyền, nghĩa vụ phát sinh trong
quá trình sử dụng đất,… Đất đang có tranh chấp cũng có thể hiểu là đất tranh
chấp giữa các chủ thể chưa xác định được chủ thể nào là người sử dụng đất
hợp pháp [19].
Ở nước ta hiện nay, đất đai là tài nguyên đặc biệt thuộc quyền sở hữu
của toàn dân, người dân chỉ có quyền sử dụng đất do Nhà nước cấp đất, giao
đất và cho thuê đất, chứ không có quyền sở hữu đối với đất. Đất đai thuộc
quyền sở hữu chung của toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Đất đai
là tài nguyên và là nguồn lực quan trọng trong phát triển đất nước, đóng vai
trò quan trọng trong an ninh quốc phòng, đảm bảo chủ quyền quốc gia và toàn
vẹn lãnh thổ. Theo quy định của LĐĐ 2013, thì đất đai thuộc sở hữu của toàn
dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao
quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Vì vậy,
tranh chấp đất đai nói chung mang tính thường xuyên và phức tạp cần phải có
sự quản lý, điều hành, giải quyết các tranh chấp phát sinh của cơ quan nhà
nước trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực
đất đai.
1.1.1.2. Khái niệm hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai
Hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai tại TA được hiểu là quá trình
giải quyết các tranh chấp đất đai tại cơ quan tiến hành tố tụng là TAND, bằng
hình thức hòa giải hoặc đưa tranh chấp ra xét xử theo quy định pháp luật. Sau
khi thụ lý vụ án, Tòa ánsẽ tiến hành mời các đương sự lên hòa giải, đây là giai
đoạn bắt buộc do Tòa án tiến hành và chủ trì. Theo đó, nếu hòa giải thành, mà
sau 07 ngày các bên không có ý kiến gì về việc này nữa thì tranh chấp chính
thức kết thúc, trường hợp nếu hòa giải không thành thì Tòa án sẽ đưa ra xét
xử. Trong quá trình xét xử, các bên vẫn được quyền thỏa thuận với nhau để có
thể giải quyết vụ án. Và vẫn có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.Điều
này khẳng định vai trò quan trọng của cơ quan tố tụng trong việc giải quyết
các tranh chấp về đất đai đảm bảo quyền tự quyết nhưng cũng phải tuân theo
quy định pháp luật. Để hiểu rõ hơn công tác hòa giải trong giải quyết tranh
chấp đất đai tại TAND, tác giả đã nghiên cứu và làm rõ các khái niệm như
sau:
Theo Từ điển tiếng Việt ghi nhận: “Hòa giải là thuyết phục các bên
tranh chấp tự giải quyết tranh chấp của mình một cách ôn hòa, việc hòa giải
được tiến hành sau khi thương lượng giữa các bên đã không đạt được kết
quả. Việc hòa giải thường được thông qua bên thứ ba gọi là bên hòa giải”
[39].
Theo Từ điển Luật học ghi nhận: “Hòa giải là sự chấm dứt việc xích
mích, tranh chấp giữa các bên bằng sự thương lượng với nhau hoặc qua sự
trung gian của một người khác. Hòa giải thành thì giữ gìn được sự đoàn kết
giữa các bên, tránh được việc kiện tụng kéo dài, tốn kém và những trường
hợp chỉ vì mâu thuẩn nhỏ mà biến thành việc hình sự”[12].
Từ cách hiểu về hòa giải, có thể thấy rằng, hòa giải tranh chấp đất đai
được hiểu theo nghĩa là hòa giải các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng
đất. Hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai là biện pháp pháp lý giải
quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, theo đó bên thứ ba độc
lập giữ vai trò trung gian trong việc giúp các bên có tranh chấp tìm kiếm
những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết các tranh chấp về quyền, lợi ích
liên quan đến quyền sử dụng đất và thương lượng với nhau về việc giải quyết
quyền lợi của mình.
1.1.1.3. Đặc điểm của hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai
Có thể nói, tranh chấp đất đai là một dạng đặc biệt của tranh chấp dân
sự, do có đối tượng của tranh chấp là quyền sử dụng đất. Do vậy, bên cạnh
những đặc điểm chung của hòa giải tranh chấp dân sự, thì việc hòa giải tranh
chấp đất đai còn có những đặc trưng riêng như đối tượng của tranh chấp gắn
liền với quyền sử dụng đất nên việc hòa giải thường phải do cơ sở hoặc Tòa
án nơi có tài sản tranh chấp tiến hành; đối tượng của tranh chấp có thể trải qua
nhiều biến động theo thời gian với các chính sách pháp luật khác nhau, do
vậy, nội dung của tranh chấp thường phức tạp, đòi hỏi người hòa giải phải
nắm vững nguồn gốc, quá trình sử dụng đất và chính sách pháp luật về đất đai
trong từng thời kỳ lịch sử. Cụ thể:
(i) Việc hòa giải được tiến hành tại địa bàn nơi có đất tranh chấp. Tranh
chấp đất đai luôn gắn liền với quyền sử dụng đất nên việc hòa giải thường
phải được tiến hành tại nơi có tài sản tranh chấp. Thông thường tổ hòa giải,
chính quyền địa phương hoặc Tòa án nơi có tranh chấp đất đai sẽ có điều kiện
tốt nhất để tìm hiểu về nguồn gốc, lịch sử và hiện trạng pháp lý cũng như thực
tế của tài sản tranh chấp. Do vậy, các chủ thể này sẽ có điều kiện tốt nhất để
tiến hành hòa giải một cách có hiệu quả.
(ii) Việc hòa giải tranh chấp đất đai phải do các chủ thể am hiểu pháp
luật về đất đai, nắm vững nguồn gốc, quá trình sử dụng đất và nguyên nhân
tranh chấp giữa các bên tiến hành. Tranh chấp đất đai thường là tranh chấp về
tài sản có giá trị lớn, quyền sử dụng có thể đã được dịch chuyển qua nhiều
chủ thể, có nguồn gốc phức tạp nên mức độ tranh chấp thường quyết liệt, do
vậy, chủ thể trung gian tiến hành hòa giải phải là người am hiểu pháp Luật
Đất đai và các ngành luật có liên quan, nắm vững nguồn gốc, quá trình sử
dụng đất và nguyên nhân tranh chấp giữa các bên.
(iii) Chủ thể tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai có thể là tổ hòa giải,
Ủy ban nhân dân (UBND) hoặc Tòa án. Tranh chấp đất đai có thể gắn với
dòng họ, những người dân trong cùng một địa phương nên để việc hòa giải có
hiệu quả thì tùy theo trường hợp mà hòa giải có thể được trao cho cộng đồng,
chính quyền địa phương hoặc cơ quan tư pháp. Vấn đề quan trọng là cần phải
thiết lập được cơ chế chuyển hóa giữa kết quả hòa giải cơ sở, chính quyền địa
phương và quyết định tư pháp do Tòa án thực hiện có giá trị cưỡng chế thi
hành.
Theo quy định của pháp luật đất đai, thì hòa giải trong giải quyết tranh
chấp đất đai là phương thức bắt buộc đầu tiên trong quá trình giải quyết tranh
chấp đất đai. Đặc biệt hòa giải tại cấp chính quyền cơ sở chính là điều kiện
tiền đề để TAND thụ lý vụ án tranh chấp đất đai. Do đó, vai trò của hòa giải
hết sức quan trọng trong quá trình giải quyết tranh chấp tại UBND và TAND.
Căn cứ quy định tại Điều 202, Luật Đất đai 2013, thì “Nhà nước
khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh
chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở”[19]. Tuy nhiên, đối với trường hợp
tranh chấp đất đai mà đương sự có giấy chứng nhận hoặc có một trong các
loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của LĐĐ 2013 gồm: Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc
có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính trước ngày 15/10/1993; giấy
tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với
đất; giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở; giấy tờ mua nhà ở
thuộc sở hữu nhà nước theo quy đinh pháp luật,…Và tranh chấp về tài sản
gắn liền với đất thì đương sự gửi đến TAND giải quyết.
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất
đai
Trong các phương thức giải quyết tranh chấp dân sự nói chung và tranh
chấp trong lĩnh vực đất đai nói riêng thì giải quyết bằng hòa giải là hiệu quả
nhất, tốt nhất, nhanh nhất và tránh lãng phí nhất. Bởi hòa giải thành sẽ chấm
dứt mâu thuẫn, xung đột hoặc xích mích, kết thúc tranh chấp sớm, ổn thỏa
cũng như sau này không có sự phản đối, khiếu nại, khiếu kiện về sau.
Hiện nay thì tranh chấp đất đai thường xuyên diễn ra, nhiều tranh chấp
hết sức phức tạp, giá trị tranh chấp lớn, nhiều vấn đề phát sinh và liên quan
đến nhiều người, nhiều tổ chức, quy trình thủ tục giải quyết thì phức tạp và có
thể kéo dài thời gian. Trong khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết
các tranh chấp đất đai thì còn nhiều khó khăn và hạn chế như: quy định tố
tụng, năng lực, trình độ chuyên môn, cơ sở vật chất, đội ngủ nhân sự hạn
chế,… Vì vậy, hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai đóng vai trò quan
trọng, đem lại nhiều hiệu quả tích cực vì:
- Hòa giải giúp gìn giữ mối gắn kết, củng cố phát huy những tình cảm
và đạo lý truyền thống tốt đẹp của gia đình, cộng đồng;
- Giúp rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp, chi phí, giảm tải áp lực
giải quyết án cho TAND trong giải quyết các tranh chấp đất đai;
- Giải quyết tranh chấp đạt hiệu quả nhất khi được sự đồng thuận của
các bên tham gia tranh chấp và tránh được những khiếu nại, khiếu kiện về
sau;
- Hòa giải có ý nghĩa rất lớn, nó làm cho những tranh chấp, xung đột,
mâu thuẫn, xích mích được dập tắt hoặc không vượt qua giới hạn sự nghiêm
trọng, giúp các bên tránh được xung đột được giải quyết bằng một hình thức
giải quyết đem lại hậu quả xấu và thiệt hại;
- Hòa giải góp phần giải quyết mâu thuẫn, điều chỉnh các mâu thuẫn
trong xã hội ổn định, góp phần bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội, góp
phần phát triển kinh tế đất nước;
- Đối với TA thì việc Hòa giải các tranh chấp đất đai giúp TA giảm bớt
được nhiều thời gian, công sức cho việc giải quyết vụ án, rút ngắn thời gian,
thủ tục, nâng cao hiệu quả công tác;
- Hòa giải tại TA giúp các đương sự hiểu biết và thông cảm với nhau
góp phần khôi phục lại tình đoàn kết, hợp tác giữa họ. Giúp họ cùng nhau giải
quyết tranh chấp trên tinh thần cởi mở, sang sẻ quyền và lợi ích. Hòa giải giúp
nâng cao ý thức pháp luật của các đương sự. Thông qua việc giải thích pháp
luật của Tòa án trong phiên hòa giải, các đương sự sẽ phần nào hiểu được quy
định của pháp luật về vấn đề mà họ đang tranh chấp. Từ đó, các bên có thể
hiểu và tự quyết định về việc giải quyết tranh chấp, không mắc sai lầm về sau;
- Hòa giả đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên tranh chấp, quyền tự
định đoạt và hướng giải quyết các tranh chấp đúng pháp luật, đúng đạo đức xã
hội.
1.1.3. Thủ tục hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai
Việc giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay thông qua hai thủ tục như
sau:
Thứ nhất là hòa giải: Các bên tranh chấp tự hòa giải với nhau, nếu hòa
giải không thành thì yêu cầu UBND cấp xã hòa giải;
+ Nếu hòa giải thành: UBND cấp xã lập biên bản hòa giải. Nếu hòa giải
mà làm thay đổi hiện trạng sử dụng đất ban đầu thì UBND cấp xã phải gửi
biên bản cho Phòng Tài nguyên & Môi trường hoặc Sở Tài nguyên & Môi
trường để được thông qua và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai mới.
+ Nếu hòa giải không thành: Đối với tranh chấp có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thì các bên yêu cầu TAND giải quyết. Còn nếu không có
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì yêu cầu UBND có thẩm quyền giải
quyết hoặc khởi kiện ra TAND theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Thứ hai là giải quyết tranh chấp: Tùy vào từng vụ việc mà sẽ do
UBND cấp huyện hay UBND cấp tỉnh giải quyết:
+ UBND cấp huyện: Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân,
cộng đồng dân cư với nhau thì chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết. Nếu
không đồng ý với quyết định thì có quyền khiếu nại đến chủ tịch UBND cấp
tỉnh hoặc khởi kiện tại TAND theo quy định pháp luật về tố tụng hành chính.
+ UBND cấp tỉnh: Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ
chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài thì chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết. Nếu không
đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên & Môi trường hoặc khởi kiện tại TAND theo quy định pháp luật về tố
tụng hành chính
Như vậy có hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai là theo thủ tục
hành chính tại UBND và theo thủ tục tố tụng dân sự tại TAND và cả hai hình
thức giải quyết này đều có quy định ưu tiên phải thông qua thủ tục hòa giải
tranh chấp đất đai. Đối với giải quyết tranh chấp đất đai bằng việc khởi kiện
ra TAND, thì TA sẽ tiến hành cho các bên hòa giải, nếu hòa giải thành TA sẽ
lập biên bản công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, còn nếu hòa giải
không thành sẽ tiến hành đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
1.2. Một số vấn đề về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai
tại Tòa án nhân dân
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của hòa giải trong giải quyết tranh
chấp đất đai tại Tòa án nhân dân
Thủ tục hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án được coi
là một thủ tục tố tụng bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp đất
đai. Hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án phải tuân theo những
nguyên tắc do pháp luật tố tụng dân sự quy định. Tại Chương II Những
nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) có quy định về hòa
giải trong tố tụng dân sự. Theo đó, hòa giải là trách nhiệm của Tòa án nhằm
giúp đỡ đương sự thỏa thuận với nhau. Theo truyền thống tố tụng dân sự ở
Việt Nam, thì hòa giải có tính bắt buộc phải tiến hành trước khi mở phiên tòa
sơ thẩm, trừ những vụ án không được tiến hành hòa giải hoặc không hòa giải
được và ở các giai đoạn tố tụng tiếp theo nếu thấy có khả năng hòa giải, thì
Tòa án cũng tiến hành hòa giải. Hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự nói
chung, trong tranh chấp đất đai nói riêng là trách nhiệm của Tòa án, được Tòa
án thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án tranh chấp đất đai, nhằm đảm
bảo cho đương sự thực hiện quyền tự định đoạt của mình. Thực hiện hòa giải
cũng là việc tận dụng tối đa cơ hội rút ngắn quá trình tố tụng, nâng cao hiệu
quả hoạt động xét xử, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời còn mang ý nghĩa xã hội
sâu sắc trong việc củng cố tình tương thân, tương ái, giữ gìn khối đoàn kết
cộng đồng. Sự có mặt của Tòa án trong hòa giải khẳng định vị trí trung gian
của Tòa án đối với việc hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai.
Đây cũng là đặc điểm riêng, là dấu hiệu để phân biệt hòa giải trong giải
quyết tranh chấp đất đai với hòa giải ngoài tố tụng và trường hợp các đương
sự tự hòa giải, cụ thể là:
+ Trong quá trình tiến hành tố tụng dân sự để giải quyết tranh chấp đất
đai, thủ tục hòa giải là do Tòa án phải chủ động tổ chức và trực tiếp tham gia
với vai trò giải thích, động viên các đương sự tự thỏa thuận. Thủ tục hòa giải
do Tòa án tiến hành cũng khác trường hợp đương sự tự thỏa thuận. Trường
hợp đương sự tự thỏa thuận là việc các bên chủ động thương lượng, thỏa
thuận mà không có sự tham gia của Tòa án.
+ Kết quả hòa giải được Thẩm phán lập biên bản, nếu các đương sự
thỏa thuận được với nhau về toàn bộ nội dung vụ án thì Thẩm phán ra quyết
định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Còn trong trường hợp các
bên tự hòa giải và không yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết thì Tòa án có thể
ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Hòa giải tranh chấp đất đai được tiến hành trên cơ sở tôn trọng quyền
định đoạt của các đương sự có tranh chấp. Mặc dù hòa giải tranh chấp đất đai
là một hoạt động do Tòa án tiến hành, nhưng về bản chất hòa giải vẫn dựa
trên cơ sở tự thỏa thuận của các đương sự. Tòa án chỉ giữ vai trò trung gian
hướng dẫn, chủ trì và ghi nhận việc hòa giải. Chỉ có các đương sự là các bên
trong quan hệ tranh chấp mới có quyền thỏa thuận, thương lượng với nhau về
tất cả những vấn đề đang cần giải quyết trong vụ tranh chấp, bởi đương sự là
những người có quyền lợi đang bị xâm hại hoặc tranh chấp. Họ là người hiểu
rõ hơn ai hết mâu thuẫn của chính họ. Khi tham gia vào quá trình hòa giải
tranh chấp đất đai, các đương sự có quyền thương lượng, thỏa thuận với nhau
để giải quyết những bất đồng về quyền lợi của mình trên cơ sở tự do, tự
nguyện ý chí, thỏa thuận. Mọi sự tác động từ bên ngoài trái với ý muốn của
các đương sự đều bị coi là trái pháp luật và không được công nhận.Trong quá
trình các bên thỏa thuận, hòa giải, Tòa án không được can thiệp vào ý chí tự
nguyện của bất kỳ bên nào hoặc cưỡng ép, bắt buộc đương sự thỏa thuận với
nhau về giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp giữa họ.
1.2.2. Bản chất pháp lý của hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất
đai tại Tòa án nhân dân
Nội dung cơ bản pháp lý của hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất
đai tại TA dựa trên cơ sở pháp lý: LĐĐ 2013; Nghị quyết 04/2017/NQ-
HĐTP; BLTTDS 2015; và Luật Hòa giải, đối thoại tại TA. Nội dung pháp lý
như sau:
Theo quy định của LĐĐ 2013 thì tranh chấp đất đai là tranh chấp
quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ
đất đai. Có rất nhiều tranh chấp liên quan đến đất đai. Tuy nhiên,theo quy
định của pháp luật, không phải tất cả các tranh chấp có liên quan đến đất đai
đều phải được hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp trước khi khởi
kiện ra TA giải quyết. Việc tiến hành hòa giải phải theo đúng quy định của
pháp luật. Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP
về điều kiện khởi kiện:Đối với tranh chấp có quyền sử dụng đất mà chưa
được hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều
202 LĐĐ 2013 thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định
tại điểm b khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015.
Theo đó, các tranh chấp mà ai là người có quyền sử dụng đất bắt buộc
phải được hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp.Các tranh chấp này
chủ yếu đến từ tranh chấp về ranh giới giữa các thửa đất liền kề, tranh chấp về
chủ sở hữu của đất có tranh chấp. Đây là thủ tục hòa giải tiền tố tụng bắt buộc
trước khi tiến hành khởi kiện ra TA để giải quyết tranh chấp. Trong trường
hợp hòa giải thành, thì UBND cấp xã có thẩm quyền lập biên bản hòa giải
thành, các bên thực hiện nghĩa vụ theo cam kết trong biên bản hòa giải thành
và tranh chấp giữa các bên sẽ kết thúc. Trong trường hợp hòa giải không
thành, UBND sẽ lập biên bản hòa giải không thành. Biên bản hòa giải không
thành được lập là căn cứ để một trong các bên nộp đơn khởi kiện đến TAND
có thẩm quyền giải quyết.
Cơ sở của hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai là quyền tự định
đoạt của các đương sự. Để giải quyết tranh chấp đất đai bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, Tòa án không chỉ xét xử mà còn có trách nhiệm
tiến hành hòa giải giữa các bên trong quan hệ tranh chấp đất đai. Điều 10 Bộ
luật Tố tụng dân sự hiện hành quy định, Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa
giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết vụ án dân sự (trong đó có tranh chấp đất đai) theo quy định của Bộ
luật này.
Hoạt động hòa giải được tiến hành trước khi xét xử sơ thẩm vụ tranh
chấp đất đai. Tuy vậy, theo các Điều 246, 278 BLTTDS thì tại phiên tòa sơ
thẩm, phúc thẩm, Tòa án cũng có trách nhiệm phải hỏi các đương sự có thỏa
thuận được với nhau về việc giải quyết vụ tranh chấp đất đai hay không? Nếu
các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ tranh chấp đất
đai, thì Toà án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Như vậy, việc hòa giải trước khi xét xử sơ thẩm là thủ tục bắt buộc, trừ
những việc không hòa giải được hoặc pháp luật quy định không được hòa giải
.Quy định này xuất phát từ tầm quan trọng của hòa giải. Nếu hòa giải thành
cũng có nghĩa là Tòa án đã hoàn thành việc giải quyết vụ tranh chấp đất
đaimà không cần mở phiên tòa.
Trong thời gian qua, Nhà nước luôn khuyến khích các bên tranh chấp
đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ
sở và hòa giải ở TAND. Hiện nay, cả nước đã thực hiện thí điểm thành lập
trung tâm hòa giải, đối thoại tại 16 tỉnh, thành phố và đã đem lại nhiều hiệu
quả trong công tác giải quyết tranh chấp, giảm áp lực cho TA. Theo đề án thí
điểm, trung tâm hòa giải đối thoại có nhiệm vụ thực hiện hòa giải các tranh
chấp dân sự, kinh doanh, thương mại, hôn nhân gia đình, lao động; đối thoại
giải quyết các khiếu kiện hành chính trước khi TA thụ lý. Theo Luật Hòa giải,
đối thoại tại TA, trung tâm hòa giải, đối thoại được đặt trụ sở tại các TA,
nhưng không phải là một tổ chức có cơ cấu, bộ máy riêng, không thuộc biên
chế của TAND. Đây là một tổ chức tự quản của các hòa giải viên, đối thoại
viên, có chức năng điều phối hoạt động hòa giải vụ việc dân sự, đối thoại
khiếu kiện hành chính, được TAND hỗ trợ một số hoạt động. Về kinh phí
hoạt động của trung tâm này, các quy định sẽ do TAND tối cao và UBND hỗ
trợ. Hòa giải viên, đối thoại viên chính là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra
viên đã nghỉ hưu, các cán bộ đã từng tham gia công tác hội thẩm nhân dân và
các luật sư có phẩm chất đạo đức, uy tín, kỹ năng hòa giải, đối thoại. Hiện
nay, tại thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai thí điểm trung tâm hòa giải đối
thoại tại TAND thành phố Hồ Chí Minh, TAND quận 1, TAND quận 2,
TAND quận 9, TAND quận Bình Thạnh, TAND quận Bình Tân, TAND quận
Gò vấp, TAND quận Tân Phú, TAND huyện Bình Chánh, TAND huyện Củ
Chi.
Bản chất pháp lý của công tác hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất
đai tại TAND là thực hiện chính sách tạo điều kiện cho các bên tham gia tranh
chấp có thể tự thỏa thuận với nhau về hướng giải quyết và phải đúng quy trình
thủ tục hòa giải theo quy định của pháp luật. Việc trung tâm hòa giải, đối
thoại tổ chức hòa giải, đối thoại giữa các bên đang tranh chấp làm nhằm tạo
điều kiện cho các bên thỏa thuận được hướng giải quyết tốt nhất, hiệu quả
nhất, tiết kiệm thời gian và chi phí cũng như giảm tình trạng quá tải cho
TAND.
1.2.3. Thời điểm áp dụng hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai
tại Tòa án nhân dân
Theo quy định tại Điều 10 BLTTDS 2015 quy định: “Tòa án có trách
nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa
thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự” trước khi TA đưa vụ việc ra
xét xử.
Hòa giải tranh chấp đất đai trong tố tụng dân sự là phương thức hòa
giải tại TAND, do Thẩm phán tiến hành. Điểm đặc biệt của phương thức này
là kết quả hòa giải thành được Tòa án ghi nhận có giá trị thi hành theo thủ tục
thi hành án dân sự. Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện
thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp
đất đai theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Trong hoạt động hòa giải,
Tòa án xuất hiện không phải với tư cách một bên tham gia hòa giải mà là
người tổ chức, bố trí cho các đương sự thương lượng, thỏa thuận với nhau.
Với vai trò của mình, Tòa án giải thích cho các đương sự hiểu được quyền,
nghĩa vụ pháp luật có liên quan đến tranh chấp cần hòa giải. Hoạt động hòa
giải này được coi là một thủ tục tố tụng bắt buộc của Tòa án trước khi xét xử
sơ thẩm.
Thủ tục hòa giải và chuẩn bị xét xử được quy định tại Chương XIII
BLTTDS 2015 quy định về thời điểm TA tiến hành hòa giải cho các đương
sự. Cụ thể quy định tại Điều 203 thời hiệu chuẩn bị xét xử, thì theo quy định
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện các nhiệm vụ, quyền
hạn sau:
+ Lập hồ sơ vụ án theo quy định pháp luật
+ Xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng
+ Xác định quan hệ tranh chấp và pháp luật áp dụng
+ Làm rõ các tình tiết khách quan của vụ án
+ Xác minh, thu thập chứng cứ
+ Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
+ Tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng
cứ và hòa giải theo quy định pháp luật, trừ trường hợp vụ án được giải quyết
theo thủ tục rút gọn
Theo quy định này thì trong giai đoạn TA chuẩn bị xét xử kể từ khi TA
có thông báo thụ lý vụ án cho đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì
thẩm phán sẽ tổ chức các phiên họp hòa giải giữa các đương sự để thỏa thuận
với nhau giải quyết tranh chấp. Điều 205 quy định về nguyên tắc tiến hành
hòa giải như sau:
+ Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, TA tiến hành hòa giải
để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án;
+ Việc hòa giải được tiến hành theo nguyên tắc tôn trọng sự tự nguyện
thỏa thuận giữa các đương sự, không dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải
thỏa thuận; nội dung thỏa thuận không vi phạm pháp luật và đạo đức.
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Toà án tiến hành thủ tục
hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ tranh chấp
đất đai, trừ những vụ án không được tiến hành hòa giải. Trường hợp các
đương sự thỏa thuận được với nhau về nội dung tranh chấp mà không trái
pháp luật và đạo đức xã hội thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận
của các đương sự. Quyết định này là sự kết hợp giữa ý chí tự nguyện của các
bên đương sự với ý chí của Nhà nước, thể hiện rõ bản chất của quá trình kết
hợp và chuyển hóa từ quyền lực tư sang quyền lực công, nên phải xem xét
đúng bản chất của việc hòa giải để có những quy định phù hợp. Tòa án có vai
trò trung gian giúp các đương sự tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận, các bên
có quyền thỏa thuận toàn bộ hoặc một phần yêu cầu. Tòa án có thể công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự đối với một phần yêu cầu trong vụ tranh chấp
hoặc toàn bộ các yêu cầu trong vụ tranh chấp, không nhất thiết phải thỏa
thuận được toàn bộ các yêu cầu trong vụ tranh chấp mới được công nhận như
trong pháp luật hiện hành. Pháp luật tố tụng dân sự của một số nước đều công
nhận sự thỏa thuận một phần hay toàn bộ của các đương sự trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Chẳng hạn tại Điều 786 Bộ luật TTDS Pháp quy
định: “Thẩm phán phụ trách việc thẩm cứu hoàn tất hồ sơ có thể ghi nhận sự
hòa giải của các bên, dù là hòa giải một phần”. Tuy nhiên, cũng có một số
trường hợp không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được. Khi vụ
án ở trong trường hợp không thể hòa giải được thì Tòa án quyết định đưa vụ
án ra xét xử mà không cần phải hòa giải.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, ngoài việc Tòa án công nhận
kết quả thỏa thuận của các đương sự khi hòa giải tại tòa án, thì tòa án còn
thực hiện thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành theo thủ tục hòa giải, đối
thoại tại Tòa án của các đương sự. Hiện nay, theo quy định tại Điều 15Luật
Hòa giải, đối thoại tại TA quy định về trình tự nhận, phân công, xử lý đơn
khởi kiện, đơn yêu cầu tại TA như sau:
+ Người khởi kiện, người yêu cầu gửi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải
quyết vụ việc dân sự kèm theo chứng cứ đến TA;
+ TA nhận đơn, vào sổ nhận đơn, xác nhận việc nhận đơn và thông báo
cho người nộp đơn khởi kiện biết vụ việc sẽ được xem xét chuyển sang hòa
giải, đối thoại nếu đáp ứng đủ các điều kiện;
+ Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn khởi kiện, đơn
yêu cầu chánh án TA phân công thẩm phán làm công tác hòa giải, đối thoại
xem xét đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tham gia phiên họp ghi nhận kết quả hòa
giải, đối thoại;
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, thẩm
phán làm công tác hòa giải, đối thoại xem xét đơn khởi kiện, đơn yêu cầu,
phân công hòa giải viên trong danh sách của TA mình để tiến hành hòa giải,
đối thoại và thông báo cho các bên liên quan biết;
+ Sau khi nhận được thông báo về hòa giải, đối thoại thì đương sự
thông báo ý kiến của mình cho TA biết.
Đối với các trường hợp không phải hòa giải, đối thoại thì giải quyết
theo quy định của BLTTDS. Thời gian nhận, giải quyết đơn khởi kiện, đơn
yêu cầu không tính vào thời hiệu khởi kiện, thời hiệu xử lý đơn theo quy định
của BLTTDS, LTTHC nếu vụ việc được giải quyết theo trình tự tố tụng.
Về thời hạn chuẩn bị hòa giải, đối thoại không quá 20 ngày, kể từ ngày
hòa giải viên được phân công.Đối với vụ việc phức tạp, thời hạn này có thể
kéo dài nhưng không quá 30 ngày. Hết thời hạn này, thời hạn có thể kéo dài
theo đề nghị của các bên.
Trên thực tế công tác hòa giải vẫn được TA tiến hành ở những giai
đoạn tố tụng tiếp theo ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm, mặc dù BLTTDS 2015
không quy định trực tiếp nhưng trên tinh thần tôn trọng sự thỏa thuận giữa các
bên đương sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, rút ngắn thủ
tục tố tụng thì trong quá trình xét xử sơ thẩm TA vẫn tạo điều kiện cho các
bên đương sự tham gia tranh chấp hòa gải và tự thỏa thuận với nhau về giải
quyết vụ án.
Hiện nay đối với những TAND đang thí điểm và thành lập trung tâm
hòa giải, đối thoại thì thời điểm tiến hành hoạt động hòa giải đối thoại để thỏa
thuận giải quyết tranh chấp được thực hiện theo quy định của Luật hòa giải,
đối thoại. Đối với những tranh chấp không phải hòa giải đối thoại theo quy
định pháp luật, những TAND không có trung tâm hòa giải, đối thoại thì thời
điểm tổ chức hạt động hòa giải cho các bên tham gia tranh chấp được thực
hiện theo quy định của BLTTDS.
1.2.4. Nguyên tắc hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa
án nhân dân
Công tác hòa giải, đối thoại tại TA là công tác vô cùng quan trọng
cũng như định hướng cho việc giải quyết tranh chấp, tạo điều kiện thuận lợi
cũng như hướng dẫn các bên tham gia tranh chấp có thể hòa giải, đối thoại với
nhau để tìm ra hướng giải quyết. Vì vậy hòa giải, đối thoại phải tuân thủ các
nguyên tắc:
Một là, các bên tự nguyện tham gia hòa giải, đối thoại, tự nguyện thống
nhất phương án hoà giải, đối thoại, bình đẳng trong thực hiện quyền và nghĩa
vụ;
Hai là, nội dung hòa giải, đối thoại không vi phạm điều cấm của luật,
không vi phạm đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ, không xâm
phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khác;
Ba là, các thông tin liên quan đến việc hòa giải, đối thoại phải được giữ
bí mật theo quy định của pháp luật;
Bốn là, phương thức hòa giải, đối thoại được tiến hành linh hoạt, phù
hợp với tình hình thực tế, đặc điểm của mỗi vụ việc;
Năm là, đảm bảo bình đẳng giới, bảo vệ quyền trẻ em trong tổ chức và
hoạt động hòa giải, đối thoại tại TA;
Sáu là, tiếng nói và chữ viết trong hòa giải, đối thoại là tiếng Việt.
Người tham gia hòa giải, đối thoại có thể dùng tiếng nói và chữ viết của dân
tộc mình, trường hợp này có thể tự bố trí hoặc yêu cầu hòa giải viên bố trí
người phiên dịch cho mình và tự chịu chi phí phiên dịch. Người khuyết tật có
thể dùng ngôn ngữ, kí hiệu và có người phiên dịch, chi phí do người đề nghị
chi trả.
Theo quy định điều 205 trong BLDS 2015 thì nguyên tắc hòa giải các
vụ án dân sự như sau:
Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng
vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không
phù hợp với ý chí của mình;
Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội.
Thứ nhất, hòa giải phải tôn trọng sự tự nguyện của các bên, không bắt
buộc, áp đặt các bên tranh chấp phải tiến hành hòa giải. Theo quy định tại
Điều 205 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015quy định. Như vậy, khi các đương sự
đã tự nguyện thỏa thuận tức là các đương sự tự lựa chọn quyết định các vấn
đề tranh chấp bằng hòa giải và thương lượng, thỏa thuận với nhau giải quyết
các vấn đề của vụ án.
Thứ hai, hòa giải phải được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật,
nội dung thỏa thuận không trái với pháp luật, đạo đức xã hội.
Khi tòa án tiến hành hòa giải để giải quyết vụ án dân sự ngoài yếu tố tự
nguyện thỏa thuận của các đương sự thì việc tòa án hòa giải còn phải thỏa
mãn các điều kiện: tuân thủ đúng trình tự, thủ tục hòa giải; phạm vi hòa giải
theo pháp luật quy định; nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không được
trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội
Thứ ba, hòa giải phải tích cực, kiên trì nhằm đạt được kết quả hòa giải.
Tích cực để có thể giải quyết được nhanh chóng vụ án, không để việc hòa giải
kéo dài vô ích khi không có khả năng hòa giải nhưng lại phải kiên trì giải
thích cho đương sự hiểu rõ pháp luật áp dụng giải quyết vụ án và đi sâu giải
quyết các mắc mớ trong tâm tư tình cảm của họ.
1.2.5. Hậu quả pháp lý của hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất
đai tại Tòa án nhân dân
Hậu quả pháp lý của hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại TA
là những kết quả tất yếu dẫn đến mà các các nhân, tổ chức tham gia trong
tranh chấp phải chịu khi hòa giải tranh chấp tại TA.
Trường hợp các đương sự tham gia hòa giải, đối thoại không thành do
bất đồng quan điểm, bất đồng quyền và lợi ích thì bắt buộc TA phải giải quyết
tranh chấp theo quy định của BLTTDS bằng một bản án, quyết định của TA
và các bên tranh chấp phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Trường hợp các đương sự tham gia hòa giải, đối thoại thành do trong
quá trình hòa giải tự thương lương giải quyết vấn đề thì sẽ được TA công
nhận hòa giải thành bằng một quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự. Trong thời hạn 07 ngày làm việc nếu không có sự thay đổi thì
quyết định công nhận thỏa thuận giữa các đương sự có hiệu lực thi hành. Các
bên trong tranh chấp phải nghiêm chỉnh chấp hành theo nội dung của quyết
định và không được kháng cáo hay khiếu nại hoặc yêu cầu TA giải quyết
tranh chấp nữa.
Kết luận chương 1
Chương 1 của luận văn giúp khái quát và làm rõ những vấn đề cơ bản
về lý luận và quy định thực tiễn pháp luật hòa giải trong giải quyết tranh chấp
đất đai tại TAND như: khái niệm, đặc điểm; mục đích, ý nghĩa; các hình thức
hòa giải; bản chất pháp lý; thời điểm áp dụng hòa giải; nguyên tắc áp dụng
trong hòa giải; hậu quả pháp lý của hòa giải trong giải quyết các tranh chấp
đất đai tại TAND. Thông qua chương 1 sẽ cung cấp những kiến thức lý luận
và thực tiễn của công tác hòa giải tại TAND, qua đó giúp người đọc có cái
nhìn tổng quan nhất trên nhiều phương diện, lĩnh vực về công tác hòa giải tại
TA, đặc biệt là trong giải quyết các tranh chấp đất đai. Việc làm rõ những nội
dung ở chương 1 có ý nghĩa quan trọng, làm căn cứ để nghiên cứu hoạt động
lập pháp, hành pháp và tư pháp hướng tới xây dựng và hoàn thiện các quy
định về tố tụng, rút ngắn thời gian tố tụng, tạo sự hiệu quả trong công tác tố
tụng giải quyết tranh chấp đất đai và tạo cơ sở cho việc làm rõ những vấn đề
thực tiễn, thực trạng công tác hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại
TA cũng như đóng góp những ý kiến tích cực góp phần hoàn thiện hệ thống
pháp luật và nâng cao chất lượng công tác áp dụng pháp luật trong thực tế ở
chương 2 và chương 3.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP
LUẬT VỀ HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
ĐẤT ĐAI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về hòa giải trong giải quyết
tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân
2.1.1. Thời điểm áp dụng biện pháp hòa giải trong giải quyết tranh
chấp đất đai tại Tòa án nhân dân
Đối với tất cả các tranh chấp dân sự, đặc biệt là tranh chấp đất đai thuộc
thẩm quyền giải quyết của TAND thì cấp xét xử sơ thẩm là cấp xét xử đầu
tiên. Trong đó, khoảng thời gian để từ khi người nộp đơn khởi kiện và TA thụ
lý đơn cho đến khi vụ án được TAND đưa ra xét xử sơ thẩm và kết thúc bằng
một bản án, quyết định của TA thì đây là khoảng thời gian vô cùng quang
trọng và có ý nghĩa to lớn, quyết định đến kết quả của quá trình giải quyết vụ
án có kết thúc ở cấp sơ thẩm hay không, giải quyết mâu thuẫn tranh chấp cho
triệt để hay không, các bên tham gia tranh chấp đã hài lòng với phán quyết
của TA hay không, hay chưa hài lòng và tiếp tục kháng cáo lên cấp phúc
thẩm. Vì vậy, trong khoảng thời gian TAND chuẩn bị cho xét xử sơ thẩm là
khoảng thời gian quan trọng để TAND tiến hành hòa giải, đối thoại cho các
đương sự để có hướng giải quyết tranh chấp và kết thúc vụ án sớm, hạn chế
thời gian giải quyết ở thủ tục xét xử sơ thẩm và phúc thẩm.
BLTTDS 2015 quy định về thủ tục hòa giải và chuẩn bị xét xử sơ thẩm
thì thời điểm TA tiến hành hòa giải cho các đương sự tham gia tranh chấp bắt
đầu từ thời điểm TA thụ lý đơn khởi kiện cho đến khi TA có quyết định đưa
vụ án ra xét xử. Trong quãng thời gian chuẩn bị xét xử, TA tiến hành mời các
bên trong tranh chấp tham gia phiên họp hòa giải. Trong thời hạn chuẩn bị xét
xử quy định, tùy từng trường hợp,Thẩm phán ra một trong các quyết định:
+ Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
+ Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
+ Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
+ Quyết định đưa vụ án ra xét xử
Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử,
TA phải mở phiên tòa; trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02
tháng.Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm, pháp luật tố tụng không buộc TA phải
tiến hành phiên hòa giải theo trình tự, thủ tục quy định tại BLTTDS 2015.
Nếu chỉ dựa vào việc pháp luật tố tụng không có quy định trực tiếp về hòa
giải tại phiên tòa sơ thẩm để cho rằng, tại phiên tòa sơ thẩm thì hoạt động hòa
giải không diễn ra là không chính xác, trên thực tế công tác xét xử các vụ án
dân sự sơ thẩm tại TA, đặc biệt là các tranh chấp về đất đai. Bởi mặc dù pháp
luật tố tụng không có quy định trực tiếp về việc hòa giải, nhưng việc hòa giải
vẫn hiện hữu thông qua việc Chủ tọa phiên tòa hỏi các đương sự có thỏa
thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án không? (khoản 1 Điều 246
BLTTDS 2015). Việc TA hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án thực chất là việc TA kiểm tra, xác thực lại xem các
đương sự có tự hòa giải được với nhau hay không.
Điểm khác biệt của hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm so với trong thời hạn
chuẩn bị xét xử chính là sự chủ động, vai trò của TA đối với việc hòa giải của
các đương sự.hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm được coi như việc các đương sự
tự chủ động tìm sự đồng nhất trong quan điểm giải quyết vụ án, trong trường
hợp này TA chỉ là bên công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu sự thỏa
thuận không vi phạm pháp luật, đạo đức. Vì vậy, việc hòa giải này do các
đương sự tự thỏa thuận, việc thỏa thuận này có thể được thực hiện vào bất cứ
vào thời điểm nào từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử cho đến thủ tục bắt
đầu phiên tòa. Các đương sự tự mình thương lượng với nhau về các vấn đề
của vụ án, tự gặp nhau để giải quyết tranh chấp không phụ thuộc vào thời
gian, địa điểm nhất định về trình tự, thủ tục, hoàn toàn không có sự tham gia
của TA.Đến phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, chủ tọa phiên tòa kiểm tra chứng
cứ lại sự thỏa thuận của các đương sự, trong trường hợp các đương sự thỏa
thuận về việc giải quyết vụ án thì HĐXX ra quyết định công nhân sự thỏa
thuận của các đương sự. Việc hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm cần phải lưu ý
một số nội dung sau:
+ Thời điểm hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm: Căn cứ quy định BLTTDS
2015 thì việc hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết
vụ án hay không do chủ tọa phiên tòa hỏi và được thực hiện trong phần thủ
tục bắt đầu phiên tòa (Điều 246, mục 2, chương XIV BLTTDS 2015). Sau khi
tiến hành khai mạc phiên tòa và thực hiện các thủ tục theo Điều 239 BLTTDS
2015, chủ tọa phiên tòa hỏi và giải quyết về việc thay đổi, bổ sung, rút yêu
cầu; Chủ tọa hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau hay không là hoạt
động cuối trong thủ tục bắt đầu phiên tòa; Việc các đương sự không thỏa
thuận được với nhau trong giai đoạn này chính là tiền đề cho hoạt động tiếp
theo là hoạt động tranh tụng.
Mặc dù BLTTDS 2015 đã quy định rõ việc hỏi các đương sự có thỏa
thuận được với nhau hay không được thực hiện tại thủ tục bắt đầu phiên tòa,
nhưng tại Phần III-Phần thủ tục bắt đầu phiên tòa của Biểu mẫu số 48 Ban
hành kèm theo Nghị quyết 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13 tháng 01 năm 2017
của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao về mẫu biên bản phiên tòa sơ thẩm là
không có nội dung thể hiện việc hỏi này. Tại Phần III Biểu mẫu số 48 đã quy
định cứng các nội dung trong phần này mà không hề có nội dung mở để người
sử dụng có thể bổ sung nội dung như các phần khác trong biểu mẫu. Đây là
điểm hạn chế trong Biểu mẫu số 48 ban hành kè theo Nghị quyết số
01/2017/NQ-HĐTP và cần được xem xét sửa đổi.
+ Nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm: Các bên thỏa thuận với nhau trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử thì chỉ phải chịu 50% mức án phí. Trường hợp không
thỏa thuận được với nhau thì phải chịu y án phí sơ thẩm theo quy định pháp
luật.
+ Hình thức và hậu quả pháp lý: Như giai đoạn chuẩn bị xét xử, khi các
bên thỏa thuận được với nhau thì HĐXX sẽ xem xét và thảo luận tại phòng
nghị án; Nếu nội dung thỏa thuận là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp
luật, đạo đức thì hội đòng xét xử ban hành quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự về việc giải quyết vụ án. Quyết định này có hiệu lực
thi hành ngay mà không bị kháng cáo, kháng nghị
Hòa giải tại phiên tòa phúc thẩm: Tương tự như tại phiên tòa sơ thẩm,
khi quá trình tố tụng đến giai đoạn phiên tòa phúc thẩm thì các đương sự vẫn
không mất quyền tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên,
do tính chất xét xử phúc thẩm là xem xét lại vụ án ở cấp sơ thẩm chưa có hiệu
lực thi hành bị kháng cáo, kháng nghị nên việc hòa giải ở phiên tòa phúc thẩm
có một số điểm khác biệt như sau:
+ Nội dung hòa giải: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm và tại
phiên tòa sơ thẩm, TA chỉ ban hành quyết định công nhận sự thỏa thuận khi
các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án (kể
cả án phí); Trong trường hợp các đương sự đã thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án nhưng không thỏa thuận được với nhau về án phí thì TA
không được ban hành quyết định công nhận sự thỏa thuận mà tiến hành xét
xử vụ án theo quy định chung. Tại phiên phúc thẩm, chỉ cần các đương sự
thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án (không thỏa thuận được về
án phí sơ thẩm) và thỏa thuận không trái quy định pháp luật, đạo dức thì
HĐXX phúc thẩm công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và HĐXX tự
mình xác định nghĩa vụ chịu án phí dựa trên nội dung thỏa thuận của các
đương sự.
+ Hình thức công nhận sự thỏa thuận: Hòa giải trong thời hạn chuẩn bị
xét xử và tại phiên tòa sơ thẩm được ghi nhận dưới hình thức quyết định công
nhận sự thỏa tuận của các đương sự. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm do vụ
án đang tồn tại một bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực thi hành nên HĐXX
không thể ban hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
được; bởi khi ban hành quyết định công nhận sự thỏa thuận không làm mất
hiệu lực của bản án sơ thẩm nên sẽ tồn tại song song một bản án sơ thẩm và
một quyết định về việc giải quyết cùng một vụ án. Do đó, khi các đương sự
thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết thì HĐXX phúc thẩm ban hành
Bản án phúc thẩm sửa bản án ớ thẩm, có nội dung trong phần quyết định là
công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Nghĩa vụ án phí: Án phí phúc thảm do đương sự kháng cáo chịu; án phí
sơ thẩm do các bên tự thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì tòa án xác
định lại án phí dân sự sơ thẩm theo nội dung thỏa thuận về việc giải quyết vụ
án tại phiên tòa phúc thẩm.
Đối với thủ tục xét xử đặc biệt là giám đốc thẩm và tái thẩm thì trực
tiếp pháp luật vẫn chưa có quy định về công tác hòa giải ở các thủ tục xét xử
đặc biệt này.Và trong thực tiễn xét xử ở giám đốc thẩm và tái thẩm chưa có
trường hợp các đương sự hòa giải, thỏa thuận với nhau [35].
2.1.2. Nguyên tắc tiến hành hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất
đai tại Tòa án nhân dân
Dựa trên những nguyên tắc hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai
tại TA thì đối với hòa giải ở cấp sơ thẩm tại TA ngoài việc đảm bảo những
nguyên tắc cơ bản của hòa giải tranh chấp đất đai như: Nguyên tắc tự nguyện;
nguyên tắc thỏa thuận trong buổi hòa giải phải đúng quy định pháp luật,
không vi phạm pháp luật, đạo dức xã hội; Nguyên tắc bình đẳng;… Thì ở cấp
xét xử sơ thẩm, công tác hòa giải cho các đương sự để thỏa thuận hướng giải
quyết tranh chấp cũng phải được thực hiện theo đúng trình tự thủ tục tố tụng
và tuân thủ theo những nguyên tắc:
+ Sau khi TAND thụ lý vụ án về tranh chấp đất đai, thì trong thời gian
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, TA tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa
thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải
hoặc không tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật. Trong giai đoạn
xét xử việc hòa giải phải tuân thủ nguyên tắc hòa giải:
+ Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không dùng vũ
lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không
phù hợp với ý chí của mình.
+ Nội dung thỏa thỏa thuận không trái pháp luật và đạo đức xã hội
Thông báo về phiên hòa giải ở cấp sơ thẩm:
Trước khi tiến hành hòa giải, Tòa án phải thông báo cho các đương sự,
người đại diện hợp pháp của đương sự biết về thời gian, địa điểm tiến hành
hòa giải, nội dung các vấn đề cần hòa giải.
Khi tiến hành hòa giải: Thẩm phán phổ biến cho các đương sự biết các
quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên
hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc hòa giải
thành để họ tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án
Biên bản hòa giải: Việc hòa giải được thư ký TA ghi vào biên bản.
Biênbản hòa giải phải có các nội dung chính sau:
+ Ngày, tháng, năm tiến hành phiên hòa giải
+ Địa điểm tiến hành phiên hòa giải
+ Ý kiến tham gia phiên hòa giải
+ Những nội dung đã được các đương sự thỏa thuận, không thỏa thuận
Biên bản hòa giải phải có đầy đủ các chữ ký hoặc điểm chỉ của các
đương sự có mặt trong phiên hòa giải, chữ ký của Thư ký TA ghi biên bản và
của thẩm phán chủ trì phiên hòa giải
Khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết
trong vụ án dân sự thì TA lập biên bản hòa giải thành. Biên bản này được gửi
ngay cho các đương sự tham gia hòa giải
Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà
không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán
chủ trì phiên hòa giải hoặc một thẩm phán được chánh án TA phân công ra
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Trong thời hạn năm
ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự, TA phải gửi quyết định đó cho các đương sự.Quyết định công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban
hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
Quyết định đưa vụ án ra xét xử: Trong trường hợp các bên đương sự
không hòa giải được với nhau về cách giải quyết tranh chấp đất đai, thì TA
quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm[36].
2.1.3. Phạm vi hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án
nhân dân
Theo Chỉ thị số 04/2017/CT-CA về tăng cường công tác hòa giải tại
TAND, thì để công tác hòa giải tại TA, đặc biệt là TA cấp sơ thẩm trong thực
tiễn đem lại hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đặt ra thì việc nghiên cứu các quy định
của pháp luật về tố tụng dân sự như:
Xác định phạm vi hòa giải tại TA, những vụ án không được hòa giải và
thời điểm mở phiên hòa giải tại TA cấp sơ thẩm. Mở phiên hòa giải là trách
nhiệm của TA cấp sơ thẩm trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nóichung
và vụ án về tranh chấp đất đai nói riêng, nhằm giúp đương sự thỏa thuận được
với nhau về việc giải quyết tranh chấp. Theo quy định của BLTTDS 2015,
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án
có trách nhiệm tổ chức phiên hòa giải theo quy định trừ những trường hợp vụ
án được giải quyết theo thủ tục rút gọn; vụ án không được tiến hành hòa giải
theo Điều 206 BLTTDS 2015 và những vụ án không tiến hành hòa giải được
theo Điều 207 BLTTDS. Pháp luật tố tụng không quy định thời điểm mở
phiên hòa giải cụ thể là bao nhiêu ngày kể từ ngày thụ lý, tùy trường hợp khi
xét thấy việc xây dựng hồ sơ, thu thập chứng cứ đã đầy đủ, các tình tiết của
vụ án đã được làm rõ; thẩm phán sẽ linh hoạt ấn định thời điểm mở phiên hòa
giải trong thời hạn chuẩn bị xét xử sao cho phù hợp.
Trường hợp có yếu tố nước ngoài, thì phiên họp hòa giải được mở sớm
nhất là 06 tháng và chậm nhất là 08 tháng, kể từ ngày ra văn bản thông báo
thụ lý vụ án. Ngày mở phiên họp hòa giải (nếu có) được ấn định cách ngày
mở phiên họp hòa giải chậm nhất 01 tháng (Điều 476 BLTTDS 2015). Liên
hệ các quy định về thời hạn giải quyết trong Luật Tố tụng hành chính, thời
hạn giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục chung thì đây là một điểm nhấn, một
bước cải tiến trong lập pháp, mang tính tích cực và đem lại hệu quả. Do đặc
thù có yếu tố nước ngoài,có vấn đề ủy thác tư pháp tống đạt giấy tờ, tài liệu,
quyết định của TAnước ngoài nên BLTTDS 2015 đã quy định thời hạn mở
phiên họp hòa giải trong khoảng sớm nhất là 06 tháng, chậm nhất là 08 tháng;
thời hạn mở phiên tòa sớm nhất là 09 tháng, chậm nhất là 12 tháng.
Bên cạnh quy định bắt buộc phải mở phiên hòa giải trong thời hạn
chuẩn bị xét xử, BLTTDS 2015 cũng quy định về việc hòa giải tại phiên tòa
sơ thẩm, phúc thẩm thể hiện bằng việc chủ tọa hỏi các đương sự có thể tự
thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án?. Tùy mỗi giai đoạn, việc
hòa giải, thỏa thuận được ghi nhận dưới nhiều hình thức và giá trị pháp lý
khác nhau.
Việc hòa giải tiến hành theo nguyên tắc: Tôn trọng sự tự nguyện thỏa
thuận, không dùng vụ lực, đe dọa, bắt buộc. Nguyên tắc này xuất phát từ đặc
trưng của TTDS - “Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự”tại Điều
5 BLTTDS. Theo đó, pháp luật thừa nhận và đảm bảo cho các chủ thể quan
hệ tố tụng dân sự được toàn quyền thể hiện ý chí, lựa chọn, quyết định thực
hiện hay không thực hiện hành vi tố tụng nhất định. Vụ án dân sự chỉ được
phát sinh dựa trên yêu cầu khởi kiện của chủ thể khi họ cho rằng quyền và lợi
ích hợp pháp bị xâm phạm, TA không can thiệp, giải quyết các quan hệ dân
sự khi không có đơn khởi kiện. Quá trình giải quyết vụ án trong giai đoạn tố
tụng, đương sự có toàn quyền thể hiện ý chí của mình bằng việc yêu cầu, thỏa
thuận với nhau không vi phạm điều cấm của luật, trái với đức xã hội.
Với nguyên tắc“Nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật,
trái với đạo đức xã hội”, thì giới hạn của hòa giải tại Tòa án sơ thẩm phải tiến
hành và gải thích các quy định cho các bên dương sự biết và thỏa thuận giải
quyết tranh chấp đúng pháp luật, không trái đạo đực xã hội. Nếu vi phạm thì
không được TA công nhận.
Cần xác định những vụ án không được hòa giải và những vụ án không
tiến hành hòa giải được trong tố tụng dân sự, đó là: Yêu cầu đòi bồi thường vì
lý do gây thiệt hại đến tài sản của nhà nước và những vụ án phát sinh từ giao
dịch dân sự vi phạm điều cấm của Luật hoặc trái đạo đức xã hội. Đối với
những trường hợp này thì chỉ có thể được giải quyết bằng phán quyết của TA
thông qua phiên Tòa xét xử. Vì pháp luật không thừa nhận thỏa thuận của các
bên vì tài sản này thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu nên
cá nhân không thể theo ý chí chủ quan của mình tự thỏa thuận với nhau. Hoặc
là nhà nước đầu tư, góp vốn vào các doanh nghiệp nhà nước thì tài sản thuộc
sở hữu nhà nước, các cá nhân không thể tự thỏa thuận mà TA phải xét xử.
Đối với cấp sơ thẩm thì các đương sự phải thỏa thuận thống nhất với
nhau về cách giải quyết và phần án phí thì TA mới ra quyết định công nhận
thỏa thuận thành. Còn đối với cấp phúc thẩm thì các đướng sự chỉ cần thông
nhất được với nhau về việc giải quyết tranh chấp còn phần án phí cấp sơ thẩm
và phúc thẩm không tự thỏa thuận được thì vẫn được TA công nhận.
2.1.4. Trình tự, thủ tục tiến hành hòa giải trong giải quyết tranh chấp
đất đai tại Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm
Quy trình hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định
pháp luật hiện nay đối với những tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền giải
quyết của TA theo quy định pháp luật
Bước 1: TA thông báo thụ lý vụ án và phân công Thẩm phán phụ trách
giải quyết
Bước 2: Thẩm phán phụ trách thông báo mời các đương sự và các bên
liên quan đến tham gia phiên hòa giải. Sau mỗi phiên hòa giải đều lập biên
bản hòa giải. Kết quả:
+ Nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về giải quyết tranh chấp
thì Thẩm phán lập biên bản, sau thời hạn 07 ngày nếu các đương sự không có
sự thay đổi nội dung thỏa thuận thì Thẩm phán ra quyết định công nhận sự
thỏa thuận của đương sự. Quyết định có hiệu lực thi hành ngay mà không bị
kháng cáo, kháng nghị trừ một số trường hợp theo quy định pháp luật như:
Nội dung thỏa thuận sai pháp luật, trái đạo đức xã hội, bị ép buộc
Nếu các đương sự không thống nhất được hướng giải quyết tranh chấp
sau những phiên hòa giải thì Thẩm phán lập biên bản và ra quyết định đưa vụ
án ra xét xử sơ thẩm theo trình tự, thủ tục tố tụng dân sự.
Hiện nay, ở một số TA đã và đang thí điểm mô hình Trung tâm hòa
giải, đối thoại. Thực hiện công tác hòa giải tại Tòa án từ thời điểm đương sự
nộp đơn yêu cầu khởi kiện cho đến khi hồ sơ được chuyển qua TA thụ lý.
Quy trình, thủ tục hòa giải tại trung tâm hòa giải đối thoại tại tòa án được tiến
hành như sau:
- Ngay sau khi nhận đơn khởi kiện vụ án dân sự, đơn khởi kiện vụ án
hành chính và tài liệu, chứng cứ kèm theo (sau đây gọi tắt là hồ sơ vụ việc),
Bộ phận hành chính - tư pháp của Tòa án phải ghi vào sổ nhận đơn và chuyển
đơn khởi kiện cho Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án, trừ những trường
hợp không được hòa giải, đối thoại theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự,
Luật Tố tụng hành chính hoặc khi nộp đơn khởi kiện, có ý kiến không đồng ý
hòa giải, đối thoại tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ việc, Giám đốc Trung tâm hòa giải,
đối thoại tại Tòa án phải phân công một Hòa giải viên, Đối thoại viên xem
xét, tiến hành hòa giải, đối thoại[19].
Như vậy, việc hòa giải tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại TA được
tiến hành sau khi TA nhận đơn và trước khi TA thụ lý vụ án dân sự. Theo
Mục 3 Công văn số 72/TANDTC-PC, bước hòa giải này được xem là hòa giải
ngoài Tòa án (thông thường khi đọc tên "Trung tâm hòa giải, đối thoại tại
TA" dễ bị nhầm lẫn là thủ tục hòa giải tại TA). Do đó, bước hòa giải này
không thay thế cho thủ tục hòa giải tại TAtheo quy định của BLTTDS 2015.
Theo nội dung hướng dẫn tại Công văn số 72/TANDTC-PC và công
văn số 59/TANDTC-PC, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc
giải quyết vụ án thì Trung tâm hòa giải, đối thoại tại TA lập biên bản hòa giải
thành và hướng dẫn đương sự yêu cầu TA công nhận kết quả hòa giải thành
này. Trong trường hợp đương sự yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải
thành tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại TA thì Tòa án sẽ thụ lý dưới dạng
"việc dân sự". Thủ tục xem xét công nhận kết quả hòa giải thành sẽ thực hiện
theo trình tự, thủ tục tố tụng dân sự đối với việc dân sự, mà không phải
theo trình tự, thủ tục tố tụng dân sự đối với vụ án dân sự.
Trường hợp các đương sự không thỏa thuận được với nhau, Trung tâm
hòa giải, đối thoại tại TA lập biên bản hòa giải không thành hoặc không tiến
hành hòa giải được. Khi đó, Trung tâm hòa giải, đối thoại tại TA sẽ chuyển hồ
sơ vụ việc cùng với biên bản hòa giải không thành, không tiến hành hòa giải
được cho TA để xem xét thụ lý giải quyết. Nếu đơn khởi kiện được thụ lý, các
đương sự sẽ tiếp tục được TA triệu tập hòa giải theo quy định tại Điều 205
BLTTDS 2015[37].
Trình tự, thủ tục hòa giải và chuẩn bị xét xử các tranh chấp đất đai tại
TA cấp sơ thẩm được tiến hành theo qui định về trình tự tủ tục tố tụng dân sự:
Theo quy định tại điều 183 BLTTDS 2015 thì sau khi TA thụ lý đơn
khởi kiện thì TA sẽ phân công thẩm phán giải quyết tranh chấp giữa các
đương sự trong vụ án, trước khi đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm thì trong thời hạn
chuẩn bị xét xử thẩm phán được phân công tiến hành tổ chức các phiên họp
hòa giải cho các bên đương sự. Trước khi tiến hành hòa giải, TA phải thông
báo cho các đương sự, người đại diện hợp pháp của các đương sự về thời
gian, địa điểm, nôi dung các vấn đề cần hòa giải.Theo Điều 185 BLTTDS
2015, khi tiến hành hòa giải Thẩm phán phổ biến các quy định pháp luật có
liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ
của mình, phân tích hậu quả pháp lý của hòa giải thành để họ thỏa thuận vói
nhau giải quyết tranh chấp.
Khi đã có đủ các điều kiện để tiến hành hòa giải thì thẩm phán được
phân công giải quyết vụ án có cán bộ thư ký TA giúp việc ghi biên bản sẽ sẽ
tiến hành tổ chức phiên hòa giải. Thẩm phán công bố nội dung tranh chấp,
phổ biến các quy định pháp luật liên quan đến giải quyết tranh chấp, phân tích
hậu quả nếu hòa giải không thành để các bên đương sự biết.
Sau khi thẩm phán hướng dẫn và giải thích pháp luật cũng như phân
tích hậu quả pháp lý. Đến lượt nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan phát biểu ý kiến, quan điểm về vấn đề đang tranh chấp và đưa ra
định hướng giải quyết. Đối với những ý kiến, quan điểm giải quyết bất hợp lý
như khởi kiện đòi lại tài sản không có căn cứ, yêu cầu bồi thường quá đáng
thì thẩm phán chủ trì phiên hòa giải kịp thời phân tích và thẳng thắng chỉ ra
những điểm không hợp lý để họ cấn nhắc lại.
Khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về các vấn đề giải quyết vụ
án thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành, trong đó nêu rõ nội dung tranh chấp
và các nội dung đã được các đương sự thỏa thuận. Biên bản này chưa có giá
trị pháp lý, nó chỉ xác nhận một sự kiện và là cơ sở để TA ra quyết định công
nhận sự thỏa thuận của đương sự. Biên bản hòa giải phải có các nội dung theo
quy định tại điều 186 BLTTDS 2015. Ngoài ra biên bản còn phải có đủ chữ kí
hoặc điểm chỉ của các đương sự, Thẩm phán và thư ký.
2.1.5. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
Khi phiên hòa giải kết thúc, các đương sự đã tìm ra tiếng nói chung, đã
thỏa thuận được với nhau về cách giải quyết vụ án và được thư ký ghi lại
trong biên bản tại phiên hòa giải. Tuy nhiên, BLTTDS 2015 quy định phải
dành cho các bên đương sự một thời gian cần thiết nữa để họ suy nghĩ, cân
nhắc lại tất cả những nội dung mà họ đã thỏa thuận tại phiên hòa giải. Hết
thời hạn đó mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến thì TA mới ra quyết
định công nhận sự thỏa thuận của đương sự. Theo quy định của BLTTDS
2015 thì thời hạn để các đương sự suy nghĩ, cân nhắc lại quyết định là 07
ngày làm việc, kể từ ngày lập liên bản hòa giải thành tại phiên hòa giải.Trong
thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thỏa thuận
của đương sự thì TA phải gửi quyết định đến các đương sự và VKSND cùng
cấp.
Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
khi có sự thống nhất về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án. Trong trường
hợp quy định tại khoản 3 điều 184 BLTTDS 2015 mà các đương sự có mặt
thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận đó chỉ có giá
trị đối với người có mặt và được thẩm phán ra quyết định công nhận nếu
không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các đương sự vắng mặt. Trong
trường hợp thỏa thuận của họ có ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các
đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này chỉ có giá trị và công nhận nếu được
đương sự vắng mặt đồng ý bằng văn bản. Theo Điều 188 BLTTDS 2015, hiệu
lực của quyết định công nhân sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực
ngay khi ban hành, không bị kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
Như vậy, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự khép
lại quá trình tố tụng. Tuy nhiên, để đề phòng các sai lầm hay vi phạm pháp
luật có thể xảy ra trong quá trình tiến hành hòa giải, điều 188 BLTTDS 2015
quy định đối với quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự vẫn
có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng có sự
nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái với đạo đức xã
hội.
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh
chấp đất đai tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí
Minh
2.2.1. Khái quát chung về tình hình giải quyết tranh chấp đất đai tại
Tòa án nhân dân quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh
Bình Tân là quận ven của Thành phố Hồ Chí Minh, được thành lập
năm 2003 do chia tách từ huyện Bình Chánh cũ, Tổng diện tích của quận là
5.188,67 ha, là quận có diện tích đất lớn thứ 3 của Thành phố và có dân cư
đông nhất. Phía đông giáp quận Tân Phú và quận 6; phía tây giáp huyện Bình
Chánh; phía Nam giáp quận 8 và huyện Bình Chánh; phía Bắc giáp quận 12.
Hiện nay, quận Bình Tân có tốc độ đô thị hóa diễn ra khá nhanh, hầu như các
phường không còn đất nông nghiệp, nhiều khu công nghiệp lớn, kinh tế - xã
hội phát triển theo hướng công nghiệp và đô thị. Vì vậy, hiện nay trên địa bàn
quận Bình Tân diễn ra các quan hệ xã hội về lĩnh vực đất đai rất phức tạp, tình
trạng các tranh chấp đất đai diễn ra thường xuyên và phổ biến đặt ra nhiều
khó khăn và thách thức cho chính quyền địa phương và cơ quan chức năng
trong công tác điều chỉnh các quan hệ về đất đai, giải quyết các tranh chấp đất
đai hiệu quả nhằm giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội và phát triển kinh
tế xã hội.
Qua thực tiễn hòa giải các tranh chấp đất đai tại TAND quận Bình Tân,
có thể khái quát những kết quả đạt được như sau:
Thứ nhất, số lượng các vụ việc giải quyết tranh chấp đất đai tại TA năm
sau đều cao hơn năm trước. Tranh chấp đất đai trên địa bàn quận ngày càng
có xu hướng tăng cả về số lượng và mức độ phức tạp, do đó, để tránh tình
trạng án tồn đọng, không giải quyết kịp thời, kéo dài thời gian tố tụng, ảnh
hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, thì TAND quận Bình Tân
luôn đề cao công tác hòa giải, giải quyết dứt điểm, nhanh chóng, theo tinh
thần thượng tôn pháp luật, đề cao tính tự định đoạt của các đương sự kết hợp
với quy định quản lý của nhà nước trong quản lý đất đai.
Thứ hai: Việc hòa giải tranh chấp đất đai tại quận Bình Tân luôn tuân
thủ đầy đủ các quy định pháp luật của BLTTDS, còn về luật nội dung, do
nhận thức rõ tính đặc thù, phức tạp của tranh chấp đất đai, nó liên quan đến
nhiều quan hệ khác nhau của đời sống xã hội, nên trong quá trình giải quyết,
ngoài áp dụng luật đất đai thì còn vận dụng các quy định Luật Nhà ở, Luật
Kinh doanh bất động sản, Luật Xây dựng, Luật Hôn nhân gia đình, chính sách
của Nhà nước về đất đai… để giải quyết hiệu quả các vụ tranh chấp.
Thứ ba: Hòa giải tranh chấp đất đai luôn vận dụng hợp lý đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đất đai trong thời kỳ đổi
mới nhằm đảm bảo tính có căn cứ, công bằng, công khai và minh bạch, đảm
bảo quyền và lợi íc hợp pháp của các bên trong quan hệ tranh chấp đất đai.
Thứ tư: Các cán bộ thư ký, thẩm phán của TAND quận Bình Tân luôn
luôn được học tập, tập huấn nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ nhằm
phục vụ hiệu quả công tác hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai.
Hiện nay các tranh chấp về đất đai trên địa bàn quận nếu các bên không
tự thỏa thuận được với nhau về hướng giải quyết tranh chấp, thì các tranh
chấp đất đai trên địa bàn quận được UBND các phường, UBND quận và
TAND quận Bình Tân hòa giải và giải quyết. Cụ thể công tác hòa giải các
tranh chấp đất đaitại TAND quận Bình Tân trong thời gian qua được thể hiện
thông qua các bảng số liệu sau đây:
Bảng 1: Bảng số liệu thống kê công tác giải quyết các tranh chấp tại
Tòa án nhân dân quận Bình Tân từ 2015-2019
Năm Các tranh chấp Các tranh chấp Tỷ lệ %
dân sự liên quan đến lĩnh
vực đất đai
560 120 21,4% 2015
600 130 21,6% 2016
620 135 21,8% 2017
650 155 23,8% 2018
680 163 24% 2019
Tổng 3110 703 22,6%
Nguồn: Báo cáo số 33/2019/BC-TAND-BT về công tác giải quyết các
tranh chấp dân sựtai TAND quận Bình Tân
+ Qua bảng số liệu từ năm 2015 đến 2019 cho thấy, tổng số vụ tranh
chấp giải quyết tại TA tăng liên tục từ 560 vụ năm 2015 lên 680 vụ năm 2019,
tăng 120 vụ trong 05 năm. Cùng với đó, thì số tranh chấp đất đai tại TA từ
2015 đến 2019 cũng liên tực tăng từ 120 vụ năm 2015 lên 163 vụ năm 2019,
tăng 43 vụ trong vong 05 năm; tỷ lệ các tranh chấp đất đai trên tổng số vụ
tranh chấp tại TA cũng tăng liên tục từ 21,4% năm 2015 lên 22,6% năm 2019,
tăng 1,2 % trong vòng 05 năm.
Bảng 2: Bảng số liệu thống kê các tranh chấp đất đai được hòa giải ở
cấp sơ thẩm tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân từ 2015 – 2019
Năm Tỷ lệ
Các tranh chấp đất đai
Các tranh chấp đất đai được hòa giải
Các tranh chấp đất đai không thực hiện hòa giải
120 120 0 2015 100%
130 130 0 2016 100%
135 135 0 2017 100%
155 155 0 2018 100%
163 163 0 2019 100%
Tổng 703 703 0 100%
Nguồn: Báo cáo số 33/2019/BC-TAND-BT về công tác giải quyết các
tranh chấp dân sựtai TAND quận Bình Tân
+ Qua bảng số liệu trên ta thấy các tranh chấp đất đai trên địa bàn
quận Bình Tân được giải quyết tại TAND quận Bình Tân đều được TA hòa
giải, đối thoại trong giai đoạn chuẩn bị xét xử trước khi đưa vụ án ra xét xử sơ
thẩm.
Bảng 3: Bảng thống kê kết quả hòa giải các tranh chấp đất đại ở cấp
sơ thẩm tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân từ 2015 – 2019
Năm Số vụ tranh Hòa giải Hòa giải Tỷ lệ hòa giải
chấp hòa giải thành không thành thành/hòa giải
không thành
120 60 50% 60 2015
130 61 42% 69 2016
135 65 45,5% 70 2017
155 60 57% 95 2018
163 69 64,86% 94 2019
Nguồn: Báo cáo số 33/2019/BC-TAND-BT về công tác giải quyết các
tranh chấp dân sự tại TAND quận Bình Tân
+ Qua bảng thống kê cho thấy tỷ lệ hòa giải thành so với hòa giải không
thành tại TA từ năm 2015 đến 2019 tăng từ 50% lên 64%. Điều này cho thấy,
công tác hòa giải, đối thoại tại TA đã và đang đem lại những kết quả tốt, góp
phần giải quyết các tranh chấp đất đai tại TA.
Bảng 4: Bảng số liệu thống kê số vụ án tranh chấp đất đai được
Tòa án nhân dân quận Bình Tân xét xử sơ thẩm từ 2015-2019
Năm Số vụ hòa giải không thành Số vụ tranh chấp xét xử
sơ thẩm
60 55 2015
69 65 2016
70 63 2017
95 88 2018
94 89 2019
Nguồn: Báo cáo số 33/2019/BC-TAND-BT về công tác giải quyết các
tranh chấp dân sựtai TAND quận Bình Tân
+ Qua bảng thống kê cho thấy, số vụ tranh chấp đất đai được TA đưa ra
xét xử sơ thẩm từ năm 2015 đến 2019 tăng liên tục, từ 55 vụ năm 2015 lên 89
vụ năm 2019, tăng 34 vụ trong vòng 05 năm. Điều này cũng cho thấy, cùng
với công tác hòa giải đem lại hiệu quả, thì TA quận Bình Tân cũng tích cực
đẩy mạnh công tác xét xử các tranh chấp đất đai trước tình hình các tranh
chấp đất đai trên địa bàn quận ngày càng thường xuyên diễn ra.
Bảng 5: Bảng thống kê số vụ tranh chấp đất đai có kháng cáo, kháng
nghị tại quận Bình Tân từ 2015-2019
Năm Số vụ xét xử Kháng cáo Kháng nghị
55 40 3 2015
65 41 5 2016
63 45 5 2017
88 50 8 2018
89 54 13 2019
Nguồn: Báo cáo số 33/2019/BC-TAND-BT về công tác giải quyết các
tranh chấp dân sự tại TAND quận Bình Tân
+ Qua bảng thống kê cho thấy, từ năm 2015 đến 2019, số vụ tranh chấp
đất đai có kháng cáo tăng liên tục từ 40 vụ năm 2015 lên 54 vụ năm 2019,
tăng 14 vụ trong 05 năm; số vụ kháng nghị của VKS cũng tăng từ 3 vụ năm
2015 lên 13 vụ năm 2019, tăng 10 vụ trong vòng 05 năm. Điều này cho thấy,
trong tranh chấp đất đai khi đã xét xử sơ thẩm những các đương sự trong
tranh chấp vẫn chưa thỏa đáng và hài lòng đối với phán quyết của TA và
thường có tỷ lệ kháng cáo phúc thẩm rất cao; công tác tiến hành tố tụng cũng
như áp dụng pháp luật giải quyết vẫn còn một số điểm hạn chế, sai sót nên
cũng có một vài vụ án bị VKS kháng nghị.
Một số vụ tranh chấp đất đai điển hình được TAND quận Bình
Tân thụ lý giải quyết trong thời gian qua:
Vụ thứ nhất: Yêu cầu tuyên bố 02 văn bản công chứng vô hiệu.
Theo đơn khởi kiện đề ngày 26/6/2013, nguyên đơn là ông Trần Văn Y
trình bày: Thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 tại khu M, phường N, quận Bình
Tân có nguồn gốc là do ông nhận chuyển nhượng của cụ Nguyễn Thị C (tức
T, T1) từ năm 1987. Việc chuyển nhượng đất và hoa màu liên quan đến thửa
đất này giữa ông và cụ C có giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân phường đồng
ý cho ông đến ở cùng với cụ T1. Năm 1988, Ủy ban nhân dân phường đồng ý
cho ông đứng tên thửa đất này và đổi sang một thửa đất khác vì thửa đất này
giáp với đầm nước không tiện cho việc chăm sóc con nhỏ. Nhưng do không
đủ điều kiện làm nhà nên ông không đổi đất nữa.Năm 1998, ông và cụ C làm
giấy tờ chuyển nhượng thửa đất trên với giá 140.000.000 đồng. Mặc dù việc
trả tiền không được các bên viết giấy biên nhận, nhưng có 02 người là bà
Nguyễn Thị B (đã chết) và bà Trần Thị K (ở xóm D, phường Đ) chứng kiến
việc ông trả tiền cho cụ C. Khi chuyển nhượng ông và cụ C đã lập Hợp đồng
mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ghi ngày 08/02/1998 và
nộp tại Ủy ban nhân dân phường. Năm 2008, gia đình ông không ở trên thửa
đất này nữa do đất bị giải phóng mặt bằng. Năm 2009, giữa ông và gia đình
cụ Nguyễn Văn D xảy ra tranh chấp đối với thửa đất trên.Năm 2013, ông
được biết Phòng Công chứng M đã công chứng Di chúc của cụ Nguyễn Văn
D và công chứng Văn bản công bố di chúc của cụ D và cụ Nguyễn Thị T1
ngày 26/01/2011. Theo các văn bản trên, thì cụ D có quyền sở hữu, sử dụng 1
phần thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 khu M, phường N, quận Bình Tân; ông
Nguyễn Văn D1 là người được hường thừa kế của cụ D và cụ C đối với thửa
đất số 38, Tờ bản đồ số 13 diện tích 299,8 m2 tại khu M. Việc công chứng này
không đúng quy định của pháp luật và ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp
của gia đình ông nên ông đề nghị Tòa án tuyên bố 02 văn bản công chứng
trên vô hiệu.
Bị đơn là Phòng Công chứng M (do người đại diện) trình bày: Ngày
14/01/2011, ông Nguyễn Văn D1 chở cụ Nguyễn Văn D đến Phòng Công
chứng M và yêu cầu công chứng di chúc của cụ D. Theo cụ D khai thì cụ và
cụ T1 lấy nhau không đăng ký kết hôn (hôn nhân thực tế), cụ T1 không sinh
nở được nên cụ D lấy người khác nhưng không ly hôn với cụ T1. Nhà và đất
tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 tại khu M là tài sản chung hợp nhất được
hình thành trong thời kỳ hôn nhân giữa cụ D và cụ C.
Tại thời điểm lập di chúc, mặc dù cụ D đã trên 90 tuổi nhưng vẫn còn
tỉnh táo, minh mẫn, nhận thức rõ việc làm của mình. Cùng hàng thừa kế thứ
nhất là vợ, con, bố, mẹ của cụ D chỉ còn lại một mình ông D1, không có ai
còn vị thành niên, yếu, thiểu năng trí tuệ không tự nuôi sống được theo quy
định của pháp luật dân sự, vì vậy nên việc cụ D có di chúc trao tất cả phần tài
sản của mình cho ông D1 là hoàn toàn đúng theo quy định của pháp luật dân
sự về di chúc. Sau khi xem xét các vấn đề nêu trên, Phòng Công chứng M
thấy rằng, việc lập di chúc của cụ D là hoàn toàn chính đáng, nội dung di chúc
đúng pháp luật nên Phòng Công chứng đã làm di chúc cho cụ D. Ngày
15/01/2011, cụ D đã đến Phòng Công chứng để điểm chỉ vào bản di chúc.
Trước khi điểm chỉ, công chứng viên đã đọc lại toàn bộ nội dung di chúc cho
cụ nghe, cụ hoàn toàn nhất trí.
Sau khi cụ D mất, bản di chúc của cụ có hiệu lực pháp luật, ông D1 đến
Phòng Công chứng yêu cầu công bố di chúc và Phòng Công chứng đã tiến
hành việc công bố theo quy định của pháp luật. Trong quá trình công chứng
và công bố di chúc của cụ D, Phòng Công chứng không nắm được thông tin
thửa đất trên đang có tranh chấp. Quan điểm của Phòng Công chứng là đề
nghị Tòa án xem xét giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
Sau nhiều lần TAND quân Bình Tân Tiến hành các phiên hòa giải đối
thoại giữa các đương sự nhưng không thống nhất được hướng giải quyết, thì
TAND quận Bình Tân đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Tại Bản án dân sự sơ
thẩm số 10/2014/DS-ST ngày 28/4/2014, TAND quận Bình Tân đã quyết
định:Tuyên bố Văn bản công chứng Di chúc của Phòng Công chứng M ngày
15/01/2011 đối với Di chúc của cụ Nguyễn Văn D, sinh năm 1919 và Văn bản
công chứng Văn bản công bố di chúc của Phòng Công chứng M ngày
26/01/2011 công bố Di chúc ngày 16-12-2009 của cụ Nguyễn Thị T1 (T),
sinh năm 1924 là vô hiệu.
Vụ thứ hai: Tranh chấp “Yêu cầu chia di sản thừa kế”.
Tranh chấp “Yêu cầu chia di sản thừa kế” giữa bà Đặng Thị Liên Hà,
trú tại quận Bình Tân và các bị đơn là bà Đặng Thị Thanh Thuận, bà Đặng
Thị Thu Thủy dều trú tại quận Bình Tân. Tranh chấp nhà đất có diện tích sử
dụng là 217,40m2 và diện tích xây dựng 108,29 m2 có giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất số 3401102003 do UBND thành phố Hồ
Chí Minh cấp ngày 18/9/2003 tại phường An Lạc, quận Bình Tân nguồn gốc
là của ông Đặng Văn Quế và bà Trần Thị Cơ. Bà Cơ chết năm 1972 không để
lại di chúc. Ngày 16/5/2005, ông Quế khởi kiện yêu cầu TAND quận Bình
Tân chia tài sản chung của ông và bà Cơ, còn ½ chia đều cho ông và các con
theo quy định của pháp luật. Trong khi TAND quận Bình Tân đang giải quyết
thì ông Quế chết, để lại di chúc cho bà Hà được hưởng phần nhà và đất thuộc
sở hữu của ông quế và phần ông Quế được thừa kế của bà Cơ. Sau khi ông
Quế chết, TAND quận Bình Tân đã ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết yêu
cầu khởi kiện của ông Quế với lý do chưa có người thừa kế nghĩa vụ tố tụng.
Nay bà Hà kiện yêu cầu TAND quận Bình Tân giải quyết chia phần đất mà bà
được hưởng theo di chúc của ông Quế, đồng thời căn cứ vào hiện trạng sử
dụng đất thì chỉ yêu cầu được nhận 77m2 đất kí hiệu là B trên sơ đồ phân chia
thửa đất, trên phần diện tích này có 01 ngôi nhà cũ không còn giá trị sử dụng.
các bị đơn không đồng ý chia nhà đất theo di chúc của ông Quế, gộp chung
vào phần tài sản của bà Cơ để chia đều cho các đồng thừa kế
Trước khi đưa vụ án ra xét xử, TAND đã triệu tập các bên đương sự
đến để đối thoại, hòa giải. Tuy nhiên, do không thống nhất được hướng giải
quyết, nên TA đưa ra vụ án ra xét xử sơ thẩm. Tại bản án dân sự số
85/2016/DSST ngày 28/12/2016 của TAND quận Bình Tân quyết định: Bà
Hà được hưởng phần di sản thừa kế của ông Quế với phần diện tích đất 77,00
m2 có kí hiệu B theo sơ đồ phân thửa, kèm theo phần diện tích là 01 ngôi nhà
cấp 4; buộc bà Thanh phải tháo dỡ nhà tạm có diện tích 12m2 trên phần đất
mà bà Hà được hưởng; ông Lợi và bà thủy giao lại phần nhà được xác định
không còn giá trị sử dụng trên phần diện tích đất của bà Hà
Về vụ việc trên, quan điểm cá nhân có một số bình luận như sau:
TAND quận Bình Tân đã tổ chức hòa giải cho các bên đương sự tuy nhiên do
mâu thuẩn “gay gắt” nên công tác hòa giải không đem lại kết quả. Vì vậy, cần
phải nâng cao nghiệp vụ hòa giải cho các cán bộ TA để công tác hòa giải đem
lại hiệu quả. Qua bản án nhận thấy tranh chấp đất đai rất phức tạp, nội dung
tranh chấp diễn ra từ rất lâu và qua nhiều đời, nội dung pháp luật giải quyết
liên quan đến nhiều vấn đề như: Thừa kế, quan hệ gia đình, tài sản…
Vụ thứ ba: Tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa nguyên đơn bà Phan Thị Hạnh và bị
đơn Nguyễn Xuân Dũng cùng trú tại quận Bình Tân.
Ông Dũng và bà Hạnh có làm ăn chung, bà Hạnh nhận chuyển nhượng
1602 m2 đất tại phường An Lạc, quận Bình Tân, sau đó chuyển nhượng lại ½
diện tích đất và tài sản gắn liền với đất cho ông Dũng và được cấp chứng nhận
quyền sử dụng đất số BG 714718 đứng tên bà và ông Dũng. Sau này, bà Hạnh
vay của ông Dũng 105.000.000 và hai bên đến văn phòng công chứng ký hợp
đồng chuyển nhượng ½ diện tích đất của bà hà sang cho ông Dũng; đồng thời
hai bên cũng viết giấy hẹn đến ngày 28/3/2014 mà bà Hạnh không trả được
nợ thì ông Dũng được quyền đi làm thủ tục trước bạ sang tên cho ông đối với
½ diện tích đất và tài sản gắn liền với đất. đến hạn, bà Hạnh liên hệ để trả tiền
cho ông Dũng nhưng không liên lạc được và biết ông đã làm hồ sơ nhà đất tại
phòng tài nguyên và môi trường. Sau đó, bà Hạnh làm đơn khởi kiện Tại
TAND quận Bình Tân yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất.Sau khi thụ lý đơn bà Hạnh, TAND quận Bình
Tân đã mời bà Hạnh và ông Dũng cùng đại diện văn phòng công chứng và sở
tài nguyên môi trường cùng tham gia hòa giải. Ngày 20/11/2015, TAND quận
Bình Tân ra quyết định số 440/2015/DS-ST công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự.Qua đó các đương sự tự thỏa thuận được với nhau về giải quyết
tranh chấp.
Qua vụ việc, quan điểm cá nhân cho rằng: TAND quận Bình Tân đã tổ
chức hòa giải cho các bên đương sự là đúng quy định pháp luật và buổi hòa
giải có sự tham gia của đại diện Văn phòng công chứng và Sở Tài nguyên
&Môi trường tham gia đã góp phần giúp các đương sự nhận thấy được các
khía cạnh của tranh chấp và hướng đương sự thỏa thuận được với nhau.
Vụ thứ tư: Tranh chấp đòi lại đất giữa ông Trần Kim và ông Trần
Minh Dũng cùng trú tại quận Bình Tân.
Ông Kim và bà Dưỡng (vợ ông Kim, mẹ nuôi ông Dũng) kết hôn
1996, bà Dưỡng nhận nuôi ông Mạnh từ 1980 và hai người sống tại ngôi nhà
tại phường Tân Tạo, quận Bình Tân đến khi bà Dưỡng lấy ông Kim. Sau đó,
ông Kim và bà Dưỡng sửa chữa lại ngôi nhà để buôn bán, ban đêm về ngôi
nhà để ngủ.Đến 2008, bà Dưỡng chết.ông Kim yêu cầu ông Dũng trả lại nhà.
Ông Dũng có yêu cầu phản tố yêu cầu TA chia di sản thừa kế là nhà và đất
cho ông Kim và ông Mạnh là hai đồng thừa kế.
Sau khi thụ lý đơn của ông Kim và yêu cầu phản tố của ông Dũng thì
đã tiến hành mời các đương sự đến TAND quận Bình Tân để hòa giải. Tại
buổi hòa giải, Thẩm phán đã phân tích các quy định pháp luật về thừa kế, đất
đai, và những truyền thống đạo đức gia đình cho các bên đương sự. Sau buổi
hòa giải, các đương sự đã tự thỏa thuận được với nhau về hướng giải quyết và
TAND quận Bình Tân ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương
sự số 201/2014/ QĐ/DS-ST.
Qua vụ việc, các nhân có quan điểm TAND quận Bình Tân đã thành
công trong công tác hòa giải tranh chấp cho các đương sự, đồng thời, tuyên
truyền phổ biến pháp luật và đạo đức gia đình cho các các đương sự là việc
làm đem lại ý nghĩa và hiệu quả.
2.2.2. Những ưu điểm khi áp dụng biện pháp hòa giải trong giải
quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, thành phố
Hồ Chí Minh
Một là, linh hoạt về thủ tục và quy trình tiến hành hòa giải.Hòa giải có
thể được tiến hành trong nhiều bối cảnh, điều kiện khác nhau, thủ tục có thể
được thỏa thuận và điều chỉnh cho thích nghi, hợp lý. Tính linh hoạt đem lại
lợi ích là các bên được bày tỏ ý kiến lựa chọn cách giải quyết phù hợp với họ;
cho phép có những điều chỉnh khi bản chất tranh chấp phải vậy; tránh khả
năng về việc có những yêu cầu về thủ tục, quy trình phức tạp. Ngược lại,
phương thức tố tụng tại TA có một cách tổ chức cứng nhắc hơn, có những
quy định và thủ tục phải tuân thủ.Một sự khác biệt quan trọng giữa hòa giải và
biện pháp tố tụng là những thông tin và chứng cứ nào có thể được sử dụng, sử
dụng và kiểm chứng như thế nào.
Trong tố tụng, vấn đề này được điều chỉnh theo quy định về chứng cứ
và thủ tục để đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy. Trong hòa giải thường
không có quy định nào về chứng cứ và cũng không có quy định về kiểm
chứng cũng như xem xét về mặt thủ tục. Chỉ có những quy định thủ tục mở về
phương pháp nói chuyện và giao tiếp. Các bên tranh chấp được phép kể
chuyện của họ nếu thấy phù hợp và có thể biểu lộ tình cảm mà không bị bài
bác và bị cho là không có ý nghĩa.Tuy nhiên, cũng có những giới hạn đối với
tính linh hoạt của hoạt động hòa giải. Mặc dù nó không phải là một quá trình
cứng nhắc, nhưng khi các hòa giải viên hướng dẫn, các bên vẫn phải có sự
thống nhất cao trong các giai đoạn khác nhau.
Các hòa giải viên phải thực hiện một cách có hệ thống qua từng giai
đoạn của hoạt động hòa giải theo trình tự cụ thể. Điều này giúp khai thác
được từng điểm mạnh trong toàn bộ quá trình hòa giải, vì mỗi một giai đoạn
trong quá trình đó đều có cái lý lẽ riêng của nó. Vì thế, mặc dù có sự linh
hoạt, nhưng hòa giải mang tính tổ chức hơn so với những cuộc đàm phán có
tính chất tùy tiện. Một trong những đóng góp của một hòa giải viên là có thể
xác lập trật tự trong những cuộc đàm phán vô tổ chức và thiếu thống nhất.
Hai là, tính thân mật. Hòa giải và hòa giải, đối thoại tại TA luôn gắn
liền với tính thân mật và linh hoạt của nó trong giải quyết các tình huống,
giải quyết các mâu thuẫn tại phiên hòa giải. Tính thân mật là muốn nói đế
không gian và môi trường, phong thái và ngôn ngữ trong hòa giải, hành vị
giao tiếp và ứng xử của những người tham gia phiên hòa giải. Hoạt động này
phải nhìn từ góc độ trang phục ăn mặc, địa điểm tổ chức, không gian và môi
trường sống, ngôn ngữ ngữ sử dụng và thời gian tham dự. Hòa giải không có
thủ lục nghi lễ và không tuyệt đối theo quy trình tố tụng như hoạt động xét
xử. Giá trị của tính thân mật là ở chỗ nó có thể làm cho quá trình trung gian
hòa giải gần gũi và thân thiện với các bên tranh chấp, với TA, các bên có thể
chia sẻ, thông cảm và hiểu nhau hơn, giúp cho công tác hòa giải đi đúng
hướng và đem lại hiệu quả.
Ba là, đảm bảo sự tham gia của các bên trong hòa giải. Từ tính thân
mật và tính linh hoạt của hòa giải cho phép sự tham gia trực tiếp của các bên
vào quá trình này.Sự tiếp cận và tham gia trước hết dành cho các bên tranh
chấp.Trong hòa giải, các bên tranh chấp có thể nói chuyện, trao đổi, đàm phán
và thảo luận về các giải pháp trong toàn bộ quá trình.Quá trình hòa giải tạo cơ
hội cho mỗi bên bày tỏ quan điểm của mình về tranh chấp.Đây là một bước
rất quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp.Hòa giải đem lại cơ hội
cho các bên tranh chấp trình bày, đưa ra lời xin lỗi với nhau, tháo gỡ các mâu
thuận.Sự tham gia trực tiếp của các bên tranh chấp trong hòa giải là rất cần
thiết vì nó đề cao được tinh thần trách nhiệm của các bên đối với các lựa chọn
của mình. Thông thường, so với việc để những người bên ngoài như Thẩm
phán ra quyết định, thì bản thân các bên thường đưa ra những quyết định có
lợi hơn cho mình.Bằng cách này, sự tham gia có thể xóa bỏ cảm giác của các
bên khi cho rằng, họ phải chịu áp lực để đưa ra những quyết nào đó. Nếu các
bên có mặt trực tiếp thì sẽ làm chủ được quá trình hòa giải, có thể dễ dàng
ửng hộ kết quả hơn, nâng cao quyền tự quyết.
Bốn là, luôn đặt con người ở vị trí trung tâm.Trong khi phần lớn việc
giải quyết tranh chấp có xu hướng tập trung vào hành vi, tình tiết là chính, thì
hòa giải không phải đi sâu vào hành vi, tình tiết vụ án. Việc này đòi hỏi hòa
giải viên phải xem xét đến nhu cầu hiện tại cũng như mối quan tâm của các
bên. Hòa giải cho phép giải quyết vụ việc dựa trên lợi ích mong muốn của các
bên. Hòa giải viên thường không yêu cầu các bên phải thuyết phục hay làm
cho họ tin về những tình tiết thực tế, hơn nữa, họ cũng thiếu những cơ chế hỗ
trợ điều tra hoặc kiểm nghiệm sự thật mà xem cong người là vị trí trung tâm
trong hòa giải tranh chấp.
Năm là, duy trì mối quan hệ. Bên cạnh việc đặt con người ở vị trí trung
tâm, hòa giải còn đặt trọng tâm vào khía cạnh duy trì mối quan hệ. Điều này
mang ý nghĩa nhân văn hòa giải. Các bên có cơ hội thể hiện tình cảm, bày tỏ
sự quan tâm đến các quan hệ trong tương lai giữa các bên.
Hòa giải có thể duy trì hoặc cải thiện quan hệ giữa các bên nhờ việc
xem xét đến lợi ích và quan tâm thực tế của các bên, có thủ tục dễ dàng và áp
dụng phương pháp cùng tham gia, xây dựng mô hình đàm phán và các kỹ
thuật giải quyết vấn đề mang tính xây dựng, có cách quản lý xung đột đầy
tính nhân văn,... làm cho hòa giải trở thành một phương thức mềm dẻo chứ
không cứng nhắc như tố tụng tại TA.
Mặc dù hoạt động tố tụng cũng sẽ giải quyết được tranh chấp thông qua
xét xử, nhưng nó có thể dẫn đến sự thiệt hại mà không thể sửa chữa được
trong các mối quan hệ vì gắn với hoạt động tố tụng là những ngôn ngữ không
thiện chí.Thậm chí, hoạt động trọng tài cũng không thường xuyên đảm bảo
việc duy trì các mối quan hệ được tiếp tục lâu dài.
Sáu là, tạo lập quy chuẩn cho thủ tục hòa giải. Khi đưa ra quyết định,
TA phải dựa vào các quy định pháp luật, nghĩa là các quy tắc và nguyên tắc
được quy định trong các đạo luật.Trong hòa giải, các bên không viện dẫn các
quy định pháp luật để giải quyết, những các quy phạm lại có thể được các bên
rút ra từ chính kết quả giải quyết vụ việc. Trong hòa giải, các bên được tự do
áp dụng các quy tắc, nguyên tắc và chính sách mà vốn có tính ràng buộc với
TA. Thỏa thuận giữa các bên có thể đạt được trên cơ sở lợi ích chung vì nó
chỉ diễn ra vào một thời điểm cụ thể nhất định. Các bên thường có cách nhìn
của họ về lợi ích rộng hơn so với một thẩm phán. Chính vì vậy, các bên tranh
chấp mong muốn sớm đi đến một thỏa thuận giải quyết tranh chấp trước đó
mà không cần phải đề cập đến quyền và nghĩa vụ pháp lý để sao cho họ có thể
lồng trong thỏa thuận giải quyết. Đây là sự tôn trọng quyền tự định đoạt của
các bên tham gia tranh chấp. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết tranh chấp
phải tuân theo quy định pháp luật, không trái đạo đức xã hội
Bảy là, sự kín đáo, bảo mật thông tin cho các đương sự và các bên
tham gia vào tranh chấp. Sự kín đáo và bảo mật thông tin được thể hiện ở
việc phiên họp hòa giải được tổ chức kín, người ngoài chỉ có thể biết được
trình tự và nội dung nếu được các bên đồng ý; không công bố công khai nội
dung được trao đổi, đồng ý; việc công bố điều khoản giải quyết là vấn đề phải
được hai bên thỏa thuân. Trình tự, thủ tục hòa giải được tiến hành trên cơ sở
“không có sự phản cung” nghĩa là không cho phép các bên được sử dụng
những tuyên bố trong hòa giải làm chứng cứ nếu sau này phải xét xử tại TA
và hòa giải viên cũng thường bị ràng buộc bởi nguyên tắc bảo mật. Những
yêu cầu này tạo điều kiện để có các cuộc đàm phán thẳng thắn và cởi mở vì
lợi ích của một bên hay của các bên nếu muốn tránh các vấn đề riêng tư của
họ bị công bố với các đối thủ cạnh tranh làm ăn kinh doanh, những người thân
quen hoặc bạn bè [31].
2.2.3. Những vướng mắc khi áp dụng biện pháp hòa giải trong giải
quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, thành phố
Hồ Chí Minh
Quận Bình Tân có diện tích lớn và dân cư tập trung đông nên các tranh
chấp đất đai thường xuyên xảy ra và có những tranh chấp có tính chất phức
tạp, giá trị tranh chấp lớn gây khó khăn quá tải cho công tác giải quyết tranh
chấp đất đai của TAND quận Bình Tân. Cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như đội
ngủ thẩm phán, thư ký còn nhiều hạn chế về số lượng cán bộ giải quyết so với
số vụ án thụ lý giải quyết. Trình độ chuyên môn còn hạn chế, đặc biệt là các
kỹ năng hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm.
Hiện tại, TAND quận Bình Tân đã thành lập trung tâm hòa giải đối
thoại trực thuộc TAND quận Bình Tân và đi vào hoạt động. Tuy đã đem lại
nhiều hiệu quả tích cực trong công tác giải quyết các tranh chấp đất đai nhưng
vẫn còn gặp nhiều hạn chế về nhân sự quản lý, điều hành, phân công, sắp xếp
và trực tiếp vận hành trung tâm; chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa trung tâm
với TA; chuyên môn nghiệp vụ hòa giải, đối thoại còn nhiều hạn chế. Cơ sở
vật chất của trung tâm hòa giải, đối thoại còn hạn chế chưa đáp ứng đủ nhu
cầu thực tiễn công tác xét xử; Việc trả thù lao và cơ chế đãi ngộ cho hòa giải
viên và thư ký tham gia phiên hòa giải chưa đáp ứng đủ cho đời sống và đảm
bảo công việc cho những người đảm nhiệm công tác hòa giải.
Nhiều tranh chấp đất đai phức tạp, phát sinh tranh chấp từ lâu đời,
nguồn gốc đất khó xác định và liên quan đến nhiều quy định pháp luật có liên
quan trong lĩnh vực tài sản và đất đai. Vì vậy, rất khó khăn cho hòa giải viên
có thể nghiên cứu kĩ hồ sơ, tìm hiểu rõ các quy định pháp luật để có thể tư
vấn, định hướng pháp luật và tìm ra phương án cho các bên tham gia hòa giải
đem lại lợi ích tốt nhất
Việc hòa giải là một quy trình có thời gian mới đem lại kết quả và phải
trải qua nhiều lần tiếp xúc giữa các đương sự thì mới tìm ra được hướng giải
quyết. tuy nhiên có nhiều tranh chấp đất đai tại TA quận Bình Tân khi gửi
thông báo hòa giải cho các đương sự thì các đương sự thay đổi chỗ ở nên
không nhận được, hoặc vì lý do khác nhau mà không đến tham dự phiên hòa
giải, dẫn đến nhiều phiên hòa giải không tiến hành được và làm lãng phí thời
gian giải quyết tranh chấp,... Theo đó, đương sự không có mặt tại phiên hòa
giải theo thông báo thì BLTTDS chưa quy định rõ phiên hòa giải tiếp theo sẽ
được tiến hành trong thờì gian bao lâu? Số lần hòa giải tối đa là bao nhiêu
lần?Vì quy định chung chung như vậy nên thẩm phán và thư ký thường lúng
túng khi giải quyết . Không ít các trường hợp các đương sự lợi dụng vắng mặt
để trì hoản việc giải quyết, dẫn đến vụ án bị kéo dài, ảnh hưởng đến quyền lợi
hợp pháp của đương sự khác.
Theo quy định của BLTTDS hiện hành, thì trong thời hạn 07 ngày kể
từ ngày các bên đương sự trong tranh chấp thỏa thuận được với nhau về giải
quyết vụ án nếu các bên đương sự không có thay đổi, thì TA ra quyết định
công nhận sự thỏa thuận của các đướng sự, thỏa thuận có hiệu lực thi hành
ngay mà không bị kháng cáo kháng nghị, trừ một số trường hợp theo quy định
pháp luật. Trên thực tế tại, TAND quận Bình Tân thường xuyên xảy ra trường
hợp này làm cho quá trình giải quyết vụ án càng kéo dài và phức tạp hơn.
Các tranh chấp liên quan đến đất đai được TAND quận Bình Tân thụ lý
thì có những vụ án rất phức tạp, liên quan đến nhiều đương sự, giá trị lớn, liên
quan đến yếu tố nước ngoài nên sau khi thụ lý nhiều trường hợp TAND quận
Bình Tân phải chuyển hồ sơ lên TAND Thành phố Hồ Chí Minh để giải quyết
theo đúng thẩm quyền.
Kết luận chương 2
Chương 2 tổng hợp tình hình thực tiễn công tác hòa giải các tranh chấp
đất đai và công tác áp dụng pháp luật tố tụng trong giải quyết các tranh chấp
đất đai trên địa bàn quận Bình Tân và tại TAND quận Bình Tân. Từ những số
liệu và cơ sở thực tiễn hiện nay như các số liệu, báo cáo, các bản án của các
cơ quan chức năng trong giải quyết, quản lý, để làm rõ tình hình thực tiễn
hiện nay cũng như tình hình thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng trong giải
quyết các tranh chấp đất đai.
Từ những cơ sở số liệu cụ thể đó, tác giả đã thống kê, tổng hợp và phân
tích để làm rõ các vấn đề thực tiễn, thực trạng công tác hòa giải các tranh
chấp đất đai tại TAND quận Bình Tân, chỉ ra những mặt ưu điểm đem lại hiệu
quả; những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế bất cập đó
dưới góc độ lý luận và thực tiễn.
Tác giả nghiên cứu và làm rõ tình hình thực tiễn áp dụng pháp luật
TTDS trong hòa giải các tranh chấp đất đai tại TAND. Góp phần đem lại hiệu
quả hoạt động của TAND, giải quyết các tranh chấp, ổn định xã hội và phát
triển kinh tế. Từ việc làm sáng tỏ thực tiễn trên làm cơ sở để tác giả kiến nghị
những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật tố tụng dân sự trong hòa giải các tranh chấp đất đai tại TAmà
tác giả đã nghiên cứu và trình bày ngay sau đây ở Chương 3.
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HÒA GIẢI TRONGGIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
ĐẤT ĐAI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi
hành pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án
nhân dân ở Việt Nam
3.1.1. Bảo đảm nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương
sự và các nguyên tắc khác của giao lưu dân sự, kinh tế trong điều kiện của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Hiện nay các tranh chấp đất đai ngày càng phổ biến và diễn ra thường
xuyên. Tranh chấp đất đai không còn đơn thuần là tranh chấp dân sự, mà còn
mở rộng ra các tranh chấp kinh tế, thương mại liên quan đến đất đai. Vì vậy,
để đảm bảo quyền lợi và lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự thì trong quá
trình giải quyết tranh chấp liên quan đến đất đai nói chung và liên quan đến
các vấn về dân sự trong xã hội thì phải đảm bảo nguyên tắc tôn trọng quyền tự
định đoạt của các bên đương sự. Tuy nhiên, phải đặt nguyên tắc này tuân theo
quy định, định hướng của pháp luật và được quản lý, giám sát chặt chẽ thì
mới đem lại hiệu quả.
Thứ nhất:Pháp luật tố tụng dân sự hiện nay cho phép các đương sự tự
thỏa thuận với nhau về giải quyết các tranh chấp đất đai tại TA thông qua
phiên hòa giải, đối thoại trực tiêp tại TA. Vì vậy, để phát huy tuyệt đối
nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự thì kiến nghị pháp
luật tố tụng dân sự cần quy định cho phép các đương sự có thể thực hiện
quyền tự định đoạt của mình thông qua văn bản gửi đến TA chứ không cần
phải trực tiếp tham gia phiên hòa giải.
Thứ hai: Trong công tác hòa gải cần phải tích cực tuyên truyền, phổ
biến quy định pháp luật cho các đương sự hiểu, phân tích những mặt lợi, hại
cho các bên. Đồng thời, phải giám sát chặt chẽ nội dung thỏa thuận giữa các
bên về việc giải quyết vụ án là đúng quy định pháp luật, không trái với đạo
đức xã hội thì mới hạn chế được sự thay đổi ý kiến của các đương sự trước
khi Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự; hạn chế
kháng nghị của VKS khi cho rằng, nội dung thỏa thuận sai quy định pháp
luật, trái với đạo đức xã hội hoặc bị xâm phạm về quyền tự định đoạt trong
quá trình hòa giải tại TA.
Kiến nghị nên tăng thời gian cho phép các đương sự thay đổi nội dung
thỏa thuận trước khi thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đướng sự từ 07 ngày tăng lên thành 15 ngày để cho các đương sự có thời gian
suy nghĩ và lựa chọn phương án giải quyết tốt hơn trước khi thẩm phán ra
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, đảm bảo quyền tự định
đoạt của mình trong giải quyết tranh chấp.
Song song với quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, TA luôn đẩy
mạnh công tác hòa giải theo tinh thần Chỉ thị 04 ngày 3/10/2017 của Chánh
án TAND tối cao về tăng cường công tác hòa giải tại TAND. Việc làm này
đặc biệt phát huy hiệu quả đối với những tranh chấp liên quan đến đất đai.
Thực tế trong thời gian qua, lượng án dân sự liên quan đến đất đai khá nhiều
nhưng nhờ làm tốt công tác hòa giải nên ngành TAND đã giảm được đáng kể
số vụ án tranh chấp đất đai, hạn chế những tranh chấp, mâu thuẫn giưa các
đương sự và còn góp phần ngăn chặn những vụ việc hình sự có thể xảy ra bắt
nguồn từ các tranh chấp đất đai.
Tỷ lệ hòa giải thành mỗi năm đạt trên 60 % tổng số án đã thụ lý, góp
phần giảm bớt mâu thuẫn nội bộ nhân dân, giữ gìn và tăng cường sự đoàn kết
trong cộng đồng dân cư. Vì vậy, trước khi tiến hành hòa giải, các thẩm phán
phải thu thập thông tin, tìm hiểu rõ vấn đề mấu chốt của sự việc, nắm vững
kiến thức pháp luật và các phong tục tập quán của từng địa phương, nguồn
gốc đất tranh chấp, nội dung tranh chấp giữa các bên. Trong quá trình giải
quyết luôn tôn trọng ý kiến của các bên đương sự, tôn trọng quyền tự đoạt của
đương sự trong vụ án; lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của các bên, đặt
vấn đề để các bên suy nghĩ, bàn bạc tìm ra những điểm chung nhất, sau đó hỏi
từng bên xem họ sẽ tự nguyện làm những gì để giải quyết mâu thuẩn. Trên cơ
sở đó các cán bộ sẽ tìm cách đưa ra một phương hướng chính thức hài hòa
quyền, lợi ích để cho các bên lựa chọn. Đồng thời, kết hợp phân tích tình
hình, giải thích có lý, có tình để các bên thấy được lợi ích của việc họ hòa giải
được với nhau hoặc phối hợp với chính quyền địa phương cấp phường, xã hay
cơ quan, đoàn thể nơi đương sự công tác, cư trú để hòa giải tới cùng vụ việc.
Trước khi hòa giải tại TA, cần phải đẩy mạnh công tác hòa giải ban đầu
ở cấp chính quyền cơ sở cho các bên đương sự trong tranh chấp đất đai. Nên
thành lập các trung tâm hòa giải, đối thoại ngay tại các cấp chính quyền cơ sở
như UBND cấp xã, UBND cấp huyện, UBND cấp tỉnh vì các cơ quan này
nắm được nội dung các tranh chấp tốt hơn và trong công tác hòa giả sẽ thực
hiện tốt hơn, giải quyết tranh chấp đem lại hiệu quả hơn. Đồng thời, tại các
cấp Tòa án nên chính thức thành lập các trung tâm hoà giải, đối thoại. Mỗi
TA phải có một trung tâm hòa giải đối thoại trực thuộc sự quản lý của cơ
quan mình, số lượng cán bộ của trung tâm, hòa giải viên, đối thoại viên phải
được đào tạo kỹ năng hòa giải đối thoại, có chuyên môn nghiệp vụ vững
vàng.
3.1.2. Xác định rõ trách nhiệm của Tòa án nhân dân phải bảo đảm
cho đương sự thực hiện quyền tự định đoạt của mình trong việc hòa giải
các vụ việc tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân
TAND phải xác định trách nhiệm hòa giải của mình đối với những
tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền phải hòa giải, phải thực hiện đúng quy
trình hòa giải, phải phân công thẩm phán, thư ký có chuyên môn, nghiệp vụ
trong công tác hòa giải để giải quyết tranh chấp cho các bên đương sự.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp tại TA luôn có sự quan tâm, giám
xác tình hình diễn biến của tranh chấp, ghi nhận và tôn trọng ý kiến của các
bên đương sự; đảm bảo cho các bên đương sự thỏa thuận trên nguyên tắc tự
nguyện, không bị ép buộc, gian dối.
Trong các giai đoạn tố tụng tại TA, phải luôn tạo điều kiện và khuyến
khích các bên đương sự tham gia tranh chấp tự đối thoại, hòa giải với nhau và
thống nhất hướng giải quyết vụ án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên đương sự, bảo đảm nguyên tắc tự định đoạt.
Để Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án đi vào cuộc sống và phát huy
hiệu quả, pháp luật tố tụng dân sự cần có quy định hướng dẫn theo hướng TA
chỉ tiến hành hòa giải, đối thoại khi đương sự có yêu cầu. Hoạt động hòa giải,
đối thoại phải được diễn ra tại trụ sở TA, chỉ tiến hành ngoài trụ sở TA khi có
các điều kiện nhất định.Bên cạnh đó cần quy định và đưa ra giới hạn nhất
định đối với các trường hợp có thể tiến hành hòa giải, đối thoại ngoài trụ sở
TA như: gặp trở ngại khách quan về tính mạng, sức khỏe, đương sự già yếu,
khuyết tật,… nhằm hướng tới đảm bảo công bằng cho các bên tranh chấp. Tòa
án chỉ tiến hành hòa giải, đối thoại khi vụ việc đó thuộc thẩm quyền của TA
và không bị trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu. Việc quy định hướng dẫn thi
hành theo những quan điểmđề xuất trên đây sẽ góp phần khẳng định vị trí, vai
trò và trách nhiệm của hoạt động hòa giải, đối thoại với hoạt động tố tụng của
TA, bảo đảm giá trị, ý nghĩa của hoạt động hòa giải, đối thoại, đồng thời góp
phần giảm tải phát sinh các vụ việc tại TA; thủ tục giải quyết các vụ việc dân
sự; hoàn thiện pháp luật; nâng cao hiệu quả công tác áp dụng pháp luật.
3.1.3. Chế định về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa
án nhân dân phải góp phần phát huy dân chủ trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, củng cố khối đoàn kết cộng đồng, khơi dậy tình tương thân
tương ái của dân tộc Việt Nam
Công tác hòa giải các tranh chấp đất đai tại TA phải phát huy mạnh mẽ
tính dân chủ, củng cố khối đoàn kết cộng đồng, khơi dây tinh thần tương thân
tương ái của dân tộc bằng cách đẩy mạnh thực hiện hiệu quả các quy chế phối
hợp đã ký kết với các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết các vụ án;
phối hợp với các cơ quan của Đảng trong báo cáo tình hình, phối hợp với các
cơ quan chuyên môn, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề
nghiệp như: Hội Luật gia, Liên đoàn Luật sư, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội
Liên hiệp phụ nữ,…
Công tác hòa giải phải tiến hành đúng quy trình, quy định và pháp luật,
bảo vệ lợi ích của nhân dân, phải công khai, minh bạch và có sự kiểm tra
giám sát của các cơ quan có liên quan và của nhân dân. Đẩy mạnh công tác
tuyên truyền vận động phổ biến pháp luật cho cho các đương sự và mở rộng
ra mọi người dân được biết.Đối với hoạt động hòa giải nói riêng và cả quá
trình giải quyết tranh chấp nói chung thì cán bộ Tòa án phải gần dân, hiểu
dân, giúp dân và học dân, tận tâm với công việc và trong quá trình giải quyết
luôn nêu cao tinh thần đoàn kết dân tộc và truyền thống dân tộc như sự thông
cảm, chia sẻ, hiếu thảo, đoàn kết anh em trong gia đình, truyền thống yêu
nước,…
Công tác hòa giải phải được thường xuyên kiểm soát, giám sát của các
cơ quan như: UBND, HĐND, VKSND, các tổ chức chính trị xã hội,… góp
phần giúp cho quá trình hòa giải được công khai, minh bạch, khách quan và
hiệu quả.
3.1.4. Chế định về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa
án nhân dân phải giản đơn, thuận lợi bảo đảm tiến hành hòa giải nhanh
chóng, hiệu quả
Công tác hòa giải tại TA về quy trình, thủ tục cần phải được đơn giản
và rút gọn về thời gian hòa giải, chi phí hòa giải, thành phần hòa giải, cơ cấu
tổ chức các phiên hòa giải. Cụ thể kiến nghị ngay sau khi TA thụ lý đơn khởi
kiện thì ngay lập tức phân công Thẩm phán và thư ký tiến hành phiên hòa
giải. Trong quá trình hòa giải cần phải linh hoạt, tùy tình huống mà xử lý để
quá trình hòa giải diễn ra nhanh chóng, thuận lợi và đem lại hiệu quả.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quảthi hành
pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân
dân ở Việt Nam
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hòa giải trong giải quyết
tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân
Luật Đất đai 2013, BLTTDS 2015 được ban hành đã tạo hành lang
pháp lý để đảm bảo quyền tự do định đoạt, quyền khởi kiện cho các đương sự
trong việc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai; tạo
cơ sở pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền gải quyết tranh chấp đất đai đem
lại hiệu quả hơn. Khắc phục những hạn chế trước đó và giúp cho quá trình
giải quyết tranh chấp đất đai tại TA đem lại hiệu quả, pháp luật hiện nay còn
những điểm chưa hợp lý cần phải được sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện. Cụ
thể:
Một là,trong thời gian tới, Tòa án nhân dân tối cao cần có văn bản quy
phạm pháp luật hướng dẫn chi tiết hơn về thủ tục hòa giải tại Tòa án, cụ thể:
- Xác định tiêu chí về “việc hòa giải không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa
vụ của đương sự vắng mặt”;
- Quy định rõ về thời hạn và phương thức lấy ý kiến của đương sự vắng
mặt trong trường hợp thẩm phán vẫn tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải khi vắng mặt họ;
- Cần quy định về hậu quả pháp lý nếu trường hợp người bảo vệ quyền
lợi của đương sự vắng mặt khi được tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên hòa
giải;
- Cần quy định về khoảng cách giữa các lần hòa giải, số lần hòa giải đối
với một vụ án tranh chấp đất đai.
Hai là, bổ sung quy định giá trị pháp lý của biên bản phiên họp hòa
giải. Việc lập biên bản hòa giải vụ tranh chấp đất đai sau khi kết thúc phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cuối
cùng, nhưng trước khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm mà các
đương sự mới thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ và việc thay đổi, bổ sung này
là vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập
đã được xác định tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải thì Tòa án có chấp nhận không? Đây là vấn đề mà
BLTTDS năm 2015 chưa quy định cụ thể, dẫn đến nhiều trường hợp vụ án bị
kéo dài, bên có nghĩa vụ trốn tránh thực hiện nghĩa vụ của mình.
Ba là, mặc dù LĐĐ 2013 đã mở rộng hơn thẩm quyền của TA trong
giải quyết tranh chấp đất đai, nhưng theo tác giả cần nghiên cứu để xác định
thời điểm phù hợp chuyển giao tất cả các tranh chấp đất đai cho TA thụ lý
giải quyết, bởi lẽ, chuyển giao thẩm quyền cho TA sẽ giảm được áp lực cho
các cơ quan nhà nước; bên cạnh đó, các tranh chấp đất đai được TA giải quyết
sẽ đảm bảo tính khách quan, công bằng, chính xác, đúng pháp luật hơn do cán
bộ làm công tác giải quyết tranh chấp đất đai tại các cơ quan nhà nước hiện
nay thường kiêm nhiệm, trình độ hiểu biết, áp dụng pháp luật hạn chế, chưa
chuyên sâu.
Bốn là, LĐĐ 2013 ghi nhận đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
đại diện chủ sở hữu. Trong đó, Nhà nước phân cấp thẩm quyền giao đất, cho
thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất và thu hồi đất quá lớn cho UBND cấp
tỉnh và UBND cấp huyện, song pháp luật đất đai lại chưa xác lập được cơ chế
phù hợp để kiểm soát, giám sát quyền đại diện chủ sở hữu đó. Điều này dẫn
đến tình trạng lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực trong quản lý và sử dụng đất
Năm là, việc xem xét, thẩm định tại chỗ nhà đất trong thực tế giải quyết
những vụ việc tranh chấp đất đai là rất quan trọng vì tính tranh chấp đặc thù,
phức tạp, giá trị lớn và có nhiều biến động. Tuy nhiên, BLTTDS lại quy định
TA chỉ được tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ tài sản khi đương sự có yêu
cầu.nếu đương sự không có yêu cầu thì TA không thể tự mình tiến hành xem
xét, thẩm định tại chỗ tài sản được. Do đó, để đảm bảo tính khách quan và
hiệu lực thi hành của bảnán phù hợp với thực tiễn thì cần quy dịnh về quyền
của TA trong việc tự mình tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ tài sản là nhà
đất đang tranh chấp khi xét thấy cần thiết.
Sáu là, Công tác ủy thác tư pháp gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, cần thiết
phải có một văn bản pháp luật quy định cụ thể về phạm vi, trình tự, thủ tục
của các cơ quan trong ủy thác tư pháp để việc ủy thác tư pháp đạt hiểu quả
cao hơn.
Bảy là, qua thực tiễn cho thấy, việc phối hợp giữa TA và các cơ quan
hành chính thường chưa hiệu quả. Các cơ quan chuyên môn thường nắm giữ
các thông tin, tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ việc tranh chấp đất đai
nhưng nhiều khi cán bộ các cơ quan này thiếu sự phối hợp trong việc cung
cấp, trích lục. Vì vậy, cần có một cơ chế xử lý thích hợp, có hiệu quả đối với
những trường hợp các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang nắm giữ thông tin, tài
liệu, chứng cứ của vụ án mà thiếu sự hợp tác hoặc không cung cấp để đảm
bảo cho việc giải quyết tranh chấp nhanh chóng, kịp thời, chính xác và đúng
pháp luật
Tám là, hiện nay pháp luật về đất đai có nhiều quy định phức tạp,
chồng chéo, nhiều văn bản quy định. Vì vậy, cần phải tập trung rà soát, thống
nhất các quy định pháp luật về đất đai từ trước đến nay để tiện cho việc tra
cứu, nghiên cứu và áp dụng trong thực tiễn. Đối với những quy định còn thiếu
sót, cần phải tập trung nghiên cứu sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình
thực tiễn.
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hòa giải
trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm
Công tác thi hành pháp luật trong thực tiễn đem lại hiệu quả là vô cùng
quan trọng. Đặc biệt, là nâng cao hiệu quả công tác hòa giải tại TA sơ thẩm
trong giải quyết các tranh chấp đất đai. Vì vậy, cần phải có những giải pháp
tích cực nhằm cải thiện và đem lại hiệu quả:
Thứ nhất, cần quán triệt sâu sắc yêu cầu của công tác hòa giải trong giải
quyết các tranh chấp đất đai. Thẩm phán, thẩm tra viên, thư ký tòa án phải
nâng cao nhận thức về vai trò quan trọng và ý nghĩa to lớn của công tác hòa
giải khi giải quyết các tranh chấp đất đaiđể chủ động, tích cực, kiên trì hòa
giải. Tất cả các vụ tranh chấp đất đai phải được Tòa án tiến hành hòa giải, trừ
những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được. Đây là
quy định bắt buộc của Bộ luật Tố tụng dân sự.Tòa án có trách nhiệm tổ chức,
chuẩn bị các điều kiện cần thiết để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết vụ tranh chấp.Thẩm phán phải giải thích, phổ biến đầy đủ, khách
quan các quy định của pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án cho
đương sự; phân tích hậu quả pháp lý của việc hòa giải thành.Trình tự, thủ tục
hòa giải phải được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Nghiêm cấm việc lợi dụng hòa giải để tiêu cực, trục lợi trong quá trình giải
quyết tranh chấp đất đai.Bảo đảm dân chủ, bình đẳng, tôn trọng sự tự nguyện
thỏa thuận và quyền tự định đoạt của các đương sự; không được lừa dối,
cưỡng ép, đe dọa, dùng vũ lực bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không
phù hợp với ý chí của họ.Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không được
vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Thứ hai, trong giải quyết các tranh chấp đất đai vì tính chất phức tạp
nên cần phải xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa TA và các cơ quan, tổ
chức có liên quan trong công tác giải quyết, thu thập thông tin, chứng cứ, tài
liệu liên quan giúp cho quá trình đánh giá chứng cứ, đánh giá sự việc khách
quan của tranh chấp nhanh hơn và giải quyết đúng quy định pháp luật
Thứ ba, cần tăng cường bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ
Thẩm phán, cán bộ TA nhằm giúp cho các thẩm phán và cán bộ nắm vững
được các kỹ năng tiến hành hòa giải, nhận thức được tính chất đặc thù trong
giải quyết các tranh chấp về đất đai từ đó nắm vững được các nguyên tắc chỉ
đạo, áp dụng đúng quy định pháp luật về đất đai, cũng như những qui định tố
tụng dân sự nhằm giải quyết tranh chấp hiệu quả. Tổ chức bồi dưỡng, tập
huấn nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm phán, Thư ký, cán bộ TAND, đặc biệt là
nghiệp vụ hòa giải. Đây là vấn đề then chốt để đảm bảo công tác giải quyết
các tranh chấp đất đai đạt hiệu quả. Thường xuyên tổ chức các lớp học, lớp
nghiệp vụ, lớp đào tạo, các hội nghị nghiên cứu để trao dồi thêm kiến thức,
chuyên môn, nghiệp vụ về hòa giải cho các đối tượng trực tiếp giải quyết
tranh chấp
Thứ tư, lồng ghép hòa giải tranh chấp với tuyên truyền, phổ biến pháp
luật cho các đương sự và toàn thể nhân dân hiểu được quy dịnh pháp luật.Từ
đó, người dân tuân thủ pháp luật và hạn chế mâu thuẩn tranh chấp.
Thứ năm, hiện nay tranh chấp đất đai ngày càng nhiều dẫn đến tình
trạng quá tải cho TA. Vì vậy, kiến nghị nên chính thức thành lập trung tâm
hòa giải, đối thoại trực thuộc sự quản lý của TA, các cán bộ của trung tâm hòa
giải, đối thoại được lựa chọn từ những người có kiến thức, am hiểu pháp luật,
có chuyên môn, nghiệp vụ hòa giải, đối thoại như: Thẩm phán, Kiểm sát viên,
Luật sư, Luật gia thực hiện công tác hòa giải trước khi vụ án được Tòa án thụ
lý. Phải quy định cụ thể tiêu chuẩn hòa giải viên phải có bằng cử nhân Luật và
phải có công tác thực tiễn pháp luật tối thiểu 05 năm.
Kết luận chương 3
Qua thực tiễn tại quận Bình Tân, một quận thuộc TP. HCM có thể thấy,
tranh chấp đất đai là một trong những tranh chấp phổ biến và cũng khó giải
quyết nhất hiện nay. Qua việc đánh giá thực trạng công tác hòa giải các tranh
chấp đất đai tại TA cấp sơ thẩm đã chỉ ra những kết quả đạt được của TAND
và những khó khăn, vướng mắc cần phải khắc phục trong thời gian tới, chỉ ra
nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc. Từ đó, tác giả có những phân
tích rõ và kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả công tác áp dụng pháp luật trong hòa giải các tranh chấp đất đai tại TA sơ
thẩm nói riêng và giải quyết các tranh chấp đất đai tại TA nói chung đem lại
hiệu quả như cải cách, sửa đổi, bổ sung những quy định pháp luật, nâng cao
trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ TA; tuyên truyền phổ biến pháp
luật…
KẾT LUẬN
Trong những năm qua, quận Bình Tân đang phát triển mạnh mẽ trên
nhiều mặt nhiều lĩnh vực, dẫn đến nhiều vấn đề phát sinh từ đất đai, nhiều
tranh chấp về đất đai thường xuyên diễn ra và có tính chất phức tạp. Do đó,
vấn đề hòa giải các tranh chấp đất đai nói chung và hòa giải tranh chấp đất đai
tại TA nói riêng đang là vấn đề cấp thiết của không chỉ địa bàn quận Bình
Tân, mà còn trên phạm vi toàn thành phố Hồ Chí Minh và cả nước.
Với vai trò là một quận diện tích lớn, dân số đông của thành phố Hồ
Chí Minh. TAND quân Bình Tân từ trước đến nay luôn tiếp nhận và xử lý
một số lượng lớn các tranh chấp đất đai. Những tranh chấp trên địa bàn quận
thường có tính chất phức tạp, khó giải quyết do tranh chấp thường xảy ra
trong nhiều thời kỳ quản lý, sử dụng đất với các chính sách pháp luật khác
nhau. Vì vậy, giải quyết tranh chấp đất đai không thỏa đáng và kịp thời sẽ trở
thành những điểm nóng tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định chính trị, trật
tự an toàn xã hội ở địa phương; tác động xấu đến tư tưởng người dân, xâm
phạm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Trong thời gian qua, TAND quân Bình Tân đã thực hiện công tác hòa
giải các tranh chấp đất đai trên địa bàn quận rất thành công và đem lại hiệu
quả tích cực, góp phần vào việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, giáo
dục ý thức tuân thủ pháp luật của người dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các đương sự, bảo đảm nguyên tắc tự định đoạt của đương sư, giảm áp
lực cho TA, rút ngắn thời gian và chi phí,… Tuy nhiên, bên cạnh những kết
quả đạt được, việc giải quyết các tranh chấp đất đai tại TAND quận Bình Tân
vẫn còn gặp khó khăn và hạn chế xuất phát từ những nguyên nhân khách quan
và chủ quan như: quy định pháp luật chưa cụ thể, rõ ràng; chưa có hướng dẫn
thi hành; quy định còn chồng chéo; năng lực trình độ, chuyên môn nghiệp vụ
của một số cán bộ TA còn hạn chế kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải; chính sách và
quy định trong lĩnh vực đất đai thường xuyên có sự cải cách và thay đổi qua
từng thời kỳ,…Điều này làm ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác hòa giải và
giải quyết các tranh chấp đất đai tại TA.
Để nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp đất đai đem lại hiệu quả
trong thực tiễn thì cần phải tiến hành đồng bộ các giải pháp như: tiếp tục rà
soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy dịnh pháp luật hướng tới hoàn
thiện pháp luật, xây dựng các chính sách về đất đai hợp lý trong tình hình hiện
nay; tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ, chuyên môn
nghiệp vụ hòa giải cho đội ngũ cán bộ TAND; tăng cường tuyên truyền phổ
biến pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật đất đai cho người dân.
Góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật và hiệu quả hoạt động hòa giải
các tranh chấp đất đai của TA.
Luận văn là công trình nghiên cứu khái quát chung về công tác hòa giải
các tranh chấp đất đai tại TAND mà cụ thể là TAND quận Bình Tân. Kế thừa
những công trình nghiên cứu về lĩnh vực này trước đó và phát triển hướng
nghiên cứu dưới góc độ hòa giải tranh chấp đất đai tại TAND quận Bình Tân
dưới góc độ khoa học pháp lý và góc độ xã hội học. Tác giả đã rất cố gắng
nghiên cứu, tuy nhiên vẫn còn nhiều thiếu sót, nhiều vấn đề hạn chế. Vì vậy,
rất mong nhận được những ý kiến, đóng góp tích cực hơn để tác giả có sự sửa
đổi, bổ sung hoàn thiện hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 8-NQ/TW ngày 24/05/2005 của Bộ
Chính trị về “ Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”.
2. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm
2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
3. Chính phủ, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của
Chính phủ về quy định chi tiết thi hành một số điều Luật đất đai đã quy định
thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai.
4. Chính phủ, Nghị định 15/2014/NĐ-CP ngày 27/02/2014 xủa
Chính phủ về quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hòa
giải cơ sở.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện đại hội Đảng thời kỳ
đổi mới ( Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), văn kiện đại hội Đảng thời kỳ
đổi mới ( Đại hội X), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), văn kiện đại hội Đảng thời kỳ
đổi mới ( Đại hội XI), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Phạm Thị Hương Lan, Luận án “ Hòa giải trong giải quyết tranh
chấp đất đai ở Việt Nam hiện nay”, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm
2017.
9. Nguyễn Thị Minh (2012), Hòa giải trong thương mại, thực trạng
hoạt động và xu hướng phát triển ở Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
số chuyên đề Pháp luật về hòa giải.
10. Lưu Bình Nhưỡng (2012), Hòa giải tranh chấp lao động, Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề Pháp luật về hòa gải.
11. Nghiên cứu hòa giải trong tranh chấp đất đai tại Việt Nam, phân
tích pháp luật hiện hành, các thực tiễn và các khuyến nghị cho cải cách, báo
cáo của Cơ quan phát triển Quóc tế Australia và Quỹ Châu Á.
12. Nhà xuất bản từ điển bách khoa (2010), Từ điển Luật học.
13. Quốc hội (1946) Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1946.
14. Quốc hội (1959) Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1959.
15. Quốc hội (1980) Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1980.
16. Quốc hội (1992) Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1992.
17. Quốc hội (2013) Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 200 ( sửa đổi, bổ sung năm 2001).
18. Quốc hội (2013) Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013.
19. Quốc hội (2013), Luật Đất đai ngày 26/11/2003, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
20. Quốc hội ( 2015), Luật Hòa giải cơ sở ngày 20/06/2013, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
21. Trần Văn Quảng (1999),Hòa giải- Một phương thức phát huy
dân chủ ở cơ sở, Thông tin khoa học pháp lý số 2, Hà Nội.
22. Trần văn Quảng ( 2004), “Chế định hòa giải trong pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam- Cơ sỏ lý luận và thực tiễn, Luận án Tiến sĩ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội.
23. Trần Văn Quảng ( 2008), Phương thức thương lượng, hòa giải,
trung gian ở Việt Nam, Hội thảo “Giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng tư
pháp- thực tiễn Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế”, Bộ tư pháp và Tổ chức
Phát triển Quốc tế Canada.
24. Trần Văn Quảng (2012), Một số vấn đề về chế định hòa giải
trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số
chuyên đề Pháp luật về hòa giải.
25. Nguyễn Minh Thăng (2005), Những điều hộ gia đình, các nhân
sử dụng đất cần biết, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
26. Nguyễn Phương Thảo (2012), Quản lý nhà nước về công tác
hòa giải ở cơ sở, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề Pháp luật về
hòa giải.
27. Ủy ban nhân dân quận Bình Tân (2013), Báo cáo tổng kết năm
2013, Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh.
28. Ủy ban nhân dân quận Bình Tân (2014), Báo cáo số
33/2019/BC-TAND-BT về công tác giải quyết các tranh chấp dân sự tại
TAND quận Bình Tân.
29. Wikibedia, “ Hòa giải”, Trang điện tử bách khoa toàn thư mở,
phien-toa-so-tham-phuc-tham>, (20/3/2018).
30. Wikibedia, “ Hòa giải tại Tòa án”, Trang điện tử bách khoa toàn thư
mở,
tung/thu-tuc-khoi-kien-tai-toa-an-de-giai-quyet-tranh-chap-dat-dai-5261>,
(20/3/2018).
31. Wikibedia, “ Hòa giải đối thoại”, Trang điện tử bách khoa toàn thư
mở,
giai-doi-thoai-tai-toa-an-222.html>, (22/2/2019).
32. Wikibedia, “ Hòa giải đối thoại”, Trang điện tử bách khoa toàn thư
mở,
dat-dai-o-quan-hai-chau-da-nang>, (12/01/2020).
phien-toa-so-tham-phuc-tham>, (20/3/2018).
30. Wikibedia, “ Hòa giải tại Tòa án”, Trang điện tử bách khoa toàn thư
mở,
tung/thu-tuc-khoi-kien-tai-toa-an-de-giai-quyet-tranh-chap-dat-dai-5261>,
(20/3/2018).
31. Wikibedia, “ Hòa giải đối thoại”, Trang điện tử bách khoa toàn thư
mở,
giai-doi-thoai-tai-toa-an-222.html>, (22/2/2019).
32. Wikibedia, “ Hòa giải đối thoại”, Trang điện tử bách khoa toàn thư
mở,
dat-dai-o-quan-hai-chau-da-nang>, (12/01/2020).
tung/thu-tuc-khoi-kien-tai-toa-an-de-giai-quyet-tranh-chap-dat-dai-5261>,
(20/3/2018).
31. Wikibedia, “ Hòa giải đối thoại”, Trang điện tử bách khoa toàn thư
mở,
giai-doi-thoai-tai-toa-an-222.html>, (22/2/2019).
32. Wikibedia, “ Hòa giải đối thoại”, Trang điện tử bách khoa toàn thư
mở,
dat-dai-o-quan-hai-chau-da-nang>, (12/01/2020).
giai-doi-thoai-tai-toa-an-222.html>, (22/2/2019).
32. Wikibedia, “ Hòa giải đối thoại”, Trang điện tử bách khoa toàn thư
mở,
dat-dai-o-quan-hai-chau-da-nang>, (12/01/2020).
dat-dai-o-quan-hai-chau-da-nang>, (12/01/2020).