Đ Ồ N G T H

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Ị T U Y Ế T N H

I

ĐỒNG THỊ TUYẾT NHI

HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH …,, năm

N G À N H

:

I

L U Ậ T K N H T Ế

K H Ó A X

I

Đ Ợ T 1 N Ă M 2 0 1 8

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỒNG THỊ TUYẾT NHI HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: LUẬT KINH TẾ

Mã số: 83 80 107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. DƯƠNG QUỲNH HOA

HÀ NỘI, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn đề tài “Hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy

ban nhân dân cấp xã theo pháp luật đất đai từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí

Minh” là công trình nghiên cứu của bản thân. Những phần sử dụng tài liệu

tham khảo trong luận văn đều đã được trích dẫn rõ trong phần tài liệu tham

khảo. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận văn là hoàn toàn trung thực,

nếu sai sót tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Học viên

Đồng Thị Tuyết Nhi

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI

TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ ............... 8

1.1. Khái quát về tranh chấp đất đai............................................................. 8

1.2. Lý luận cơ bản về hoà giải tranh chấp đất đai tại Uỷ ban nhân dân cấp

xã ..................................................................................................................... 12

1.3. Nguyên tắc hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã .. 25

1.4. Nội dung pháp luật điều chỉnh hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban

nhân dân cấp xã ............................................................................................... 29

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN HÒA GIẢI

TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ TRÊN

ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................................. 35

2.1. Thực trạng pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân

dân cấp xã ........................................................................................................ 35

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban

nhân dân cấp xã trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh .................................. 45

CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP

LUẬT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HÒA GIẢI TRANH CHẤP

ĐẤT ĐAI TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ ......................................... 56

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại

Ủy ban nhân dân cấp xã .................................................................................. 56

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai

tại Ủy ban nhân dân cấp xã ............................................................................. 58

3.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hòa giải

tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã tại Thành phố Hồ Chí Minh .. 61

KẾT LUẬN .................................................................................................... 66

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 67

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tranh chấp đất đai là một vấn đề thời sự luôn thu hút được sự quan tâm

của dư luận xã hội ở nước ta. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam đang trong

quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,

đất đai trở thành một loại hàng hóa đặc biệt có giá trị nên vấn đề tranh chấp

đất đai có xu hướng diễn biến khá phức tạp, ảnh hưởng đến công tác quản lý,

sử dụng đất đai nói riêng và gây những bất ổn nhất định đối với đời sống kinh

tế - xã hội nói chung. Trường hợp tranh chấp đất đai kéo dài nhưng không

được giải quyết thỏa đáng sẽ làm phát sinh những điểm nóng, tạo điều kiện để

các thế lực thù địch tuyên truyền, kích động, làm giảm niềm tin của nhân dân

đối với Đảng, Nhà nước.

Nhìn chung, các cơ quan hành chính nhà nước, Tòa án nhân dân đã giải

quyết thỏa đáng được một số lượng lớn các vụ tranh chấp đất đai với mức độ

phức tạp ngày càng gia tăng. Rất khó để hạn chế xảy ra tranh chấp đất đai

trong thực tiễn, nên việc hòa giải tranh chấp đất đai như thế nào mới là điều

cần chú trọng. Hòa giải là một biện pháp nhằm giải quyết tranh chấp đất đai.

Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng pháp luật, vẫn còn một số hạn chế nên

hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai chưa thật sự hiệu quả như kỳ vọng.

Nguyên nhân là do pháp luật chưa có sự đồng bộ, thống nhất, nhiều quy định

chưa phù hợp với đời sống xã hội, đội ngũ những người giải quyết tranh chấp

đất đai chưa thật sự nhận thức đầy đủ về tính chất đặc thù của các vụ tranh

chấp đất đai,… Từ đó, việc giải quyết các tranh chấp đất đai gặp nhiều khó

khăn, vướng mắc trên thực tế.

Chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về đất đai hiện nay đã có

nhiều thay đổi để phù hợp với quá trình phát triển của đất nước, tuy nhiên,

1

vẫn còn tồn tại các quy định không nhất quán. Bên cạnh đó, việc giải thích,

hướng dẫn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa đầy đủ và kịp thời.

Vì vậy mà, công tác hòa giải tranh chấp đất đai của các cơ quan nhà nước có

thẩm quyền và tòa án nhân dân chưa đạt kết quả tích cực. Có nhiều vụ tranh

chấp đất vì hòa giải mà kéo dài trong nhiều năm, khiếu kiện kéo dài, làm giảm

lòng tin của người dân đối với đường lối chính sách của đảng, pháp luật của

nhà nước.

Thực tế thời gian qua cho thấy, tranh chấp đất đai là một trong những

tranh chấp xảy ra khá phổ biến, rất phức tạp, hầu hết phải giải quyết bằng con

đường Tòa án, đặc biệt phổ biến tại vùng có tốc độ đô thị hóa nhanh như

Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, pháp luật về hòa giải đối với tranh chấp

đất đai hiện hành chưa có sự thống nhất, cũng như chưa quy định cụ thể, từ

đó, gây ra một số bất cập cho việc giải quyết tranh chấp đất đai trong quá

trình áp dụng pháp luật trên thực tế.

Từ thực tiễn có thể thấy rõ một điều là khi đời sống phát triển sẽ kéo

theo nhiều tranh chấp, đặc biệt là tranh chấp về đất đai. Để khắc phục các hạn

chế còn tồn tại đòi hỏi cần phải xây dựng hệ thống pháp luật áp dụng hoàn

thiện. Xuất phát từ những lý do trên, học viên đã lựa chọn đề tài “Hòa giải

tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã theo pháp luật đất đai từ

thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn

thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Qua tìm hiểu và nghiên cứu, đồng thời xuất phát từ nhu cầu thực tế về

giải quyết tranh chấp đất đai, tác giả nhận thấy thời gian qua đã có một số tác

giả có công tình nghiên cứu khoa học về hòa giải tranh chấp đất đai, bên cạnh

2

đó, đề tài cũng thu hút được sự quan tâm của những người làm công tác thực

tiễn áp dụng pháp luật.

Các luận văn, luận án chuyên đề, gồm có:

- Chuyên đề: Kỹ năng giải quyết tranh chấp đất đai và hòa giải tranh

chấp đất đai – PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến giảng tại Hội thảo tập huấn Hòa

giải viên, già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng dân cư tại

Phú Yên và Sóc Trăng, năm 2015 (do Vụ PPBGDPL, Bộ Tư pháp tổ chức);

- Trần Văn Quảng (2008), Các phương thức thương lượng, hòa giải,

trung gian ở Việt Nam, tài liệu tại Hội thảo: Giải quyết tranh chấp ngoài tố

tụng tư pháp - Thực tiễn Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế, Bộ Tư pháp và Tổ

chức phát triển quốc tế Canada (Dự án hỗ trợ cải cách pháp luật);

Các chuyên đề nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí, bao gồm:

- “Thủ tục hòa giải ở cấp cơ sở đối với tranh chấp đất đai theo quy

định của luật đất đai 2003”, TS. Nguyễn Minh Hằng, Tạp chí kiểm sát, số

3/2008;

- “Về hòa giải tranh chấp đất đai”, Phạm Thái Qúy, tạp chí Dân chủ và

pháp luật số 11/2009;

- “Vấn đề hòa giải tranh chấp đất đai tại ủy ban nhân dân xã, phường,

thị trấn”, Nguyễn Văn Hương. Tạp chí TAND, số 02/2012;

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên chỉ là những bài nghiên cứu

đơn lẻ trong khuôn khổ của một bài viết tạp chí. Các công trình nghiên cứu

nêu trên phần nào đã giải quyết và tiếp cận ở nhiều khía cạnh khác nhau về

công tác hòa giải nói chung và một số công trình nghiên cứu, bài viết về hòa

giải tranh chấp đất đai nói riêng.

3

Trên cơ sở kế thừa những thành quả nghiên cứu của các công trình

khoa học đã được công bố về hòa giải tranh chấp đất đai xem xét dưới góc độ

pháp luật, luận văn đi sâu tìm hiểu pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai cả

về phương diện lý luận, luật thực định và thực tiễn thực hiện.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý

luận cơ bản và pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân

cấp xã, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về hòa

giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã trên địa bàn Thành phố Hồ

Chí Minh, từ đó, đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện hệ thống pháp

luật hiện hành về hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã nhằm

nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định pháp luật về hòa giải tranh chấp đất

đai nói chung và trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

- Nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận cơ bản về hòa giải tranh

chấp đất đai như khái niệm, đặc điểm tranh chấp đất đai;

- Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy

ban nhân dân cấp xã như khái niệm, đặc điểm của hòa giải tranh chấp đất đai

tại Ủy ban nhân dân cấp xã, các nguyên tắc hòa giải, vai trò ý nghĩa của hòa

giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã, các yếu tố tác động đến

hoạt động hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã.

- Làm rõ nội dung điều chỉnh pháp luật hòa giải tranh chấp đất đai tại

Ủy ban nhân dân cấp xã, đánh giá thực trạng pháp luật về hòa giải tranh chấp

4

đất đại tại Ủy ban nhân dân cấp xã theo pháp luật hiện hành và đánh giá thực

trạng thi hành chế định pháp luật này tại Thành phố Hồ Chí Minh.

- Đưa ra định hướng và giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu

quả thi hành pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp

xã từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài: tác giả tập trung tìm hiểu, nghiên cứu

các nội dung chủ yếu sau đây:

- Các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà

nước về xây dựng, hoàn thiện pháp luật đất đai nói chung và pháp luật về hòa

giải tranh chấp đất đai nói riêng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện

nay;

- Các quy định pháp luật của Luật đất đai năm 2013 và Bộ luật Tố tụng

Dân sự năm 2015, cùng các văn bản hướng dẫn thi hành về công tác hòa giải

tranh chấp đất đai;

- Thực tiễn thi hành pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai trên trên

địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Luận văn tập trung ở những nội dung

cụ thể sau:

- Tìm hiểu những quy định về hòa giải tranh chấp đất đai của Luật Đất

đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định về hòa giải tranh

chấp đất đai tại Ủy ban Nhân dân cấp xã, phường, thị trấn;

- Tìm hiểu thực tiễn thi hành pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai

trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ khi Luật Đất đai năm 2013, Luật Hòa

giải ở cơ sở năm 2013 có hiệu lực đến nay.

5

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu trên quan điểm biện chứng của chủ nghĩa

Mác – Lênin với các phương pháp như sau: phương pháp phân tích, phương

pháp so sánh, phương pháp bình luận, phương pháp diễn giải, phương pháp

lịch sử. Trong đó:

- Chương 1: Tác giả sử dụng phương pháp bình luận, phương pháp diễn

giải, phương pháp lịch sử khi nghiên cứu tổng quan những vấn đề lý luận về

tranh chấp đất đai và pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai, đặc trưng của

hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai.

- Chương 2: Tác giả sử dụng phương pháp so sánh luật học, phương

pháp đánh giá khi tìm hiểu các quy định của pháp luật và thực trạng áp dụng

pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai.

- Chương 3: Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp tổng

hợp khi xem xét, tìm hiểu về hoàn thiện pháp luật về hòa giải trong giải quyết

tranh chấp đất đai.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Đề tài góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận và nội dung các

quy định của pháp luật hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn đã góp phần làm rõ những quy định của pháp luật về hòa giải

trong giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng tại Thành phố Hồ Chí

Minh. Qua đó, luận văn đưa ra những giải pháp, hoàn thiện và nâng cao hiệu

quả thực thi pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai của các

6

cơ quan, tổ chức trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước

nói chung.

7. Cơ cấu của luận văn

Bên cạnh phần mở đầu, kết luận cùng với danh mục tài liệu tham khảo,

nội dung của luận văn bao gồm 3 chương, như sau:

Chương 1. Những vấn đề lý luận pháp luật về hòa giải tranh chấp đất

đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã;

Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn hòa giải tranh chấp đất đai

tại Ủy ban nhân dân cấp xã trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh;

Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng

cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban

nhân dân cấp xã.

Kết luận.

7

CHƯƠNG 1.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI TRANH

CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ

1.1. Khái quát về tranh chấp đất đai

1.1.1. Khái niệm về tranh chấp đất đai

Cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu sử dụng đất ngày càng trở

nên phong phú và đa dạng. Từ ích lợi của những giai cấp trong xã hội và đòi

hỏi của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, Nhà nước đã sử dụng

pháp luật như một công cụ quản lý nhằm điều chỉnh các quan hệ đất đai, tạo

môi trường pháp lý lành mạnh cho việc khai thác và sử dụng đất có hiệu quả.

Bên cạnh đó, tạo cơ sở pháp lý vững chắc vững chắc để giải quyết có hiệu quả

những tranh chấp đất đai phát sinh trong quá trình khai thác và sử dụng đất.

Tranh chấp đất đai là một hiện tượng xã hội phổ biến. Việc giải quyết

các tranh chấp đất đai hoặc là do các bên tiến hành thông qua con đường tự

thương lượng, hòa giải, hoặc là do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực

hiện dựa trên việc áp dụng các quy định của pháp luật.

“Tranh chấp đất đai là sự mâu thuẫn, bất đồng giữa các chủ thể (sử

dụng đất) trong việc xác định ai là người có quyền sử dụng đối với một thửa

đất nhất định. Có thể nói, trong điều kiện đất đai thuộc sở hữu toàn dân, thì

tranh chấp đất đai chính là tranh chấp quyền sử dụng đất”. 1

Thực tiễn cho thấy, tranh chấp đất đai là sự tranh chấp về quyền và lợi

ích giữa các bên liên quan đến một khu đất cụ thể, mà mỗi bên đều cho rằng

1 Lưu Quốc Thái (2006), Bàn về khái niệm tranh chấp đất đai trong Luật Đất đai năm 2003, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2(33)/2006, tr. 3 – 6.

8

mình phải có quyền đó do pháp luật quy định và bảo vệ. Vậy nên, trên thực tế,

các bên trong quan hệ tranh chấp đất đai thường không thể tự giải quyết vấn

đề tranh chấp của mình mà phải yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải

quyết.

Việc giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động của cơ quan hành chính

nhà nước có thẩm quyền. Để giải quyết tranh chấp đất đai, các chủ thể có thể

tự thương lượng hoặc thỏa thuận với nhau. Pháp luật đất đai không quy định

về cách thức các bên thỏa thuận ra sao, thương lượng thế nào, mà chỉ đưa ra

các quy định điều chỉnh các hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai khi có sự

tham gia của cơ quan quyền lực nhà nước vào việc giải quyết đó. Với mục

đích nhằm thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước với tự do ý chí, tự do định đoạt

của các chủ thể và Nhà nước sẽ cung cấp một công cụ giải quyết tranh chấp

đất đai cho họ, trong trường hợp họ không thể thống nhất với nhau.

Trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau của các quan hệ pháp luật đất đai,

tranh chấp đất đai đều thể hiện dấu ấn mạnh mẽ. Trước khi Hiến pháp năm

1980 được ban hành, có ba hình thức sở hữu đất đai bao gồm: sở hữu nhà

nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân thì có thể có tranh chấp về quyền sở

hữu, về quyền – nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai. Hiến

pháp năm 1980 được ban hành, Nhà nước trở thành người đại diện cho toàn

dân thực hiện quyền sở hữu đất đai, vì thế không thể có tranh chấp về quyền

sở hữu. Đối tượng của mọi tranh chấp đất đai trong thời kì này chỉ có thể là

quyền quản lý và quyền sử dụng những diện tích đất đai nhất định. Bước sang

nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ

nghĩa cùng với những quan hệ kinh tế xã hội khác, các quan hệ đất đai cũng

phát triển hết sức đa dạng, phức tạp, đòi hỏi pháp luật phải có cơ chế điều

chỉnh phù hợp. Các giao dịch dân sự về đất đai được xác lập như chuyển đổi,

chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp, bão lãnh, góp vốn liên doanh

9

bằng giá trị sử dụng đất… cũng từ đó mà đối tượng của tranh chấp đất đai đã

có sự thay đổi, không chỉ là quyền quản lý, quyền sử dụng đất mà còn tranh

chấp trong quá trình xác lập và thực hiện các giao dịch về đất đai. 2

Theo quy định tại Điều 3 Khoản 24 Luật Đất đai năm 2013 thì “tranh

chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai

hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”.

Đất tranh chấp trong quan hệ tranh chấp đất đai, là loại đất mà giữa

người sử dụng hợp pháp đất đó với cá nhân, tổ chức khác, với nhà nước (vấn

đề bồi thường đất đai) hoặc giữa những người sử dụng chung mảnh đất đó với

nhau đang có tranh chấp về quyền sử dụng đất, về tài sản gắn liền với đất, về

ranh giới, về mục đích sử dụng đất hoặc về quyền, nghĩa vụ phát sinh trong

quá trình khai thác, sử dụng đất. Bên cạnh đó, đất tranh chấp trong quan hệ

tranh chấp đất đai còn có thể hiểu là đất đang tranh chấp giữa hai cá nhân

chưa xác định được ai là người sở hữu, sử dụng đất hợp pháp.

Tranh chấp đất đai thông thường có các dạng chủ yếu như sau: Thứ

nhất, tranh chấp đất giữa những người sử sụng với nhau về ranh giới giữa các

vùng đất, đây có thể là tranh chấp về ranh giới đất liền kề, ngõ đi… Thứ hai,

tranh chấp về quyền sử dụng đất có liên quan đến tranh chấp về địa giới hành

chính. Thứ ba, tranh chấp đòi lại đất.

Có thể nói, tranh chấp đất đai là những tranh chấp về quyền và nghĩa vụ

của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Nghĩa

là, chỉ những tranh chấp nhằm xác định ai là người có quyền sử dụng đất (bao

gồm cả việc tranh chấp ranh giới giữa các thửa đất) mới là tranh chấp đất đai.

Việc xác định loại tranh chấp nào là tranh chấp đất đai rất quan trọng, bởi vì

2 Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Đất Đai, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội

10

thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai và tranh chấp liên quan đến đất đai là

khác nhau.

1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp đất đai

Bên cạnh những đặc điểm chung của một tranh chấp dân sự, thì tranh

chấp đất đai còn mang những đặc điểm riêng, khác với những tranh chấp dân

sự, tranh chấp kinh tế, tranh chấp lao động… Sự khác biệt được thể hiện ở

những điểm như sau:

Trong quan hệ tranh chấp đất đai, chủ thể phải là người sử dụng đất

(bao gồm: người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử

dụng đất, người nhận chuyển quyền sử dụng đất) hoặc là người khác có

quyền, nghĩa vụ liên quan đến thửa đất. Nếu tranh chấp đất không phát sinh

giữa những chủ thể này với nhau liên quan đến thửa đất, thì đó là quan hệ

tranh chấp khác. Cụ thể như, tranh chấp phát sinh giữa người sử dụng đất với

cơ quan quyền lực nhà nước trong việc cho thuê đất, giao đất, thu hồi đất,

công nhận quyền sử dụng đất, thì đó là tranh chấp về khiếu kiện hành chính.

Trong quan hệ tranh chấp đất đai, đối tượng gồm có quyền quản lý,

quyền sử dụng đất và những lợi ích phát sinh từ đất đai. Trong đó, đất đai là

loại tài sản đặc biệt thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, các bên trong quan hệ

tranh chấp không có quyền sở hữu đất đai.

Nội dung của tranh chấp đất đai rất phức tạp và đa dạng. Trên thực tế,

việc quản lý và sử dụng đất ngày càng đa dạng và phức tạp thì những mâu

thuẫn xung quanh việc quản lý và sử dụng đất đai cũng trở nên trầm trọng và

gay gắt hơn.

Căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành, hòa giải gồm có các loại

hình chính như sau: hòa giải ngoài Tòa án, hòa giải tại Tòa án, và hòa giải

theo thủ tục tố tụng trọng tài. Trong đó, hòa giải ngoài tòa án bao gồm: hòa

11

giải cơ sở, hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị

trấn, hòa giải tranh chấp thương mại, hòa giải tranh chấp lao động, hòa giải

tranh chấp giữa người tiêu dùng với các cơ quan, tổ chức, cá nhân kinh doanh

hàng hóa, dịch vụ. Hòa giải tại Tòa án bao gồm: hòa giải theo tố tụng dân sự

và hòa giải thí điểm tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Căn cứ theo quy định tại Điều 3 Khoản 24 Luật Đất đai năm 2013 thì

“tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất

giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”.

Tranh chấp đất đai gắn liền với việc quản lý và sử dụng đất của các chủ

thể, vì vậy mà, nó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các bên liên

quan mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của nhà nước. Trường hợp tranh chấp đất

đai phát sinh, một bên không thực hiện được các quyền và lợi ích của mình,

từ đó sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện một số nghĩa vụ đối với Nhà nước.

Tranh chấp đất đai phát sinh gây tác động xấu về nhiều mặt như: có thể

gây mất ổn định chính trị, phá vỡ mối quan hệ xã hội, tác động không nhỏ đến

tâm lý, tinh thần của các bên, gây ra tình trạng mất ổn định, bất đồng trong

nội bộ nhân dân, làm cho những quy định của pháp luật về đất đai cũng như

chính sách của Nhà nước không được thực hiện một cách triệt để, không chỉ

ảnh hưởng đến lợi ích của các bên tranh chấp mà còn gây thiệt hại đến lợi ích

của Nhà nước và xã hội.

1.2. Lý luận cơ bản về hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân

dân cấp xã

1.2.1. Khái niệm về hòa giải tranh chấp đất đai

Hòa giải nghĩa là việc thuyết phục các bên liên quan đồng ý chấm dứt

mẫu thuẫn, xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa. Cách hiểu này mới chỉ

12

đề cập đến hành động và mục đích của việc hòa giải, tuy nhiên làm rõ được

các yếu tố như bản chất, nội dung cũng như chủ thể của hòa giải.

Trong Từ điển Luật học của Black, lại cho rằng hòa giải là “sự can

thiệp, sự làm trung gian hòa giải, hành vi của người thứ ba làm trung gian

giữa hai bên tranh chấp nhằm thuyết phục dàn xếp hoặc tranh chấp giữa

họ”.3 Như vậy, định nghĩa về hòa giải của Rothenberg đã nêu được bản chất

của hòa giải nhưng chưa nêu được hành vi, vai trò trung gian của bên thứ ba

trong hòa giải. Điều này đã khắc phục được trong Từ điển Luật học của

Black.

Hòa giải tranh chấp đất đai là một thuật ngữ được dùng khá phổ biến

trong các văn bản pháp luật đất đai. Tuy nhiên, khái niệm về hòa giải tranh

chấp đất đai lại không được giải thích, quy định cụ thể trong Luật Đất đai năm

2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai.

Nhìn chung, ta có thể khái quát được hòa giải tranh chấp đất đai có ba

yếu tố cơ bản, cụ thể:

Một là, phải tồn tại tranh chấp đất đai phát sinh giữa các.

Hai là, có sự thống nhất ý chí giữa các bên để giải quyết tranh chấp đất

đai thông qua việc nhượng bộ của mỗi bên.

Ba là, khi tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai phải có sự tham gia của

bên thứ ba trung lập để góp ý kiến tư vấn, đồng thời, công nhận thủ tục hòa

giải thành giữa các bên trong tranh chấp. Bên thứ ba làm trung gian, không

đại diện cho quyền lợi của bất cứ bên nào và không có quyền đưa ra phán

quyết.

3 Henry Campbell Black (1990), Blacks Law Dictionary, tr. 152

13

Như vậy, căn cứ vào tính chất của hòa giải và khái niệm tranh chấp đất

đai, có thể hiểu: hòa giải tranh chấp đất đai là một công cụ pháp lý nhằm giải

quyết những tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, trong đó bên thứ ba

độc lập giữ vai trò trung gian trong việc hỗ trợ các bên có tranh chấp lựa chọn

giải pháp phù hợp cho việc giải quyết các tranh chấp về quyền, lợi ích liên

quan đến quyền sử dụng đất, thỏa thuận với nhau về việc giải quyết những

quyền lợi của mình.

* Đặc điểm của hòa giải tranh chấp đất đai

Hòa giải là một hình thức giải quyết tranh chấp về dân sự rất quan

trọng và có hiệu quả. Ở nước ta hiện nay, phương thức hòa giải đã được áp

dụng nhiều trong thực tiễn, tuy nhiên, về mặt phạm vi và hiệu quả vẫn còn

khá khiêm tốn.

Đối với các nước kinh tế phát triển, có nền kinh tế thị trường thì hòa

giải được xem là biện pháp hiệu quả, mang giá trị về kinh tế cao. Tuy nhiên,

đối với Việt Nam, do chịu tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan

tác động không nhỏ đến đặc điểm hòa giải đó là: Hòa giải không chỉ mang

đến lợi ích kinh tế, giảm thiểu áp lực giải quyết tranh chấp cho các cơ quan

chức năng có thẩm quyền, mà còn mang tính chính trị sâu sắc. Cụ thể là,

thông qua hòa giải tranh chấp, người tiến hành hòa giải và cơ quan tiến hành

hòa giải có thể tuyên truyền và phổ biến các đường lối, chính sách của Đảng,

các quy định pháp luật của nhà nước. Từ đó, các bên tranh chấp nói riêng và

người dân nói chung có thể nắm rõ các quy định pháp luật của nhà nước,

đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, tiến tới chấp hành tốt các quy

định của nhà nước.

Chính vì, đối tượng của tranh chấp đất đai là quyền sử dụng đất, nên

tranh chấp đất đai là một dạng của tranh chấp dân sự. Như vậy, ngoài những

14

đặc điểm chung của hòa giải tranh chấp dân sự thì công tác hòa giải tranh

chấp đất đai còn có những đặc trưng, cụ thể là:

Thứ nhất, việc hòa giải tranh chấp đất đai không những dựa trên các

quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, mà còn

áp dụng phong tục, tập quán, quy ước, hương ước,… để vận động, thuyết

phục các bên tranh chấp.

Như chúng ta đã biết, khi tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai, trên

thực tế, yêu cầu hòa giải không chỉ nói đến việc vận dụng những quan điểm,

đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước để tiến hành hòa giải

một cách rập khuôn, cứng nhắc. Để hòa giải tranh chấp đất đai đạt hiệu quả,

ngoài việc vận dụng các quy định, tùy từng trường hợp cụ thể, phải áp dụng

cả những phong tục, tập quán, quy ước ở địa phương, bởi lẽ, khi một tranh

chấp phát sinh sẽ kéo theo nguy cơ sụp đổ của các mối quan hệ họ hàng, bạn

bè, làng xóm láng giềng,… Ngoài ra, lưu ý rằng, pháp luật được thể hiện

trong các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền

ban hành. Phong tục, tập quán được thể hiện bằng thói quen ứng xử dưới dạng

một hành động cụ thể, hoặc bằng ngôn ngữ, các quy ước của làng, bản, thôn,

tổ dân phố. Phong tục, tập quán được áp dụng trong hòa giải phải là phong

tục, tập quán tốt đẹp, không trái với quy định của pháp luật. Nếu phong tục,

tập quán, đã được quy định trong hương ước, quy ước thì phải được Chủ tịch

Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt thực hiện. Đối với các hủ tục, tập quán

lỗi thời thì tuyệt đối không được áp dụng trong quá trình tiến hành giải quyết

tranh chấp đất đai.

Thứ hai, hòa giải tranh chấp đất đai yêu cầu phải do các chủ thể am

hiểu về quy định của pháp luật về đất đai, nắm vững nguồn gốc, quá trình sử

dụng đất cũng như nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp giữa các bên.

15

Từ thực tiễn, tranh chấp đất đai là tranh chấp về tài sản có giá trị lớn,

quyền sử dụng đất có thể đã được chuyển dịch qua nhiều chủ thể khác nhau,

có nguồn gốc phức tạp, nên mức độ tranh chấp khá quyết liệt, vì vậy, chủ thể

trung gian tiến hành hòa giải tranh chấp phải là người am hiểu pháp luật về

đất đai và các ngành luật có liên quan, nắm vững nguồn gốc, quá trình sử

dụng đất và nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp giữa các bên.

Thứ ba, việc hòa giải tranh chấp đất đai được tiến hành dựa trên những

cơ sở như sau: hòa giải tranh chấp đất đai phải tôn trọng quyền định đoạt của

các bên tranh chấp; hòa giải tranh chấp cần được tiến hành kịp thời và nhanh

chóng; hòa giải tranh chấp đất đai không chỉ là nghĩa vụ của cơ quan nhà

nước thẩm quyền mà còn là trách nhiệm của cộng đồng xã hội, của mỗi người

sử dụng đất; thành viên hội đồng hòa giải nên giữ bí mật thông tin đời tư của

các bên tranh chấp; tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp,

không xâm phạp lợi ích nhà nước và lợi ích của công đồng.

1.2.2. Khái niệm hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp

Tranh chấp đất đai có thể được giải quyết theo phương thức khởi kiện

tại Tòa án nhân dân hoặc khiếu nại lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền,

tương ứng với mỗi hình thức, quy trình và thủ tục giải quyết sẽ khác khau.

Tuy nhiên, dù theo hình thức khởi kiện hay khiếu nại, thì quy định của pháp

luật luôn khuyến khích các bên tranh chấp đất tự hòa giải hoặc hòa giải tranh

chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở. Trường hợp các bên tranh chấp

không tiến hành hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có

đất tranh chấp để tiến hành hòa giải.

Hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị

trấn là một thủ tục được quy định trong pháp luật đất đai. Trường hợp các bên

16

tranh chấp không tự hòa giải hoặc không hòa giải được thông qua hòa giải ở

cơ sở, thì có thể gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn nơi có

đất tranh chấp để hòa giải. Đây là hình thức hòa giải do chính quyền cơ sở

thực hiện nhằm nhanh chóng giải quyết những bất đồng nội bộ trong nhân dân

về đất đai trên địa bàn dân cư do chính quyền địa phương trực tiếp quản lý.

Tuy nhiên, kết quả hòa giải này không có giá trị như một phán quyết của cơ

quan tư pháp.

Hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã là một quy định

rất cần thiết, vì nó giúp giữ gìn được mối quan hệ tốt đẹp trong nội bộ nhân

dân, giảm bớt áp lực giải quyết tranh chấp đất đai lên các cơ quan nhà nước

có thẩm quyền, từ đó, đảm bảo tính khả thi hơn trong việc thi hành các nội

dung trong việc giải quyết tranh chấp đất đai.

Hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã được tiến hành

bởi các thành viên của Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai. Với các thành

viên bao gồm: Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận tổ quốc cấp

xã và tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác, đại diện của

một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử

dụng đối với thửa đất đó, cán bộ địa chính, cán bộ tư pháp xã, phường, thị

trấn. Đây là việc hòa giải tại nơi có đất tranh chấp dưới hình thức bắt buộc đối

với tranh chấp đất đai.

1.2.3. Đặc điểm hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp

- Việc hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã được

tiến hành tại địa bàn nơi có đất tranh chấp

Tranh chấp đất đai luôn gắn liền với quyền sử dụng đất nên việc hòa

giải thường phải được tiến hành tại nơi có tài sản tranh chấp. Chính quyền cơ

17

sở nơi có tranh chấp đất đai quản lý về nguồn gốc, lịch sử và hiện trạng pháp

lý cũng như thực tế của tài sản tranh chấp. Vì vậy mà, cơ quan nhà nước có

thẩm quyền này sẽ có điều kiện tốt nhất để tiến hành hòa giải một cách có

hiệu quả.

- Việc hòa giải tranh chấp đất đai phải do các chủ thể am hiểu pháp

luật về đất đai, nắm rõ nguồn gốc, quá trình sử dụng đất và nguyên nhân

tranh chấp giữa các bên tiến hành công tác hòa giải.

Tranh chấp đất đai thường là những tranh chấp về tài sản có giá trị lớn,

quyền sử dụng trên thực tế, có thể đã được dịch chuyển qua nhiều chủ thể, có

nguồn gốc phức tạp nên mức độ tranh chấp thường quyết liệt, chính vì vậy,

chủ thể tiến hành công tác hòa giải tranh chấp phải là người am hiểu pháp luật

đất đai và các ngành luật có liên quan, nắm vững nguồn gốc, quá trình sử

dụng đất và nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa các bên.

- Hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị

trấn là một trong những thủ tục pháp lý mang tính chất bắt buộc.

Tính chất pháp lý bắt buộc của việc hòa giải tranh chấp đất đai do Ủy

ban nhân dân cấp xã tiến hành nói trên có những điểm đặc trưng cơ bản như

sau:

Thứ nhất, thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai do Ủy ban nhân dân cấp

xã, phường, thị trấn thực hiện là điều kiện để cơ quan quyền lực nhà nước thụ

lý, xem xét giải quyết tranh chấp đất đai.

Thứ hai, giá trí pháp lý của việc hòa giải tranh chấp đất đai do Ủy ban

nhân dân xã thực hiện ở chỗ cơ quan nhà nước có thẩm quyền có sự công

nhân đối với kết quả hòa giải tranh chấp.

18

Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai do Ủy ban nhân dân cấp xã thực

hiện cho thấy những điểm khác biệt cơ bản giữa hình thức hòa giải này với

những hình thức tự tiến hành hòa giải hoặc hòa giải cơ sở đối với tranh chấp

đất đai – vốn các hình thức hòa giải thuần túy trong nội bộ dân cư, không có

bất kỳ sự can thiệp nào từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Chính vì giữa thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai do Ủy ban nhân xã

tiến hành có sự khác biệt rõ nét so với các hình thức hòa giải tranh chấp đất

đai khác, nên căn cứ quy định pháp luật, việc hòa giải tranh chấp đất đai này

phải được thực hiện theo một trình tự thủ tục chặt chẽ.

Tuy nhiên, việc hòa giải tranh chấp đất đai do Ủy ban nhân dân xã thực

hiện không được coi là thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai của các cơ quan

nhà nước có thẩm quyền. Ở đây, Ủy ban nhân dân cấp xã không đóng vai trò

là một cấp giải quyết tranh chấp đất đai, mà chỉ đóng vai trò, là trung gian hòa

giải, giúp đỡ, hướng dẫn để các bên tranh chấp có thể đạt được thỏa thuận , xử

lý, giải quyết ổn thỏa tranh chấp. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai

theo quy định của pháp luật chỉ thuộc về cơ quan chứ năng có thẩm quyền

trên cấp xã hoặc Tòa án nhân dân. Bên cạnh đó, pháp luật về đất đai, một mặt

xác định trách nhiệm chủ yếu của Ủy ban nhân dân cấp xã trong hoạt động

hòa giải tranh chấp đất đai, mặt khác, yêu cầu “Ủy ban nhân dân cấp xã,

phường, thị trấn, phải có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận tổ quốc và các tổ

chức thành viên của mặt trận, các tổ chức xã hội khác để tiến hành thủ tục hòa

giải tranh chấp đất đai”. Điều này khẳng định vai trò của các tổ chức chính trị

xã hội trong việc hòa giải tranh chấp đất đai được thực hiện tại Ủy ban nhân

dân cấp xã, phường, thị trấn. Đồng thời cho thấy được tính rõ nét của tính xã

hội, tính tự nguyện – là đặc điểm cơ bản của hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy

ban nhân dân cấp xã - trong hoạt động này. Do đó, cần tránh khuynh hướng

xem việc hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã là một cấp

19

giải quyết tranh chấp, từ đó, xem nhẹ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước

có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai, cũng như khiến cho việc hòa giải

không đạt được kết quả như mong muốn.

- Chủ thể tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai là Ủy ban nhân dân

cấp xã, phường, thị trấn – nơi có tranh chất đất đai phát sinh.

Trường hợp các bên tranh chấp không tự hòa giải được thì có thể yêu

cầu Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn để hòa giải. Đây là hình thức

hòa giải do chính quyền cơ sở thực hiện nhằm nhanh chóng giải quyết những

bất đồng trong nội bộ nhân dân về đất đai tại địa bàn dân cư do chính quyền

cơ sở trực tiếp quản lý. Tuy nhiên, kết quả hòa giải này không có giá trị như

một phán quyết của cơ quan tư pháp.

Hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân xã được tiến hành trên

cơ sở tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự có tranh chấp. Chỉ có các

đương sự có tranh chấp mới có quyền thỏa thuận, thương lượng với nhau về

tất cả những vấn đề đang cần giải quyết trong vụ án, bởi đương sự là những

người có quyền lợi đang bị xâm hại hoặc tranh chấp.

Khi các thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai được thực hiện, các bên

tranh chấp có quyền thỏa thuận với nhau nhằm mục đích giải quyết những

mâu thuẫn về quyền lợi của bản thân trên cơ sở tự nguyện ý chí, tự do thương

lượng. Bất cứ sự tác động từ bên ngoài trái với ý muốn của các bên liên quan

đều bị coi là trái pháp luật. Chính quyền cơ sở không được cưỡng ép, bắt buộc

các bên tranh chấp thỏa thuận với nhau về giải quyết những mâu thuẫn, tranh

chấp giữa họ.

1.2.4. Vai trò, ý nghĩa của hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban

nhân dân cấp xã

20

Pháp luật là công cụ quan trọng mà Nhà nước dùng để quản lý xã hội,

quản lý nền kinh tế. Tuy nhiên, Nhà nước chỉ ban hành pháp luật mà không

có những biện pháp đảm bảo việc thực thi pháp luật, thì pháp luật không thể

phát huy được vai trò của mình. Vì vậy, cùng với việc ban hành pháp luật,

Nhà nước còn đảm bảo cho pháp luật được thực thi trên thực tiễn.

Hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân xã được xem là biện

pháp mềm dẻo, linh hoạt và hiệu quả nhằm giúp cho các bên tranh chấp có thể

tìm ra giải pháp thống nhất để tháo gỡ những mâu thuẫn, bất đồng trong quan

hệ pháp luật đất đai trên cơ sở tự nguyện, tự thỏa thuận.

Thông qua công tác hòa giải tranh chấp, nhiều tranh chấp đất đai đã

được giải quyết mà không cần mở phiên tòa xét xử. Trường hợp hòa giải

thành, có nghĩa là tranh chấp sẽ kết thúc, không những hạn chế được sự phiền

hà, tốn kém cho các bên tranh chấp mà còn giảm bớt áp lực công việc đối với

Tòa án, phù hợp với đạo lý tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam ta, giữ

được tình làng, nghĩa xóm, đảm bảo đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Đồng

thời thông qua công tác hòa giải, các đương sự sẽ hiểu thêm về đường lối,

chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đúng như lời dạy của Chủ tịch

Hồ Chí Minh: “Xét xử đúng là tốt, nhưng không phải xét xử thì càng tốt”.

Có thể nói, hòa giải tranh chấp đất đai là một phương thức giải quyết

tranh chấp hiệu quả nhất, tiết kiệm nhất, ít tốn kém về thời gian, về nhân lực,

và chi phí tố tụng của cơ quan nhà nước, của các bên tranh chấp. Vì khi các

bên tranh chấp tiến hành hòa giải giải, không bắt buộc phải xác minh, thu thập

đầy đủ tài liệu, chứng cứ liên quan đến tranh chấp đất đai. Thực tiễn cho thấy,

nhiều trường hợp tranh chấp đất đai không hòa giải được tại Ủy ban nhân dân

cấp xã, tiến hành giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự, trước khi xét xử phải

yêu cầu các đương sự cung cấp, giao nộp đầy đủ tài liệu, chứng cứ, trường

21

hợp cần thiết, Thẩm phán phải áp dụng các biện pháp nghiệp vụ để thu thập

chứng cứ, bên cạnh đó, thời gian xét xử kéo dài, sẽ tác động không nhỏ đối

với các bên tranh chấp về thời gian và vật chất.

Mặt khác, việc tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân

dân xã được tiến hành dựa trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, tự nguyện thi

hành sau khi hòa giải thành. Như vậy, sẽ giảm áp lực, sự quá tại cho cơ quan

có thẩm quyền cũng như giảm chi phí tố tụng cho các bên tranh chấp.

Công tác hòa giải tranh chấp đảm bảo được bí mật, ít ảnh hưởng đến

hoạt động bình thường của các bên tranh chấp, nhất là ít ảnh hưởng đến sản

xuất, kinh doanh. Thông thường, việc tổ chức hòa giải, chỉ có sự tham gia của

Hội đồng giải quyết tranh chấp đất đai và các bên tranh chấp. Cho nên có thể

nói, việc giải quyết tranh chấp bằng công tác hòa giải ít người biết, khi có yêu

cầu của các bên tranh chấp thì quá trình hòa giải sẽ thực hiện không công

khai, không phổ biến cho người khác biết. Như vậy, bằng biện pháp hòa giải

tranh chấp, các nội dung tranh chấp sẽ được bảo đảm bí mật, ít ảnh hưởng đến

hoạt động bình thường của cá nhân, pháp nhân có tranh chấp.

Việc xem xét giải quyết tranh chất đất đai là một trong những nội dung

quan trọng trong hoạt động quản lý của nhà nước đối với đất đai và là biện

pháp nhằm giúp cho pháp luật đất đai có thể phát huy được vai trò trong đời

sống xã hội. Thông qua việc hòa giải tranh chấp đất đai, cơ bản giải quyết

được các mâu thuẫn về đất đai, các quan hệ về đất đai được điều chỉnh một

cách phù hợp với lợi ích của nhà nước, của xã hội, và của người sử dụng đất,

giáo dục ý thức pháp luật cho công dân để ngăn ngừa những vi phạm pháp

luật khác có thể xảy ra.

Thực hiện tốt công tác hòa giải tranh chấp đất đai sẽ hạn chế được

những mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ quần chúng nhân dân, tăng cường sự

22

đoàn kết trong nhân dân, góp phần giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã

hội, gắn bó cũng như tạo sự khắng khít về tình làng, nghĩa xóm… Quá trình

thực hiện công tác hòa giải là các bên gặp nhau, trao đổi, thỏa thuận làm cho

các bên hiểu nhau hơn, nếu hòa giải thành thì sự thân thiện của các bên càng

cao, giải quyết triệt để các mâu thuẫn đã phát sinh trước đó.

Với vai trò và ý nghĩa quan trọng, hòa giải làm cho sự hiểu biết chính

sách, pháp luật về đất đai của các đương sự nói riêng và của người dân nói

chung được nâng cao. Qua đó, góp phần tăng cường ý thức pháp luật trong

nhân dân. Đồng thời, hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai cũng phải phát huy

vai trò, trách nhiệm của mình trên cơ sở những quy định của pháp luật về hòa

giải tranh chấp đất đai, các kỹ năng đã được trang bị, tập huấn, bồi dưỡng…

1.2.5. Yếu tố tác động đến hoạt động hòa giải tranh chấp đất đai tại

Ủy ban nhân dân cấp xã

Thứ nhất, quy định của pháp luật hiện hành.

Để tiến hành giải quyết tranh chấp đất đai nói riêng, các tranh chấp

khác nói chung, phải đảm bảo việc tuân thủ các quy định trong các văn bản

quy phạm pháp luật hiện hành, cụ thể như: Hiến pháp năm 2013, Luật Đất đai

năm 2013, Luật Hòa giải cơ sở năm 2013,… và các văn bản hướng dẫn thi

hành có liên quan.

Thứ hai, năng lực của các thành viên Hội đồng hòa giải tranh chấp đất

đai.

Từ những bằng chứng thu thập được trong quá trình tìm hiểu nội dung

vụ việc, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn, tranh chấp (do các bên, những

người khác có liên quan cung cấp, do thành viên Hội đồng hòa giải tự tìm

hiểu, thu thập), thành viên Hội đồng hòa giải cần xử lý để xác định đâu là

bằng chứng cần thiết, có giá trị dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự

23

phản đối của các bên là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những

tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc. Kết thúc quá

trình này, thành viên Hội đồng hòa giải ghi khái quát lại diễn biến của vụ

việc, nguyên nhân (kèm theo hệ thống bằng chứng liên quan). Đây là công

việc quan trọng trong quá trình hòa giải vụ việc. Nếu những phân tích, lập

luận của hòa giải viên dựa trên những bằng chứng không chuẩn xác, không có

giá trị, thì sẽ không thuyết phục được các bên, ảnh hưởng tới hiệu quả hòa

giải.

Vì vậy, năng lực của các thành viên Hội đồng hòa giải cần phải có kiến

thức pháp luật, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, am hiểu tường tận những

vấn đề có liên quan đến tranh chấp, hiểu rõ yêu cầu của các bên tranh chấp

cũng như kiến thức xã hội tổng quá để hướng các bên tranh chấp đến việc hòa

giải thành.

Thứ ba, tính chất phức tạp của tranh chấp đất đai.

Nếu một tranh chấp đất đai phát sinh có nhiều tình tiết phức tạp, nhiều

người có liên quan tham gia thì tất yếu, thời gian giải quyết tranh chấp sẽ kéo

dài cũng như công tác hòa giải sẽ gặp nhiều khó khăn.

Thứ tư, sự hợp tác của các bên tranh chấp.

Đây là một trong những yếu tố tác động trực tiếp đến công tác hòa giải

tranh chấp đất đai. Bởi, căn cứ theo quy định của pháp luật hiện hành, thì khi

tổ chức cuộc họp hòa giải tranh chấp đất đai, phải có sự tham gia của các bên

tranh chấp, thành viên hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai, và người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong trường hợp một trong các bên tranh chấp

vắng mặt cả lần thứ hai được triệu tập thì được coi là việc hòa giải không

thành.

24

1.3. Nguyên tác hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân

cấp xã

Thứ nhất, việc hòa giải phải phù hợp với đường lối của Đảng, chính

sách pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp

của dân tộc; tôn trọng sự tự nguyện của các bên tranh chấp; theo nguyên tắc

công khai, dân chủ, kết hợp với thuyết phục, phân tích có lý, có tình; tôn

trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, không xâm phạm lợi ích Nhà

nước, lợi ích công cộng.

Việc xây dựng các quy định về công tác hòa giải trong giải quyết tranh

chấp đất đai phải thể hiện được đây là phương tiện để các bên tranh chấp thực

hiện được quyền tự do, quyền tự nguyện cam kết, thỏa thuận và quyền tự định

đoạt của mình, xuất phát từ quyền sử dụng đất là một quyền dân sự được pháp

luật thừa nhận, chính các bên tranh chấp là chủ thể có quyền lợi trực tiếp

trong vụ việc nên họ có quyền thương lượng, thỏa thuận trên cơ sở vai trò

trung gian, hỗ trợ giải quyết tranh chấp của một bên thứ ba độc lập. Tuy

nhiên, các quy định này phải thể hiện được việc hòa giải của bên thứ ba độc

lập này hướng tới việc tìm được một thỏa thuận giữa các bên có tranh chấp

đất đai nhưng không trái với đạo đức xã hội, không vi phạm các điều cấm của

pháp luật.

Thứ hai, công tác hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp

xã phải đảm bảo phù hợp đạo đức xã hội, phong tục tập quán của nhân dân.

Bên cạnh đó, phát huy tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong nội bộ nhân

dân, quan tâm đến quyền và lợi ích hợp pháp của những đối tượng yếu thế

trong xã hội hoặc có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

Để đảm bảo công tác hòa giải tranh chấp đất đai đảm bảo được hiệu

quả thì thành viên của hội đồng hòa giải bên cạnh việc căn cứ vào các chuẩn

25

mực xã hội, phong tục tập quán mà còn cần phải nắm vững và vận dụng tốt

đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, đặc biệt là những

quy định của pháp luật liên quan trực tiếp đến công tác hòa giải. Dù vậy,

phong tục tập quán được sử dụng phải là những phong tục, tập quán tốt đẹp

trong nhân dân, không trái với các quy định của pháp luật cũng như đạo đức

của xã hội.

Thứ ba, không được lợi dụng việc hòa giải để ngăn cản các bên tranh

chấp bảo vệ quyền và lợi ích của mình theo quy định của pháp luật hoặc trốn

tránh việc xử lý vi phạm hành chính, xử lý về hình sự.

Trước khi Luật hòa giải cơ sở ra đời, Pháp lệnh hòa giải chức làm rõ

phạm vi hòa giải khi các bên tranh chấp phát sinh. Đó là nguyên nhân tạo điều

kiện cho các đối tượng lợi dụng việc hòa giải để ngăn cản các bên tranh chấp

bảo vệ quyền lợi của mình, thậm chí là trốn tránh việc xử lý hình sự, xử lý vi

phạm hành chính. Khi Luật Hòa giải cơ sở năm 2013 ra đời, đã quy định

phạm vi hòa giải cụ thể như sau:

Phạm vi hòa giải ở cơ sở được quy định với yêu cầu bảo đảm các vấn

đề sau: Công tác hòa giải cơ sở không tác động đến quá trình cơ quan chức

năng có thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm pháp luật, không được lợi dụng

việc hòa giải ở cơ sở để trốn tránh trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình

sự.

Đối tượng của hòa giải được quy định cụ thể tại Điều 3 Luật Hòa giải

cơ sở năm 2013, quy định:

“1. Việc hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh

chấp, vi phạm pháp luật, trừ các trường hợp sau đây:

a) Mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng;

26

b) Vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình, giao dịch dân sự mà theo quy

định của pháp luật tố tụng dân sự không được hòa giải;

c) Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự

hoặc bị xử lý vi phạm hành chính;

d) Mâu thuẫn, tranh chấp khác không được hòa giải ở cơ sở theo quy định

pháp luật.

2. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.”

Nghĩa là, đối tượng của hòa giải ở cơ sở là các tranh chấp, mâu thuẫn,

vi phạm mà theo quy định của pháp luật chưa đến mức bị xử lý bằng các biện

pháp hành chính hoặc biện pháp hình sự; tiến hành việc hòa giải cơ sở góp

phần giảm nguy cơ phát sinh phức tạp từ các tranh chấp, mâu thuẫn; hướng

đến xây dựng lối sống văn hóa, đoàn kết trong nội bộ nhân dân, hạn chế các

vụ, việc phải đưa đến các cơ quan hành chính nhà nước để giải quyết các

tranh chấp.

Thứ tư, kết quả sau khi tiến hành công tác hòa giải tranh chấp đất đai

tại Ủy ban nhân dân cấp xã được lập thành biên bản, phải có đầy đủ chữ ký

của các bên và xác nhận hòa giải thành hoặc hòa giải không thành của Ủy

ban nhân dân cấp xã.

Trên thực tế, việc tiến hành tổ chức hòa giải khi phát sinh tranh chất,

đặc biệt là tranh chấp đất đai, thì các cơ quan có thẩm quyền cũng như các

bên tranh chấp sẽ phải tốn rất nhiều thời gian cũng như chi phí cho việc thực

hiện. Tuy nhiên, còn tồn tại một số trường hợp có trong thành phần tham gia

hòa giải nhưng không ký vào biên bản hòa giải. Đặc biệt là, việc tiến hành

hòa giải các bên tranh chấp cũng như cơ quan có thẩm quyền đã lập biên bản

nhưng lại không có xác nhận nhận của Ủy ban nhân dân xã. Điều này dẫn đến

hệ quả, khi các bên tiến hành thủ tục khởi kiện hoặc khiếu nại lên cơ quan cấp

27

trên, các bên sẽ bị trả lại hồ sơ vì Biên bản hòa giải không đúng quy định của

pháp luật.

Thứ năm, các thành viên của Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai

phải đảm bảo tính trung lập, độc lập, khách quan.

Khi có tranh chấp đất đai phát sinh, các bên tranh chấp thường đưa ra

lý lẽ cho rằng mình đúng để bảo vệ quyền, lợi ích của bản thân, mà lại không

thấy được cái sai của minh. Do đó, khi tiến hành hòa giải, các thành viên của

Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai phải thật sự công minh, khách quan, đề

cao công bằng, lẽ phải, tìm cách thuyết phục để mỗi bên hiểu rõ cái sai của

mình. Sự độc lập, khách quan, công minh là nền tảng cho thành công của

công tác hòa giải, bên cạnh đó, đây cũng là yếu tố để các bên đặc lòng tin và

cùng nhau giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn.

Khi tiến hành thủ tục hòa giải, các thành viên của Hội đồng hòa giải

phải quan tâm đến nguyên tắc có lý, có tình. Đây được xem là nguyên tắc đặc

trưng nhất trong công tác hòa giải. Nếu thực hiện tốt nguyên tác này chính là

sự đảm bảo đạt được mục đích của việc hòa giải là giữ gìn sự đoàn kết của nội

bộ nhân dân, qua đó, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm an

ninh chính trị, an toàn xã hội.

Thứ sáu, công tác hòa giải chỉ được phép tiến hành khi các bên tranh

chấp đều có mặt.

Việc tiến hành thủ tục hòa giải tranh chấp chỉ được phép tiến hành khi

các bên tranh chấp đều có mặt. Điều này nhằm đảm bảo quyền, lợi ích chính

đáng và hợp pháp của các bên. Hiện nay, những tranh chấp đất đai phát sinh

vô cùng đa dạng và phức tạp. Do đó, các thành viên trong Hội đồng hòa giải

tranh chấp phải nắm vững các nguyên tắc trên, đồng thời không ngừng cập

28

nhật kiến thức pháp luật, xã hội để việc hòa giải phát huy hơn nữa vai trò của

nó.

1.4. Nội dung pháp luật điều chỉnh hòa giải tranh chấp đất đai tại

Ủy ban nhân dân cấp xã

1.4.1 Về thẩm quyền hòa giải

Thẩm quyền hòa giải tranh chấp đất đai thuộc về Ủy ban nhân dân cấp

xã, phường, thị trấn, nơi có đất tranh chấp.

Tranh chấp đất đai là một trong những tranh chấp xảy ra phổ biến, rất

phức tạp và đa số các tranh chấp đất đai đều phải giải quyết thông qua thủ tục

tại Tòa án. Một trong những biện pháp hữu hiệu để hạn chế việc các bên tranh

chấp khởi kiện ra Tòa để giải quyết tranh chấp là tăng cường công tác hòa

giải, đặc biệt là hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn.

Công tác hoà giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã giải quyết kịp thời, nhanh

chóng, giảm bớt khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của nhân dân. Các quyết định

thoả thuận hòa giải thành của các bên thường được các bên tự giác thực hiện.

Tuy nhiên, cũng có trường hợp, các bên tranh chấp đã thỏa thuận được với

nhau về việc giải quyết nội dung tranh chấp nhưng sau đó một bên thay đổi

không thực hiện nội dung đã hòa giải vì cho rằng nội dung thỏa thuận tại Ủy

ban nhân dân cấp xã chưa mang tính pháp lý và không có cơ chế buộc thi

hành đối với những thỏa thuận này. Điều này dẫn đến việc hòa giải tại Ủy ban

nhân dân cấp xã đôi khi chỉ mang tính hình thức, thủ tục mà chưa có hiệu quả

đi sâu vào việc giải quyết dứt điểm nội dung tranh chấp, mâu thuẫn giữa các

bên. Do vậy, việc pháp luật quy định kết quả hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp

xã có thể được Tòa án xem xét công nhận theo thủ tục việc dân sự là giải pháp

quan trọng để hoạt động hòa giải ở cơ sở thật sự có hiệu quả, không ảnh

hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp.

29

Căn cứ theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng

dẫn thi hành, thì thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp

xã là một thủ tục mang tính chất pháp lý bắt buộc.

1.4.2. Về phạm vi hòa giải

Phạm vi hòa giải đối với hoạt động hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy

ban nhân dân cấp xã là những tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không

tự hòa giải được. Việc này khác so với hoạt động hòa giải ở cơ sở.

Phạm vi của hòa giải cơ sở thông thường bao gồm: những tranh chấp

giữa các bên (do khác nhau về quan điểm sống, mâu thuẫn trong việc sử dụng

lối đi chung hoặc một số lý do khác); những tranh chấp phát sinh từ quan hệ

dân sự; tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình;…

1.4.3. Về hội đồng hòa giải

Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã bao

gồm các thành phần như sau: Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã là Chủ tịch

Hội đồng; đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã, phường, thị trấn; tổ

trưởng tổ dân phố đối với khu vực đô thị; trưởng thôn, ấp đối với khu vực

nông thôn; đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã nắm rõ về

nguồn gốc cũng như quá trình sử dụng đối với thửa đất đó; cán bộ địa chính

và cán bộ tư pháp cấp xã. Ngoài ra có thể mời đại diện Hội Nông dân, Hội

Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Hội

đồng hòa giải tranh chấp đất đai do Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định thành

lập.

Trước khi tổ chức cuộc họp hòa giải, Ủy ban nhân dân cấp xã phải gửi

thư mời đến tất cả các bên tranh chấp và thành viên tổ hòa giải. Công tác hòa

giải tranh chấp chỉ được thực hiện khi các bên tranh chấp đều có mặt. Trường

hợp, tại cuộc họp hòa giải có một bên tranh chấp hoặc người có quyền lợi,

30

nghĩa vụ liên quan vắng mặt thì phải hoãn cuộc họp hòa giải và tổ chức lại

cuộc họp hòa giải lần thứ hai. Việc hoãn cuộc họp hòa giải phải lập thành

biên bản và ghi rõ lý do hoãn cuộc họp. Hòa giải không thành là khi một trong

các bên tranh chấp vắng mặt quá lần triệu tập hòa giải thứ hai.

1.4.4. Thủ tục hòa giải

Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai, có thể hiểu là trình tự, thủ tục mà

cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành nhằm giúp đỡ các bên tranh chấp

thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp đất đai. Việc hòa giải này có

ý nghĩa hết sức quan trọng, vừa đảm bảo tiết kiệm chi phí cho các bên, giảm

bớt các giai đoạn tố tụng kéo dài, vừa giải quyết triệt để các mâu thuẫn giữa

các bên tranh chấp. Vì vậy mà, nếu không quan tâm, thực hiện thủ tục hòa

giải tranh chấp giữa các bên trong việc giải quyết tranh chấp đất đai thì quyền

lợi của các bên tranh chấp khó có thể đảm bảo.

Thông thường, khi nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất

đai, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tiến hành các thủ tục như: thẩm

tra, xác minh tìm hiểu nguyên nhân phát sinh tranh chấp, thu thập giấy tờ, tài

liệu có liên quan do các bên cung cấp về nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất

và hiện trạng sử dụng đất; thành lập Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai để

thực hiện hòa giải; tổ chức cuộc họp hòa giải có sự tham gia của các bên tranh

chấp, thành viên Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai và người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan.

Việc hòa giải tranh chấp chỉ được tiến hành trong trường hợp các bên

tranh chấp đều có mặt.

1.4.5. Hiệu lực biên bản hòa giải thành

Kết quả sau khi tiến hành thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai được lập

thành biên bản có những nội dung sau: Thời gian và địa điểm thực hiện thủ

31

tục hòa giải; thành phần tham gia hòa giải tranh chấp đất đai; tóm tắt những

nội dung tranh chấp thể hiện rõ về nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất đang

tranh chấp, nguyên nhân phát sinh tranh chấp (theo kết quả do cơ quan chức

năng tiến hành xác minh); các ý kiến của Hội đồng hòa giải tranh chấp đất

đai; các nội dung các bên tranh chấp đã được thỏa thuận, không thỏa thuận.

Biên bản hòa giải được lập sau khi tiến hành hòa giải phải có chữ ký

của tất cả các bên có mặt tại buổi hòa giải và phải đóng dấu của Ủy ban nhân

dân cấp xã nơi tiến hành hòa giải; đồng thời được cho các bên tranh chấp và

lưu hồ sơ tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Trường hợp, sau khi thông qua biên

bản hòa giải mà một trong các bên đương tranh chấp không đồng ý ký tên vào

biên bản hòa giải thì phải lập biên bản để lưu vào hồ sơ giải quyết tranh chấp

đất đai.

Công tác hoà giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã đã góp

phần giải quyết có hiệu quả các tranh chấp, tiết kiệm thời gian, chi phí, công

sức của nhân dân cũng như của Nhà nước. Việc hòa giải thành tại Ủy ban

nhân dân cấp xã do các bên thỏa thuận phương án giải quyết tranh chấp và tự

nguyện thi hành; trong trường hợp các bên không thi hành, thì có quyền yêu

cầu Tòa án giải quyết. Thực tiễn cũng cho thấy, có nhiều trường hợp các bên

đương sự đã thỏa thuận được với nhau nội dung mâu thuẫn, tranh chấp nhưng

sau đó một bên lại thay đổi không thực hiện nội dung đã hòa giải. Vì vậy kết

quả hòa giải mặc dù là thành nhưng lại không có giá trị để thi hành.

Nhằm tạo điều kiện, khuyến khích các bên tranh chấp tiến hành hòa

giải tranh chấp, các bên tham gia hòa giải thành ở cơ sở có thể thực hiện việc

đề nghị Tòa án nhân dân công nhận kết quả hòa giải thành, sau khi thống nhất

với Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp ban hành công văn số: 1503/BTP-

32

PBGDPL ngày 05/5/2017 về hướng dẫn thực hiện thủ tục yêu cầu Tòa án

công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở.

33

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Hòa giải tranh chấp đất đai được xem là một cách thức hữu hiệu để

giảm thiểu và ngăn chặn kịp thời các tranh chấp đất đai phức tạp, kéo dài.

Trên cơ sở quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai bằng các

biện pháp hòa giải, những năm qua, công tác hòa giải tranh chấp đất đai tại

Ủy ban nhân dân cấp xã đã đạt được những kết quả đáng khích lệ và ngày

càng được chú trọng.

Thông qua việc nghiên cứu, hệ thống các khái niệm về tranh chấp đất

đai, hòa giải tranh chấp đất đai nói chung, đặc biệt là hòa giải tranh chấp đất

đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn nói riêng, luận văn đã cơ bản

xây dựng một cách khá đầy đủ và hoàn chỉnh khái niệm về hòa giải tranh

chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã và những đặc điểm của công tác hòa

giải tranh chấp đất đai.

Trên cơ sở đó, luận văn cũng đã chỉ ra được những ý nghĩa cơ bản của

hòa giải tranh chấp đất đai đối với các bên tranh chấp, đối với cơ quan chức

năng có thẩm quyền và đối với trật tự xã hội.

Nội dung này sẽ là tiền để cần thiết để tìm hiểu, đánh giá thực trang

pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy

ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn. Đồng thời, đây cũng là cơ sở quan

trọng để luận văn đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp

luật, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại

Ủy ban nhân dân cấp xã.

34

CHƯƠNG 2.

THỰC TRẠNG HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI

ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1. Thực trạng pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban

nhân dân cấp xã

2.1.1. Thẩm quyền hòa giải tranh chấp đất đai

Căn cứ theo quy định tại Điều 202 Khoản 2 Luật Đất đai hiện hành thì:

“Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì

gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải”.

Điều này có nghĩa là, thẩm quyền hòa giải tranh chấp đất đai thuộc về

Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp.

Quy định về việc hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp

xã, phường, thị trấn được đặt ra với tư cách là một điều kiện bắt buộc khi thụ

lý giải quyết các tranh chấp đất đai tại các cấp Tòa án. Tính chất bắt buộc này

thể hiện ở việc cơ quan quyền lực nhà nước chỉ chấp nhận đơn yêu cầu giải

quyết tranh chấp đất đai của các bên tranh chấp khi vụ việc đã hoàn thành thủ

tục hòa giải tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp –

theo quy định tại Điều 203 Luật Đất đai năm 2013.

Việc hòa giải tranh chấp đất đai do Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện

tồn tại sự khác biệt cơ bản đối với các loại hình tự hòa giải tại cơ sở - vốn là

các hình thức hòa giải thuần túy trong nội bộ nhân dân, không có bất cứ một

sự can thiệp nào từ phía cơ quan hành chính nhà nước.

35

Chính vì sự khác biệt rõ nét giữa hòa giải tranh chấp đất đai do Ủy ban

nhân dân cấp xã tiến hành với các hình thức hòa giải tranh chấp đất đai khác,

nên căn cứ quy định của pháp luật, việc hòa giải tranh chấp đất đai phải được

tiến hành như một trình tự thủ tục tương đối chặt chẽ cụ thể là phải đảm bảo

thời gian luật định; việc hòa giải tranh chấp đất đai phải được lập thành biên

bản có chữ ký của các bên và xác nhận hòa giải thành hoặc không thành của

Ủy ban nhân dân cấp xã; và biên bản hòa giải này được gửi đến các bên tranh

chấp, lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn nơi có tranh chấp và

gửi đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Điều đáng lưu ý là, công tác hòa giải tranh chấp đất đai do Ủy ban nhân

dân xã tiến hành không phải là việc giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan

hành chính nhà nước có thẩm quyền. Ở đây, Ủy ban nhân dân cấp xã, phường,

thị trấn chỉ đóng vai trò trung gian hòa giải, giúp đỡ, hướng dẫn các bên tranh

chấp đạt được thỏa thuận, xử lý giải quyết ổn thỏa tranh chấp, không phải là

cấp giải quyết tranh chấp đất đai.

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định pháp luật chỉ

thuộc về Tòa án nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền

trên cấp xã. Theo quy định của pháp luật đất đai xác định trách nhiệm của Ủy

ban nhân dân cấp xã trong hoạt động hòa giải tranh chấp đất đai.

Căn cứ theo quy định tại Điều 38 Khoản 1 Luật đất đai năm 1993 thì:

“Nhà nước khuyến khích việc hòa giải các tranh chấp đất đai trong nhân

dân”.

Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nông dân, các tổ chức thành viên khác của Mặt

trận, các tổ chức xã hội khác, tổ chức kinh tế ở cơ sở và công dân hoà giải các

tranh chấp đất đai.

36

Như vậy, từ quy định nêu trên của Luật đất đai năm 1993 có thể thấy,

mặc dù việc hòa giải tranh chấp đất đai đã được quy định, tuy nhiên, vẫn còn

chung chung, chưa cụ thể, chưa được coi là một quy định mang tính chất bắt

buộc. Quy định này chỉ được coi là một trong các giải pháp đưa ra cho các

bên lựa chọn, Nhà nước chỉ khuyến khích chứ không bắt buộc các bên tranh

chấp phải tiến hành hòa giải các tranh chấp, từ đó tạo nên nhiều cách hiểu và

áp dụng ở các địa phương. Có nơi các bên tranh chấp đã được Ủy ban nhân

dân xã, phường, thị trấn tiến hành hòa giải trước khi cơ quan chức năng có

thẩm quyền giải quyết. Bên cạnh đó, một số địa phương khác, đương sự lại

yêu cầu giải quyết tranh chấp ngay mà không yêu cầu hòa giải. Vì vậy mà,

hiệu quả trên thực tế chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu trong giải quyết

tranh chấp đất đai tại thời điểm đó.

Các quy định về hòa giải tranh chấp đất đai trong Luật đất đai năm

2003 và Luật đất đai năm 2013 dường như đã được tăng cường hơn khi so

sánh với Luật đất đai năm 1993, đã có những quy định mới nhằm đáp ứng yêu

cầu của giải quyết tranh chấp đất đai. Việc hòa giải tranh chấp đất đai tại Điều

135 Luật đất đai năm 2003 được quy định như sau:

“1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc

giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.

2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì

gửi đơn đến Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp.”

Để cụ thể hóa các quy định trên của Luật Đất đai, Điều 159 Nghị định

số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật

đất đai năm 2003 có quy định: “Các bên tranh chấp đất đai phải chủ động

gặp gỡ để tự hòa giải; Trường hợp các bên tranh chấp không hòa giải được

37

thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp

để hòa giải”.

Nhằm thể hiện tính công khai, minh bạch và đảm bảo quyền, lợi ích

hợp pháp của các bên tham gia hòa giải, Điều 159 Khoản 2 Nghị định số

181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật

đất đai năm 2003 có quy định: “… Việc hòa giải phải được lập thành biên bản

có chữ ký của các bên và có xác nhận hòa giải thành hoặc hòa giải không

thành của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn…”

Trong trường hợp chỉ hòa giải thành được một phần tranh chấp, khi cơ

quan có thẩm quyền giải quyết phần còn tranh chấp các đương sự không có ý

kiến gì khác đối với phần đã hòa giải thành trước đây, thì cơ quan có thẩm

quyền sẽ không giải quyết phần tranh chấp mà các bên đã thỏa thuận được.

Quy định về việc hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp

xã, phường, thị trấn được đặt ra với tư cách là một điều kiện bắt buộc khi thụ

lý giải quyết các tranh chấp đất đai tại các cấp Tòa án, khi Luật đất đai năm

2003 được ban hành và nó được tiếp tục kế thừa và phát huy trong Luật đất

đai năm 2013.

Khi so sánh giữa Luật Đất đai năm 1993 và Luật Đất đai năm 2003, thì

Luật Đất đai năm 2003 đã có những quy định cụ thể, rõ ràng hơn về việc hòa

giải, thể hiện sự bắt buộc và được coi là thủ tục đầu tiên của quá trình giải

quyết tranh chấp đất đai.

Cụ thể theo Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 thì:

“Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã,

phường, thị trấn mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí thì được

giải quyết như sau:

38

1. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản

1, 2, 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do

Tòa án nhân dân giải quyết.”

Với quy định này, cách hiểu và vận dụng trong thực tiễn sẽ đi theo

hướng hòa giải tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân dân xã là một thủ tục có

tính chất pháp lý bắt buộc. Đây có thể xem là giai đoạn tiền giải quyết tranh

chấp của Tòa án nhân dân hoặc của cơ quan hành chính nhà nước có thẩm

quyền.

Tinh thần trên không được sửa đổi mà còn được tiếp thu, kế thừa

nguyên vẹn trong Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 theo hướng tranh chấp đất

đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì đương sự

mới được thực hiện quyền khởi kiện ra Tòa án giải quyết.

Việc hòa giải của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn phối hợp với

Ủy ban Mặt trận tổ quốc cấp xã và các thành viên của Mặt trận hay các tổ

chức xã hội khác tiến hành là điều kiện bắt buộc phải có trước khi Tòa án

nhận đơn khởi kiện tranh chấp đất đai của đương sự. Do đó, nếu không có tiến

hành hòa giải của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn thì các đương sự sẽ bị

coi là chưa đủ điều kiện khởi kiện theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 168

của Bộ luật Tố tụng dân sự mà theo đó, Tòa án sẽ phải trả lại đơn khởi kiện

cho đương sự (Căn cứ theo Điều 7, Điều 8 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP

ngày 03/12/2012 v/v Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ

hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng

Dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của

Bộ luật Tố tụng dân sự).

39

Trên thực tế, một vướng mắc nảy sinh là nếu vận dụng theo quan điểm

thực tiễn tại Tòa án hiện nay thì toàn bộ tranh chấp liên quan đến bất động sản

đều phải giải quyết thông qua con đường hòa giải cơ sở, kể cả các tranh chấp

hợp đồng về nhà đất, quyền sử dụng đất, giao dịch về kinh doanh bất động

sản; chia thừa kế; chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn… Điều này gây mất

thời gian và lãng phí cho các đương sự trong việc đi lại. Trường hợp vợ chồng

muốn ly hôn và chia tài sản vợ chồng là nhà đất cũng phải yêu cầu và chờ Ủy

ban nhân dân cấp xã thực hiện hoàn tất thủ tục hòa giải mới có thể kiện ra Tòa

án để yêu cầu ly hôn và chia tài sản vợ chồng.

Cách hướng dẫn này đáp ứng tốt hơn yêu cầu về bảo đảm quyền tiếp

cận công lý của công dân nhưng dường như lại mâu thuẫn với chính các quy

định của Luật đất đai năm 2003 và Luật đất đai năm 2013. Rất tiếc rằng khi

xây dựng các quy định của Luật Đất đai năm 2013 về vấn đề này, nhà lập

pháp Việt Nam đã không có những chỉnh lý để phù hợp hơn với thực tiễn thi

hành pháp luật.

2.1.2. Phạm vi hòa giải

Căn cứ vào quy định tại Điều 3 Khoản 24 Luật Đất đai năm 2013 quy

định: “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử

dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”. Quy định hiện

hành, chỉ tranh chấp về việc xem ai là người có quyền sử dụng đất thì mới bắt

buộc phải tiến hành thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất

tranh chấp.

Phạm vi hòa giải đối với hoạt động hòa giải tranh chấp đất đai là những

tranh chấp mà các bên không tự hòa giải được. Theo tinh thần của Nghị quyết

05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân

dân tối cao, tranh chấp đất đai bao gồm tranh chấp quyền sử dụng đất và các

40

tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất. Như vậy, các tranh

chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế

quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,…

đều không phải tiến hành thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân

dân cấp xã nơi có đất tranh chấp, còn tranh chấp quyền sử dụng đất được hiểu

là tranh chấp ai có quyền sử dụng đất thì phải tiến hành hòa giải tranh chấp

đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định của pháp luật.

2.1.3. Hội đồng hòa giải

Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai do Ủy ban nhân dân cấp xã quyết

định thành lập. Điểm b Khoản 1 Điều 88 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày

15/5/2014 của Chính phủ v/v quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật

Đất đai năm 2013 quy định: “Thành phần Hội đồng hòa giải tranh chấp đất

đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã gồm: Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban

nhân dân là Chủ tịch Hội đồng; đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã,

phường, thị trấn; tổ trưởng tổ dân phố đối với khu vực đô thị; trưởng thôn, ấp

đối với khu vực nông thôn; đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời tại

xã, phường, thị trấn biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa

đất đó; cán bộ địa chính, cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn. Tùy từng

trường hợp cụ thể, có thể mời đại diện Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu

chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.”

So với quy định của Luật Đất đai năm 2003 thì Luật Đất đai năm 2013

có điểm mới về thành phần Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai, đó là bổ

sung thêm tổ trưởng tổ dân phố hoặc trưởng ấp, khóm và đại diện của ít nhất

02 hộ dân sinh sống lâu đời tại xã, phường, thị trấn biết rõ về nguồn gốc và

quá trình sử dụng đối với thửa đất đó.

2.1.4. Thủ tục hòa giải

41

Hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã là thủ tục được

định trong Luật Đất đai năm 2013 trong trường hợp các bên tranh chấp không

tự hòa hòa giải hoặc không hòa giải được thông qua hòa giải ở cơ sở. Trong

đó hòa giải tranh chấp về quyền sử dụng đất là thủ tục bắt buộc và cũng là

điều kiện thụ lý vụ án tại Tòa án. Yêu cầu khởi kiện tranh chấp về quyền sử

dụng đất nếu không được tiến hành hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã thì

coi như là chưa đủ điều kiện khởi kiện. Và Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện cho

đương sự là nguyên đơn.

Trình tự thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai được quy định tại Điều 202

Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của

Chính phủ được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày

06/01/2017 của Chính phủ.

Khi nhận được đơn yêu cầu của các đương sự về giải quyết tranh chấp

đất đai, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm, thẩm quyền thực hiện các thủ

tục bao gồm:

- Tìm hiểu, xác minh các nguyên nhân phát sinh tranh chấp đất đai, thu

thập tài liệu, chứng cứ có liên quan do các bên cung cấp về nguồn gốc thửa

đất, quá trình sử dụng thửa đất và hiện trạng sử dụng thửa đất;

- Thành lập Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai để tiến hành công tác

hòa giải tranh chấp đất đai;

- Tổ chức cuộc họp hòa giải với sự tham gia của các đương sự, những

người là thành viên của Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai và người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Việc hòa giải tranh chấp đất đai giữa các bên

chỉ được tiến hành khi có mặt đầy đủ các bên tranh chấp. Trước khi tổ chức

cuộc họp hòa giải, Ủy ban nhân dân cấp xã phải gửi thư mời đến tất cả các

bên tranh chấp và thành viên tổ hòa giải. Công tác hòa giải chỉ được thực hiện

42

khi các bên tranh chấp đều có mặt. Trường hợp, tại cuộc họp hòa giải có một

bên tranh chấp hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt thì phải

hoãn cuộc họp hòa giải và tổ chức lại cuộc họp hòa giải lần thứ hai. Việc hoãn

cuộc họp hòa giải phải lập thành biên bản và ghi rõ lý do hoãn cuộc họp.

- Lập biên bản hòa giải. Biên bản hòa giải theo quy định pháp luật hiện

hành phải có đầy đủ chữ kí của Chủ tịch Hội đồng hòa giải, các bên tranh

chấp có mặt tại buổi hòa giải, các thành viên tham gia hòa giải và phải có

đóng dấu của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tiến hành hòa giải.

- Trường hợp hòa giải thành giữa các bên mà có sự thay đổi về hiện

trạng ranh giới sử dụng đất, chủ sử dụng đất thì Ủy ban nhân dân cấp xã gửi

biên bản hòa giải thành đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải

quyết theo quy định tại Điều 202 Khoản 5 Luật Đất đai năm 2013. Trường

hợp hòa giải không thành thì Ủy ban nhân dân cấp xã sẽ tiến hành lập biên

bản hòa giải không thành, sau đó, hướng dẫn các bên tranh chấp gửi đơn đến

cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp tiếp theo.

2.1.5. Hiệu lực của biên bản hòa giải thành

Khoản 2 Điều 88 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của

Chính phủ v/v quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai năm

2013 quy định: “Kết quả hòa giải tranh chấp đất đai phải được lập thành

biên bản, gồm có các nội dung: Thời gian và địa điểm tiến hành hòa giải;

thành phần tham dự hòa giải; tóm tắt nội dung tranh chấp thể hiện rõ về

nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất đang tranh chấp, nguyên nhân phát sinh

tranh chấp (theo kết quả xác minh, tìm hiểu); ý kiến của Hội đồng hòa giải

tranh chấp đất đai; những nội dung đã được các bên tranh chấp thỏa thuận,

không thỏa thuận. Biên bản hòa giải phải có chữ ký của Chủ tịch Hội đồng,

các bên tranh chấp có mặt tại buổi hòa giải, các thành viên tham gia hòa giải

43

và phải đóng dấu của Ủy ban nhân dân cấp xã; đồng thời phải được gửi ngay

cho các bên tranh chấp và lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã”.

Trường hợp, sau khi thông qua biên bản hòa giải mà một trong các bên

đương tranh chấp không đồng ý ký tên vào biên bản hòa giải thì phải lập biên

- Giải quyết trong trường hợp hòa giải không thành

bản để lưu vào hồ sơ giải quyết tranh chấp đất đai.

Có sự thay đổi về hiện trạng rang giới sử dụng đất sau khi đã hòa giải

thành, chủ sử dụng đất thì Ủy ban nhân dân cấp xã gửi biên bản hòa giải

thành đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết theo quy định tại Điều 202

Khoản 5 của Luật Đất đai năm 2013.

Trường hợp hòa giải không thành hoặc sau khi các bên đã hòa giải

thành mà có sự thay đổi ý kiến về kết quả đã hòa giải thì Ủy ban nhân dân cấp

xã tiến hành lập biên bản hòa giải không thành, sau đó hướng dẫn các bên gửi

đơn đến cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp

tiếp theo.

Người yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành tại Ủy ban nhân dân

cấp xã (là một bên hoặc cả hai bên) phải gửi đơn đến Tòa án theo quy định tại

Điều 418 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu cầu phải gửi văn bản về kết quả hòa

giải thành theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở.

Thời hạn gửi đơn: Trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày lập văn bản hòa

giải thành.

Người nộp đơn yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa

giải thành ở cơ sở phải nộp tiền tạm ứng lệ phí giải quyết việc dân sự theo quy

định tại Điều 146 Khoản 2 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 36

44

Khoản 1 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy

ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý

và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Mức lệ phí là 300.000 đồng quy định tại Danh mục án phí, lệ phí Tòa

án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14. Trường hợp

được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng lệ phí Tòa án thực hiện theo quy

định của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14.

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật hòa giải tranh chấp đất đai tại

Ủy ban nhân dân cấp xã trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

2.2.1. Khái quát về các điều kiện kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến hòa

giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã ở Thành phố Hồ Chí

Minh

Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng chuyển tiếp giữa Đông Nam

Bộ và Tây Nam Bộ, Thành phố hiện nay, gồm 19 quận và 5 huyện, với tổng

diện tích là 2.095,06 km2. Theo kết quả tổng điều tra dân số chính thức vào

ngày 01/04/2019, dân số thành phố Hồ Chí Minh là 8.993.082 người và cũng

là nơi có mật độ dân số cao nhất Việt Nam. Thành phố giữ vai trò quan trọng

bậc nhất trong nền kinh tế Việt Nam, chiếm 29,38% tổng thu ngân sách cả

nước và 21,3 tổng sản phẩm (GDP). Thành phố Hồ Chí Minh là một đầu mối

giao thông quan trọng của Việt Nam nói chung và Đông Nam Á nói riêng.

Tổng lượt khách quốc tế 9 tháng đầu năm 2019, ước tính Thành phố đón

khoảng 6,2 triệu lượt, so với cùng kỳ, tăng 14,3 %, hoàn thành 73% kế hoạch

năm 2019. Các lĩnh vực giáo dục, truyền thông, giải trí, thể thao, Thành phố

đều giữ vai trò quan trọng bậc nhất cả nước.

Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh luôn phát

huy truyền thông anh hùng, luôn tiên phong đi đầu, gương mẫu thực hiện

45

thắng lợi các chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước, xây dựng và phát

triển thành phố ngày càng giàu mạnh. Thành tựu của Thành phố đạt được

hôm nay, là kết quả của sự kế thừa, phát huy những bài học kinh nghiệm, vận

dụng sáng tạo từ thực tiễn để thành phố hội nhập và phát triển. Cán bộ, đảng

viên và các tầng lớp nhân dân thành phố đoàn kết một lòng, thực hiện thắng

lợi Nghị quyết 54/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội về thí điểm cơ

chế, chính sách đặc thù phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh, thực hiện

thành công nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội đưa thành phố: phát triển kinh

tế – văn hóa – xã hội, ổn định về an ninh chính trị, vững mạnh về quốc phòng,

góp phần cùng với cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước.

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi có được từ những yếu tố trên,

Thành phố cũng đang phải đối diện với những vấn đề khó khăn của một đô thị

lớn. Cụ thể, từ tác động của cơ chế thị trường, mật độ dân số tăng nhanh, tốc

độ đô thị hóa phát triển mạnh mẽ, dẫn đến tình trạng thiếu việc làm, ô nhiễm

môi trường, bất ổn về an ninh trật tự ngày càng gia tăng, nên trong những năm

qua, trên địa bàn thành phố vẫn còn phát sinh nhiều vấn đề tìm ẩn nguy cơ bất

ổn về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đặc biệt, phải kể đến các mâu

thuẫn là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp trong lĩnh vực đất đai thường xuyên

xảy ra và có xu hướng tăng nhanh và phức tạp, song hành với sự gia tăng về

giá trị quyền sử dụng đất trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Thực trạng

này, phản ánh được phần nào sự yếu kém về trình độ chuyên môn cũng như

sự thiếu hiểu biết pháp luật của cán bộ cơ sở, của nhân dân chưa đồng đều.

Chính vì vậy, để giải quyết triệt để các vấn đề nêu trên, chính quyền

Thành phố Hồ Chí Minh đã đồng loạt triển khai đồng bộ và có hiệu quả các

giải pháp trên nhiều lĩnh vực công tác. Trong đó, công tác tư pháp cũng được

chú trọng và có nhiều chuyển biến tích cực, từng bước đạt hiệu quả trong

46

công tác cải cách tư pháp nói riêng và cải cách hành chính nói chung. Đặc

biệt, công tác tổ chức hòa giải tranh chấp được coi trọng, góp phần làm giảm

mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, đẩy lùi tình trạng quá tải, cũng như giảm áp

lực trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa án, góp phần

vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tăng cường pháp

chế xã hội chủ nghĩa.

2.2.2. Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong hòa giải

tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã trên địa bàn Thành phố Hồ

Chí Minh

* Những thành tựu:

Với sự nỗ lực, phấn đấu của các cấp, các ngành trên địa bàn Thành phố

Hồ Chí Minh trong lĩnh vực tư pháp nói chung, và hoạt động hòa giải tranh

chấp đất đai nói riêng. Công tác củng cố, kiện toàn tổ hòa giải và hòa giải

viên; công tác tập huấn, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ

hòa giải ở cơ sở cho các cán bộ, công chức thực hiện công tác hòa giải: Nhìn

chung, Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận tổ quốc, các tổ chức là thành

viên của mặt trận đã tích cực tham gia tốt công tác tuyên truyền pháp luật và

vận động nhân dân trong các cuộc hòa giải tranh chấp đất đai. Thành viên của

Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai, nòng cốt là sự tham gia của Mặt trận tổ

quốc, các tổ chức chính trị xã hội là thành viên của Mặt trận: Hội Nông dân,

Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên, Hội Người cao

tuổi… và những người có uy tín ở địa phương. Trong quá trình diễn biến của

cuộc hòa giải, các thành viên của Hội đồng hòa giải lồng ghéo tuyên truyền,

phổ biến những chủ trương, chính sách của đảng, pháp luật của nhà nước và

các truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp để động viên các bên tranh

chấp, mâu thuẫn, nhờ vậy đã góp phần giải tỏa được những mâu thuẫn, tranh

47

chấp trong nội bộ cộng đồng dân cư, hàn gắn tình làng nghĩa xóm, tạo sự

đoàn kết, gắn bó trong nội bộ nhân dân. Theo Báo cáo số 3371/BC-STP-VP

ngày 11/6/2019 v/v Sơ kết công tác tư pháp 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ,

giải pháp công tác 6 tháng cuối năm 2019, tính đến tháng 6/2019, Thành phố

Hồ Chí Minh hiện có 2.472 tổ hòa giải, với 13.211 hòa giải viên; trong 6

tháng đầu năm 2019 tiếp nhận 611 vụ việc, trong đó, hòa giải thành là 489 vụ

việc (chiếm tỷ lệ 80,03%), hòa giải không thành là 95 vụ việc (chiếm tỷ lệ

15,55%), chưa giải quyết 27 vụ việc (chiếm tỷ lệ 4,42%).

* Những hạn chế:

- Trường hợp các bên tranh chấp khởi kiện ra Tòa án do có tranh chấp

về tài sản là quyền sử dụng đất gồm nhiều phần đất ở địa phương khác nhau

thì tồn tại một số quan điểm khác nhau về thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai

tại Ủy ban nhân dân cấp xã:

+ Quan điểm thứ nhất, cần phải yêu cầu người khởi kiện xuất trình tất

cả các biên bản hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có

các phần đất tranh chấp. Điều 202 Khoản 2 Luật Đất đai năm 2013 quy định

“tranh chấp đất đai mà các bên không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban

nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp”. Do đó, khi phát sinh tranh chấp đất

đai thì bắt buộc các bên phải tiến hành hòa giải tranh chấp tại Ủy ban nhân

dân cấp xã.

+ Quan điểm thứ hai, cho rằng, trong trường hợp tranh chấp quyền sử

dụng đất gồm nhiều phần đất ở các địa phương khác nhau thì không cần thiết

phải yêu cầu tất cả các Ủy ban nhân dân xã nơi có đất tranh chấp tiến hành

hòa giải mà chỉ cần có biên bản hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã của một

trong các phần đất tranh chấp là đủ.

48

Tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai, vì như vậy sẽ tránh gây phiền

hà cho người dân. Nếu yêu cầu người dân khi khởi kiện phải có đầy đủ các

biên bản hòa giải tại tất cả các Ủy ban nhân dân xã nơi có đất tranh chấp thì sẽ

rất mất thời gian, công sức, chi phí đi lại của người dân. Các cơ quan hành

chính nhà nước có thẩm quyền cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn Ủy

ban nhân dân nơi các đương sự gửi đơn yêu cầu hòa giải, khi tiến hành hòa

giải có thể gửi đến Ủy ban nhân dân nơi có các phần đất khác để thông báo

rằng các đương sự có tranh chấp các phần đất ở các địa phương và Ủy ban

nhân dân nơi hòa giải sẽ tiến hành thủ tục hòa giải gồm các phần đất ở các địa

phương khác.

- Tiến hành hòa giải tranh chấp dù có mặt đầy đủ thành phần theo quy

định của pháp luật

Chẳng hạn như không có sự tham gia của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các hội quần chúng

khác. Không có mặt của Tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, nhất là không có

đại diện của một số hộ dân cư sinh sống lâu đời tại khu vực có đất tranh chấp

biết rõ về nguồn gốc, quá trình sử dụng đất đối với thửa đất đó. Việc vắng mặt

đại diện của một số hộ dân cư sinh sống lâu đời tại khu vực có đất tranh chấp

biết rõ về nguồn gốc, quá trình sử dụng đất đối với thửa đất trong quá trình

hòa giải có thể nhận thấy nguyên nhân là do thành phần này là những người

không có trách nhiệm công vụ, nên việc họ không tham gia hoặc từ chối tham

gia hội đồng sẽ không có chế tài bắt buộc. Mặt khác, việc xác định được

người sinh sống lâu đời và biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với

thửa đất cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Đối với các khu vực đô thị hóa

nhanh, các mặt bằng tái định cư việc thay đổi nhân khẩu trong khu vực này

cũng rất thường xuyên, nên đối tượng sinh sống lâu đời ở các khu vực này rất

khó xác định. Đối với khu vực nông thôn thì có thể xác định được người sinh

49

sống lâu đời và biết rõ về nguồn gốc thửa đất có tranh chấp, nhưng việc mời

đối tượng này tham gia hòa giải tranh chấp về đất đai cũng không phải dễ, bởi

họ ngại va chạm, sợ mất lòng…

- Năng lực của cán bộ phụ trách chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn,

cũng như trang thiết bị thực hiện công tác đo vẽ chưa được đảm bảo

Công chức địa chính hoặc tư pháp cấp xã chưa tiến hành tìm hiểu, xác

minh nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn, việc thu thập tài liệu, chứng cứ có

liên quan do các bên cung cấp về nguồn gốc thửa đất, quá trình sử dụng thửa

đất và hiện trạng sử dụng thửa đất. Việc hồ sơ không đầy đủ, việc thẩm định,

đo vẽ cấp xã chưa đủ chuyên môn nên khó xem xét, nhận định chính xác. Vì

thế thực tế dẫn đến tình trạng tồn đọng hồ sơ, chậm trễ giải quyết bức xúc của

người dân dẫn đến việc hòa giải tại cấp cơ sở chưa thực hiện được nhanh

chóng, hiệu quả.

- Biên bản hòa giải chưa thể hiện đầy đủ nội dung

Một bên tranh chấp thường vắng mặt nhưng Tổ hòa giải không lập biên

bản về sự vắng mặt của họ cũng như hồ sơ hòa giải không thể hiện được biên

bản giao giấy mời cho chính đương sự vắng mặt. Biên bản hòa giải không thể

hiện đầy đủ, rõ ràng yêu cầu của người yêu cầu giải quyết. Từ đó, không xác

định được yêu cầu tranh chấp đã được tiến hành hòa giải hay chưa.

* Nguyên nhân:

- Nguyên nhân chủ quan:

Thứ nhất, do trình độ pháp luật và kỹ năng hòa giải của người tiến hành

thủ tục hòa giải tại địa phương còn nhiều hạn chế.

Trên thực tế đại đa số các cán bộ tham gia Hội đồng hòa giải tranh chấp

đất đai đào tạo ở trình độ đại học, tuy nhiên không phải chuyên ngành lĩnh đất

50

đai và cùng một lúc họ phải đảm nhiệm nhiều công việc khác nhau. Cho nên,

họ không thể am hiểu tường tận được hệ thống các văn bản pháp luật đất đai

qua các thời kì và ngay cả các văn bản pháp luật đất đai hiện hành. Vì vậy,

với những tranh chấp đất đai mang tính chất phức tạp, giá trị lớn họ thường tỏ

ra lúng túng, có trường hợp họ không có khả năng và trình độ để có được

những cơ sở, căn cứ pháp lý chính xác cho việc định hướng việc giải quyết

tranh chấp. Do đó, nhiều tranh chấp phức tạp thì hòa giải chỉ mang tính chất

hình thức, tổ chức thực hiện cho đủ quy trình, thủ tục để làm cơ sở cho các

đương sự thực hiện quyền yêu cầu ở các cơ quan chức năng có thẩm quyền

mà thôi.

Nếu nhìn nhận từ các báo cáo tổng kết trên thực tế, thì tỷ lệ hòa giải

không thành chiếm số lượng lớn hơn nhiều so với các vụ tranh chấp hòa giải

thành. Điều này cho thấy, chất lượng của đội ngũ cán bộ cũng là một vấn đề

đáng phải lưu ý trong thời gian tới. Bên cạnh đó, kỹ năng hòa giải của các

thành viên trong Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai cũng là một vấn đề

đáng bàn. Tiến hành công tác hòa giải, đòi hỏi người thực hiện phải phát huy

được vai trò của mình, nắm bắt được vụ việc và hiểu được tâm tư, nguyện

vọng của các bên thì việc hòa giải tranh chấp mới đạt được hiệu quả. Tuy

nhiên, trên thực tế, hầu hết những người tham gia làm công tác hòa giải (chủ

tịch Hội đồng hòa giải, đại diện Ủy ban mặt trận tổ quốc và các thành viên

của mặt trận) đều là người kiêm nhiệm. Vì vậy, kỹ năng hòa giải, trình độ

pháp luật cũng như kinh nghiệm hòa giải chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.

Thứ hai, nhận thức của một bộ phận người dân, cán bộ về vai trò của

công tác hòa giải chưa thật sự đồng đều, nên vẫn chưa có sự thống nhất trong

việc thực thi các quy định về hòa giải tranh chấp đất đai trong thực tiễn.

Nhiều người còn coi nhẹ, có tâm lý làm cho đủ thủ tục. Công tác hòa giải

51

chưa được quan tâm, tạo điều kiện, chưa cân đối được kinh phí hỗ trợ cho

công tác này.

Thứ ba, công tác khen thưởng, kịp thời biểu dương các tập thể, cá nhân

điển hành có nhiều thành tích trong công tác hòa giải cũng chưa được tổ chức

thường xuyên nên chưa tạo được sự khích lệ, động viên đối với người làm

công tác này.

Thứ tư, sự phối hợp giữa Ủy ban nhân dân với Ủy ban Mặt trận tổ quốc

và các tổ chức thành viên của mặt trận còn hạn chế. Khiến cho chất lượng của

công tác hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân xã chưa đi vào thực

chất, nhiều khi còn mang tính hình thức, đối phó.

- Nguyên nhân khách quan:

Các tranh chấp đất đai phát sinh ngày càng gay gắt, phức tạp trong bối

cảnh nền kinh tế thị trường phát triển như hiện nay. Khác với các thời kỳ bao

cấp trước đây, đất đai không có giá, thậm chí người thân, anh em, họ hàng,

bạn bè có thể thoải mái cho nhau đất không cần toan tính, ngày nay, trong nền

kinh tế thị trường, khi đất đai đã được xác định giá, người dân ý thức được giá

trị của đất, lại là giá trị rất lớn thì mỗi diện tích đất, thậm chí rất nhỏ cũng có

thể làm phát sinh tranh chấp rất lớn. Tranh chấp đất đai có khả năng lôi kéo

nhiều người, gây bất ổn chính trị, mất trật tự an toàn xã hội. Đặc biệt là tranh

chấp đất đai nảy sinh giữa các dòng họ, tài sản chung khác… thuộc quyền sử

dụng đất của nhiều chủ thể khiến cho việc giải quyết tranh chấp gặp rất nhiều

khó khăn, dẫn đến việc các bên dễ đi đến việc “tự giải quyết” bằng những con

đường không chính thức, “xã hội đen”,… Do tính chất phức tạp của các tranh

chất đất đai mà công tác hòa giải tồn tại một số khó khăn nhất định. Mặt khác,

như đã phân tích, đề cập trong luận văn, pháp luật về công tác hòa giải tranh

chấp đất đai nhìn chung đã có những hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung qua các thời

52

kỳ, song vẫn còn tồn tại những bất cập cũng là một trong các nguyên nhân

gây ra những khó khăn cho việc thực hiện công tác này trên thực tế.

2.3.3. Đánh giá chung

Trong những năm trở lại đây, công tác hòa giải tranh chấp đất đai được

chính quyền cơ sở trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh quan tâm, chú trọng.

Tranh chấp đất đai với giá trị lớn hay nhỏ, tính chất đơn giản hay phức tạp, là

tranh chấp dạng nào thì khi có đơn yêu cầu của các bên gửi đến các cấp chính

quyền, đều được kịp thời chỉ đạo các cán bộ thuộc chuyên môn nghiệp vụ tiếp

nhận và nghiên cứu hồ sơ, coi đây là trách nhiệm quan trọng và phải chủ

động, khẩn trương, minh bạch và công tâm, không qua loa, đối phó.

Trên thực tế, những năm đầu áp dụng quy định của Luật đất đai, trên

địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn xảy ra tình trạng không tiến hành

hòa giải tranh chấp đất đai khi có tranh chấp phát sinh, do cán bộ phụ trách

chưa kịp thời cập nhật văn bản quy phạm pháp luật về đất đai. Tuy nhiên, đến

nay, tình trạng này hầu như không còn ở Thành phố Hồ Chí Minh, nhờ vào

công tác tập huấn, quán triệt quy phạm pháp luật. Do đó, chất lượng của đội

ngũ cán bộ và cán thành viên tham gia hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai

ngày càng được nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng tiến hành hòa giải

tranh chấp chuyên nghiệp hơn, đáp ứng được tốt hơn và tạo được niềm tin

hơn đối với dân chúng, theo đó, kết quả hoạt động hòa giải được nâng lên

đáng kể.

Bên cạnh đó, đại diện của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên

của Mặt trận tham gia vào hội đồng hòa giải cũng được lựa chọn kỹ hơn khi

quyết định thành lập hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai theo hướng chú

trọng tới năng lực chuyên môn, trình độ, những người có uy tín trong Ủy ban

nhân dân cấp xã, phường, thị trấn và đặc biệt là những thành viên là địa diện

53

cho quyền lợi thiếu thực và gần gũi với các bên tranh chấp. Điều này góp

phần nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động hòa giải tranh chấp đất đai.

Quy trình, thủ tục, thời hạn và nội dung của hòa giải tranh chấp đất đai

được thực hiện một cách nghiêm túc và công khai đúng theo quy định của

pháp luật hiện hành. Theo đó, từ khâu tiếp nhận đơn, đến việc thành lập hội

đồng, việc quán triệt các chức năng, nhiệm vụ của người làm trung gian hòa

giải là không áp đặt, tôn trọng quyền tự nguyện, tự do ý chí và tự thỏa thuận,

tự định đoạt của các bên tranh chấp… được tôn trọng và tuân thủ tuyệt đối.

Việc phân tích, giải thích các quy định pháp luật, động viên, thuyết phục các

bên tranh chấp của hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai là trên cơ sở của sự

công bằng, vì lợi ích của các bên, trên tinh thần của pháp luật cùng với mong

muốn cho các bên hóa giải được những mâu thuẫn, tranh chấp chứ không phải

làm chiếu lệ, đối phó cho xong, đẩy trách nhiệm cho cơ quan cấp trên giải

quyết. Nhờ đó, số vụ hòa giải thành tại Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị

trấn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng tăng dần qua các năm.

54

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Pháp luật về đất đai hiện hành đã có những quy định cụ thể đối với

từng loại hình hòa giải tranh chấp đất đai. Trên cơ sở đó, việc giải quyết tranh

chấp đất đai trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được một số kết quả

đáng khích lệ. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, vẫn còn đó những hạn

chết về số lượng hòa giải thành mà nguyên nhân của hiện tượng này bắt

nguồn không chỉ trong công tác thi hành mà ngay cả trong các quy định hiện

hành về hòa giải tranh chấp đất đai.

Trên cơ sở phân tích những hạn chế còn tồn tại, luận văn đã chỉ ra

những nguyên nhân dẫn đến việc còn tồn tại những hạn chế trong công tác

hòa giải tranh chấp đất đai trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Những phân

tích đánh giá trong chương 2 của luận văn là cơ sở thực tiễn cùng với các nội

dung lý luận cơ bản ở chương 1 để tác giả đưa ra những giải pháp phù hợp

trong chương 3 của luận văn.

55

CHƯƠNG 3.

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI

TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hòa giải tranh chấp đất

đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã

Từ những hạn chế còn tồn tại trong quá trình thực thi pháp luật về hòa

giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã tại Thành phố Hồ Chí

Minh nói riêng và cả nước nói chung, có thể thấy rằng yêu cầu về việc bảo

đảm giải quyết tranh chấp đất đai có hiệu quả đã và đang trở thành một trong

những yêu cầu cấp thiết. Việc hoàn thiện pháp luật về hòa giải tranh chấp đất

đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã trong giai đoạn hiện nay ngày càng trở nên cấp

bách.

Một số đề xuất về phương hướng hoàn thiện pháp luật, cụ thể như sau:

Khi tiến hành hoàn thiện các quy định pháp luật về hòa giải tranh chấp

đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã nên quán triệt quan điểm, chủ trương phát

triển của Đảng, đảm bảo sự hài hòa giữa phát triển kinh tế, đảm bảo công

bằng xã hội cũng như quyền lợi của các chủ thể có liên quan, thống nhất công

tác quản lý nhà nước về giải quyết tranh chấp đất đai.

Đảm bảo quyền của các bên trong quá trình thực hiện các giao dịch có

liên quan đến vấn đề tranh chấp đất đai. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật về đất đai nhằm góp phần quan trọng trong hoạt động phát triển

kinh tế - xã hội Việt Nam.

56

Quá trình xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật về hòa giải

tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã cần xuất phát và nằm trong

tổng thể các chính sách, định hướng mang tính quốc gia về phát triển kinh tế -

xã hội của đất nước. Bên cạnh đó các quy định cũng cần phải bảo đảm phù

hợp với các quy định giữa luật nội dung và luật hình thức. Việc sửa đổi, bổ

sung các quy định pháp luật đất đai hiện hành về hòa giải tranh chấp tại Ủy

ban nhân dân cấp xã nhằm mục tiêu áp dụng có hiệu quả trong thực tiễn cuộc

sống. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp

luật mới để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong hoạt động xử lý, giải quyết

các tranh chấp đất đai. Quá trình áp dụng pháp luật phải phát huy đồng bộ sức

mạnh của các biện pháp được quy định trong luật hành chính, luật hình sự,

luật dân sự, luật kinh tế trong việc hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân

dân cấp xã, đảm bảo sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và yêu cầu phát triển hệ

thống kinh doanh bất động sản ở nước ta, đáp ứng yêu cầu phát triển của kinh

tế - xã hội trong tình hình đất nước đang hòa nhập sâu rộng với thế giới.

Cần quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan chính quyền địa

phương trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai. Thông qua quá trình giải

quyết các quy định cụ thể có liên quan đến hoạt động giải quyết nhằm đảm

bảo việc giải quyết đạt hiệu quả từ phía những cơ quan nhà nước có thẩm

quyền. Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật đã bảo đảm cho việc giải quyết

tranh chấp đúng quy định của pháp luật, tăng cường năng lực, quyền hạn của

cơ quan tư pháp nói chung. Bên cạnh đó, đảm bảo tinh thần của công cuộc cải

cách tư pháp được ghi nhận rõ trong đường lối lãnh đạo của Đảng. Đầu tư các

trang thiết bị hoàn chỉnh, đáp ứng với quá trình hòa giải tranh chấp đất đai tại

Ủy ban nhân dân cấp xã có hiệu quả ở nước ta hiện nay.

Cơ quan chức năng cần sớm xây dựng và ban hành đầy đủ các quy định

về giải quyết tranh chấp đất đai. Các cơ quan quyền lực nhà nước cần thiết có

57

sự phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng đáp ứng yêu cầu về cải cách tư pháp

cũng như tăng cường chức năng, nhiệm vụ trong hoạt động về hòa giải tranh

chấp đất đai, từ đó, giảm thiểu sự cồng kềnh, chồng chéo trong quá trình thực

hiện.

Trên cơ sở phân tích, đánh giá nêu trên, tác giả cho rằng, pháp luật về

hòa giải tranh chấp đất đai trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, cần

điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện theo hướng: Khuyến khích việc hòa giải các

tranh chấp đất đai trong nhân dân, đề cao vai trò của chính quyền và các tổ

chức chính trị xã hội ở cơ sở trong việc vận động nhân dân hòa giải tranh

chấp đất đai.

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hòa giải tranh chấp

đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã

Để khắc phục những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn thi

hành, áp dụng pháp luật về đất đai, nên chăng chỉ quy định khuyến khích hòa

giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã trước khi khởi kiện ra Tòa

án mà không quy định đây là một thủ tục bắt buộc; hoặc chỉ nên quy định

rằng, hòa giải tranh chấp trên cơ sở yêu cầu của các bên. Trường hợp Ủy ban

nhân dân cấp xã, phường, thị trấn không tiến hành hòa giải, không có điều

kiện hòa giải thì các bên có quyền khởi kiện ra Tòa mà không cần thủ tục hòa

giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã.

Từ đó, một mặt tạo điều kiện cho các bên tranh chấp có thể khởi kiện

thẳng đến Tòa án, mà không phải thực hiện việc hòa giải tranh chấp đất đai

qua nhiều cấp, mặt khác, tiết kiệm được thời gian, kịp thời bảo vệ được quyền

và lợi ích hợp pháp của mình.

Trường hợp vẫn quy định việc hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban

nhân dân cấp xã là điều kiện bắt buộc thì nên quy định hiệu lực pháp luật của

58

các vụ việc tranh chấp đã được hòa giải thành, đồng thời xem xét, điều chỉnh

hợp lý các quy định về thời hiệu khởi kiện để không gây ảnh hưởng đến

quyền khởi kiện của các bên tranh chấp.

Nhằm nâng cao chất lượng việc hòa giải tranh chấp đất đai, cơ quan

chức năng cần sớm đầu tư nghiên cứu, ban hành các văn bản hướng dẫn áp

dụng thống nhất pháp luật và tăng cường tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn,

bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện công

tác quản lý nhà nước về đất đai, cán bộ địa chính cấp xã, phường, thị trấn, đội

ngũ cán bộ làm công tác hòa giải tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân dân xã.

Qua quá trình nghiên cứu thực tiễn, tác giả đề xuất một số kiến nghị

sau:

Thứ nhất, về đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai của các bên gửi

đến Ủy ban nhân dân cấp xã.

Điều 202 Khoản 2 Luật Đất đai năm 2013 quy định “Tranh chấp đất

đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân

dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải”. Tuy nhiên, các bên này bao

gồm những ai? Chỉ cần đơn của nguyên đơn, bị đơn hay cần có thêm tất cả

những người liên quan? Thực tế, pháp luật hiện nay chưa có quy định cụ thể

nên dẫn đến việc tùy tiện trong việc áp dụng mà hậu quả của nó có thể cấp

phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm hoặc tòa án không chấp nhận biên bản hòa giải

cơ sở do Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn chuyển đến.

Trên thực tế, đã xãy ra trường hợp, ban đầu do chỉ có nguyên đơn khởi

kiện bị đơn nên Ủy ban nhân dân cấp xã tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai

giữa hai chủ thể này. Khi tiến hành giải quyết vụ án, trường hợp phát sinh

thêm người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thì Tòa án tạm đình chỉ giải

quyết để hòa giải lại. Sau khi tiếp tục giải quyết vụ án, Tòa lại tiếp tục tạm

59

đình chỉ chờ hòa giải lại khi phát sinh thêm người có quyền lợi và nghĩa vụ

liên quan khác. Như vậy, vụ án lại kéo dài nhưng việc hòa giải lại kết quả

không có gì khác so với lần trước đó, chỉ khác là hồ sơ sẽ có thêm biên bản

hòa giải mới và vụ án kéo dài ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên; các cơ

quan có thẩm quyền tốn công sức, chi phí không đáng có.

Cho nên để khắc phục được cách hiểu cũng như cách áp dụng pháp luật

khác nhau, cần quy định cụ thể thành phần các bên tranh chấp tham gia hòa

giải theo yêu cầu của người khởi kiện. Khi hồ sơ đã chuyển sang Tòa án thụ

lý thì không cần hòa giải lại tại cơ sở.

Thứ hai, trong quá trình tổ chức thực hiện thủ tục hòa giải tại Ủy ban

nhân dân cấp xã đã phát sinh một số mâu thuẫn, vướng mắc trên thực tế, vì

vậy, cần sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể trong từng trường hợp, theo hướng:

(1) Cần quy định rõ những trường hợp Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có

đất tranh chấp tiến hành tổ chức buổi hòa giải nhưng một trong các bên hoặc

cả hai bên tranh chấp vắng mặt không có lý do chính đáng thì Ủy ban nhân

dân cấp xã vẫn tiến hành hòa giải vắng mặt, sau đó, lập biên bản hòa giải mà

không có chữ ký của bên vắng mặt; đồng thời, tống đạt biên bản hòa giải đến

bên vắng mặt trong buổi hòa giải. Biên bản hòa giải sẽ là căn cứ đề các bên

tranh chấp tiến hành các thủ tục tiếp theo.;

(2) Đối với trường hợp Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tranh chấp tổ

chức hòa giải thành nhưng sau đó một trong các bên tranh chấp lại thay đổi ý

kiến không chấp nhận kết quả hòa giải thành. Trường hợp này không cần tiếp

tục các thủ tục hòa giải vì một bên tranh chấp đã không có thiện chí chấp

hành sự thỏa thuận của các bên, việc tiếp tục hòa giải chỉ làm kéo dài quá

trình giải quyết vụ việc. Trong trường hợp này, các bên có thể khởi kiện ra

60

Tòa án hoặc gửi đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai đến Ủy ban nhân

dân cấp có thẩm quyền để được giải quyết.

Thứ ba, cần sự phối hợp hòa giải giữa quyền tiếp cận công lý của công

dân và việc khuyến khích hòa giải tranh chấp đất đai.

Nhằm đáp ứng được yêu cầu về bảo đảm quyền tiếp cận công lý của

công dân, cần sửa đổi các quy định pháp luật hiện hành theo hướng hạn chế

việc hòa giải tiền tố tụng mang tính bắt buộc đối với một số việc tranh chấp

đất đai.

Thứ tư, cần tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về đất

đai và nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân:

Thực tế cho thấy, việc tranh chấp đất đai xuất phát từ nhiều nguyên

nhận, trong đó có một nguyên nhân là trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức

pháp luật, sự tôn trọng pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hết sức hạn

chế. Để nâng cao trình độ pháp luật cho nhân dân cần triển khai đồng bộ các

hình thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật: Tuyên truyền trên các phương tiện

thông tin đại chúng, tuyên truyền thông qua các hội nghị, tuyên truyền thông

qua công tác hòa giải ở cơ sở, qua tủ sách pháp luật…

3.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hòa

giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã tại Thành phố Hồ Chí

Minh

Thực tiễn công tác hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp

xã trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh chưa thực sự đạt được những kết quả

như kì vọng, số vụ hòa giải thành còn chiếm tỉ lệ không cao. Vì vậy mà, trong

thời gian tới cần nâng cao hiệu quả công tác hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy

ban nhân dân cấp xã, nâng cao số vụ việc hòa giải thành, giúp các bên tranh

chấp đạt được thỏa thuận, chấm dứt tranh chấp. Để góp phần nâng cao hiệu

61

quả của hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã tại Thành phố

Hồ Chí Minh trong quá trình giải quyết vụ án tranh chấp đất đai, bên cạnh

những kiến nghị hoàn thiện pháp luật, luận văn đề xuất một số giải pháp, cụ

thể như sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và vai trò

của Ủy ban Mặt trận tổ quốc và các tổ chức là thành viên của Mặt trận đối với

công tác hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Hội đồng hòa

giải tranh chấp đất đai không thể đứng ngoài sự lãnh đạo của Đảng, không thể

thiếu vai trò quản lý của Nhà nước và sự tham gia của Mặt trận tổ quốc và các

tổ chức chính trị xã hội trong hoạt động hòa giải tranh chấp đất đai. Ủy ban

Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội là thành viên của Mặt trận

thường xuyên phối hợp chặt chẽ và phối hợp thực hiện tốt những quy định

của pháp luật về hòa giải tranh chấp nhằm tăng cường mối liên hệ mật thiết

giữa nhân dân với nhau, giữa nhân dân với đảng và nhà nước.

Hai là, cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, quán triệt đường

lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước nhằm nâng

cao nhận thức và trách nhiệm của hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân

đối với vị trí, vai trò của công tác hòa giải tranh chấp đất đai.

Ba là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, phát huy vai trò,

trách nhiệm của cơ quan Tư pháp trong công tác hòa giải tranh chấp đất đai,

nhất là trong việc phối hợp giữa Ủy ban Mặt trận tổ quốc và các tổ chức là

thành viên cùng cấp của Mặt trận để thực hiện tốt công tác hòa giải ở cơ sơ về

tranh chấp đất đai.

Bốn là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đất đai, nâng cao

hiệu quả thi hành pháp luật về công tác hòa giải tranh chấp đất đai phù hợp

với thực tiễn. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, kiến nghị cơ quan hành chính

62

nhà nước có thẩm quyền hoàn thiện hệ thống pháp luật hòa giải tranh chấp đất

đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã để hoạt động hòa giải ngày càng mang lại hiệu

quả thiết thực hơn.

Năm là, củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng của Hội đồng hòa giải

và thành viên của Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai thông qua việc rà soát

số lượng, chất lượng đội ngũ hòa giải viên, chuẩn hóa các tiêu chuẩn, điều

kiện để được công nhận là hòa giải viên, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ

năng hòa giải, tạo điều kiện cho hòa giải viên giao lưu, học hỏi kĩ năng hòa

giải thông qua các hoạt động như thi hòa giải viên giỏi, học hỏi kinh nghiệm

thực tiễn. Kiện toàn bộ máy tổ chức cấp chính quyền cơ sở theo hướng sắp

xếp phân công cán bộ phù hợp với trình độ năng lực, kinh nghiệm, sở trường

nhằm phát huy hết khả năng, vai trò của họ trong quá trình công tác. Tiến

hành xây dựng đội ngũ cán bộ đảm bảo về chất lượng, ổn định lâu dài phù

hợp với tinh thần cải cách tư pháp theo Nghị quyết 49-NQ/TW ngày

02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

Sáu là, trang bị cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho cơ quan quản

lý nhà nước và hòa giải viên. Tạo điều kiện cho thành viên của Hội đồng hòa

giải trong việc tiếp cận thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin. Đặc biệt,

Ủy ban nhân dân các cấp quan tâm đảm bảo kinh phí hoạt động cho công tác

hòa giải ở cơ sở tranh chấp đất đai, giải quyết kịp thời, đầy đủ các chính sách,

chế độ cho hòa giải viên và kinh phí cho hoạt động hòa giải để động viên

những người làm công tác hòa giải, qua đó, góp phần nâng cao chất lượng và

hiệu quả công tác hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã.

Cuối cùng là, thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin, báo cáo, công tác

thanh tra, kiểm tra; tổ chức sơ kết, tổng kết và khen thưởng đối với công tác

hòa giải tranh chấp đất đai. Như vậy, sẽ giúp ngành tư pháp chủ động nắm bắt

63

được thông tin về tổ chức và hoạt động hòa giải tranh chấp một cách sát thực

để đôn đốc, hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động sát thực, biết được cách làm hay,

những nơi hoạt động có hiệu quả để nhân rộng mô hình trên địa bàn thành

phố Hồ Chí Minh. Hàng năm, thực hiện tốt công tác tổ chức sơ kết, tổng kết

công tác hòa giải nhằm kịp thời biểu dương khen thưởng các tập thể và cá

nhân có thành tích trong hoạt động hòa giải tranh chấp đất đai. Thực hiện việc

theo dõi, định kì kiểm tra, đánh giá, báo cáo tình hình hoạt động hòa giải với

cơ quan quản lý cấp trên nắm biết kết quả hoạt động và kịp thời xây dựng

những giải pháp phù hợp nhằm khắc phục những khó khăn, vướng mắc còn

tồn tại trong công tác thực hiện pháp luật về hòa giải tranh chấp.

64

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Thông qua việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp

luật về hòa giải tranh chấp đất đai từ những mặt đạt được và những bất cấp,

vướng mắc phát sinh trong quá trình áp dụng pháp luật, luận văn đã đưa ra

một số kiến nghị, đề xuất để hòan thiện pháp luật về hòa giải tranh chấp đất

đai.

Thông qua quá trình nghiên cứu thực tiễn thực thi những quy định của

pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai, Luận văn đã đánh giá được kết quả

đạt được trong công tác hòa giải tranh chấp đất đai nói riêng và công tác hòa

giải nói chung.

Luận văn tập trung phân tích và chú trọng tới những bất cập còn tồn tại

qua những vụ việc thực tiễn, từ đó đưa ra cái nhìn tổng quan về hòa giải tranh

chấp đất đai qua thực tế thực thi pháp luật đất đai.

Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, luận văn đã đưa ra một số kiến

nghị nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật đất đai để phần nào giúp cho

việc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải được thuận lợi, tạo điều

kiện cho các bên tranh chấp hiểu và thực thi tốt hơn các quy định của pháp

luật, giúp cho các cơ quan chức năng có thẩm quyền kiểm nghiệm được tính

khả thi và hợp lý của các quy định pháp luật.

65

KẾT LUẬN

Trong bối cảnh nền kinh tế ở nước ta có nhiều chuyển biến, tình hình

chính trị, văn hóa, xã hội có nhiều thay đổi. Cùng với đó, là sự xuất hiện ngày

càng nhiều các vụ tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về tranh chấp đất đai, tạo ra

những tác động tiêu cực đối với xã hội, làm mất lòng tin của người dân vào cơ

quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, việc nghiên cứu và làm sáng tỏ những

vấn đề lý luận về pháp luật hòa giải tranh chấp đất đai khẳng định tầm quan

trọng của việc giải quyết các tranh chấp đất đai thông qua hòa giải. Việc

nghiên cứu thực trạng pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân

dân cấp xã và thực tiễn áp dụng tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, mang ý

nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật,

nâng cao tính khả thi của công tác hòa giải trong việc giải quyết các tranh

chấp đất đai ở địa phương này nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung.

Các quy định của Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn

còn chưa phát huy hết được hiệu quả của nó, vẫn còn tồn tại những quy định

bất cập, chưa thống nhất, chưa phù hợp với tình hình hiện nay.

Vì vậy, việc hoàn thiện các quy định về hòa giải liên quan đến tranh

chấp đất đai là một nhiệm vụ hết sức khó khăn và phức tạp. Đòi hỏi phải có

quá trình nghiên cứu và tổng kết thực tiễn một cách nghiêm túc, với sự đóng

góp của các cấp, các ngành, với mục đích từng bước nâng cao hiệu quả giải

quyết tranh chấp đất đai nói chung, tranh chấp đất đai bằng biện pháp hòa giải

nói riêng.

66

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Bàn về khái niệm “Tranh chấp đất đai trong Luật Đất đai năm

2013”.

2. Báo cáo số 121/BC-BTP v/v báo cáo đánh giá tác động của dự thảo

Luật Hòa giải cơ sở - Bộ tư pháp ngày 09/07/2012.

3. Báo cáo về “Hòa giải tranh chấp đất đai tại Việt Nam phân tích

pháp luật hiện hành, các thực tiễn và khuyến nghị cho cải cách” –

Viện nghiên cứu chính sách, pháp luật và phát triển (FDL) tháng

10/2013.

4. Các nguyên tắc khi tiến hành hòa giải ở cơ sở - Ths. Hồ Hớn, GV

khoa Nhà nước – Pháp luật.

5. Chính phủ (1945), Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 về giữ tạm

thời các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam Bộ cho đến khi ban

hành những bộ luật pháp duy nhất cho toàn quốc, Hà Nội.

6. Chính phủ (1946), Sắc lệnh số 13/SL, ngày 24/01/1946 về tổ chức

Tòa án và quy định các ngạch Thẩm phán, Hà Nội.

7. Chính phủ (1946), Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/04/1946 v/v ấn định

thẩm quyền các Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong

Tòa án, Hà Nội.

8. Chính phủ (1999), Nghị định số 160/1999/NĐ-CP ngày 18/10/1999

quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về Tổ chức và hoạt động

hòa giải cơ sở, Hà Nội.

9. Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004

về thi hành Luật Đất đai, Hà Nội.

67

10. Chuyên đề: Kỹ năng giải quyết tranh chấp đất đai và hòa giải tranh

chấp đất đai – PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến giảng tại Hội thảo tập

huấn hòa giải viên, già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng

đồng dân cư tại Phú Yên và Sóc Trăng, năm 2015 (Do Vụ

PPBGDPL, Bộ Tư pháp tổ chức).

11. Hà Hùng Cường (2012), Hòa giải ở cơ sở và vấn đề hoàn thiện

pháp luật về hòa giải cơ sở ở Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp

luật, số chuyên đề pháp luật về hòa giải.

12. Nguyễn Việt Cường, Phan Thu Hà (2011), “Thực tiễn thực hiện các

quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về thủ tục tố tụng trong việc

giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình”, Tòa án nhân

dân, (3), tr. 7 – 13.

13. Nguyên Minh Hằng (2008), “Thủ tục hòa giải ở cấp cơ sở đối với

các tranh chấp đất đai theo quy định của Luật Đất đai năm 2003”,

Kiểm sát, (3), tr. 35 – 38.

14. Hòa giải tranh chấp đất đai tại Việt Nam – Phân tích pháp luật hiện

hành, các thực tiễn và khuyến nghị cho cải cách – do Quỹ Châu Á

và Cơ quan phát triển Quốc tế Australia (Aus AID), Viện Nghiên

cứu Chính sách, Pháp luật và Phát triển (PLD) phát hành, Hà Nội,

Tháng 10 năm 2013.

15. Trần Quốc Huy (2012), “Một số vướng mắc khi thực hiện quy định

hòa giải ở cơ sở theo quy định của Luật Đất đai năm 2003”, Tòa án

nhân dân, (5), tr. 33 – 35.

16. Nguyễn Duy Lãm (2012), Tổ chức và hoạt động hòa giải cơ sở theo

quy định của pháp lệnh 1998 – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện,

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề pháp luật về hòa giải.

68

17. Tưởng Duy Lượng (2007), “Hòa giải ở cơ sở khi có tranh chấp

quyền sử dụng đất”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (4), tr. 23 – 26.

18. Nguyên Ngọc (2008), “Tranh chấp đất đai: hiệu lực của biên bản

hòa giải ở cơ sở”, http://www.baobinhdinh.com.vn, ngày

24/11/2008.

19. Mai Thị Tú Oanh (2012), “Hòa giải tranh chấp đất đai theo Điều

135 Luật Đất đai năm 2003”, Tòa án nhân dân, (14), tr. 12 – 14.

20. Trần Văn Quảng (2004), “Chế định hào giải trong pháp luật tố tụng

dân sự Việt Nam – Cơ sở lý luận và thực tiễn”, luận án tiến sĩ, Viện

Nhà nước và pháp luật.

21. Trần Văn Quảng (2008), Các phương thức thương lượng, hòa giải,

trung gian ở Việt Nam, tài liệu tại Hội thảo: Giải quyết tranh chấp

ngoài tố tụng tư pháp - Thực tiễn Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế,

Bộ Tư pháp và Tổ chức phát triển quốc tế Canada (Dự án hỗ trợ cải

cách pháp luật).

22. Trần Văn Quảng (2012), Một số vấn đề về chế định hòa giải trong

pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số

chuyên đề pháp luật về hòa giải.

23. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.

24. Quốc hội (1993), Luật Đất đai, Hà Nội.

25. Quốc hội (2003), Luật Đất đai, Hà Nội.

26. Quốc hội (2004), Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hà Nội.

27. Quốc hội (2009), Luật Đất đai (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.

69

28. Quốc hội (2012), Bộ luật Tố tụng Dân sự (sửa đổi, bổ sung), Hà

Nội.

29. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

30. Quốc hội (2013), Luật Đất đai (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.

31. Quốc hội (2013), Luật Hòa giải cơ sở, Hà Nội.

32. Sự ra đời của Luật Hòa giải ở cơ sở là một bước tiến quan trọng

cho hoạt động hòa giải ở cơ sở - tạp chí dân chủ và pháp luật ngày

18/03/2017.

33. Nguyễn Phương Thảo (2012), Quản lý nhà nước về công tác hòa

giải ở cơ sở, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề pháp luật

về hòa giải.

34. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP

ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

về việc hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ

tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng

dân sự, Hà Nội.

35. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP

ngày 04/8/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

về việc hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ ba “Thủ

tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng

dân sự, Hà Nội.

36. Tòa án nhân dân tối cao (2012), Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP

ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

về việc hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ

tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng

70

dân sự đã sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều

của Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.

37. Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Đất đai, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

38. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình

Luật Đất đai, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Thành phố

Hồ Chí Minh.

39. Trần Anh Tuấn (2009), “Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải

quyết tranh chấp quyền sử dụng đất”, Nghiên cứu lập pháp, số 7, tr.

52 – 57.

40. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1998), Pháp lệnh về tổ chức và hoạt

động hòa giải ở cơ sở, Hà Nội.

41. Lưu Quốc Thái (2006), Bàn về khái niệm tranh chấp đất đai trong

Luật Đất đai năm 2003, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2(33)/2006,

tr. 3 – 6.

42. Viện Ngôn ngữ (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng,

Đà Nẵng, tr. 430

Tiếng Anh

1. Black’s Law Dictionary with pronounciation, West Pub.Co (1983)

(Tạm dịch: Từ điển Luật học của Black).

2. Henry Campbell Black (1990), Blacks Law Dictionary.

3. Kimberlee K.Kovach, Mediation in a Nutshell (Texas, Thomson

West, 2003), p1 (Tạm dịch: Tổng quan về trung gian hòa giải).

71

4. Luật hòa giải nhân dân Trung Hoa.

5. Luật mẫu về hòa giải do Hiệp hội luật sư Mỹ xây dựng.

72