intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu, áp dụng các phương pháp lượng giá kinh tế hệ sinh thái rừng ngập mặn phục vụ quản lý bền vững Vườn quốc gia Xuân Thủy - Nam Định

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:84

25
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm tính toán được tổng giá trị kinh tế của hệ sinh thái rừng ngập mặn ở Vườn quốc gia Xuân Thủy nhằm đánh giá đầy đủ lợi ích của hệ sinh thái tự nhiên này, cung cấp cơ sở khoa học kinh tế cho quản lý bền vững Vườn quốc gia Xuân Thủy. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu, áp dụng các phương pháp lượng giá kinh tế hệ sinh thái rừng ngập mặn phục vụ quản lý bền vững Vườn quốc gia Xuân Thủy - Nam Định

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP NGÔ VĂN MẠC NGHIÊN CỨU, ÁP DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP LƯỢNG GIÁ KINH TẾ HỆ SINH THÁI RỪNG NGẬP MẶN PHỤC VỤ QUẢN LÝ BỀN VỮNG VƯỜN QUỐC GIA XUÂN THỦY TỈNH NAM ĐỊNH LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP HÀ TÂY - 2007
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP NGÔ VĂN MẠC NGHIÊN CỨU, ÁP DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP LƯỢNG GIÁ KINH TẾ HỆ SINH THÁI RỪNG NGẬP MẶN PHỤC VỤ QUẢN LÝ BỀN VỮNG VƯỜN QUỐC GIA XUÂN THỦY TỈNH NAM ĐỊNH Chuyên ngành: Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường Mã số: 60.62.68 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM BÌNH QUYỀN HÀ TÂY - 2007
  3. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP NGÔ VĂN MẠC NGHIÊN CỨU, ÁP DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP LƯỢNG GIÁ KINH TẾ HỆ SINH THÁI RỪNG NGẬP MẶN PHỤC VỤ QUẢN LÝ BỀN VỮNG VƯỜN QUỐC GIA XUÂN THỦY TỈNH NAM ĐỊNH Chuyên ngành: Quản lý tài nguyên rừng & Môi trường Mã số: 60.62.68 Tóm tắt luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp Hà Tây, năm 2007
  4. Công trình được hoàn thành tại: KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Bình Quyền Phản biện 1: ……………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… ……………………………. Phản biện 2: ……………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… ……………………………… Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp họp tại Trường Đại học Lâm nghiệp. Vào hồi …………… giờ……….ngày……… tháng………….năm…………… Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Khoa Đào tạo Sau đại học Trung tâm thông tin tư liệu và thư viện – Trường Đại học Lâm nghiệp Hà Tây, năm 2007
  5. -1- ĐẶT VẤN ĐỀ Hệ sinh thái rừng ngập mặn (RNM) được đánh giá là có năng suất sinh học cao nhất trong các loại hệ sinh thái. Các lá cây rừng ngập mặn rụng xuống chiếm 50 - 70% năng suất sơ cấp ròng [40]. Nước ta có trên 3200 km bờ biển cùng với nó thì hệ sinh thái RNM có ý nghĩa quan trọng cả về kinh tế và môi trường. Diện tích hệ sinh thái RNM ở Việt Nam tính đến năm 2001 là 155.290 ha trong tổng số 11,3 triệu ha rừng, chiếm 2,2% (Viện khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, 2001). Tuy nhiên, do việc quản lý và sử dụng chưa hợp lý nên diện tích và chất lượng của hệ sinh thái RNM trong thời gian qua đã bị suy giảm trầm trọng. Để quản lý bền vững nhằm đáp ứng ngày càng cao nhu cầu kinh tế đồng thời đảm bảo vai trò phòng hộ, bảo tồn đa dạng sinh học và cung cấp các dịch vụ môi trường thì một trong những nhiệm vụ then chốt là phải lượng giá được các giá trị của chúng. Đây chính là cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc đề xuất các giải pháp kỹ thuật, kinh tế - xã hội và định hướng cho việc sử dụng và quản lý bền vững nguồn tài nguyên sinh vật. Sử dụng các công cụ kinh tế để lượng giá kinh tế hệ sinh thái đóng một vai trò quan trọng trong các dự án đánh giá tác động môi trường đặc biệt là các dự án chuyển đổi mục đích sử dụng đất, tài nguyên rừng, các dự án trồng mới, khôi phục và bảo tồn rừng, biển, xây dựng chính sách thuế và phí môi trường cũng như về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Mặc dù, lượng giá kinh tế không phải là cơ sở duy nhất cho mọi quyết định nhưng nó là một yếu tố đầu vào của quá trình ra quyết định cùng với những cân nhắc quan trọng về chính trị, văn hóa, xã hội và những yếu tố khác. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, đó là xu thế quản lý, bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước nói chung và hệ sinh thái RNM nói riêng đã
  6. -2- được nhiều nước trên thế giới chấp thuận và tự nguyện thực hiện. Ở Việt Nam, Vườn quốc gia Xuân Thủy (VQG) là địa điểm đầu tiên tham gia công ước Ramsar, đã có nhiều tài liệu nghiên cứu về các mặt, là cơ sở khoa học cho nghiên cứu lượng giá kinh tế hệ sinh thái nhằm góp phần để khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học một cách bền vững và có hiệu quả. Nhằm góp phần thực hiện mục đích như vừa nêu, chúng tôi thực hiện đề tài ‘‘Nghiên cứu, áp dụng các phương pháp lượng giá kinh tế hệ sinh thái rừng ngập mặn phục vụ quản lý bền vững Vườn quốc gia Xuân Thủy - Nam Định”.
  7. -3- CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Những quan điểm về lượng giá kinh tế hệ sinh thái rừng ngập mặn Trong lịch sử nhân loại, thuật ngữ đất ngập nước nói chung và rừng ngập mặn nói riêng, gợi cho nhiều người là những nơi ít mang lại lợi ích kinh tế, là nơi tiềm ẩn những bệnh như sốt rét v.v. chính những quan niệm này mà chúng như là những vùng bỏ đi đã dẫn đến việc biến đổi chúng để chuyển sang những mục đích sử dụng khác phục vụ cho các hoạt động về kinh tế như nuôi tôm, cá, các loài nhuyễn thể, mục đích nông nghiệp. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, ngày càng tăng nhận thức rằng rừng ngập mặn cung cấp miễn phí rất nhiều chức năng quan trọng (như phòng tránh thiên tai, ổn định bờ biển, hạn chế các tác nhân gây ô nhiễm, hồi phục nước ngầm v.v.) các sản phẩm như tôm, cua, cá, các động vật đáy, củi đốt, gỗ, trầm tích giàu chất dinh dưỡng dùng cho nông nghiệp và đa dạng sinh học, vẻ đẹp thẩm mỹ, di sản văn hóa, dự trữ sinh quyển. Hệ sinh thái RNM cũng được mô tả như là những quả thận của phong cảnh vì các chức năng mà nó có thể thực hiện trong các chu kỳ hóa học và thủy văn và như là các siêu thị sinh học vì có các mạng thực phẩm rộng lớn và tính đa dạng sinh học giầu có [10]. Đối với những sản phẩm như tôm, cua, cá, các loài nhuyễn thể hoặc gỗ thì có thị trường thế giới cho phép dễ dàng lượng giá giá trị của hệ sinh thái rừng ngập mặn hay nói một cách khác là xác định các giá trị kinh tế của chúng trên thị trường là không khó. Giá trị của các chức năng hệ sinh thái RNM, như cải thiện chất lượng nước, có thể tính được từ chi phí xây dựng trạm xử lý nước để thực hiện các công việc như vậy. Nhưng việc lượng giá đa dạng sinh học hoặc vẻ đẹp thẩm mỹ của RNM là rất khó, đặc
  8. -4- biệt là lượng giá kinh tế bằng những phương pháp truyền thống là khó hơn nhiều [32]. Với sự tham gia của tất cả các loài sinh vật trong điều kiện môi trường cụ thể, các quá trình cơ bản cũng như các quy trình và sản phẩm vận động trong các hệ sinh thái rừng ngập mặn. Điều này vô cùng quan trọng đối với quá trình lượng giá, chẳng hạn như vai trò tích lũy hay thải CO2 của hệ sinh thái rừng ngập mặn. Sự tham gia vào các quá trình này không phải chỉ có cây ngập mặn hay tảo mà còn có các sinh vật đất, trầm tích và nước, cả trong quá trình tự dưỡng cũng như dị dưỡng [40]. Trên quan điểm kinh tế sinh thái học thì hiệu quả về mặt môi trường sinh thái của rừng hoàn toàn có thể xác định được bằng giá trị kinh tế. Thực chất việc nâng cao giá trị về môi trường sinh thái của rừng sẽ góp phần làm giảm những chi phí cần thiết để làm ổn định môi trường tạo ra sự tồn tại cho xã hội con người, tự nhiên, duy trì, cải thiện năng suất của hệ sinh thái và nhiều hoạt động kinh tế khác trong xã hội. 1.2. Lịch sử nghiên cứu 1.2.1. Trên thế giới Trên thế giới, tuy lĩnh vực nghiên cứu còn non trẻ nhưng cũng đã có nhiều công trình lượng giá kinh tế hệ sinh thái đất ngập nước như ở Anh, Mỹ, Malaysia, Philippin, Australia, Thụy Điển, Argentina Năm 1997, khái niệm về lượng giá kinh tế đất ngập nước do Tiến sĩ Mike Acreman đề xuất khi ông làm việc tại chương trình đất ngập nước của IUCN. Cũng trong năm này, Tiến sĩ Michele Beetham thuộc bộ môn Kinh tế và Quản lý môi trường, Đại học Tổng hợp York, khi đang làm việc với IUCN đã đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu và các nghiên cứu lượng giá đất ngập nước và những ý tưởng ban đầu [1].
  9. -5- Tại hội nghị ở Brisbane, Australia tháng 3 năm 1996, các bên tham gia Công ước về đất ngập nước đã thông qua một kế hoạch, chiến lược thừa nhận tầm quan trọng và sự khẩn cấp tiến hành các phần việc trong lượng giá kinh tế đất ngập nước. Chiểu theo mục tiêu hoạt động 2.4 của Kế hoạch chiến lược, Công ước Ramsar sẽ xúc tiến việc lượng giá kinh tế những nguồn lợi và chức năng của đất ngập nước thông qua truyền bá các phương pháp lượng giá. Brawn (1980) và cộng sự, đã sử dụng công nghệ GIS dự tính lượng Carbon trung bình trong rừng nhiệt đới Châu Á là 144 tấn C/ha trong phần sinh khối và 148 tấn/ha trong lớp đất mặt với độ sâu 1m, tương đương 42 - 43 tỷ tấn Carbon trong toàn châu lục. Tuy nhiên, lượng Carbon có biến động rất lớn giữa các vùng và các kiểu thực bì khác nhau. Thông thường, lượng Carbon trong sinh khối biến động từ dưới 50 tấn/ha đến trên 360 tấn/ha, phần lớn ở các kiểu rừng là 100 - 200 tấn/ha. Barbier (1989), đã sử dụng các đặc thù của RNM ven bờ Bắc Thái Bình Dương, Vùng 1, Nicaragua để thu thập số liệu và sự lựa chọn thích đáng các kỹ thuật lượng giá kinh tế cho hệ sinh thái này [1]. Lal P.N (1990), đã tiến hành nghiên cứu đánh giá lợi ích kinh tế tại chỗ của hệ sinh thái rừng ngập mặn Fiji, bằng việc áp dụng cách tiếp cận dựa trên nguồn thu nhập, phương pháp chi phí thay thế và trao đổi quyền sử dụng phi thị trường. Kết quả nghiên cứu cho thấy lợi ích ròng sinh kế của người dân địa phương trong sử dụng sản phẩm thủy sản tại chỗ trong vùng rừng ngập mặn hầu như tương đương với các sản phẩm thủy sản xuất khẩu. Trong trường hợp sử dụng lâm sản thì lợi ích ròng sinh kế tại chỗ lớn hơn thương mại. Tuy nhiên, những giá trị sinh kế không tính được thành tiền chưa đưa được vào công trình đánh giá này [23].
  10. -6- WWF (1994), đã tiến hành nghiên cứu vùng rừng ngập mặn tại Costa Rica. Nghiên cứu đã sử dụng lượng giá kinh tế hệ sinh thái RNM làm công cụ xây dựng chính sách khôi phục và bảo tồn HSTRNM trước những sức ép ngày càng gia tăng từ phát triển kinh tế, đặc biệt xu hướng chuyển đổi đất rừng ngập mặn sang nuôi tôm và các loài thủy sản khác. Lượng giá kinh tế hệ sinh thái rừng ngập mặn đã dựa trên cách tiếp cận tổng giá trị kinh tế (TEV). Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra giá trị sử dụng trực tiếp từ việc đánh bắt các tài nguyên từ RNM [41]. Nghiên cứu về rừng tràm ngập nước trên đất đầm lầy than bùn ở Malaysia đã sử dụng công cụ lượng giá kinh tế theo cách tiếp cận tổng giá trị kinh tế (TEV) để so sánh hiệu quả các giải pháp quản lý rừng trong phát triển bền vững. Kết quả cho thấy tổng giá trị kinh tế của hệ sinh thái tùy thuộc các giải pháp quản lý khác nhau từ không bền vững đến bền vững theo các mô hình dự báo [22]. Gilbert J, R. Jansen (1998), đã tiến hành nghiên cứu rừng ngập mặn tại Philippin. Kết quả công trình nghiên cứu đã đánh giá hậu quả của việc chuyển đổi 110,7 ha rừng ngập mặn tự nhiên tại Pagbilao thành các đầm nuôi thủy sản và hiệu quả giải pháp sử dụng mô hình kết hợp trồng rừng ngập mặn với nuôi thủy sản. Kết quả cho thấy các đầm nuôi bán thâm canh cho năng suất cao nhất [21]. Nghiên cứu về rừng ngập mặn ở Thái Lan được thực hiện chủ yếu dựa trên phương pháp phân tích kinh tế chi tiết dựa trên kỹ thuật lượng giá để đánh giá những lợi ích của hệ sinh thái RNM đã mất so sánh với lợi nhuận từ việc chuyển đất rừng ngập mặn thành đầm nuôi tôm. Tổng giá trị kinh tế bao gồm giá trị sử dụng và giá trị phi sử dụng. Giá trị phi sử dụng rất khó xác định và lượng giá, được chia thành giá trị tồn tại và giá trị cho đời sau [36].
  11. -7- 1.2.2. Ở Việt Nam Mazda và cộng sự (1997), tiến hành nghiên cứu về tác dụng giảm sóng của rừng ngập mặn đã được thực hiện tại vùng RNM mới trồng của tỉnh Thái Bình, với các loài cây chủ yếu là cây trang (Kendelia candel). Kết quả cho thấy, RNM góp phần làm giảm đáng kể áp lực của sóng biển trước khi tác động vào đê biển [26]. Nghiên cứu rừng ngập mặn Cần Giờ Thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng phương pháp tổng giá trị kinh tế RNM được đánh giá dựa trên những số liệu thu thập trên thực địa. Kết quả cho thấy tổng giá trị kinh tế nguồn lợi RNM về lợi ích sử dụng trực tiếp, các giá trị gián tiếp hầu như chưa lượng giá được [37]. Nguyễn Hoàng Trí và cộng sự (2002) đã tiến hành xây dựng khung phân tích để lượng giá tổng giá trị kinh tế của hệ sinh thái RNM Cần Giờ TPHCM nhằm làm rõ giá trị của khu dự trữ sinh quyển đối với lợi ích cộng đồng địa phương. Kết quả đạt được cho thấy tổng lợi ích ròng sử dụng trực tiếp từ RNM đã tăng lên đáng kể [29]. Dự án giống cây rừng (VTSP) và Hội Khoa học Kỹ thuật Lâm nghiệp tính toán thử về khả năng cố định CO2 của thông 3 lá. Dựa vào biểu sinh khối & biểu sản lượng, tính toán cho lâm phần 60 tuổi cấp đất III (có D = 40 cm, H = 27,6m, f1,3 = 0,44, G = 48,3 m2, M = 586 m3/ha. Phương pháp tính toán sinh khối W = - 10,144 + 0,07148 G2 + 4,100H + 0,12336 HG. Sai số giữa tính theo biểu sản lượng và biểu sinh khối 1,4%. Kết quả là thông ba lá, 60 tuổi cấp đất III có thể hấp thu 707,75 tấn CO2, giải phóng 514,53 tấn O2. Với giá 4 USD/tấn CO2 sẽ thu được 2.831 USD/ ha ở tuổi 60. Nếu bán gỗ 120 m3/ha được 41 triệu USD  2.595 USD [9]. Năm 2003, Bộ Tài nguyên & Môi trường – Cục Bảo vệ Môi trường đã cho xuất bản cuốn sách Lượng giá kinh tế đất ngập nước (hướng dẫn cho
  12. -8- những nhà lập kế hoạch và ra chính sách), do ban thư ký Công ước Ramsar biên soạn, cuốn sách đã đưa ra được các nội dung cơ bản của việc nghiên cứu lượng giá kinh tế đất ngập nước, cũng như các phương pháp cơ bản tiến hành nghiên cứu lượng giá kinh tế đất ngập nước. Cuốn sách này chứa đựng nhiều thông tin hữu ích, nhiều kỹ thuật lượng giá kinh tế có sẵn được dùng để lượng giá các vùng đất ngập nước. Sách hướng dẫn đã nêu lên tầm quan trọng của việc cân đối giữa những lợi ích có được nhờ phát triển với những thiệt hại mà quá trình phát triển có thể gây ra cho đất ngập nước. Lượng giá kinh tế một số vùng đất ngập nước điển hình ven biển Việt Nam. Kết quả cho thấy vùng bãi triều Tây Nam Cà Mau đạt giá trị cao nhất (tổng giá trị kinh tế cho 1 ha đất ngập nước là 4.593,91 USD). Theo số liệu của khu Ramsar – VQG Xuân Thủy, tổng giá trị khai tác loài ngao năm 2004, ước tính đạt 7-10 triệu USD, góp phần rất quan trọng cho đời sống nhân dân địa phương [10].
  13. -9- CHƯƠNG 2 GIÁ TRỊ, HIỆN TRẠNG KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN RỪNG NGẬP MẶN XUÂN THỦY 2.1. Các giá trị của hệ sinh thái rừng ngập mặn 2.1.1. Cấu trúc và chức năng của hệ sinh thái rừng ngập mặn Rừng ngập mặn được hình thành bởi các cây ngập mặn nếu diện tích che phủ đạt trên 10%. Loại rừng này bao gồm các loài cây ngập mặn chính thống (true mangrove species), đó là những loài cây chỉ có ở rừng ngập mặn và các loài cây gia nhập rừng ngập mặn (associate mangrove species), những loài cây có thể gặp ở cả trong rừng ngập mặn và những vùng khác nữa [11]. Hệ sinh thái rừng ngập mặn bao gồm tất cả các thành phần hữu sinh (cây ngập mặn, nấm, tảo, vi sinh vật trên cây, dưới nước trong đất rừng ngập mặn và kể cả trong không khí) và các thành phần vô sinh (không khí, đất và nước). Hai thành phần này luôn tác động qua lại, quy định lẫn nhau vận động trong không gian và thời gian [30]. Những đặc trưng này thể hiện ở các thành phần vô sinh và thành phần hữu sinh trong hệ sinh thái RNM (phụ lục B). Bao gồm không khí mang đặc trưng của khí hậu vùng ven biển, đất phù sa, bãi bồi ngập mặn theo nước triều lên xuống trong ngày v.v. thành phần hữu sinh là các sinh vật biển, sinh vật nội địa và các sinh vật đặc trưng trong vùng rừng ngập mặn, đặc biệt là các sinh vật di cư, ngoài ra còn có các vi sinh vật như nấm, tảo, phù du thực vật, rong, rêu, tảo, cây rừng, động vật không xương sống v.v. Chức năng của hệ sinh thái là sự vận động của các mối quan hệ giữa các nhân tố vô sinh với hữu sinh, cũng như giữu các nhân tố vô sinh với nhau và hữu sinh với nhau. Sự vận động của các mối quan hệ này luôn luôn thay
  14. - 10 - đổi trong không gian và thời gian. Chúng có khả năng tự điều chỉnh và tự duy trì trong trạng thái ổn định tương đối. Điều này thể hiện rõ ở các mối quan hệ như độ mặn nước sẽ giảm vào mùa mưa, độ đục tăng khi lượng trầm tích từ sông đưa ra nhiều. Mối quan hệ giữa sinh vật với sinh vật được thể hiện trong các chuỗi và lưới thức ăn, bậc dinh dưỡng và dòng năng lượng vận động trong hệ sinh thái. 2.1.2. Sự tích lũy và giải phóng carbon trong hệ sinh thái rừng ngập mặn Hệ sinh thái rừng ngập mặn có khả năng lớn trong tích lũy carbon thông qua quá trình quang hợp. RNM góp phần tích lũy và lưu giữ carbon từ quá trình quang hợp, đồng thời cũng thải ra carbon vào bầu khí quyển từ các quá trình hô hấp, phân hủy. v.v. Thực chất, lượng carbon trong hệ sinh thái rừng ngập mặn chủ yếu được tích lũy ở dạng tăng sinh khối các bộ phận thực vật trên mặt đất, rễ dưới mặt đất và đặc biệt là lượng rơi xác thực vật được phân hủy rồi hòa tan trong nước, sau đó chúng được nước triều mang đi, một phần còn lại tích lũy trong trầm tích. Song song vơi quá trình tích lũy là quá trình giải phóng và xuất khẩu carbon ra khỏi hệ sinh thái ở các dạng bốc hơi, thoát hơi nước, hòa tan trong nước và đặc biệt là thoát ra từ trầm tích do các hoạt động hô hấp, phân hủy của các loài vi sinh vật. Hàng năm, hệ sinh thái rừng ngập mặn tích lũy vào khoảng 3,7 tấn carbon hữu cơ/ha/năm, tương đương với 13,91 tấn CO2/ha/năm (phụ lục B) điều này cho thấy khả năng giải phóng và tích lũy carbon trong hệ sinh thái rừng ngập mặn là rất lớn [25]. 2.2. Những giá trị kinh tế của hệ sinh thái rừng ngập mặn Ngày nay, mọi người đều có thể nhận thấy mức độ suy giảm chất lượng môi trường trầm trọng, việc cần phải kết hợp giữa lợi ích kinh tế và lợi ích
  15. - 11 - môi trường, nhưng việc tính toán để đưa ra được những con số cụ thể về những lợi ích môi trường còn rất khó khăn. 2.2.1. Giá trị kinh tế của hệ sinh thái rừng ngập mặn tính được thành tiền Trong thực tế, thường chấp nhận giá trị kinh tế dựa trên sự mong muốn của mỗi cá nhân. Khi có một khoản tiền nhất định, muốn mua loại hàng hóa nào đó thì thường tìm mua những cái có giá trị sử dụng cao nhất. Số tiền muốn trả đó phản ánh những ý thích, nhận thức, kiến thức, kinh nghiệm v.v. đôi khi còn phản ánh những giá trị truyền thống, đạo đức, văn hóa trong quá trình lựa chọn như việc sử dụng một số loài cây làm thuốc chữa bệnh, những kinh nghiệm dân gian, truyền thống này đặc biệt có giá trị đối với cuộc sống người dân vùng ven biển và không phải lúc nào cũng có thể tính được thành tiền (phụ lục B). Tuy nhiên, khi lượng giá tất cả các loại hàng hóa, dịch vụ hệ sinh thái không phải tất cả đều mang ra chợ và cũng không nhất thiết phải làm như vậy mới tính được thành tiền. Nếu chúng ta biết được sự đồng thuận chi trả của một người nào đó về một loại hàng hóa dịch vụ thì chúng ta vẫn có thể lượng giá được mặc dù trên thực tế người đó chưa phải trả tiền. 2.2.2. Những giá trị kinh tế hệ sinh thái rừng ngập mặn chưa tính được bằng tiền Xác định các giá trị chưa tính được thành tiền của hệ sinh thái rất phức tạp bởi vì môi trường thiên nhiên bao gồm rất nhiều dạng giá trị. Một trong những giải pháp được sử dụng là xác định các giá trị theo mức độ đồng thuận chi trả. Tuy nhiên, mọi người đều công nhận kể cả việc lượng giá thành tiền hay chỉ số về lợi ích thì đều không đủ để nói lên giá trị của hệ sinh thái. Sự vô cảm, thiếu hiểu biết và sự quản lý yếu kém đều tác động tới các quá trình và cấu trúc hệ sinh thái. Ngoài các giá trị kinh tế, các hệ sinh thái tự nhiên còn có những giá trị thẩm mỹ, đạo đức và văn hóa. Chẳng hạn như một số loài chim di cư (phụ biểu B) từ các nước khác đến khu rừng ngập mặn Xuân Thủy, đây
  16. - 12 - là những loài chim mang tính chất toàn cầu nên đòi hỏi nỗ lực bảo tồn của quốc gia và quốc tế. 2.2.3. Hàng hóa và dịch vụ của hệ sinh thái rừng ngập mặn Trong hệ sinh thái RNM tự nhiên cung cấp các sản phẩm cho con người kể cả hàng hóa và dịch vụ. Có những loại hàng hóa, dịch vụ có thể thấy rõ ngay giá trị như gỗ, củi, thuốc chữa bệnh, không khí trong lành v.v. nhưng nhiều loại dịch vụ mà giá trị của nó có thể những thế hệ mai sau mới biết. Như khoáng sản, các loài thực vật, các loài động vật, côn trùng trong các khu rừng vẫn chưa được phát hiện. Con người cứ mặc sức khai thác thiên nhiên (ảnh phụ lục D). Tuy nhiên, quy luật của tự nhiên không cho phép con người khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên vô tội vạ, sự trả lời của thiên nhiên là các hiện tượng như hiệu ứng nhà kính, hiện tượng nóng lên toàn cầu, các hiện tượng thời tiết bất thường. Hệ sinh thái rừng ngập mặn cung cấp hàng hóa đáp ứng nhu cầu nguyên vật liệu cho xây dựng và năng lượng để đun nấu cho người dân địa phương. Các loại hàng hóa này được mua bán, trao đổi trên thị trường, bao gồm các sản phẩm từ thực vật như gỗ làm nhà, đóng bàn ghế, giường tủ, củi đun, lá dừa nước để lợp nhà, làm vách tường, mật ong, nước giải khát v.v. các sản phẩm từ động vật như thủy hải sản kể cả động vật không xương sống và động vật có xương sống như các loài tôm, cua, cá, sò, vọp v.v. (ảnh phụ lục D) là nguồn thực phẩm quan trọng cho người dân địa phương, đặc biệt là nguồn lợi thủy hải sản xuất khẩu [16]. Tuy nhiên, giá trị to lớn của hệ sinh thái rừng ngập mặn không phải chỉ ở hàng hóa mà còn ở khả năng cung cấp những dịch vụ cần thiết và quan trọng cho con người [18]. Các dịch vụ này liên quan mật thiết với chức năng hệ sinh thái, nằm ở cả trong và ngoài rừng ngập mặn và hầu hết đều không hoặc không thể trao đổi trên thị trường (phụ lục B) dịch vụ
  17. - 13 - cung cấp thức ăn, nơi sinh đẻ, nuôi dưỡng con non và là vườn ươm cho các loài thủy hải sản ven bờ biển, nơi ở cho các loài chim di cư. Có thể nói, hệ sinh thái rừng ngập mặn cung cấp cả thức ăn và nơi ở, nơi che chở và nuôi dưỡng cho các loài sinh vật trong vòng đời của chúng. Chẳng hạn như các loài tôm sú, tôm he, cua bùn, rùa biển v.v. con non của chúng bơi dần ra biển, đến giai đoạn thành thục, sinh sản chúng lại quay về vùng rừng ngập mặn. Một số loài chim di cư như cò thìa (ảnh phụ lục D) vào giai đoạn từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau di cư từ phía Bắc đến vùng rừng ngập mặn của Nam Định kiếm thức ăn rồi lại bay xuống phía Nam. Lưu giữ nguồn gen: Rừng ngập mặn ở Việt Nam còn có những loài cây quý hiếm như cây cóc hống, còn rất ít cá thể thuộc danh mục quý hiếm trong sách đỏ của Việt Nam, cò thìa và các loài chim di cư ở vùng rừng ngập mặn Xuân Thủy, Nam Định có giá trị toàn cầu bởi vì nó là tài sản đa quốc gia. Đó là các nguồn gen quí cho việc cải thiện giống vật nuôi và cây trồng, thuốc chữa bệnh trong tương lai, việc bảo tồn các loài quý hiếm chính là bảo tồn đa dạng sinh học, duy trì chức năng các hệ sinh thái với sự ổn định và sức bền trong không gian và thời gian. Danh mục các loài lưỡng cư, bò sát, cá, côn trùng, động vật quý hiếm được thể hiện trong (Phụ lục B). Còn nhiều các dịch vụ khác mà hệ sinh thái rừng ngập mặn cung cấp cho chúng ta như: Dịch vụ cung cấp O2 và hấp thu CO2, cải thiện các điều kiện vi khí hậu khu vực, dịch vụ tích lũy carbon, dịch vụ góp phần làm giảm thiểu tác hại của gió bão, nước biển dâng và sóng thần, dịch vụ làm tăng lượng bồi tụ trầm tích mở rộng đất đai bờ cõi, dịch vụ lọc nước và hấp thu các chất độc hại, ô nhiễm vùng cửa sông ven biển, dịch vụ cung cấp phương tiện và thông tin cho nghiên cứu, giáo dục, đào tạo, các dịch vụ du lịch và nhiều dịch vụ khác.
  18. - 14 - 2.3. Hiện trạng khai thác và sử dụng tài nguyên rừng ngập mặn tại Vườn quốc gia Xuân Thủy Do điều kiện tự nhiên ưu đãi nên nguồn lợi về tài nguyên thiên nhiên trong VQG Xuân thủy rất phong phú, đặc biệt là nguồn lợi thủy sản. Chính vì vậy, từ lâu người dân đã khai thác sử dụng nguồn tài nguyên này thông qua các hình thức chủ yếu sau. Hệ thống đầm tôm: trong khu vực bắt đầu từ cuối năm 1980, vùng đệm có trên 1779 ha đầm tôm, trong danh giới của VQG Xuân Thủy có 19 đầm tôm với diện tích 217 ha, phần lớn ký hợp đồng đến hết năm 2010, trong đó có 4 đầm hết hạn vào tháng 3 năm 2004. Hiện nay diện tích đầm tôm là 211 ha tập trung chủ yếu ở phía Bắc và một số ở trung tâm Cồn Lu, diện tích các đầm đã đưa vào khsi thác, nuôi trồng thủy hải sản theo bảng dưới đây. Bảng 2.1: Diện tích các đầm nuôi trồng thủy hải sản Xã Số đầm Diện tích (ha) Giao Thiện 97 663,5 Giao An 62 897 Giao Lạc 18 169 Giao Xuân 6 49,5 Tổng 183 1779 Nguồn: Quy hoạch sử dụng đất đai vùng bãi bồi Cồn Lu – Cồn Ngạn 2002-2010 Hiện trạng quản lý khai thác và sử dụng của hệ thống đầm tôm tương đối ổn định, người dân chủ yếu canh tác theo mô hình quảng canh nghĩa là chủ đầm dùng thức ăn và con giống tự nhiên là chính, hiệu quả nuôi trồng thủy sản chưa cao. Tuy nhiên, các mô hình nuôi quảng canh này tương đối ổn định bình quân 1 ha thu được trên 100 kg tôm/năm.
  19. - 15 - Bãi vạng: Đây là hình thức nuôi trồng thủy sản tự phát do dân cư hai xã Giao Lạc và Giao Xuân khởi xướng từ những năm 1990. Hiện nay, các bãi vạng được chia nhỏ từ 2 - 5 ha để nuôi và khai thác, nguồn lợi từ bãi vạng này rất lớn, nếu thời tiết thuận lợi và các chủ nuôi vạng không gặp rủi ro về con giống thì lợi nhuận thường gấp từ 8 - 10 lần số vốn bỏ ra đầu tư ban đầu. Bên cạnh đó, các chủ vây vạng thường kết hợp làm đăng cá đó cũng tạo ra nguồn thu nhập hàng ngày. Mô hình nuôi trồng rau câu cung cấp nguyên liệu chính cho chế biến aga xuất khẩu, gồm những đầm có diện tích mặt thoáng rộng, chế độ nước phù hợp. Những năm qua, loài rong câu chỉ vàng cho giá trị xuất khẩu cao, nên đã đạt sản lượng trung bình là 500 tấn/năm. Khai thác thủ công các nguồn lợi tự nhiên ở khu vực: do sức hấp dẫn của thị trường các mặt hàng thủy sản, nên đã lôi kéo hầu hết các lao động nông nhàn trong các xã vùng đệm và một số xã lân cận vào hoạt động này. Các sản phẩm tự nhiên chủ yếu gồm: cua bể, cá bớp, don, dắt, vạng giống, tôm rảo, cá các loại v.v. Hình thức khai thác gồm kéo chài, thả lưới, câu, mò móc, cuốc v.v. đã đem lại thu nhập đáng kể cho các hộ dân, cải thiện đời sống cho dân cư. Chăn thả gia súc: mặc dù có nhiều quy định được đưa ra nhằm hạn chế số lượng gia súc chăn thả tự do trong khu vực cần bảo vệ của VQG thế nhưng hiện nay vẫn còn trên 500 con trâu, bò, dê của bộ đội biên phòng và người dân địa phương tìm nguồn thức ăn từ VQG mỗi ngày. Du lịch: VQG Xuân Thủy là một địa điểm du lịch khá độc đáo, nơi đây vừa có rừng, vừa có biển; khí hậu mát mẻ trong lành quanh năm. Về mùa chim di trú, du khách có thể trực tiếp chiêm ngưỡng nhiều loại chim quý hiếm, sống theo bầy đàn đông đúc, nguồn lợi thủy sản phong phú cũng góp phần tạo nên
  20. - 16 - điểm nhấn của các tour du lịch này. Du khách đến VQG Xuân Thủy sẽ có dịp được thưởng thức văn hóa ẩm thực nồng nàn hương biển, kết hợp trên tuyến du lịch là các điểm thăm quan các danh thắng nổi tiếng của một miền quê văn hiến như: đền Tức Mặc - Phủ Thiên Trường, làng hoa cây cảnh Vị Khê - Điền Xá, chùa Cổ Lễ, chùa Keo Thái Bình, Tòa thánh Phú Nhai - Bùi Chu, khu nghỉ mát tắm biển Quất Lâm.v.v. tất cả các giá trị cả về văn hóa vật thể và phi vật thể ở đây làm nền tảng cấu thành nên một tour du lịch khép kín mang một sắc thái riêng, kết hợp hài hòa giữa sinh thái và nhân văn.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2