intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu khả năng phòng hộ của rừng Tràm ở huyên Tam Nông - tỉnh Đồng Tháp

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:85

20
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn nhằm góp phần hoàn thiên và bổ sung những kiến thức về khả năng phòng hộ của rừng Tràm nhằm hoàn thiện cơ sở khoa học cho công tác quản lý rừng Tràm tai huyện Tam Nông nói riêng và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nói chung. Để hiểu rõ hơn mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết của luận văn này!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu khả năng phòng hộ của rừng Tràm ở huyên Tam Nông - tỉnh Đồng Tháp

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ĐỖ THỌ KIÊN NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG PHÒNG HỘ CỦA RỪNG TRÀ M Ở HUYỆN TAM NÔNG – TỈNH ĐỒNG THÁP Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN QUANG BẢO Hà Nội, 2010
  2. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Viê ̣t Nam là quố c gia nằ m trong vùng nhiê ̣t đới, chiụ ảnh hưởng của chế đô ̣ gió mùa châu Á. Bên ca ̣nh đó, Viê ̣t Nam là mô ̣t nước có hê ̣ thống sông suố i dày đă ̣c, chằ ng chit.̣ Nước ta la ̣i hay có baõ và áp thấ p nhiêṭ đới, kéo theo mưa lớn gây lũ lu ̣t làm thiêṭ ha ̣i rấ t lớn về người và của. Vì vâ ̣y, viê ̣c quản lý bảo vê ̣ và phát triể n hê ̣ thố ng rừng phòng hô ̣ là đă ̣c biêṭ quan tro ̣ng trong quá triǹ h phát triể n bề n vững chung của cả nước và khu vực. Nước ta có khoảng ba triệu hecta đất ở các vùng đồng bằng bị nhiễm mặn và phèn, trong đó đất phèn gần hai triệu hecta và đất mặn khoảng một triệu hecta. Ở miền Bắc có khoảng 200.000 ha đất phèn, phân bố ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình, Hải Dương và một số diện tích ở ven biển miền Trung. Ở miền Nam, nhất là đồng bằng sông Cửu Long các vùng đất đầm lầy, ngập nước ngọt định kỳ trong 6 -7 tháng và nhiều tháng úng nước phèn chua tập trung ở 3 vùng: Đồng Tháp Mười trên các tỉnh Long An, Tiền Giang và Đồng Tháp; vùng Tứ giác Long Xuyên trên các tỉnh An Giang, Kiên Giang; vùng U Minh hạ, U Minh thượng thuộc tỉnh Cà Mau. Những vùng đất úng phèn này rất khó trồng lúa và những cây hoa màu khác, nhưng có thể trồng Tràm và kết hợp nuôi ong mật, thủy sản… Khu vực đồng bằng sông Cửu Long có diện tích đất phèn khoảng 1.6 triệu ha. Loại đất này được đặc trưng bởi độ axit cao, hàm lượng nhôm, sắt tiềm tàng cao và thiếu lân. Các nhóm đất phèn ở đồng bằng sông Cửu Long còn bao gồm cả các loại đất phèn, nhiễm mặn nặng và trung bình. Tuy nhiên chúng cũng chịu ảnh hưởng bởi sự tác động của các hệ sinh thái khác trong khu vực. Những năm gần đây, đã có những trận lũ lụt lớn xảy ra tại vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đặc biệt là cơn lũ lụt từ tháng 9 đến tháng 11 năm 2000. Lũ gây ra ngập sâu, kéo dài làm đình trệ sản xuất, trước hết là sản xuất
  3. 2 nông nghiệp, gây xói lở bờ sông, bờ kênh, phá hoại hạ tầng cơ sở, đặc biệt là hệ thống đường giao thông. Tình trạng ngập lụt cũng làm xáo trộn cuộc sống, gây khó khăn cho việc định cư, đi lại, học hành, chữa bệnh... của người dân. Nhưng ngược lại, lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long cũng mang lại những lợi ích hết sức quý giá. Trước hết, nó tải một lượng bùn cát lớn từ thượng lưu về, bồi đắp đồng bằng, làm cho đồng bằng tiếp tục mở rộng về phía biển Đông, làm tăng độ phì nhiêu cho đồng ruộng, là nguồn cung cấp dinh dưỡng và môi trường sinh trưởng thuận lợi cho các loài thuỷ sản. Đồng thời, nước lũ cũng có tác dụng thau chua, rửa mặn và các độc tố về hạ lưu, làm vệ sinh đồng ruộng. Để ổn định đời sống nhân dân, phát triển sản xuất, góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, cần phải tăng cường khả năng phòng chống thiên tai, hạn chế thiệt hại khi có lũ lụt và thiên tai xảy ra, bên cạnh đó phải có kế hoạch sử dụng và khai thác triệt để và hợp lý nhất nguồn nước sông Cửu Long mang lại. Rừng Tràm là một hệ sinh thái đặc trưng cho những vùng ngập úng phèn, cũng là một bộ phận hợp thành của hệ sinh thái vùng lũ, nó chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đất, nước, khí hậu và đa dạng sinh học. Đồng thời cũng tác động mạnh tới các thành phần này thông qua quá trình trao đổi vật chất và năng lượng. Vì vậy, để nghiên cứu hiệu quả khả năng phòng hô ̣ của rừng Tràm cần nghiên cứu đồng thời những yếu tố cấu trúc, đấ t, nước... khu vực rừng Tràm. Với những ý nghiã nêu trên, đề tài: “Nghiên cứu khả năng phòng hộ của rừng Tràm ở huyê ̣n Tam Nông - tỉnh Đồ ng Tháp” được thực hiện nhằm góp phần đáp ứng các yêu cầu trên.
  4. 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Trên thế giới 1.1.1. Nghiên cứu về rừng Tràm Tràm (Melaleuca) là một Chi thuộc họ Sim (Myrtaceace) có phân bố tự nhiên từ Australia đến Việt Nam [30]. Các lâm phần Tràm tự nhiên thường mọc thuần loài, đều tuổi. Trong những lâm phần tự nhiên quá trình tỉa thưa tự nhiên diễn ra rất mạnh do sự cạnh tranh về chất dinh dưỡng, nước và ánh sáng [33]. Okubo et al. [37] đã tiến hành so sánh sinh trưởng của Tràm (M. Cajuputi) trên 3 lập địa: tầng than bùn dày (>1m), than bùn mỏng (
  5. 4 thuộc rất lớn và kích thước và quy mô đám cháy và được xác định thông qua khối lượng vật liệu cháy, cường độ đám cháy và mùa cháy [36]. Lửa xuất hiện thường xuyên với cường độ lớn sẽ đốt cháy hoặc làm triệt tiêu khả năng nảy mầm của hạt [29]. Nghiên cứu của Yates and Russell-Smith [41] đã cho thấy rừng Tràm có khả năng chịu đựng được tổn thương do lửa thường xuyên, tuy nhiên, khoảng cách giữa hai lần cháy phải đủ dài để cây lớn lên đạt kích thước tối thiểu để ra hoa và kết quả trở lại và tồn tại sau lửa. Franklin et al. [32] đã tiến hành điều tra 340 ô tiêu chuẩn phân bố trên vùng diện tích rộng 450,000 km2 ở phía bắc Úc để nghiên cứu quy luật phân bố và tái sinh của rừng Tràm. Kết quả cho thấy của Tràm Melaleuca argentea thích hợp với nền đất cát và phân bố chúng bị giới hạn bởi các dòng sông. Trong khi đó Tràm Melaleuca cajuputi lại thích hợp với đất thịt và xuất hiện ở các vùng đất thấp ven biển. Các loài Tràm Melaleuca dealbata, M. viridiflora and M. leucadendra có phân bố trên nhiều loại đất khác nhau phụ thuộc vào tình trạng ngập lụt. Tràm M. argentea and M. leucadendra phân bố ở các vùng ngập dọc sông. Ngược lại M. leucadendra và (M. Cajuputi) lại xuất hiện ở vùng đầm lầy ở cửa sông. Các tác giả đã đi đến kết luận, ở các vùng nhiệt đới phía bắc nước Úc, rừng Tràm thay thế rừng mưa nhiệt đới ở những nơi có lửa cháy hoặc ngập lụt mạnh Franklin & Bowman [33]. Tuy nhiên, ở các khu vực cao hơn, sự xuất hiện của lửa thường xuyên đã hạn chế sự xâm lấn của Tràm với thảm thực vật khác như savan, trảng cỏ. Điều này đã được chứng minh trong nghiên cứu đốt thử của Crowley et al [31] trong vòng 3 năm liên tục và so sánh với khu vực không có lửa cháy trong vòng 20 năm đã làm tăng mật độ Tràm Melaleuca viridiflora lên 7 lần. Bowman và Rainey [27] đã nghiên cứu ảnh hưởng của độ cao địa hình đến cấu trúc đường kính của Tràm Melaleuca cajuputi trên các vùng bán ngập ở phía bắc Úc. Kết quả cho thấy Tràm (M. Cajuputi) phân bố ở độ cao từ 1-
  6. 5 6m, không có biến động lớn về cỡ kính trong các độ cao này. Phân bố số cây của Tràm (M. Cajuputi) theo cấp kính là gián đoạn không liên tục, nguyên nhân chính là do tác động của cháy rừng. Theo Dr. Jon Davies năm 2008, mực nước ở rừng trên than bùn vùng Pekan của Malaixia rất it khi xuống dưới 20cm và đây cũng là điều kiện thủy văn của hầu hết các vùng rừng than bùn nhiệt đới. Nó đảm bảo điều kiện yếm khí để tốc độ oxy hoá và phân huỷ than bùn chậm hơn hơn tốc độ hình thành luỹ chúng, lớp than bùn sẽ ổn định và cao dần lên. Trước đây, với quy mô diện tích hàng trăm nghìn hecta và không có kênh rạch rừng Tràm trên than bùn của Việt Nam cũng đã có phần lớn thời gian trong năm ngập nước và mực nước không nằm thấp hơn mặt than bùn quá 20cm. Chỉ như vậy, than bùn mới có thể tồn tại lâu dài trong điều kiện nhiệt đới nóng ẩm. 1.1.2. Nghiên cứu về vai trò phòng hộ của rừng Nghiên cứu về vai trò phòng hộ của rừng đã được thực hiện từ những đầu thế kỉ trước. Người ta tập trung chủ yếu vào vai trò của rừng trong việc ngăn cản xói mòn và phục hồi đất, vai trò bảo vệ nguồn nước, chắn gió và chắn cát. Công trình nghiên cứu đầu tiên về xói mòn đất có ý nghĩa quan trọng nhất trong lĩnh vực xói mòn đất đã được thực hiện bởi Volli từ năm 1844. Tác giả khẳng định xói mòn được thực hiện qua hai pha chủ yếu là bắn phá làm tơi rời các hạt đất và cuốn trôi chúng, trong đó pha đầu là quan trọng nhất. Để bảo vệ đất cần giảm được động năng mưa làm sự bắn phá tơi rời đất của các hạt mưa là có ý nghĩa quyết định trong chống xói mòn bảo vệ đất. Về sau nghiên cứu định lượng về xói mòn đã được thực hiện ở nhiều nơi trên thế giới. Phương trình xói mòn đất được áp dụng rộng rãi nhất cho đến nay là phương trình của Wischmeier, được tác giả và các công sự xây dựng từ năm 1956. Trong đó thể hiện được liên hệ của xói mòn đất với 6 nhân tố ảnh
  7. 6 hưởng là chế độ mưa, tính chất đất, độ dốc, chiều dài sườn dốc, kiểu trồng cây và biện pháp bảo vệ đất. Phương trình của Wischmeier đã gợi ý về các biện pháp chống xói mòn bảo vệ đất. Đó là tất cả những giải pháp nhằm giảm thiểu một hoặc một nhóm các nhân tố ảnh hưởng đến xói mòn đất trong các phương trình của wischmeier. Tuy nhiên, việc áp dụng phương trình này cũng gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong điều kiện thiếu dữ liệu nghiên cứu cơ bản để xác định các thông số cần thiết, chẳng hạn thiếu dữ liệu về mưa, thiếu dữ liệu về khả năng chống xói mòn của đất, hay dữ liệu về ảnh hưởng của các kiểu trồng cây đến xói mòn v.v... Những nghiên cức về ảnh hưởng của rừng đến các quá trình tích luỹ và vận chuyển nước, hay các quá trình thuỷ văn, cũng được nghiên cứu từ đầu thế kỷ 19. Công trình nghiên cứu đầu tiên về thuỷ văn rừng được ghi nhận là công trình của A. A. Monchanop (1860). Ông đã xác lập được phương trình cân bằng nước và vai trò của rừng với các thành phần cân bằng nước ở miền nam nước Nga. Ý nghĩa quan trọng của công trình này là hình thành phương pháp nghiên cứu về thuỷ văn rừng, trong đó công cụ quan trọng để nghiên cứu là phương trình cân bằng nước. Đến nay, trong quan điểm chung, vai trò giữ nước của rừng được hiểu là giữ và tích luỹ nước ở bất kỳ dạng nào - làm tăng lượng nước trong đất, giảm bốc thoát hơi nước, tăng mực nước ngầm, giảm dòng chảy bề mặt, hạn chế xói mòn đất, qua đó làm tăng và ổn định lượng nước sông suối, cũng như làm sạch nước (Monchanop, 1960, 1973; Khanbecop, 1984; Whitehead và Robinson, 1993; Bonell, 1993). Khả năng giữ nước của rừng được phản ánh thông qua ảnh hưởng của nó đến hiệu ích của nguồn nước, nên về nguyên tắc có thể sử dụng nhiều chỉ tiêu khác nhau để đánh giá khả năng giữ nước của rừng như: mức thay đổi của hàm lượng các chất hoá học, các chất hoà tan trong nước sau khi đã dịch
  8. 7 chuyển qua hệ sinh thái rừng, hệ số dòng chảy bề mặt, mực nước ngầm, tần suất lũ hoặc dùng các chỉ tiêu trực tiếp có ảnh hưởng đến nguồn nước như các nhân tố cấu trúc rừng, các tính chất vật lý của đất rừng ... Tuy nhiên, xét về tính đại diện và khả năng dễ xác định thì hệ số dòng chảy bề mặt, lượng nước giữ lại trong đất là những chỉ tiêu tốt nhất phản ánh khả năng giữ nước của rừng. Dòng chảy mặt càng thấp, lượng nước giữ lại trong đất càng nhiều, khả năng giữ nước của rừng sẽ càng tốt. G.Fiebiger đã dùng khái niệm “Dung tích giữ nước của rừng” để phản ánh khả năng giữ nước của nó và được xác định bằng tổng lượng nước giữ lại trên tán, lượng nước giữ lại bởi vật rơi rụng và lượng nước tích giữ trong đất. Quan điểm này được các nhà thuỷ văn rừng chấp nhận một cách rộng rãi (Trần Huệ Tuyền, 1994; Vu Chí Dân và Vương Lễ Tiên, 2001). Về mặt lý thuyết khả năng giữ nước của rừng được hiểu là khả năng làm tăng hiệu ích kinh tế của nguồn nước. Song hiệu quả kinh tế của nước liên quan đến hiệu quả của nhiều ngành kinh tế, thường rất khó xác định. Vì vậy, trong thực tế người ta thường xác định khả năng giữ nước của rừng là khả năng làm tăng tính hiệu ích của nước. Đó là tính sạch, tính ngọt, tính ổn định và tính tại chỗ của nguồn nước. Khả năng giữ nước của rừng có giới hạn và phụ thuộc nhiều vào đặc điểm của đất rừng như: cấu trúc rừng, độ xốp và kết cấu đất, độ dày tầng đất v.v...., trong đó đặc biệt quan trọng là độ xốp và bề dày tầng đất. Chúng quyết định dung tích chứa nước của đất rừng (Vu Chí Dân và Vương Lễ Tiên, 2001). Vai trò của rừng trong bảo vệ nguồn nước quan trọng nhất là vai trò bảo vệ và cải thiện những tính thuỷ văn của đất. Khi nghiên cứu về vai trò của rừng với nguồn nước, các tác giả đã cố gắng xác định những quan hệ định lượng của rừng với đặc điểm của nguồn nước (các tính hiệu ích của nước). Tuy nhiên, vì tính phức tạp của các quá
  9. 8 trình thuỷ văn mà cho đến nay vẫn chưa có những công thức cho phép định lượng khả năng giữ nước của rừng có thể áp dụng chung cho cả thế giới. Trong những năm gần đây xuất hiện một số mô hình dự báo thủy văn, trong đó có tính ảnh hưởng thảm rừng. Tuy nhiên, sai số của chúng còn lớn do không tính đến được đầy đủ những nhân tố ảnh hưởng cụ thể của các nước, các vùng khác nhau. Trên thế giới cũng đã có những công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của rừng đến gió hại, đến điều kiện nói chung đến cát bay, đến sóng biển v.v..., trong đó có những công trình nghiên cứu ở Trung quốc và những nước châu âu. Đây sẽ là những tư liệu tham khảo quan trọng cho nghiên cứu về vai trò của rừng đến tiểu khí hậu và sản xuất nông nghiệp ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long trong đề tài này. 1.2. Ở Viêṭ Nam 1.2.1. Nghiên cứu về cây Tràm Lê Đình Khả, Hoàng Chương, Nguyễn Trần Nguyên [9] đã nghiên cứu về xuất xứ và khảo nghiệm giống Tràm cho trồng rừng ở đồng bằng sông Cửu Long. Kết quả nghiên cứu của các tác giả đã khẳng định một số loài và xuất xứ có nhiều triển vọng cho vùng đồng bằng sông Cửu Long (M. leucadendra – xuất xứ Weipa, Rifle Creek, Lawrence và keru; (M. Cajuputi) xuất xứ Tịnh Biên – An Giang). Thái Thành Lượm [12] nghiên cứu về nhân giống vô tính cây Tràm và kỹ thuật lâm sinh để nâng cao sản lượng rừng Tràm. Dự án JICA (2002) đã xây dựng mô hình trồng Tràm trên đất phèn. Kết quả nghiên cứu đã xác định các biện pháp kỹ thụât cho gây trồng và đặc biệt là mật độ gây trồng nên từ 10,000 – 15,000c/ha.Tuy nhiên vẫn còn những bàn cãi xung quanh vấn đề mật độ gây trồng. Nguyễn Việt Cường [4] nghiên cứu trồng thử nghịêm Tràm lai và khảo
  10. 9 nghiệm một số xuất xứ Tràm ở đất bán ngập vùng núi đá vôi ở Ninh Bình và Hà Tây.Tác giả đã nghiên cứu trồng 2 mật độ là 4,500c/ha (1.5 x 1.5m) và 6,600c/ha (1 x 1.5m).Kết quả bước đầu cho thấy Tràm sinh trưởng tốt và có nhiều triển vọng cho gây trồng ở miền Bắc. Ngô Đình Quế [15] đã nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật và xây dựng một số mô hình trồng rừng Tràm, mô hình nông - lâm - ngư kết hợp ở vùng đất phèn đồng bằng sông Cửu Long, cũng theo tác giả thì Tràm ở Việt nam có ít nhất 4 chủng, hoặc dạng khác nhau phân bố ở những lập địa khác nhau là: Tràm cừ có tầm vóc cao, mọc tự nhiên trên đất phèn ở vùng đồng bằng sông Cửu long, Tràm lùn hay Tràm gió tầm cóc nhỏ, dạng cây bụi cũng mọc ở vùng trên. Tràm bụi, có tầm vóc nhỏ bé cây cao không quá 2 mét, mọc tự nhiên ở đồi trọc sim, thanh hao ở Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế. Tràm bưng, thấp chỉ cao có 1 mét, mọc tự nhiên ở bãi cát rời rạc, ven biển, hơi ẩm tại Quảng Bình, Quảng Trị. Cũng theo tác giả thì: Sinh trưởng của rừng Tràm có liên quan chặt chẽ với các yếu tố dinh dưỡng trong đất: Hàm lượng chất hữu cơ trong đất < 8% rừng Tràm sinh trưởng rất thuận lợi. Hữu cơ từ 8 - 15% rừng Tràm sinh trưởng thuận lợi và hữu cơ > 15% (dày 40cm) rừng Tràm sinh trưởng bị hạn chế. Từ năm 1994, qua chương trình hợp tác với ACIAR, 26 xuất xứ của Tràm lá dài (M.Leucadendra), cùng với Tràm gió (M.cajuputi) đã được khảo nghiệm tại 4 điểm của đồng bằng sông Cửu long, cho thấy Tràm lá dài có sinh trưởng nhanh nhất trong các loài Tràm đã khảo nghiệm. Các xuất xứ của Tràm gió Việt nam đều có sinh trưởng kém hơn so với Austraylia. Theo Nguyễn Việt Cường, và cộng sự [3] thì: Tràm phân bố ở nước ta được giới hạn trong 3 kinh độ, từ 103058’-107005 Đông, chạy theo rìa ven biển phía Đông, nhưng lại trải dài trên gần 12 vĩ độ, từ 9010 - 21035 B, chứng tỏ có phân bố tự nhiên tuy không rộng, nhưng kéo dài ra từ Nam ra Bắc.
  11. 10 Nghiên cứu về các loài Tràm có triển vọng cho sản xuất tinh dầu có công trình của tác giả Phùng Cẩm Thạch, đã giới thiệu 2 loài Tràm Úc và Tràm Trà và phương pháp thu hoạch, chưng cất tinh dầu. Nghiên cứu về hệ sinh thái rừng Tràm và một số biện pháp phòng cháy, chữa cháy rừng Tràm có công trình của tác giả Phạm Ngọc Hưng – Trung tâm phát triển nông lâm nghiệp bền vững. Tác giả Đào Vũ cùng các cộng tác viên đã có công trình nghiên cứu: Xác định và đánh giá các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật của các biện pháp làm đất phèn hiện có để trồng rừng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long”.Tác giả đã mô tả khá chi tiết về các biện pháp làm đất, đạc biệt là phương pháp lên líp và đã so sánh sinh trưởng của rừng Tràm trên các biện pháp lên líp khác nhau. Năm 1998, Đặng Trung Tấn - Trung tâm rừng ngập Minh hải đã có nghiên cứu “Thiết kế mô hình trồng Tràm thâm canh trên vùng đất phèn ngập sâu bằng phương pháp đắp mố”. Theo tính toán của tác giả thì cùng với khối lượng đào đắp là 833m3 đất, thì phương án đắp mố có thể nâng cao được mặt bằng trồng rừng lên 50cm, trong khi nếu lên líp chỉ cao được 10cm. Tác giả Đỗ Đình Sâm, Nguyễn Ngọc Bình [20] sử dụng 5 yếu tố để đánh giá tiềm năng sử dụng đất phèn trong lâm nghiệp ở ĐBSCL là: Loại đất, hàm lượng chất hữu cơ trong đất, thời gian ngập nước, độ sâu ngập nước và khả năng cung cấp nước ngọt để rửa phèn, trong đó có 2 yếu tố chủ đạo là: độ sâu ngập nước và và khả năng cung cấp nước ngọt để rửa phèn là các yếu tố quyết định tiềm năng sử dụng đất đai. Vì vậy lên líp và xây dựng hệ thống kênh mương có ý nghĩa quan trọng trong sản xuất lâm nghiệp trên đất phèn ở đồ ng bằ ng sông Cửu Long. Từ năm 2001 nhóm đề tài của trường Đại học lâm nghiệp do Lê Sĩ Việt [25] làm chủ nhiệm đã nghiên cứu xây dựng mô hình phục hồi rừng trên vùng bán ngập hồ Hoà Bình. Kết quả đề tài đã đề xuất được các loài cây có triển
  12. 11 vọng trồng ở vùng bán ngập là Tràm Úc, Vậy nước, Dâu da xoan, Sấu, Vông nước, Nhội, Chẹo. Trung tâm Ứng dụng KHKT Lâm nghiệp – Viện KHLN Việt nam [23] đã thử nghiệm mô hình trồng cây nông lâm nghiệp trên vùng đất bán ngập tại hồ Thác Bà và hồ Suối Hai cho thấy các loài cây lâm nghiệp dự án đã thử nghiệm trồng như: Tràm úc, Bạch đàn GU8, Tre gai với môi trường ngập nước cục bộ trong năm cây có sinh trưởng cả về đường kính, chiều cao cũng như tỷ lệ sống là tương đối cao: Tràm úc có tỷ lệ sống cao nhất từ 76- 90% , tiếp đến Bạch đàn Gu8 có tỷ lệ sống 70-85% ; Tre gai có tỷ lệ sống từ 45 - 62%; Dành dành 40% và Vậy nước là 35% khi trồng tại các mức nước ngập khác nhau. Cùng loài cây trồng thì ở mức nước ngập dưới 2 tháng có tỷ lệ sống cao hơn khi trồng tại mức nước ngập 2 - 4 tháng. Tại mức nước ngập trên 4 tháng cây có tỷ lệ sống thấp nhất. Lý Thọ (1981), Nguyễn Huỳnh Châu (1982), Nguyễn Hiếu Liêm (1983), Lê Văn Sáng (1984), Tạ Văn Thuỵ (1985), Phạm Ngọc Cơ (1994) đã nghiên cứu đặc điểm lâm học và năng suất rừng Tràm, về trồng xen loài khác với Tràm trên đất phèn và áp dụng mô hình nông lâm kết hợp ở vùng đầm lầy đồng bằng sông Cửu Long, về kỹ thuật trồng và bảo vệ rừng Tràm. Các kết quả chủ yếu nghiên cứu về trồng và bảo vệ rừng ở giai đoạn đầu nhưng chưa chú trọng đến kỹ thuật chăm sóc rừng. 1.2.2. Nghiên cứu về vai trò phòng hộ của rừng Đến nay đã có những công trình nghiên cứu liên quan đến vai trò của rừng chống xói mòn bảo vệ đất, trong đó có công trình của Nguyễn Ngọc Lung [11] về tác dụng phòng hộ nguồn nước của một số thảm thực vật chính ở Tây Nguyên và các nguyên tắc xây dựng rừng phòng hộ nguồn nước, của Nguyễn Tử Siêm, Thái Phiên [14] về xói mòn đất dưới điều kiện hoạt động canh tác nông nghiệp và một số rừng trồng, Vương Văn Quỳnh [18] về xói
  13. 12 mòn đất ở vùng nguyên liệu giấy. Các công trình nghiên cứu về tác dụng của rừng chắn cát bay được nghiên cứu bởi viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam, trong đó phải kể đến công trình luận án của Đặng Văn Thuyết. Tuy nhiên hiện còn ít nghiên cứu về tác dụng của rừng trong việc chống lại các quá trình thoái hoá đất như quá trình mặn hoá, phèn hoá, giảm lũ vùng đồng bằng..v.v... Để xác định diện tích và phân bố rừng Tràm ở vùng lũ đồng bằng sông Cửu Long, các công trình nghiên cứu sẽ phải kế thừa những kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước về vai trò phòng hộ của rừng, đồng thời tổ chức những nghiên cứu bổ sung, đặc biệt về những vấn đề còn chưa được làm sáng tỏ ở Việt Nam như ảnh hưởng của rừng đến quá trình giảm lũ, ngăn chặn mặn hoá và phèn hoá... Cho đến nay việc xác định diện tích rừng phòng hộ được thực hiện bởi viện điều tra quy hoạch rừng. Người ta đã căn cứ vào những nhân tố ảnh hưởng đến tiềm năng xói mòn và khô hạn để đánh giá sự cần thiết phải có rừng và từ đó quy hoạch ba loại rừng. Phương pháp xác định chủ yếu là chồng xếp bản đồ. Các bản đồ chuyên đề được thiết lập trên cơ sở phân vùng riêng rẽ từng nhân tố ảnh hưởng đến xói mòn và khô hạn như độ cao, độ dốc, loại đất, và lượng mưa. Việc chồng xếp các bản đồ chuyên đề sẽ hình thành những vùng trong đó tương đối đồng nhất về điều kiện ảnh hưởng đến xói mòn và khô hạn. Trên cơ sở phân tích biến động của các các nhân tố ảnh hưởng đến xói mòn và khô hạn người ta phân chia ra các vùng ít xung yếu, xung yếu và rất xung yếu. Từ đây sử dụng một số thông tin bổ sung về điều kiện kinh tế xã hội người ta tiến hành quy hoạch 3 loại rừng: sản xuất, phòng hộ và đặc dụng. Mặc dù tốn nhiều công sức nhưng việc xác định diện tích rừng và mức độ phòng hộ xung yếu vẫn chưa có sức thuyết phục cao. Nguyên nhân chủ yếu do thiếu cơ sơ của việc phân cấp các nhân tố ảnh hưởng đến nguy cơ xói mòn và khô hạn cũng như phương pháp tích hợp chúng trong đánh giá sự cần
  14. 13 thiết phải bảo vệ và phát triển rừng. Vì vậy, quy hoạch 3 loại rừng có cơ sở pháp lý nhưng vẫn thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn để áp dụng. Nhìn chung, cho đến nay các công trình nghiên cứu về hiệu quả chống xói mòn đất, chắn gió, chắn cát của rừng ở Việt Nam và thế giới là tương đối phong phú. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu về hiệu quả phòng hộ và giảm lũ vùng đồng bằng còn ít được thực hiện ở nước ta. Những thông tin thu được còn tản mạn chưa đủ làm cơ sở khoa học cho xác định diện tích và phân bố rừng cần thiết. Đề tài này tập trung vào nghiên cứu hiệu quả phòng hộ và giảm lũ của rừng Tràm nhằm có thêm cơ sở khoa học cho việc xác định diện tích và phân bố rừng Tràm cần thiết cho vùng lũ đồng bằng sông Cửu Long.
  15. 14 Chương 2 ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU 2.1. Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý Tam Nông là huyện vùng sâu của tỉnh Đồng Tháp, với diện tích tự nhiên 46.081,86 ha. Đến năm 2008, dân số của huyện là 108.071 người với 25.040 hộ, mật độ 215 người /km2. Phía Bắc tiếp giáp các huyện Tân Hồng, Hồng Ngự Phía Nam giáp huyện Thanh Bình Phía Đông giáp huyện Tháp Mười, huyện Cao Lãnh và tỉnh Long An Phía Tây giáp huyện Hồng Ngự và Thanh Bình. Huyện có vị trí nằm ở trung tâm khu vực phía Bắc Tỉnh, có đoạn sông Tiền và Quốc lộ 30 đi qua và có mạng lưới giao thông thuỷ bộ phân bố đều khắp, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu hàng hoá và phát triển kinh tế. Huyện Tam Nông được xem như lá phổi xanh của vùng Đồng Tháp Mười với rừng Tràm bạt ngàn, đồng cỏ mênh mông, lung sen bát ngát... Tháng 9 hằng năm, nước ngập mênh mông đồng lúa, Tam Nông mùa này có rất nhiều điều thú vị dành cho du khách. Vườn quốc gia Tràm Chim là điểm du lịch nổi tiếng nhất huyện. 2.2. Tình hình kinh tế - xã hội Huyện Tam Nông có 12 xã, thị trấn.Từ ngày tái thành lập, huyện đã giành được nhiều thành tựu đáng tự hào, tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt khá thường năm sau cao hơn năm trước (năm 2008 là 13,85%), cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, với thế mạnh là nông nghiệp, cây lúa là mũi nhọn, với biện pháp chủ yếu là tập trung đầu tư cho công tác thuỷ lợi, cải tạo đồng ruộng, sử dụng giống mới ngắn ngày với những biện pháp kỹ
  16. 15 thuật canh tác mới, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế với mô hình nông nghiệp – công nghiệp – thương mại du lịch, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, nên đã đạt được kết quả khá nhanh và vững chắc. Diện tích trồng lúa tăng từ 15.093 ha năm 1983 lên 60.510 ha năm 2007, tăng gấp 4 lần, sản lượng từ 32.680 tấn lên 347.231 tấn tăng gấp 10,6 lần. Chăn nuôi gia súc, gia cầm, nhất là nuôi trồng thuỷ sản phát triển mạnh, đến cuối năm 2007, tổng diện tích nuôi trồng thuỷ sản toàn huyện là 647 ha, trong đó có 319 ha tôm càng xanh nuôi trên chân ruộng; sản lượng khai thác đạt 28.777 tấn/năm. Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp có nhiều tiến bộ. Tại thời điểm năm 1983, công nghiệp của huyện không đáng kể (chỉ tập trung một số cơ sở tại An Long) chủ yếu tồn tại hơn mười cơ sở tiểu thủ công nghiệp, tập trung sản xuất, sửa chữa nông cụ, vật liệu xây dựng (gạch, ngói), xay xát, chế biến gỗ và một số mặt hàng tiêu dùng… với tổng giá trị sản xuất 11.244.000 đồng (giá cố định năm 1982). Đến nay, ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của huyện tuy vẫn còn trong tình trạng sản xuất nhỏ, sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh.Song so với thời điểm trên thì công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của huyện cũng có bước tăng đáng kể. Tổng giá trị sản xuất năm 2007 đạt 22,350 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân tăng trong 2 năm 2006, 2007 là 24,98 %/năm. Công tác xây dựng cơ bản thời gian qua được huyện đặc biệt chú trọng. Với những phương thức và biện pháp thích hợp cùng với nỗ lực của huyện, sự hỗ trợ của Tỉnh và Trung ương, 25 năm qua, đã huy động hàng ngàn tỷ đồng cho xây dựng cơ bản, tập trung vào các công trình trọng tâm như: thuỷ lợi và cải tạo nội đồng, giao thông, điện sản xuất và sinh hoạt, thông tin liên lạc, nước sạch, chương trình trường chuẩn quốc gia, chương trình xây dựng trạm
  17. 16 Y tế, đầu tư nâng cấp chợ, cụm công nghiệp vật liệu xây dựng...đặc biệt, triển khai hiệu quả chương trình cụm tuyến dân cư giai đoạn 1 (toàn huyện có 26 cụm, tuyến dân cư, năm 2007 đã bố trí được 4.438 nền cho hộ nghèo, bán được 1.133/2.646 nền sinh lợi, cơ sở hạ tầng cơ bản hoàn thành). Do đầu tư phát triển tập trung và đúng hướng, đã tác động tích cực và tạo ra những động lực quan trọng, góp phần đáng kể đến việc hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội. So với năm 1983, hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển nhanh chóng đã thúc đẩy quá trình đô thị hoá tăng dần hàng năm làm thay đổi bộ mặt nông thôn nghèo khó ngày nào nay mang dáng dấp của văn minh đô thị. Thương mại - dịch vụ, khi mới tái thành lập huyện lĩnh vực này hầu như chỉ diễn ra ở chợ đầu mối An Long, các chợ Phú Thành, Tân Công Sính (cũ), Phú Cường, Phú Hiệp. Hàng hoá ít ỏi, sức mua yếu, họp chợ chỉ diễn ra vài giờ vào buổi sáng, nông thôn thiếu thốn hàng hoá, người bán ít, người mua cũng chẳng bao nhiêu, đến nay thương mại - dịch vụ được tập trung đầu tư và phát triển nhanh theo hướng mở rộng về số lượng, quy mô và đa dạng về hình thức kinh doanh. Tính đến tháng 01 năm 2008 toàn huyện có 4.416 cơ sở đăng ký kinh doanh thương mại - dịch vụ. Tổng mức giá trị bán lẻ hàng hoá hàng năm đều tăng (năm 2006 đạt 401 tỷ, năm 2007 là 617,324 tỷ đồng). Hoạt động thương mại trên địa bàn huyện ngày càng phát triển do cơ sở hạ tầng nông thôn được đầu tư mở rộng, xây dựng mới các chợ đầu mối và lồng ghép việc xây dựng các chợ nông thôn vào chương trình cụm tuyến, dân cư thuận tiện cho việc kinh doanh mua bán. Giá trị tăng thêm (GDP) của ngành trong năm 2007 đạt 111,7 tỷ đồng, bình quân tăng trưởng 02 năm (2006 - 2007) đạt 20,80%/năm. Về lĩnh vực Tài chính - tín dụng, thu ngân sách trên địa bàn huyện trong các năm 1984, 1985, 1986 chỉ đạt trên 56 triệu đồng, thì tổng thu ngân sách năm 2007 là 103,245 triệu đồng. Huy động vốn đầu tư phát triển hàng
  18. 17 năm đều tăng, năm 2006 là 200 tỷ, năm 2007 là 263 tỷ đồng. Mức vốn đầu tư tín dụng ngân hàng tăng lên hàng năm đã góp phần tích cực tạo vốn cho dân nghèo có điều kiện vươn lên, góp phần xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm. Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội đã đạt được những thành tựu to lớn. Hệ thống giáo dục từ mầm non đến phổ thông liên tục được mở rộng về quy mô và nâng cao chất lượng.Năm 1983 có 9.844 học sinh/50.000 dân.Tổng số trường là 10 (01 cấp III; 09 cấp I, II) với 296 giáo viên, 122 phòng học. Năm 2007 - 2008, có 20.065 học sinh/101.788 dân với 58 trường từ Mầm non, mẫu giáo đến THPT, 647 phòng học và hơn 1.300 giáo viên. Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đến trường cao, tỷ lệ học sinh bỏ học giảm, số học sinh khá, giỏi tăng dần. Hằng năm có từ 96 - 98% học sinh được xét công nhận hoàn thành chương trình tiểu học, 97 % - 98% học sinh được công nhận tốt nghiệp THCS và 70 - 71% học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông; huyện đã đạt và duy trì tốt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục Tiểu học, đúng độ tuổi và chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục bậc Trung học cơ sở.Hoạt động văn hóa thông tin phát triển tốt, góp phần nâng cao đời sống tinh thần, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của các tầng lớp nhân dân. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ từng bước phát triển theo đà phát triển chung của huyện. Ngành văn hóa tổ chức tốt các hoạt động văn nghệ, vui chơi, giải trí, tích cực thông tin tuyên truyền phục vụ các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội của địa phương.Các loại hình ca nhạc tài tử được phục hồi và phát triển. Các câu lạc bộ hát với nhau, hội thi tiếng hát người cao tuổi, tiếng hát công nhân viên chức, biểu diễn của Đội Thông tin lưu động đã góp phần tạo ra những món ăn tinh thần bổ ích cho người dân và được nhân dân hoan nghênh. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa triển khai rộng rãi, được nhân dân đồng tình tham gia, xuất hiện một số mô hình tốt
  19. 18 trong xây dựng đời sống mới và gia đình văn hóa; Năm 2007 có 19.313 hộ đạt chuẩn gia đình văn hoá (82,25% số hộ đăng ký), 30/48 ấp đạt ấp văn hoá và 90/105 cơ quan, đơn vị đạt tiêu chuẩn công sở văn hóa. Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu, khám chữa bệnh cho nhân dân được tăng cường với chất lượng chuyên môn và hiệu quả điều trị ngày càng cao. Đội ngũ cán bộ Y tế, y sĩ, bác sĩ ngày càng đông. Năm 1983 chỉ có 16 y sĩ, 01 bác sĩ, đến nay toàn huyện có 34 bác sĩ, 59 y sĩ, 05 dược sĩ trung cấp, 29 y tá và hộ lý. Đến nay toàn huyện có 120 giường bệnh thuộc các cơ sở y tế nhà nước, 100% số xã, thị trấn có trạm y tế, 100% số trạm y tế có Bác sĩ, nhiều trạm Y tế đạt chuẩn quốc gia. Song song với hoạt động khám và điều trị, ngành đã thực hiện tốt các hoạt động phòng chống dịch bệnh, phòng chống bệnh truyền nhiễm và các chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm.Bệnh viện đa khoa huyện đang được xây dựng khang trang và từng bước được trang bị những thiết bị hiện đại. Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình thu được kết quả tốt, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2007 là 1,189%. Các chính sách xã hội nhất là chính sách thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với nước được các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân quan tâm thực hiện.Toàn huyện hiện có 1.098 đối tượng bảo trợ xã hội; 1.304 hộ chính sách, trong đó có 1.290 hộ đang hưởng trợ cấp thường xuyên. Ngoài chế độ, chính sách của Trung ương, cùng với sự đóng góp của nhân dân, ngân sách địa phương cũng giành mỗi năm hàng trăm triệu đồng, giúp đối tượng chính sách, nhất là thương binh, gia đình liệt sĩ từng bước ổn định đời sống. Tính đến nay công tác xây dựng nhà tình nghĩa của huyện đã cơ bản hoàn thành, dự kiến đến năm 2010 cơ bản xoá nhà tạm cho gia đình chính sách. Chương trình giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo những năm qua được quan tâm và đạt kết quả tích cực. Mỗi năm đã giải quyết cho hàng
  20. 19 trăm hộ vay vốn, đào tạo và giới thiệu việc làm trong và ngoài nước cho hàng ngàn lao động. Chương trình xoá đói giảm nghèo tiếp tục đẩy mạnh với nhiều hình thức, tạo điều kiện cho các hộ nghèo có cơ hội làm ăn, góp phần hạ tỷ lệ hộ nghèo của huyện xuống còn 11,15% (2.609 hộ). Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao; mức tiêu dùng xã hội, bình quân lương thực đầu người đều tăng.Chăm sóc y tế, tuổi thọ, trình độ dân trí của người dân Tam Nông ngày càng được quan tâm và nâng cao hơn nhiều so với những năm trước đây. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được nâng cấp, xây dựng mới nhất là các công trình thuỷ lợi, điện, giao thông, văn hóa, y tế, giáo dục, chợ, nước sạch, ... tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trong sản xuất, đi lại, chữa bệnh, học hành, hưởng thụ văn hóa. Công tác phòng, chống lụt bão, giảm nhẹ thiên tai, xây dựng các cụm, tuyến dân cư vượt lũ được các cấp, các ngành trong huyện quan tâm, tạo điều kiện để hàng ngàn hộ có nơi ở ổn định trong mùa lũ, bảo vệ tính mạng và tài sản. Bộ mặt thành thị và nông thôn ngày càng đổi mới, hướng tới văn minh. Cách nghĩ, cách làm, quan niệm và lối sống của mỗi người dân được thay đổi theo chiều hướng tích cực, tiến bộ. Cùng với phát triển kinh tế - xã hội, công tác quốc phòng – an ninh cũng đạt được thành tích to lớn. Huyện thường xuyên lãnh đạo xây dựng các lực lượng vũ trang trong huyện đủ sức bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1