intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế tư nhân ở Trung Quốc và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

Chia sẻ: SuSan Weddy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:119

28
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là xem xét thực trạng phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Trung Quốc kể từ khi tiến hành cải cách kinh tế, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế tư nhân.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế tư nhân ở Trung Quốc và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ NGÔ THỊ THU HÀ Phát triển kinh tế tư nhân ở Trung Quốc và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam LUẬN VĂN THẠC SỸ Người hướng dẫn: TS. Vũ Đức Thanh Hà nội - 2004
  2. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế tư nhân ở Trung Quốc 1.1 Khái luận về kinh tế tư nhân 4 1.1.1 Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân 4 1.1.2 Đặc điểm của kinh tế tư nhân 8 1.1.3 Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường 10 1.2 Kinh tế Trung Quốc trước cải cách và yêu cầu bức thiết của sự phát triển kinh tế tư nhân 15 1.2.1 Khái quát về nền kinh tế Trung Quốc trước cải cách 15 1.2.2 Kinh tế tư nhân Trung Quốc trước cải cách 16 1.2.3 Yêu cầu bức thiết của sự phát triển kinh tế tư nhân 18 1.3 Những chuyển biến nhận thức đặt cơ sở cho chính sách phát triển kinh tế tư nhân Trung Quốc thời kỳ cải cách 25 1.3.1 Quan niệm về kinh tế tư nhân trước cải cách 25 1.3.2 Những đột phá lý luận 25 Chương 2: Thực trạng phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Trung Quốc 2.1 Chính sách chủ yếu và tình hình phát triển kinh tế tư nhân sau cải cách 33 2.1.1 Giai đoạn 1978 – 1987: Sự phục hồi kinh tế tư nhân 33 2.1.2 Giai đoạn 1988 –1992: Kinh tế tư nhân từng bước khẳng định vị trí trong nền kinh tế 42 2.1.3 Giai đoạn 1992 đến nay: Kinh tế tư nhân được khuyến khích và hỗ trợ phát triển 46 2.1.4 Đặc điểm phát triển của khu vực kinh tế tư nhân Trung Quốc 53
  3. 2.2 Đánh giá thực trạng khu vực kinh tế tư nhân ở Trung Quốc hiện nay 57 2.2.1 Những đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân đối với nền kinh tế 57 2.2.2 Những vấn đề còn tồn tại trong khu vực kinh tế tư nhân ở Trung Quốc 66 Chương 3: Vận dụng kinh nghiệm Trung Quốc nhằm phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam 3.1 Thực trạng kinh tế tư nhân Việt Nam. Những nét tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc trong sự phát triển kinh tế tư nhân 77 3.1.1 Khái quát về chính sách phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam thời kỳ Đổi mới 77 3.1.2 Tình hình phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam thời kỳ Đổi mới 80 3.1.3 Những nét tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc trong phát triển kinh tế tư nhân – cơ sở để vận dụng kinh nghiệm Trung Quốc 86 3.2 Một số bài học kinh nghiệm Trung Quốc và định hướng vận dụng để phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam 90 3.2.1 Đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và kinh tế tư nhân 90 3.2.2 Xây dựng thể chế tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế tư nhân 96 KẾT LUẬN 111
  4. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chỉ hơn hai thập kỷ tién hành cải cách kinh tế, Trung Quốc đã làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt kinh tế xã hội của đất nước mình trước con mắt kinh ngạc và thán phục của bạn bè thế giới. Thành công nhất của cuộc cải cách kinh tế về mặt lý luận là Trung Quốc đã xác lập được lý luận kinh tế thị trường XHCN tạo nên cơ chế vận hành hoàn toàn mới, thúc đẩy sức sản xuất phát triển. Sự hình thành kinh tế thị trường XHCN đã giúp kinh tế tư nhân Trung Quốc được khuyến khích phát triển. Hơn hai mươi năm qua, kinh tế tư nhân ở Trung Quốc phát triển rất nhanh, đóng góp rất lớn vào sự tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP), trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế thị trường XHCN mang màu sắc Trung Quốc. Sự thành công rực rỡ của công cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc nói chung, sự lớn mạnh và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân nói riêng khiến cho các nước phải nghiên cứu, học hỏi đặc biệt là các nước có nền kinh tế chuyển đổi. Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng núi liền núi, sông liền sông, có nhiều điểm tương đồng về địa lý, lịch sử, chính trị và xã hội. Hơn nữa, cải cách kinh tế ở Trung Quốc và đổi mới kinh tế ở Việt Nam đều đưa đất nước theo con đường kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Nghiên cứu quá trình phát triển kinh tế tư nhân ở Trung Quốc giúp chúng ta có được những kinh nghiệm quý báu từ sự thành công và thất bại của bạn. Nó có giá trị tham khảo cho việc đổi mới tư duy lý luận, hoạch định các đường lối, chính sách trong công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta. Vì thế, tôi mạnh dạn lựa chọn, đi sâu vào nghiên cứu đề tài này. 2. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đề tài -1-
  5. Mục tiêu: Xem xét thực trạng phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Trung Quốc kể từ khi tiến hành cải cách kinh tế, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế tư nhân. Phạm vi: Luận văn một mặt đề cập đến các chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ Trung Quốc đối với việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân, mặt khác phân tích thực trạng của khu vực kinh tế tư nhân ở các khía cạnh như số lượng doanh nghiệp, số vốn đăng ký và thực hiện, vai trò và những đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế và tình hình các cơ sở sản xuất, kinh doanh tư nhân nói chung. 3. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh…dựa trên các nguồn tài liệu thu thập được về kinh tế tư nhân. 4. Tình hình nghiên cứu Trong những năm gần đây, kinh tế tư nhân ở Trung Quốc được nhiều người, nhiều tổ chức, nhiều giới quan tâm nghiên cứu. Năm 2001, Tề Quế Trân cho ra mắt bạn đọc cuốn :” Trung Quốc 20 năm cải cách mở cửa cải cách chế độ sở hữu”. Năm 2002, TS Nguyễn Kim Bảo cùng tập thể tác giả đã cho xuất bản cuốn “Thể chế kinh tế thị trƣờng xã hội chủ nghĩa có đắc sắc Trung Quốc” trong đó đã đề cập một cách hệ thống về những đột phá lý luận về chế độ sở hữu ở Trung Quốc, là cơ sở để khu vực kinh tế tư nhân ra đời và phát triển. Cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài báo quan tâm dến đề tài này. Bài “Phát triển doanh nghiệp nông thôn: Kinh nghiệm tƣơng phản giữa Trung Quốc và Việt Nam” của tác giả Đinh Trọng Thắng đăng trên Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 303- tháng 8/2003 là một ví dụ. Ngoài ra cũng có rất nhiều tổ chức quan tâm đến sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Trung Quốc. Chương trình phát triển Dự án Mê-Kông (MPDF) và tập đoàn tài chính quốc tế (IFC) sau một thời -2-
  6. gian tiến hành nghiên cứu khu vực kinh tế tư nhân Trung Quốc đã cho ra đời cuốn:” Doanh nghiệp tƣ nhân Trung Quốc đang nổi lên – Triển vọng trong thế kỷ mới” nhằm chia sẻ những kinh nghiệm của Trung Quốc với các nhà hoạch định chính sách và giới doanh nghiệp các nước khác… Tuy nhiên, hầu hết các tác giả mới chỉ nghiên cứu dưới những góc độ nhất định. Vấn đề phát triển kinh tế tư nhân ở Trung Quốc cần được tiếp tục nghiên cứu, xem xét một cách toàn diện hơn và trình bày một cách hệ thống hơn. 5. Dự kiến đóng góp Khẳng định sự cần thiết khách quan phải phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Trung Quốc. Phân tích đánh giá thực trạng quá trình phát triển kinh tế tư nhân ở Trung Quốc. Tổng kết những kết quả đã đạt được và những vấn đề còn tồn tại cần tiếp tục giải quyết trong quá trình phát triển kinh tế tư nhân ở Trung Quốc. Trên cơ sở đó, rút ra những bài học kinh nghiệm cần nghiên cứu ứng dụng và những sai lầm cần tránh đối với phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam. 6. Nội dung đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế tư nhân ở Trung Quốc Chƣơng 2: Thực trạng phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Trung Quốc Chƣơng 3: Vận dụng kinh nghiệm Trung Quốc nhằm phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam -3-
  7. Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở TRUNG QUỐC 1.1. KHÁI LUẬN VỀ KINH TẾ TƢ NHÂN 1.1.1 Sở hữu tƣ nhân và kinh tế tƣ nhân Để tồn tại và phát triển, con người phải không ngừng chiếm hữu những của cải của tự nhiên nhằm thoả mãn những nhu cầu của mình. Chiếm hữu hay sản xuất trước hết chính là mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên. Trình độ phát triển của chiếm hữu thể hiện ở cách thức, phương tiện và kết quả mà nó thu được, nói lên trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Song sự chiếm hữu hay sản xuất không thể là một hành vi cá nhân. Nói cách khác, trong quá trình chiếm hữu giới tự nhiên, con người phải có những quan hệ với nhau – tức là phải có những quan hệ xã hội mà thể hiện cơ bản là sự thừa nhận lẫn nhau về những cơ sở và kết quả của sự chiếm hữu. Đó chính là sở hữu. Vậy, sở hữu là hình thức xã hội của quá trình chiếm hữu của cải vật chất, trong đó thể hiện quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất. Trong thực tế lịch sử, quan hệ sở hữu hình thành và từng bước hoàn thiện, khi đạt đến độ ổn định và phổ biến thì trở thành những quy ước xã hội (thành văn hoặc không thành văn), được cộng đồng xã hội chính thức thừa nhận. Khi các nhà nước ra đời, nhằm ổn định xã hội, các nhà nước thể chế hoá quyền sở hữu bằng pháp luật – chế độ sở hữu được thiết lập. Cũng vì thế, sở hữu bao hàm những nội dung kinh tế xác định và đồng thời, cũng xác định về mặt pháp lý. Quyền sở hữu xác định quyền năng của chủ thể sở hữu trong việc sử dụng, định đoạt và hưởng lợi từ việc khai thác các đối -4-
  8. tượng sở hữu – các điều kiện của sản xuất, trong đó quan trọng nhất là các tư liệu sản xuất. Sở hữu là một phạm trù lịch sử. Sự phát triển của các hình thức sở hữu là do sự phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Hình thức sở hữu nguyên thuỷ trong lịch sử loài người là sở hữu của các cộng đồng người – sở hữu tập thể. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã đưa đến sự phá vỡ hình thức sở hữu tập thể sơ khai và hình thành sở hữu tư nhân. Sở hữu tư nhân là hình thức sở hữu trong đó, một cá nhân có quyền hợp pháp trong việc chiếm hữu, sử dụng, hưởng lợi và định đoạt các điều kiện của sản xuất – các tư liệu sản xuất. Sở hữu tư nhân đối với các tư liệu sản xuất là cơ sở làm hình thành kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân có thể hiểu là các hoạt động kinh tế của các chủ thể trong xã hội dựa trên quyền sở hữu của tư nhân về các điều kiện chủ yếu của sản xuất và do đó, quyền của tư nhân trong việc quyết định cách thức tổ chức sản xuất cũng như chi phối những kết quả của quá trình này. Hình thức đầu tiên của kinh tế tư nhân là hoạt động kinh tế của các cá nhân và gia đình họ – hình thức kinh tế cá thể phổ biến trong các nền kinh tế của xã hội phong kiến và trước đó. Đáng chú ý là trong điều kiện của xã hội phong kiến, trong khi các hình thức sở hữu phong kiến – sở hữu của vua quan phong kiến và địa chủ, lãnh chúa chiếm địa vị thống trị và chi phối xã hội, vẫn tồn tại loại hình sở hữu tư nhân của nông dân và thợ thủ công về công cụ, ruộng đất và tài sản, đây là cơ sở cho sự tồn tại của kinh tế tiểu nông và nghề thủ công độc lập. Trong một thời gian dài, kinh tế tư hữu nhỏ hoạt động theo phương thức tự cung tự cấp. Cùng với sự phát triển của sở hữu tư nhân (kinh tế tư nhân) và phân công lao động xã hội, kinh tế hàng hoá xuất hiện. Theo quan niệm Mác – xít, sở hữu tư nhân và phân công lao động chính là tiền đề của kinh tế hàng hoá. Đến lượt nó, sự phát triển của kinh tế hàng hoá lại thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của -5-
  9. phân công lao động xã hội và sở hữu tư nhân. Hay nói khác đi, mỗi bước phát triển của kinh tế hàng hoá, phân công lao động lại được đánh dấu bởi một trình độ cao hơn và sở hữu tư nhân cũng như kinh tế tư nhân cũng có những bước phát triển tương ứng. Kinh tế hàng hoá giản đơn của người tiểu chủ, dưới tác động của các quy luật thị trường, đặc biệt là bởi quá trình tích luỹ nguyên thuỷ tư bản chủ nghĩa, đã phát triển thành kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Nền tảng của nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa là sở hữu của tư bản tư nhân đối với tư liệu sản xuất. Khác với kinh tế tư nhân của những người tiểu chủ, kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa hoạt động trên cơ sở bóc lột lao động làm thuê. Chủ nghĩa tư bản tư nhân đạt được trình độ phát triển cao nhất trong thế kỷ XIX. Tuy nhiên, sự thống trị của kinh tế tư bản tư nhân trong chủ nghĩa tư bản không đồng nghĩa với việc thủ tiêu hoàn toàn sở hữu tư nhân cá thể và các hình thức hoạt động của kinh tế tiểu chủ. Trái lại, trong điều kiện chủ nghĩa tư bản, vẫn tồn tại đông đảo những ngời tư hữu nhỏ và kinh tế tư nhân trực tiếp sản xuất và quản lý sản xuất. Mặt khác, không giống như một số tiên đoán của các nhà kinh tế Mác-xít, kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa không phải là hình thức cuối cùng của sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của nền kinh tế thị trờng đã từng bước chuyển hoá nền kinh tế do tư bản tư nhân thống trị thành nền kinh tế hỗn hợp trong thế giới hiện đại. Ngày nay, ở các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển nhất, cùng với sở hữu của tư bản tư nhân, nền kinh tế còn được cấu thành bởi khu vực kinh tế nhà nước (trên cơ sở sở hữu nhà nước), kinh tế tiểu chủ, kinh tế hợp tác xã và nhiều hình thức kinh tế hỗn hợp khác. Một sự thật khác cũng chứng tỏ sức sống của kinh tế tư nhân - đó là trư- ờng hợp các nền kinh tế trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Mở đầu bằng Cách mạng tháng Mười Nga và sự xác lập của Liên bang Xô-viết – nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, chủ nghĩa xã hội đã nhanh chóng phát triển -6-
  10. thành một hệ thống kinh tế sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Hệ thống xã hội chủ nghĩa hình thành trên cơ sở thủ tiêu sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và mọi loại hình kinh tế tư nhân, thiết lập sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất và phát triển như một hệ thống đối lập với chủ nghĩa tư bản. Mặc dù đã đạt được những thành tựu kinh tế nổi bật, song hệ thống kinh tế dựa trên nền tảng của chế độ công hữu đã bộc lộ rõ những hạn chế của nó ở sự trì trệ, kém hiệu quả và kém năng động. Thập kỷ cuối của thế kỷ hai mươi đã chứng kiến sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới sau 70 năm tồn tại, và bằng những cách thức khác nhau, các quốc gia trong hệ thống này đã chuyển sang kinh tế thị trường, khôi phục sự tồn tại của kinh tế tư nhân. Như đã nói trên kia, kinh tế tư nhân gắn liền với loại hình hoạt động kinh tế của những chủ thể nắm quyền sở hữu tư nhân về các điều kiện sản xuất. Như- ng sự phát triển lâu dài, trải qua nhiều thời kỳ lịch sử rất khác nhau, với những vai trò rất khác nhau đã dẫn đến những cách hiểu và đánh giá khác nhau về kinh tế tư nhân. Tại các nền kinh tế phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, mọi hoạt động kinh tế không thuộc khu vực kinh tế nhà nước đều được coi là kinh tế tư nhân. Quan niệm như thế về khu vực kinh tế tư nhân là một quan niệm rộng rãi nhất. Quan niệm này phù hợp với một thực tế là: từ các công ty tư nhân đến các hợp tác xã, từ công ty hợp doanh của một nhóm người đến các công ty cổ phần xuyên quốc gia, chúng đều là những đơn vị kinh doanh không phải của nhà n- ước, và ở đâu, bao giờ cũng vậy, người ra quyết định cho hoạt động của doanh nghiệp cũng vẫn là tư nhân hoặc đại diện cho những cá nhân khác. Thêm vào đó, việc xếp mọi loại hình kinh tế không do nhà nước tiến hành vào khu vực kinh tế tư nhân giúp cho nhà nước có được cách quản lý thống nhất, không phân biệt đối với những hoạt động kinh tế này. Tại các nền kinh tế phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa trước đây và đang chuyển đổi hiện nay, cách hiểu về kinh tế tư nhân rất khác với cách hiểu -7-
  11. trên đây. Những nghiên cứu của Mác về chủ nghĩa tư bản đã vạch ra bản chất ăn bám, bóc lột của tư bản tư nhân và do đó, chủ nghĩa tư bản cần được thay thế bằng chủ nghĩa xã hội. Sau Mác, Lê-nin cũng lại cho rằng, kinh tế hàng hoá nhỏ của người tiểu nông, tiểu chủ hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản và do đó chủ nghĩa xã hội cần cải tạo họ trở thành những người lao động tập thể. Tuân theo những di huấn này, mọi loại hình kinh tế tư nhân bị kỳ thị và đã bị cải tạo triệt để trong các quốc gia chọn con đường phát triển xã hội chủ nghĩa. Trước thời điểm hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ, ở các quốc gia này đã diễn ra quá trình bùng phát của kinh tế tư nhân dới nhiều hình thức. Trong khi cơ cấu của hệ thống kinh tế công cộng chưa bị phân giải, nền kinh tế là một hệ thống nhiều thành phần và nhà nước giữ một thái độ phân biệt đáng kể giữa chúng, theo một trình tự ưu tiên mà kinh tư nhân theo đúng nghĩa của nó xếp ở bậc cuối cùng. Ngày nay, ở các quốc gia này, với những mức độ khác nhau, các loại hình kinh tế phi nhà nước đang có xu hướng được xếp chung vào khu vực kinh tế tư nhân theo một tiêu chí thống nhất. Trong luận văn này, Kinh tế tư nhân hiểu theo nghĩa hẹp: Bao gồm các đối tượng không thuộc sở hữu nhà nước, loại trừ các doanh nghiệp tập thể và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 1.1.2 Đặc điểm của kinh tế tƣ nhân Nếu so với kinh tế nhà nước hoặc các loại hình kinh tế tập thể khác, kinh tế tư nhân có một số đặc điểm nổi bật. Quan trọng nhất là: - Kinh tế tư nhân có quan hệ quyền tài sản rõ ràng, doanh nghiệp có toàn bộ quyền tài sản pháp nhân, trở thành thực thể pháp nhân được hưởng quyền lợi dân sự và gánh vác trách nhiệm dân sự. - Doanh nghiệp sử dụng toàn bộ tài sản pháp nhân, dựa theo pháp luật mà tự chủ kinh doanh, tự chịu lỗ lãi, nộp thuế theo quy định, chịu trách nhiệm đối với sự bảo tồn và gia tăng giá trị vốn đầu tư của những nhà đầu tư -8-
  12. - Người đầu tư được hưởng quyền hạn, lợi ích của người sở hữu theo lượng vốn của họ đầu tư vào doanh nghiệp tức là họ được hưởng lợi nhuận theo vốn , được tham gia quyết định những quyết sách quan trọng và bầu cử những người quản lý doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp bị phá sản, người đầu tư chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp, tuỳ theo lượng vốn đầu tư của mình vào doanh nghiệp. - Doanh nghiệp căn cứ vào tình hình cung cầu của thị trường mà tổ chức sản xuất kinh doanh nhằm mục đích nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh. Chính phủ không trực tiếp can thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cạnh tranh và tự đào thải trong thị trường, các doanh nghiệp thua lỗ kéo dài, nợ vượt vốn sẽ cho phá sản theo luật định. - Thể chế tổ chức quản lý doanh nghiệp khoa học, hình thành cơ chế kinh doanh kết hợp giữa khuyến khích và giám sát chế ước lẫn nhau. Có thể kết luận về đặc điểm của kinh tế tư nhân như sau: Quyền tài sản rõ ràng, quyền lợi và trách nhiệm phân minh, chính quyền và doanh nghiệp tách rời, quản lý khoa học. Từ những đặc điểm trên cũng cho thấy ưu, nhược điểm của kinh tế tư nhân: + Ưu điểm: Trong khu vực kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp phải sử dụng vốn của chính mình để huy động những nguồn lực khác và sau đó tự tiến hành sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp tư nhân luôn phải đối mặt với nguy cơ phá sản. Đó là động lực để doanh nghiệp tư nhân sản xuất kinh doanh một cách hiệu quả nhất. Để tồn tại và phát triển, doanh nghiệp tư nhân phải khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực xã hội nhằm thoả mãn hơn nữa những đòi hỏi khắt khe của thị trường, điều mà doanh nghiệp nhà nước chưa chắc đã làm tốt được. Như trình bày trên kia, lịch sử phát triển qua các thời đại, các mô hình kinh tế – xã hội đã chứng tỏ sức sống và những ưu điểm của kinh tế tư nhân. + Nhược điểm: -9-
  13. Kinh tế tư nhân hoạt động trên cơ sở những nguồn lực do một người làm chủ. Do vậy, trong điều kiện không tìm được những hỗ trợ từ các thể chế và chủ thể khác, kinh tế tư nhân thường gặp khó khăn về vốn, về phát triển công nghệ và về giải quyết những vấn đề liên quan đến cộng đồng trong kinh doanh. Mặt khác, do các doanh nghiệp tư nhân xem lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu nên đôi khi dẫn đến những xung đột thị trường, cạnh tranh không lành mạnh. Hiện tượng các doanh nghiệp tư nhân né tránh những kiểm soát của Nhà nước, trốn thuế … không phải là không có. Một điều nữa mà doanh nghiệp tư nhân làm chưa thật tốt là việc đảm bảo quyền lợi và an toàn của người lao động. Tuy có một số nhược điểm nêu trên nhưng vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường là không thể phủ nhận. 1.1.3 Vai trò của kinh tế tƣ nhân trong nền kinh tế thị trƣờng Trong nền kinh tế thị trường, sự tăng trưởng và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân và sự phát triển của cộng đồng gắn liền với nhau trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Khu vực kinh tế tư nhân phát triển sẽ đem lại thu nhập cao hơn, y tế và giáo dục tốt hơn cho người dân trong cộng đồng. Mặt khác, đối với các doanh nghiệp, thu nhập cao hơn có nghĩa là thị trường rộng lớn hơn, sức khoẻ và giáo dục tốt hơn thì lực lượng lao động có năng suất cao hơn và năng suất cao hơn sẽ đem lại nhiều lợi nhuận hơn. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường được thể hiện trên nhiều khía cạnh của đời sống xã hội như phát triển kinh tế, phát triển xã hội và có ảnh hưởng tích cực đến khu vực kinh tế công. * Đối với phát triển kinh tế: Mục tiêu kinh tế của phát triển là nhằm tạo cho người dân có mức thu nhập cao hơn thông qua sự tăng trưởng nhanh trong tổng sản phẩm quốc nội. Trong nền kinh tế thị trường, điều này có thể đạt được cùng với nỗ lực của khu vực công và khu vực tư nhân. Thứ nhất, một trong những đóng góp quan trọng của khu vực tư nhân đối với phát triển kinh tế là khả năng huy động vốn cho việc sản xuất các hàng hoá - 10 -
  14. và dịch vụ. Nguồn vốn là yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình sản xuất. Ở các nước đang phát triển nguồn vốn rất khan hiếm, đặc biệt với các nền kinh tế chuyển đổi như Trung Quốc và Việt Nam thì nguồn vốn càng khan hiếm hơn khi các tổ chức tài chính chưa phát triển và không có khả năng huy động tiền tiết kiệm từ dân cư, cũng như hạn chế của ngân sách trong việc phân bổ vốn cho đầu tư. Do đó, khả năng huy động vốn của khu vực kinh tế tư nhân trở nên rất quan trọng. Nếu các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân được đặt trong một môi trường kinh doanh bình đẳng và được tạo cơ hội thuận lợi thì các chủ doanh nghiệp có thể tự tin mạo hiểm với khoản tiền tiết kiệm quý giá của bản thân họ, thậm chí của họ hàng và bạn bè họ để theo đuổi mục tiêu lợi nhuận. Môi trường kinh doanh bình đẳng sẽ khiến các chủ doanh nghiệp cảm thấy có thể kiểm soát ở mức độ nào đó các hoạt động kinh doanh của họ. Tuy nhiên, do hệ thống tài chính kém phát triển nên các khoản tiền tiết kiệm có thể trở thành vốn sẵn có của các doanh nghiệp nhưng lại tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau nằm ngoài các thể chế tài chính chính thức. Thứ hai, phát triển kinh tế tư nhân góp phần tạo ra các cơ hội việc làm. Một kết quả của việc huy động và hình thành vốn của các doanh nghiệp tư nhân là tạo ra các cơ hội việc làm cho các thành viên khác trong cộng đồng. Việc làm sẽ mang lại thu nhập cho những người lao động và nâng cao mức sống của gia đình họ. Chủ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân khác với các nhà quản lý các doanh nghiệp nhà nước ở chỗ họ có quyền quyết định lớn hơn trong việc thuê mướn lao động. Họ có quyền quyết định số lượng lao động, yêu cầu những kỹ năng cần thiết của người lao động trong doanh nghiệp của mình. Vì vậy, không những các doanh nhân hoàn toàn có thể tăng số lượng lao động làm thuê theo ý mình mà còn có thể nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng nguồn nhân lực trong cộng đồng. Thứ ba, phát triển kinh tế tư nhân góp phần ứng dụng và quảng bá công nghệ. Một yếu tố quan trọng để tạo được hiệu quả trong sản xuất là công nghệ - 11 -
  15. phù hợp. Thực tế cho thấy môi trường cạnh tranh khắc nghiệt và bản chất không bao giờ tự hài lòng của các chủ doanh nghiệp thúc đẩy họ tìm kiếm các công nghệ phù hợp hơn cho quá trình sản xuất của các doanh nghiệp. Sự phù hợp về công nghệ không phải lúc nào cũng hàm ý là công nghệ tiên tiến nhất mà ở đây là công nghệ phù hợp với những điều kiện của quá trình sản xuất xét về mặt cấu thành chi phí và các nguyên vật liệu đầu vào sẵn có. Nếu đem so sánh với các doanh nghiệp nhà nước thì rõ ràng các chủ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân phải đối mặt trực tiếp với những chi phí thực tế về sản xuất, lao động, vốn, nguyên vật liệu. Quá trình tìm kiếm công nghệ phù hợp của một doanh nghiệp góp phần vào việc phân bố một cách có hiệu quả nguồn lực khan hiếm trong nền kinh tế. Thứ tư, phát triển kinh tế tư nhân góp phần tạo nguồn thu thuế cho Chính phủ. Thông qua hệ thống thuế, các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả sẽ đóng góp vào tăng nguồn thu cho ngân sách. Các khoản đóng góp này giúp duy trì bộ máy hoạt động của Chính phủ, là nguồn quan trọng để xây dựng phần lớn các cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội cần thiết. Để đảm bảo vững chắc nguồn thu này, điều quan trọng là cơ cấu thuế, quy trình thu thuế, quá trình kiểm toán cần được phát triển phù hợp sao cho việc trốn thuế và các tác nhân xấu ảnh hưởng tới sự tăng trưởng và hiệu quả được tối thiểu hoá. * Đối với phát triển xã hội Xét về tổng thể, mục tiêu của phát triển xã hội là tạo nên sự công bằng về cơ hội cho tất cả các thành viên trong xã hội bất kể vị thế kinh tế và xã hội của họ thông qua các dự án xã hội. Những dự án này bao gồm giáo dục và đào tạo, sức khoẻ, nhà ở, trợ giúp cho sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ… Về trách nhiệm xã hội, nhiều công ty thuộc khu vực kinh tế tư nhân xem trách nhiệm xã hội như là trách nhiệm của họ, hành động với tư cách như những công dân tốt trong xã hội, nhằm đảm bảo rằng những mối quan tâm của xã hội như môi trường, an toàn của khách hàng… Tại một số quốc gia, các doanh - 12 -
  16. nghiệp tư nhân thường tuân thủ tốt hơn những quy định về môi trường so với các doanh nghiệp nhà nước. Về việc thực hiện các dự án xã hội, ở nhiều quốc gia cho thấy một thực tế là các dự án xã hội thành công thường là các dự án do các tổ chức phi chính phủ thuộc khu vực tư nhân thực hiện, chứ không phải là các dự án do các cơ quan thuộc chính phủ trực tiếp thực hiện. Có thể thấy một thực tế là các dự án cho các doanh nghiệp nhỏ vay vốn do các cơ quan thuộc chính phủ thực hiện có tỷ lệ hoàn trả rất thấp, trong khi đó tỷ lệ hoàn trả này lại tăng lên đáng kể khi chúng được giao cho các tổ chức phi chính phủ của khu vực tư nhân quản lý thực hiện thông qua các hợp đồng. Lý do là khi các tổ chức thuộc chính phủ tổ chức thực hiện thì những người vay vốn thường có ấn tượng rằng họ không thực sự cần thiết phải hoàn trả lại những khoản vốn này vì đây là tiền chính phủ, mà tiền chính phủ là tiền của mọi người. Tuy nhiên, vấn đề lại hoàn toàn khác khi việc thực hiện dự án do các tổ chức phi chính phủ thuộc khu vực tư nhân thực hiện. Người vay cảm thấy mục đích thực sự của dự án và phải đảm bảo chắc chắn rằng những khoản vay của họ sẽ được hoàn trả. Hơn nữa, người đi vay có thể có cảm giác nghĩa vụ do các tổ chức phi chính phủ tạo ra cho họ, những cảm giác mà những nhân viên thuộc chính phủ có thể đã không chỉ rõ cho những người vay thấy. * Đối với khu vực kinh tế công Mặc dù khu vực tư nhân và khu vực công cộng đều có vai trò riêng trong nền kinh tế thị trường, tuy nhiên có rất nhiều công cụ nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động cung cấp dịch vụ công cộng có nguồn gốc ban đầu từ khu vực kinh tế tư nhân. Tại những quốc gia có sự phối hợp giữa khu vực tư nhân và khu vực công cộng trong việc xây dựng kế hoạch, chính sách phát triển, các viên chức chính phủ thừa nhận rằng các đồng nghiệp ở khu vực tư nhân đã tạo ra những suy nghĩ khách quan, tiến bộ, mới mẻ hơn khi giải quyết công việc. Về mặt bản chất, các - 13 -
  17. viên chức chính phủ thường có xu hướng tương đối thụ động và bảo thủ hơn so với các đồng nghiệp năng động, sáng tạo và cầu tiến hơn ở khu vực tư nhân vốn đã quen với môi trường cạnh tranh bên ngoài. Các viên chức chính phủ và các doanh nhân làm việc cùng nhau sẽ tạo ra những chính sách, kế hoạch mang tính thực tế hơn, tập trung hơn. Ở phần lớn các nền kinh tế thị trường, doanh nhân thường được mời vào một vị trí tạm thời ở khu vực công, từ đó họ có thể có cơ hội truyền tải phương pháp làm việc, cách tổ chức sắp xếp công việc cho các nhân viên chính phủ. Một trong những khó khăn mà các nhà kế hoạch và hoạch định chính sách trong nền kinh tế thị trường gặp phải là việc dự báo tác động và kết quả của các chính sách vì họ phải dựa trên các phản ứng của khu vực tư nhân đối với các chính sách này. Bằng cách đưa khu vực tư nhân tham gia một cách chủ động vào quá trình hoạch định và xây dựng chính sách, vân đề khó khăn này sẽ dược tối thiểu hoá. Nhờ có sự tham gia của các đại diện khu vực kinh tế tư nhân, chúng ta có thể hình dung được tác động có thể có của một chính sách nhất dịnh xét dưới góc độ phản ứng khu vực doanh nghiệp. Khu vực tư nhân có thể cung cấp những chỉ dẫn trong việc lựa chọn chính sách, và cũng nhờ có khu vực này mà chính sách mang tính kịp thời và cập nhật hơn. Tham gia của khu vực tư nhân vào việc xây dựng chính sách và giám sát thực hiện cũng đảm bảo việc đạt được các mục tiêu của chính sách đề ra. Việc tham gia hiệu quả của khu vực tư nhân trong việc xây dựng chính sách đòi hỏi khu vực tư nhân phải được tổ chức sao cho những vấn đề cần phải có chính sách mới hay cần phải có sự thay đổi chính sách có thể được thảo luận một cách tự do, độc lập ở khu vực tư nhân và họ có quyền tự do bầu cử cho những người đại diện của họ vào các cơ quan xây dựng chính sách. Sự thành công trong việc tham gia của khu vực tư nhân phụ thuộc vào việc các tổ chức tư nhân này được tổ chức hiệu quả và vững chắc như thế nào. Kinh nghiệm ở các nước cho thấy trình độ giáo dục của chủ doanh nghiệp và quy mô doanh nghiệp - 14 -
  18. không phải là những nhân tố quan trọng đảm bảo tham gia có hiệu quả với tư cách là một đối tác của chính phủ trong hoạt động kế hoạch, xây dựng chính sách và giám sát thực hiện. Một nhân tố quan trọng khác là sự sẵn sàng của các viên chức chính phủ trong việc chia sẻ trách nhiệm với khu vực tư nhân trong quá trình ra quyết định và cung cấp những thông tin cần thiết cho quá trình này. Chính phủ phải thể hiện sự sẵn sàng của mình cho khu vực tư nhân thấy và từ đó các tổ chức của khu vực tư nhân có thể chuẩn bị tinh thần và nhiệt tình tham gia với tư cách như những đối tác ngang bằng trong quá trình hoạch định chính sách. 1.2 KINH TẾ TRUNG QUỐC TRƢỚC CẢI CÁCH VÀ YÊU CẦU BỨC THIẾT CỦA SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƢ NHÂN 1.2.1 Khái quát về nền kinh tế Trung Quốc trƣớc cải cách Đặc điểm của kinh tế Trung Quốc trước cải cách là tăng trưởng không đi đôi với phát triển. Mặc dù tỉ lệ tăng trưởng thời kỳ này khá cao, khoảng 8%/năm nhưng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tính theo đầu người là 52 USD (năm 1952) và tăng lên 210 USD (năm 1975), vẫn chưa vượt qua giới hạn 265 USD của những quốc gia có thu nhập thấp. Hơn nữa tốc độ tăng trưởng cao không được duy trì liên tục mà giảm dần theo thời gian: tốc độ tăng trưởng công nghiệp bình quân hàng năm thời kỳ phục hồi kinh tế (1949 – 1952) là 34,8%, thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1953 – 1957) giảm còn 18% và sau kế hoạch 5 năm lần thứ hai còn 10%. Lý do được giải thích bởi xuất phát điểm thấp của nền kinh tế vừa trải qua chiến tranh. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, tăng trưởng ở Trung Quốc đạt được những con số như vậy có thể do những phương thức thống kê chưa chuẩn xác (chỉ tính chỉ số các sản phẩm đã sản xuất chứ không phải số sản phẩm đã bán ra). Mặt khác, trong mức tăng trưởng đó có sự đóng góp đa số từ sản xuất công nghiệp (11%/năm) mà ngành này được trợ cấp chủ yếu từ nguồn ngân sách Nhà nước vốn đang rất dồi dào. - 15 -
  19. Mô hình “Xô viết” mà Trung Quốc khuôn đúc nguyên xi của Liên Xô sử dụng một hệ thống kế hoạch lớn bao phủ toàn bộ nền kinh tế. Mục tiêu bức thiết sau khi giải phóng đất nước là thực hiện công nghiệp hoá. Mọi nguồn lực trong xã hội từ con người tới tài nguyên thiên nhiên, của cải vật chất đều đổ vào ngành sản xuất công nghiệp, trước hết là công nghiệp gang thép. Khẩu hiệu “vượt Nhật, đuổi kịp Mỹ” được tuyên truyền sâu rộng khắp nơi, thôi thúc guồng máy công nghiệp làm việc không ngừng nghỉ. Người người luyện gang thép, nhà nhà luyện gang thép và tiến tới toàn dân luyện gang thép. Kết quả là đến cuối năm 1959, sản lượng gang thép toàn quốc đã đạt đến 13,87 triệu tấn, giá trị tích luỹ xã hội lên tới 43,9% và do vậy chỉ tiêu năm 1960 đã được nâng lên 18,4 triệu tấn. Tuy nhiên trong tổng khối lượng gang thép khổng lồ này có tới hàng triệu tấn thép không đủ tiêu chuẩn và do đó không thể sử dụng được, gây ra sự lãng phí vô cùng to lớn về sức người và của. Hơn thế nữa, việc tập trung quá mức vào luyện gang thép khiến nông nghiệp bị bỏ bê, sản lượng lương thực liên tục bị sụt giảm dẫn đến nạn đói xảy ra ngay sau đó. Năm 1958, sản lượng lương thực đạt 200 triệu tấn, đến năm 1959 giảm còn 170 triệu tấn và năm 1960 chỉ còn 143,5 triệu tấn. Nền kinh tế trở nên rệu rã, phát triển không đồng đều. Nếu trong công nghiệp, tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt 11% thì ngành nông nghiệp và dịch vụ lần lượt chỉ đạt 3,2% và 4,2%. Mặt khác, công cuộc công nghiệp hoá lại lấy phát triển công nghiệp nặng làm đầu và cuốn mọi nguồn lực vào sản xuất tư liệu sản xuất, trong khi đó tư liệu tiêu dùng phục vụ đời sống nhân dân khan hiếm trầm trọng khiến cho người dân vốn đã thiếu thốn nay càng khó khăn hơn. Như vậy, với “Đại nhảy vọt”, “Ba ngọn cờ hồng”, “Toàn dân làm gang thép”, “Công xã nhân dân”… đã đưa Trung Quốc vào thảm hoạ lạc hậu, đói nghèo, toàn bộ nền kinh tế trở nên trì trệ, méo mó. 1.2.2 Kinh tế tƣ nhân ở Trung Quốc trƣớc cải cách Sau ngày thành lập nước, năm 1949, Trung Quốc nhanh chóng hình thành khu vực kinh tế nhà nước lớn mạnh với sự giúp đỡ của Liên Xô lúc bấy giờ. Vào - 16 -
  20. năm 1949, doanh nghiệp tư nhân chiếm 63,3% sản lượng công nghiệp nhưng đến năm 1952, tỷ lệ này đã giảm xuống còn 39%. Trong thời gian đó, chính phủ kiểm soát khu vực tư nhân thông qua biện pháp quốc hữu hoá. Đến năm 1952, 56% sản phẩm đầu ra của khu vực tư nhân là theo đặt hàng của nhà nước hay được tiêu thụ thông qua nhà nước. Bên cạnh đó, một vài doanh nghiệp tư nhân cũng chuyển sang hình thức công tư hợp doanh. Năm 1952, doanh nghiệp tư nhân chỉ còn chiếm 39% trong tổng sản lượng công nghiệp (giảm 24,3% so với năm 1949), sản lượng của khu vực tư nhân chiếm 5,7% tổng sản lượng quốc dân. Năm 1953, trong Đường lối chung cho thời kỳ quá độ, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đưa ra một lịch trình hoàn thành việc cải tạo xã hội chủ nghĩa các doanh nghiệp tư nhân và hộ thủ công trong vòng 15 năm, đánh dấu sự “biến mất dần dần” của khu vực tư nhân trong suốt thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1953 – 1957) và lần thứ hai (1957 – 1961). Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất được gọi là giai đoạn cải tạo xã hội chủ nghĩa, sử dụng phương pháp thiết lập hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể để thực thi các mục tiêu kinh tế. Trong nông nghiệp, Trung Quốc tiến hành xây dựng các “hợp tác xã nông nghiệp sơ cấp” và “hợp tác xã nông nghiệp cao cấp” nhằm hoàn thiện chế độ sở hữu tập thể và xoá bỏ chế độ tư hữu về ruộng đất. Trong công nghiệp và thương nghiệp, các “tổ sản xuất” và “hợp tác xã thử nghiệm” ra đời với phương thức đóng góp, hoạt động và phân phối gần như các Hợp tác xã nông nghiệp ở nông thôn. Đối với thương nghiệp tư bản tư nhân, Trung Quốc mở rộng hình thức công ty hợp doanh, chuyển đổi kinh tế tư bản tư nhân sang kinh tế Nhà nước. Khu vực Nhà nước và tập thể lấp dần không gian kinh tế của khu vực tư nhân. Tiếp đó, với những thành công bước đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, kế hoạch 5 năm lần thứ hai diễn ra từ 1957 – 1961 đã đẩy mạnh hơn nữa cuộc xoá sổ kinh tế tư nhân. Phong trào toàn dân luyện gang thép đã huy động toàn bộ sức người, sức của vào các lò luyện gang thép. Ở nông thôn, các hợp tác xã - 17 -
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2