VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
---------------***----------------
TRẦN QUỲNH ANH
HỢP ĐỒNG MUA BÁN THIẾT BỊ Y TẾ TRONG PHÁP LUẬT VIỆT
NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
1 HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các nguồn tài liệu, số liệu được sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ
ràng, đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi
tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của
Việt Nam. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào
khác.
Học Viên
2
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
---------------***----------------
HỢP ĐỒNG MUA BÁN THIẾT BỊ Y TẾ TRONG PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số:
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
HÀ NỘI, 2020
3
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi luôn ghi nhận những sự ủng hộ, hỗ trợ và
đóng góp nhiệt tình của những người bên cạnh mình. Nhân đây tôi xin chân thành
gửi lời cảm ơn sâu sắc đến họ.
Lời đầu tiên tôi xin cảm ơn TS …….., người đã dìu dắt và hướng dẫn tôi trong
suốt quá trình làm luận văn. Sự định hướng và chỉ bảo của thầy đã giúp tôi nghiên
cứu và giải quyết vấn đề một cách khoa học, đúng đắn hơn.
Tiếp theo, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Bộ phận sau Đại học,
Phòng đào tạo, Phòng khảo thí Học viện Khoa học xã hội đã tạo điều kiện cho chúng
tôi được học tập và hoàn thành khóa luận một cách thuận lợi. Xin cảm ơn quý thầy
cô giáo đã dạy dỗ và truyền đạt kiến thức cho chúng tôi trong suốt thời gian qua.
Trong quá trình làm luận văn, do trình độ lý luận và kinh nghiệm thực tiễn
còn nhiều hạn chế nên luận án còn nhiều thiếu sót, tôi rất mong nhận được nhiều ý
kiến đóng góp quý báu của các thầy, cô giáo để luận án được đầy đủ và hoàn thiện
hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TBYT Thiết bị y tế
BLDS 2015 Bộ luật Dân sự 2015
LTM 2005 Luật Thương mại 2005
5
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................... 2
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... 4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ......................................................................... 5
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 8
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 8
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .................................................. 9
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: ..............................................................11
5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................11
6. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu .....................................................................12
7. Kết cấu của luận văn ....................................................................................12
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN THIẾT BỊ Y TẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM ...........................................13
1.1. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng mua bán thiết bị y tế ..............................13
1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán thiết bị y tế .............................................13
1.1.2. Đặc điểm hợp đồng mua bán thiết bị y tế ..............................................18
1.2. Khái quát lý luận pháp luật về hợp đồng mua bán thiết bị y tế ..............21
1.2.1. Khái niệm pháp luật về hợp đồng mua bán thiết bị y tế .......................21
1.2.2. Đặc điểm và nguyên tắc pháp luật về hợp đồng mua bán thiết bị y tế .23
1.2.3. Nội dung của pháp luật về hợp đồng mua bán thiết bị y tế ..................26
1.2.4 Vai trò của quy định pháp luật về hợp đồng mua bán thiết bị y tế .......39
Tiểu kết Chương 1 ..............................................................................................41
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN THIẾT BỊ Y TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............42
2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán thiết bị y tế ở Việt Nam ..............................................................................................................42
2.1.1. Chủ thể của hợp đồng mua bán thiết bị y tế ..........................................42
2.1.2. Đối tượng của hợp đồng mua bán thiết bị y tế ......................................45
6
2.1.3. Hình thức của hợp đồng mua bán thiết bị y tế ......................................47
2.1.4. Nội dung của hợp đồng mua bán thiết bị y tế .......................................48
2.1.5. Hiệu lực của hợp đồng mua bán thiết bị y tế ........................................51
2.1.6. Hợp đồng mua bán thiết bị y tế vô hiệu .................................................53
2.1.7. Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán thiết bị y tế ..........................61
2.2. Thực tiễn thực hiện hợp đồng mua bán thiết bị y tế ở Việt Nam............63
2.2.1. Tình hình thực hiện hợp đồng mua bán thiết bị y tế ở Việt Nam hiện nay .....................................................................................................................63
2.2.2. Một số hạn chế, bất cập trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán thiết bị y tế ..........................................................................................66
Tiểu kết Chương 2 ..............................................................................................69
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN TBYT Ở VIỆT NAM .....70
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán thiết bị y tế ở Việt Nam ..............................................................................................................70
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán thiết bị y tế ở Việt Nam ...........................................................................................................72
3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng mua bán thiết bị y tế .........................................................................................................72
3.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện hợp đồng mua bán thiết bị y tế ......................................................................................................................75
Tiểu kết Chương 3 ..............................................................................................87
KẾT LUẬN .............................................................................................................88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................89
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm gần đây, nền kinh tế thị trường nước ta ngày càng phát triển mạnh
mẽ kéo theo tình hình mua bán hàng hóa ở Việt Nam diễn ra rất đa dạng và phức
tạp. Tuy vậy, ở nước ta các quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa không được thể
hiện một cách tập trung thành một văn bản quy phạm pháp luật thống nhất mà mỗi
loại hợp đồng được quy định trong một văn bản như: Hợp đồng dân sự trong Bộ luật
Dân sự (BLDS), hợp đồng lao động trong Bộ luật Lao động, hợp đồng thương mại
trong Luật Thương mại (LTM)…
Tình trạng dịch bệnh diễn ra ngày càng phức tạp, WHO công bố Virus Corona
(Covid-19) là “đại dịch toàn cầu” với mức độ nguy hiểm cực kì cao ảnh hưởng tiêu
cực không chỉ đến sức khỏe con người mà còn làm suy thoái cả nên kinh tế toàn cầu.
Bởi vậy, các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng hiện đang tăng
cường sản xuất và mua bán các thiết bị y tế (TBYT) để cung cấp, phục vụ cho người
dân và các bệnh viện, trung tâm chăm sóc sức khỏe để đối chọi với đại dịch toàn cầu
này.
Bắt nguồn từ thực tế khách quan trên, việc giao kết hợp đồng mua bán TBYT
được thực hiện giữa các chủ thể khác nhau ngày càng được đẩy mạnh với số lượng
và giá trị hợp đồng cực kì lớn. Tuy nhiên, do pháp luật Việt Nam không quy định cụ
thể về hợp đồng mua bán TBYT nên việc xảy ra tranh chấp về loại hình hợp đồng
này thường xuyên xảy ra. Thêm vào đó, sự thiếu hiểu biết của các chủ thể giao kết
hợp đồng về các quy định pháp luật liên quan đến hợp đồng mua bán TBYT dẫn đến
nhiều trường hợp các hợp đồng mua bán TBYT bị vô hiệu do bởi nhiều lý do khác
nhau. Vì vậy, đề tài “Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam
hiện nay” có tính cấp thiết nhằm nghiên cứu, làm sáng tỏ các nội dung về mặt lý
luận và các quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán TBYT, để từ đó
8
đưa nhưng kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả về việc thực hiện pháp luật về hợp
đồng mua bán TBYT.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thời gian qua, liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và hợp
đồng mua bán TBYT nói riêng đã có một số tác giả quan tâm nghiên cứu, có thể kể
đến một số nghiên cứu sau:
Luận văn của Trương Thị Thùy Dương (2018), “Hợp đồng mua bán hàng hóa
theo pháp luật Việt Nam”[6] đã hệ thống hóa một số lý luận chung về hợp đồng mua
bán hàng hóa, chỉ ra một số mặt hạn chế trong các quy định của pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hóa và đề xuất một số giải pháp khắc phục.
Luận văn của Ngô Thị Kiều Trang (2014), “Thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa theo pháp luật Việt Nam”[15] đã hệ thống hóa, làm sáng tỏ thêm về mặt
lý luận khái niệm, đặc điểm, nội dung, nguyên tắc của việc thực hiện hợp đồng mua
bán hàng hóa, từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam
trong việc thực hiện hợp đồng này.
Luận văn của Lê Công Vượng (2016), “Đấu thầu mua sắm thiết bị y tế theo
pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”[17] đã nghiên cứu
chuyên sâu về pháp luật đấu thầu mua sắm hàng hóa nói chung và TBYT nói riêng
và chỉ ra những bất cập trong quá trình thực hiện đấu thầu mua sắm và đề xuất các
giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về mua sắm TBYT ở Việt Nam trên cả hai
bình diện điều chỉnh pháp luật và áp dụng pháp luật.
Luận văn của Đinh Thị Thanh Huyền (2007), “Thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa theo pháp luật Việt Nam hiện nay”[9] đã nghiên cứu, phân tích thực trạng
điều chỉnh pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về thực hiện mua bán hàng hóa
9
tại Việt Nam và đưa ra các đề xuất, giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật về thực hiện mua bán hàng hóa
Luận văn của Đoàn Quý Bình (2019), “Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
theo pháp luật việt nam từ thực tiễn các công ty chế biến than thuộc tập đoàn than
khoáng sản việt nam (tkv)”[1] đã thông qua việc hệ thống các vấn đề lý luận về pháp
luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, kết hợp phân tích thực trạng giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công ty Chế biến than thuộc Tập đoàn Than Khoáng
sản Việt Nam từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Luận văn của Bùi Thị Bích Trâm (2014), “Hợp đồng mua bán hàng hóa vô
hiệu và hậu quả phát sinh”[16] thông qua phân tích các quy định và thực trạng pháp
luật về hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu đã rút ra những điểm bất cập, chưa hợp
lý và đưa ra những kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện hệ thồng pháp luật về lĩnh
vực này.
Như vậy, đã có nhiều nghiên cứu về hợp đồng mua bán hàng hóa cũng như
việc thực hiện mua sắm TBYT. Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu nào đi sâu cụ
thể vào hợp đồng mua bán TBYT theo pháp luật Việt Nam. Vì vậy, thông qua đề tài
“Hợp đồng mua bán trang thiết bị tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay” tác giả
mong muốn rằng sẽ làm rõ hơn về các quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán
TBYT ở Việt Nam cũng như đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu cơ bản nhất của đề tài là nghiên cứu chuyên sâu về các
quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán TBYT nhằm hoàn thiện hệ
10
thống các quy định pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và hợp đồng
mua bán TBYT nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở của mục đích nghiên cứu, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau:
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về hợp đồng mua bán
TBYT; hệ thống hóa một số khái niệm và làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung pháp
luật về hợp đồng mua bán TBYT.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT,
cũng như thực tiễn thực hiện hợp đồng mua bán TBYT ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn kiến nghị một số
định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, cũng như nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp
đồng mua bán TBYT theo quy định của pháp luật Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Các vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng mua bán TBYT
theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
- Về không gian: Nghiên cứu trong phạm vi cả nước.
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng tro ng khoảng thời gian từ năm 2015
đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
11
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khác nhau, trên cơ
sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng
và pháp luật của nhà nước.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm: Phương pháp nghiên cứu tài
liệu; Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp và so sánh đối chứng; Phương pháp
phân tích chính sách tổng hợp; Phương pháp lịch sử cụ thể.
6. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
- Ý nghĩa lý luận: Đề tài góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận về
hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng mua bán TBYT trong pháp luật Việt Nam
- Ý nghĩa thực tiễn: Làm rõ thực trạng thực hiện pháp luật về hợp đồng mua
bán TBYT. Thông qua đó, phân tích, đánh giá nhằm tìm ra những khó khăn, hạn chế
trong các quy định pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT cũng như trong việc thực
hiện pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT. Từ đó, đưa ra những đề xuất, giải pháp
góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả của hoạt động thực
hiện pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm
3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về hợp đồng mua bán thiết bị y tế
theo pháp luật
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực thiễn thực hiện pháp luật về hợp
đồng mua bán thiết bị y tế ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về hợp đồng mua bán thiết bị y tế ở Việt Nam
12
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
THIẾT BỊ Y TẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng mua bán TBYT
1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán TBYT
1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
a, Khái niệm hợp đồng
Nền kinh tế hàng hóa ra đời kéo theo sự xuất hiện của hoạt động trao đổi hàng
hóa, dịch vụ giữa các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Theo đó, thông qua hoạt động
này mà các cá nhân, tổ chức có thể trao đổi cho nhau những lợi ích vật chất nhằm
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng hằng ngày hoặc nhằm mục đích tích trữ của
cải, vật chất. Để đảm bảo cho sự trao đổi này được diễn ra một cách thuận lợi và phù
hợp với nhu cầu của các bên thì các cá nhân, tổ chức thường thực hiện việc trao đổi,
chuyển giao lợi ích vất chất thông qua việc thỏa thuận dưới hình thức lời nói hoặc
chữ viết. Như vậy, hợp đồng ra đời như một tất yếu khách quan.
Theo hệ thống pháp luật của các nước phương tây thì khái niệm hợp đồng
được hiểu là một văn bản pháp lý ràng buộc, công nhận và điều chỉnh các quyền,
nghĩa vụ của các bên tham gia thỏa thuận, hợp đồng có hiệu lực khi nó tuân thủ các
quy định của pháp luật[22], hợp đồng thường liên quan đến việc trao đổi hàng hóa,
dịch vụ, tiền bạc hoặc lời hứa sẽ thực hiện hoặc không thực hiện một số hành động
nào đó. Trong thông luật Anh-Mỹ thì để những thỏa thuận được coi là hợp đồng thì
đòi hỏi phải bao gồm đầy đủ các yếu tố về: Đề nghị, chấp nhận, ý định tạo lập quan
hệ pháp luật, sự hợp pháp về hình thức và nội dung.
Hợp đồng ngày nay bắt nguồn từ thuật ngữ “khế ước” trong hệ thống pháp
luật La Mã cổ đại. Theo đó, khế ước được tạo ra bởi sự ưng thuận giữa hai hoặc
nhiều bên kết ước. Hai điều kiện cần để tạo ra hợp đồng là người kết ước và chủ đích
13
của sự ưng thuận[23]. Thuật ngữ này thường được sử dụng phổ biến ở thời kì trước
và sau khi giành độc lập dân tộc năm 1945, do ảnh hưởng của thuật ngữ pháp lý
trong luật dân sự của Pháp, Điều 653 Bộ Dân luật Việt Nam Cộng hòa năm 1972
quy định: “Khế ước hay hiệp ước là một hành vi pháp lý do sự thỏa thuận giữa hai
người hay nhiều người để tạo lập, di chuyển, biến cải hay tiêu trừ một quyền lợi, đối
nhân hay đối vật”.
Theo Từ điển tiếng Việt thì hợp đồng là sự thỏa thuận, giao ước giữa hai hay
nhiều bên quy định các quyền lợi, nghĩa vụ của các bên tham gia, thường được viết
thành văn bản[12]. Trong lịch sử pháp luật Việt Nam, hợp đồng được định nghĩa lần
đầu tiên tại Điều 1 Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1992 là sự thỏa thuận giữa các
bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên trong
mua bán, thuê, vay, mượn, tặng, cho tài sản làm một việc hoặc không làm một việc,
dịch vụ hoặc các thỏa thuận khác mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu
cầu sinh hoạt, tiêu dùng[8]. Trải qua quá trình vận động và phát triển đất nước, để
phù hợp với thực tế khách quan thì định nghĩa về hợp đồng cũng được thay đổi và
ghi nhận một cách xúc tích, ngắn gọn trong BLDS 2015 như sau: “Hợp đồng là sự
thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự”[13]. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, chế định về hợp đồng không được
gói gọn trong một văn bản hợp nhất mà mỗi loại hợp đồng sẽ được quy định trong
các luật chuyên ngành khác nhau như: LTM, Luật Xây Dựng, Luật kinh doanh bảo
hiểm...
Dựa vào những phân tích trên, ta có thể đưa ra khái niệm về hợp đồng như
sau: Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt một số quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của pháp luật được thể
hiện dưới hình thức lời nói hoặc được lập thành văn bản.
b, Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
14
Trong kinh tế chính trị Marx-Lenin, hàng hóa được định nghĩa là sản phẩm
của lao động thông qua trao đổi, mua bán. Hàng hóa có thể là hữu hình như sắt thép,
quyển vở hay ở dạng vô hình như sức lao động. Karl Marx định nghĩa hàng hóa
trước hết là đồ vật mang hình dạng có khả năng thỏa mãn nhu cầu con người nhờ
vào các tính chất của nó[21]. LTM năm 2005 cũng đưa ra khái niệm về hàng hóa tại
Khoản 2 Điều 3 như sau: “Hàng hóa bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động
sản hình thành trong tương lai và những vật gắn liền với đất đai”.
Trong công cuộc hội nhập kinh tế của nước ta hiện nay thì yêu cầu về tính
pháp lý trong các hoạt động thương mại nói chung và hoạt động mua bán hàng hóa
nói riêng được đẩy lên hàng đầu. Vì vậy, các chủ thể tham gia giao dịch bắt buộc
phải làm quen với việc sử dụng các công cụ pháp lý để đảm bảo cho hoạt động kinh
doanh được diễn ra một cách bình thường, hiệu quả, công cụ pháp lý nhằm đảm bảo
hoạt động mua bán hàng hòa ở đây là hợp đồng mua bán hàng hóa.
BLDS năm 2015 có quy định hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa
các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả
tiền cho bên bán[13]. Theo LTM năm 2005 thì: Mua bán hàng hóa là hoạt động
thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa
cho bên mua và nhận thanh toán, bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận
hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận. Thông qua những quy định này có
thể thấy rằng, về bản chất hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng dân sự, hay nói
cách khác hợp đồng mua bán hàng hóa là một dạng hợp đồng mua bán tài sản cụ thể.
Tuy nhiên, hợp đồng mua bán hàng hóa mang tính thương mại, tức là nhằm mục
đích sinh lợi nhuận và chủ thể giao kết hợp đồng sẽ các các thương nhân hoặc có
một bên là thương nhân.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về hợp đồng mua bán hàng
hóa như sau: Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó
15
bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận
thanh toán nhằm mục đích kiếm lời, bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán,
nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận.
1.1.1.2. Khái niệm hợp đồng mua bán TBYT
a, Khái niệm TBYT
TBYT bao gồm tất cả các dụng cụ, thiết bị kỹ thuật, phương tiện vận chuyển,
vật tư chuyên dùng và thông đụng phục vụ cho các hoạt động phòng bệnh, khám
chữa bệnh cho ngành y tế. Trên thế giới có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về
TBYT:
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO) thì TBYT là những dụng cụ, thiết bị, máy
móc, thuốc thử, phần mềm… được các nhà sản xuất tạo ra nhằm thực hiện một hoặc
nhiều mục đích y tế cụ thể như: Chẩn đoán, phòng ngừa, theo dõi, điều trị hoặc giảm
bớt bệnh tật; Chẩn đoán, theo dõi, điều trị, phục hồi chấn thương; Điều tra, sửa đổi
hoặc hỗ trợ hoạt động giải phẫu; Hỗ trợ hoặc duy trì sự sống; Kiểm soát quá trình
thụ thai; Khử trùng các thiết bị y tế…
Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm của Hoa Kỳ cho rằng TBYT là những
dụng cụ, thiết bị, máy móc, phần mềm, thuốc thử trong ống nghiệm hoặc các sản
phẩm tương tự bao gồm các thành phần hoặc phụ kiện được công nhận bởi pháp luật
Hoa Kỳ, được sử dụng để chẩn đoán bệnh tật hoặc sử dụng trong việc điều trị, chữa
bệnh hoặc ngăn ngừa bệnh tật ở người hoặc động vật hoặc có mục đích sử dụng ảnh
hưởng đến cấu trúc hoặc bất kỳ chức năng nào trên cơ thể người hoặc động vật[18].
Nhật Bản định nghĩa TBYT là những dụng cụ và thiết bị được sử dụng để
chẩn đoán, chữa bệnh hoặc phòng ngừa bệnh tật ở người hoặc động vật; nhằm mục
đích ảnh hướng đến cấu trúc và chức năng của cơ thể người hoặc động vật[24].
16
Ở Việt Nam hiện nay, thuật ngữ “trang TBYT” hay “TBYT” được định nghĩa
cụ thể và chi tiết tại nghị định số 36/2016/NĐ-CP và được sửa đổi, bổ sung tại nghị
định số 169/2018/NĐ-CP:
1. Trang TBYT là các loại thiết bị, dụng cụ, vật liệu, vật tư cấy ghép, thuốc
thử và chất hiệu chuẩn in vitro, phần mềm (software) đáp ứng đồng thời các yêu cầu
sau đây:
a) Được sử dụng riêng lẻ hay phối hợp với nhau theo chỉ định của chủ sở hữu
TBYT để phục vụ cho con người nhằm một hoặc nhiều mục đích sau đây:
– Chẩn đoán, ngăn ngừa, theo dõi, điều trị và làm giảm nhẹ bệnh tật hoặc bù
đắp tổn thương, chấn thương;
– Kiểm tra, thay thế, điều chỉnh hoặc hỗ trợ giải phẫu và quá trình sinh lý;
– Hỗ trợ hoặc duy trì sự sống;
– Kiểm soát sự thụ thai;
– Khử khuẩn trang TBYT, bao gồm cả hóa chất sử dụng trong quy trình xét
nghiệm;
– Cung cấp thông tin cho việc chẩn đoán, theo dõi, điều trị thông qua biện
pháp kiểm tra các mẫu vật có nguồn gốc từ cơ thể con người.
b) Không sử dụng cơ chế dược lý, miễn dịch hoặc chuyển hóa trong hoặc trên
cơ thể người hoặc nếu có sử dụng các cơ chế này thì chỉ mang tính chất hỗ trợ để đạt
mục đích quy định tại điểm a khoản này[2].
b, Khái niệm hợp đồng mua bán TBYT
Cùng với sự phát triển kinh tế, nhu cầu được chăm sóc sức khỏe, an toàn lao
động, an toàn tính mạng con người ngày càng được tăng cao, kéo theo đó là hàng
17
loạt các trung tâm y tế, bệnh viện, phòng khám tư nhân mọc ra mới mục đích phục
vụ, đáp ứng nhu cầu một cách nhanh nhất, tiện ích nhất, đảm bảo nhất cho người
bệnh. Sự gia tăng của các trung tâm y tế, bệnh viện, phòng khám tư nhân kéo theo
hoạt động mua bán TBYT phục vụ cho hoạt động khám chữa bệnh được đẩy cao.
Với những yêu cầu khắt khe về chất lượng sản phẩm cũng như việc giá trị của một
số TBYT rất lớn. Vì vậy, việc giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán TBYT là một
phương thức tất yếu nhằm đảm bảo hoạt động mua bán các TBYT giữa doanh nghiệp
kinh doanh TBYT với các trung tâm y tế, bệnh viện, phòng khám hoặc các doanh
nghiệp kinh doanh TBYT với nhau được diễn ra một cách thuận lợi, đảm bảo.
Hợp đồng mua bán TBYT là một dạng của hợp đồng mua bán hàng hóa mà
trong đó đối tượng của hợp đồng là TBYT và chủ thể thực hiện hợp đồng là các
doanh nghiệp có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật và các tổ chức, cá nhân
có nhu cầu sử dụng TBYT.
Như vậy, có thể định nghĩa hợp đồng mua bán TBYT như sau: Hợp đồng mua
bán TBYT là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao TBYT,
chuyển quyền sở hữu TBYT cho bên mua và nhận thanh toán nhằm mục đích kiếm
lời, bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận TBYT và quyền sở hữu TBYT
theo thỏa thuận.
Hợp đồng mua bán trang thết bị y tế được chia thành hai dạng là hợp đồng
mua bán TBYT trong nước và hợp đồng mua bán TBYT quốc tế dưới hình thức xuất
khẩu, nhập khẩu.
1.1.2. Đặc điểm hợp đồng mua bán TBYT
Hợp đồng mua bán TBYT về bản chất là một dạng hợp đồng mua bán hàng
hóa. Vì vậy, hợp đồng mua bán TBYT cũng sẽ bao gồm những đặc điểm chung cơ
bản của hợp đồng mua bán hàng hóa và một số đặc điểm riêng đặc thù.
18
1.1.2.1. Đặc điểm chung của hợp đồng mua bán TBYT
- Là dạng hợp đồng ưng thuận mà theo đó hợp đồng được coi là giao kết khi
các bên thỏa thuận xong các điều khoản cơ quản, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
không phụ thuộc vào thời điểm bàn giao TBYT, việc bàn giao hàng TBYT chỉ được
coi là hành động của bên bán nhằm thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng mua bán TBYT
đã có hiệu lực.
- Có tính đền bù, tức là khi bên bán thực hiện xong nghĩa vụ giao TBYT cho
bên mua thì sẽ nhận được từ bên mua một lợi ích vật chất tương đương với giá trị
của TBYT theo thỏa thuận dưới dạng một khoản tiền, tài sản thanh toán.
- Là hợp đồng song vụ: Các bên trong hợp đồng mua bán TBYT đều bị ràng
buộc vởi nghĩa vụ đối với bên kia, đồng thời có quyền yêu cầu, đòi hỏi bên còn lại
thực hiện đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận đối với mình. Trong hợp đồng mua bán
TBYT tồn tại hai nghĩa vụ chính liên quan mật thiết và tác động lẫn nhau: Bên bán
có nghĩa vụ bàn giao TBYT và chuyển quyền sở hữu các TBYT đó sang cho bên
mua; Bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán.
- Về chủ thể: Hợp đồng mua bán TBYT được thiết lập giữa các chủ thể chủ
yếu là thương nhân. Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp,
cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh
doanh[13, Điều 6]. Bên cạnh đó, các tổ chức, cá nhân không phải thương nhân cũng
có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa
1.2.2.1. Đặc điểm riêng của TBYT
- Về chủ thể: Cũng tương tự như hợp đồng mua bán hàng hóa, chủ thể của hợp
đồng mua bán TBYT chủ yếu là các thương nhân hoặc ít nhất là có một bên tham
gia là thương nhân. Do kinh doanh TBYT là một ngành nghề kinh doanh có điều
kiện được Nhà nước quản lý, giám sát chặt chẽ. Vì vậy, nếu doanh nghiệp, muốn
19
thực hiện hoạt động mua bán TBYT thì ngoài những điều kiện phải là cá nhân, tổ
chức hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh
doanh ra thì những cá nhân, tổ chức thực hiện hoạt động mua bán TBYT phải đáp
ứng một số điều kiện mà pháp luật quy định về giấy phép kinh doanh, điều kiện lưu
hành đối với TBYT và điều kiện để công bố tiêu chuẩn áp dụng hoặc cấp giấy chứng
nhận đăng ký lưu hành đối với TBYT được quy định cụ thể tại Nghị định số
36/2016/NĐ-CP và Nghị định số 169/2018/NĐ-CP.
- Về hình thức: Mặc dù pháp luật không có quy định cụ thể về hình thức của
hợp đồng mua bán TBYT, tức là hợp đồng mua bán TBYT có thể được thể hiện bằng
lời nói, lập thành văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Tuy nhiên, đối với
các hợp đồng mua bán TBYT có yếu tố nước ngoài (Hợp đồng mua bán quốc tế) thì
phải được lập thành văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng đối với đặc thù là hoạt động kinh doanh có
điều kiện được Nhà nước quản lý, giám sát chặt chẽ và giá trị thực tế của một số
TBYT là rất lớn. Vì vậy, hợp đồng mua bán TBYT thường được lập thành văn bản
để đảm bảo giá trị pháp lý của hợp đồng trong quá trình giao kết thực hiện và giải
quyết tranh chấp khi phát sinh.
- Về đối tượng: Hợp đồng mua bán TBYT có đối tượng là các TBYT. Theo
quy định tại nghị định số 36/2016/NĐ-CP và được sửa đổi, bổ sung tại nghị định số
169/2018/NĐ-CP thì TBYT bao gồm các loại thiết bị, dụng cụ, vật liệu, vật tư cấy
ghép, thuốc thử và chất hiệu chuẩn in vitro, phần mềm (software) đáp ứng được yêu
cầu do pháp luật quy định và nhằm phục vụ cho mục đích y tế.
- Về nội dung: Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và hợp
đồng mua bán TBYT nói riêng đều bao gồm những điều khoản mà các bên tham gia
giao kết hợp đồng thỏa thuận xác lập nên sau khi đã tự do bàn bạc, thương lượng.
20
Các bên khi thỏa thuận về nội dung của hợp đồng cần đảm bảo là những nội dung
đó phải phù hợp với quy định của pháp luật với những điều khoản cụ thể, rõ ràng,
có khả năng thực thi cao.
Nội dung của hợp đồng mua bán TBYT có thể chia thành ba loại điều khoản:
(1) Điều khoản chủ yếu; (2) Điều khoản thường lệ và (3) Điều khoản tùy nghi. Trong
đó, điều khoản chủ yếu là các điều khoản về quyền và nghĩa vụ của yếu của các bên;
Điều khoản thường lệ là điều khoản được quy định trong các văn bản quy phạm pháp
luật, dù có được quy định trong hợp đồng hay không thì các bên đều phải thừa nhận
và thực hiện; Điều khoản tùy nghi là những điều khoản được đưa vào hợp đồng theo
sự thỏa thuận nhằm đáp ứng nhu cầu của các bên nhưng phải nằm trong khuôn khổ
của pháp luật.
1.2. Khái quát lý luận pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT
1.2.1. Khái niệm pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT
1.2.1.1. Khái niệm pháp luật
Từ thời xa xưa trong xã hội cộng sản nguyên thủy, do nhu cầu sống cộng đồng,
các quan hệ xã hội giữa người với người bắt đầu xuất hiện và phát triển đã hình thành
những quy tắc đạo đức, phong tục, tập quán và các quy tắc tôn giáo. Sau đó khi chế
độ tư hữu xuất hiện đã làm phát sinh những mâu thuẫn, đối kháng giữa các con người
trong cùng lãnh thổ sinh sống. Điều này đòi hỏi phải có những quy tắc xử sự chung
mang tính bắt buộc nhằm đảm bảo thực hiện sức mạnh cưỡng chế đối với các thành
viên trong xã hội và một tổ chức chính trị đặc biệt có bộ máy cưỡng chế nhằm đảm
bảo cho các quy tắc xử sự chung đó được thực hiện. Đây chính là tiền đề để pháp
luật ra đời.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau được các học giả trên toàn thế giới đưa ra
về pháp luật. Luban cho rằng: “Luật pháp là một hệ thống các quy tắc được tạo ra
và thực thi thông qua các tổ chức xã hội hoặc chính phủ để điều chỉnh hành vi của
21
người dân”[22, tr23]; Austin lại hiểu “Luật là một hệ thống mệnh lệnh, được đảm
bảo thực hiện bởi sự đe dọa và các chế tài xử phát của lực lượng cầm quyền”[20,
tr184]; Aquinas lập luật rằng “Pháp luật là văn bản nhằm đảm bảo một trật tự chung
hợp lý của tổng thể những hoạt động liên quan đến lợi ích chung của toàn xã hội
được ban hành bởi bất kỳ ai chịu trách nhiệm quản lý xã hội”[19, tr184].
Theo từ điển tiếng Việt thì Luật được hiểu là những phép tắc, quy định trong
xã hội buộc mọi người phải tuân theo[12]. Như vậy, thông qua lịch sử về sự ra đời
cũng như các khái niệm khác nhau về pháp luật, ta có thể đưa định nghĩa về pháp
luật như sau: Pháp luật là tổng thể các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do Nhà
nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí chung của một quốc gia, khu vực, được
Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng
chế”
Trong thời kì đất nước ta đang đổi mới phát triển, thúc đẩy công nghiệp hóa,
hiện đại hóa thì pháp luật ngày các có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Pháp luật
tại Việt Nam được thể hiện dưới dạng các văn bản quy phạm pháp luật như các Bộ
luật, Pháp lệnh, Nghị quyết, Thông tư, Nghị định… Mỗi một văn bản quy phạm
pháp luật sẽ có nội dung, đối tượng và phạm vi điều chỉnh khác nhau.
1.2.1.2. Khái niệm pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT
Chế định hợp đồng là một trong những chế định quan trọng, trung tâm nhất
của hệ thống pháp luật nói chung về hệ thống pháp luật dân sự nói riêng. Bởi vậy,
việc nghiên cứu, xây dựng một cách logic, có hệ thống những quy định, nguyên tắc
điều chỉnh về lĩnh vực này được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm, chú trọng.
Tại Việt Nam, nhằm điều chỉnh một cách chi tiết, cụ thể từng lĩnh vực nên chế định
hợp đồng không được quy định tập trung thành một văn bản pháp luật thống nhất
mà mỗi loại hợp đồng về những lĩnh vực khác nhau đều được chịu sự điều chỉnh của
22
các văn bản khác nhau như: Hợp đồng mua bán tài sản trong BLDS; Hợp đồng xây
dựng trong Luật Xây dựng; Hợp đồng bảo hiểm trong Luật Kinh doanh bảo hiểm;
Hợp đồng lao động trong luật Lao động…
Pháp luật về hợp đồng là tổng thể các các quy định của pháp luật điều chỉnh
về chủ thể, hình thức, nội dung, nguyên tắc thực hiện hợp đồng cũng như việc giải
quyết các tranh chấp phát sinh khi giao kết hợp đồng trong một lĩnh vực cụ thể.
Như vậy, từ những phân tích trên ta có thể hiểu định nghĩa pháp luật về hợp
đồng mua bán TBYT như sau: Pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT là tổng thể các
quy định của pháp luật được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh về chủ thể, hình thức, nội dung, điều kiện, phương thức giao kết và nguyên tắc
thực hiện hợp đồng mua bán TBYT.
1.2.2. Đặc điểm và nguyên tắc pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT
1.2.2.1. Đặc điểm về hợp đồng mua bán TBYT
Pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT được thể hiện dưới dạng các văn bản
quy phạm pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực mua bán hàng hóa. Bản chất là một dạng
hợp đồng mua bán hàng hóa, vì vậy, hợp đồng mua bán TBYT được điều chỉnh bởi
BLDS 2015 và LTM năm 2005, ngoài ra còn được điều chỉnh bởi Nghị định
36/2016/NĐ-CP về quản lý TBYT; Nghị định 169/2018/NĐ-CP sửa đổi Nghị định
36/2016/NĐ-CP về quản lý TBYT và Công ước viên 1980 của Liên hợp quốc về
mua bán hàng hóa Quốc tế.
Mỗi loại văn bản quy phạm pháp luật sẽ điều chỉnh một phạm vi, đối tượng
riêng trong hợp đồng mua bán TBYT. Xuất phát từ những đặc điểm chung của pháp
luật và pháp luật về hợp đồng, pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT có một số đặc
điểm sau:
23
Thứ nhất, là tổng thể các quy định bắt buộc chung về chủ thể, nội dung, đối
tượng, hình thức, điều kiện, phương thức giao kết và nguyên tắc thực hiện hợp đồng
mua bán TBYT.
Thứ hai, được ban hành bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được
pháp luật công nhận, bảo vệ và được đảm bảo giải quyết bằng phương thức Tòa án.
Thứ ba, là cơ sở pháp lý cao nhất mà các bên căn cứ để thực hiện các quyền
và nghĩa vụ và giải quyết các tranh chấp phát sinh ngoài phạm vi thỏa thuận trong
hợp đồng bằng các quy định của pháp luật có liên quan.
1.2.2.2. Nguyên tắc pháp luật về hợp đồng mua bán thiết bị y tế
Hợp đồng mua bán thiết bị y tế là một dạng hợp đồng thương mại, chịu sự
điều chỉnh của Luật Thương mại 2005 và Bộ luật Dân sự 2015. Vì vậy, nguyên tắc
pháp luật về hợp đồng mua bán thiết bị y tế sẽ bao gồm những nguyên tắc pháp luật
cơ bản được được quy định trong Bộ luật Dân sự 2015, Luật Thương mại 2005 và
một số nguyên tắc đặc thù của hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong một số trường
hợp.
Thứ nhất, những nguyên tắc được quy định trong Bộ luật Dân sự 2015 và Luật
Thương mại 2005
Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, -
đạo đức xã hội
Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay -
thẳng khi giao kết hợp đồng.
Nguyên tắc áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại được thiết -
lập giữa các bên
- Nguyên tắc áp dụng tập quán trong hoạt động thương mại
- Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng
24
- Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt
động thương mại
Thứ hai, nguyên tắc riêng đặc thù trong trường hợp các bên lựa chọn áp dụng
Bộ quy tắc về Hợp đồng thương mại quốc tế (PICC)
Xuất phát từ việc hợp đồng mua bán thiết bị y tế thường là những hợp đồng
nhập khẩu thiết bị y tế từ nước ngoài. Vì vậy, trong một số trường hợp, nếu các bên
lựa chọn áp dụng Bộ quy tắc về Hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) do Viện Thống
nhất Tư pháp Quốc tế (UNIDROIT) soạn thảo và ban hành năm 1994, được sửa đổi
và bổ sung năm 2004 thì hợp đồng đó phải tuân thủ các nguyên tắc được quy định
trong bộ quy tắc này.
Trong bộ quy tắc này quy định một số nguyên tắc cơ bản như:
- Các nguyên tắc về giải thích hợp đồng
Các nguyên tắc giải thích hợp đồng bao gồm: Giải thích dựa vào ý chí của
các bên; giải thích dựa vào các tuyên bố và hành vi của các bên; giải thích dựa trên
tính thống nhất của hợp đồng; giải thích về hiệu lực đầy đủ của hợp đồng; giải thích
khi có sự khác biệt về ngôn ngữ; giải thích về việc bổ sung những điều khoản thiếu
vắng trong hợp đồng.
Những nguyên tắc giải thích này có một ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định sự mong muốn của các chủ thể trong việc xác định hợp đồng nói chung và hợp
đồng thương mại quốc tế nói riêng. Những nguyên tắc này nhằm đảm bảo việc giải
thích hợp đồng phải được thực hiện trên tinh thần làm cho hợp đồng được thực hiện
trên cơ sở thực hiện nghĩa vụ của các bên chủ thể.
- Nguyên tắc contra proferrentem
25
Đây là một nguyên tắc quy định về việc giải thích điều khoản của hợp đồng
phải theo hướng bất lợi cho bên đề xuất điều khoản đó. Trong quá trình xây dựng
hợp đồng, một trong các bên chủ thể của hợp đồng được bên kia tin tưởng trong việc
soạn thảo hợp đồng. Nội dung các điều khoản đưa vào hợp đồng phải được dựa trên
các thỏa thuận của các bên trong quá trình đàm phán. Tuy nhiên, trên thực tế, trong
nhiều trường hợp bên được quyền soạn thảo hợp đồng có thể đưa vào hợp đồng các
điều khoản mẫu đã được sử dụng trong các hợp đồng khác hoặc đưa vào các điều
khoản không rõ nghĩa. Trong trường hợp này, những điều khoản mẫu hoặc những
điều khoản không rõ nghĩa đó sẽ được giải thích theo hướng bất lợi cho bên đề xuất.
1.2.3. Nội dung của pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT
Nội dung pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT được quy định trong BLDS
2015 và LTM năm 2005 Theo đó, nội dung pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT
bao gồm những nội dung chính như sau:(1) Giao kết hợp đồng, (2) Thực hiện hợp
đồng và (3) Sửa đổi, chấm dứt hợp đồng. (4) Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp
đồng
1.2.3.1. Giao kết hợp đồng
Nội dung pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán TBYT được quy định tại
tiểu mục 1 từ Điều 385 đến điều 400 BLDS 2015. Các nội dung cụ thể như sau:
- Về đề nghị giao kết hợp đồng, là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng
và chịu sự giàng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định
hoặc tới công chúng (bên được đề nghị). Đối với trường hợp đề nghị giao kết hợp
đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ
ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên
được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh[11, điều
378].
26
- Về thông tin giao kết hợp đồng: Nếu một bên có thông tin ảnh hưởng đến
việc chấp nhận giao kết hợp đồng của bên kia thì phải thông báo cho bên kia biết.
Trong trường hợp một bên nhận được thông tin bí mật của bên kia trong quá trình
giao kết hợp đồng thì có trách nhiệm bảo mật thông tin và không được sử dụng thông
tin đó cho mục đích riêng của mình hoặc cho mục đích trái pháp luật khác. Nếu một
trong các bên vi phạm thì phải bồi thường nếu có thiệt hại xảy ra trên thực tế[11,
điều 378].
- Về thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực: Thời điểm này được bên
đề nghị giao kết ấn định, nếu bên đề nghị giao kết không ấn định thì đề nghị giao kết
hợp đồng sẽ có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận được lời đề nghị đó, trừ
trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Luật Dân sự cũng có quy định 03 trường hợp được coi là đã nhận được đề
nghị giao kết hợp đồng: (1) Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề
nghị là cá nhân; được chuyển đến trụ sở, nếu bên được đề nghị là pháp nhân; (2) Đề
nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị; (3) Khi bên
được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các phương thức khác.
- Về thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng: Trong các trường hợp sau thì
bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng:
+ Bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị
trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị;
+ Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề
nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh.
Nếu bên đề nghị thay đổi nội dung của đề nghị thì đó là đề nghị mới.
27
- Về hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng: Bên được đề nghị sẽ có quyền hủy bỏ
đề nghị giao kết hợp đồng nếu quyền này đã được quy định trong thỏa thuận và thời
điểm thông báo hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng phải được gửi trước khi bên nhận
đề nghị có thông báo về việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
- Về đề nghị chấm dứt giao kết hợp đồng: Trong các trường hợp sau đề nghị
giao kết hợp đồng sẽ được chấm dứt: (1) Bên được đề nghị chấp nhận hoặc không
chấp nhận giao kết hợp đồng, (2) Hết thời hạn trả lời chấp nhận, (3) Khi thông báo
về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực, (4) Khi thông báo về việc hủy bỏ
đề nghị có hiệu lực, (5) Theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên được đề nghị trong
hời hạn chờ bên được đề nghị trả lời.
- Về sửa đổi đề nghị do bên được đề nghị đề xuất: Khi bên được đề nghị đã
chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng có nêu điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị thì coi
như người này đã đưa ra đề nghị mới
- Về việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng:
+ Chấp nhận đề nghị giao kết là việc bên nhận được đề nghị giao kết trả lời
chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị. Sự im lặng của bên được đề nghị chỉ được
coi là chấp nhận nếu có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên
+ Trả lời chấp nhận giao kết chỉ có hiệu lực nếu nằm trong thời hạn ấn định
trả lời mà bên đề nghị đưa ra. Trong trường hợp bên đề nghị không nêu rõ thời hạn
trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực nếu được thực hiện trong một thời
hạn hợp lý.
+ Trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do khách
quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông báo chấp
nhận giao kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay
không đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị.
28
+ Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trong trường hợp qua điện
thoại hoặc qua phương tiện khác thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận
hoặc không chấp nhận, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận về thời hạn trả lời.
Trong trường hợp bên đề nghị chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi sau khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận
giao kết hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp nội
dung giao kết gắn liền với nhân thân bên đề nghị. Ngược lại, đối với trường hợp bên
được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng sau đó chết, mất năng lực hành
vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì việc trả lời chấp
nhận giao kết hợp đồng vẫn có giá trị, trừ trường hợp nội dung giao kết gắn liền với
nhân thân bên được đề nghị.
- Về rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng: Bên được đề nghị giao
kết hợp đồng có thể tút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng nếu thông báo
này đến trước hoặc cùng thời điểm với bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao
kết hợp đồng.
- Nội dung của hợp đồng: Các bên có quyền tự do thỏa thuận về nội dung của
hợp đồng trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Nội dung của hợp đồng có thể bao
gồm một số nội dung sau: (1) Đối tượng của hợp đồng; (2) Số lượng, chất lượng; (3)
Giá, phương thức thanh toán; (4) Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp
đồng; (5) Quyền, nghĩa vụ của các bên; (6) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; (7)
Phương thức giải quyết tranh chấp.
- Địa điểm giao kết hợp đồng sẽ do các bên thỏa thuận, nếu không có thỏa
thuận thì địa điểm giao kết sẽ là nơi cư trú của cá nhân hoặc trụ sở của pháp nhân đã
đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng.
- Thời điểm giao kết hợp đồng:
29
Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao
kết.
+ Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết
hợp đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng
của thời hạn đó.
+ Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận
về nội dung của hợp đồng.
+ Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký
vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản.
+ Trường hợp hợp đồng giao kết bằng lời nói và sau đó được xác lập bằng văn
bản thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định theo thời điểm giao kết hợp đồng
bằng văn bản.
- Hiệu lực của hợp đồng: Hợp đồng được giao kết hợp pháp sẽ có hiệu lực kể
từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy
định khác. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ theo thỏa thuận của các bên
hoặc theo quy định của pháp luật.
- Hợp đồng vô hiệu: Hợp đồng mua bán TBYT vô hiệu là hợp đồng không
đáp ứng một trong các điều kiện quy định tại Điều 177 của BLDS 2015 hoặc thuộc
các trường hợp pháp luật dân sự quy định là vô hiệu từ điều 123 đến điều 133 như:
Vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội. vô hiệu do giả tạo…
1.2.3.2. Thực hiện hợp đồng
Hợp đồng mua bán TBYT là dạng hợp đồng song vụ. Theo đó các bên trong
hợp đồng phải thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn, không được hoãn thực hiện
với lý do bên kia chưa thực hiện nghĩa vụ đối với mình, trừ trường hợp pháp luật có
30
quy định khác. Trong trường hợp không thỏa thuận về việc bên nào thực hiện nghĩa
vụ trước thì các bên phải đồng thời thực hiện nghĩa vụ đối với nhau, Nếu nghĩa vụ
không thể thực hiện đồng thời thì nghĩa vụ nào khi thực hiện mất thời gian hơn thì
phải thực hiện trước.
- Quyền hoãn thực hiện hợp đồng: Bên phải thực hiện nghĩa vụ trước có quyền
hoãn thực hiện nghĩa vụ, nếu khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên kia đã bị giảm sút
nghiêm trọng đến mức không thể thực hiện được nghĩa vụ như đã cam kết cho đến
khi bên kia có khả năng thực hiện được nghĩa vụ hoặc có biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ; Bên phải thực hiện nghĩa vụ sau có quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ
đến hạn nếu bên thực hiện nghĩa vụ trước chưa thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến
hạn.
- Trường hợp nghĩa vụ không thực hiện được:
+ Nếu nghĩa vụ không thực hiện được do lỗi của một trong các bên thì bên
còn lại có quyền yêu cầu bên vi phạm tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hoặc hủy bỏ hợp
đồng và đòi bồi thường.
+ Nếu nghĩa vụ không được thực hiện không phải do lỗi của các bên thì bên
không thực hiện được nghĩa vụ không có quyền yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ
đối với mình. Trường hợp một bên đã thực hiện được một phần nghĩa vụ thì có quyền
yêu cầu bên kia thực hiện phần nghĩa vụ tương ứng đối với mình.
- Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản:
+ Hoàn cảnh thay đổi cơ bản khi có đủ các điều kiện sau đây:
Sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao
kết hợp đồng;
31
Tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên không thể lường trước được
về sự thay đổi hoàn cảnh;
Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp
đồng đã không được giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác;
Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp
đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên;
Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong
khả năng cho phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn chặn,
giảm thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi ích.
+ Trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản, bên có lợi ích bị ảnh hưởng
có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời hạn hợp lý.
+ Trường hợp các bên không thể thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng
trong một thời hạn hợp lý, một trong các bên có thể yêu cầu Tòa án:
Chấm dứt hợp đồng tại một thời điểm xác định;
Sửa đổi hợp đồng để cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
do hoàn cảnh thay đổi cơ bản.
Tòa án chỉ được quyết định việc sửa đổi hợp đồng trong trường hợp
việc chấm dứt hợp đồng sẽ gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí để thực hiện hợp
đồng nếu được sửa đổi.
+ Trong quá trình đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, Tòa án giải quyết
vụ việc, các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác.
1.2.3.3. Sửa đổi, chấm dứt hợp đồng
32
- Sửa đổi hợp đồng: Hợp đồng mua bán TBYT có thể được sửa đổi do thỏa
thuận của các bên hoặc khi có hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Hợp đồng sửa đổi bắt buộc
phải tuân theo hình thức của hợp đồng ban đầu
- Chấm dứt hợp đồng: Hợp đồng mua bán TBYT sẽ được chấm dứt trong các
trường hợp sau: (1) Hợp đồng đã được hoàn thành; (2) Theo thỏa thuận của các bên;
(3) Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân giao kết hợp đồng chấm dứt tồn tại
mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện; (4) Hợp đồng bị hủy
bỏ, bị đơn phương chấm dứt thức hiện; (5) Hợp đồng chấm dứt do hoàn cảnh thay
đổi cơ bản; (6) Trường hợp khác do luật quy định.
- Hủy bỏ hợp đồng:
+ Trong các trường hợp sau, một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng mà không
phải bồi thường thiệt hại: (1) Bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các
bên đã thỏa thuận; (2) Bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng; (3) Trường
hợp khác do luật quy định.
+ Vi phạm nghiêm trọng là việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên
đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.
+ Bên hủy bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc hủy bỏ,
nếu không không báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
+ Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ mà bên có
quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong một thời hạn hợp lý nhưng bên có nghĩa vụ
không thực hiện thì bên có quyền có thể hủy bỏ hợp đồng.
+ Trường hợp do tính chất của hợp đồng hoặc do ý chí của các bên, hợp đồng
sẽ không đạt được mục đích nếu không được thực hiện trong thời hạn nhất định mà
33
hết thời hạn đó bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ thì bên kia có quyền
hủy bỏ hợp đồng mà cần phải yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện.
+ Trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được một phần hoặc toàn
bộ nghĩa vụ của mình làm cho mục đích của bên có quyền không thể đạt được thì
bên có quyền có thể hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
+ Trường hợp một bên làm mất, làm hư hỏng tài sản là đối tượng của hợp
đồng mà không thể hoàn trả, đền bù bằng tài sản khác hoặc không thể sửa chữa, thay
thế bằng tài sản cùng loại thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng.
+ Bên vi phạm phải bồi thường bằng tiền ngang với giá trị của tài sản bị mất,
bị hư hỏng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc theo quy định tại khoản 2, khoản
3 Điều 351 và Điều 363 của Bộ luật này.
- Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng: Theo quy định tại Điều 427 BLDS 2015
thì hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng như sau:
+ Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao
kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa thuận về phạt vi
phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp.
+ Các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ chi phí hợp lý
trong thực hiện hợp đồng và chi phí bảo quản, phát triển tài sản.
Việc hoàn trả được thực hiện bằng hiện vật. Trường hợp không hoàn trả được
bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để hoàn trả.
Trường hợp các bên cùng có nghĩa vụ hoàn trả thì việc hoàn trả phải được
thực hiện cùng một thời điểm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có
quy định khác.
+ Bên bị thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên kia được bồi thường.
34
+ Việc giải quyết hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng liên quan đến quyền nhân
thân do Bộ luật này và luật khác có liên quan quy định.
+ Trường hợp việc hủy bỏ hợp đồng không có căn cứ theo quy định pháp luật
thì bên hủy bỏ hợp đồng được xác định là bên vi phạm nghĩa vụ và phải thực hiện
trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
- Đơn phương chấm dứt hợp đồng: Điều 428 BLDS 2015 quy định về đơn
phương chấm dứt thực hiện hợp đồng như sau:
+ Một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và không phải
bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc
các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
+ Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng phải thông báo ngay cho bên
kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải
bồi thường.
+ Khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt kể
từ thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt. Các bên không phải tiếp tục
thực hiện nghĩa vụ, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận
về giải quyết tranh chấp. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh
toán phần nghĩa vụ đã thực hiện.
+ Bên bị thiệt hại do hành vi không thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng
của bên kia được bồi thường.
+ Trường hợp việc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng không có căn
cứ thì bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng được xác định là bên vi phạm
nghĩa vụ và phải thực hiện trách nhiệm dân sự theo quy định của BLDS và LTM.
35
- Thời hiệu khởi kiện: Với bản chất là một dạng hợp đồng thương mại nên hợp
đồng mua bán TBYT có thời hiệu khởi kiện là 02 năm kể từ thời điểm phát hiện ra
quyền và lợi ích bị xâm phạm[13, điều 319].
1.2.3.4. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng
Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng là hậu quả pháp lý bất lợi mà bên
vi phạm hợp đồng phải gánh chịu khi không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình
theo hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật, bên vi phạm hợp đồng phải chịu
hậu quả bất lợi tương ứng với mức độ hành vi vi phạm đó gây ra. LTM năm 2005
đã quy định các chế tài trong thương mại cụ thể tại Mục 1 của Chương VII.
a, Các hình thức trách nhiệm pháp lý
- Buộc thực hiện đúng hợp đồng
Theo quy định của LTM 2005 thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi
phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được
thực hiện và bên vi phạm phải chịu các loại phí tổn phát sinh[13, điều 197].
Trong trường hợp bên vi phạm giao hàng không đúng hợp đồng hoặc giao
hàng kém chất chất lượng thì phải loại trừ khuyết tật của hàng hóa hoặc giao hàng
khác thay thế. Bên vi phạm không được dùng tiền hoặc hàng khác chủng loại để thay
thế nếu không được sự cho phép của bên bị vi phạm. Trong trường hợp bên bị vi
phạm không thực hiện thì bên bị vi phạm có quyền mua hàng của người khác để thay
thế theo đúng loại hàng hóa ghi trong hợp đồng và bên vi phạm phải trả khoản tiền
chênh lệnh và các chi phí phát sinh hoặc bên bị vi phạm có thể tự sửa chữa khuyết
tật của hàng hóa và bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý.
36
Thông thường trong các hợp đồng thương mại nói chung và hợp đồng mua
bán thiết bị nói riêng thì biện pháp này thường được ưu tiên áp dụng trước khi áp
dụng các biện pháp khác.
- Phạt vi phạm
Việc phạt vi phạm và mức phạt vi phạm được LTM quy định một cách cụ thể
rõ ràng. Theo đó, phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một
khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận, ngoại trừ
các trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định[13, điều 300]. Mức phạt vi phạm
hợp đồng do các bên được tự do thỏa thuận nhưng không được quá 8% giá trị phần
nghĩa vụ bị vi phạm, trừ trường hợp phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại trong trường
hợp kết quả giám định sai[13, điều 301].
- Buộc bồi thường thiệt hại
Bồi thường thiệt lại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi
vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm
giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra
và khoản lợi ích trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành
vi vi phạm xảy ra[13, điều 302]
Các căn cứ bồi thường thiệt hại bao gồm: (1) Có hành vi vi phạm hợp đồng;
(2) Có thiệt hại thực tế; (3) Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây
ra thiệt hại.
- Tạm ngừng thực hiện hợp đồng
Đây là một chế tài mới được quy định tại LTM 2005, theo đó một bên tạm
thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau:
37
(1) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên thỏa thuận là điều kiện để tạm ngững thực
hiện hợp đồng; (2) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng
- Đình chỉ thực hiện hợp đồng
Đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng thuộc một trong các trường hợp sau: (1) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã
thỏa thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng; (2) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ
hợp đồng. Bên bị vi phạm vẫn có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định
của LTM.
- Hủy bỏ hợp đồng
Điều 312 LTM 2005 quy định, bên có quyền lợi bị xâm hại do hành vi vi phạm
của bên còn lại có quyền tuyên bố hủy hợp đồng nếu việc vi phạm của bên kia là
điều kiện để hủy hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận. Chế tài này còn được áp dụng
trong các trường hợp một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Hủy bỏ hợp đồng
bao gồm: Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng và hủy bỏ một phần hợp đồng.
b, Các trường hợp miễn trách nhiệm
Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia hợp đồng, LTM
2005 đã quy định các trường hợp miễn trách nhiệm tại Điều 294 như sau:
- Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận
- Xảy ra sự kiện bất khả kháng
- Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia
- Hành vi vi phạm một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý Nhà
nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp
đồng.
38
1.2.4 Vai trò của quy định pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT TBYT đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán, điều trị và phục hồi chức năng
cho người bệnh và là một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả, chất
lượng của công tác y tế, hỗ trợ tích cực cho đội ngũ y, bác sĩ trong công tác phòng
bệnh và chữa bệnh. Đặc biệt, hiện nay thế giới phải đấu tranh với đại dịch toàn cầu
COVID-19 thì càng thấy được vai trò quan trọng của TBYT. Để có thể có phục vụ
cho công cuộc phòng, chống virus Corona thì các trung tâm y tế, bệnh viện cũng như
các doanh nghiệp lớn phải đẩy mạnh việc mua sắm các TBYT. Vì vậy, việc giao kết
và thực hiện hợp đồng mua bán TBYT ở nước ta hiện nay đóng vai trò cực kỳ quan
trọng trong cuộc cuộc nhanh chóng đẩy lùi dịch bệnh ra khỏi đất nước ta.
Để hợp đồng mua bán TBYT được giao kết và thực hiện một cách đảm bảo,
thuận lợi phụ thuộc rất lớn vào các quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này. Các
quy định pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT đóng một số vai trò quan trọng sau:
- Tạo hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể tham gia hợp đồng. Khi các
bên tham gia hợp đồng đều có quyền tự do, tự nguyện trong giao kết nhưng phải
nằm trong giới hạn cho phép của hợp đồng. Việc quy định cụ thể, rõ ràng các điều
kiện về chủ thể, đối tượng, chế tài xử phạt… tạo các điều kiện an toàn cho các chủ
thể tham gia hợp đồng mua bán TBYT.
- Là cơ sở vững chắc để giải quyết khi phát sinh tranh chấp. Khi xảy ra tranh
chấp, các thỏa thuận được lập thành văn bản trong hợp đồng giữa các bên sẽ là chứng
cứ quan trọng trong việc xác định trách nhiệm của mỗi bên.
- Đảm bảo cho việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Dựa vào những cam kết của các chủ thể tham gia hợp
đồng, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ kiểm tra việc các chủ thể có thực hiện
nghiêm túc theo quy định của pháp luật hay không. Đồng thời áp dụng các biện pháp
chế tài kịp thời cho các bên vi phạm khi cần thiết.
39
- Trên thực tế, giá thành của các TBYT là rất lớn. Vì vậy, việc quy định rõ
ràng về việc một hoặc các bên có hành vi vi phạm thì sẽ dẫn đến hợp đồng vô hiệu
và bên gây thiệt hại phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi sẽ nhằm đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp, sự công bằng cho các chủ thể tham gia vào hợp đồng mua bán TBYT.
40
Tiểu kết Chương 1
Hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và hợp đồng mua bán TBYT nói riêng
hiện nay đang là một trong những chế định quan trọng nhất của chính sách pháp luật
về lĩnh vực thương mại. Dựa trên nhu cầu thực tế về chăm sóc sức khỏe cũng như
tình trạng dịch bệnh đang diễn ra căng thẳng thì việc giao kết và thực hiện hợp đồng
mua bán TBYT một cách thuận lợi không những đáp ứng được nhu cầu cấp thiết
trong nước mà còn thúc đẩy được nền kinh tế trong nước thông qua hoạt động xuất
khẩu.
Trên cơ sở phân tích và khái quát các lý luận chung về hợp đồng mua bán
TBYT, tác giả đã đi sâu phân tích các khái niệm, đặc điểm, nội dung của pháp luật
về hợp đồng mua bán TBYT, làm rõ vai trò của pháp luật đối với việc giao kết và
thực hiện hợp đồng mua bán TBYT cũng như so sánh loại hợp đồng này với các loại
hợp đồng mua bán hàng hóa khác. Đây là cơ sở khoa học để tác giả đi sâu vào phân
tích thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT
ở Việt Nam hiện nay.
41
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN THIẾT BỊ Y TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT ở
Việt Nam
2.1.1. Chủ thể của hợp đồng mua bán TBYT
Bản chất của hợp đồng mua bán TBYT là hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo
đó, chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng mua bán TBYT cũng bao gồm thương nhân
và các cá nhân, tổ chức khác hoạt động có liên quan đến thương mại. Tuy nhiên,
kinh doanh TBYT là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Vì vậy, để các doanh
nghiệp có thể thực hiện hoạt động mua bán TBYT thì cần phải đáp ứng những điều
kiện được quy định tại Nghị định 36/2016/NĐ-CP ngày 15/05/2016 quy định về
quản lý TBYT và Nghị định số 169/2018/NĐ-CP ngày 31/12/2018 sửa đổi bổ sung
một số điều của nghị định 36/2016 như sau:
Thứ nhất, điều kiện về giấy phép kinh doanh
Doanh nghiệp thực hiện hoạt động mua bán TBYT phải có đăng ký Giấy phép
kinh doanh theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp và trong giấy phép kinh
doanh phải có ngành nghề kinh doanh về lĩnh vực thiết bị y tế
Thứ hai, điều kiện đối với cơ sở mua bán TBYT thuộc loại A
Mặc dù các TBYT loại A không thuộc loại kinh doanh có điều điều kiện. Tuy
nhiên, các doanh nghiệp kinh doanh TBYT loại A vẫn phải xin được bản phân loại
TBYT và làm thủ tục công bố tiêu chuẩn áp dụng cho TBYT loại A trước khi đưa
sản phẩm ra thị trường.
Thứ ba, điều kiện đối với cơ sở mua bán TBYT thuộc loại B,C,D
- Có ít nhất 01 nhân viên kỹ thuật có trình độ cao đẳng chuyên ngành kỹ thuật
hoặc chuyên ngành y, dược hoặc cao đẳng kỹ thuật TBYT trở lên hoặc có trình độ
42
cao đẳng trở lên mà chuyên ngành được đào tạo phù hợp với loại TBYT mà cơ sở
mua bán;
- Có kho bảo quản và phương tiện vận chuyển đáp ứng các điều kiện tối thiểu
sau đây:
+ Kho bảo quản:
Có diện tích phù hợp với chủng loại và số lượng TBYT được bảo quản;
Bảo đảm thoáng, khô ráo, sạch sẽ, không gần các nguồn gây ô nhiễm;
Đáp ứng yêu cầu bảo quản khác của TBYT theo hướng dẫn sử dụng.
Trên thực tế, để kho bảo quản này được đảm bảo và công nhận thì cần phải
phải có giấy tờ chứng minh kho này thuộc quyền sử dụng hợp pháp của doanh nghiệp
thông qua giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sẳn trên đất. Trong trường hợp
là doanh nghiệp đi thuê, mượn thì phải có hợp đồng thuê, mượn được sự đồng ý của
bên cho thuê, cho mượn và trong hợp đồng cho thuê kho, mượn kho lưu ý phải thể
hiện rõ mục đích của hợp đồng thuê kho và mượn kho để thực hiện vào mục đích
bảo quản TBYT cơ sở kinh doanh.
+ Phương tiện vận chuyển TBYT từ cơ sở mua bán đến nơi giao hàng phù hợp
với loại TBYT mà cơ sở mua bán;
Trường hợp không có kho hoặc phương tiện bảo quản TBYT phải có hợp đồng
với cơ sở đủ năng lực để bảo quản và vận chuyển TBYT.
- Đối với cơ sở mua bán TBYT có chứa chất ma túy và tiền chất:
+ Người phụ trách chuyên môn phải có trình độ đại học chuyên ngành TBYT,
y, dược, hóa dược hoặc sinh học;
+ Có kho bảo quản đáp ứng quy định tại Điều 7 Nghị định 80/2001/NĐ-CP;
+ Có hệ thống theo dõi quản lý quá trình xuất, nhập, tồn kho TBYT có chứa
chất ma túy và tiền chất.
43
Việc mua bán TBYT thuộc loại B, C, D thuộc danh mục TBYT do Bộ trưởng
Bộ Y tế ban hành được mua, bán như các hàng hóa thông thường sẽ không phải đáp
ứng điều kiện và không phải thực hiện thủ tục công bố đủ điều kiện mua bán. Tuy
nhiên, vẫn phải đáp ứng các điều kiện về bảo quản, lưu giữ, vận chuyển theo quy
định của chủ sở hữu TBYT.
Ngoài ra, đối với hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế dưới hình thức nhập
khẩu đối với các TBYT được phân loại B, C, D và thuộc danh mục TBYT theo phụ
lục I – Thông tư 30/2015/TT-BYT thì doanh nghiệp cần phải xin giấy phép nhập
khẩu. Hồ sơ, thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu TBYT được quy định tại Thông tư số
30/2015/TT-BYT.
Thứ tư, điều kiện đối với tổ chức, cá nhân thực hiện nhập khẩu TBYT đã có
số lưu hành
- Là chủ sở hữu số lưu hành hoặc có giấy ủy quyền của chủ sở hữu số lưu
hành. Chủ sở hữu số lưu hành khi ủy quyền cho cơ sở nhập khẩu thực hiện việc nhập
khẩu TBYT phải đồng thời gửi văn bản ủy quyền đó cho cơ quan cấp số lưu hành
và cơ quan hải quan;
- Có kho và phương tiện vận chuyển đáp ứng yêu cầu theo quy định tại khoản
2 Điều 37 Nghị định 169/2018/NĐ-CP hoặc có hợp đồng với cơ sở có đủ năng lực
để bảo quản và vận chuyển TBYT;
Có kho bảo quản, hệ thống theo dõi quản lý quá trình xuất, nhập, tồn kho
TBYT có chứa chất ma túy và tiền chất đáp ứng các yêu cầu theo quy định tại khoản
3 Điều 37 Nghị định 169/2018/NĐ-CP.
Như vậy, có thể thấy rằng đối với từng loại TBYT thì pháp luật Việt Nam đều
quy định về những điều kiện riêng bắt buộc một cách rõ ràng, cụ thể đối với các chủ
thể tham gia vào hợp đồng mua bán TBYT. Theo đó, những điều kiện về giấy phép
kinh doanh, số lượng, chất lượng nhân sự hay kho bảo quản, phương tiện vận chuyển
đều được quy định một cách chi tiết.
44
2.1.2. Đối tượng của hợp đồng mua bán TBYT
Đối tượng của hợp đồng mua bán TBYT là các TBYT được quy định tại Nghị
định 36/2016/NĐ-CP và Nghị định số 169/2018/NĐ-CP. TBYT là hàng hóa kinh
doanh có điều kiện. Vì vậy, theo quy định tại khoản 2 Điều 25 LTM 2005 thì để
TBYT có thể trở thành đối tượng của hợp đồng mua bán thì cần phải đáp ứng một
số điều kiện sau:
Thứ nhất, về điều kiện lưu hành
Điều kiện lưu hành các TBYT được pháp luật quy định cụ thể tại Điều 17 Nghị
định 36/2016/NĐ-CP, theo đó các TBYT lưu hành trên thị trường cầu phải đáp ứng
được các điều kiện như sau:
– Đã có số lưu hành còn hạn hoặc đã được cấp phép nhập khẩu. Các loại thiết
bị đã hết hạn lưu hành sẽ không được phép kinh doanh trên thị trường.
– Trừ trường hợp TBYT chỉ sử dụng một lần thì những TBYT cần phải có đầy
đủ tài liệu kỹ thuật để phục vụ việc sửa chữa, bảo dưỡng trong trường hợp thiết bị y
tế chẳng may bị hỏng hoặc xảy ra sự cố.
– TBYT phải đảm bảo có nhãn hoặc có kèm theo nhãn phụ với đầy đủ các
thông tin như: tên trang thiết bị; xuất xứ; số lưu hành; tên và địa chỉ chủ sở hữu số
lưu hành trang thiết bị; ngày sản xuất hoặc hạn sử dụng ghi rõ ngày, tháng, năm
hoặc tháng, năm; hướng dẫn sử dụng;..
– Trên trang thiết bị phải có đầy đủ thông tin về hướng dẫn sử dụng bằng tiếng
Việt.
– Có các thông tin về bảo hành như: cơ sở bảo hành, điều kiện và thời gian
bảo hành, trừ trường hợp TBYT sử dụng một lần.
Trường hợp thông tin theo quy định tại như nhãn, tài liệu hỗ trợ sửa chữa,
hoặc thông tin về bảo hành không kèm theo TBYT thì phải cung cấp cho người mua
dưới hình thức thông tin điện tử và phải thể hiện rõ hướng dẫn tra cứu thông tin trên
nhãn TBYT.
45
Thứ hai, điều kiện để công bố tiêu chuẩn áp dụng hoặc cấp giấy chứng nhận
lưu hành
TBYT là mặt hàng được nhà nước kiểm soát rất chặt chẽ nên phải được thực
hiện thủ tục công bố đủ điều kiện kinh doanh hoặc cấp giấy chứng nhận đăng ký lưu
hành. Nghị định 36/2016/NĐ-CP đã quy định cụ thể về điều kiện này tại Điều 18
như sau:
– Đối với sản phẩm được sản xuất trong nước: thì phải được sản xuất tại cơ
sở sản xuất đã công bố đủ điều kiện sản xuất đối với TBYT.
– Đối với sản phẩm được nhập khẩu: thì phải được sản xuất tại cơ sở sản xuất
đã được cấp Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn quản lý chất lượng và được lưu hành
tại bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.
– Đồng thời TBYT phải phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật quốc gia hoặc tiêu
chuẩn mà nhà sản xuất công bố áp dụng.
Có một số điều kiện pháp luật không cho phép thực hiện lại thủ tục công bố
tiêu chuẩn áp dụng hoặc đăng ký lưu hành đối với TBYT trong các trường hợp sau:
– TBYT mà chủ sở hữu trang thiết bị hoặc chủ sở hữu số lưu hành trang không
tiếp tục sản xuất hoặc bị phá sản, giải thể.
– TBYT bị thu hồi do tổ chức đăng ký lưu hành giả mạo hồ sơ đăng ký hoăc
tổ chức đăng ký lưu hành sửa chữa, tẩy xóa làm thay đổi nội dung số lưu hành
Ngoài ra, có một số loại TBYT được miễn công bố tiêu chuẩn áp dụng và
miễn đăng ký lưu hành, bao gồm.
– TBYT chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu, thử nghiệm, hướng dẫn sử
dụng, sửa chữa TBYT.
– TBYT sản xuất tại Việt Nam chỉ nhằm mục đích xuất khẩu hoặc tham gia
trưng bày, hội chợ, triển lãm ở nước ngoài.
46
– TBYT nhập khẩu vào Việt Nam nhằm viện trợ hoặc để phục vụ hoạt động
hội chợ, triển lãm, trưng bày, giới thiệu sản phẩm hoặc để sử dụng cho mục đích là
quà biếu, cho, tặng.
Dựa vào những quy định nêu trên thì để có thể trở thành đối tượng của hợp
đồng mua bán TBYT thì các TBYT phải đáp ứng được những điều kiện lưu hành và
đã được công bố tiêu chuẩn áp dụng hoặc cấp giấy chứng nhận lưu hành. Việc quy
định chặt chẽ như vậy sẽ tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, vững chắc cho các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành kiểm soát và xử phạt các trường hợp kinh doanh, mua bán
TBYT giả, kém chất lượng, không rõ nguồn gốc xuất xứ nhằm tạo một môi trường
kinh doanh lành mạnh, bảo vệ người tiêu dùng, đặc biệt là trong tình hình dịch bệnh
COVID-19 đang diễn ra hết sức phức tạp.
2.1.3. Hình thức của hợp đồng mua bán TBYT
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam hiện nay không có quy định
cụ thể về hình thức của hợp đồng mua bán TBYT. Với bản chất là một dạng hợp
đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng mua bán TBYT được thực hiện theo các dạng
hình thức cụ thể được quy định tại Điều 24 của LTM năm 2005 như sau:
- Hợp đồng mua bán hàng hoá được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc
được xác lập bằng hành vi cụ thể.
- Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật quy định phải
được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó.
Căn cứ vào các quy định trên, hợp đồng mua bán TBYT không nằm trong các
loại hợp đồng mà pháp luật quy định phải lập thành văn bản nên có thể được thể hiện
bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 27 LTM 2005 thì đối với hợp đồng mua bán
TBYT được thực hiện dưới dạng các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái
xuất, tái nhập và chuyển khẩu thì phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn
47
bản hoặc bằng các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Các hình thức có
giá trị pháp lý tương đương văn bản bao gồm: Điện báo, telex, fax, thông điệp dữ
liệu (Là thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận và lưu trữ bằng phương tiện điện tử) và
các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
Dựa trên các quy định trên có thể thấy rằng LTM chỉ quy định hình thức buộc
lập thành văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương đối với
các hợp đồng mua bán quốc tế. Mặc dù vậy, đối với các hợp đồng mua bán TBYT
trong nước có số lượng lớn và giá trị cao thì việc lập thành văn bản sẽ tạo cơ sở pháp
lý vững chắc để giải quyết các tranh chấp phát sinh nhằm đảm bảo cho quá trình
giao kết và thực hiện hợp đồng được diễn ra một cách thuận lợi, an toàn giúp đảm
bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng được
bảo vệ một cách tối đa.
2.1.4. Nội dung của hợp đồng mua bán TBYT
Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và hợp đồng mua bán
TBYT nói riêng không được pháp luật quy định cụ thể bao gồm những nội dung bắt
buộc nào. Tuy nhiên, các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán
hàng hóa được LTM 2005 quy định chi tiết dựa trên việc tham khảo, chọn lọc các
quy định của Công ước Viên 1980 và các tập quán, thông lệ quốc tế về mua bán
hàng hóa để xây dựng được quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa phù hợp nhất
với điều kiện thực tế của Việt Nam
Những nội dung cơ bản về quyền và nghĩa vụ của các bên được quy định trong
Mục 2 của LTM 2005 bao gồm quyền, nghĩa vụ của bên mua, bên bán trong việc
giao hàng, thanh toán. Bên cạnh đó, LTM còn quy định về xác định giá và chuyển
rủi ro từ bên bán sang bên mua tương ứng với từng trường hợp giao hàng cụ thể căn
cứ trên các nguyên tắc của Công ước Viên năm 1980.
2.1.2.1. Quyền và nghĩa vụ của bên bán
48
a, Nghĩa vụ của bên bán
Theo quy định tại Điều 34, Điều 35 và Điều 38 của LTM 2005 thì bên bán
phải giao hàng hóa phù hợp với quy định của hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách
thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng và phải giao vào đúng
thời điểm giao hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng. Trong trường hợp bên bán giao
hàng trước thời hạn đã thỏa thuận thì bên mua có quyền nhận hoặc không nhận hàng,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác
Điều 42 LTM 2005 quy định về việc bên bán phải giao đầy đủ các chứng từ
liên quan đến hàng hóa cho bên mua trong thời gian thỏa thuận hoặc nếu không có
thỏa thuận về thời gian và địa điểm thì bên bán phải giao chứng từ liên quan đến
hàng hòa cho bên mua trong thời gian và tại địa điểm hợp lý để bên mua có thể nhận
hàng. Trong trường hợp giao thiếu hoặc giao muộn chứng từ liên quan đến hàng hóa
mà gây bất lợi hoặc làm phát sinh chi phí bất hợp lý cho bên mua thì bên mua có
quyền yêu cầu bên bán khắc phục bất lợi hoặc chịu chi phí đó.
Bên cạnh đó, bên bán phải có trách nhiệm kiểm tra háng hóa trước khi giao
hàng. Nếu có thỏa thuận về việc để cho bên mua hoặc đại diện của bên mua tiến
hành kiểm tra hàng thì bên bán có nghĩa vụ phải đảm bảo cho bên mua hoặc đại diện
của bên mua có điều kiện tiến hành việc kiểm tra.
Trong trường hợp hàng hóa có khiếm khuyết:
Bên bán sẽ không phải chịu trách nhiệm nếu những khiếm khuyết này đã
được bên mua hoặc đại diện của bên mua phát hiện trong quá trình kiểm tra hàng
hóa nhưng không thông báo cho bên bán trong thời hạn hợp lý sau đó.
Bên bán sẽ phải chịu trách nhiệm nếu những khiếm khuyết này mặc dù đã
được bên mua hoặc đại diện của bên mua kiểm tra nhưng không thể phát hiện được
bằng biện pháp thông thường và bên bán đã biết hoặc phải biết những khiếm khuyết
đó nhưng không thông báo cho bên mua.
49
Bên bản có nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu đối với hàng hóa. Theo đó, bên
bán phải bảo đảm: (1) Quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hóa đã bán không bị
tranh chấp bởi bên thứ ba; (2) hàng hóa đó phải hợp pháp; (3) Việc chuyển giao hàng
hóa là hợp phá
Điều 46 và Điều 49 LTM 2005 quy định bên bán không được phép bán hàng
hóa vi phạm quyền sở trí tuệ và trong trường hợp hàng hóa có bảo hành thì bên bán
phải chịu trách nhiệm bảo hành hàng hóa đó theo nội dung và thời hạn đã thỏa thuận
và phải chịu các chi phí về việc bảo hành, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
b, Quyền của bên bán
Bên bán có quyền nhận thanh toán sau khi đã hoàn thành xong nghĩa vụ của
mình hoặc theo thỏa thuận của hợp đồng. Trong trường hợp chậm thanh toán do lỗi
của bên mua thì bên bán có quyền áp dụng các biện pháp do LTM 2005 quy định để
bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.
Đối số tiền chậm trả, bên bán có quyền yêu cầu bên mua chi trả tiền lãi của số
tiền đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán
tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật
có quy định khác. Ngoài ra bên bán có thể áp dụng các hình thức chế tài theo quy
định của LTM.
2.1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của bên mua
a, Nghĩa vụ của bên mua
Nghĩa vụ của bên mua được quy định cụ thể tại Điều 50, Điều 55 của LTM
2005 như sau:
- Thanh toán tiền mua hàng và nhận hàng theo thỏa thuận
- Tuân thủ các phương thức thanh toán, thực hiện việc thanh toán theo trình
tự, thủ tục đã thỏa thuận và theo quy định của pháp luật
50
- Trong trường hợp hàng hóa mất mát, hư hỏng sau thời điểm rủi ro được
chuyển từ bên bán sang bên mua và những mất mát, hư hỏng đó không phải do lỗi
của bên bán thì bên mua vẫn phải thanh toán tiền mua hàng.
b, Quyền của bên mua
Theo quy định tại Điều 51 LTM 2005 thì bên mua có quyền ngừng thanh toán
tiền mua hàng trong các trường hợp: (1) Có bằng chứng về việc bên bán lừa dối; (2)
Có bằng chứng về việc hàng hóa đang là đối tượng bị tranh chấp.
Ngoài các quy định của LTM 2005 về quyền và nghĩa vụ của các bên trong
hợp đồng mua bán hàng hóa thì BLDS 2015 cũng có quy định về những nội dung
thường có trong hợp đồng tại Điều 298 bao gồm: (1) Đối tượng của hợp đồng; (2)
Số lượng, chất lượng; (3) Giá, phương thức thanh toán; (4) Thời hạn, địa điểm,
phương thức thực hiện hợp đồng; (5) Quyền, nghĩa vụ của các bên; (6) Trách nhiệm
do vi phạm hợp đồng; (7) Phương thức giải quyết tranh chấp.
Như vậy, có thể thấy việc không quy định chi tiết các nội dung trong hợp đồng
mua bán hàng hóa nói chung và mua bán TBYT nói riêng nhằm đảm bảo tối đa
nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại được quy định
tại Điều 11 LTM 2005. Tuy nhiên, việc không có những quy định cụ thể về nội dung
như vậy vô hình chung sẽ khiến cho việc hợp đồng vô hiệu hoặc tranh chấp hợp
đồng xảy ra thường xuyên bởi sự nhận thức pháp luật của mỗi chủ thể khi tham gia
vào quan hệ hợp đồng mua bán TBYT là khác nhau, dẫn đến việc các hợp đồng được
soạn thảo ra không cân bằng lợi ích giữa các bên hoặc trái quy định của pháp luật…
2.1.5. Hiệu lực của hợp đồng mua bán TBYT
2.1.5.1. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán TBYT
Để hợp đồng mua bán TBYT có hiệu lực thì đó cần phải đáp ứng những điều
kiện chung cơ bản về hợp đồng quy định tại Điều 117 BLDS 2015 và những đặc
điểm riêng đặc thù như sau:
51
Thứ nhất, đảm bảo nguyên tắc giao kết hợp đồng
Hợp đồng mua bán TBYT phải được ký kết dựa trên cơ sở là sự thỏa thuận
của các bên, được các bên thực hiện hiện một các tự nguyện, cùng hướng đến lợi ích
chung tuy nhiên không được xâm phạm tới những quy phạm pháp luật và đạo đức
mà Nhà nước, xã hội bảo vệ.
Thứ hai, chủ thể tham gia hợp đồng
Chủ thể tham gia hợp đồng mua bán TBYT phải có đầy đủ năng lực hành vi
dân sự. Trong trường hợp chủ thể là pháp nhân thì người tham gia giao kết phải là
đại diện hợp pháp của pháp nhân đó. Bên cạnh đó, chủ thể tham gia giao kết và thực
hiện hợp đồng mua bán TBYT phải đảm bảo các điều kiện về chủ thể kinh doanh
TBYT được quy định tại Nghị định 36/2016/NĐ-CP ngày 15/05/2016 quy định về
quản lý TBYT và Nghị định số 169/2018/NĐ-CP ngày 31/12/2018 sửa đổi bổ sung
một số điều của nghị định 36/2016.
Thứ ba, đối tượng của hợp đồng
Đối tượng của hợp đồng mua bán TBYT là các TBYT đáp ứng đủ điều kiện
công bố tiêu chuẩn áp dụng hoặc đăng ký lưu hành theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, nội dung của hợp đồng
Quyền, nghĩa vụ và các thỏa thuận khác được các bên quy định trong hợp
đồng phải phù hợp với các quy định của pháp luật. Nếu hợp đồng có điều khoản trái
với quy định của pháp luật thì tùy trường hợp hợp đồng đó sẽ bị vô hiệu một phần
hoặc toàn phần
Thứ năm, hình thức của hợp đồng:
52
Đối với dạng hợp đồng mua bán TBYT dưới hình thức xuất khẩu, nhập khẩu
thì bắt buộc phải thành lập thành văn bản hoặc bằng các hình thức khác có giá trị
pháp lý tương đương.
2.1.5.1. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng mua bán TBYT
Theo quy định tại Điều 401 BLDS 2015 thời điểm hợp đồng có hiệu lực là
thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy
định khác. Trong trường hợp hợp đồng giao kết bằng hình thức văn bản thì hợp đồng
có hiệu lực kể từ thời điểm tất cả các bên ký, đóng dấu vào hợp đồng.
Ngoài ra, thời điểm của hợp đồng còn được xác định thông qua thói quen
thương mại giữa các bên tham gia hợp đồng thương mại quy định tại Điều 3 LTM
2005. Theo đó, thói quen thương mại là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng được hình
thành và lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài giữa các bên, được các bên mặc
nhiên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thương
mại.
2.1.6. Hợp đồng mua bán TBYT vô hiệu
Hợp đồng mua bán hàng TBYT vô hiệu là hợp đồng không tuân thủ các điều
kiện có hiệu lực do pháp luật quy định nên không có giá trị pháp lý và không làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. LTM 2005 và BLDS 2015 không có quy
định cụ thể về hợp đồng mua bán TBYT vô hiệu mà BLDS 2015 chỉ có quy định
chung cơ bản về hợp đồng vô hiệu áp dụng với tất cả các loại hợp đồng. Theo đó,
Khoản 1 Điều 407 BLDS 2015 thì những quy định về giao dịch dân sự vô hiệu được
áp dụng với hợp đồng dân sự vô hiệu. Bên cạnh đó, Tại Khoản 2, Khoản 3 Điều 407
BLDS 2015 cũng quy định: (1) Sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp
đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp
đồng chính. Quy định này không áp dụng đối với biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
53
vụ; (2) Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường
hợp các bên thỏa thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng
chính.
Thông qua những quy định trên có thể thấy rằng, để xem xét hợp đồng vô hiệu
nói chung và hợp đồng mua bán TBYT vô hiệu nói riêng cần phải xem xét các điều
kiện có hiệu lực trong một chỉnh thể thống nhất trong mối quan hệ biện chứng. Tức
là, nếu hợp đồng vô hiệu từng phần mà không ảnh hưởng đến các phần khác, thì chỉ
phần vi hiệu không có hiệu lực, phần còn lại vẫn có hiệu lực thi hành.
Theo quy định tại Điều 131 BLDS 2015 thì giao dịch dân sự vô hiệu sẽ không
làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm
giao dịch được xác lập. Tức là, nếu giao dịch chưa được thực hiện thì các bên không
được phép thực hiện giao dịch đó. Còn trong trường hợp giao dịch đã được thực hiện
thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, trả cho nhau những gì đã nhận; nếu
không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền. Bên có lỗi gây thiệt
hại phải bồi thường thiệt hại.
Như vậy, theo quy định của pháp pháp luật thì hợp đồng mua bán TBYT sẽ
được coi là vô hiệu khi: (1) Không đáp ứng được những điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng; (2) Thuộc các trường hợp pháp luật quy định là vô hiệu
2.1.6.1. Các trường hợp hợp đồng mua bán TBYT vô hiệu cụ thể
a, Hợp đồng mua bán TBYT vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái
đạo đức xã hội
Điều 123 BLDS 2015 quy định giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi
phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu. Trong đó điều cần của luật
là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất
định và đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội,
54
được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Đối với trường hợp này, hợp đồn sẽ bị vô
hiệu toàn bộ và vô hiệu kể từ thời điểm giao kết hợp đồng.
- Vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, tức là hợp đồng được xác lập
với mục đích gây thiệt hại đến các quyền nhân thân, quyền tài sản của người khác,
vi phạm trật tự xã hội, thuộc các điều cấm của pháp luật, cụ thể như: Vi phạm nguyên
tắc công bằng; Lợi dụng sơ suất hoặc hoàn cảnh khó khăn của người khác vì mục
đích thu lợi bất công quá đáng; Hạn chế quyền tự do của người khác;... Ví dụ: Nếu
các cá nhân, tổ chức lợi dụng tình trạng dịch bệnh Covid-19 diễn ra phức tạp để giao
kết các hợp đồng mua bán TBYT với mức giá cao hơn so với quy định thì hợp đồng
đó sẽ được coi là vô hiệu.
Bên cạnh đó, trong khi giao kết hợp đồng, việc các chủ thể tham gia vào quan
hệ hợp đồng mua bán TBYT không tìm hiểu kỹ quy định của pháp luật có thể đưa
ra các điều khoản không tuân thủ theo quy định của pháp luật dẫn đến hợp đồng bị
vô hiệu một phần hoặc toàn bộ. Ví dụ: Đối với mức phạt hợp đồng tối đa được Điều
301 LTM 2005 quy định rõ ràng là không quá 8% giá trị hợp đồng vi phạm. Tức là
mức phạt 8% này là của “phần hợp đồng bị vi phạm” chứ không phải tổng giá trị
hợp đồng. Hệ quả của việc nhận thức sai hoặc không đầy đủ quy định này khiến cho
các cá nhân, tổ chức khi đám phán, ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa đưa ra điều
khoản phạt hợp đồng vượt quá giá trị so với luật định khiến cho hợp đồng đó bị tuyên
vô hiệu một phần khi xảy ra tranh chấp.
b, Hợp đồng mua bán TBYT vô hiệu do giả tạo
Theo quy định tại Điều 124 BLDS 2015 thì khi các bên xác lập giao dịch dân
sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự
giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao
dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.
55
Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ
ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.
Như vậy, dựa vào quy định của pháp luật thì có hai dạng hợp đồng vô hiệu do
giả tạo:
Thứ nhất, giả tạo nhằm cố ý che giấu một giao dịch khác. Ví dụ: Đối tượng
trong hợp đồng mua bán TBYT của công ty A với B là 20 thùng khẩu trang y tế với
giá trị là 20 triệu, tuy nhiên trên thực tế không có việc chuyển giao đối tượng hợp
đồng là khẩu trang y tế mà là pháp hoa, thì hợp đồng mua bán khẩu trang y tế này
vô hiệu do giả tạo
Thứ hai, giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba. Ví dụ: Giá
của bộ máy chụp X-Quang thể hiện trong hợp đồng mua bán TBYT giữa công ty A
và Công ty B là 100 triệu nhưng giá thực tế mà hai bên giao dịch là 500 triệu. Sự che
giấu này nhằm mục mục đích trốn tránh trách nhiệm với nhà nước, cụ thể ở đây là
trốn thuế. Hợp đồng này sẽ bị tuyên vô hiệu do giả tạo.
c, Hợp đồng mua bán TBYT vô hiệu do không tuân thủ hình thức
- Đối với hợp đồng mua bán TBYT trong nước
Theo quy định của BLDS 2015 và LTM 2005 thì hợp đồng mua bán hàng hóa
chỉ phải lập thành văn bản khi pháp luật có quy định. Đối với hợp đồng mua bán
TBYT trong nước thì pháp luật không quy định phải lập thành văn bản và có thể
được thực hiện dưới dạng các hình thức như lời nói, hành vi. Tuy nhiên, trong trường
hợp các bên có thỏa thuận về việc hình thức hợp đồng thì đây cũng có thể là căn cứ
để tuyên hợp đồng vô hiệu một phần hoặc toàn phần.
Ví dụ: Doanh nghiệp A (Bên bán) và doanh nghiệp B (Bên mua), cả hai đều
là doanh nghiệp của Việt Nam tiến hành giao kết một hợp đồng mua bán 30 máy thở
hãng XX. Trong hợp đồng quy định rõ ràng về việc, mọi thay đổi của hợp đồng chỉ
56
có hiệu lực khi được lập thành văn bản và có sự đồng ý của các bên. Thời điểm giao
hàng quy định là ngày 28/02, ngày 05/02 doanh nghiệp A có liên hệ trực tiếp qua
điện thoại với doanh nghiệp B trình bày về việc do điều kiện khách quan nên chỉ có
thể cung cấp 20 máy thở hãng XX và đề nghị được thay đổi 10 máy thở hãng XX
bằng 10 máy thở hãng YY. Doanh nghiệp B đồng ý.
Tuy nhiên, đến thời điểm ngày 28/02 khi hàng được giao đến thì doanh nghiệp
B không đồng ý nhận hàng vì hàng hóa không đúng chủng loại trong hợp đồng và
yêu cầu doanh nghiệp A phải bồi thường. Doanh nghiệp B cho rằng việc thay đổi
hãng của máy thở mặc dù đã được trao đổi qua điện thoại nhưng chưa được lập thành
văn bản nên không có hiệu lực.
Trong ví dụ này, khi đưa ra giải quyết tranh chấp sẽ có nhiều hướng giải quyết
khác nhau phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chủ thể có thẩm quyền tiến hành giải
quyết tranh chấp. Bởi lẽ, theo quy định của pháp luật thì thỏa thuận của các bên trong
hợp đồng là căn cứ pháp lý khi giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, pháp luật cũng
không có quy định cụ thể về hợp đồng mua bán TBYT trong nước vô hiệu do vi
phạm hình thức.
- Đối với hợp đồng mua bán TBYT tế quốc tế
Pháp luật các nước trên thế giới có những điều khoản quy định cụ thể đối với
một số hợp đồng, bắt buộc từng loại hợp đồng phải được thể hiện bằng hình thức
nhất định, nếu vi phạm quy định này, hợp đồng đã ký kết sẽ vô hiệu và không có giá
trị pháp lý. Đối với pháp luật Việt Nam, Khoản 2 Điều 27 LTM 2005 quy định, đối
với các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (hợp đồng được ký kết giữa các bên có
trụ sở thương mại nằm trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau) phải được lập thành
văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.
57
Như vậy, hợp đồng mua bán TBYT quốc tế sẽ bị vô hiệu nếu không được lập
thành văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.
d, Hợp đồng mua bán TBYT vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép
Theo quy định tại Điều 127 BLDS 2015 thì khi một bên tham gia giao dịch
dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố
giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
- Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người
thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc
nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Tuy nhiên, không có hướng dẫn cụ thể về việc mức độ lừa dối như thế nào thì
hợp đồng vô hiệu nên việc xác định ranh giới lừa dối thế nào là chấp nhận được và
lừa dối thế nào là không thể chấp nhận được dẫn tới hợp đồng vô hiệu là dẫn khó
khăn.
- Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc
người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của
người thân thích của mình.
e, Hợp đồng mua bán TBYT vô hiệu do bị nhầm lẫn
Điều 126 BLDS 2015 có quy định về các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu
như sau:
Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên
hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm
lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp mục
đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục
58
ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt
được.
Như vậy, thông qua quy định trên có thể thấy pháp luật Việt Nam chưa quy
định về định nghĩa như thế nào là nhầm lẫn và không có quy định cụ thể các trường
hợp nhầm lẫn nào thì bên bị nhầm lẫn được quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu.
Tuy nhiên, ta có thể hiểu rằng sự nhầm lẫn ở đây phải là do sự vô ý của một bên và
trên thực tế các bên đều mong muốn giao kết một hợp đồng nghiêm túc, đúng pháp
luật. Sự nhầm lẫn ở đây có thể về đối tượng của hợp đồng, tính chất của quan hệ hợp
đồng… Ví dụ: Công ty A đặt mua 1000 bộ quần áo bảo hộ y tế của công ty B về để
kinh doanh nhưng cuối cùng lại là mua bộ quần áo bảo hộ của kỹ sư , đây là nhầm
lẫn về đối tượng của hợp đồng.
g, Hợp đồng mua bán TBYT vô hiệu do người ký hợp đồng không đúng thẩm
quyền
Luật doanh nghiệp 2020 quy định các loại hình doanh nghiệp (công ty trách
nhiện hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh) đều có tư cách pháp nhân. Mỗi
pháp nhân phải có người đại diện theo pháp luật để xác lập, thực hiện mọi giao dịch
dân sự vì lợi ích của người được đại diện, nhưng chỉ được thực hiện trong phạm vi
đại diện. Đối với từng loại hình doanh nghiệp sẽ có quy định về người đại diện theo
pháp luật khác nhau được Luật Doanh nghiệp quy định.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 143 BLDS 2015 về hậu quả của giao dịch dân
sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì: “Giao dịch
dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm
phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực
hiện vượt quá phạm vi đại diện”. Phạm vi đại diện theo ủy quyền được xác lập theo
sự ủy quyền. Nếu giao dịch vượt quá phạm vi đại diện thì người đã giao dịch với
59
người đại diện có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện, hoặc hủy bỏ giao dịch đối
với phần vượt quá phạm vi đại diện, hoặc hủy bỏ toàn bộ giao dịch và yêu cầu bồi
thường thiệt hại. Trong trường hợp người đại diện và người giao dịch với người đại
diện cố ý xác lập hoặc thực hiện giao dịch vượt quá phạm vi đại diện mà gây thiệt
hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hạ.
Thông qua những quy định trên, các chủ thể trước khi tham gia vào quan hệ
hợp đồng mua bán TBYT cần phải tìm hiểu kĩ về người đại diện hợp pháp của doanh
nghiệp đối tác thông qua các công văn hoặc thông báo của doanh nghiệp đối tác về
việc người tham gia đàm phán, ký kết hợp đồng là người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp hoặc người đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp và việc đàm
phán, ký kết hợp đồng nằm trong phạm vi được ủy quyền nhằm tránh trường hợp
hợp đồng giao kết vô hiệu do người ký hợp đồng không đúng thẩm quyền.
2.1.6.2. Hậu quả pháp lý của hợp đồng mua bán TBYT vô hiệu
Theo quy định tại Điều 131 của BLDS 2015 thì hậu quả pháp lý của hợp đồng
vô hiệu là sẽ không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên
kể từ thời điểm hợp đồng được giao kết, trong trường hợp hợp đồng đã được thực
hiện thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu và trả lại cho nhau những gì đã mất.
Tuy nhiên, hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu nói chung và hợp đồng mua
bán TBYT vô hiệu nói riêng không chỉ liên quan đến các bên tham gia hợp đồng,
trong một số trường hợp những hợp đồng này còn liên quan đến người thứ ba ngay
tình, đó là trường hợp hợp đồng vô hiệu nhưng đối tượng của hợp đồng như hàng
hóa hay cụ thể là TBYT đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình.
Theo quy định tại Điều 133 BLDS 2015 thì trường hợp giao dịch dân sự vô
hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển
giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ
60
ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình có được động sản này
thông qua hợp đồng không có đến bù với người không có quyền định đoạt tài sản
hoặc chiếm hữu tài sản đó ngoài ý chí của chủ sở hữu.
TBYT thuộc loại bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu. Vì vậy, tùy
từng trường hợp hợp đồng mua bán TBYT vô hiệu, thì việc xác lập hợp đồng của
người thứ ba có thể vẫn được giữ nguyên hiệu lực hoặc bị vô hiệu.
2.1.7. Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán TBYT
2.1.7.1. Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán TBYT trong nước
Tranh chấp mua bán TBYT trong nước và quốc tế có thể phát sinh tranh chấp
bắt nguồn từ rất nhiều các nguyên nhân khác nhau. Có thể kể đến một số tranh chấp
như :
- Tranh chấp hợp đồng mua bán TBYT liên quan đến điều khoản giao hàng:
địa điểm giao hàng, thời hạn giao hàng, hàng hóa không phù hợp với hợp đồng, giao
thiếu hàng, bàn giao chứng từ,…
- Tranh chấp liên quan tới giao nhận trong hợp đồng mua bán TBYT.
- Tranh chấp do sự kiện bất khả kháng đã được liệt kê hoặc chưa được liệt kê
trong hợp đồng.
- Tranh chấp do có sự khác biệt về ngôn ngữ, tập quán, pháp luật…
- Tranh chấp do có sự thay đổi về điều kiện thực hiện hợp đồng.
Đặc biệt, trường hợp thường xuyên xảy ra nhất đó là tranh chấp hợp đồng mua
bán TBYT do một trong các bên vi phạm hợp đồng, không thực hiện đúng nghĩa vụ
đã thỏa thuận theo hợp đồng.
61
Tại mục 2 LTM 2005 có quy định cụ thể về hình thức giải quyết tranh chấp,
thời hạn khiếu nại và thời hiệu khởi kiện như sau:
- Về hình thức giải quyết tranh chấp, Điều 317 LTM 2005 có quy định những
hình thức giải quyết tranh chấp sau:
+ Thương lượng giữa các bên, đây là phương pháp được ưu tiên và hữu hiệu
nhất khi phát sinh tranh chấp bởi nó tiết kiệm được thời gian, công sức và chi phí,
đảm bảo được các quyền và lợi ích hợp pháp giữa các bên trong hợp đồng.
+ Hòa giải giữa các bên, là hình thức các bên thỏa thuận, lựa chọn một cơ
quan, tổ chức hoặc cá nhân làm trung gian hòa giải. Theo quy định tại Nghị định
22/2014/NĐ-CP thì việc giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại chỉ khi các
bên thỏa thuận ghi trong hợp đồng hoặc theo hình thức thỏa thuận riêng bằng văn
bản.
+ Giải quyết tranh chấp tại Trọng tài hoặc Tòa án:
Tòa án: trong trường hợp hai bên không có thỏa thuận trọng tài hoặc có
nhưng thỏa thuận này vô hiệu. Hoặc nếu thỏa thuận trọng tài thuộc các trường hợp
không thể thực hiện được theo quy định tại Điều 4 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP
Hướng dẫn thi hành một số điều luật của luật trọng tài thương mại thì Tòa án sẽ có
thẩm quyền xét xử. Đối với các tranh chấp hợp hợp đồng mua bán TBYT quốc tế thì
sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND tỉnh.
Trọng tài thương mại: được lựa chọn khi các bên có thỏa thuận trọng
tài; tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại; hoặc có ít nhất một bên hoạt động
thương mại được quy định tại Điều 5 Luật Trọng tài thương mại 2010. Và thỏa thuận
trọng tài không thuộc các trường hợp vô hiệu theo quy định của pháp luật.
62
- Về thời hạn khiếu nại, theo quy định tại Điều 318 LTM 2005 thì thời hạn
khiếu nại do các bên tự thỏa thuận, nếu các bên không có thỏa thuận về thời hạn
khiếu nại thì thời hạn khiếu nại là 03 tháng kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại
về đối tượng hàng hóa; 06 tháng đối với khiếu nại về chất lượng hàng hóa kể từ ngày
giao hàng, trong trường hợp có bảo hành thì thời hạn khiếu nại là 03 tháng kể từ
ngày hết thời hạn bảo hành; 09 tháng kể từ ngày bên vi phạm phải hoàn thành nghĩa
vụ theo hợp đồng hoặc trong trường hợp có bảo hành thì kể từ ngày hết thời hạn bảo
hành đối với khiếu nại về các hành vi khác.
- Về thời hiệu khởi kiện: Thời hiệu khởi kiện được quy định tại Điều 319 LTM
là 02 năm kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.
2.2. Thực tiễn thực hiện hợp đồng mua bán TBYT ở Việt Nam
2.2.1. Tình hình thực hiện hợp đồng mua bán TBYT ở Việt Nam hiện nay
TBYT đóng vai trò rất quan trọng trong chẩn đoán, điều trị và phục hồi chức
năng cho người bệnh, là một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả,
chất lượng của công tác y tế, hỗ trợ tích cực cho đội ngũ y, bác sĩ trong công tác
phòng bệnh và chữa bệnh. Đặc biệt trong tình trạng đại dịch toàn cầu Covid-19 đang
diễn ra hết sức phức tạp, việc nhập khẩu các TBYT từ nước ngoài về Việt Nam và
việc mua sắm các TBYT của các trung tâm y tế, bệnh viện lớn nhỏ ở Việt Nam đã
diễn ra một cách nhanh chóng nhằm đảm bảo đầy đủ TBYT cần thiết phục vụ cho
công tác khám, chữa bệnh ở nước ta hiện nay.
Nhận thấy tầm quan trọng của hoạt động kinh doanh, mua bán TBYT Đảng
và Nhà nước ta đã chỉ đạo Bộ Y Tế và Vụ Trang thiết bị và Công trình y tế là đơn vị
đầu mối thực hiện quản lý lĩnh vực này nhằm đảm bảo chất lượng của TBYT được
lưu hành trên thị trường và xây dựng các văn bản pháp luật quản lý trong lĩnh vực.
63
Trong thời gian quan, để nâng cao chất lượng kinh doanh, quản lý, sử dụng
TBYT, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 36/2016/NĐ-CP ngày 15-5-2016 về
quản lý TBYT và Nghị định số 169/NĐ-CP ngày 31-12-2018 sửa đổi, bổ sung một
điều của Nghị định 36/2016/NĐ-CP. Theo các quy định hiện nay, việc đầu tư TBYT
tại cơ sở y tế công lập thực hiện theo quy định của Luật đấu thầu.
Bộ Y tế cũng đã ban hành Thông tư số 14/2020/TT-BYT ngày 10-7-2020 quy
định một số nội dung trong đấu thầu tại các cơ sở y tế công lập nhằm giúp cho các
đơn vị mua sắm, lựa chọn được thiết bị y tế có chất lượng, đáp ứng nhu cầu chuyên
môn và có giá thành phù hợp. Nhằm mục tiêu tránh thổi giá, tiêu cực, nâng cao sự
minh bạch, tính cạnh tranh trong thị trường mua sắm, đấu thầu các TBYT, Bộ Y Tế
đã tiến hành công khai tất cả các TBYT và kết quả đấu thầu TBYT tế. Tính từ tháng
4/2020 đến tháng 9/2020 Bộ Y Tế đã công khai toàn bộ kết quả đấu thầu TBYT với
khoảng 50 nghìn kết quả[9]. Đây là cơ sở, căn cứ tra cứu, tham chiếu, là bước đi làm
lành mạnh hóa thị trường.
Việc đưa ra những hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể về
hoạt động kinh doanh TBYT đã giúp cho các doanh nghiệp và sở y tế địa phương
hoàn toàn chủ động trong việc xuất khẩu, nhập khẩu TBYT theo nhu cầu của mình
mà không cần phải qua Bộ Y tế phê duyệt. Những văn bản quy phạm pháp luật này
sẽ tạo thuận lợi cho hoạt động giao kết, thực hiện hợp động mua bán hàng hóa khi
các doanh nghiệp được khuyến khích và có các chính sách ưu đãi trong việc kinh
doanh lĩnh vực này về đất, thuế doanh nghiệp, thuế doanh thu…
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới và khu vực đang diễn ra mạnh mẽ,
ngành y tế, cụ thể là việc sản xuất, kinh doanh TBYT đang được hội nhập sâu rộng
thì việc giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các tổ chức, cá nhân
tại Việt Nam đã diễn ra một cách thường xuyên và phức tạp. Điều này cho thấy tín
hiệu khả quan vì việc các doanh nghiệp tập trung vào lĩnh vực này sẽ giúp cho hệ
64
thống TBYT ở các cơ sở y tế, bệnh viện của nước ta đáp ứng nhu cầu phòng bệnh
và chữa bệnh. Tuy nhiên, còn xảy ra rất nhiều tình trạng tiêu cực như sau:
- Một số cá nhân, doanh nghiệp lợi dụng tình trạng dịch bệnh phức tạp để thổi
giá các TBYT phục vụ cho công tác phòng chống dịch bệnh như khẩu trang y tế lên
gấp nhiều lần so với giá trị trường.
- Một số lãnh đạo của các trung tâm y tế, bệnh viện đã lợi dụng hoạt động mua
sắm TBYT là tạo lập các hợp đồng mua bán TBYT khống với giá trị cao gấp nhiều
lần so với giao dịch thực tế nhằm chiếm đoạt khoản tiền chênh lệnh. Có thể kể đến
trường hợp của trung tâm kiểm soát dịch bệnh CDC Hà nội, Kết quả điều tra ban
đầu xác định hệ thống máy xét nghiệm Realtime PCR khi nhập khẩu về Việt Nam
chỉ 2,3 tỉ đồng, nhưng CDC Hà Nội mua vào với giá 7 tỉ đồng, chênh gần 5 tỉ gần
gấp 3 lần so với mức giá thực tế trên thị trường.
- Một số đối tượng bằng những hình thức tinh vi đã tạo lập các hợp đồng mua
bán TBYT “ma” với đối tượng là các các TBYT đang “hot” như khẩu trang y tế, gel
rửa tay khô với giá thành thấp nhằm dẫn dụ các cá nhân, tổ chức tham gia giao kết
hợp đồng sau đó biến mất. Thêm vào đó, sự kém hiểu biết pháp luật của một số cá
nhân, tổ chức khi giao kết hợp đồng mua bán TBYT dẫn đến tình trạng không kiểm
tra các loại giấy tờ chứng nhận, nguồn gốc xuất xứ khiến tình trạng đối tượng của
các hợp đồng mua bán TBYT thường là các TBYT giả, kém chất lượng và không
được phép lưu hành trên thị trường.
- Nhiều chủ thể khi giao kết hợp đồng mua bán TBYT không quy định rõ, cụ
thể các quyền lợi, nghĩa vụ cũng như phương thức, thời điểm thanh toán. Thậm chí
hợp đồng mua bán TBYT chỉ được thể hiện qua lời nói hoặc qua một giấy viết tay
hết sức sơ sài dẫn đến việc không có cơ sở pháp lý vững chắc để làm căn cứ giải
quyết khi phát sinh tranh chấp.
65
2.2.2. Một số hạn chế, bất cập trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng
mua bán TBYT
2.2.2.1 Hạn chế về quy định của pháp luật
Trong thời gian gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã thường xuyên quan tâm và
chú trọng đối với công tác cải cách pháp luật khi các văn bản quy phạm pháp luật
được ban hành, sửa đổi và bổ sung thường xuyên nhằm đáp ứng với yêu cầu của thời
đại mới, phù hợp hơn với các thông lệ quốc tế. Đặc biệt là trong lĩnh vực thương
mại, pháp luật hiện nay đã có rất nhiều quy định để điều chỉnh về hợp đồng thương
mại nói chung và hợp đồng mua bán TBYT nói riêng, cụ thể về các quy định điều
kiện giao kết, nguyên tắc giao kết, điều kiện có hiệu lực… tạo hành lang pháp lý
lành mạnh, tạo điều điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức tham gia vào hoạt
động thương mại nói chung.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực mà hoạt động này mang lại, vẫn còn
tồn tại một số điểm bất cập, hạn chế kìm hãm việc áp dụng pháp luật cũng như giao
kết, thực hiện hợp đồng mua bán TBYT như sau:
- Mặc dù đã có những quy định chung về hợp đồng thương mại, hợp đồng
mua bán hàng hóa và hợp đồng mua bán TBYT. Tuy nhiên, còn tồn tại rất nhiều các
quy định chưa rõ ràng và còn được thể hiện rải rác trong nhiều văn bản khác nhau
khiến cho việc áp dụng những quy định đó còn khó khăn và không đảm bảo được
hiệu quả áp dụng.
- Rất nhiều quy định trong LTM 2005 trùng lặp hoặc mâu thuẫn với quy định
của BLDS 2015, như quy định liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa, cho thuê
hàng hóa, đấu giá hàng hóa, hay các quy định về việc xử lý hành vi vi phạm hợp
đồng,...
66
- Chưa có văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn và điều chỉnh điều chỉnh
các loại hợp đồng thương mại riêng biệt, đặc biệt là đối với hợp đồng thương mại có
yếu tố nước ngoài. Dẫn đến tình trạng khó giải quyết khi phát sinh tranh chấp và gây
ra những thiệt hại kinh tế đáng kể.
- Các quy định liên quan tới hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế còn nhiều
bất cập, không phù hợp với thông lệ quốc tế, cụ thể là các quy định về thời điểm
chuyển rủi ro.
2.2.2.2 Hạn chế từ phía các chủ thể tham gia
Rất nhiều chủ thể khi tham gia vào quan hệ hợp đồng mua bán TBYT mà
không hề nghiên cứu, tìm hiểu các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động
mua bán TBYT mà chỉ tham gia với tâm lý muốn thực hiện hợp đồng nhanh để kiếm
lời trong tình hình nhu cầu sử dụng TBYT đang tăng cao dẫn đến xảy ra một số tình
trạng sau:
- Các chủ thể khi xây dựng hợp đồng vẫn còn viện dẫn các quy định của pháp
luật cũ, đã hết hiệu lực vào điều khoản luật áp dụng cho hợp đồng. Việc viện dẫn
pháp luật không đúng khi ký kết hợp đồng mua bán TBYT sẽ dẫn đến hợp đồng bị
tuyên vô hiệu hoặc gây khó khăn cho việc giải quyết tranh chấp phát sinh và không
được pháp luật bảo vệ
- Hợp đồng được xây dựng, tạo lập với những điều khoản chung chung, sơ sài.
Các điều khoản về hàng hóa, số lượng, chất lượng, đặt hàng, giao hàng cũng như các
điều hoản về thanh toán, tranh chấp và giải quyết tranh chấp được quy định theo mẫu
dập khuôn thậm dẫn đến tình trạng lúng túng khi thực hiện hợp đồng, bởi lẽ quyền,
nghĩa vụ của các bên được quy định không rõ ràng, cụ thể và hệ quả của việc này
làm phát sinh tranh chấp.
67
- Thỏa thuận về việc áp dụng các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng không
được quy định rõ ràng, không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các trình tự thủ
tục về việc định giá tài sản đảm bảo cũng như đăng ký giao dịch đảm bảo dẫn tới
việc các biện pháp này vô hiệu.
68
Tiểu kết Chương 2
Trong Chương 2, tác giả tập trung phân tích, làm rõ thực trạng pháp luật Việt
Nam về hợp đồng mua bán TBYT thông qua việc hệ thống các quy định về điều kiện
về chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức, hiệu lực của hợp đồng mua bán TBYT
cũng như phân tích các trường hợp hợp đồng mua bán TBYT vô hiệu và phương
thức giải quyết tranh chấp khi phát sinh. Đồng thời, tác giả đã thực hiện việc lồng
ghép từng ví dụ vào các trường hợp cụ thể nhằm khái quát rõ ràng bản chất các quy
định của pháp luật về lĩnh vực này. Thông qua đó, tác giả đi sâu vào phân tích thực
trạng của tình hình thực hiện hợp đồng mua bán TBYT ở Việt Nam hiện nay và chỉ
ra một cách khái quát những bất cập, hạn chế bắt nguồn từ phía các chủ thể tham gia
cũng như các quy định của pháp luật trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng
mua bán TBYT.
Đây là cơ sở để tác giả đưa ra các định hướng và giải pháp hoàn hiện pháp
luật về hợp đồng mua bán TBYT và nâng cao hiệu quả của hoạt động giao kết và
thực hiện hợp đồng mua bán TBYT ở chương tiếp theo.
69
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN TBYT Ở VIỆT
NAM
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT ở Việt
Nam
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã và đang từng bước hoàn thiện quá
trình xây dựng chính sách pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công
cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế sâu rộng. Pháp luật về hợp đồng nói chung và pháp
luật về hợp đồng mua bán TBYT nói riêng có thể tác động đến các quan hệ kinh tế,
xã hội theo hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm.
Đối với tình trạng đại dịch toàn cầu COVID-19 đang diễn ra hết sức phức tạp
như hiện nay thì nhu cầu mua bán các TBYT được diễn ra hết sức sôi nổi trên thị
trường. Do vậy, hoạt động này diễn ra suôn sẻ, thuận lợi sẽ đáp ứng được cả về số
lượng và chất lượng TBYT phục vụ cho nhu cầu khám chữa bệnh, phòng chống dịch
bệnh trong nước, bên cạnh đó việc giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán TBYT diễn
ra nhanh chóng, thuận lợi còn giúp các thương nhân đem lại khoản lợi khổng lồ, từ
đó thúc đẩy phát triển nền kinh tế nước ta. Để đảm bảo tạo thuận lợi cho hoạt động
giao kết và thực hiện mua bán TBYT này đòi hỏi các văn bản quy phạm pháp luật
điều chỉnh lĩnh vực này phải thường xuyên được rà soát, thay đổi, bổ sung vừa đảm
bảo phù hợp với điều kiện thưc thế vừa đảm bảo tuân thủ theo các quyên tắc chung
đặc thù quốc tế về hợp đồng mua bán hàng hóa. Việc hoàn thiện pháp luật về hợp
đồng mua bán TBYT xuất phát từ những định hướng sau đây:
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về hợp đồng phải đảm bảo phù hợp với đặc
trưng của nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Pháp luật về hợp đồng cần phải được xem xét phù hợp với các nguyên tắc cơ
bản của nền kinh tế thị trường như các nguyên tắc quyền tự do kinh doanh, dịch vụ
70
cạnh tranh; quyền tự do sản xuất, mở rộng kinh doanh, phân chia rủi ro và lợi nhuận;
quyền tự do... Việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng phải theo hướng mở rộng giao
lưu hàng hóa, khuyến khích sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế, đẩy mạnh
xuất khẩu và ưu tiên nhập khẩu các TBYT hiện đại nhằm đáp ứng nhu cầu của ngành
y tế tại Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT đảm bảo tối đa
quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh
Tự do hợp đồng là một trong những quyền quan trọng nhất của các chủ thể
kinh doanh quyền này được ghi nhận trong BLDS như sau: Cá nhân, pháp nhân xác
lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện
cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể
khác tôn trọng. Theo đó, trong quan hệ hợp đồng thì các chủ thể có quyền tự do tham
gia giao kết hợp đồng; Tự do lựa chọn đối tác trong quan hệ hợp đồng; Tự do lựa
chọn hình thức hợp đồng; Tự do thỏa thuận nội dung của hợp đồng; Tự do lựa chọn
phương thức giải quyết tranh chấp.
Như vậy, khi tiến hành nghiên cứu, xây dựng, sửa đổi và hoàn thiện các quy
định của pháp luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán TBYT nói riêng thì
cần luôn tôn trọng một cách tối đa quyền tự do hợp đồng của các bên. Tuy nhiên,
cần phải có những quy định của pháp luật điều chỉnh nhằm đảm bảo cho sự tự do
này luôn được đặt trong khuôn khổ của pháp luật cho phép.
71
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT
ở Việt Nam
3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng mua bán
TBYT
Thứ nhất, cần có văn bản bản hướng dẫn cụ thể về nội dung của hợp đồng
mua bán TBYT.
Kinh doanh TBYT là ngành nghề kinh doanh có điều kiện được pháp luật
quan tâm và quy định rất chặt chẽ về các điều kiện để tổ chức, cá nhân được phép
kinh doanh TBYT cũng như điều kiện lưu hành đối với từng loại TBYT cụ thể. Mặc
dù hợp đồng mua bán TBYT là một dạng hợp đồng đặc thù, phức tạp, pháp luật Việt
Nam không có văn bản điều chỉnh cụ thể về loại hợp đồng này. Các chủ thể tham
gia quan hệ hợp đồng mua bán TBYT thường phải dẫn chiếu các quy định của BLDS
cũng như LTM dẫn đến tình trạng nhận thức sai hoặc nhận thức không đầy đủ về
những quy định pháp luật điều chỉnh hợp đồng này.
Cần phải tập trung nghiên cứu nhằm đưa ra một văn bản quy phạm pháp luật
hướng dẫn cụ thể hợp đồng mua bán TBYT về cả hình thức, nội dung lẫn đối tượng.
Ví dụ như hợp đồng tư vấn xây dựng được hướng dẫn bởi Thông tư 08/2016/TT-
BXD của Bộ Xây dựng. Có văn bản hướng dẫn cụ thể sẽ nhằm tạo hành lang pháp
lý, khuôn mẫu chung hợp pháp cho các chủ thể tham gia vào quan hệ hợp đồng mua
bán TBYT căn cứ vào để thực hiện.
Thứ hai, cần sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật không còn phù hợp,
chưa rõ ràng, đáp ứng kịp thời sự phát triển của hoạt động thương mại nói chung và
hoạt động mua bán TBYT nói riêng trên thực tế.
- Cần bổ sung điều khoản quy định về những nội dung cơ bản của hợp đồng
mua bán hàng hóa nói chung và hợp đồng mua bán TBYT nói riêng để tạo cơ sở
72
vững chắc cho các chủ thể soạn thảo và thực hiện hợp đồng nhằm phòng tránh rủi
ro. Những quy định về khắc phục các trường hợp thiếu điều khoản cơ bản của hợp
đồng phải rõ ràng, cụ thể để các bên dễ dàng xác định và hoàn thành nghĩa vụ hợp
đồng như: ấn định địa điểm giao hàng cụ thể nếu các bên không thỏa thuận, xây
dựng tiêu chí xác định khoảng thời hạn hợp lý sau khi giao kết hợp đồng, hay hệ quy
chiếu để xác định giá hàng hóa. Các quy định tại Điều 57, 58, 59, 60, 61 về chuyển
rủi ro hàng hóa phải được quy định lại đơn giản và rõ ràng hơn, đồng thời bổ sung
khái niệm “Đối tượng là hàng hóa đang trên đường vận chuyển” tại Điều 60 LTM
2005.
- Bổ sung thêm các trường hợp chuyển quyền sở hữu hàng hóa và các trường
hợp chuyển rủi ro đối với trường hợp mua trả góp, mua dùng thử,... Ngoài ra, để đảm
bảo sự phù hợp với Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế, LTM cần bổ sung thêm các quy định về trường hợp bên mua được yêu cầu giảm
giá bán hàng hóa đối với trường hợp không từ chối nhận hàng không phù hợp với
hợp đồng, hay các quy định về nghĩa vụ bảo hành hàng hóa của bên bán.
- Bổ sung quy định của LTM 2005 hướng dẫn cụ thể về cách thức xác định
chất lượng hàng hóa khi các bên không có thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng
hóa
LTM cần được sửa đổi theo hướng quy định cụ thể hơn về cách thức xác định
chất lượng hàng hóa trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về chất lượng
hàng hóa trong hợp đồng; hoặc không quy định về cách thức xác định chất lượng
hàng hóa trong trường hợp các bên không có thỏa thuận trong hợp đồng mà mặc
nhiên áp dụng quy định của BLDS.
- Sửa đổi các quy định về chế tài thương mại
73
Đối với chế tài bồi thường thiệt hại và phạt hợp đồng, nên sửa đổi theo hướng
cho phép các bên trong hợp đồng được phép thỏa thuận về số tiền phạt vi phạm và
bồi thường thiệt hại. Đối với quyền yêu cầu đòi tiền lãi trên số tiền chậm thanh toán
cần sửa đổi theo hướng các bên có quyền thỏa thuận nhưng không được vượt quá
mức lãi suất được quy định trong BLDS.
- Sửa đổi một số quy định để phù hợp với Công ước Viên năm 1980 (CISG)
mà Việt Nam đã tham gia
LTM 2005 cần quy định rõ ràng, cụ thể hơn về các tiêu chí nhận diện vi phạm
cơ bản nghĩa vụ hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và mua bán TBYT nói riêng;
Quy định chi tiết hơn về cách tính tiền bồi thường thiệt hại hợp đồng; bổ sung thêm
những trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm do lỗi của bên thứ ba;
bổ sung quy định về nghĩa vụ bảo quản hàng hóa của các bên trong trường hợp có
tranh chấp; quy định về thời hạn kiểm tra hàng hóa và thông báo về sự không phù
hợp của hàng hóa[6].
Bên cạnh đó, cần bổ sung quy định về xác định tính quốc tế của hợp đồng mua
bán TBYT nhằm đảm bảo tương thích với quy định của Công ước; Bổ sung quyền
đòi bồi thường thiệt hại của người mua đối với việc giao hàng trước thời hạn như
trong CISG;
- Bổ sung những quy định cụ thể về giao kết hợp đồng điện tử:
Thời buổi hội nhập khoa học kỹ thuật, việc thừa nhận và bổ sung các quy định
pháp luật cụ thể về giao kết hợp đồng tiện từ là cực kì cần thiết. Theo đó cần bổ sung
khái niệm đề nghị giao kết hợp đồng điện tử, cách thức thực hiện giao kết hợp đồng
điện tử về thời hạn hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng điện tử, về thời hạn hiệu
lực của đề nghị giao kết hợp đồng điện tử…
74
- Bổ sung quy định về việc phải trả thêm tiền lãi tương ứng với số tiền của tài
sản mà các bên hoàn trả cho nhau, tình từ khi giao kết hợp đống đến lúc có bản án
tuyên bố hợp đồng vô hiệu
Hợp đồng vô hiệu trong trường hợp các bên đã thực hiện một phần của hợp
đồng thì các bên sẽ hoàn trả lạ cho nhau những gì đã nhận và không còn ràng buộc
bất cứ quyền và nghĩa vụ nào với nhau. Tuy nhiên, trong suốt quá trình thực hiện
hợp đồng, giá trị của tài sản mà hai bên đã nhận quả nhau sẽ thay đổi theo thời gian.
Nếu chỉ quy định các bên trả lại cho nhau những gì đã nhận thì chưa thực sự công
bằng đối với các chủ thể tham gia vào quan hệ hợp đồng.
- Cần thay đổi quy định về giới hạn tối đa mức phạt 8%, sửa đổi theo hướng
tăng giới hạn mức phạt vi phạm hợp đồng hoặc không giới hạn mức phạt tối đó.
Cũng như có các quy định cụ thể về việc vô hiệu điều khoản phạt hợp đồng trong
trường hợp thỏa thuận về mức phạt lớn hơn so với mức phạt tối đa 8%.
- Cần phải có quy định định đảm bảo việc thực hiệc hiện nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại kể cả khi hợp đồng đã bị tuyên bố vô hiệu
Trên thực tế, xảy ra nhiều trường hợp sau khi hợp đồng được tuyên bố vô hiệu,
bên có lỗi gây thiệt hại cho bên kia thường trốn tránh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại đối với phần thiệt hại do lỗi mà mình gây ra. Vì vậy, cần phải có quy định nhằm
đảm bảo việc thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên có lỗi nhằm đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị thiệt hại.
3.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện hợp đồng mua bán
TBYT
3.2.2.1. Giải pháp về phía Nhà nước
Để hiệu quả của việc thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT được
nâng cao thì vai trò của nhà nước là cực kỳ quan trọng. Bắt nguồn từ thực tế, hoạt
động kinh doanh thương mại thì các doanh nghiệp là chủ thể chiếm phấn lớn và hình
75
thức nhà nước thể hiện vai trò của mình trong việc giúp đỡ các doanh nghiệp là thông
qua hoạt động hỗ trợ pháp lý.
Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là nhằm định hướng, nâng cao nhận thức, ý
thức chấp hành pháp luật, giúp doanh nghiệp hoạt động và phát triển dựa trên một
nền tảng pháp lý ổn định, chắc chắn, bền vững, lâu dài. Về lý thuyết, các doanh
nghiệp được hỗ trợ một cách hoàn toàn công bằng, không phân biệt đối xử. Nghị
định số 55/2019/NĐ-CP ngày 24-06-2019 của Chính phủ về Hỗ trợ pháp lý cho
doanh nghiệp đã đưa ra nguyên tắc đối với hoạt động hỗ trợ pháp lý là được thực
hiện bằng các hình thức phù hợp và các chương trình theo nhu cầu của từng đối
tượng được hỗ trợ.
Đặc điểm của hoạt động hỗ trợ này không phải giống như hỗ trợ lãi suất, miễn,
giảm tiền thuế hay hỗ trợ vốn mà là hỗ trợ về mặt nhận thức pháp luật nói chung và
pháp luật liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung
nhằm nâng cao chất lượng kinh doanh của doanh nghiệp.
Các nội dung được hỗ trợ của doanh nghiệp quy định tại Nghị định số
55/2019/NĐ-CP bao gồm 2 nhóm hoạt động hỗ trợ pháp lý: (i) Hoạt động xây dựng,
quản lý, duy trì, cập nhật, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu về pháp luật (Điều 5
đến Điều 9); và (ii) Nhóm hoạt động xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình
hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (Điều 10 đến Điều 13) [4]. Mặc dù đã
có những quy định cụ thể về những nội dung hỗ trợ pháp lý như vậy nhưng trên thực
tế những nội dung này không đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp.
Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện Việt Nam có từ 97 -
99% là doanh nghiệp vừa và nhỏ, đây là các doanh nghiệp gặp khó khăn khi tiếp cận
pháp luật. Trong số này, mới có khoảng 40% doanh nghiệp sử dụng dịch vụ pháp lý,
kết quả cho thấy các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ pháp lý sản xuất kinh doanh ngày
76
càng có hiệu quả hơn. Thường thì các doanh nghiệp ở Việt Nam khi xảy ra vụ việc
mới thuê dịch vụ pháp lý, do đó thiệt hại trong kinh doanh là vô cùng lớn, nhiều
trường hợp do thiếu hiểu biết pháp luật dẫn tới phá sản doanh nghiệp.
Trong bối cảnh hiện nay, những hoạt động trên chỉ có giá trị hỗ trợ đối với các
doanh nghiệp non trẻ, mới thành lập, còn đối với dầu hết các doanh nghiệp hiện nay
thì điều họ cần là điều không phải là được tuyên truyền, đào tạo, phổ biến pháp luật
mà cần hỗ trợ, giúp đỡ trong việc ứng xử với pháp luật về những vướng mắc trên
thực tế. Tức là các doanh nghiệp cần được hỗ trợ trong việc nhận thức những mập
mờ, khó hiểu và chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật.
Thông qua những phân tích trên về bản chất của hoạt động hỗ trợ pháp lý, Nhà
nước cần thực hiện một số giải pháp cụ thể sau nhằm nâng cao chất lượng của hoạt
động này:
- Cần tổ chức khảo sát, đánh giá thực trạng, nhu cầu hỗ trợ pháp luật cho doanh
nghiệp, việc khảo sát có thể thực hiện trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức đại diện
của doanh nghiệp. Tổ chức hội thảo, tọa đàm, đối thoại các chuyên đề pháp luật về
kinh doanh cho doanh nghiệp, thông qua đó để thiết lập được diễn đàn trao đổi đa
chiều, tạo điều kiện để cơ quan quản lý Nhà nước lắng nghe, tiếp thu ý kiến phản
hồi từ phía doanh nghiệp, từ đó đề xuất, kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật.
- Cần tập trung nội dung hỗ trợ vào một số đối tượng cụ thể trong doanh nghiệp
như hỗ trợ đối tượng là người đứng đầu và lực lượng chuyên môn, nghiệp vụ của
doanh nghiệp. Việc hỗ trợ các doanh nghiệp cần phải thông qua các một số chủ thể
nhằm dẫn nhập pháp luật vào doanh nghiệp. Chủ thể này là các tổ chức tư vấn, dịch
vụ pháp lý và lực lượng pháp chế của doanh nghiệp. Vì vậy, cần phải quan tâm sát
sao và dành một nguồn lực đáng kể nhằm phát triền năng lực luật sư nội bộ doanh
nghiệp để hỗ trợ chính doanh nghiệp đó.
77
- Cần phải bố trí một bộ phận chuyên trách thuộc các vụ và phòng pháp chế
của các sở. Và đến lượt các đầu mối này cũng cần có một đầu mối chung để chỉ đạo,
hướng dẫn về nghiệp vụ hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Đó có thể là Vụ Pháp chế
Doanh nghiệp hay một đơn vị tương tự thuộc Bộ Tư pháp hay Bộ Kế hoạch và Đầu
tư hoặc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
- Cần xác định rõ trách nhiệm của cơ quan Nhà nước ở Trung ương và địa
phương trong hợp động hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp và đưa ra những chế tài xử phạt,
hình thức kỷ luận đối với những trường hợp không thực hiện đúng, đủ trách nhiệm
trong hoạt động này.
- Cần sớm ban hành chế độ, chính sách đãi ngộ phù hợp để khuyến khích tinh
thần làm việc cũng như các đóng góp của đội ngũ cán bộ pháp chế cho công tác pháp
chế sở, ngành nói chung và công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nói riêng.
- Tăng cường xây dựng, đăng tải, phát sóng các chương trình phổ biến pháp
luật cho doanh nghiệp trên đài, báo, tạp chí, bản tin và các phương tiện truyền thông
khác. Trong đó, chú trọng tuyên truyền những điểm mới của pháp luật về kinh doanh
hiện hành, phân tích những tác động của sự thay đổi đó đối với hoạt động của doanh
nghiệp; cung cấp các tình huống pháp lý, những vướng mắc trong thực tiễn thường
gặp và cảnh báo những rủi ro pháp lý khi doanh nghiệp không tuân thủ quy định, từ
đó đề xuất các giải pháp tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp.
- Cần đầu tư, xây dựng các chương trình bồi dưỡng pháp luật cơ bản dành cho
mọi doanh nghiệp mà đối tượng cần chú trọng nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thông qua các chương trình này, các doanh nghiệp nắm rõ hơn kiến thức về pháp
luật chuyên ngành và giúp cho bản thân các doanh nghiệp tự tin, chủ động khi bước
vào đàm phán, soạn thảo hợp đồng thương mại nói chung và hợp đồng mua bán
TBYT nói riêng.
78
Ngoài việc nâng cao hiệu quả của hoạt động hỗ trợ pháp lý thì Nhà nước cần
phải hoàn thiện các quy phạm pháp luật nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của tổ chức
pháp chế trong các doanh nghiệp nhà nước nhằm giúp cho doanh nghiệp có thêm
công cụ pháp lý trong quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh, đồng thời tạo điều
kiện cho các tổ chức tư vấn đảm nhiệm trách nhiệm pháp chế doanh nghiệp có thể
thiết kế và cung ứng dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của từng doanh nghiệp trong hoạt
động giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán TBYT, đảm bảo cho hoạt động này được
diễn ra suôn sẻ, đúng pháp luật.
3.2.2.2. Giải pháp về phía các các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng
Khi giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán TBYT đòi hỏi các chủ thể trước
khi tham gia vào quan hệ hợp đồng này cần phải nâng cao trình độ hiểu biết pháp
luật nói chung và pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT nói riêng. Điều đó sẽ giúp
cho những chủ thể này tránh được những rủi ro không đáng có khi giao kết và thực
hiện hợp đồng.
Căn cứ vào điều kiện về mặt chủ thể giao kết hợp đồng mua bán TBYT thì
chủ yếu là các thương nhân bao gồm các tổ chức, cá nhân đáp ứng yêu cầu theo quy
định của pháp luật. Đặc biệt đối với các loại TBYT đặc thù thì chỉ doanh nghiệp mới
đáp ứng được các điều kiện này. Vì vậy, để nâng cao chất lượng của việc thực hiện
hợp đồng mua bán TBYT thì các doanh nghiệp cần thực hiện một số giải
pháp sau:
Thứ nhất, thành lập, nâng cao chất lượng của đội ngũ pháp chế
Không chỉ trong giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán TBYT mà tất cả các
hoạt động của doanh nghiệp đều chịu sự điều chỉnh của các quy định pháp luật.
Trong thời kỳ hội nhập của nền kinh tế nước ta hiện nay, các hoạt động trong thị
trường đang diễn ra hết sức sôi động và thay đổi một cách không ngừng. Vì vậy, để
79
những hoạt động của doanh nghiệp được đảm bảo thực hiện đúng theo quy định của
pháp luật và làm giảm tới mức thấp nhất các rủi ro pháp lý và bảo vệ quyền và lọi
ích hợp pháp của doanh nghiệp thì đòi hỏi phải có một bộ phận chuyên trách về pháp
luật trong nội bộ doanh nghiệp, đó là bộ phận pháp chế.
Đối với lĩnh vực giao kết và thực hiện hợp đồng, bộ phận pháp chế sẽ giúp
cho các lãnh đạo daonh nghiệp thực hiện các nhiệm vụ như: Tham gia đàm phán,
thương thảo các hợp đồng quan trọng của doanh nghiệp với các đối tác trong kinh
doanh; thẩm định các dự thảo thoả thuận, các hợp đồng hợp tác, các dự án đầu tư để
đảm bảo không trái pháp luật, điều lệ hoặc có sơ hở, sai sót về mặt pháp luật có thể
dẫn đến thiệt hại cho doanh nghiệp; soạn thảo, thẩm định các dự thảo quy chế, quy
định quản lý và các văn bản quan trọng khác của doanh nghiệp theo sự phân công
của lãnh đạo; cập nhật thông tin về các văn bản pháp luật mới ban hành, về tình hình
thị trường kinh tế thông qua các phương tiện thông tin, các tổ chức pháp chế thuộc
các cơ quan nhà nước, và cung cấp thông tin cho lãnh đạo doanh nghiệp về việc vận
dụng pháp luật trong điều hành sản xuất, trong các dự án đầu tư xây dựng cơ bản,
trong các hợp đồng thương mại, tài chính, tín dụng, dịch vụ, đào tạo, xây dựng… ;
tư vấn giúp lãnh đạo doanh nghiệp trong hoạt động bằng cách đưa ra các dự báo tác
động về tình hình giá cả, thị trường… nhằm giảm thiểu rủi ro, thiệt hại có thể xảy
ra.
Xuất phát từ những vai trò to lớn như vậy, việc nâng cao chất lượng của đội
ngũ này đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật của doanh
nghiệp về mọi hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động giao kết, thực hiện hợp
đồng mua bán TBYT nói riêng. Để nâng cao chất lượng của đội ngũ này, doanh
nghiệp cần thực hiện một số giải pháp sau:
- Nâng cao chất lượng đào tạo, tuyển chọn cán bộ, nhân viên pháp chế
80
Để tuyển chọn được nhân sự một cách hợp lý, hiệu quả thì doanh nghiệp cần
căn cứ vào vị trí tuyển dụng, khối lượng, tính chất công việc và ngành nghề kinh
doanh thực tế của doanh nghiệp, theo đó:
+ Đối với vị trí lãnh đạo, trưởng bộ phận pháp chế: Cần phải lựa chọn những
người được đào tạo về luật, luật sư đã có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực mà
doanh nghiệp đang thực hiện hoạt động kinh doanh, cụ thể ở đây là TBYT. Tiêu chí
tiên quyết phải những luật sư đã từng có kinh nghiệm tham gia tranh tụng trong tranh
chấp kinh doanh, thương mại, bởi lẽ thông qua hoạt động tranh tụng những người
này không những am hiểu các quy định về hoạt động giao kết, thực hiện hợp đồng
mà còn có những kinh nghiệm thực tế, hiểu biết các sơ hở, bất cập trong quá trình
giao kết, thực hiện hợp đồng thông qua quá trình giải quyết tranh chấp trên thực tế.
Ngoài tiêu chí về mặt chuyên môn, nghiệp vụ thì cần phải chú trọng tới khả quản lý,
lãnh đạo, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp lớn.
+ Đối với vị trí nhân viên, cần đặt ra một số tiêu chuẩn chung như sau: Có
kiến thức học vấn đạt trình độ cử nhân luật trở lên; Am hiểu Pháp luật liên quan trực
tiếp các lĩnh vực kinh doanh của công ty; Sử dụng tốt vi tính, thành thạo các phần
mềm tin học văn phòng: Microsoft Word, Excel, PowerPoint; Kỹ năng soạn thảo,
tra cứu và thẩm định văn bản; Kỹ năng hoạch định, triển khai, kiểm soát và báo cáo
công việc; Kỹ năng giao tiếp, đàm phán, thuyết phục; Kỹ năng lập kế hoạch, tổ chức
hiệu quả; Kỹ năng ngoại ngữ. Trong đó ngoài các yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ
ra thì trình độ ngoại ngữ cần phải được đặt làm tiêu chí ưu tiên, bởi lẽ trong quá trình
giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán TBYT sẽ thường phải đàm phán, trao đổi với
các đối tác nước ngoài. Vì vậy, việc nhân viên pháp chế là người có kiến thức về
tiếng anh chuyên ngành sẽ giúp hoạt động này được diễn ra suôn sẻ hơn, tránh các
sự nhầm lẫn đáng tiếc xảy ra do sự bất đồng về ngôn ngữ.
- Cần quy định rõ trách nhiệm và phạm vi công việc
81
Thực tế hiện nay, trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ, công việc của bộ phận
pháp chế ngoài những công việc liên quan đến lĩnh vực pháp luật ra thì còn phải
kiêm nhiệm rất nhiều công việc hành chính, văn phòng. Việc này vô hình chung tạo
nên sự căng thẳng và áp lực công việc cho những cán bộ, nhân viên pháp chế khi họ
không được tập trung làm những công việc chuyên môn, không có đủ thời gian để
cập nhật các quy định, kiến thức pháp luật mới dẫn đến hiệu quả của việc giao kết,
thực hiện hợp đồng của doanh nghiệp bị ảnh hưởng đáng kể.
- Nâng cao nhận thức của các lãnh đạo doanh nghiệp về trai trò của pháp chế
trong hoạt động kinh doanh
Các lãnh đạo cần đặt niềm tin, quan tâm thành lập bộ phận pháp chế trong
ngay khi doanh nghiệp ra đời. Cần tôn trọng ý kiến tư vấn của nhân viên, bộ phận
pháp chế nếu những ý kiến đó là đúng pháp luật và phù hợp với các quy định của
pháp luật, tạo điều kiện cho cán bộ pháp chế được độc lập bảo lưu ý kiến của mình
nhằm phát huy tính chủ động, dám nói, dám làm.
Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện các thỏa thuận và lưu ý trong việc giao kết, thực
hiện hợp đồng mua bán TBYT
Để hoạt động giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán TBYT được diễn ra
một cách suôn sẻ, hiệu quả tránh tình trạng dẫn tới hợp đồng vô hiệu hoặc phát sinh
tranh chấp thì tác giả đưa ra một số điều khoản mẫu và một số lưu ý khi giao kết,
thực hiện hợp đồng mua bán TBYT như sau:
* Một số lưu ý
Thứ nhất, các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng cần xác định đúng căn
cứ pháp luật áp dụng khi ký kết hợp đồng nhằm tạo sự thuận lợi trong việc việc giải
quyết tranh chấp phát sinh và được pháp luật bảo công nhận, bảo vệ, tránh trường
hợp hợp đồng bị tuyên vô hiệu một phần hoặc toàn bộ.
82
Thứ hai, cần xác định tên gọi của hợp đồng. Nhiều trường hợp hợp đồng mua
bán TBYT được đặt tên thành hợp đồng kinh tế. Cách đặt tên như vậy sẽ dẫn đến
việc khó phân loại hợp đồng, khó xác định những điều khoản cơ bản của hợp đồng
và pháp luật điều chình loại hợp đồng có tên như thế này. Vì vậy, các chủ thể cần
lưu ý, đối với hợp đồng mua bán TBYT trong nước thì cần đặt tên hợp đồng là “Hợp
đồng mua bán hàng hòa” hoặc “Hợp đồng mua bán TBYT” còn đối với hợp đồng
mua bán TBYT có yếu tố chuyển dịch qua biên giới từ quốc gia này sang quốc gia
khác thì nên đặt trên là “Hợp đồng mua bán quốc tế”.
Thứ ba, cần đảm bảo xác định đúng người ký kết hợp đồng theo đúng thẩm
quyền luật định. Hiện nay, nhiều chủ thể kinh doanh TBYT thường hiểu lầm rằng
Giám đốc công ty là chủ doanh nghiệp, là người đại diện đương nhiên theo pháp luật
của công đó. Tuy nhiên, việc nhận thức như vậy là chưa đầy đủ và trong một số
trường hợp hợp đồng có thể bị tuyên vô hiệu.
Thứ tư, cần quy định chặt chẽ nội dung của hợp đồng. Khi soạn thảo, đảm
phán cần phải thể hiện rõ ràng, cụ thể những nội dung liên quan đến hàng hóa, chất
lượng, số lượng, thời gian thực hiện hơp đồng, thời gian, phương thức thanh toán,
thời điểm chuyển rủi ro, chuyển giao quyền sở hữu, quyền quản lý TBYT. Cần quy
định cụ thể về điều khoản phạt vi phạm hợp đồng, đảm bảo cho mức phạt này không
vượt quá giá trị mà pháp luật quy định nhằm tránh trường hợp hợp đồng bị vô hiệu
một phần.
Thứ năm, cần quy định về điều khoản bảo lãnh thanh toán. Việc quy định điều
khoản này nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia quan
hệ hợp đồng cũng như là điều khoản đảm bảo các bên thực hiện đúng trách nhiện và
nghĩa cụ của mình được quy định trong hợp đồng.
83
Thứ sáu, đối với các hợp đồng mua bán TBYT có yếu tố nước ngoài thì cần
phải quy định điều khoản về ngôn ngữ sử dụng, pháp luật điều chỉnh cũng như hình
thức giải quyết khi phát sinh tranh chấp.
* Một số điều khoản mẫu:
1. Điều kiện giao hàng:
a, Địa điểm giao hàng: Tại nơi sử dụng theo chỉ định của bên mua
Thời gian giao hàng:
Đối với …: …. ngày kể từ ngày nhận đủ tiền thanh toán đợt 1.
Đối với …: ….. ngày kể từ ngày nhận đủ tiền thanh toán đợt 1.
Việc giao hàng chỉ được thực hiện sau khi Bên mua đáp ứng các quy định
thanh toán tại điều khoản thanh toán của hợp đồng.
b, Khi giao hàng phải có Biên bản giao nhận hàng và được người có trách
nhiệm ký xác nhận về số lượng, chất lượng, quy cách, phẩm chất hàng hóa để làm
cơ sở cho việc thanh toán và thanh lý hợp đồng.
2. Chất lượng sản phẩm:
Bảo đảm các sản phẩm trên đúng xuất xứ, năm sản xuất, đạt chất lượng theo
đúng tiêu chuẩn quy định trên hợp đồng theo Điều 1 và hàng nhập mới 100%.
- Bên bán đảm bảo hàng hóa cung cấp cho bên mua là hàng mới 100%, chưa
qua sử dụng, không bị hư hỏng, móp méo, đáp ứng các tiêu chuẩn, nguồn gốc xuất
xứ theo đúng quy định tại điểm… của hợp đồng.
- Bên bán hoàn toàn chịu trách nhiệm khi hàng hóa bị mất mát, hư hỏng, móp
méo trong quá trình vận chuyển hàng hóa đến địa điểm giao hàng do bên mua chỉ
định.
84
3. Thanh toán
a, Bên mua thanh toán cho Bên bán bằng tiền mặt hoặc hình thức chuyển
khoản như sau (Phí chuyển khoản do bên mua chịu): Giao dịch từ 20 triệu đồng trở
lên có xuất hóa đơn phải thực hiện thanh tóa bằng chuyển khoản qua tài khoản ngân
hàng của công ty.
Đợt 1: Thanh toán ....% giá trị hợp đồng (tương đương .... VNĐ) trong
vòng 2 ngày sau khi ký hợp đồng.
Đợt 2: Thanh toán .....% giá trị hợp đồng (tương đương .... VNĐ) trước
khi nhận hàng 05 ngày và không quá 10 ngày kể từ ngày nhận được thông báo sẵn
sàng giao hàng của Bên bán
Đồng thời, Bên mua phải gửi cho Bên bán bảo lãnh thanh toán Đợt 3 tương
đương ..... VNĐ (Bằng chữ:……./.) trước khi giao hàng 05 ngày. Bảo lãnh thanh
toán Đợt 3 có hiệu lực trong vòng 60 ngày kể từ ngày chính thức được phát hành.
Bên mua phải gửi bản nháp bảo lãnh này cho Bên B xem trước, nội dung của bảo
lãnh phải được Bên bán chấp nhận trước khi phát hành bảo lãnh chính thức. Bên
mua gửi lại Giấy bảo lãnh chính thức cho Bên bán trước khi giao hàng 05 ngày. Nếu
Bên mua chậm trễ trong việc phát hành bảo lãnh mà không phải do lỗi của Bên bán,
Bên bán sẽ không chịu trách nhiệm bàn giao hàng hóa đúng tiến độ hợp đồng.
Trong trường hợp việc giao hàng không được thực hiện trong vòng 10 ngày
kể từ ngày phát hành bảo lãnh mà không phải do lỗi của Bên bán, Bên mua có trách
nhiệm gia hạn hiệu lực của Bảo Lãnh Thanh Toán. Thời gian gia hạn sẽ được xác
định cụ thể bằng văn bản giữa Bên mua và Bên bán. Bên bán có quyền yêu cầu Ngân
hàng thanh toán ngay các khoản tiền bảo lãnh thanh toán Đợt 3 theo Hợp Đồng này
nếu việc gia hạn bảo lãnh không được thực hiện trong vòng 15 ngày trước ngày bảo
85
lãnh hết hiệu lực và/hoặc trong trường Bên mua trễ hạn thanh toán Đợt 3 quá 10
ngày kể từ ngày đến hạn.
Đợt 3: Thanh toán ...% giá trị hợp đồng (tương đương …….VNĐ) trong
vòng 30 ngày kể từ ngày bên bán bàn giao và Bên mua nhận bàn giao thiết bị.
b, Khi Bên mua thanh toán tiền hàng theo các lần thanh toán, Bên bán có nghĩa
vụ ghi hoá đơn, chứng từ chứng nhận việc đã thanh toán của Bên mua theo qui định
của pháp luật.
4. Chuyển giao quyền sở hữu và rủi ro:
a, Quyền sở hữu của thiết bị vẫn thuộc về Bên bán cho đến khi Bên mua đã
thanh toán đầy đủ toàn bộ trị giá của Hợp đồng. Bên bán không chịu trách nhiệm
nếu có tranh chấp trong trường hợp Bên mua chuyển nhượng hoặc bán lại cho Bên
thứ ba mà Bên A vẫn chưa hoàn tất thanh toán cho Bên bán. Bên mua phải đảm bảo
thông báo cho Bên thứ ba (nếu có) mọi quyền lợi và nghĩa vụ thừa kế liên đới theo
hợp đồng này. Với việc thanh toán trị giá hợp đồng một cách đầy đủ, quyền sở hữu
của thiết bị sẽ được chuyển giao cho Bên mua ngay lập tức vào thời điểm việc thanh
toán này hoàn tất.
b, Ngay sau khi Bên mua ký biên bản bàn giao thiết bị, rủi ro về mọi mất mát
hư hỏng của thiết bị mà không phải do lỗi của Bên bán sẽ chuyển sang cho Bên mua
và Bên mya có trách nhiệm phải thanh toán toàn bộ chi phí phát sinh liên quan đến
việc sửa chữa thay thế linh kiện để thiết bị có thể hoạt động lại bình thường.
86
Tiểu kết Chương 3
Trên cơ sở hệ thống lý luận được phân tích và khái quát trong Chương 1 kết
hợp với kết quả phân tích đánh giá về thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện hợp
đồng mua bán TBYT ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt là những bất cập, hạn chế trong
quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng trên thực tế. Tác giả đã chỉ ra 02 định hướng
hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT là :
- Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng phải đảm bảo phù hợp với đặc trưng của
nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT đảm bảo tối đa quyền tự
do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh
Đồng thời, Tác giả cũng đề xuất các giải pháp chung và cụ thể nhằm hoàn
thiện các quy định của pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thực hiện hợp đồng
mua bán TBYT. Trong đó, tác giả đã nghiên cứu xây dựng và đưa ra một số điều
khoản mẫu mang tính chất tham khảo trong hợp đồng mua bán TBYT tuân thủ chặt
chẽ các quy định của pháp luật.
87
KẾT LUẬN
Thông qua việc hệ thống hóa các khái niệm, nghiên cứu, phân tích các quy
định của pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT, tác giả nhận thấy đây là một trong
những loại hợp đồng mua bán hàng hóa đặc thù và hết sức phức tạp và tiềm ẩn nhiều
rủi ro pháp lý. Việc thực hiện hiệu quả pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT có ý
nghĩa rất lớn trong việc phát triển kinh tế đất nước và cực kì quan trọng đối với
ngành y tế. Chính vì vậy, các chủ thể khi tham gia vảo hợp đồng mua bán TBYT cần
phải hiểu rõ, đầy đủ các quy định của pháp luật về các điều kiện về chủ thể, đối
tượng, hình thức, nội dung của hợp đồng nhằm hạn chế tối đa các rủi ro phát sinh,
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia giao kết và thực hiện
hợp đồng. Trên cơ sở hệ thống lý luận song song với việc đánh giá thực tiễn, tác giả
đã giải quyết một số vấn đề sau:
- Thông qua việc đánh giá tổng quan nghiên cứu của các tác giả, tổng hợp các
kết quả, đưa ra những nhận xét, đánh giá về những hạn chế, bất cập của các quy định
pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT;
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực trạng các quy định của pháp luật
về hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và hợp đồng mua bán TBYT nói riêng;
- Trên cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật, luận văn đã đi sâu vào phân tích
thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT nhằm đánh giá những tồn
tại, hạn chế từ các quy định của pháp luật cũng như các chủ thể tham gia quan hệ
hợp đồng. Từ đó, đề xuất một số giải pháp chung và cụ thể nhằm hoàn thiện hệ thống
pháp luật về hợp đồng mua bán TBYT và nâng cao hiệu quả của việc thực hiện pháp
luật về hợp đồng mua bán TBYT.
88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Đoàn Quý Bình (2019), Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp
luật việt nam từ thực tiễn các công ty chế biến than thuộc tập đoàn than khoáng sản
việt nam (tkv), Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Chính phủ (2018), Nghị định 169/2018/NĐ-CP
3. Chính phủ (2016), Nghị định 36/2016/NĐ-CP
4. Chính phủ (2019), Nghị định 55/2019/NĐ-CP
5. Dương Việt Dũng (2014), Hợp đồng mua bán nhà ở xã hội theo pháp luật
Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Trường đại học Quốc Gia Hà
Nội, Hà Nội.
6. Trương Thị Thùy Dương (2018), Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp
luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường đại học Luật- Trường đại học
Huế, Huế.
7. Nguyễn Minh Hằng (2019), Khác biệt giữa CISG và Luật Thương mại,
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam;
8. Hội đồng Nhà nước (1991), Pháo lệnh hợp đồng dân sự
9. Đinh Thị Thanh Huyền (2007), Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
theo pháp luật Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Trường
đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.
10. Thiên Lam (2019), Tránh thổi giá, tiêu cực trong mua sắm đấu thầu, Báo
điện tử nhân dân – nhandan.com.vn
11. Trương Thị Hồng Linh (2018), Hoàn thiện công tác quản lý TBYT tại bệnh
viện đa khoa tỉnh Quảng Trị, Luận văn Thạc sĩ Khoa học kinh tế, Trường đại học
Kinh tế - Đại học Huế, Huế.
12. Hoàng Phê (2003), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
13. Quốc hội (2015), BLDS 2015
89
14. Quốc hội (2005), LTM 2005
15. Ngô Thị Kiểu Trang (2014), Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo
pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Trường đại học Quốc
Gia Hà Nội, Hà Nội.
16. Bùi Thị Bích Trâm (2014), Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu và hậu
quả phát sinh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Trường đại học Quốc Gia
Hà Nội, Hà Nội.
17. Lê Công Vượng (2016), Đấu thầu mua sắm thiết bị y tế theo pháp luật Việt
Nam hiện nay từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Viện
Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
II. Tài liệu tiếng nước ngoài
18. Acmite Market Intelligence (2014), Market Report: World Medical
Devices Market
19. Aquinas, St Thomas. Summa Theologica. 1a2ae, 90.4. Translated by J G
Dawson. Ed d'Entreves. (Basil Blackwell). Latin: "nihil est aliud qau edam rationis
ordinatio ad bonum commune, ab eo qi curam communitatis habet, promulgata"
20. Campbell, The Contribution of Legal Studies
21. Frederick Engels (2018), Kapital, p. 1
22. Luban (2005), Law's Blindfold
23. Ryan, Fergus (2006). Round Hall nutshells Contract Law. Thomson
Round Hall. p. 1
24. Wong, Jack; Kaiyu, Raymond Tong (2013-03-27). Handbook of Medical
Device Regulatory Affairs in Asia