Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay
lượt xem 28
download
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế "Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay" trình bày các nội dung chính sau: Khái quát về bảo hiểm tài sản và pháp luật bảo hiểm tài sản; Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo hiểm tài sản hiện nay; Kiến nghị và giải pháp góp phần hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về bảo hiểm tài sản.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- PHẠM THỊ VIỆT BẢO HIỂM TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội, năm 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- PHẠM THỊ VIỆT BẢO HIỂM TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380107 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS NGUYỄN VĂN VÂN Hà Nội, năm 2021
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Với quá trình vận động kinh tế thị trường, mỗi thành viên trong xã hội luôn cố gắng làm việc để hướng tới những giá trị về vật chất lẫn tinh thần, đó là kết quả của quá trình lao động, làm việc và không ngừng học hỏi, tạo ra của cải vật chất để duy trì sự tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, đối với mọi người luôn thường trực đối diện trước nguy cơ rủi ro là những sự kiện xảy ra một cách bất ngờ ngoài dự kiến, nên để duy trì cuộc sống ổn định và vững vàng vượt qua mọi khó khăn, con người cần có quỹ tài chính đủ lớn để kịp thời bù đắp được đầy đủ hoặc một phần thiệt hại từ các sự cố gây ra, nhanh chóng khôi phục cuộc sống, sản xuất kinh doanh. Do đó, nhu cầu về sự an toàn tài chính được đặt ra như một tất yếu, khách quan trong cuộc sống, tạo tiền đề cho sự ra đời, tồn tại, phát triển của hệ thống bảo hiểm nói chung và bảo hiểm tài sản nói riêng. Khi mua bảo hiểm cho tài sản của mình, đối ứng với nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm luôn được hưởng những quyền lợi tương xứng được pháp luật thừa nhận, bảo vệ, trong đó quan trọng nhất là khôi phục một cách nhanh chóng tình trạng tài chính của mình khi tài sản bảo hiểm bị tổn thất. Do đó người mua bảo hiểm có thể vừa an tâm sản xuất, kinh doanh để khai thác lợi ích kinh tế từ tài sản của mình, vừa được DNBH đứng ra cam kết gánh chịu toàn bộ hoặc một phần tổn thất để san sẻ gánh nặng tài chính khi xảy ra các rủi ro với họ. Hiện nay, BHTS là những nghiệp vụ có đóng góp doanh thu lớn và quan trọng cho các DNBH phi nhân thọ. Hoạt động BHTS ra đời có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế đất nước, góp phần ổn định thị trường, ổn định xã hội, qua đó thể hiện những giá trị nhân văn cao đẹp, phát huy truyền thống đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau của dân tộc ta. Tuy nhiên, DNBH với vị trí là trung gian tài chính, là chủ thể kinh doanh chuyên nghiệp trong lĩnh vực bảo hiểm, còn BMBH có thể là các tổ chức kinh tế, cũng có thể là những cá nhân và đều không có nhiều hoặc không hiểu rõ kiến thức chuyên môn so với DNBH. Vì nắm giữ tài sản, đối mặt với nhiều rủi ro có thể xảy ra, chủ thể mua
- bảo hiểm tìm đến các DNBH nhằm mục đích muốn bảo vệ tài sản của mình khỏi những rủi ro có thể phát sinh trong đời sống và hoạt động kinh doanh khác. Mặt khác, BHTS cũng là một lĩnh vực có rất nhiều quy định phức tạp và không rõ ràng, nếu doanh nghiệp và người tham gia bảo hiểm không nắm rõ sẽ rất khó đạt được mục đích đó. Chính vì vậy, trong giao dịch BHTS sẽ có rất nhiều rủi ro nhưng trên thực tế bên mua luôn là bên phải chịu nhiều rủi ro hơn các DNBH. Bởi vậy, cần phải có một thị trường BHTS vững mạnh với những quan hệ bảo hiểm bình đẳng, cùng có lợi giữa các chủ thể tham gia vào hoạt động kinh doanh BHTS. Trên cơ sở đó, hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ phát sinh trong lĩnh vực BHTS luôn được Đảng và Nhà nước chú trọng, từng bước xây dựng. Tuy nhiên, BHTS xuất hiện ở Việt Nam khá muộn, đồng thời hệ thống pháp luật về BHTS vẫn đang trong quá trình củng cố, hoàn thiện nên chưa thể điều chỉnh hiệu quả các quan hệ BHTS hiện nay. Lợi dụng kẽ hở pháp luật, một số đối tượng đã tiến hành trục lợi bảo hiểm, loại bỏ các quyền lợi chính đáng mà bên tham gia BHTS đáng được hưởng, từ chối bồi thường bảo hiểm, chậm tiến hành việc thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm,… gây ra nhiều vấn nạn nhức nhối trong xã hội, vi phạm nghiêm trọng pháp luật và đạo đức xã hội. Mặt khác, bởi sự lỏng lẻo, chưa hoàn thiện của pháp luật đã dẫn đến tình trạng các bên tham gia quan hệ BHTS, kể cả cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan tài phán không nhận thức đúng, tuân thủ đúng các quy định pháp luật BHTS, việc xây dựng ban hành các văn bản quy tắc bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm không chính xác dẫn đến xâm phạm quyền lợi của bên được bảo hiểm và phát sinh nhiều tranh chấp phức tạp. Nếu thực trạng này cứ kéo dài thì BHTS sẽ mất đi ý nghĩa vốn có ban đầu của nó và sẽ không còn ai dám đặt lòng tin vào BHTS, các DNBH sẽ mất đi nguồn lợi nhuận lớn từ việc kinh doanh bảo hiểm. Chính vì vậy, việc bảo vệ các chủ thể tham gia bảo hiểm không những là một cách để duy trì niềm tin đối với ngành bảo hiểm mà còn tác động đảm bảo sự ổn định của xã hội. Ở Việt Nam trong thời gian qua, quan hệ pháp luật về bảo hiểm nói chung và hoạt động BHTS nói riêng là đề tài được các nhà nghiên cứu, nhà thực tiễn hết sức quan tâm. Trong khoa học pháp lý, đã có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu, có 2
- giá trị học thuật cao nhưng vẫn chưa giải quyết triệt để những bất cập phát sinh đặc biệt là các bất cập phát sinh trong thời gian gần đây. Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy, tác giả chọn đề tài: “Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ của mình với mục đích tìm hiểu các quy định pháp luật hiện hành về BHTS, góp phần đảm bảo niềm tin đối với các cá nhân, tổ chức mong muốn tham gia vào quan hệ BHTS ở Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong lĩnh vực nghiên cứu ở nước ta những năm gần đây, vấn đề về kinh doanh bảo hiểm nói chung và bảo hiểm tài sản nói riêng không còn là đề tài mới, bước đầu được các nhà nghiên cứu, nhà hoạt động thực tiễn trong nước quan tâm nghiên cứu ở các quy mô khác nhau. Đối với lĩnh vực bảo hiểm nói chung một số công trình nghiên cứu tiêu biểu phải kể đến như: - Trung tâm nghiên cứu và đào tạo bảo hiểm, Cục quản lý giám sát bảo hiểm (27/09/2016), Đề án nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của thị trường bảo hiểm Việt Nam đến năm 2020, Bộ Tài Chính. Đề án đã đưa ra yêu cầu đối với phát triển nguồn nhân lực bảo hiểm trong công tác tuyển chọn, đào tạo nâng cao trình độ nhân lực phải đáp ứng yêu cầu về chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa, phù hợp với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của thị trường bảo. Đồng thời, đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, hoàn thiện chương trình và công tác đào tạo; phương pháp kiểm tra, sát hạch và cấp chứng chỉ đào tạo; công tác kiểm tra, giám sát đánh giá với những lộ trình thực hiện phù hợp với từng thời kỳ. - Phạm Văn Tuyết (2007) Bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật bảo hiểm tại Việt Nam, NXB Tư pháp. Đây là sách viết chuyên sâu về hoạt động bảo hiểm tại Việt Nam, đưa ra các vấn đề pháp lý cơ bản cần nắm rõ trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật nước ta, giúp người đọc có cái nhìn chung nhất về bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm, tuy nhiên công trình chưa nghiên cứu sâu về pháp luật BHTS. 3
- Đi sâu vào hoạt động BHTS tại Việt Nam, đã có nhiều chuyên gia, nhà khoa học, nhà nghiên cứu quan tâm và đóng góp công sức bằng các công trình nghiên cứu khoa học nổi bật, tác giả xin dẫn chiếu một số công trình cụ thể như sau: - Tiến sĩ Nguyễn Thị Thủy (2012) Pháp luật bảo hiểm tài sản tại Việt Nam, NXB Thanh Niên. Đây là cuốn sách chuyên khảo đề cập đến vấn đề bản chất của BHTS và các quy định điều chỉnh quan hệ BHTS để bổ sung các kiến thức pháp lý cơ bản và cần thiết trong quá trình tham gia mua bảo hiểm cho tài sản, nguồn tài liệu tham khảo phục vụ cho quá trình học tập nghiên cứu về lĩnh vực BHTS tại Việt Nam. - Tiến sĩ Nguyễn Thị Thủy (2009) Xây dựng và phát triển pháp luật bảo hiểm tài sản tại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Đại học Luật TP Hồ Chí Minh. Luận án đã làm rõ những vấn đề chung nhất về hệ thống pháp luật BHTS thông qua việc phân tích các vấn đề lý luận về cơ sở hình thành BHTS, nội hàm khái niệm pháp luật bảo hiểm tài sản,… Từ đó đánh giá hiệu quả, hạn chế và nguyên nhân về hoạt động BHTS ở nước ta thông qua thực tiễn áp dụng để làm nổi bật vai trò quan trọng của việc xây dựng hệ thống pháp luật BHTS ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, luận án còn đề cập những kiến nghị, giải pháp để hoàn thiện hơn các văn bản pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về BHTS, là đóng góp quan trọng cho việc xây dựng, củng cố hoàn thiện và phát triển hệ thống pháp luật BHTS. - Hồ Thị Hồng Huệ (2019) Hợp đồng bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam, qua thực tiễn Quảng Trị, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Đại học Huế. Đề tài triển khai một cách khái quát về hợp đồng BHTS qua việc phân tích khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của loại hình hợp đồng này, khái quát một số nội dung cơ bản cần được các bên tham gia thỏa thuận, đề cập trong hợp đồng BHTS. Qua đó, luận văn so sánh, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng BHTS và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Trị; đưa ra các định hướng, giải pháp hoàn thiện, thực thi pháp luật về hợp đồng BHTS tại Việt Nam nói chung và ở tỉnh Quảng Trị nói riêng. - Trần Phước Thu (2014) Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội. Luận văn đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng BHTS theo quy định pháp luật, từ đó đối chiếu và phân tích thực trạng của quá trình áp dụng, triển khai các quy định của hệ thống pháp 4
- luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng BHTS tại Việt Nam. Qua những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế này, tác giả đã đưa ra các kiến nghị và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về hợp đồng BHTS ở nước ta. - Lê Hồng Thạch Thảo (2019) Cơ chế pháp lý ngăn ngừa trục lợi trong bảo hiểm tài sản, Luận văn thạc sĩ Luật Kinh tế, Đại học Luật TP Hồ Chí Minh. Luận văn đã hệ thống hóa các đặc trưng cơ bản, chức năng của BHTS, phân tích dấu hiệu, bản chất của hành vi trục lợi bảo hiểm từ đó nghiên cứu các quy định về cơ chế pháp lý ngăn ngừa hành vi trục lợi trong BHTS và thực trạng áp dụng để kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh doanh BHTS tại Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu, các bài viết này đều có phạm vi nghiên cứu bao quát, chưa nghiên cứu sâu về một số khía cạnh trong lĩnh vực BHTS như quy định hiện hành về chủ thể tiến hành kinh doanh BHTS, tài sản nào có thể được xem là đối tượng bảo hiểm,… Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu chỉ mang tính chất áp dụng ở một số địa phương cụ thể, bởi mỗi địa phương có một tính chất đặc trưng riêng, vấn đề nghiên cứu cần mang tính toàn diện, hệ thống xuất phát từ thực tiễn chung sâu rộng. Tuy vậy, kế thừa các nội dung lý luận cơ bản, nội dung nghiên cứu áp dụng pháp luật được đề cập ở các công trình nói trên và tiếp tục làm sáng tỏ các vấn đề còn bỏ ngõ, đây là các tài liệu rất quý giá cho người viết hoàn thành bài luận văn thạc sĩ của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Qua quá trình nghiên cứu, thực hiện, luận văn hướng đến mục đích: Thứ nhất, kế thừa và củng cố cơ sở lý luận của BHTS và pháp luật về BHTS; Thứ hai, nhận diện cơ chế pháp lý điều chỉnh hoạt động BHTS theo pháp luật Việt Nam; Thứ ba, kết luận về thực trạng áp dụng pháp luật về BHTS; Thứ tư, nghiên cứu đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về BHTS và nghiên cứu xây dựng các giải pháp pháp lý để thực hiện hiệu quả pháp luật BHTS trong thực tế. 5
- Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tác giả cần phải thực hiện và hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Tiếp cận, kế thừa các lý thuyết về bảo hiểm, nguyên tắc BHTS, nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật quan hệ BHTS để xác định khái niệm, đặc điểm và nội dung cơ bản của pháp luật BHTS. - Phân tích các quy định pháp luật hiện hành, các bản quy tắc bảo hiểm để xác định tư cách chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng BHTS, thời điểm phát sinh trách nhiệm của DNBH trong BHTS; số tiền bảo hiểm trong BHTS; đối tượng, phạm vi và sự kiện bảo hiểm; trách nhiệm giám định tổn thất và bồi thường theo hợp đồng BHTS; quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp luật BHTS. - Thông qua phương pháp nghiên cứu so sánh luật học để nhận diện sự khác biệt và tương đồng giữa pháp luật BHTS và bảo hiểm con người, giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài về BHTS. - Khảo sát thực tiễn áp dụng pháp luật về BHTS tại các công ty bảo hiểm phi nhân thọ và nghiên cứu các vụ việc, tình huống, hồ sơ, bản án để kết luận về thực tiễn áp dụng pháp luật BHTS đồng thời nhận diện các điểm ưu việt, khiếm khuyết, bất cập của pháp luật Việt Nam hiện hành về BHTS. - Đề xuất và đánh giá tác động các giải pháp pháp lý và khuyến nghị về thời điểm giao kết hợp đồng và thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm, về giá trị hợp đồng, phạm vi bảo hiểm, sự kiện bảo hiểm, các trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm và bồi thường khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam về bảo hiểm tài sản, các bản quy tắc bảo hiểm, điều khoản, điều kiện bảo hiểm và hồ sơ vụ việc, bản án về BHTS. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài này là các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về BHTS theo pháp luật Việt Nam, những nội dung kinh tế - tài chính 6
- và nghiệp vụ bảo hiểm tài sản không thuộc phạm vi nghiên cứu mà chỉ là các kiến thức cơ sở hoặc bổ trợ để học viên nghiên cứu BHTS dưới khía cạnh pháp lý. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận phép biện chứng duy vật cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước liên quan đến kinh doanh bảo hiểm chung và hoạt động kinh doanh bảo hiểm tài sản ở nước ta hiện nay. Để thực hiện Luận văn Thạc sĩ, tác giả đã sử dụng đồng bộ các phương pháp nghiên cứu khoa học, cụ thể: - Phương pháp phân tích: đây là phương pháp quan trọng được áp dụng xuyên suốt trong bài viết, thông qua việc phân tích các quy định của luật thực định về khái niệm BHTS, quy tắc bảo hiểm, trách nhiệm bồi thường của DNBH trong BHTS; đối tượng, phạm vi và sự kiện bảo hiểm; quyền, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp luật BHTS và những quy định khác có liên quan đến tên đề tài để xác định khái niệm, đặc điểm và các nội dung cơ bản, làm sáng tỏ cơ sở lý luận của pháp luật về BHTS. Từ đó, người viết phân tích các tình huống, bản án của Tòa án để chứng minh những hạn chế của thực trạng pháp luật và đi sâu vào thực tiễn thi hành pháp luật về BHTS tại Việt Nam hiện nay. - Phương pháp tổng hợp: phương pháp được sử dụng đồng bộ, xuyên suốt trong quá trình trình bày Luận văn để tổng hợp các quan điểm khác nhau xung quanh những khái niệm, các văn bản, quy định có liên quan đến BHTS, từ đó đưa ra đánh giá toàn diện, tổng quan, hoàn chỉnh hơn về mặt lý luận đối với đề tài nghiên cứu. - Phương pháp so sánh luật học: phương pháp được áp dụng phổ biến trong quá trình phân tích, đối chiếu các quy định pháp luật ở các văn khác nhau trong hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ bảo hiểm và quan hệ BHTS ở Việt Nam qua các thời kỳ, phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở Chương 2 của Luận văn. - Phương pháp diễn giải quy nạp: thể hiện qua việc diễn giải các số liệu, các nội dung pháp luật và tư liệu được trích dẫn, từ đó đi sâu hơn vào bản chất của BHTS, đưa ra những nhận định tổng quan hệ thống quy định về BHTS tại Việt Nam hiện 7
- nay, góp phần làm rõ các vấn đề thực trạng pháp luật liên quan đến tên đề tài. Phương pháp này được triển khai đồng bộ trong tất cả các chương của Luận văn. - Phương pháp logic: được tác giả áp dụng chủ yếu trong Chương 1, Chương 2 của Luận văn để nhận rõ các bộ phận, nội dung lý thuyết cơ bản, yếu tố cấu thành của quan hệ pháp luật BHTS và sự phát triển của hệ thống pháp luật BHTS ở Việt Nam hiện nay, phản ánh thực trạng áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Đề tài “Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay” là một nghiên cứu pháp luật về BHTS, làm sáng tỏ một số khía cạnh lý luận cơ bản về BHTS như khái niệm BHTS, các quy định pháp luật về đối tượng bảo hiểm, sự kiện bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia,… Qua đó, khảo sát thực trạng áp dụng pháp luật về hoạt động BHTS tại Việt Nam, từ những hạn chế còn tồn đọng đưa ra các giải pháp, đề xuất hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực thi các quy định về BHTS. 7. Kết cấu của luận văn Bài nghiên cứu được thiết kế gồm 03 phần lớn: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Ngoài ra, còn có các nội dung khác như: Danh mục từ viết tắt, Mục lục, Danh mục tài liệu tham khảo,… Trong đó, phần nội dung được thiết kế làm 03 chương, cụ thể: Chương 1. Khái quát về bảo hiểm tài sản và pháp luật bảo hiểm tài sản. Chương 2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo hiểm tài sản hiện nay. Chương 3. Kiến nghị và giải pháp góp phần hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về bảo hiểm tài sản. 8
- Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM TÀI SẢN VÀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM TÀI SẢN Với những đặc thù riêng biệt và vai trò bảo vệ quyền lợi tài chính của chủ thể tham gia, BHTS đóng góp không nhỏ vào quá trình phát triển kinh tế xã hội, do đó Nhà nước thực hiện vai trò quản lý xã hội thông qua phương thức xây dựng hệ thống quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ BHTS là cần thiết, mang tính tất yếu. 1.1. Khái quát về bảo hiểm tài sản 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm tài sản Theo các tài liệu nghiên cứu, nguồn gốc của BHTS được cho rằng xuất phát từ trận đại hỏa hoạn lịch sử ở Luân Đôn vào năm 1666 khi đã nuốt chửng hơn 13.000 ngôi nhà dẫn đến các hậu quả tàn khốc. Nhận được tính cấp bách về sự phát triển của BHTS, những nhà kinh doanh ở nước Anh đã nghĩ ra việc cộng đồng chia sẻ rủi ro hoả hoạn bằng cách đứng ra thành lập những Công ty bảo hiểm hoả hoạn mang đến các lợi ích kinh tế lớn và là sự khởi nguồn cho nhiều công ty tương tự được thành lập trong những thập kỷ sau đó. BHTS được hình thành sớm trên thế giới và là một lĩnh vực khá phức tạp. Tuy nhiên, ở Việt Nam, cho đến khi Chính phủ ban hành Nghị định số 100/CP ngày 18/12/1993 về kinh doanh bảo hiểm thì thị trường bảo hiểm mới khởi sắc và đánh dấu sự ra đời của pháp luật về BHTS. Ra đời từ nhu cầu khách quan về quyền được bảo vệ, giúp đỡ, chia sẻ hoạn nạn khi rủi ro, tổn thất xảy ra trong đời sống kinh tế xã hội, nhưng đến nay, trong hệ thống quy định pháp luật nước ta chưa có quy định pháp luật nào đề cập rõ đến khái niệm BHTS. Về khái niệm bảo hiểm, theo Dennis Kessler - Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm giám đốc điều hành Công ty tái bảo hiểm SCOR SE, thì “Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít”. Trong “Giáo trình đào tạo bảo hiểm phi nhân thọ” của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, NXB Tài chính, 2004, thì “bảo hiểm là biện pháp chia sẽ rủi ro của một người hay một số ít người cho cả cộng đồng những người có khả năng gặp rủi ro cùng loại, bằng cách mỗi người trong cộng đồng góp một số tiền nhất định vào một quỹ chung và từ quỹ chung đó bù đắp thiệt hại cho những thành viên trong cộng đồng không may bị thiệt hại do những rủi ro đó gây ra”. 9
- Mỗi quan niệm trên đều thể hiện các góc nhìn khác nhau về bảo hiểm, tuy nhiên dù cho định nghĩa như thế nào thì bảo hiểm vẫn mang đặc trưng là hoạt động chuyển đổi, chia sẻ thiệt hại do rủi ro gây ra từ người mua bảo hiểm sang DNBH khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Những rủi ro này thường là sự kiện khách quan, xảy ra ngoài dự đoán và khả năng kiểm soát của con người, có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến những gì mà họ muốn bảo vệ. Quá trình không ngừng học hỏi, sáng tạo, đổi mới tư duy và hăng say lao động của con người luôn tạo ra những của cải vật chất, tài sản mang những giá trị nhất định. Dưới góc độ của pháp luật, tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm động sản và bất động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai. Khi nắm giữ những tài sản này, chủ sở hữu luôn có ý thức bảo vệ và tìm tới các biện pháp bảo đảm an toàn những gì mình đang sở hữu, sử dụng. Với tư cách là một trong các loại hình bảo hiểm, BHTS giúp cho người tham gia đáp ứng nhu cầu thiết yếu này, đồng thời đây là cách chủ sở hữu tài sản vừa có thể khai thác sử dụng mà vẫn đảm bảo an toàn về tài chính cho dù xảy ra các mất mát, tổn hại từ rủi ro khách quan. Dưới góc độ kinh tế, BHTS đóng vai trò là một hoạt động kinh doanh dịch vụ tài chính, là phương thức huy động vốn mang lại hiệu quả cao cho chủ thể kinh doanh. Dưới vai trò xã hội, BHTS đóng góp không ít vào ngân sách nhà nước, tạo ra cơ hội việc làm và ổn định tài chính cho con người. Do đó, không chỉ là công cụ để xử lý và giảm thiểu rủi ro, bảo vệ BMBH mà BHTS còn mang tính thương mại rất cao, luôn đặt mục đích lợi nhuận là ưu tiên hàng đầu, thực hiện bằng một chuỗi kết nối giữa các bên tham gia thông qua quyền lợi và nghĩa vụ nhất định, trong đó DNBH chấp nhận các rủi ro từ tài sản để đổi lại việc thu được khoản phí từ các chủ thể tham gia và chi trả tiền bảo hiểm giúp người bị thiệt hại có thể nhanh chóng khôi phục lại cuộc sống và sản xuất kinh doanh. Như vậy, có thể hiểu bảo hiểm tài sản là lĩnh vực dịch vụ tài chính, hướng đến mục tiêu khắc phục các thiệt hại, tổn thất xảy ra đối với tài sản của người tham gia bảo hiểm, hình thành cơ sở DNBH thu phí bảo hiểm của BMBH và cam kết bồi thường cho bên được bảo hiểm khi xảy ra tổn thất đối với tài sản do rủi ro trong phạm vi bảo hiểm gây ra. 10
- 1.1.2. Ý nghĩa và vai trò của bảo hiểm tài sản Hoạt động kinh doanh BHTS ngày càng được mở rộng với các loại hình nghiệp vụ khác nhau để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu về tài chính, đảm bảo ổn định đời sống cho người tham gia, mang ý nghĩa và vai trò quan trọng không chỉ đối với các chủ thể mà còn tác động không nhỏ đến quá trình phát triển đất nước, an sinh xã hội. Một là, BHTS phát huy vai trò là công cụ chuyển dịch rủi ro, san sẻ tổn thất để bảo vệ người được bảo hiểm. Trong BHTS, người mua bảo hiểm có nghĩa vụ tiến hành chi trả một khoản phí bảo hiểm xác định để đóng góp vào quỹ BHTS, đổi lại họ có các quyền lợi chính đáng được pháp luật công nhận, trong đó, quyền được bảo vệ khi xảy ra các tổn thất là quyền cơ bản, quan trọng nhất, là mục đích BMBH hướng tới khi xác lập giao dịch bảo hiểm. Mặt khác, thông qua hợp đồng bảo hiểm, DNBH sẽ cam kết gánh vác tổn thất thay cho người bị thiệt hại do rủi ro trong phạm vi bảo hiểm gây ra. Số tiền bồi thường mà DNBH dùng để chi trả được trích từ một phần của quỹ bảo hiểm, nguồn đóng góp của cộng đồng tham gia BHTS, do các tổ chức này đại diện đứng ra quản lý. Như vậy, khi tham gia BHTS, quyền lợi tài chính của BMBH được chú trọng đảm bảo, qua đó trách nhiệm bồi thường của DNBH như một hình thức san sẻ để bảo vệ người được bảo hiểm, thể hiện sức mạnh của cộng đồng giúp đỡ những người không may mắn gặp rủi ro và gánh chịu tổn thất. Hai là, BHTS giúp người tham gia bảo hiểm ổn định đời sống và hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông qua tham gia mua bảo hiểm cho tài sản, BMBH vừa được sử dụng, khai thác tài sản phục vụ sản xuất, kinh doanh hằng ngày vừa được an tâm về tình trạng tài sản dù rủi ro có thể xảy ra một cách bất ngờ. Khi phát sinh thiệt hại từ sự cố được ghi nhận trong hợp đồng bảo hiểm, DNBH thực hiện trách nhiệm bảo hiểm để bảo toàn trọn vẹn hoặc được kịp thời bù đắp một phần tổn thất, nhanh chóng khôi phục lại tình trạng tài sản, hoạt động sản xuất, kinh doanh của BMBH. Nếu không tham gia BHTS, khi rơi vào những rủi ro bất ngờ, họ tự đối mặt với những sụt giảm về giá trị của tài sản, hao tốn một khoản chi phí và thời gian để khắc phục sự cố xảy ra, tiếp tục cuộc sống. Chính vì vậy, hoạt động BHTS được tiến hành nhằm mục đích khắc 11
- phục rủi ro, hạn chế tổn thất, giảm thiểu thiệt hại vật chất cho xã hội, góp phần ổn định đời sống và hoạt động sản xuất kinh doanh của người tham gia. Ba là, BHTS là công cụ huy động vốn tối ưu trong xã hội. DNBH là một trong các tổ chức trung gian tài chính tại Việt Nam, thông qua hoạt động kinh doanh bảo hiểm, các doanh nghiệp này thu các khoản phí bảo hiểm từ người mua và tạo lập quỹ bảo hiểm chung cho cộng đồng tham gia BHTS do các tổ chức này đứng ra đại diện quản lý. Số tiền bồi thường chỉ chi trả khi BMBH xảy ra rủi ro, cho nên từ thời điểm thu phí đến khi bồi thường là một khoảng thời gian ngắt quãng để tiếp tục thực hiện trách nhiệm của DNBH, đồng thời sự tương quan giữa số người tham gia đóng phí và người được nhận tiền bảo hiểm đã giúp các tổ chức này huy động được một nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Từ đó, DNBH có thể dẫn vốn từ người có vốn đến người có nhu cầu sử dụng vốn, sử dụng phần quỹ nằm ngoài các khoản chi phí dự phòng để tiến hành đầu tư vào các ngành, nghề, lĩnh vực khác, tăng nhu cầu về sử dụng lao động, thúc đẩy sự lưu thông và phát triển của thị trường, tạo ra các động lực phát triển xã hội, đóng góp không nhỏ vào công cuộc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 1.1.3. Nguyên tắc bảo hiểm tài sản Cùng với quá trình vận động kinh tế thị trường, hoạt động bảo hiểm dần từng bước hình thành và phát triển mạnh mẽ với nhiều loại hình bảo hiểm khác nhau. Trong đó, với mức độ phổ biến, sự đa dạng về hình thức, BHTS đang được sự quan tâm của nhiều cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động thương mại. Không chỉ mang bản chất chung của bảo hiểm, BHTS còn mang những đặc trưng riêng, được vận hành và hoạt động bởi các nguyên tắc cơ bản sau: Thứ nhất, BHTS đảm bảo thực hiện nguyên tắc số đông. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất của bảo hiểm. Bởi lẽ, BHTS là một nghiệp vụ bảo hiểm nên cũng mang bản chất được tạo ra từ sự tập hợp được nhiều cá nhân, tổ chức có cùng khả năng rủi ro, nhu cầu bảo vệ lập thành một cộng đồng để chia sẻ hậu quả tài chính từ các tổn thất gây ra, đây chính là “sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít”, tạo ra một quỹ bảo hiểm nhất định, trong đó DNBH với tư cách là người tập hợp và quản lý quỹ bảo hiểm để đứng ra thực hiện trách nhiệm chia sẻ rủi 12
- ro cho người bị tổn thất. Bên cạnh đó, dựa vào số lượng người tham gia, DNBH tiến hành nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, đưa ra dự đoán về xác suất rủi ro có thể xảy ra trong thực tế. Đây là cơ sở khoa học vô cùng quan trọng để các bên đưa ra các nhận định sự cố có thể gánh vác được, cung cấp các sản phẩm BHTS và xác định mức phí bảo hiểm phù hợp, quản lý quỹ BHTS với các khoản dự phòng chi trả cho người mua bảo hiểm nếu phát sinh rủi ro. Thứ hai, các bên tham gia BHTS phải đảm bảo thực hiện nguyên tắc trung thực. Hợp đồng BHTS là một loại hình giao dịch dân sự nên phải đảm bảo được xác lập bởi sự thống nhất các thỏa thuận và thực hiện qua cơ sở tin tưởng lẫn nhau. Thực chất, BMBH chỉ tìm đến DNBH khi có nhu cầu được bảo vệ lợi ích tài chính từ tài sản của mình, nên trước khi mua bảo hiểm các chủ thể này ít có cơ hội để hiểu biết nhau, do đó trong BHTS đòi hỏi phải đảm bảo nguyên tắc trung thực một cách tuyệt đối. Đối với BMBH, nguyên tắc này được thể hiện bằng trách nhiệm khai báo đầy đủ, chính xác các thông tin có liên quan đến đối tượng bảo hiểm và quá trình thực hiện hợp đồng. Đối với DNBH, pháp luật yêu cầu tổ chức này có trách nhiệm trung thực trong việc cung cấp thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, giải đáp thắc mắc để khách hàng có sự lựa chọn phù hợp với nhu cầu, điều kiện của họ, tránh tình trạng hiểu sai về loại hình bảo hiểm cung cấp. Phạm vi của nguyên tắc trung thực được áp dụng cho cả DNBH và BMBH, không chỉ ràng buộc trách nhiệm của các chủ thể tham gia mà còn giúp giảm chi phí đánh giá rủi ro. Trường hợp xảy ra gian dối trong quá trình xác lập và thực hiện giao dịch BHTS có thể dẫn đến hậu quả một bên đình chỉ thực hiện hợp đồng, bên cố ý cung cấp sai thông tin phải bồi thường thiệt hại phát sinh do lỗi của mình gây ra và một số hậu quả pháp lý không mong muốn khác. Thứ ba, đảm bảo nguyên tắc thế quyền trong BHTS. Đây là nguyên tắc được áp dụng khi phát sinh sự kiện bảo hiểm dẫn đến tổn thất xuất phát từ lỗi của bên thứ ba gây ra. DNBH chỉ thực hiện trách nhiệm gánh vác thay rủi ro cho người được bảo hiểm, do đó khi phát sinh thiệt hại không phải xảy ra từ các rủi ro trong tự nhiên mà nguyên nhân từ lỗi của một chủ thể khác gây ra thì sau khi thực hiện xong trách nhiệm bảo hiểm cho người bị thiệt hại, DNBH được quyền yêu cầu họ chuyển quyền yêu cầu bồi thường để tổ chức này thay mặt người bị tổn 13
- thất yêu cầu bên thứ ba có lỗi gây ra thực hiện trách nhiệm bồi thường bằng cách bồi hoàn lại khoản chi phí mà DNBH đã chi trả. Việc tuân thủ nguyên tắc thế quyền trong BHTS còn nhằm khuyến khích, nâng cao nghĩa vụ thực hiện trách nhiệm của các DNBH, bởi lẽ họ chỉ là người “ứng trước” để kịp thời bù đắp các tổn thất xảy ra cho người bị thiệt hại, tuy nhiên phần chi phí này sẽ được hoàn trả lại cho doanh nghiệp từ bên thứ ba có lỗi gây ra. Thứ tư, người tham gia phải có quyền lợi để được bảo hiểm. Đây là nguyên tắc được áp dụng để chỉ ra rằng không phải ai cũng là BMBH trong hợp đồng, muốn tham BHTS khách hàng phải có lợi ích bảo hiểm. Trong BHTS, BMBH phải chứng minh họ là người có quyền lợi hợp pháp đối với các tài sản bằng các liên hệ cụ thể được pháp luật thừa nhận, thông qua quyền sở hữu hoặc sử dụng một cách hợp pháp đối với đối tượng bảo hiểm. Quyền lợi có thể được bảo hiểm là lợi ích hoặc quyền lợi liên quan đến việc sử dụng hoặc phụ thuộc vào sự an toàn hay không an toàn của đối tượng bảo hiểm, các lợi ích này phải xác định được vào thời điểm xác lập giao dịch BHTS, ví dụ một người được chủ sở hữu cho mượn tài sản để sử dụng nên họ có quyền khai thác các lợi ích từ tài sản, nếu tài sản này bị mất hay hư hại họ sẽ có nghĩa vụ thay thế, sữa chữa, đền tiền hoặc khôi phục lại. Đây là cơ sở để các bên xác định các giá trị liên quan đến phí bảo hiểm, tiền bảo hiểm và thực hiện giao dịch BHTS. 1.2. Khái quát về pháp luật bảo hiểm tài sản 1.2.1. Khái niệm và các nội dung cơ bản của pháp luật bảo hiểm tài sản Hoạt động bảo hiểm được hình thành với sự tham gia của BMBH và DNBH, trong đó DNBH với vai trò là tổ chức trung gian tài chính, là chủ thể am hiểu sâu rộng và hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm, ngược lại BMBH là các cá nhân, tổ chức có nhu cầu bảo hiểm nhưng không được trang bị nhiều kiến thức chuyên môn về bảo hiểm so với DNBH. Do đó, Nhà nước là cơ quan đặc thù có chức năng quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thể chế hóa đường lối của Đảng đã từng bước xây dựng hệ thống pháp luật điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong quan hệ BHTS, tạo ra môi trường kinh doanh công bằng, bình đẳng giữa các chủ thể tham gia. Như vậy, ở Việt Nam, pháp luật BHTS được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật được ghi nhận 14
- trong hệ thống văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, nhằm điều chỉnh quan hệ phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ bảo hiểm tài sản. Trên cơ sở điều chỉnh các quan hệ phát sinh, pháp luật về BHTS có nội dung sâu rộng, bao quát mọi hoạt động giữa các chủ thể, đặc biệt là mối liên hệ giữa BMBH, DNBH, cơ quan nhà nước quản lý – đây là các chủ thể chính tham gia thị trường kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam. Để hiểu được bản chất của BHTS, một số nội dung cơ bản của pháp luật BHTS cần phải tìm hiểu, đó là: - Quy định về chủ thể kinh doanh BHTS: đây là nhóm quy định về điều kiện thành lập và hoạt động kinh doanh BHTS, theo pháp luật BHTS, chủ thể được kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm phải là các tổ chức có tư cách pháp nhân hoạt động dưới hình thức DNBH. Đồng thời, các doanh nghiệp này tuân thủ quy định về đăng ký hoạt động kinh doanh BHTS, đáp ứng được các điều kiện về chủ thể, về vốn, về trình độ chuyên môn, về hồ sơ, thủ tục thành lập,… - Quy định về đối tượng BHTS: nhóm quy định này để áp dụng xác định các loại tài sản được bảo hiểm, quyền lợi có thể được bảo hiểm, giá trị tài sản bảo hiểm, giá trị hợp đồng bảo hiểm. - Quy định pháp luật về các rủi ro được bảo hiểm trong BHTS: đây là cơ sở để xác định phạm vi, giới hạn trách nhiệm của DNBH thông qua các quy định về: phạm vi bảo hiểm, sự kiện bảo hiểm, những trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm. - Quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường của DNBH: để thực hiện trách nhiệm bảo hiểm, DNBH và BMBH cần xác định thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm, điều kiện bồi thường, giám định tổn thất, nguyên tắc bồi thường, phương thức và thời hạn bồi thường, chuyển giao quyền yêu cầu bồi hoàn trong BHTS. - Quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên trong quan hệ BHTS: đây là nhóm quy định cơ bản, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình thực hiện BHTS. Về bản chất, giao dịch BHTS mang tính chất song vụ do đó quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia, nên các bên chủ thể cần phải nắm rõ quy định pháp luật để bảo vệ được tối ưu quyền lợi chính đáng của mình. Hệ thống pháp luật BHTS vẫn đang trong quá trình củng cố, hoàn thiện, chế tài xử lý các hành vi vi phạm chưa đủ mức răn đe, một số vấn đề vẫn đang được bỏ ngõ 15
- và từng bước khắc phục, nên một số đối tượng đã lợi dụng kẽ hở của pháp luật để cố tình thực hiện các hành vi xâm phạm quyền lợi của chủ thể khác như kéo dài thời gian giải quyết trách nhiệm bồi thường, cùng một đối tượng tài sản nhưng tiến hành mua bảo hiểm ở nhiều DNBH khác nhau để trục lợi bất chính từ việc tham gia BHTS, cố tình từ chối trách nhiệm bảo hiểm,… Chính vì vậy, cần nắm rõ các quy định pháp luật về bảo hiểm nói chung và BHTS nói riêng để nâng cao ý thức, bảo vệ được lợi ích của bản thân trước các hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức xã hội. 1.2.2. Quan hệ pháp luật bảo hiểm tài sản Quan hệ pháp luật bảo hiểm là tổng thể các quan hệ xã hội hình thành và phát sinh giữa chủ thể bảo hiểm và chủ thể được bảo hiểm trên cơ sở tự nguyện, thống nhất nội dung thỏa thuận về việc nộp phí bảo hiểm và thực hiện trách nhiệm bảo hiểm của mình khi xảy ra các sự kiện nằm trong phạm vi bảo hiểm. 1.2.2.1. Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật bảo hiểm tài sản Hoạt động kinh doanh BHTS được xác lập giữa DNBH thông qua việc chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm trên cơ sở BMBH phải đóng phí bảo hiểm để DNBH trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Như vậy, chủ thể chính trong quan hệ pháp luật BHTS là DNBH, BMBH và người được bảo hiểm. Thứ nhất, Doanh nghiệp bảo hiểm. Đây là chủ thể đầu tiên và có vai trò quan trọng trong cấu thành quan hệ pháp luật BHTS. Để thực hiện hoạt kinh doanh bảo hiểm, DNBH phải là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, được thành lập và hoạt động theo đúng quy định của Luật KDBH. Hiện nay, DNBH hoạt động dưới các hình thức: công ty cổ phần, công ty TNHH, hợp tác xã, tổ chức bảo hiểm tương hỗ. Bảo hiểm là hoạt động kinh doanh đặc thù với loại hình sản phẩm vô hình, có độ nhạy cảm cao, có nghĩa vụ bồi thường về tài chính lớn nên để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của khách hàng, nên DNBH không hoạt động dưới hình thức công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân để đảm bảo về khả năng chi trả bồi thường cho người được bảo hiểm. Bên cạnh đó, DNBH để được cấp phép hoạt động, các tổ chức này phải đảm bảo số vốn điều lệ đã góp không được thấp hơn mức vốn pháp định theo quy định trong từng loại hình bảo hiểm 16
- và hình thức kinh doanh bảo hiểm để đảm bảo đủ năng lực tài chính tiến hành kinh doanh loại hình đặc biệt này. Số lượng DNBH ở Việt Nam ngày càng tăng, đây là một dấu hiệu đáng mừng về sự khởi sắc của thị trường kinh doanh bảo hiểm ở nước ta, tính đến thời điểm hiện tại, ở Việt Nam đã có hơn 30 DNBH phi nhân thọ, mỗi công ty đều có chính sách ưu đãi riêng dành cho khách hàng nên BMBH có quyền được lựa chọn nhà cung cấp phù hợp với nhu cầu, điều kiện, khả năng của mình. Tuân thủ các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ bảo hiểm, hiện nay pháp luật Việt Nam cho phép các DNBH nước ngoài cung cấp dịch vụ BHTS cho các tổ chức, cá nhân Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam thông qua một trong các hình thức: (i) Thành lập DNBH 100% vốn của Công ty bảo hiểm nước ngoài (Công ty TNHH 01 thành viên); (ii) Mở chi nhánh DNBH phi nhân thọ nước ngoài tại Việt Nam; (iii) Cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới cho các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam khi họ có nhu cầu. Trong phạm vi đề tài này, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu các loại hình công ty bảo hiểm cổ phần và công ty bảo hiểm TNHH được thành lập bởi các thành viên là tổ chức, đây là hai loại hình DNBH hoạt động phổ biến không chỉ trong nền kinh tế mà còn giữ vai trò chủ đạo trên thị trường bảo hiểm ở Việt Nam. Thứ hai, bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm. BHTS là một trong các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhằm tìm kiếm lợi nhuận thông qua cơ chế tiếp nhận và xử lý các rủi ro. Nên để thực hiện được hoạt động, các tổ chức phải tìm kiếm được người có nhu cầu tham gia để cung cấp sản phẩm đặc biệt này. BMBH chính là người tiến hành mua “trách nhiệm gánh vác rủi ro” của doanh nghiệp cung cấp. BMBH có thể là các tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với DNBH và thực hiện nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm. Người được bảo hiểm là tổ chức, cá nhân có tài sản được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm. Theo Luật KDBH và BLDS thì tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm, nhằm đảo bảo tối ưu quyền lợi của khách hàng tham gia bảo hiểm đối với trường hợp BMBH là cá nhân thì phải đủ 18 tuổi và không bị Tòa án tuyên bố mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự; đối với trường hợp BMBH là tổ chức phải được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. 17
- Trong quan hệ BHTS, thiệt hại được xảy ra phải là tổn thất trực tiếp đến BMBH, DNBH chỉ cung cấp bảo hiểm cho BMBH khi họ chứng minh được rằng họ là người có quyền sở hữu đối với tài sản. Trong trường hợp BMBH là người được chủ sở hữu ủy quyền thì họ phải có bằng chứng chứng minh về sự ủy quyền quản lý tài sản này là hoàn toàn hợp pháp. Bởi vậy, trong đa số các trường hợp, BMBH đồng thời là người được bảo hiểm khi họ mua bảo hiểm cho chính tài sản của mình. 1.2.2.2. Về mặt khách thể Quan hệ pháp luật BHTS được xác lập thông qua hợp đồng BHTS, theo đó BMBH phải đóng phí bảo hiểm và DNBH phải chi trả khoản tiền bồi thường khi xảy ra các thiệt hại do sự kiện bảo hiểm được ghi nhận trong hợp đồng. Các chủ thể tham gia đều mong muốn đạt được lợi ích về tài chính từ tài sản bảo hiểm, khách thể này là nguyên nhân dẫn đến sự phát sinh quan hệ pháp luật BHTS. Lợi ích về tài chính từ tài sản bảo hiểm là đối tượng mà các chủ thể hướng tới, hoặc tác động vào khi tham gia quan hệ pháp luật này để đạt được mục đích nhất định. Đối với DNBH, phần phí bảo hiểm thu được từ người tham gia vốn dĩ xuất phát từ bản chất lấy của số đông trả cho số ít, phần giá trị chênh lệch chính là lợi nhuận kinh tế, DNBH lại sử dụng một phần lợi nhuận này tiếp đầu tư ở lĩnh vực khác để nâng cao giá trị lợi nhuận đạt được. Đối với BMBH, mục đích tham gia vào giao dịch BHTS luôn xuất phát từ mong muốn giảm thiểu rủi ro về tài chính có thể xảy ra làm tài sản của mình giảm sút hoặc mất giá trị. Trong thời gian bảo hiểm, BMNH vẫn trực tiếp sử dụng, khai thác tài sản của mình, BHTS như một lá chắn phòng vệ về niềm tin dành cho họ an tâm sử dụng cho dù thiệt hại xảy ra vẫn có thể nhận được một phần giá trị tài chính khi thuộc các trường hợp rủi ro theo thỏa thuận trong hợp đồng đã ký. 1.2.2.3. Về mặt nội dung Quan hệ pháp luật BHTS bao gồm tổng thể các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của các chủ thể tham gia, thể hiện thông qua việc thực hiện các hành vi của BMBH và DNBH trong khuôn khổ pháp luật, để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, lợi ích cộng đồng được yêu cầu các chủ thể khác thực hiện hoặc không được thực hiện hành vi, xử sự theo quy định và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Trên cơ sở đó, quan hệ pháp luật BHTS điều chỉnh các nội dung chủ yếu mà DNBH và BMBH phải đảm bảo 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 264 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020
74 p | 335 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk
83 p | 102 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
66 p | 104 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Đình công bất hợp pháp từ thực tiễn các khu công nghiệp tỉnh Tây Ninh
76 p | 119 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân theo Luật đất đai năm 2013
84 p | 76 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 88 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh
88 p | 30 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
84 p | 179 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 104 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Cưỡng chế thi hành bản án kinh doanh, thương mại và thực tiễn thi hành tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh
99 p | 32 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
75 p | 72 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
78 p | 55 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 61 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về mua bán nợ xấu phát sinh từ hợp đồng tín dụng của ngân hàng thương mại qua thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh
101 p | 15 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 81 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thực thi pháp luật Việt Nam về chuyển nhượng dự án xây dựng nhà ở thương mại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
77 p | 14 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn