VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THỊ KIM KHÁNH
THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT
ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÚC THỌ
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội - 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THỊ KIM KHÁNH
THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT
ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÚC THỌ
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ
Hà Nội – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi, các số liệu, nội dung được trình bày trong luận văn này là hoàn toàn hợp
lệ và đảm bảo tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về đề tài nghiên cứu của mình.
Tác giả
Hoàng Thị Kim Khánh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG
NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ............ 9
1.1. Khái niệm thu hồi đất nông nghiệp ...................................................... 9
1.2. Lý luận pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ................................... 20
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ........... 28
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THU
HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI ................................................................................................ 35
2.1. Thực trạng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp .............................. 35
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp tại huyện
Phúc Thọ, thành phố Hà Nội ..................................................................... 45
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT
NÔNG NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI ................................................................................................. 56
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp từ
thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội ........................................... 56
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp
luật về thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành
phố Hà Nội................................................................................................ 57
KẾT LUẬN .................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 67
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
QSDĐ Quyền sử dụng đất
THĐ Thu hồi đất
NSDĐ Người sử dụng đất
LĐĐ Luật đất đất đai
UBND Uỷ ban nhân dân
HĐND Hội đồng nhân dân
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Diện tích các loại đất cần thu hồi trong năm kế hoạch 2018 ......... 49
Bảng 2.2: Diện tích các loại đất cần thu hồi trong năm kế hoạch 2018 ......... 49
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta có khoảng 70% dân số sống bằng nghề nông, và phần lớn họ
là những người đã gắn bó đất đai với cả đời người; do vậy việc Nhà nước,
trong những năm gần gây, vì thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước do Đảng ta đề xướng, tiến hành thu hồi đất nông nghiệp để cung
cấp quỹ đất cho các dự án đầu tư xây dựng và cải thiện cơ sở hạ tầng đã phần
nào dẫn đến đảo lộn sinh kế, tập quán canh tác, sinh hoạt,.. của một cộng
đồng dân cư không nhỏ, bởi họ là người bị mất đất sản xuất nông nghiệp, hay
nói một cách khác là mất tư liệu sản xuất, do vậy, một cách nào đó trở thành
người thất nghiệp, đời sống gia đình bị ảnh hưởng. Do đó, việc thu hồi đất cần
được các nhà hoạch định chính sách quan tâm, nhằm đảm bảo an sinh xã hội
và giải quyết cả những thách thức về an ninh lương thực quốc gia.
Theo thống kê, trong tổng số các đơn khiếu nại, ước tính có khoảng
80% số vụ việc liên quan đến lĩnh vực quản lý và sử dụng đất, trong đó có
liên quan đến việc thu hồi đất [34, tr.1]. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, QSDĐ
thuộc về các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất. Bên cạnh đó, QSDĐ
lại có nguồn gốc hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó có việc Nhà
nước công nhận QSDĐ. Ngoài ra NSDĐ còn được giao đất có thu tiền hay
không thu tiền sử dụng đất hoặc nhận chuyển QSDĐ từ phía Nhà nước, từ các
chủ thể sử dụng đất khác. Việc Nhà nước thu hồi đất chính là thu hồi quyền
tài sản, và cũng là tài sản của người sử dụng đất - điều chưa được quy định
trong Hiến pháp năm 1992 trở về trước, chỉ đến khi thông qua Hiến pháp
năm 2013 mới đề cập với nội dung: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá
nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục
đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,
1
công cộng.” [28].
Nhìn chung, thời gian qua, việc thu hồi đất nông nghiệp đã phần nào
đáp ứng được mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh quốc gia; các quy định về THĐ đã từng bước được điều chỉnh, bổ sung
cho phù hợp, bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích của người bị THĐ. Tuy nhiên,
việc THĐ của các địa phương, trong đó có huyện Phúc Thọ, thành phố Hà
Nội luôn đặt ra những thách thức mà trong quá trình thực thi luôn gặp lúng
túng khi giải quyết, cụ thể có thể kể đến như những bất cập, hạn chế của các
quy định về THĐ dẫn đến một loạt các khiếu kiện của người dân liên quan
đến vấn đề THĐ kéo dài dai dẳng. Không những thế, không sự phản đối quyết
liệt của người dân, người dân biểu tình quanh khu dự án, sinh sống, chực chờ
nhiều ngày gây cản trở cho quá trình thực thi, dẫn đến nhiều dự án bị chậm
tiến độ ảnh hưởng đến đời sống và hoạt động kinh doanh của chủ đầu tư và
người dân trong vùng dự án.
Luật đất đai quy định về chế độ sở hữu đất đai, quyền hạn và trách
nhiệm của Nhà nước được Quốc hội ban hành ngày 29/11/2013 với 14
chương và 212 điều, so với Luật đất đai năm 2003, Luật đất đai năm 2013
tăng 7 điều và 66 điểm. Như vậy, điều này có nghĩa là hoạt động thu hồi đất
đã được luật đất đai năm 2013 thể chế hóa và thể hiện đầy đủ các quy định
của các Nghị quyết của Đảng trong đó có nghị quyết 19/NQ-TƯ của Ban chấp
hành Trung ương Đảng, đồng thời điều này cũng đã khắc phục được những
hạn chế, bất cập và thiếu sót của Luật đất đai năm 2003 được áp dụng trong
10 năm. Đến nay, Luật đất đai năm 2013 đã triển khai được hơn 05 năm, đây
là một khoảng thời gian đủ dài để các nhà nghiên cứu, chuyên gia pháp luật,
các cán bộ quản lý về đất đai và người dân, cộng đồng doanh nghiệp cần phải
có những nhận định, đánh giá một cách tổng quan những thành công cũng
như những trở ngại, vướng mắc của Luật Đất đai năm 2013 trong quá trình
2
triển khai thực hiện trên thực tế.
Chính vì vậy, học viên quyết định chọn vấn đề: Thu hồi đất nông
nghiệp theo pháp luật đất đai từ thực tiễn huyện Phúc Thọ thành phố Hà
Nội, làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thu hồi đất là có ý nghĩa rất lớn trong quá trình thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, khi mà để thực hiện mục tiêu này, hàng năm diện tích đất
đai cần thu hồi lên đến hàng ngàn ha. Trong vấn đề thu hồi đất này, điều quan
trọng là cần phải giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa ba bên: Nhà nước - Chủ
đầu tư - Người dân bởi phần lớn các vụ kiện tụng, tranh chấp, gây cản trở cho
giải phóng mặt bằng là do người dân hoặc do tự thân hoặc bị các đối tượng
xấu xúi giục cho rằng khoản tiền nhận đền bù từ Chủ đầu tư dự án là không
thỏa đáng. Là vấn đề có tính “nóng” nên đã có nhiều nghiên cứu, bài báo của
các cơ quan, bộ, ban ngành liên quan, cùng với các nhà học giả quan tâm
nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về đất đai.
Sau khi Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành, đã có một số công
trình nghiên cứu về công tác giải quyết khiếu nại về đền bù, hỗ trợ tái định cư ở
Hà Nội và một số địa phương ví như trường hợp có tác giả nghiên cứu vụ việc
thu hồi đất ở Tiên Lãng, Hải phòng. Ngoài ra, cũng có thể tìm thấy một vài luận
văn về thu hồi đất như tác giả Nguyễn Vinh Diện với Luận văn Thạc sĩ luật học,
2006 về Pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất; tác giả
Nguyễn Duy Thạch với Luận văn Thạc sĩ luật học, 2007 về Pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (qua thực tiễn thi hành tại
thành phố Hà Nội); hay tác giả Hoàng Thị Nga với Luận văn thạc sĩ, 2011 về
Pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng ở Việt Nam hiện nay:
Thực trạng và giải pháp. Các tác giả khác như Đặng Anh Quân, Nhóm phóng
viên Báo Pháp luật Việt Nam với các chuyên đề, tác phẩm báo chí đề cập về vấn
đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất lần lượt là: Bàn về giá đất khi bồi
3
thường - Nên cao hay thấp? (Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, số 8, 2005);.
Những công trình trên có phạm vi nghiên cứu khá rộng, các tác giả đề xuất các
giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất, tuy nhiên, hầu hết các tác giả chưa tập trung vào những
bức xúc xã hội, bất cập của pháp luật đất đai trong thu hồi đất vì mục đích phát
triển kinh tế.
Một số công trình nghiên cứu từ sau khi Luật Đất đai 2013 có hiệu lực
như: tác giả Đỗ Quang Dương, với Luận văn thạc sĩ, 2013 về Thực hiện pháp
luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước THĐ giải phóng mặt
bằng ở quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội; tác giả Nguyễn Minh Tuấn, với
Luận văn thạc sĩ, 2013 về THĐ vì mục đích kinh tế ở Việt Nam hiện nay; tác
giả Phạm Thu Thùy, với Luận án tiến sỹ, 2014 về Pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước THĐ ở Việt Nam; tác giả TS. Nguyễn Thị Nga với Đề tài khoa học
cấp Trường - Trường Đại học Luật Hà Nội, 2013 về Pháp luật bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi nhà nước THĐ - thực trạng và hướng hoàn thiện; tác giả
Nguyễn Bích Ngọc, với Luận văn thạc sỹ, 2014 về Quản lý Nhà nước về đất
đai từ thực tiễn huyện Hà Đông, thành phố Hà Nội; tác giả Nguyễn Minh
Ngọc, với , Luận văn thạc sỹ, 2014 về Giải quyết khiếu nại về đất đai từ thực
tiễn thành phố Hà Nội; tác giả Nguyễn Chu Hùng, với Luận văn thạc sỹ,
2015, về Chính sách pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước
THĐ từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội…
Từ các nghiên cứu nói trên, có thể thấy, mặc dù thời gian qua bất cập
của cơ chế, chính sách pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp bộc lộ khá rõ,
nhưng đến thời điểm này hầu như chưa có tác giả nào nghiên cứu chuyên sâu
về vấn đề này, nhất là trên phạm vi một địa phương cụ thể. Đó cũng là lý do
tác giả chọn đề tài: "Thu hồi đất nông nghiệp theo pháp luật đất đai từ thực
4
tiễn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
(thông qua việc tìm hiểu tại huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội) của pháp luật
về thu hồi đất nông nghiệp. Từ đó, đề xuất định hướng và giải pháp hoàn
thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở
nước ta nói chung và ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn giải quyết những vấn đề sau:
- Luận văn phân tích, chỉ ra những căn cứ pháp luật cho việc thu hồi đất
nằm tại Điều 62 Luật Đất đai 2013; và phân tích các quy định này đồng thời
chỉ rõ khả năng áp dụng điều luật trong những điều luật cụ thể.
- Luận văn đã đưa ra các phân tích pháp lý về hiện trạng các quy định
của pháp luật có liên quan về thu hồi đất được thể hiện trong luật đất đai năm
2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như xác định được những hạn
chế, tồn tại và nguyên nhân trong quá trình áp dụng tại Huyện Phúc Thọ thành
phố Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực
hiện pháp luật về THĐ trong thời gian tới
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn gồm:
- Các nội dung mang tính lý luận về thu hồi đất và pháp luật về thu hồi
đất đã được các tác giả đề cập trong các công trình nghiên cứu có liên quan.
Đề tài được xây dựng và tiếp tục hoàn thiện dựa trên các công trình của các
5
tác giả đã nghiên cứu.
- Các quy định của pháp luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành
về thu hồi đất nông nghiệp, đặc biệt là các quy định hiện hành trong Luật đất đai
năm 2013.
- Thực tiễn luận văn nghiên cứu thực tiễn thu hồi đất nông nghiệp trên
địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội trong 3 năm từ năm 2015 đến
năm 2018.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thực hiện
pháp luật về thu hồi đất trong giai đoạn hiện nay và đặc biệt là trên địa bàn
huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: nghiên cứu các văn bản từ Luật đất đai năm
2013 đến nay, nghiên cứu tại huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
- Phạm vi về thời gian: Văn bản Luật đất đai 2013 và thực tiễn thu hồi
đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội trong 3 năm
từ năm 2015 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về sở hữu toàn dân về đất đai và thực hiện quyền sở hữu này.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở các phương pháp luận nêu trên, đề tài sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể của ngành luật học như: Phương pháp phân tích,
phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê…kết
hợp giữa lý luận và thực tiễn để tìm hiểu vấn đề. Tùy thuộc nội dung từng
6
chương mà luận văn áp dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau.
- Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp lịch
sử…được sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu những vấn đề cơ bản mang
tính lý luận của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp.
- Phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp đánh
giá…được sử dụng trong Chương 2 khi nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp
luật về thu hồi đất nông nghiệp theo pháp luật đất đai từ thực tiễn huyện Phúc
Thọ, thành phố Hà Nội.
- Phương pháp tổng hợp, phương pháp diễn giải….được sử dụng trong
chương 3 khi nghiên cứu định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu
hồi đất nông nghiệp theo pháp luật đất đai từ thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành
phố Hà Nội.
6. Điểm mới và ý nghĩa của luận văn
Luận văn sẽ có những đóng góp mới chủ yếu sau đây:
- Bổ sung cơ sở lý luận và thực tiễn về thu hồi đất nông nghiệp và pháp
luật về thu hồi đất nông nghiệp đồng thời nghiên cứu và đưa ra các phân tích
để góp phần hoàn thiện về mặt lý luận về thu hồi đất và pháp luật về thu hồi
đất ở Việt Nam hiện nay. Ví dụ như khái niệm, đặc điểm, nội dung của pháp
luật về thu hồi đất. Luận văn cũng đưa ra phân tích về hệ thống các quy định
pháp luật hiện hành về thu hồi đất như chủ thể thu hồi, trình tự thủ tục thu hồi
đất, pháp luật về bồi thường hỗ trợ trong quá trình thu hồi đất; phân tích làm
rõ cơ chế điều chỉnh của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp.
- Luận văn đã nhận diện và phân tích những bất cập của quy định của
Luật Đất đai cũng như các văn bản pháp luật có liên quan khác. Từ đó, đề
xuất giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật đất đai về cơ chế THĐ nông
nghiệp đảm bảo quyền lợi cho các bên có liên quan đến việc THĐ nông
nghiệp. Đồng thời, góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho các cơ quan đưa
ra những quyết sách đảm bảo cho pháp luật về THĐ được thực hiện đầy đủ,
7
nghiêm chỉnh.
- Đánh giá thực trạng thi hành lĩnh vực pháp luật này và chỉ ra những
nguyên nhân của hạn chế, tồn tại. Trên cơ sở đó luận văn đề cập yêu cầu, định
hướng và đưa ra các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông
nghiệp theo pháp luật đất đai từ thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được tham khảo trong quá
trình nghiên cứu sửa đổi, bổ sung pháp luật đất đai nói chung, pháp luật thu
hồi đất nông nghiệp nói riêng. Ngoài ra, luận văn cũng có thể được sử dụng
như tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy và đào tạo tại các cơ sở
nghiên cứu và đào tạo luật học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thu hồi đất nông nghiệp và pháp
luật về thu hồi đất nông nghiệp.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thu hồi đất nông nghiệp
tại huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức
thực hiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn huyện Phúc Thọ,
8
thành phố Hà Nội.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.1. Khái niệm thu hồi đất nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm đất nông nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm đất nông nghiệp
Trước khi đề cập khái niệm đất nông nghiệp, chúng ta cần tìm hiểu khái
niệm “đất đai”. Các nhà khoa học tiếp cận “đất đai” dưới nhiều giác độ như sau:
Thứ nhất, xét dưới góc độ chung phổ biến nhất, thì đất đai là lớp vỏ của
trái đất tồn tại dưới dạng cứng, chứa trong đó những nguồn lực nhất định..
Còn với nghĩa hẹp thì đất đai biểu hiện bằng quyền lợi của một người đối với
đất. Quyền này có thể là những lợi ích hợp pháp của chủ thể có được trên đất
cũng có thể bao gồm cả những quyền đối với đất theo tập quán.
Thứ hai, đất đai là tài sản, vì nó có thuộc tính của một tài sản và còn là
một loại tài sản có khả năng sinh lợi vì trong quá trình sử dụng, nếu ta biết sử
dụng và sử dụng một cách hợp lý thì giá trị của đất (đã được khai thác sử
dụng) không những không mất đi mà có xu hướng tăng lên [39, tr.1-2].
Tùy theo mục đích sử dụng, đất đai được chia thành các loại đất khác
nhau, trong đó có đất nông nghiệp, đôi khi còn gọi là đất canh tác hay đất
trồng trọt là những vùng đất, khu vực thích hợp cho sản xuất, canh tác nông
nghiệp, bao gồm cả trồng trọt và chăn nuôi. Tổ chức Nông lương của Liên
Hợp Quốc (FAO: Food and Agriculture Organization) đã phân chia đất nông
nghiệp như sau:
(i) Đất đai trồng cây hàng năm, được biết đến như loại đất được sử
dụng để trồng lúa, ngô, khoai sắn, tức là các loại cây trồng có chu kỳ ngắn
9
hạn dưới 1 năm.
(ii) Đất trồng cây ăn trái, có giá trị công nghiệp, chu kỳ sản xuất dài từ
trên 1 năm.
(iii) Loại đất trồng cây lâu năm, có thời hạn canh tác trong 1 thời gian
kéo dài.
(iv) Loại đất đồng cỏ để nuôi thả gia súc, như trâu bò, dê cừu.
Theo quan điểm của các nhà nông học, đất đai được sử dụng hầu hết
vào các ngành sản xuất, các lĩnh vực của đời sống, và trên cơ sở đó, đất đai
được phân thành các loại khác nhau và gọi tên theo ngành và lĩnh vực nó
được sử dụng.
Kế thừa Điều 13 LĐĐ 2003, Điều 10 LĐĐ 2013 cũng căn cứ vào mục
đích sử dụng, đất đai được phân loại thành 3 nhóm: nhóm đất nông nghiệp,
nhóm đất phi nông nghiệp và nhóm đất chưa sử dụng; trong đó nhóm đất
nông nghiệp bao gồm: (i) Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa, đất đồng
cỏ dùng vào chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm khác; (ii) Đất trồng cây lâu
năm; (iii) Đất rừng sản xuất; (iv) Đất rừng phòng hộ; (v) Đất rừng đặc dụng;
(vi) Đất nuôi trồng thuỷ sản; (vii) Đất làm muối; (viii) Đất nông nghiệp khác
theo quy định của Chính phủ.
Về tên gọi các loại đất trong LĐĐ 2003, LĐĐ 2013 so với LĐĐ 1993
có sự khác nhau. Đó là việc phân chia thành 3 nhóm đất: nhóm đất nông
nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp và nhóm đất chưa sử dụng, thay vì chia ra
thành 5 loại đất như trước đây: Đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất đô thị,
đất chuyên dùng và đất chưa sử dụng. Theo tác giả, khi các nhà lập pháp đề
cập yếu tố “nhóm” là muốn nhấn mạnh đến việc tập hợp những cá thể lại với
nhau theo những nguyên tắc nhất định [50, tr.1255]. Tuy nhiên, khi xét đến
yếu tố tần suất của các cụm từ phân loại đất trong LĐĐ 2003 và LĐĐ 2013
(Phụ lục 1), chúng ta thấy rằng:
Trong LĐĐ 2003 có: (1) 42 lần xuất hiện cụm từ: “nhóm đất nông
10
nghiệp” và “đất nông nghiệp”; trong đó có 1 lần xuất hiện cụm từ “nhóm đất
nông nghiệp”, chiếm tỷ lệ 2,43% và 41 lần xuất hiện cụm từ “đất nông
nghiệp” được sử dụng với nghĩa như là “nhóm đất nông nghiệp”, chiếm tỷ lệ
97,57%; (2) 20 lần xuất hiện cụm từ: “nhóm đất phi nông nghiệp” và “đất phi
nông nghiệp”; trong đó có 1 lần xuất hiện cụm từ “nhóm đất phi nông
nghiệp”, chiếm tỷ lệ 5% và 19 lần xuất hiện cụm từ “đất phi nông nghiệp”
được sử dụng với nghĩa như là “nhóm đất phi nông nghiệp”, chiếm tỷ lệ 95%.
Cũng tương tự như vậy, trong LĐĐ 2013 có: (1) 101 lần xuất hiện cụm
từ: “nhóm đất nông nghiệp” và “đất nông nghiệp”; trong đó có 1 lần xuất hiện
cụm từ “nhóm đất nông nghiệp”, chiếm tỷ lệ 0,009% và 100 lần xuất hiện
cụm từ “đất nông nghiệp” được sử dụng với nghĩa như là “nhóm đất nông
nghiệp”, chiếm tỷ lệ 99,99%; (2) 29 lần xuất hiện cụm từ: “nhóm đất phi nông
nghiệp” và “đất phi nông nghiệp”; trong đó có 1 lần xuất hiện cụm từ “nhóm
đất phi nông nghiệp”, chiếm tỷ lệ 0,03% và 28 lần xuất hiện cụm từ “đất phi
nông nghiệp” được sử dụng với nghĩa như là “nhóm đất phi nông nghiệp”,
chiếm tỷ lệ 99,97%.
Các số liệu phân tích nêu trên cho thấy, các cụm từ: “nhóm đất nông
nghiệp”, “nhóm đất phi nông nghiệp” chỉ xuất hiện trong điều luật định danh cho
việc phân loại đất; còn khi sử dụng ở những nội dung khác, cụm từ “đất nông
nghiệp” được sử dụng với nghĩa như là “nhóm đất nông nghiệp”, và cụm từ “đất
phi nông nghiệp” được sử dụng với nghĩa như là “nhóm đất phi nông nghiệp”.
Như vậy, so với quan điểm của FAO, và các nhà khoa học, khái niệm
đất nông nghiệp theo quy định pháp luật cũng dựa trên tiêu chí chung, đó là
căn cứ vào mục đích sử dụng đất để phân loại. Tuy nhiên, khái niệm được mở
rộng hơn, ngoài đất sản xuất nông nghiệp còn có đất sử dụng vào mục đích
lâm nghiệp, đất làm muối và cả loại đất nông nghiệp khác.
Từ đó, có thể đưa ra khái niệm như sau:
Đất nông nghiệp là tập hợp các loại đất phù hợp với việc sản xuất vào
11
mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối, được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ấn định mục đích sử dụng thông qua công cụ
quy hoạch sử dụng đất.
1.1.1.2. Vai trò của đất nông nghiệp
Mặc cho vai trò của đất đối với mỗi ngành sản xuất có tầm quan trọng
khác nhau, đất đai vẫn là cơ sở tự nhiên, là tiền đề cho mọi quá trình sản xuất
đúng như Williams Petty khẳng định: “Lao động là cha, đất là mẹ sinh ra mọi
của cải vật chất của thế giới này” [11, tr.5]. LĐĐ 1993 cũng đã từng khẳng
định “Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc
biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn
phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh
và quốc phòng”.
Đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng có vai trò vô cùng quan
trọng, thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, dưới giác độ chính trị, pháp lý: lãnh thổ xác định (trong đó có
đất đai, đất nông nghiệp) cùng với dân cư ổn định, chính quyền và khả năng
tham gia vào mối quan hệ quốc tế là một trong những bộ phận hợp thành các
yếu tố cấu thành quốc gia theo Điều 1 Công ước Montevideo 1933 [22, tr.7].
Thứ hai, đất đai là nguồn lực quan trọng trong bất kỳ ngành sản xuất
nào, đặc biệt đối với sản xuất nông nghiệp có liên quan mật thiết đến các yếu
tố đặc thù của đất nông nghiệp như tính chất lý hóa của đất, độ phì nhiêu, khí
hậu... Tất cả những loại này đều là đất có giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế
rất cao.
Thứ ba, tổng diện tích đất nông nghiệp cả nước tính đến 31/12/2013 là:
26.822.953 ha/33.096.731 ha tổng diện tích đất tự nhiên, chiếm tỷ lệ 81,04%
[2]. Đây là nguồn lực quan trọng để cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến
hành việc chuyển mục đích sử dụng đất, xây dựng cơ sở hạ tầng cũng như các
khu công nghiệp, khu chế xuất,… phục vụ cho mục tiêu công nghiệp hóa,
12
hiện đại hóa đất nước.
1.1.1.2. Đặc điểm của đất nông nghiệp
Ngoài những đặc điểm chung của đất đai, như đó là tài sản không do
con người tạo ra, có tính cố định và không thể di dời,… đất nông nghiệp còn
có những đặc điểm riêng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, đất nông nghiệp là loại đất mà giá trị sử dụng phụ thuộc chủ
yếu vào chất lượng đất đai, độ màu mỡ phì nhiêu của đất.
Gía trị của đất đô thị, đất ở hay một số loại đất chuyên dùng khác phụ
thuộc chủ yếu vào các yếu tố như vị trí địa lý của khu đất đó, khả năng sinh
lợi, mức độ hoàn thiện của hệ thống cơ sở hạ tầng, hướng, hình thể, kích
thước, diện tích v.v. Đối với đất nông nghiệp, do sử dụng làm tư liệu sản
xuất, nên giá trị của loại đất này lại phụ thuộc vào các yếu tố nông, hóa, thổ
nhưỡng như độ phì nhiêu, tầng dày của lớp đất mặt, độ dốc, độ PH (độ
chua) v.v.. Độ phì hay độ màu mỡ là một thuộc tính tự nhiên của đất nông
nghiệp và là yếu tố quyết định chất lượng của đất. Đây là một đặc trưng
của đất nông nghiệp, thể hiện khả năng cung cấp thức ăn, nước cho cây
trồng trong quá trình phát triển.
Đặc điểm này của đất nông nghiệp đã minh chứng rõ vì sao trong các
quy định của pháp luật hiện hành về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, về các
trường hợp thu hồi đất, về chuyển mục đích sử dụng đất v.v. thì đối với loại
đất nông nghiệp có giá trị cao, đặc biệt là đất trồng lúa nước - loại đất mà
nguồn sống và thu nhập của gần 70% dân số trông chờ vào đó, được Nhà
nước quy định hết sức nghiêm ngặt, với chủ trương hạn chế thu hồi để đảm
bảo đời sống cho họ và cao hơn là vì sự an toàn lương thực của quốc gia.
Thứ hai, đất nông nghiệp được sử dụng làm tư liệu sản xuất trực tiếp và
không thể thay thế được trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng
thủy sản và làm muối.
Như đã đề cập trong phần khái niệm đất nông nghiệp cho thấy, đất
13
nông nghiệp là tổng thể của nhiều loại đất được sử dụng trong lĩnh vực sản
xuất nông nghiệp. Bởi trong thực tế khai thác và sử dụng đất của các tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân, có những loại đất mà khởi nguồn chúng được sử dụng
cho mục đích chính là sản xuất nông nghiệp như: trồng trọt, chăn nuôi, nuôi
trồng thủy sản, trồng các loại cây ăn quả hay các loại cây lâu năm, song do
nhu cầu tự thân của mỗi chủ thể muốn thay đổi mục đích sử dụng nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng đất, hoặc trong nhiều trường hợp vì lợi ích của những
loại đất sử dụng cho mục đích khác có giá trị cao hơn so với đất nông nghiệp
mà họ đang sử dụng nên các chủ thể đã tự ý thay đổi mục đích so với ban đầu
- và chúng trở thành đất phi nông nghiệp. Sự thay đổi mục đích này có thể
Nhà nước kiểm soát được và cho phép, song cũng có trường hợp Nhà nước
không kiểm soát được. Trong trường hợp này, mục đích sử dụng đất trong
hồ sơ, giấy tờ là đất nông nghiệp, song trên thực tế họ lại sử dụng cho mục
đích phi nông nghiệp như: sử dụng đất vườn ao để làm nhà ở, sử dụng đất
nông nghiệp tiếp giáp với trục giao thông để làm địa điểm kinh doanh phi
nông nghiệp, chuyển từ loại đất trồng cây hàng năm sang loại đất trồng cây
lâu năm...
Với những phân tích trên đây, có thể thấy đất nông nghiệp là loại đất
khá đặc thù trong vốn đất quốc gia, đặc biệt đối với một đất nước đi lên từ nền
kinh tế nông nghiệp như ở Việt Nam. Chính những đặc điểm riêng có của đất
nông nghiệp đã chi phối, ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách, pháp luật của
Nhà nước về bồi thường khi thu hồi đất. Trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, việc thu hồi đất nông nghiệp chuyển sang mục đích phi
nông nghiệp là cần thiết nhưng không có nghĩa là phát triển công nghiệp bằng
mọi giá mà không tính đến sự phát triển bền vững của đất nước. Vì vậy, pháp
luật đất đai cần có sự kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đất nông nghiệp, nhất là
đất trồng lúa, đất có rừng sang sử dụng vào mục đích khác, nhằm đảm bảo
vững chắc an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ môi trường sinh thái và đặc
14
biệt là quyền lợi chính đáng của người dân. Chính vì vậy, khi thu hồi đất nông
nghiệp, việc bồi thường không đơn giản là việc trả lại giá trị quyền sử dụng
đất bị thu hồi mà cần phải tính đến những tác động sâu sắc của việc thu hồi đất
gây ra cho người nông dân như mất việc làm, mất kế sinh nhai, bất ổn định đời
sống và sản xuất. Từ đó đặt ra vấn đề, song song với bồi thường khi thu hồi đất
nông nghiệp, Nhà nước cần phải có kế sách an dân, chú trọng thực hiện chính
sách hỗ trợ để ổn định đời sống, ổn định sản xuất cho người dân sau thu hồi đất.
1.1.2. Khái niệm thu hồi đất nông nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm thu hồi đất nông nghiệp
Thực chất, nếu xét dưới góc độ cơ bản nhất thì hoạt động thu hồi đất
được hiểu là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi QSDĐ của người
vi phạm quy định về sử dụng đất để Nhà nước giao cho người khác sử dụng
hoặc trả lại cho chủ sử dụng đất bị lấn chiếm. Trường hợp thật cần thiết, Nhà
nước THĐ đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích
quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng [15, tr.132] Điều này
được thể hiện trong Từ điển Luật học. Có thể thấy, nội hàm của khái niệm này
chưa bao quát hết các trường hợp THĐ của Nhà nước.
Từ điển tiếng Việt cắt nghĩa thu hồi là “thu về lại, lấy lại cái trước đó
đã đưa ra, đã cấp phát hoặc bị mất vào tay kẻ khác.” [48, tr.924]. Như vậy,
THĐ là việc Nhà nước lấy lại QSDĐ đã giao cho các tổ chức, cá nhân sử
dụng, hoặc lấy lại QSDĐ hiện do người khác lấn, chiếm đất của Nhà nước.
Trong quá trình xây dựng LĐĐ năm 2013, tồn tại nhiều quan điểm, ý
kiến bàn luận về khái niệm “thu hồi đất”. Tuy nhiên, từ trước đây cũng có
quan điểm cho rằng việc thu hồi đất là do nhà nước phát hiện ra tình trạng vi
phạm pháp luật đất đai của chủ thể và tiến hành thu hồi để đảm bảo trật tự
pháp luật chung. Lý do được đưa ra là quan điểm này cho rằng khi Nhà nước
giao đất, cho thuê đất hoặc được cấp giấy chứng nhận QSDĐ, mặc dù không
15
có quyền sở hữu nhưng người dân hoặc tổ chức đã được xác lập quyền sử
dụng với ý nghĩa là quyền tài sản tư. Như vậy, trong quá trình sử dụng đất,
họ được “định đoạt” QSDĐ hợp pháp của mình. Do đó, Nhà nước không
được áp đặt việc THĐ mà phải thay cơ chế “Nhà nước THĐ” của LĐĐ
bằng cơ chế “Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng QSDĐ” và chỉ áp dụng
trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích
quốc gia, công cộng.
Xuất phát từ quan hệ đất đai của Việt Nam là chế độ sở hữu toàn dân
mà nhà nước là chủ thể đại diện quản lý. Chính vì vậy, nhà nước thực hiện
việc thu hồi nếu xét thấy cần thiết cho các mục đích khác nhau. Do vậy,
quyết định THĐ đúng pháp luật của nhà nước bản thân nó là không xâm
phạm tới quyền tài sản tư của người dân hoặc tổ chức được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất.
Tổng hợp tất cả các quan điểm trên, dựa trên đặc điểm chung của hoạt
động thu hồi đất thì Quốc hội đã ban hành Hiến pháp và đưa ra quy định về
thu hồi đất như sau: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng
trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh;
phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải
công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật." Như
vậy, việc THĐ và bồi thường của Nhà nước đã được ghi nhận trong Hiến
pháp với tư cách là đạo luật gốc.
Từ những trình bày trên đây, có thể quan niệm thu hồi đất là việc Nhà
nước quyết định thu lại QSDĐ thuộc sở hữu toàn dân của người được trao
QSDĐ hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai."
Khoản 11 Điều 3 Luật đất đai đã thể hiện quan điểm này trong điều luật, do
đó, ta có thể thấy quan điểm về thu hồi quyền sử dụng đất là khá thống nhất.
Nói tóm lại, dù vấn đề THĐ đặt ra ở nhiều phương diện khác nhau,
theo đó, THĐ có thể vì lý do nhằm đảm bảo một trật tự chung trong quản
16
lý nhà nước về đất đai, đảm bảo sự tôn trọng và tuân thủ pháp luật đất đai
đối với người sử dụng đất hay THĐ để phục vụ cho những nhiệm vụ và
mục tiêu quan trọng của đất nước như quốc phòng, an ninh, phát triển kinh
tế, xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng thì THĐ phải được hiểu dưới các
khía cạnh sau đây:
- Quyết định THĐ là một quyết định hành chính làm chấm dứt quyền
sử dụng đất của người sử dụng đối với một diện tích đất cụ thể. Quyết định
này chỉ được ban hành bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo luật định;
- Quyết định hành chính thể hiện quyền lực nhà nước nhằm thực thi nội
dung của quản lý nhà nước về đất đai và với vai trò là chủ sở hữu đại diện
toàn bộ vốn đất đai trong cả nước nhằm để phân bổ và điều chỉnh đất đai trên
thực tế cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và nhu cầu của các
chủ thể sử dụng đất;
- Qúa trình thu hồi đất xuất phát từ các yêu cầu khác nhau của nhà nước
trong đó có yêu cầu trong việc xử lý vi phạm pháp luật về sử dụng đất của các tổ
chức và cá nhân.
Dựa trên cơ sở khái niệm thu hồi đất như trên, và khái niệm đất nông
nghiệp chúng ta có thể rút ra khái niệm thu hồi đất nông nghiệp như sau: Thu
hồi đất nông nghiệp là việc Nhà nước ban hành quyết định hành chính để thu
tài sản là quyền sử dụng đất nông nghiệp của người sử dụng đất hoặc thu lại
đất nông nghiệp đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý trong
những trường hợp cụ thể và Nhà nước có trách nhiệm bồi thường giá trị thiệt
hại, hỗ trợ nhằm đảm bảo cuộc sống của người sử dụng đất theo quy định của
pháp luật.
1.1.2.2. Đặc điểm của thu hồi đất nông nghiệp
Qua việc phân tích khái niệm THĐ, ta thấy rằng THĐ có ba đặc điểm cơ
bản sau:
17
Thứ nhất, THĐ phải do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành
Thực tế cho thấy, việc THĐ dù với lý do gì cũng đều dẫn tới hệ quả
làm mất đi quyền khai thác, sử dụng và sinh sống ổn định của một chủ thể đối
với đất bị thu hồi, do đó, việc chấm dứt đó phải hết sức thận trọng và cân nhắc
kỹ lưỡng. Vì lẽ đó, chỉ những cơ quan nào có thẩm quyền THĐ theo quy định
của pháp luật thì cơ quan đó mới được thực hiện quyền này mà không cơ
quan nào khác có quyền này.
Thứ hai, Hoạt động thu hồi đất cần được tiến hành theo một trình tự,
thủ tục và quá trình nhất định
Thu hồi đất mang tính quản lý đất đai rất quan trọng. Bất kỳ một quyết
định THĐ nào làm chấm dứt QSDĐ của những người đang sử dụng đất thì
đều phải được thực hiện theo những quy trình và thủ tục với các bước tiến
hành cụ thể do pháp luật quy định nhằm đảm bảo tính minh bạch, dân chủ,
công khai.
Thứ ba, THĐ thể hiện tính hành chính mệnh lệnh, bắt buộc.
Việc THĐ trước hết sử dụng phương pháp giáo dục, thuyết phục tuy
nhiên vì THĐ làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích của các chủ thể đang sử dụng
đất, do vậy, Nhà nước thường sử dụng phương pháp mệnh lệnh, hành chính.
Sở dĩ THĐ thể hiện tính hành chính mệnh lệnh bắt buộc là bởi THĐ được
thực hiện giữa một bên là Nhà nước, bên kia là người chiếm giữ, quản lý sử
dụng đất. Mà các phương pháp để thực hiện sự quản lý của Nhà nước hữu
hiệu nhất trong trường hợp này chính là phương pháp mệnh lệnh hành chính
bởi Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý đất đai.
Ngoài ra, thì THĐ còn có một số đặc điểm khác như:
Một là, đối tượng bị THĐ là QSDĐ của người được Nhà nước trao
QSDĐ, đất của người vi phạm pháp luật về đất đai;
Hai là, Chủ thể có liên quan đến việc thu hồi đất bằng quyền của mình
18
có thể khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện người có thẩm quyền trong việc thu
hồi đất, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi và hỗ trợ người thu hồi đất bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình.
Ba là, Qúa trình thu hồi đất mối quan hệ giữa chủ thể có thẩm quyền
thu hồi và chủ thể bị thu hồi đất không hình thành quan hệ thỏa thuận và
ngang giá, cũng như không có sự trao đổi mà nhà nước thu hồi bằng mệnh
lệnh hành chính và có trách nhiệm bồi thường cũng như hỗ trợ tái định cư,
chuyển đổi công việc.
1.1.2.3. Ý nghĩa của việc thu hồi đất nông nghiệp
Cũng như các hoạt động quản lý khác, hoạt động THĐ là một hiện
tượng tất yếu, khách quan cho đời sống chung của xã hội. Sự tồn tại của hoạt
động THĐ có nhiều ý nghĩa đối với Nhà nước, xã hội, hệ thống pháp luật và
đối với nhân dân, mà cụ thể là đối với các chủ thể, các yếu tố có liên quan đến
quản lý nhà nước về THĐ. Với tư cách là đại diện chủ sở hữu đất đai và thống
nhất quản lý về đất đai, Nhà nước trao QSDĐ cho người sử dụng đất. Mặt
khác, THĐ lại là một trong những hoạt động thể hiện quyền thống nhất quản
lý, đại diện chủ sở hữu đất đai của Nhà nước. Nó là quyền tuyệt đối và duy
nhất thuộc về Nhà nước- chủ thể đặc biệt của quyền lực chính trị.
Để quá trình THĐ diễn ra trong một trật tự ổn định, vừa đảm bảo lợi
ích, an toàn trong việc sử dụng đất, vừa đảm bảo lợi ích cho toàn xã hội, vừa
đảm bảo tốt công tác quản lý về THĐ thì cần phải có sự quản lý của Nhà
nước. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Quyền
sở hữu bao gồm: quyền chiếm hữu, quyền định đoạt và quyền sử dụng. Người
sử dụng đất chỉ được giao quyền sử dụng, không được quyền sở hữu. Chính vì
vậy, khi thực hiện triển khai công tác quản lý đất đai Nhà nước sẽ THĐ trong
trường hợp thật sự cần thiết do luật định. Nếu không có sự quản lý của nhà
nước thì trật tự quản lý sẽ bị đảo lộn; tình trạng tùy tiện, lạm quyền có nguy
cơ bùng phát; người dân sẽ không tuân thủ, chấp hành trong việc bàn giao mặt
19
bằng cho nhà nước; mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ không đạt
được; nguy cơ mâu thuẫn, tranh chấp trong trong THĐ gia tăng; mối bất hòa
giữa nhà nước, nhà đầu tư và người dân bùng phát là nguyên nhân gây ra bất
ổn xã hội. Khi đó, quyền lợi của người dân, của nhà nước sẽ không được bảo
đảm hài hòa và bình đẳng. Vì thế, cần phải có sự quản lý của nhà nước về
THĐ nhằm giải quyết hài hòa lợi ích của người sử dụng đất, lợi ích của xã
hội và lợi ích của nhà đầu tư trên nền tảng của sự minh bạch, dân chủ và công
khai.
1.2. Lý luận pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
1.2.1. Sự cần thiết của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
Trong các tác phẩm kinh điển của mình C.Mác phân tích rằng: “Pháp
luật phải lấy xã hội làm cơ sở, pháp luật phải là sự biểu hiện của lợi ích và
nhu cầu chung của xã hội”, “chừng nào Bộ luật không còn thích hợp với xã
hội nữa thì nó sẽ biến thành mớ giấy lộn.” [3, tr.332-333]. Hay nói cách khác,
với tư cách là phạm trù thuộc kiến trúc thượng tầng, pháp luật phải phản ánh
phù hợp với cơ sở hạ tầng đang tồn tại. Do vậy, THĐ cho dù với mục đích gì
và trong trường hợp nào thì bản chất của nó cũng thể hiện mối quan hệ có liên
quan đến tài sản giữa một bên là Nhà nước và một bên là NSDĐ, cần thiết
phải được điều chỉnh bằng pháp luật, và pháp luật THĐ này phải căn cứ từ
thực tiễn để có thể đưa ra những quy định phù hợp, không phải là “mớ giấy
lộn”. Việc điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động thu hồi đất của nhà nước là
nhằm thể hiện thông qua các phương diện chính sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội
Quan hệ THĐ do vậy không chỉ là quan hệ giữa các chủ thể sử dụng
đất thông thường, mà còn là quan hệ giữa Nhà nước và người sử dụng đất –
quan hệ mà về bản chất là không mang tính bình đẳng. Không những thế,
việc THĐ còn làm ảnh hưởng tới quyền của chủ thể sử dụng đất và phần
20
nào làm ảnh hưởng tới đời sống của những cá nhân đang sử dụng đất. Do
vậy, khi thực hiện THĐ dễ đẫn đến tâm lý phản kháng của nhân dân, nhất
là khi bị lực lượng xấu xúi giục. Ngoài ra, để tránh việc lạm quyền, sai sót
trong công tác THĐ, làm mất niềm tin của nhân dân, việc thu hồi này
không được hành xử tùy tiện mà phải tuân thủ pháp luật nhằm đảm bảo
thực hiện lợi ích của Nhà nước, của xã hội, không làm phương hại đến lợi
ích hợp pháp của người bị THĐ.
Thứ hai, thông qua hoạt động quy định của pháp luật, thực hiện quyền
quản lý nhà nước thì sẽ bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của người bị thu hồi
đất, bảo đảm được tính chặt chẽ, đúng luật của hoạt động này.
Việc THĐ theo sự điều chỉnh của pháp luật giúp thực hiện tốt công
nghiệp hóa, hiện đại hóa mang lại diện mạo mới cho đất nước theo đường lối
mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Ngoài ra, THĐ được điều chỉnh bằng pháp
luật sẽ đảm bảo việc bồi thường đối với người sử dụng đất mà có đất bị thu
hồi được Nhà nước sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật, quyền của
người có đất bị thu hồi còn bị đảm bảo bởi Nhà nước còn phải có chính sách
hỗ trợ, ổn định đời sống cho cư dân bị thu hồi đất, hay hỗ trợ công ăn việc
làm cho người sử dụng đất nông nghiệp bị thu hồi. Nhờ những công tác này
sẽ hạn chế sự phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện từ phía người dân có đất bị
thu hồi, từ đó góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội, ổn định chính trị.
Thứ ba, Trong quá trình thu hồi đất, việc bồi thường hỗ trợ khi thu hồi
đất chính là quá trình đảm bảo tính công bằng và hài hòa hóa lợi ích giữa
các bên.
Ở nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc các chủ thể tuân thủ và
đảm bảo tính pháp chế là rất quan trọng, quyền và lợi ích của chủ thể này sẽ
không bị xâm phạm nếu như họ không làm ảnh hướng đến chủ thể khác. Qua
việc chấp hành, tuân thủ các quy định của pháp luật đất đai nói chung THĐ
nói riêng, người bị THĐ tự điều chỉnh hành vi ứng xử của mình, giúp người
21
bị THĐ vừa có thể đòi hỏi được sự bảo hộ cho lợi ích hợp pháp của mình,
đồng thời lại không gây phương hại cho Nhà nước và xã hội. Không những
thế, việc tuân thủ pháp luật trong THĐ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
còn góp phần làm hạn chế thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của NSDĐ.
Nhờ vậy, mới có thể giảm bớt những tranh chấp phát sinh khi Nhà nước THĐ
nông nghiệp.
Thứ tư, việc quy định rõ ràng, đầy đủ hệ thống pháp luật thì quá trình
thu hồi đất sẽ thuận lợi hơn.
Những nội dung như khi nào là THĐ cho phát triển kinh tế vì lợi ích
quốc gia, công cộng; hay cơ sở, căn cứ của việc THĐ; hay thẩm quyền, trình
tự, thủ tục thu hồi và phương thức giải quyết hậu quả do việc THĐ gây ra chỉ
có thể thông qua việc được thể chế, quy định bằng pháp luật mới đảm bảo
được tính rõ ràng, minh bạch và nhờ vậy mà đảm bảo được sự tuân thủ đồng
bộ từ trên xuống dưới, hay giữa các trường hợp trong cùng một vụ việc THĐ.
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
Pháp luật vẫn là phương thức quản lý nhà nước và điều chỉnh quan hệ
xã hội hiệu quả nhất. Nhóm quan hệ xã hội trong lĩnh vực đất đai nói chung
và trong lĩnh vực thu hồi đất nói riêng do vậy cũng được điều chỉnh bằng
pháp luật nhằm định hướng các quan hệ này đi theo một trật tự chung.
Nghiên cứu, tìm hiểu nội dung các quy định về nguyên tắc, điều kiện,
nội dung và phương thức bồi thường, trình tự, thủ tục, việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo về THĐ, và bồi thường THĐ nông nghiệp có thể thấy pháp luật về
thu hồi đất nông nghiệp là một chế định quan trọng của pháp luật đất đai Việt
Nam và được hiểu về mặt lý luận như sau: “Pháp luật về thu hồi đất nông
nghiệp là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp, nhằm giải quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của chủ
22
đầu tư và của người bị thu hồi đất”.
Đặc điểm pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
Đặc điểm của hệ thống quy định pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp:
Thứ nhất, với đặc trưng “Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất
đai và thống nhất quản lý về đất đai”1, pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
cũng chịu sự ảnh hưởng và chi phối bởi hình thức sở hữu toàn dân về đất đai.
Như vậy, với tính chất là chủ thể thực hiện quyền đại diện của toàn dân trong
lĩnh vực đất đai thì nhà nước thực hiện hoạt động phân bổ và phát triển hệ
thống quy hoạch kế hoạch sử dụng đất. Điều này có nghĩa hệ thống pháp luật
về thu hồi đất được xác định mang tính chất đặc biệt riêng có.
Thứ hai, cơ sở để thu hồi đất nông nghiệp không chỉ dựa trên những
nhu cầu cần thiết để phát triển kinh tế, xã hội cũng như đảm bảo an ninh quốc
phòng và thu hồi khi có vi phạm, trong đó có tính đến thiệt hại vật chất thực
tế, mà người nông dân phải gánh chịu khi Nhà nước thu hồi đất, mà còn phải
tính đến những tổn hại phi vật chất ở thời điểm thu hồi và trong tương lai mà
người nông dân phải đối mặt. Bởi lẽ, đối tượng bị thu hồi đất nông nghiệp có
điều kiện sống và công việc để mưu sinh mang đặc thù riêng, khác với các
chủ thể sử dụng đất khác, đất bị thu hồi chính là tư liệu sản xuất chính không
gì thay thế được, của một nghề nghiệp được coi là duy nhất đối với người
nông dân.
Thứ ba, Có thể nói trong quá trình điều chỉnh pháp luật về thu hồi đất
thì hệ thống này phải điều chỉnh mang tính hài hòa lợi ích công và tư giữa nhà
nước và người sử dụng đất. Điều này bởi vì quyền sử dụng đất là một loại
quyền về tài sản được pháp luật bảo hộ, hơn thế nữa đất nông nghiệp còn
được coi là tư liệu sản xuất đặc thù của người nông dân, do vậy, khi thu hồi
đất để sử dụng cho mục đích chung thì Nhà nước phải chú trọng bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất nông nghiệp bị thu hồi, dựa
23
trên cơ sở. 1 Điều 1 Luật đất đai năm 2013
Như vậy có thể thấy pháp luật về THĐ nông nghiệp là lĩnh vực thu hút
sự quan tâm của nhiều giai tầng trong xã hội do nó có liên quan trực tiếp đến
lợi ích của người bị thu hồi đất, cũng như các tổ chức được giao đất để sử
dụng đất. Chính vì vậy nếu các quy định về THĐ nói chung và THĐ nông
nghiệp nói riêng mà được ban hành phù hợp với thực tiễn, bảo hộ quyền và
lợi ích hợp pháp của người dân thì được dân đồng tình ủng hộ, chính sách
pháp luật dễ đi vào thực tiễn cuộc sống; kết quả là việc thu hồi đất được thực
hiện nhanh chóng, dứt điểm.
1.2.3. Cơ cấu về nội dung của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
Sự phân bổ và điều chỉnh quỹ đất từ người này sang người khác thông
qua cơ chế THĐ, giao đất, cho thuê đất để phúc đáp sự đa dạng về sử dụng
đất của các chủ thể sử dụng đất, của nhà nước và nhu cầu chung của xã hội
trong thực tế là tất yếu đặt ra. Chính vì vậy việc quy định các căn cứ để Nhà
nước THĐ là vô cùng cần thiết và mang tính khách quan. Theo tác giả các nội
dung cần xem xét, hoàn thiện trong pháp luật về THĐ như sau: (i) Nhóm quy
phạm quy định về cơ sở, căn cứ pháp lý để THĐ; (ii) Nhóm quy phạm quy
định về nội dung, trình tự, thủ tục và thẩm quyền THĐ; (iii) Nhóm quy phạm
quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước THĐ; (iv) Nhóm quy phạm quy
định về khiếu nại khi Nhà nước THĐ.
1.2.3.1. Điều chỉnh bằng pháp luật về cơ sở, căn cứ pháp lý để thu hồi đất
Theo quy định tại Điều 66 Luật đất đai năm 2013 thì UBND cấp tỉnh và
UBND cấp huyện là cơ quan có thẩm quyền THĐ. Với mỗi trường hợp THĐ
khác nhau, pháp luật cũng quy định những căn cứ THĐ đó khác nhau cho phù
hợp nhằm đảm bảo việc THĐ là có cơ sở, có lý do chính đáng, hạn chế tình
trạng tùy tiện và lạm dụng khi THĐ, ảnh hưởng đến quyền lợi của người sử
24
dụng đất.
1.2.3.2. Điều chỉnh bằng pháp luật về nội dung, trình tự, thủ tục và
thẩm quyền thu hồi đất
Như đã phân tích, QSDĐ đã là quyền tài sản, và chính là tài sản, nên
THĐ là thu tài sản của NSDĐ không những cần phải được điều chỉnh bởi
pháp luật nước ta, phù hợp với Điều 54 HP 2013: “QSDĐ được pháp luật bảo
hộ”, mà còn phải tương thích với các quy định của pháp luật quốc tế mà nước
ta đã cam kết thực hiện, như Điều 17 Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con
người, quyền công dân năm 1948 (được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông
qua và công bố theo Nghị quyết số 217A (III) ngày 10/12/1948) quy định
rằng, mọi người đều có quyền sở hữu tài sản của riêng mình hoặc tài sản sở
hữu chung với người khác, cũng như không ai bị tước đoạt tài sản một cách
tùy tiện.
Về quy phạm nội dung, các trường hợp THĐ phải được xem xét, xuất
phát từ yêu cầu khác nhau về phát triển kinh tế, xã hội hay an ninh quốc gia.
Vì vậy, cần thiết phải xác định rõ mục đích THĐ, nhằm làm rõ ranh giới giữa
lợi ích công và tư.
Về quy phạm thủ tục, tức là những thủ tục được quy định khi tiến hành
THĐ, cách thức để thực hiện thẩm quyền của từng cơ quan Nhà nước, cũng
như cá nhân được trao quyền và trách nhiệm của cả NSDĐ đều phải tuân
theo, nhằm đảm bảo cho các quy phạm nội dung được thực hiện có hiệu lực
và hiệu quả theo yêu cầu đặt ra. Đây cũng chính là điều kiện để bảo đảm cho
pháp chế được giữ vững, mở rộng dân chủ và thể hiện tính công khai trong
hoạt động quản lý nhà nước [13, tr.313-314]. Mọi hoạt động, hành vi của cán
bộ quản lý nhà nước về đất đai, của người có đất bị thu hồi, của chủ đầu tư và
các chủ thể khác có liên quan đều phải tuân thủ theo quy trình, thủ tục cụ thể.
Do đó, các quy định về trình tự, thủ tục cần phải đáp ứng các tiêu chí:
(1) nhằm hướng tới đảm bảo tính minh bạch, dân chủ và công khai về THĐ,
25
trên tinh thần tôn trọng và lấy dân làm gốc. Thực hiện điều này nhằm xác
định quá trình bảo đảm cho hoạt động dân chủ trong quá trình thu hồi đất,
đảm bảo quyền lợi của người dân trong hoạt động thu hồi đất, tránh các hoạt
động mang tính mệnh lệnh quyền uy và cường chế. Vai trò của nhà nước chỉ
đặt ra sau khi quy trình, thủ tục đã được áp dụng và tuân thủ triệt để, đúng
pháp luật, các biện pháp giải thích và thuyết phục đã được áp dụng mà không
đạt được mục đích đặt ra; (2) trình tự, thủ tục THĐ phải đảm bảo cho người
dân biết những công việc họ phải làm, phải thực hiện liên quan đến THĐ,
đảm bảo cho người dân chủ động và có kế hoạch trong việc thu xếp thời gian
và kế hoạch di chuyển tài sản ra khỏi khu vực đất bị thu hồi một cách an toàn
và hiệu quả nhất.
Về quy phạm thẩm quyền THĐ giúp xác định rõ giới hạn thẩm quyền
của cơ quan có thẩm quyền THĐ trong từng trường hợp cụ thể. Thực chất
giới hạn này nhằm ràng buộc trách nhiệm của nhà nước trong việc thực hiện
các yêu cầu về thẩm quyền. Thẩm quyền thu hồi đất thuộc về ai, chủ thể nào
cần được xác định chi tiết, đầy đủ tránh tình trạng lạm quyền, và tùy tiện.
1.2.3.3. Điều chỉnh bằng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất
Việc THĐ nhanh hay chậm, THĐ diễn ra thuận lợi hay không, có sự
đồng thuận hay không đồng thuận giữa nhà nước với người dân vấn đề mấu
chốt nằm ở bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Qúa trình xây dựng các quy định
của phap luật có liên quan đến hoạt động bồi thường hỗ trợ tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất sẽ mang lại hiệu quả cao, góp phần ổn định trật tự xã hội và
tránh sự chống đối của người dân.
Điều 2(3) Công ước quốc tế các quyền dân sự và chính trị yêu cầu các
Quốc gia thành viên Công ước đảm bảo “sự đền bù hiệu quả” cho những
người có quyền lợi bị tổn hại và xác định nghĩa vụ của “nhà chức trách có
thẩm quyền trong việc bảo đảm những đền bù đó được thực hiện” [15, tr.56-
26
57]. Do vậy, Hiến pháp hiện hành nước ta đã khẳng định, QSDĐ được pháp
luật bảo hộ và việc THĐ phải công khai, minh bạch, được bồi thường theo
quy định của pháp luật. Ngoài ra, cần phải xác định rõ, các hậu quả bất lợi của
người sử dụng đất khi Nhà nước THĐ để xây dựng công trình cần phải được
cả nước chia sẻ. Do vậy, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ trước
hết phải đáp ứng quyền lợi của người bị THĐ.
1.2.3.4. Điều chỉnh pháp luật về khiếu nại khi nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp
Hiến pháp năm 2013 xác định rằng, “mọi người có quyền khiếu nại, tố
cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp
luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân; cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo.” Quy định này được thể hiện tại
Điều 30. Như vậy, khiếu nại là quyền hiến định. Khi NSDĐ nông nghiệp cho
rằng, quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị tác động bởi các quyết định hành
chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, hoặc người được trao quyền có
liên quan đến việc thu hồi đất, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ,
thì họ được thực hiện quyền khiếu nại. Suy cho cùng, việc khiếu nại và giải
quyết khiếu nại nhằm đảm bảo quyền lợi của người dân trong mối quan hệ với
Nhà nước, trong đó có liên quan đến QSDĐ. Về lĩnh vực này, trong Tuyên
ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 cũng đã quy định: “Ai cũng có quyền yêu
cầu tòa án quốc gia có thẩm quyền can thiệp chống lại những hành động vi
phạm những quyền căn bản được hiến pháp và luật pháp thừa nhận” [6].
Quá trình giải quyết khiếu nại chính là việc xem xét những nội dung,
tình tiết, cơ sở pháp lý cũng như cơ sở thực tiễn của việc khiếu nại. Trên cơ
cở đó, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, người có thẩm quyền sẽ lựa chọn
quy phạm pháp luật để áp dụng, ban hành văn bản áp dụng pháp luật và tổ
chức thực hiện văn bản đã ban hành. Khi xem xét lại quyết định hành chính
do chính mình ban hành theo hướng: giữ nguyên; sửa đổi, bổ sung một phần
27
hay hủy bỏ toàn bộ nội dung đều ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các bên
(Nhà nước hay tổ chức, cá nhân). Do vậy yêu cầu đặt ra là người giải quyết
khiếu nại không thể xuất phát từ quan điểm cá nhân, quan hệ riêng tư, hoặc
của một nhóm lợi ích nào đó chi phối, thể hiện tính khách quan không được
tôn trọng, mà việc áp dụng pháp luật phải phù hợp với lợi ích và mệnh lệnh
của Nhà nước được thể hiện trong các văn bản pháp luật [49, tr.373]. Việc
giải quyết khiếu nại đảm bảo nội dung, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định;
xác định việc khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của NSDĐ, tổ chức bị xâm
hại, sẽ góp phần vào việc củng cố niềm tin của nhân dân đối với chính quyền.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về thu hồi đất nông
nghiệp
1.3.1. Yếu tố về nhận thức
Luật Đất đai năm 2013, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo và các văn bản
quy phạm pháp luật khác đã thực sự trở thành cơ sở pháp lý quan trọng để
việc THĐ được thực hiện nghiêm chỉnh, trên cơ sở đó các cơ quan, tổ chức,
cá nhân đã xác định được quyền và nghĩa vụ của mình trong việc THĐ. Tuy
nhiên, trên thực tế, người dân quan tâm, tìm hiểu pháp luật đất đai, pháp luật
khiếu nại, tố cáo chưa nhiều. Đây chính là nguyên nhân làm gia tăng các vụ
khiếu nại, tố cáo về THĐ. Vì vậy, để giảm bớt các vụ khiếu nại, tố cáo về
THĐ thì cơ quan quản lý nhà nước phải yêu cầu cán bộ, công chức thực hiện
đúng quy định của pháp luật về THĐ và thường xuyên giáo dục, tuyên truyền
phổ biến giáo dục pháp luật về đất đai, khiếu nại, tố cáo đến người dân. Chỉ
khi người dân nắm bắt được các quy định của pháp luật thì họ mới hiểu rõ
những việc làm đúng, làm chưa đúng trong công tác quản lý nhà nước về
THĐ để tuân thủ thực hiện và thực hiện quyền khiếu nại, quyền tố cáo theo
đúng quy định của pháp luật. Khi đó công dân sẽ nhận thức được việc có nên
khiếu nại, tố cáo hay không và tự giác chấp hành các thủ tục, quy định trong
việc giải quyết việc khiếu nại, tố cáo của cơ quan nhà nước; thực hiện khiếu
28
nại, tố cáo đúng cấp có thẩm quyền; chấp nhận hay không chấp nhận kết quả
giải quyết của các cơ quan nhà nước; không bị lôi kéo, xúi giục khiếu kiện
đông người, lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo gây rối trật tự công cộng làm
ảnh hưởng đến tình hình an ninh- chính trị địa phương. Kết quả của công tác
giáo dục nâng cao trình độ nhận thức của người dân sẽ giúp tình hình khiếu
nại, tố cáo ở địa phương đi vào nề nếp; các quyết định giải quyết khiếu nại, tố
cáo của cơ quan nhà nước được thực hiện nghiêm túc sẽ làm giảm đáng kể
các vụ việc khiếu nại, tố cáo tiếp theo, tạo lòng tin đối với nhân dân.
1.3.2. Hiệu quả của hoạt động quản lý Nhà nước trong việc thu hồi
đất
THĐ là vấn đề phức tạp, vừa mang tính xã hội lại vừa mang tính kinh
tế, dễ nảy sinh những mâu thuẫn xã hội đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ
của Nhà nước. Trong số các công cụ được Nhà nước sử dụng để quản lý việc
THĐ thì pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất. Nhà nước sử dụng công cụ pháp
luật trong quản lý để điều chỉnh hành vi của chủ thể bị quản lý. Cơ quan quản
lý nhà nước ban hành các văn bản pháp quy về THĐ, tuyên truyền phổ biến
đến tổ chức, cá nhân thực hiện THĐ, người bị THĐ và tổ chức thực hiện văn
bản đó. Để pháp luật đi vào cuộc sống, phát huy được hiệu quả thì cần đến
công tác tổ chức thực hiện pháp luật. Tổ chức thực hiện pháp luật chủ yếu
được thể hiện ở việc hướng dẫn các chủ thể pháp luật thực hiện pháp luật
trong đó tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn người dân thực hiện pháp luật
là khâu quan trọng nhất.
1.3.3. Yếu tố về bảo đảm quyền con người, quyền công dân
Lịch sử loài người cho thấy, ở bất kỳ đâu, vào bất kỳ giai đoạn nào, tri
thức về quyền con người cũng là nền tảng cho sự phát triển và tiến bộ của các
xã hội cũng như là tiền đề cho phát triển đầy đủ về nhân cách và năng lực của
mỗi cá nhân. Ở phạm vi rộng hơn, tri thức về quyền con người là tiền đề cho
29
hòa bình và thịnh vượng của toàn nhân loại.
Ở Việt Nam công cuộc đấu tranh để giành quyền con người phải trải
qua một quá trình lịch sử lâu dài. Trong quá trình đấu tranh đó, nhận thức về
quyền con người trong các tầng lớp xã hội ngày một được cải thiện. Cuộc đấu
tranh giành quyền dân chủ và độc lập xã hội của nhân dân ta đã thu được
những thành tựu hết sức to lớn. Cùng với độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, các quyền con người ngày càng được đảm bảo.
Cũng như tất cả các quốc gia trên thế giới, việc trở thành thành viên của
Liên Hợp Quốc và các Công ước quốc tế về quyền con người đặt ra nghĩa vụ
cho Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết quốc tế trên lĩnh vực này,
trong đó có nghĩa vụ về giáo dục, phổ biến quyền con người.
Quyền con người (human rights) là một phạm trù đa diện, do đó có
nhiều định nghĩa khác nhau. Mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ
nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao
hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người.
Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người phụ thuộc
vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, định
nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người thường được
trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này:
Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal
guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những
hành động (actions) hoặc bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm,
những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms)
của con người.2
Ở Việt Nam, một số định nghĩa về quyền con người do một số chuyên
gia, cơ quan nghiên cứu từng nêu ra cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng
2 Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Đại học Quôc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 55
30
xét chung, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự
nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong
pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Như vậy, nhìn ở góc độ nào và ở cấp độ nào thì quyền con người cũng
được xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và
tuân thủ. Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân
loại, chỉ áp dụng với con người, cho tất cả mọi người. Nhờ có những chuẩn
mực này, mọi thành viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân
phẩm và mới có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư
cách là một con người. Cho dù cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định,
một điều rõ ràng là quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn
trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử.
Giống như ở nhiều quốc gia khác, ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã
xác định những tư tưởng và đường lối chỉ đạo về quyền con người làm cơ sở
cho việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trên thực tế.
Những quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền con
người thể hiện:
- Thứ nhất: Quyền con người là giá trị chung của toàn nhân loại.
- Thứ hai: Trong xã hội có phân chia giai cấp đối kháng, khái niệm
quyền con người mang tính giai cấp.
- Thứ ba: Quyền con người vừa có tính phổ biến, vừa có tính đặc thù,
phụ thuộc vào truyền thống, đặc điểm và trình độ phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội của mỗi quốc gia.
- Thứ tư: Quyền con người và quyền dân tộc cơ bản là thống nhất.
- Thứ năm: Quyền con người phải được pháp luật quy định.
- Thứ sáu: Quyền không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm.
- Thứ bảy: Các quyền con người cần được tôn trọng và bảo đảm một
31
cách bình đẳng.
- Thứ tám: Tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trước hết là
trách nhiệm của mỗi quốc gia.
- Thứ chín: Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người gắn liền với việc bảo
vệ và thúc đẩy hòa bình, ổn định, an ninh, bình đẳng và cuộc sống phần vinh
ở mỗi quốc gia trên thế giới.
- Thứ mười: Đối thoại và hợp tác quốc tế là yêu cầu cần thiết, khách
quan để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.
- Thứ mười một: Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là mục tiêu của
Đảng và Nhà nước Việt Nam, là yêu cầu trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền và là động lực cho việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.3
Từ những quan điểm cơ bản về quyền con người như nêu trên, Đảng
Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đã và đang xây dựng và thực hiện chính
sách nhằm trực tiếp và gián tiếp bảo vệ, thúc đẩy quyền con người.
Trong lĩnh vực THĐ đai, các quy định của Luật Đất đai, Luật Dân sự
và các văn bản pháp lý có liên quan cũng đã ghi nhận các quyền cơ bản của
con người theo Công ước Quốc tế. Tuy nhiên, với một số lượng các văn bản
tương đối lớn trong lĩnh vực đất đai, bao gồm các luật, nghị định, thông tư
hướng dẫn… dẫn đến có không ít các quy định chồng chéo dẫn đến việc triển
khai thực hiện gặp rất nhiều khó khăn. Hơn nữa, trong quá trình thực thi pháp
luật cũng gặp không ít những tiêu cực làm ảnh hưởng đến các quyền cơ bản
của người bị THĐ. Những vụ việc liên quan đến THĐ trong thời gian vừa qua
là một minh chứng rõ nét cho vấn đề này. Trong lĩnh vực THĐ, người bị THĐ
có nhiều quyền khác nhau theo quy định của pháp luật nhưng về cơ bản là
gồm các quyền về sở hữu, quyền về lao động, việc làm, quyền giáo dục,
quyền được hưởng cuộc sống thích đáng, quyền được thông tin và quyền
3 Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (Đồng chủ biên) (2009), Giáo trình Lý luận và Pháp luật về Quyền con người, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
32
được xét xử công bằng…
Bảo đảm và bảo vệ các quyền cơ bản của người bị THĐ được các cấp,
các ngành đặt ra từ lâu nay nhưng kết quả thực hiện thì chưa được là bao.
Chính vì vậy, đòi hỏi cần phải có sự tìm hiểu kỹ lưỡng từ nguyên nhân đến
33
hậu quả từ đó có những giải pháp phù hợp để giải quyết vấn đề này.
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1 của luận văn, học viên phân tích về nội dung liên quan
đến những vấn đề lý luận về thu hồi đất nông nghiệp và pháp luật về thu hồi
đất nông nghiệp.
Thứ nhất, đất nông nghiệp là loại đất có vị trí, vai trò quan trọng trong
hệ thống đất đai của Việt Nam, đất nông nghiệp chiếm tỉ lệ cao trong hệ thống
đất đai Việt Nam. Hoạt động thu hồi đất nông nghiệp là quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trong việc thu hồi quyền sử dụng đất đã cấp
cho hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức có liên quan để nhằm mục đích phát
triển kinh tế, an ninh quốc phòng và các mục đích khác.
Thu hồi đất nông nghiệp là một vấn đề nhạy cảm có khả năng ảnh
hưởng đến an sinh xã hội và đảm bảo quyền của các chủ thể có liên quan.
Chính vì vậy, pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp được đặt ra một cách chi
tiết và đầy đủ để từ đó có khả năng kiểm soát nội dung thu hồi đất cho đúng
quy định tránh tình trạng lạm dụng, xâm phạm quyền và lợi ích của các chủ
thể có liên quan.
Thứ ba, pháp luật thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam trong những
năm vừa qua chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố như chiến lược phát triển
kinh tế xã hội của đất nước, vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công
34
dân trong thực tiễn, vấn đề đảm bảo an ninh lương thực, an ninh quốc gia…
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THU HỒI ĐẤT
NÔNG NGHIỆP TẠI HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Thực trạng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
2.1.1. Quy định về cơ sở pháp lý của thu hồi đất nông nghiệp
2.1.1.1. Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai
“Quyền tư hữu ruộng đất là hoàn toàn vô lý, nói đến quyền tư hữu
ruộng đất chẳng khác gì nói đến quyền sở hữu cá nhân đối với người đồng
loại của mình. Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì chế độ tư hữu
ruộng đất là vô lý nhất.” [3, tr.224] Đây là khẳng định của Mác trong tác
phẩm kinh điển Tư bản của mình. Kế thừa luận điểm khoa học của C.Mác và
Ph.Ănghen, Lê-nin cho rằng một trong những nhiệm vụ chủ yếu của chính
quyền công nông là phải sáng lập chế độ sở hữu toàn dân về đất đai trong
phạm vi toàn quốc nhằm đem lại ruộng đất cho người nông dân “ruộng đất
phải là sở hữu của toàn dân và một chính quyền có tính chất toàn quốc qui
định điều đó” [8].
Ở nước ta, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền
cách mạng xác lập quyền sở hữu đất đai cho người nông dân. Tiếp đó,
phong trào kháng chiến đã dẫn đến những yêu cầu mới về hình thức hợp
tác xã trong đó hình thành sự tích tụ ruống đất của các cá nhân. Từ đó trở
đi, trong các văn kiện của Đảng, Nghị quyết của Ban chấp hành Trung
ương, cũng như Hiến pháp các năm đều khẳng định chế độ sở hữu toàn dân
đối với đất đai [44].
Tiếp nối những văn bản pháp luật trước đây của nhà nước thì đều xác
định quyền sở hữu toàn dân về đất đai. Tại khoản 1 Điều 5 Luật Đất đai
2003 qui định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
35
hữu” [25].
Điều 4 Luật đất đai năm 2013 tiếp tục khẳng định chế độ sở hữu đối
với đất đai: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu
và thống nhất quản lý.” [29]. Như vậy, có thể thấy Nhà nước thay mặt toàn
dân quản lý, định đoạt số phận pháp lý của đất đai và THĐ là một trong các
hành vi pháp lý thể hiện quyền định đoạt đó.
2.1.1.2. Chức năng quản lý Nhà nước về đất đai
Nội dung quản lý đất đai được Điều 22 Luật đất đai năm 2013 quy định
theo đó là một loạt các hoạt động từ xây dựng văn bản luật đất đai cho đến
hoạt động xử lý hành vi vi phạm và quản lý khác.
Trong quá trình quản lý nhà nước của mình về đất đai, Nhà nước sẽ xác
định phạm vi đối tượng và thời hạn sử dụng đất đai. Trong đó các nguồn tài
nguyên đều cho thấy, tài nguyên đất không phải là vô hạn, nhu cầu sử dụng
đất của người dân là rất lớn, cần phải hài hòa hóa lợi ích để tăng tối đa hiệu
quả sử dụng đất.
2.1.1.3. Các trường hợp thu hồi đất nông nghiệp
Về các trường hợp Nhà nước THĐ, khoản 1, Điều 16 LĐĐ 2013 quy
định rõ:
Nhà nước quyết định THĐ trong các trường hợp sau đây:
a) THĐ vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì
lợi ích quốc gia, công cộng;
b) THĐ do vi phạm pháp luật về đất đai;
c) THĐ do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại
đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người [29].
LĐĐ 2013 dành cả Chương VI để quy định về THĐ, trưng dụng đất,
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Trong đó, thẩm quyền về THĐ được quy định
tại Điều 66, cụ thể:
36
1. UBND cấp tỉnh quyết định THĐ trong các trường hợp sau đây:
a) THĐ đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có
vốn đầu tư, nước ngoài;
b) THĐ nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn.
2. UBND cấp huyện quyết định THĐ trong các trường hợp sau đây:
a) THĐ đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư;
b) THĐ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở
tại Việt Nam.
2.1.2. Quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp
Hoạt động thu hồi đất được thực hiện theo trình tự, thủ tục chi tiết,
nhằm đảm bảo yếu tố đồng thuận của người dân. Theo đó:
Bước 1. Thông báo THĐ
Trong quá trình thu hồi đất của người bị thu hồi thì nhà nước chậm nhất
sau thời hạn 180 ngày kể từ khi có quyết định thu hồi đất của người dân cần
phải ra quyết định thu hồi đất và thông báo cho người dân được biết. Hoạt
động thông báo quyết định thu hồi đất phải được chuyển đến tận tay của từng
người dân trong địa bàn nơi có đất đai bị thu hồi và thông báo rộng rãi trên
phương tiện thông tin đại chúng.
Bước 2. THĐ
Theo đó, việc xây dựng và thực hiện kế hoạch THĐ, điều tra, khảo sát,
đo đạc, kiểm đếm được quy định như sau:
- Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền THĐ ban hành thông báo THĐ.
Hoạt động đo đạc, kiểm đếm để làm căn cứ bồi thường hỗ trợ tái định
cứ, và giải phóng mặt bằng sẽ do UBND cấp xã nơi có địa bàn bị thu hồi đất
thực hiện theo quy định của pháp luật;
- Trong quá trình thu hồi đất chủ thể bị thu hồi đất (tức chủ thể sử dụng
đất) có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình, phối hợp với cơ quan
37
nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động thu hồi đất;
Sau khi được vận động và thuyết phục mà người bị thu hồi đất vẫn
không đảm bảo việc phối hợp sau 10 ngày thì chủ thể thu hồi đất sẽ tiến hành
hoạt động kiểm đếm mang tính bắt buộc.
Thực tế cho thấy việc bổ sung nội dung điều tra, khảo sát, đo đạc kiểm
đếm là phù hợp, cần thiết, bởi thứ nhất, việc kiểm đếm nhằm thống nhất xác
lập số liệu về tài sản trên đất giữa NSDĐ và cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
thứ hai, việc kiểm đếm có thể giúp xác lập cơ sở đề cưỡng chế bắt buộc các
đối tượng có liên quan thi hành theo quy định pháp luật trong trường hợp người
dân có đất bị thu hồi không hợp tác tham gia với Nhà nước trong việc xây dựng
Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Ngoài ra, đối với quy định tại điểm d Khoản 1 Điều 69 thì có thể dẫn
đến cách hiểu là trong quyết định kiểm đếm bắt buộc do Chủ tịch UBND
cấp huyện ban hành không bao hàm cả nội dung khác như: điều tra, khảo
sát, đo đạc. Đây là nội dung pháp lý chưa được quy định pháp luật nào điều
chỉnh, do vậy, cần được làm rõ trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật
Đất đai 2013.
Bước 3. Kiểm kê đất đai, tài sản có trên đất
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ của mình, Uỷ ban nhân
dân xã có đất bị thu hồi thực hiện việc khảo sát, đo đạc xác định diện tích đất
bị thu hồi và làm công tác phối hợp với các chủ thể có liên quan để đảm bảo
hiệu quả thu hồi nhất. Qúa trình thu hồi đất thì người bị thu hồi đất phải có
nghĩa vụ phối hợp trong công tác kiểm kê tài sản để đảm bảo quá trình này
được thực hiện đầy đủ và đúng quy định của pháp luật. Nếu như người bị thu
hồi đất không thực hiện sự phối hợp trong hoạt động kiểm kê quyền sử dụng
đất thì cơ quan thu hồi đất thực hiện việc thuyết phục vận động sau thời gian
10 ngày kể từ ngày được thuyết phục vận động mà người đó vẫn không thực
38
hiện thì sẽ tiến hành cưỡng chế theo quy định của pháp luật nếu có.
Bước 4. Lên kế hoạch tính toán, và điều chỉnh về phương án bồi
thường, hỗ trợ người bị thu hồi đất
Tiến hành việc lấy ý kiến tại nơi cứ trú và cư dân nơi thu hồi.
Chủ thể có thẩm quyền lập ra phương án hỗ trợ, tái định cư để trình ra
UBND cấp trên quyết định về hoạt động thu hồi đất.
Bước 5. Thực hiện hoạt động công bố công khai phương án thu hồi đất
và lấy ý kiến của người dân về hoạt động thu hồi đất.
Trong quá trình thu hồi đất, việc công khai về trình tự, thủ tục và
phương án thu hồi đất là một yếu tố then chốt có liên quan đến quyền lợi
của người dân. Theo đó, cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất thực hiện việc
công khai tại trụ sở UBND nơi gần nhất để đảm bảo mọi người dân đếu
biết về trình tự, thủ tục, phương án thu hồi và hỗ trợ bồi thường và tái định
cư khi thu hồi.
Bước 6. Thực hiện trình tự duyệt các phương án đầy đủ và triển khai
các phương án thu hồi đất
- Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quy định tại Điều 66 của Luật
này quyết định THĐ, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư trong cùng một ngày;
- UBND cấp xã tiến hành việc thực hiện nhiệm vụ phối hợp để đảm bảo
hoạt động bồi thường, giải phóng mặt bằng có hiệu quả cao nhất.
- Thực hiện hoạt động hỗ trợ tái định cư và bồi thường cho người bị thu
hồi đất theo phương án đã được phê duyệt theo yêu cầu.
- Nếu như người bị thu hồi đất không thực hiện việc tự nguyện bàn giao
diện tích đất bị thu hồi thì UBND xã, và Mặt trận tổ quốc cấp xã nơi có diện tích
đất cần thu hồi thực hiện việc thuyết phục, vận động để họ tự nguyện giao đất..
Trường hợp người có đất thu hồi đã được vận động, thuyết phục nhưng
không chấp hành việc bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải
39
phóng mặt bằng thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định
cưỡng chế THĐ và tổ chức thực hiện việc cưỡng chế theo quy định tại Điều
71 của Luật này.
Bước 7. Bồi thường về đất khi Nhà nước THĐ ở
Khi thu hồi đất các chủ thể bị thu hồi gồm cá nhân là người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp FDI và các chủ
thể khác thực hiện việc xây dựng các dự án xây nhà ở được thương lượng
phương thức bồi thường gồm: bồi thường bằng tiền hoặc bồi thường bằng
diện tích đất đai tương ứng.
Bước 8. Bàn giao mặt bằng, cưỡng chế THĐ
Qúa trình thu hồi đất diễn ra xong thì cần thiết phải thống kê và đảm
bảo việc bàn giao mặt bằng sạch sẽ cho nhà đầu tư hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Nếu như người sử dụng đất có đất đai bị thu hồi mà không tự
nguyện thu hồi đất thì sẽ tiến hành cưỡng chế thu hồi đất bằng các biện pháp
hợp pháp do luật quy định.
2.1.3. Quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp
2.1.3.1. Nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Theo đó, về cơ bản, nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước THĐ nông
nghiệp thể hiện trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, người bị THĐ có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật
thì được bồi thường, hỗ trợ.
Qúa trình thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất thực chất của nó là quá trình bồi hoàn lại giá trị đất đai mà nhà nước
đã lấy đi của người sử dụng đất. Người sử dụng đất, đặc biệt là người sử dụng
đất nông nghiệp dựa vào diện tích đất đó là sinh kế chính, do đó nếu như
không đảm bảo hiệu quả bồi thường hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất là một trong những yêu cầu quan trọng để tránh xảy ra những mâu thuận,
40
chống đối xã hội.
Thứ hai, việc bồi thường bảo đảm đầy đủ các thiệt hại. Khi Nhà nước
THĐ nông nghiệp, người dân không chỉ thiệt hại về đất mà còn có những thiệt
hại về tài sản trên đất, các hoa lợi, lợi tức thu được do việc sử dụng đất. Luật
Đất đai năm 2013 quy định cụ thể nguyên tắc bồi thường về đất và về tài sản
nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của người có đất bị thu hồi. Nguyên tắc này
tạo sự linh hoạt khi cho phép cơ quan thẩm quyền cũng như người bị THĐ
nông nghiệp lựa chọn được phương án bồi thường phù hợp. Hiện nay có quy
định về việc người sử dụng đất bị thu hồi còn có thể được bồi thường bằng
quỹ đất tại địa phương, tức được bồi thường bằng quyền sử dụng đất. Tuy
nhiên quy định này đòi hỏi các điều kiện như chủ thể có mong muốn được bồi
thường bằng quyền sử dụng đất và quỹ đất ở địa phương vẫn còn. Do đó, trên
thực tế vẫn còn nhiều hạn chế, khó khăn khi áp dụng quy định này.
Thứ ba, việc bồi thường phải theo giá thị trường.
Thứ tư, đảm bảo yêu cầu thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ tái định cư phải
công khai minh bạch giữa các chủ thể.
Thực chất của hoạt động công khai minh bạch là bảo đảm cho người
dân ai cũng được biết, ai cũng được tham gia vào quá trình thu hồi đất. Đồng
thời đây cũng là nguyên tắc quan trọng, đảm bảo hiệu quả nhất cho quá trình
thu hồi đất của người dân. Trong quá trình này người dân được quyền biết và
tham gia cũng như khiếu nại tố cáo về thu hồi đất cũng như hỗ trợ tái định cư.
Đối với các trường hợp THĐ nông nghiệp, ngoài việc áp dụng các quy
định và nguyên tắc chung của Luật Đất đai khi THĐ, LĐĐ 2013 cũng có
những quy định riêng mang tính đặc thù. Cụ thể, tại Điều 77 quy định về bồi
thường đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước THĐ nông nghiệp của
hộ gia đình, cá nhân:
1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước
THĐ được bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại theo quy định
41
sau đây:
a) Diện tích đất nông nghiệp được bồi thường bao gồm diện tích trong
hạn mức theo quy định tại Điều 129, Điều 130 của Luật này và diện tích đất
do được nhận thừa kế;
b) Đối với diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức quy định tại Điều
129 của Luật này thì không được bồi thường về đất nhưng được bồi thường
chi phí đầu tư vào đất còn lại;
c) Đối với diện tích đất nông nghiệp do nhận chuyển nhượng QSDĐ
vượt hạn mức trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì việc bồi thường,
hỗ trợ được thực hiện theo quy định của Chính phủ. [29].
Việc hỗ trợ khi Nhà nước THĐ được quy định tại Điều 83 của LĐĐ
2013, theo đó nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước THĐ là:
a) Người sử dụng đất khi Nhà nước THĐ ngoài việc được bồi thường
theo quy định của Luật này còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ;
b) Việc hỗ trợ phải bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công khai
và đúng quy định của pháp luật [29].
Điều này bao gồm hỗ trợ chi phí ổn định sản xuất, ổn định việc tìm
kiếm việc làm, ổn định chi phí doanh nghiệp, hỗ trợ thu hồi đất của cá nhân
và nhà nước có liên quan khác [29].
Đối với các trường hợp hộ gia đình, cá nhân mất việc làm, phải chuyển
đổi nghề khi Nhà nước THĐ thì Điều 84, LĐĐ 2013 quy định:
1. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, khi Nhà
nước THĐ nông nghiệp mà không có đất nông nghiệp để bồi thường thì
ngoài việc được bồi thường bằng tiền còn được hỗ trợ đào tạo, chuyển
đổi nghề, tìm kiếm việc làm.
2. Đối với hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất kết hợp kinh doanh
dịch vụ mà nguồn thu nhập chính từ hoạt động kinh doanh dịch vụ, khi
Nhà nước THĐ mà phải di chuyển chỗ ở thì được vay vốn tín dụng ưu
42
đãi để phát triển sản xuất, kinh doanh; trường hợp người có đất thu hồi
còn trong độ tuổi lao động thì được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề,
tìm kiếm việc làm.
3. Căn cứ vào kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện,
UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện có trách nhiệm tổ chức lập và thực
hiện phương án đào tạo, chuyển đổi nghề, hỗ trợ tìm kiếm việc làm cho
người có đất thu hồi là đất nông nghiệp, đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ.
Phương án đào tạo, chuyển đổi nghề, hỗ trợ tìm kiếm việc làm được lập
và phê duyệt đồng thời với phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư.
Những quy định của LĐĐ 2013 về THĐ nói chung và THĐ nông
nghiệp nói riêng đã có những bước tiến, những đột phá phần nào giải quyết
những bất cập, khó khăn trong thời gian vừa qua về THĐ. Tuy nhiên, trong
quá trình triển khai vẫn cần có những văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Chính
phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng như các Bộ, ngành có liên quan để
những quy định nêu trên đi vào thực tế.
Việc thực hiện chính sách pháp luật về THĐ luôn hướng đến việc đảm
bảo các quyền cơ bản của những người bị THĐ. Pháp luật Việt Nam ghi nhận
và bảo đảm các quyền đó của người bị THĐ như các quyền về sở hữu, quyền
về lao động việc làm, quyền được giáo dục, được hưởng an sinh xã hội… Các
quy định của pháp luật Việt Nam ghi nhận và phản ánh các quy định của các
Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền con người. Theo đó, khi thực thi pháp
luật về THĐ đai cũng cần phải bảo đảm các quyền con người cơ bản theo quy
định của các Công ước về quyền con người của Liên Hợp Quốc.
2.1.4. Quy định về khiếu nại, tố cáo về thu hồi đất nông nghiệp
Ở giai đoạn vừa qua, hoạt động tiếp công dân và giải quyết các khiếu
nại tố cáo về đất đai của nhà nước đã được quan tâm và coi đó là một nhiệm
vụ cần giải quyết của bất cứ cơ quan tổ chức cá nhân nào. Hoạt động đảm bảo
chính sách pháp luật về tổ chức nhà nước về đất đai là hiệu quả bảo đảm đến
43
quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân tổ chức trong sử dụng đất đai. Tuy nhiên,
trên thực tế, tình hình khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai vẫn diễn ra rất
phức tạp, đòi hỏi phải có những giải pháp hết sức căn cơ, đồng bộ, với sự
tham gia của nhiều cấp, nhiều ngành.
Khoản 1 Điều 2 Luật Khiếu nại 2011 quy định: “Khiếu nại về đất đai là
việc người sử dụng đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng
đất theo thủ tục của Luật Khiếu nại đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý
đất đai của cơ quan hành chính Nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ
quan hành chính Nhà nước khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính
hoặc hành vi hành chính đó trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp
pháp của mình.”
Như vậy, khiếu nại trong lĩnh vực thu hồi đất là việc người có đất bị thu
hồi theo quy định của pháp luật khiếu nại và pháp luật đất đai, đề nghị chủ thể
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại xem xét lại quyết định hành chính về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
hoặc hành vi hành chính của cán bộ công chức trong quá trình giải quyết công
việc trên lĩnh vực bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, khi họ có căn cứ cho
rằng quyết định, hành vi đó trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
Khiếu nại trong lĩnh vực THĐ có một số đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, khiếu nại trong lĩnh vực THĐ liên quan đến quyền và lợi ích
thiết thực của chủ thể khiếu nại như nhà ở, đất ở, đất sản xuất, việc làm, chất
lượng cuộc sống và nó xảy ra với tính chất gay gắt khi người có đất bị thu hồi
cho rằng việc THĐ của Nhà nước là chưa hợp lý, có dấu hiệu vi phạm pháp
luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ hai, Tuy thuộc vào tính chất của quan hệ mà hoạt động khiếu nại
pháp luật về đất đai là rất phức tạp cần một quá trình đầy đủ, đúng trình tự,
44
thủ tục, nhưng về cơ bản vẫn gây ra những khó khăn hạn chế nhất định.
Thứ ba, tình trạng khiếu nại đông người, vượt cấp diễn ra ngày càng
nhiều khi Nhà nước THĐ. Về cơ bản sự phức tạp của tranh chấp đất đai xuất
phát từ đặc tính của chế độ sở hữu đất đai ở Việt Nam hiện nay, nhiều loại
đất, phức tạp trong quản lý, thời gian sử dụng đất từ lâu, chưa rõ ràng về chủ
thể điều này dẫn đến tranh chấp kéo dài khó giải quyết hơn. Chính bởi tính
chất phức tạp này mà tình trạng khiếu nại đông người, vượt cấp diễn ra ngày
càng nhiều trong lĩnh vực THĐ.
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp tại
huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
2.2.1. Tình hình thu hồi đất nông nghiệp tại huyện Phúc Thọ, thành
phố Hà Nội
Cơ sở pháp lý của việc thu hồi đất nông nghiệp tại huyện Phúc Thọ,
thành phố Hà Nội
Trước năm 2013, việc thực hiện thu hồi đất được căn cứ vào các văn
bản: Luật Đất đai năm 2003; Nghị định số: 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007
của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền SDĐ, thu
hồi đất, thực hiện quyền SDĐ, trình tự, thủ tục BT, HT, TĐC khi Nhà nước
thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai và các văn bản pháp luật khác
của Chính phủ, của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn thực hiện các
Nghị định của Chính phủ.
Từ năm 2013, với việc Quốc hội thông qua Luật Đất đai mới, cơ sở
pháp lý của việc thực hiện thu hồi đất hiện nay là các văn bản: Luật Đất đai
năm 2013; Nghị định số: 43/2014/NĐ- CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều của Luật Đất đai; Nghị định số: 47/2014/NĐ- CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất; Thông tư số: 30/2014/TT- BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục
45
đích sử dụng đất, thu hồi đất.
Nhìn một cách tổng quát, các văn bản pháp luật kể trên quy định các
vấn đề chủ yếu sau: Thứ nhất, xác định cơ sở, điều kiện của việc thu hồi đất;
Thứ hai, quy định cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất và các cơ quan có trách
nhiệm trong việc bảo đảm thu hồi đất; Thứ ba, quy định thủ tục thu hồi đất và
thủ tục giải quyết các khiếu nại về thu hồi đất.
Bên cạnh các quy định pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ở Trung ương, chính quyền thành phố Hà Nội cũng ban hành các văn
bản pháp luật thi hành các văn bản đó ở địa phương. Các văn bản quan trọng
phải kể đến là:
- Quyết định số: 21/2014/QĐ- UBND ngày ngày 20/6/2014 của UBND
thành phố Hà Nội ban hành quy định các nội dung thuộc thẩm quyền của Ủy
ban nhân dân thành phố do Luật Đất đai 2013 và các Nghị định của Chính
phủ giao cho về thu hồi đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất để
thực hiện dự án đầu tư trên địa bàn thành phố Hà Nội;
- Quyết định số: 5077/2014/QĐ- UBND ngày 02/10/2014 của UBND
thành phố Hà Nội về việc Ủy quyền giao cho UBND các huyện, huyện và thị
xã quyết định thu hồi đất một số trường hợp thuộc thẩm quyền của UBND
Thành phố quy định tại khoản 1 Điều 7 Quyết định số: 21/2014/QĐ- UBND
ngày 20/6/2014 của UBND thành phố Hà Nội về việc sửa đổi, bổ sung một số
điều, khoản của bản Quyết định số: 21/2014/QĐ- UBND ngày 20/6/2014 của
Ủy ban nhân dân Thành phố về thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển
mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án trên Thành phố;
- Quyết định số: 23/2014/QĐ- UBND ngày 20/6/2014 của UBND
thành phố Hà Nội ban hành quy định các nội dung thuộc thẩm quyền của Ủy
ban nhân dân thành phố Hà Nội do Luật Đất đai 2013 và các Nghị định của
Chính phủ giao cho về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
46
đất trên địa bàn thành phố Hà Nội;
- Quyết định số: 32/2015/QĐ- UBND ngày 30/10/2015 của UBND
thành phố Hà Nội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định ban
hành kèm theo Quyết định số: 23/2014/QĐ- UBND ngày 20/6/2014 của
UBND Thành phố;
Các văn bản kể trên của UBND thành phố đã cụ thể hóa, quy định chi tiết
các văn bản pháp luật của Quốc hội, Chính phủ áp dụng trên địa bàn thành phố
Hà Nội.
Thời gian vừa qua, công tác thu hồi đất trên địa bàn huyện Phúc Thọ về
cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu sử dụng đất phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội. Tại thành phố Hà Nội nói chung và riêng huyện Phúc Thọ nói riêng hoạt
động thu hồi đất rất sôi động vì số lượng đất mà cơ quan nhà nước phải thu
hồi là rất lớn. Trong những giai đoạn vừa qua, đặc biệt là từ năm 2015 đến
năm 2018 thì tại huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội đã tiến hành thu hồi đất
trong nhiều dự án, đảm bảo đạt được những kết quả nhât định, tổng số dự án
thu hồi là 82 dự án, với 338.164 mét vuông đất đai. Số đất đai này đã bàn giao
cho các nhà đầu tư để thực hiện các dự án phát triển kinh tế xã hội, giao
thông, an ninh quốc phòng như trường đại học Đại Nam, trường phổ thông
Liên cấp Hainam, dự án khu dãn dân phố Gạch, dự án tiểu khu công nghiệp
Hoàng Quân Phúc Thọ, dự án nhà máy dệt may Vinatex...
Từ thực tiễn tổ chức thực hiện thu hồi đất của huyện Phúc Thọ cho
thấy, thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực này luôn gắn chặt với công
tác thu hồi đất cho các trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc
phòng, an ninh; phát triển kinh tế- xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng trên
địa bàn của huyện. Vì lẽ đó, để nghiên cứu đánh giá một cách đầy đủ, toàn
diện hoạt động thu hồi đất trước hết cần đánh giá thực trạng công tác GPMB
trên địa bàn huyện Phúc Thọ.
Trong năm 2018, UBND huyện Phúc Thọ đã tiến hành giải quyết việc
47
thu hồi đất cho các dự án sau: Ủy ban nhân dân huyện chỉ đạo hoàn thành chi
trả kinh phí và bàn giao các mặt bằng dự án đường liên xã Phụng Thượng –
Ngọc Tảo. Chi trả kinh phí bổ sung các dự án: Tiêu Hiệp Thuận; Tỉnh lộ 418
trên địa bàn xã Võng Xuyên và Thị trấn Phúc Thọ, tổng kinh phí 5 tỷ 340
triệu đồng. Phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ GPMB các dự án: Khai
thác mỏ cát tại bãi nổi sông Hồng xã Vân Hà; đấu giá QSD đất khu Đồng Tre,
Lỗ Gió xã Võng Xuyên (giai đoạn 2); dự án xây dựng nhà văn hóa cụm 12,
thôn Tường Phiêu, xã Tích Giang. Thành lập hội đồng, tổ công tác thực hiện
dự án trường THCS Hiệp Thuận, Thọ Lộc. Tổ chức kiểm điểm kê khai tài
sản, vật kiến trúc, cây cối tại dự án đấu giá QSD đất X8 Thị trấn Phúc Thọ và
một số điểm đấu giá QSD đất khác. Giải quyết xong tồn tại, vướng mắc tại
các dự án cải tạo lòng dẫn sông Đáy, đê Hữu Hồng xã Sen Chiểu; đang xem
xét giải quyết một số dự án trên địa bàn Thị trấn Phúc Thọ.
Tổ chức tốt các phiên đấu giá QSD đất tại khu X9 xã Phụng Thượng,
X12 xã Ngọc Tảo, X10 xã Phúc Hòa, tổng diện tích 544,2 m2, số tiền 3 tỷ 067
triệu đồng. Hoàn thiện thủ tục hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSD đất cho các hộ
trúng đấu giá X9 xã Phụng Thượng, X12 xã Ngọc Tảo. Thực hiện tốt công tác
thu hồi đất, xây dựng HTKT các khu, điểm đấu giá đã phê duyệt theo kế
hoạch. Hoàn thiện thủ tục hồ sơ xin giá khởi điểm khu cổng Nội xã Tam
Hiệp; X3 xứ Phù Lưu, xã Sen Chiểu; hồ Vân xã Cẩm Đình; sân vận động Thị
trấn Phúc Thọ (cũ); ao sân mới xã Hiệp Thuận. Hoàn thiện báo cáo KTKT,
đầu tư xây dựng hạ tầng đấu giá đất tại Thị trấn, Trạch Mỹ Lộc, Tam Thuấn.
Theo đó số liệu cụ thể như sau:
Tổng diện tích đất nông nghiệp huyện Phúc Thọ sẽ phải thu hồi trong
năm kế hoạch 2018 là 43,95ha, trong đó:
- Đất chuyên trồng lúa nước: 39,91ha
- Đất trồng lúa nước còn lại: 2,3ha
- Đất cây hàng năm khác : 1,51ha
48
- Đất trồng cây lâu năm: 0,23ha
Bảng 2.1.: Diện tích các loại đất cần thu hồi trong năm kế hoạch 2018
STT Mục đích sử dụng Mã Tổng diện tích (ha)
(4) 43,95 43,95 43,71 42,20 39,91 2,30 1,51 0,23 - 0,00 (1) 1 1.1 1.1.1 1.1.1.1 1.1.1.1.1 1.1.1.1.2 1.1.1.2 1.1.2 1.2 1.3 (2) Đất nông nghiệp Đất sản xuất nông nghiệp Đất trồng cây hàng năm Đất trồng lúa Đất chuyên trồng lúa nước Đất trồng lúa nước còn lại Đất trồng cây hàng năm khác Đất trồng cây lâu năm Đất lâm nghiệp Đất nuôi trồng thủy sản (3) NNP SXN CHN LUA LUC LUK HNK CLN LNP NTS
Trong năm 2017 tình hình thu hồi đất của huyện Phúc Thọ như sau:
Tổng diện tích đất nông nghiệp huyện Phúc Thọ sẽ phải thu hồi trong
năm kế hoạch 2018 là 43,95ha, trong đó:
- Đất chuyên trồng lúa nước: 39,91ha
- Đất trồng lúa nước còn lại :2,3ha
- Đất cây hàng năm khác : 1,51ha
- Đất trồng cây lâu năm: 0,23ha
Bảng 2.2: Diện tích các loại đất cần thu hồi trong năm kế hoạch 2018
Tổng diện STT Mục đích sử dụng Mã tích (ha)
(1) (2) (3) (4)
1 Đất nông nghiệp NNP 43,95
43,95 1.1 Đất sản xuất nông nghiệp SXN
1.1.1 Đất trồng cây hàng năm CHN 43,71
49
1.1.1.1 Đất trồng lúa LUA 42,20
1.1.1.1.1 Đất chuyên trồng lúa nước LUC 39,91
1.1.1.1.2 Đất trồng lúa nước còn lại LUK 2,30
1.1.1.2 Đất trồng cây hàng năm khác HNK 1,51
1.1.2 Đất trồng cây lâu năm CLN 0,23
- 1.2 Đất lâm nghiệp LNP
0,00 1.3 Đất nuôi trồng thủy sản NTS
2.2.2. Đánh giá thực tiễn thực hiện thực trạng thu hồi đất nông
nghiệp tại huyện Phúc Thọ
2.2.2.1. Những ưu điểm và nguyên nhân của việc thực hiện pháp luật về
thu hồi đất nông nghiệp tại huyện Phúc Thọ
* Tổ chức thực hiện công tác thu hồi đất
Để thực hiện thu hồi đất đảm bảo đúng quy định pháp luật, UBND
huyện Phúc Thọ đã thành lập Ban bồi thường GPMB huyện và Tổ chuyên
viên thẩm định trên cơ sở những văn bản quy định của nhà nước về bồi
thường, hỗ trợ GPMB và tái định cư. Nhằm hỗ trợ, đảm bảo hoạt động thu hồi
đất được đúng trình tự, thủ tục, đối chiếu với các văn bản pháp luật có liên
quan UBND huyện Phúc Thọ đã thực hiện đầy đủ yêu cầu về ban hành văn
bản, xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ có liên quan đến công tác thu hồi
đất, ban hành các văn bản mới thay thế các văn bản đã không còn phù hợp.
* Tiến hành thu hồi đất
Theo như thông tin từ cơ quan đăng ký và Trung tâm phát triển quỹ đất
của huyện Phúc Thọ thì ở giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2018 toàn huyện
Phúc Thọ đã tiến hành cấp giấy phép cho 82 dự án trong đó có thu hồi đối với
331.114 mét vuông đất các loại và để bàn giao cho nhà đầu tư hiệu quả nhất,
trong hoạt động thu hồi đất có liên quan đến quyền lợi của hơn 1000 hộ dân
tổng số tiền mà đã bồi tường hỗ trợ tái định cư cho người dân là 559 tỉ đồng
50
và số đất bồi thường là 227 mét vuông.
Thực trạng thực hiện thu hồi đất giai đoạn này trên địa bàn huyện Phúc
Thọ được thể hiện rõ nét qua dự án GPMB xây dựng đường quốc lộ 32 đoạn
qua địa bàn huyện Phúc Thọ.
Công tác thu hồi đất đạt hiệu quả cao, do UBND huyện Phúc Thọ đã
quán triệt đến từng cấp chính quyền, tuyên truyền vận động đến từng hộ dân,
công tác kiểm kê và xác định giá trị đất để bồi thường được tính toán kỹ, đảm
bảo giá trị bồi thường thỏa đáng. Công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư và
chuyển đổi nghề nghiệp cho người bị thu hồi đất được quan tâm. Tất cả
những điểu này dẫn đến hiệu quả công tác thu hồi đất của huyện Phúc Thọ
thành phố Hà Nội trong giai đoạn vừa qua đạt được tốt.
2.2.2.2. Những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của những hạn chế,
thiếu sót của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn thực hiện tại
huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
* Hạn chế, thiếu sót
Tuy nhiên một số quy định về trình tự, thủ tục THĐ, bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư trong Luật Đất đai năm 2013 cần được xem xét và điều chỉnh:
Thứ nhất, quy định về trình tự, thủ tục THĐ rải rác ở nhiều văn bản cả
Luật, Nghị định, Thông tư, gây chậm tiến độ ban hành văn bản có liên quan
và giải phóng mặt bằng, cụ thể quy định tại Điều 67, 69, 70, 71 và 93 Luật
Đất đai năm 2013, Điều 17 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, Điều 28 và 30
Nghị định số 47/2014/NĐ-CP, Điều 13 Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT và
các quy định của địa phương.
Thứ hai, Quy định của pháp luật còn nhiều hạn chế, trong đó có quy
định về Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất. Quy định
về nhiệm vụ của Hội đồng còn chưa đảm bảo, quan hệ phối hợp của Hội đồng
với các chủ thể còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Điều này dẫn đến những khó
51
khăn, hạn chế trong công tác thu hồi đất
Theo quy định về điều kiện bố trí tái định cư thì hộ gia đình, cá nhân
phải di chuyển chổ ở do bị thu hồi hết đất ở, hoặc thu chưa hết đất nhưng diện
tích còn lại (kể cả đất vườn có đủ điều kiện chuyển mục đích sử dụng sang đất
ở) không đủ để làm nhà ở theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh mà
không có chỗ ở, đất ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất
bị thu hồi thì được bố trí đất tái định cư.
Thứ ba, Về quy định có liên quan đến thông báo hoạt động thu hồi đất
của nhà nước còn chưa đảm bảo. Công tác kiểm đếm, đo đạc để đánh giá về
quá trình thu hồi đất còn chưa đảm bảo. Như vậy thông báo THĐ sẽ bao gồm
toàn bộ 05 nội dung của kế hoạch THĐ, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm
được liệt kê trong khoản 1 Điều 17 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 17
Nghị định này lại quy định nội dung thông báo THĐ chỉ quy định 04 nội
dung, không bao gồm nội dung tại điểm đ khoản 1 Điều 17 Nghị định số
43/2014/NĐ-CP. Bên cạnh đó, nội dung thông báo về diện tích, vị trí đất thu
hồi theo biểu mẫu 07 ban hành kèm theo Thông tư số 30/2014/TTBTNMT
quy định thông báo cả loại đất đang sử dụng sẽ thu hồi là chưa phù hợp với
nội dung tại điểm b khoản 1 Điều 17 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP mà còn
tạo ra không ít khó khăn trong thực tiễn. Trường hợp NSDĐ chưa đăng ký đất
đai thì không có thông tin về loại đất đang sử dụng để thông báo; mục đích sử
dụng đất chỉ có thể xác định chính xác khi thực hiện kiểm đếm và xét tính
pháp lý của đất. Việc không thống nhất về mục đích sử dụng đất trong thông
báo THĐ với mục đích sử dụng đất áp giá bồi thường trong phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư sẽ ảnh hưởng đến công tác bồi thường, là nguyên
nhân phát sinh khiếu nại. Không chỉ có vậy, hiện vẫn còn tồn tại những bất
cập về hiệu lực của thông báo THĐ và thời gian phê duyệt phương án bồi
52
thường, hỗ trợ, tái định cư.
Thứ tư, trình tự, thủ tục THĐ không quy định bước ghi nhận hiện trạng
khu đất bị thu hồi tại thời điểm thông báo THĐ. Khoản 2 Điều 92 Luật Đất
đai năm 2013 quy định tài sản gắn liền với đất được tạo lập từ sau khi có
thông báo THĐ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì không được bồi
thường.
Thứ năm, quy định về cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt
buộc chưa cụ thể, chặt chẽ. Kiểm đếm ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công
của công tác giải phóng mặt bằng.
Thứ sáu, quy định về lấy ý kiến trong quá trình lập phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư chưa rõ ràng, khó thực hiện. Điểm a khoản 2 Điều
69 Luật Đất đai hiện hành quy định Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải
phóng mặt bằng có trách nhiệm lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
và phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức lấy ý kiến
về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư với người dân trong khu vực có
đất thu hồi.
Thứ bảy, vẫn còn mâu thuẫn trong các quy định có liên quan trong quá
trình lập phương án đào tạo, chuyển đổi nghề, hỗ trợ tìm kiếm việc làm. theo
quy định tại Khoản 3 Điều 84 Luật Đất đai thì phương án này được lấy ý kiến
của người có đất thu hồi nhưng Khoản 3 Điều 20 Nghị định 47/2014/NĐ - CP
lại quy định phương án lấy ý kiến của người THĐ.
Cuối cùng, về giá đất bồi thường khi THĐ ở cho người bị THĐ. Những
vấn đề quan trọng có tính nguyên tắc liên quan đến xác định giá đất, đã được
quy định khá cụ thể tại Luật Đất đai năm 2013, và các văn bản hướng dẫn thi
hành. Luật Đất đai năm 2013 đã đề cập đến việc tư vấn xác định giá đất khi
xây dựng, điều chỉnh khung giá đất; xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất và
định giá đất cụ thể mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền có yêu cầu; giá đất do
tư vấn xác định là một trong các căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền
53
quy định, quyết định giá đất. Đặc biệt, việc xác định giá đất được thực hiện
theo nguyên tắc “sát với giá chuyển nhượng QSDĐ trên thị trường trong điều
kiện bình thường”. Tuy nhiên, với quy định Nhà nước vừa là người ra quyết
định THĐ vừa quyết định giá đất tính bồi thường nên chưa bảo đảm tính độc
lập, khách quan trong việc ban hành giá đất và khó mang lại quyền lợi tối đa
cho người sử dụng đất.
Trong thực tế, khung giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương ban hành thường thấp hơn giá trị QSDĐ chuyển
nhượng trên thị trường. Do vậy, nếu áp dụng theo giá khung của Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì người bị THĐ có thể được
bồi thường thấp hơn giá mà họ chuyển nhượng trên thị trường dẫn đến nhiều
54
trường hợp ách tắc về bồi thường đất đai và phát sinh khiếu kiện.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2 của luận văn, học viên phân tích về nội dung liên quan
đến thực trạng pháp luật và thực tiễn thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn
huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội. Nội dung của chương 2 gồm.
Thứ nhất, thực trạng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp trong giai
đoạn vừa qua. Hiện nay, theo quy định của Luật đất đai và các văn bản hướng
dẫn thi hành thì vấn đề thu hồi đất nông nghiệp được quy định gồm có điều
kiện thu hồi, đối tượng thu hồi, trình tự thủ tục thu hồi đất, phạm vi thu hồi và
vấn đề đền bù giải phóng mặt bằng liên quan đến việc thu hồi đất nông
nghiệp. Các văn bản quy phạm pháp luật này đã thực hiện đầy đủ và bám sát
chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về vấn đề đất đai đặc biệt là đất
nông nghiệp. Tuy nhiên, nghiên cứu chi tiết chúng ta cũng nhận thấy các văn
bản pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp cũng còn tồn tại một số hạn chế, bất
cập cần hoàn thiện ở chương 3 của luận văn.
Thứ hai là thực tiễn thu hồi đất nông nghiệp ở huyện Phúc Thọ thành
phố Hà Nội trong những năm vừa qua. Huyện Phúc Thọ là một huyện ngoại
thành của thành phố Hà Nội, với diện tích đất nông nghiệp lớn và tốc độ phát
triển đô thị hóa, công nghiệp hóa tương đối cao. Chính vì vậy, hoạt động thu
hồi đất nông nghiệp của huyện Phúc Thọ trong những năm vừa qua có nhiều
diễn biến phức tạp và khó lường. Kết quả thu hồi đất nông nghiệp đã đạt hiệu
quả cao, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế tồn tại nhất định gây
55
khó khăn cho công tác này.
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ TỔ
CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp từ
thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
Để thực hiện, khắc phục những hạn chế, thiếu sót, bất cập của việc thu
hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công
cộng tại huyện Phúc Thọ:
Thứ nhất, trường hợp thu hồi đất: Đề nghị không quy định việc Nhà
nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội mà chỉ quy
định Nhà nước được thu hồi đất cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội gắn
với lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia nhằm tránh tình trạng thu hồi đất tràn
lan, gây thiệt hại cho người có quyền sử dụng đất, vừa bảo đảm lợi ích quốc
gia và nhu cầu phát triển đất nước.
Thứ hai, cơ chế giải quyết đất đai: Cơ chế giải quyết đất đai phải đảm
bảo khắc phục những bất cập của quy định hiện hành. Đẩy mạnh chuyển đổi
mô hình giải quyết tranh chấp đất đai từ UBND sang tòa án nhằm đảm bảo
giải quyết triệt để và đúng đắn các tranh chấp. Vì Nhà nước khó có đủ ngân
sách, nguồn lực để thực hiện bồi thường khi thu hồi đất; nếu giá đất do Nhà
nước xác định không hợp lý (thấp hơn giá thực tế trên thị trường) thì sẽ không
nhận được sự đồng thuận của người bị thu hồi đất, dẫn đến mâu thuẫn, xung
đột, khiếu nại, khiếu kiện về đất đai tăng lên; việc đấu giá quyền sử dụng đất
sẽ tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng, tiêu cực, móc ngoặc, thông đồng nếu cơ quan
nhà nước có thẩm quyền không công khai, minh bạch các thông tin về đấu
giá, diện tích đất đấu giá, thời gian đấu giá và thông tin về năng lực của các
56
bên tham gia đấu giá.
Thứ ba, cơ chế áp dụng giá đất: Tách thẩm quyền về quyết định giá đất
ra khỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, thu hồi
đất. Cụ thể, việc quyết định giá đất, quy định bảng giá đất được áp dụng trên
địa bàn các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; giải quyết khiếu nại, tranh
chấp về giá đất; quyết định các tiêu chuẩn kỹ thuật về định giá đất, thực hiện
quản lý nhà nước đối với hoạt động cung cấp dịch vụ định giá đất cần phải
thuộc thẩm quyền của hệ thống cơ quan độc lập với UBND (cơ quan có thẩm
quyền quyết định về giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất).
Quy định rõ hơn nguyên tắc xác định giá đất: cơ quan có thẩm quyền
khi xác định giá đất phải tham khảo ý kiến của người dân, đảm bảo dân chủ,
công khai, minh bạch và được giám sát . Đồng thời, cần phải xây dựng cơ chế
hữu hiệu để giải quyết sự chênh lệch về giá đất tại các khu vực giáp ranh giữa
các địa phương.
Thứ tư, xử lý tình trạng dự án “treo”: Quy định người bị thu hồi đất
trong trường hợp được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà
không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liền hoặc tiến độ sử dụng đất
chậm hơn 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư không được trả lại
tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đã nộp, không được thanh toán giá trị đầu tư vào
đất còn lại và tài sản gắn liền với đất; và việc chấp thuận chỉ được thực hiện một
lần và không quá thời hạn 12 tháng thì Nhà nước thu hồi. Đối với các trường hợp
vì lý do khách quan bất khả kháng mà các dự án đầu tư không thực hiện đúng
tiến độ nêu trên thì được Nhà nước bồi thường phần tài sản gắn liền với đất.
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp
luật về thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố
Hà Nội
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật
Hệ thống văn bản pháp luật trong lĩnh vực THĐ là yếu tố rất quan
trọng, là cơ sở, công cụ để các cơ quan quản lý nhà nước về THĐ tác động
57
vào các hành vi, hoạt động THĐ của tổ chức, cá nhân.
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực THĐ càng
đầy đủ, đồng bộ và thống nhất, cụ thể và ổn định, càng tạo điều kiện để nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về THĐ, càng thu hút các nhà đầu tư
vào xây dựng phát triển đô thị, thiết lập trật tự, kỷ cương trong quản lý THĐ;
xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền XHCN.
3.2.1.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Thứ nhất, pháp luật cần quy định rõ, QH KHSDĐ là cơ sở pháp lý, là
quy hoạch “nền” để điều chỉnh các quy hoạch kỹ thuật khác; do vậy, nên tham
khảo quy trình kỹ thuật về xây dựng QH SDĐ của tổ chức FAO trong công
tác lập quy hoạch, thủ tục lập quy hoạch với sự tham gia thực sự của người
dân, các thủ tục phản biện, nghiệm thu hồ sơ trước khi trình cấp có thẩm
quyền phê duyệt.
Bên cạnh đó, quyết định phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là
quyết định hành chính và có liên quan đến hành vi hành chính của cơ quan
nhà nước và những người có liên quan đến việc lập quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất; cho nên đây là đối tượng sẽ bị các chủ thể có liên quan, bị ảnh
hưởng quyền và lợi ích hợp pháp đến việc điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất có quyền khiếu nại, khiếu kiện theo quy định pháp luật hiện hành.
Thứ hai, thẩm quyền phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Trên cơ sở đó, về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đề nghị được sửa
đổi, bổ sung theo hướng:
i) UBND cấp có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết nghị quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất sau khi xin ý kiến cơ quan có thẩm quyền chuyên môn
quản lý về đất đai cấp trên.
Cơ quan có thẩm quyền chuyên môn quản lý về đất đai cấp trên có
58
trách nhiệm kiểm tra các nội dung có liên quan như: sự phù hợp với quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp trên, ranh giới quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất tính khả thi,… và cho ý kiến bằng văn bản.
Nghị quyết của HĐND về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có hiệu lực
thi hành, không phải chờ thủ tục UBND cùng cấp ban hành văn bản.
(ii) Trước khi trình quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc phòng, an
ninh cho Chính phủ phê duyệt, đơn vị lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
gửi hồ sơ đến HĐND cấp tỉnh có liên quan để cho ý kiến. Ý kiến của HĐND
cấp tỉnh là một trong căn cứ để Chính phủ xem xét, phê duyệt quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất.
3.2.1.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về thẩm quyền THĐ, các trường
hợp THĐ và trình tự, thủ tục THĐ
Thứ nhất, cần thiết phải định danh lại thuật ngữ pháp lý “THĐ”
Qua các quy định pháp luật có liên quan đến THĐ (hoặc là trưng dụng
đất với nghĩa tương tự được quy định trong Nghị định 151/TTg) đều thiết kế
theo hướng áp đặt ý chí của Nhà nước đối với NSDĐ, cho dù điều đó được
đặt trong chế độ sở hữu về đất đai như thế nào. Càng về sau, các tiêu chí để
phân định thẩm quyền THĐ càng ít chú trọng đến yếu tố mức độ xáo trộn dân
cư (thể hiện ở số hộ phải di dời), mà thiên về hướng phân cấp cho chính
quyền địa phương khi nguồn nhân lực chưa đáp ứng ngang tầm nhiệm vụ. Từ
khi LĐĐ 1993 quy định đất đai có giá, Chính phủ quy định khung giá các loại
đất cho từng vùng, theo từng thời gian và nguyên tắc, phương pháp xác định
giá các loại đất; và đây là cơ sở để tính giá trị tài sản khi giao đất, bồi thường
khi Nhà nước THĐ [36, Tr.66-67] quyền của NSDĐ cũng được mở rộng hơn.
Tuy nhiên, cách ứng xử của Nhà nước vẫn chưa hướng đến sự bình đẳng
trong quan hệ pháp luật đất đai với các chủ thể khác; mặc dù rằng, trên thực tế
QSDĐ được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, không phải chỉ do Nhà
59
nước giao đất.
Chúng ta có thể thấy rằng, tất cả các bản Hiến pháp đều ghi nhận việc
bảo hộ quyền tài sản hợp pháp của công dân, tổ chức, cho dù cách diễn đạt
trong từng giai đoạn lịch sử có khác nhau. Theo Điều 23 HP 1992: “Tài sản
hợp pháp của tổ chức, cá nhân không bị quốc hữu hóa. Trong trường hợp thật
cần thiết vì lý do an ninh, quốc phòng và lợi ích quốc gia. Nhà nước trưng
mua hoặc trưng dụng có BT tài sản của tổ chức hoặc cá nhân theo thời giá thị
trường…” Khác với các quy định trong các Hiến pháp trước về thủ tục trưng
dụng, trưng mua hoặc trưng thu theo pháp luật quy định, thì trong Điều 23 nói
trên đã khẳng định, thể thức trưng mua, trưng dụng do luật định.
Như đã trình bày, ở nước ta, mặc dù đất đai thuộc sở hữu toàn dân, song
QSDĐ lại là tài sản của NSDĐ. Theo đó, Nhà nước sử dụng biện pháp hành
chính theo quy định pháp luật để định đoạt tài sản là QSDĐ của tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân.
Về mặt ngữ nghĩa ta có thể hiểu “thu hồi” là lấy lại cái đã cấp phát, đã
đưa ra hoặc bị người khác lấy, chẳng hạn như thu hồi tài sản bị lấy cắp, thu
hồi vốn, thu hồi giấy phép kinh doanh [50, tr.1593]. Như vậy, THĐ là việc
Nhà nước lấy lại QSDĐ đã giao cho các tổ chức, cá nhân sử dụng, hoặc lấy
lại QSDĐ hiện do người khác lấn, chiếm đất. Nếu theo cách hiểu như vậy, thì
việc Nhà nước THĐ chỉ phù hợp trong trường hợp các tổ chức được Nhà
nước giao đất không thu tiền sử dụng đất; còn trong các trường hợp QSDĐ
được hình thành từ việc Nhà nước công nhận, giao đất có thu tiền sử dụng đất,
nhất là qua cơ chế đấu giá QSDĐ hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất, thì
thuật ngữ “THĐ” tỏ ra chưa phù hợp, bởi lẽ, QSDĐ vốn dĩ là của họ, Nhà
nước thừa nhận sự thật hiển nhiên đó thôi, hoặc hàng hóa QSDĐ mà người ta
đã “mua” của Nhà nước qua cơ chế đấu giá, hoặc giá được hình thành trên cơ
sở ý chí của Nhà nước mà NSDĐ không được thỏa thuận, đưa ra giá theo ý
60
muốn của mình.
Thứ hai, về thẩm quyền THĐ
Trên cơ sở đó, chúng tôi đề nghị sửa đổi quy định về thẩm quyền THĐ,
trong đó có đất như sau:
(i) Xác định thẩm quyền THĐ là tập thể cơ quan quản lý hành chính
nhà nước theo địa bàn hành chính, dựa trên tiêu chí về quy mô diện tích đất
thu hồi và số hộ gia đình, số nhân khẩu bị tác động, không phân biệt NSDĐ
có đất bị thu hồi là tổ chức hay hộ gia đình, cá nhân, nhằm tránh việc phải đo
đạc địa chính, ban hành quyết định THĐ nhiều lần để thực hiện trên cùng một
dự án đầu tư.
(ii) Giao cho cơ quan Thanh tra theo chức năng, nhiệm vụ do pháp luật
quy định có thẩm quyền xem xét các quyết định THĐ của UBND cấp dưới.
HĐND cấp huyện, HĐND cấp tỉnh giám sát việc ban hành các quyết định
THĐ của UBND cùng cấp, Quốc hội giám sát các quyết định THĐ của
UBND cấp tỉnh, cấp huyện theo quy định pháp luật nhằm tránh những trường
hợp các cơ quan hành chính nhà nước vi phạm về thẩm quyền, nội dung cũng
như trình tự, thủ tục THĐ như đã phân tích ở trên, nhưng chưa được kiểm soát
hữu hiệu từ phía bên trong bộ máy nhà nước.
Thứ ba, về cưỡng chế thi hành quyết định THĐ
Khi đề cập đến trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện
quyết định cưỡng chế THĐ, tại Khoản 5 Điều 71 LĐĐ 2013 quy định:
“Ủy ban nhân dân cấp huyện chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện
việc cưỡng chế, giải quyết khiếu nại liên quan đến việc cưỡng chế theo
quy định của pháp luật về khiếu nại.”
Điều này có nghĩa là, UBND cấp huyện chịu trách nhiệm thực hiện
và giải quyết khiếu nại liên quan đến quyết định cưỡng chế của Chủ tịch
UBND cấp huyện. Nội dung này chưa phù hợp với Khoản 2 Điều 114 Hiến
61
pháp năm 2013.
Hơn nữa, Khoản 3 Điều 71 LĐĐ 2013 đã quy định: “Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp huyện ban hành quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định
THĐ và tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế.”, nên không cần thiết phải
tiếp tục quy định về nhiệm vụ của UBND cấp huyện, vì trách nhiệm tổ chức
thực hiện quyết định cưỡng chế thuộc về Ban thực hiện cưỡng chế.
Vấn đề tiếp theo cần đặt ra có liên quan đến nội dung trên là, tại Điều
17 NĐ 43/2014/NĐ-CP lại quy định về giải quyết khiếu kiện phát sinh từ việc
cưỡng chế THĐ; trong đó có nội dung: “Việc thông báo THĐ, thành phần
Ban thực hiện cưỡng chế THĐ, kinh phí cưỡng chế THĐ, giải quyết khiếu
kiện phát sinh từ việc cưỡng chế THĐ…”. Tuy nhiên, cuối Điều 17 nói trên
quy định: “Trong khi chưa có quyết định giải quyết khiếu nại thì vẫn phải tiếp
tục thực hiện quyết định THĐ, quyết định cưỡng chế THĐ…”. Có thể thấy,
các nhà lập quy đang nhầm lẫn giữa khái niệm “khiếu nại” và khái niệm
“khiếu kiện”.
3.2.2. Các giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về thu hồi đất nông
nghiệp từ thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
3.2.2.1. Mở rộng việc áp dụng cơ chế thỏa thuận đối với các dự án sử
dụng đất nông nghiệp
Trong giai đoạn hiện nay, việc thực hiện cơ chế thỏa thuận để thu hồi đất
được xem như một giải pháp quan trọng góp phần đảm bảo hiệu quả của quá
trình thu hồi đất tránh tình trạng kéo dài, khiếu kiện và tố cáo của người bị thu
hồi. Hoạt động này được hình thành dựa trên cơ sở sự thỏa thuận, do đó người
dân được trực tiếp tham gia thương lượng, xác định giá thành đền bù với doanh
nghiệp có đất bị thu hồi và từ đó tránh được những mâu thuẫn do quyền lợi của
cả 2 bên đều được đáp ứng. Do đó, trong thời gian tới, chúng ta nên cho phép
mở rộng việc thỏa thuận về các dự án sử dụng đất khi bị thu hồi đất, Phúc Thọ
62
có thể là địa phương tiên phong trong việc làm điều này.
Việc mở rộng cơ chế thỏa thuận có thể theo hướng, ngoài mức bồi
thường, hỗ trợ theo quy định của Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành
thì người bị thu hồi đất và các cơ quan đơn vị thu hồi đất có thể thỏa thuận thêm
về mức bồi thường theo biên độ nhất định dựa trên cơ sở giá thị trường. Hoặc
trong trường hợp cần thiết có thể thực hiện cơ chế, mời chuyên gia thẩm định giá
độc lập hoặc các công ty thẩm định giá để tiến hành việc thẩm định giá theo giá
thị trường của mảnh đất có khả năng bị thu hồi để từ đó có phương án thu hồi sát
nhất với giá của thị trường từ đó đảm bảo quyền lợi của người dân. Cơ chế thỏa
thuận trong thu hồi đất được coi là cơ chế mở, linh hoạt, đáp ứng tốt nhất lợi ích
của các chủ thê trong hoạt động thu hồi đất.
3.2.2.2. Đảm bảo đời sống cho người dân có đất bị thu hồi
Tránh tình trạng khiếu kiện khi THĐ, Nhà nước khi thực hiện THĐ
phải: (1) Đảm bảo nguyên tắc dân chủ, khách quan, công bằng, công khai.
Người dân phải được thông báo về kế hoạch THĐ, có quyền và nghĩa vụ tham
gia vào việc kiểm đếm để tránh tình trạng khiếu kiện; (2) luôn ưu tiên bồi
thường bằng việc giao đất mới khi có đủ điều kiện quy định và chỉ bồi thường
bằng tiền khi không có đất để bồi thường; (3) phải bố trí tái định cư, ưu tiên
bố trí tái định cư tại chỗ trong trường hợp hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước
thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở.
3.2.2.3. Minh bạch trình tự, thủ tục, thu hồi và cưỡng chế thu hồi đất
Việc minh bạch quy trình THĐ đòi hỏi không chỉ công khai quy trình,
thủ tục mà còn là quyền của người dân được phép tham gia bàn bạc ngay từ
đầu đối với các dự án thu hồi đất. Việc cưỡng chế thì cần quy định cụ thể trình
tự, thủ tục cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm và quyết định thu hồi đất,
tránh việc lạm quyền của các cơ quan công quyền.
Theo tác giả, trình tự, thủ tục, và cưỡng chế THĐ cần phải hết sức công
khai, minh bạch.
63
3.2.2.4. Nâng cao trình độ, phẩm chất cán bộ, đẩy mạnh tuyên truyền
pháp luật cho người dân
Lực lượng cán bộ làm công tác quản lý đất đai còn thiếu về số lượng,
yếu về chuyên môn, nhất là cán bộ ở cơ sở, dẫn tới tình trạng làm mất lòng tin
của nhân dân. Tiêu cực trong quá trình thu hồi đất, đặc biệt là vấn đề tham
nhũng trong thực hiện bồi thường, hỗ trợ vi phạm nguyên tắc công bằng, dân
chủ, thiếu tính khách quan khi giải quyết công việc cần sớm khắc phục. Cần
phải nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp, đạo đức công vụ cho đội ngũ cán
bộ làm công tác thực thi pháp luật về đất đai, đặc biệt trong các dự án sử dụng
đất vào mục đích phát triển kinh tế.
Cần tiến hành đồng bộ các giải pháp sau:
- Tăng cường tuyển chọn thêm cán bộ, công chức có trình độ chuyên
môn và nghiệp vụ cao phù hợp với nhiệm vụ.
- Bố trí hợp lý cán bộ, công chức phù hợp với năng lực trình độ chuyên
môn của từng người; sàng lọc và loại bỏ những cán bộ thoái hoá, biến chất;
thực hiện quản lý tốt hoạt động của công chức, có chế độ khen thưởng và kỷ
luật, chế độ đãi ngộ thích đáng.
- Thường xuyên tổ chức các lớp, khóa đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ, công chức có liên quan trong lĩnh vực đất đai, đặc biệt là THĐ để thực
hiện tốt nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn thay đổi và nhằm nâng cao
64
tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức.
Tiểu kết chương 3
Tại chương 3 của luận văn, học viên phân tích về phương hướng và giải
pháp nâng cao hiệu quả thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Thứ nhất về phương hướng thu hồi đất nông nghiệp trong giai đoạn
hiện nay. Chúng ta cần đảm bảo các nguyên tắc sau đây. Một là cần đảm bảo
đúng chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước; hai là cần đảm bảo tình
hình thực tiễn phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương; ba là đảm bảo
quyền con người quyền công dân trong thu hồi đất nông nghiệp.
Thứ hai về các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất thì cần
đảm bảo hoàn thiện luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành
về chủ thể có thẩm quyền thu hồi đất, về trình tự, thủ tục thu hồi đất nông
nghiệp, về đền bù hỗ trợ tái định cư trong thu hồi đất nông nghiệp.
Thứ ba về các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thu hồi
đất nông nghiệp chúng ta cần phải thực hiện các giải pháp về tổ chức cán bộ,
nâng cao năng lực, hiệu quả làm việc của các cơ quan nhà nước; cần nâng cao
nhận thức, ý thức của người dân về công tác thu hồi đất, cần đảm bảo quan hệ
65
phối hợp giữa các cơ quan trong hoạt động thu hồi đất.
KẾT LUẬN
THĐ là một vấn đề quan trọng trong chính sách đất đai của Nhà nước,
là bước ngoặt thay đổi cuộc sống, ảnh hưởng đến số phận của nhiều người
dân, nhiều cộng đồng, nhiều địa phương. Vì những lẽ đó, THĐ luôn là một
chế định quan trọng của pháp luật đất đai Việt Nam, và cũng là lĩnh vực
thường xuyên phát sinh nhiều sai phạm.
Trong phạm vi đề tài, luận văn đã nghiên cứu các vấn đề lí luận và
thực tiễn về THĐ trên địa bàn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội. Cụ thể,
đã làm rõ các vấn đề lí luận pháp luật về THĐ, liên quan đến chủ thể,
khách thể, nội dung, biện pháp THĐ. Luận văn cũng đã phân tích các quy
định hiện hành của Luật Đất đai 2013, cũng như của các văn bản pháp lý có
liên quan. Trên cơ sở đối chiếu với Luật Đất đai 2003, đã làm rõ các sự sửa
đổi của Luật Đất đai mới trong THĐ, cũng như các hoạt động định giá, bồi
thường đất sau thu hồi.
Cần lưu ý rằng, những quy định hiện hành vẫn chưa làm rõ cơ chế thực
hiện quyền định đoạt của Nhà nước với vai trò là đại diện chủ sở hữu đất đai;
chưa giải quyết được một cách cụ thể lợi ích giữa người sử dụng đất, Nhà
nước và nhà đầu tư. Quyền của người sử dụng đất chưa được quy định đầy
đủ, nhất là điều kiện thực hiện các quyền. Năng lực đội ngũ cán bộ và việc tổ
chức bộ máy còn chưa đáp ứng được yêu cầu thực thi nhiệm vụ, đặc biệt là ở
cấp cơ sở…
Sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện quy định pháp luật THĐ để phát
triển kinh tế, xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng từ Hiến pháp đến Luật Đất
đai và các luật liên quan có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Minh bạch, dân chủ, công bằng và bình đẳng trong THĐ chính là chìa
khóa tốt nhất để bảo vệ quyền và lợi ích của người dân, tránh khiếu kiện
khiếu nại và những bức xúc xã hội xảy ra trong thời gian qua vừa qua ở địa
66
bàn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội nói riêng và ở Việt Nam nói chung.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI (2012), Nghị quyết Hội nghị
lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014), Quyết định số 1467/QĐ-BTNMT
Phê duyệt và công bố kết quả thống kê diện tích đất đai năm 2013, ngày
21/7.
3. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1995.
4. Ngô Đức Cát (Chủ biên, 2000), Kinh tế tài nguyên đất, Nxb. Nông
nghiệp, Hà Nội
5. Chính phủ (2013), Nghị định 11/2013/NĐ-CP Về Quản lý đầu tư phát
triển đô thị, ngày 14/01, Hà Nội
6. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948,
bản dịch của Trung tâm Nghiên cứu Pháp luật về Quyền con người và
Quyền công dân, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh,
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
9. Đinh Văn Đãn, Lưu Văn Duy (2009), Chuyển đổi cơ cấu lao động nông
dân bị mất đất sản xuất, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, số 12 (74),
tháng 6, Hà Nội
10. Nguyễn Mạnh Hải-Chủ nhiệm đề tài (2009), Vấn đề bồi thường trong
67
THĐ ở Việt Nam: Thực trạng chính sách và giải pháp hoàn thiện, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung
ương (thuộc Bộ Kế hoạch đầu tư), Hà Nội.
11. Đỗ Hậu - Nguyễn Đình Bồng (2010), Quản lý đất đai và bất động sản đô
thị, Nxb. Xây dựng, tr. 5.
12. Phan Trung Hiền (2008), Cơ sở hiến định về THĐ vì mục đích công cộng
ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 12 (128), tháng 8, Hà Nội
13. Nguyễn Ngọc Hiến (Chủ biên) (2003), Hành chính công, Nxb. Thống kê,
tr. 313 - 314.
14. Trần Quang Huy 2010), Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước THĐ, Tạp chí
Luật học, số 10, Hà Nội
15. Trần Quang Huy (Chủ biên, 2013), Giáo trình Luật Đất đai, Nxb. Tư
pháp, Hà Nội
16. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Quyền con người (Tập hợp
những bình luận/khuyến nghị chung của các Ủy ban Công ước của Liên
hiệp quốc), Nxb. Công an nhân dân, tr. 56 - 57.
17. Nguyễn Thị Nga (2010) Pháp luật về trình tự, thủ tục THĐ, bồi thường và
giải phóng mặt bằng và những vướng mắc nảy sinh trong quá trình áp
dụng, Tạp chí Luật học, số 11, Hà Nội
18. Phạm Hữu Nghị (2008), Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo pháp luật
đất đai Việt Nam: Thực trạng và kiến nghị, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật số 10, Hà Nội
19. Nguyễn Thị Nhàn (2010), Pháp luật về THĐ trong giai đoạn hiện nay,
Luận văn Thạc sỹ Luật học, Hà Nội.
20. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo Luật Kinh tế, Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội
21. Phạm Duy Nghĩa (2011), Giáo trình Luật Kinh tế, Nxb. Công an nhân
68
dân, Hà Nội
22. Ngô Hữu Phước - Lê Đức Phương (2013), Văn bản Luật Quốc tế và văn
bản pháp luật Việt Nam phục vụ học tập, nghiên cứu môn Khái luận
chung về Luật Quốc tế, Nxb. Lao động, Hà Nội, tr. 7.
23. Đặng Anh Quân (2012), Đảm bảo quyền lợi của người sử dụng đất trong
công tác quy hoạch sử dụng đất, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 4 (288),
Hà Nội
24. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
25. Quốc hội (2003), Luật Đất đai, Hà Nội.
26. Quốc hội (2005), Bộ Luật Dân sự, Hà Nội.
27. Quốc hội (2008), Luật Trưng mua trưng dụng tài sản, Hà Nội.
28. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
29. Quốc hội (2013), Luật Đất đai, Hà Nội.
30. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Hà Nội.
31. Phan Nhật Thanh (2016), Bàn về nguồn gốc pháp luật, Tạp chí Khoa học
Pháp lý, số 03 (97), Hà Nội
32. Lê Ngọc Thạnh (2010), Xung quanh quy định thời hạn sử dụng đất, Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật, số 11 (224), Hà Nội
33. Nguyễn Đồng Thanh (2010), Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ,
Luận văn Thạc sỹ Luật học, Tp. Hồ Chí Minh.
34. Thanh tra Chính phủ (2010), Báo cáo số 2280/BC-TTCP Tổng kết việc thi
hành Luật khiếu nại, tố cáo (từ năm 2005 đến tháng 6/2009), ngày 04/8.
35. Lê Ngọc Thạnh (2013), Đảm bảo tài sản là QSDĐ của người có đất bị thu
hồi - Nhìn từ quy định trong các bản Hiến pháp và pháp luật đất đai, Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật, số 3 (299), Hà Nội
36. Lê Ngọc Thạnh (2013), Dự thảo Luật Đất đai năm 2013 với các quy định
69
về THĐ, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 04 (236), Hà Nội
37. Trịnh Đức Thảo (2008), Hai lý thuyết và hai loại trách nhiệm về bồi
thường nhà nước, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 1 (115), Hà Nội
38. Phạm Thu Thủy (2014), Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ,
Luận án Tiến sỹ Luật học, Hà Nội.
39. Hồ Thị Lam Trà (Chủ biên) (2008), Giáo trình Định giá đất, Tài liệu sử
dụng cho lớp Cao học Quản lý Đất đai tại Đắk Lắk khóa 2008 - 2010
(trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội tuyển sinh), tr. 1 - 2.
40. Nguyễn Quang Tuyến (2009), Vấn đề lí luận xung quanh khái niệm bồi
thường khi Nhà nước THĐ, Tạp chí Luật học, số tháng 1, Hà Nội
41. Nguyễn Quang Tuyến (2010), Tương đồng và khác biệt giữa pháp luật đất
đai Singapore và pháp luật đất đai Việt Nam - Gợi mở cho Việt Nam trong
quá trình hoàn thiện pháp luật đất đai, Tạp chí Luật học, số 8, Hà Nội
42. Nguyễn Quang Tuyến và Đỗ Xuân Trọng (2012), Hoàn thiện các quy định
của Luật Đất đai về Nhà nưóc điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất đai
không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại, Tạp chí Luật học, số 7
(146), Hà Nội
43. Nguyễn Quang Tuyến và Nguyễn Vĩnh Diện (2015), Trình tự, thủ tục
THĐ và giải phóng mặt bằng theo Luật Đất đai năm 2013, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, số 2(322), Hà Nội
44. Ủy ban Kinh tế Quốc hội, Báo cáo số 1078/BC-UBKT13 Tiếp thu, giải
trình, chỉnh lý dự án Luật đất đai (sửa đổi) Quốc hội khoá XIII, ngày 16
tháng 4 năm 2013
45. UBND thành phố Hà Nội (2015), Quyết định số 22/2014/QĐ-UBND Quy
định mức giá các loại đất định kỳ 05 năm (2015 - 2019), ngày 26/12, Hà Nội
46. UBND thành phố Hà Nội (2014), Quyết định số 96/2014/QĐ-UBND Ban
hành quy định về giá các loại đất trên địa bàn thành phố Hà Nội áp dụng
70
từ ngày 01/01/2015 đến 31/12/2019, ngày 29/12, Hà Nội
47. Viện Khoa học Pháp lý thuộc Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb.
Từ điển Bách khoa - Nxb. Tư pháp.
48. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm
Từ điển học, Hà Nội
49. Nguyễn Cửu Việt (Chủ biên), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và
Pháp luật, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003, tr. 373.
50. Nguyễn Như Ý (Chủ biên, 1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa -
71
Thông tin, Hà Nội