VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THỊ KIM KHÁNH

THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT

ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÚC THỌ

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THỊ KIM KHÁNH

THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT

ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÚC THỌ

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật Kinh tế

Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ

Hà Nội – 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân

tôi, các số liệu, nội dung được trình bày trong luận văn này là hoàn toàn hợp

lệ và đảm bảo tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về đề tài nghiên cứu của mình.

Tác giả

Hoàng Thị Kim Khánh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG

NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ............ 9

1.1. Khái niệm thu hồi đất nông nghiệp ...................................................... 9

1.2. Lý luận pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ................................... 20

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ........... 28

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THU

HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH

PHỐ HÀ NỘI ................................................................................................ 35

2.1. Thực trạng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp .............................. 35

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp tại huyện

Phúc Thọ, thành phố Hà Nội ..................................................................... 45

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP

LUẬT VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT

NÔNG NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH

PHỐ HÀ NỘI ................................................................................................. 56

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp từ

thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội ........................................... 56

3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp

luật về thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành

phố Hà Nội................................................................................................ 57

KẾT LUẬN .................................................................................................... 66

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 67

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

QSDĐ Quyền sử dụng đất

THĐ Thu hồi đất

NSDĐ Người sử dụng đất

LĐĐ Luật đất đất đai

UBND Uỷ ban nhân dân

HĐND Hội đồng nhân dân

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Diện tích các loại đất cần thu hồi trong năm kế hoạch 2018 ......... 49

Bảng 2.2: Diện tích các loại đất cần thu hồi trong năm kế hoạch 2018 ......... 49

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ở nước ta có khoảng 70% dân số sống bằng nghề nông, và phần lớn họ

là những người đã gắn bó đất đai với cả đời người; do vậy việc Nhà nước,

trong những năm gần gây, vì thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước do Đảng ta đề xướng, tiến hành thu hồi đất nông nghiệp để cung

cấp quỹ đất cho các dự án đầu tư xây dựng và cải thiện cơ sở hạ tầng đã phần

nào dẫn đến đảo lộn sinh kế, tập quán canh tác, sinh hoạt,.. của một cộng

đồng dân cư không nhỏ, bởi họ là người bị mất đất sản xuất nông nghiệp, hay

nói một cách khác là mất tư liệu sản xuất, do vậy, một cách nào đó trở thành

người thất nghiệp, đời sống gia đình bị ảnh hưởng. Do đó, việc thu hồi đất cần

được các nhà hoạch định chính sách quan tâm, nhằm đảm bảo an sinh xã hội

và giải quyết cả những thách thức về an ninh lương thực quốc gia.

Theo thống kê, trong tổng số các đơn khiếu nại, ước tính có khoảng

80% số vụ việc liên quan đến lĩnh vực quản lý và sử dụng đất, trong đó có

liên quan đến việc thu hồi đất [34, tr.1]. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, QSDĐ

thuộc về các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất. Bên cạnh đó, QSDĐ

lại có nguồn gốc hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó có việc Nhà

nước công nhận QSDĐ. Ngoài ra NSDĐ còn được giao đất có thu tiền hay

không thu tiền sử dụng đất hoặc nhận chuyển QSDĐ từ phía Nhà nước, từ các

chủ thể sử dụng đất khác. Việc Nhà nước thu hồi đất chính là thu hồi quyền

tài sản, và cũng là tài sản của người sử dụng đất - điều chưa được quy định

trong Hiến pháp năm 1992 trở về trước, chỉ đến khi thông qua Hiến pháp

năm 2013 mới đề cập với nội dung: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá

nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục

đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,

1

công cộng.” [28].

Nhìn chung, thời gian qua, việc thu hồi đất nông nghiệp đã phần nào

đáp ứng được mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an

ninh quốc gia; các quy định về THĐ đã từng bước được điều chỉnh, bổ sung

cho phù hợp, bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích của người bị THĐ. Tuy nhiên,

việc THĐ của các địa phương, trong đó có huyện Phúc Thọ, thành phố Hà

Nội luôn đặt ra những thách thức mà trong quá trình thực thi luôn gặp lúng

túng khi giải quyết, cụ thể có thể kể đến như những bất cập, hạn chế của các

quy định về THĐ dẫn đến một loạt các khiếu kiện của người dân liên quan

đến vấn đề THĐ kéo dài dai dẳng. Không những thế, không sự phản đối quyết

liệt của người dân, người dân biểu tình quanh khu dự án, sinh sống, chực chờ

nhiều ngày gây cản trở cho quá trình thực thi, dẫn đến nhiều dự án bị chậm

tiến độ ảnh hưởng đến đời sống và hoạt động kinh doanh của chủ đầu tư và

người dân trong vùng dự án.

Luật đất đai quy định về chế độ sở hữu đất đai, quyền hạn và trách

nhiệm của Nhà nước được Quốc hội ban hành ngày 29/11/2013 với 14

chương và 212 điều, so với Luật đất đai năm 2003, Luật đất đai năm 2013

tăng 7 điều và 66 điểm. Như vậy, điều này có nghĩa là hoạt động thu hồi đất

đã được luật đất đai năm 2013 thể chế hóa và thể hiện đầy đủ các quy định

của các Nghị quyết của Đảng trong đó có nghị quyết 19/NQ-TƯ của Ban chấp

hành Trung ương Đảng, đồng thời điều này cũng đã khắc phục được những

hạn chế, bất cập và thiếu sót của Luật đất đai năm 2003 được áp dụng trong

10 năm. Đến nay, Luật đất đai năm 2013 đã triển khai được hơn 05 năm, đây

là một khoảng thời gian đủ dài để các nhà nghiên cứu, chuyên gia pháp luật,

các cán bộ quản lý về đất đai và người dân, cộng đồng doanh nghiệp cần phải

có những nhận định, đánh giá một cách tổng quan những thành công cũng

như những trở ngại, vướng mắc của Luật Đất đai năm 2013 trong quá trình

2

triển khai thực hiện trên thực tế.

Chính vì vậy, học viên quyết định chọn vấn đề: Thu hồi đất nông

nghiệp theo pháp luật đất đai từ thực tiễn huyện Phúc Thọ thành phố Hà

Nội, làm luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Thu hồi đất là có ý nghĩa rất lớn trong quá trình thực hiện công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, khi mà để thực hiện mục tiêu này, hàng năm diện tích đất

đai cần thu hồi lên đến hàng ngàn ha. Trong vấn đề thu hồi đất này, điều quan

trọng là cần phải giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa ba bên: Nhà nước - Chủ

đầu tư - Người dân bởi phần lớn các vụ kiện tụng, tranh chấp, gây cản trở cho

giải phóng mặt bằng là do người dân hoặc do tự thân hoặc bị các đối tượng

xấu xúi giục cho rằng khoản tiền nhận đền bù từ Chủ đầu tư dự án là không

thỏa đáng. Là vấn đề có tính “nóng” nên đã có nhiều nghiên cứu, bài báo của

các cơ quan, bộ, ban ngành liên quan, cùng với các nhà học giả quan tâm

nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về đất đai.

Sau khi Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành, đã có một số công

trình nghiên cứu về công tác giải quyết khiếu nại về đền bù, hỗ trợ tái định cư ở

Hà Nội và một số địa phương ví như trường hợp có tác giả nghiên cứu vụ việc

thu hồi đất ở Tiên Lãng, Hải phòng. Ngoài ra, cũng có thể tìm thấy một vài luận

văn về thu hồi đất như tác giả Nguyễn Vinh Diện với Luận văn Thạc sĩ luật học,

2006 về Pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất; tác giả

Nguyễn Duy Thạch với Luận văn Thạc sĩ luật học, 2007 về Pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (qua thực tiễn thi hành tại

thành phố Hà Nội); hay tác giả Hoàng Thị Nga với Luận văn thạc sĩ, 2011 về

Pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng ở Việt Nam hiện nay:

Thực trạng và giải pháp. Các tác giả khác như Đặng Anh Quân, Nhóm phóng

viên Báo Pháp luật Việt Nam với các chuyên đề, tác phẩm báo chí đề cập về vấn

đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất lần lượt là: Bàn về giá đất khi bồi

3

thường - Nên cao hay thấp? (Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, số 8, 2005);.

Những công trình trên có phạm vi nghiên cứu khá rộng, các tác giả đề xuất các

giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất, tuy nhiên, hầu hết các tác giả chưa tập trung vào những

bức xúc xã hội, bất cập của pháp luật đất đai trong thu hồi đất vì mục đích phát

triển kinh tế.

Một số công trình nghiên cứu từ sau khi Luật Đất đai 2013 có hiệu lực

như: tác giả Đỗ Quang Dương, với Luận văn thạc sĩ, 2013 về Thực hiện pháp

luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước THĐ giải phóng mặt

bằng ở quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội; tác giả Nguyễn Minh Tuấn, với

Luận văn thạc sĩ, 2013 về THĐ vì mục đích kinh tế ở Việt Nam hiện nay; tác

giả Phạm Thu Thùy, với Luận án tiến sỹ, 2014 về Pháp luật về bồi thường khi

Nhà nước THĐ ở Việt Nam; tác giả TS. Nguyễn Thị Nga với Đề tài khoa học

cấp Trường - Trường Đại học Luật Hà Nội, 2013 về Pháp luật bồi thường, hỗ

trợ, tái định cư khi nhà nước THĐ - thực trạng và hướng hoàn thiện; tác giả

Nguyễn Bích Ngọc, với Luận văn thạc sỹ, 2014 về Quản lý Nhà nước về đất

đai từ thực tiễn huyện Hà Đông, thành phố Hà Nội; tác giả Nguyễn Minh

Ngọc, với , Luận văn thạc sỹ, 2014 về Giải quyết khiếu nại về đất đai từ thực

tiễn thành phố Hà Nội; tác giả Nguyễn Chu Hùng, với Luận văn thạc sỹ,

2015, về Chính sách pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước

THĐ từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội…

Từ các nghiên cứu nói trên, có thể thấy, mặc dù thời gian qua bất cập

của cơ chế, chính sách pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp bộc lộ khá rõ,

nhưng đến thời điểm này hầu như chưa có tác giả nào nghiên cứu chuyên sâu

về vấn đề này, nhất là trên phạm vi một địa phương cụ thể. Đó cũng là lý do

tác giả chọn đề tài: "Thu hồi đất nông nghiệp theo pháp luật đất đai từ thực

4

tiễn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội”.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn có mục đích là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn

(thông qua việc tìm hiểu tại huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội) của pháp luật

về thu hồi đất nông nghiệp. Từ đó, đề xuất định hướng và giải pháp hoàn

thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở

nước ta nói chung và ở huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội nói riêng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn giải quyết những vấn đề sau:

- Luận văn phân tích, chỉ ra những căn cứ pháp luật cho việc thu hồi đất

nằm tại Điều 62 Luật Đất đai 2013; và phân tích các quy định này đồng thời

chỉ rõ khả năng áp dụng điều luật trong những điều luật cụ thể.

- Luận văn đã đưa ra các phân tích pháp lý về hiện trạng các quy định

của pháp luật có liên quan về thu hồi đất được thể hiện trong luật đất đai năm

2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như xác định được những hạn

chế, tồn tại và nguyên nhân trong quá trình áp dụng tại Huyện Phúc Thọ thành

phố Hà Nội.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực

hiện pháp luật về THĐ trong thời gian tới

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn gồm:

- Các nội dung mang tính lý luận về thu hồi đất và pháp luật về thu hồi

đất đã được các tác giả đề cập trong các công trình nghiên cứu có liên quan.

Đề tài được xây dựng và tiếp tục hoàn thiện dựa trên các công trình của các

5

tác giả đã nghiên cứu.

- Các quy định của pháp luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành

về thu hồi đất nông nghiệp, đặc biệt là các quy định hiện hành trong Luật đất đai

năm 2013.

- Thực tiễn luận văn nghiên cứu thực tiễn thu hồi đất nông nghiệp trên

địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội trong 3 năm từ năm 2015 đến

năm 2018.

- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thực hiện

pháp luật về thu hồi đất trong giai đoạn hiện nay và đặc biệt là trên địa bàn

huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về không gian: nghiên cứu các văn bản từ Luật đất đai năm

2013 đến nay, nghiên cứu tại huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.

- Phạm vi về thời gian: Văn bản Luật đất đai 2013 và thực tiễn thu hồi

đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội trong 3 năm

từ năm 2015 đến năm 2018.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp

duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ

Chí Minh về sở hữu toàn dân về đất đai và thực hiện quyền sở hữu này.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở các phương pháp luận nêu trên, đề tài sử dụng các phương

pháp nghiên cứu cụ thể của ngành luật học như: Phương pháp phân tích,

phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê…kết

hợp giữa lý luận và thực tiễn để tìm hiểu vấn đề. Tùy thuộc nội dung từng

6

chương mà luận văn áp dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau.

- Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp lịch

sử…được sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu những vấn đề cơ bản mang

tính lý luận của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp.

- Phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp đánh

giá…được sử dụng trong Chương 2 khi nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp

luật về thu hồi đất nông nghiệp theo pháp luật đất đai từ thực tiễn huyện Phúc

Thọ, thành phố Hà Nội.

- Phương pháp tổng hợp, phương pháp diễn giải….được sử dụng trong

chương 3 khi nghiên cứu định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu

hồi đất nông nghiệp theo pháp luật đất đai từ thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành

phố Hà Nội.

6. Điểm mới và ý nghĩa của luận văn

Luận văn sẽ có những đóng góp mới chủ yếu sau đây:

- Bổ sung cơ sở lý luận và thực tiễn về thu hồi đất nông nghiệp và pháp

luật về thu hồi đất nông nghiệp đồng thời nghiên cứu và đưa ra các phân tích

để góp phần hoàn thiện về mặt lý luận về thu hồi đất và pháp luật về thu hồi

đất ở Việt Nam hiện nay. Ví dụ như khái niệm, đặc điểm, nội dung của pháp

luật về thu hồi đất. Luận văn cũng đưa ra phân tích về hệ thống các quy định

pháp luật hiện hành về thu hồi đất như chủ thể thu hồi, trình tự thủ tục thu hồi

đất, pháp luật về bồi thường hỗ trợ trong quá trình thu hồi đất; phân tích làm

rõ cơ chế điều chỉnh của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp.

- Luận văn đã nhận diện và phân tích những bất cập của quy định của

Luật Đất đai cũng như các văn bản pháp luật có liên quan khác. Từ đó, đề

xuất giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật đất đai về cơ chế THĐ nông

nghiệp đảm bảo quyền lợi cho các bên có liên quan đến việc THĐ nông

nghiệp. Đồng thời, góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho các cơ quan đưa

ra những quyết sách đảm bảo cho pháp luật về THĐ được thực hiện đầy đủ,

7

nghiêm chỉnh.

- Đánh giá thực trạng thi hành lĩnh vực pháp luật này và chỉ ra những

nguyên nhân của hạn chế, tồn tại. Trên cơ sở đó luận văn đề cập yêu cầu, định

hướng và đưa ra các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông

nghiệp theo pháp luật đất đai từ thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.

- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được tham khảo trong quá

trình nghiên cứu sửa đổi, bổ sung pháp luật đất đai nói chung, pháp luật thu

hồi đất nông nghiệp nói riêng. Ngoài ra, luận văn cũng có thể được sử dụng

như tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy và đào tạo tại các cơ sở

nghiên cứu và đào tạo luật học.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về thu hồi đất nông nghiệp và pháp

luật về thu hồi đất nông nghiệp.

Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thu hồi đất nông nghiệp

tại huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.

Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức

thực hiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn huyện Phúc Thọ,

8

thành phố Hà Nội.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP

VÀ PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP

1.1. Khái niệm thu hồi đất nông nghiệp

1.1.1. Khái niệm đất nông nghiệp

1.1.1.1. Khái niệm đất nông nghiệp

Trước khi đề cập khái niệm đất nông nghiệp, chúng ta cần tìm hiểu khái

niệm “đất đai”. Các nhà khoa học tiếp cận “đất đai” dưới nhiều giác độ như sau:

Thứ nhất, xét dưới góc độ chung phổ biến nhất, thì đất đai là lớp vỏ của

trái đất tồn tại dưới dạng cứng, chứa trong đó những nguồn lực nhất định..

Còn với nghĩa hẹp thì đất đai biểu hiện bằng quyền lợi của một người đối với

đất. Quyền này có thể là những lợi ích hợp pháp của chủ thể có được trên đất

cũng có thể bao gồm cả những quyền đối với đất theo tập quán.

Thứ hai, đất đai là tài sản, vì nó có thuộc tính của một tài sản và còn là

một loại tài sản có khả năng sinh lợi vì trong quá trình sử dụng, nếu ta biết sử

dụng và sử dụng một cách hợp lý thì giá trị của đất (đã được khai thác sử

dụng) không những không mất đi mà có xu hướng tăng lên [39, tr.1-2].

Tùy theo mục đích sử dụng, đất đai được chia thành các loại đất khác

nhau, trong đó có đất nông nghiệp, đôi khi còn gọi là đất canh tác hay đất

trồng trọt là những vùng đất, khu vực thích hợp cho sản xuất, canh tác nông

nghiệp, bao gồm cả trồng trọt và chăn nuôi. Tổ chức Nông lương của Liên

Hợp Quốc (FAO: Food and Agriculture Organization) đã phân chia đất nông

nghiệp như sau:

(i) Đất đai trồng cây hàng năm, được biết đến như loại đất được sử

dụng để trồng lúa, ngô, khoai sắn, tức là các loại cây trồng có chu kỳ ngắn

9

hạn dưới 1 năm.

(ii) Đất trồng cây ăn trái, có giá trị công nghiệp, chu kỳ sản xuất dài từ

trên 1 năm.

(iii) Loại đất trồng cây lâu năm, có thời hạn canh tác trong 1 thời gian

kéo dài.

(iv) Loại đất đồng cỏ để nuôi thả gia súc, như trâu bò, dê cừu.

Theo quan điểm của các nhà nông học, đất đai được sử dụng hầu hết

vào các ngành sản xuất, các lĩnh vực của đời sống, và trên cơ sở đó, đất đai

được phân thành các loại khác nhau và gọi tên theo ngành và lĩnh vực nó

được sử dụng.

Kế thừa Điều 13 LĐĐ 2003, Điều 10 LĐĐ 2013 cũng căn cứ vào mục

đích sử dụng, đất đai được phân loại thành 3 nhóm: nhóm đất nông nghiệp,

nhóm đất phi nông nghiệp và nhóm đất chưa sử dụng; trong đó nhóm đất

nông nghiệp bao gồm: (i) Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa, đất đồng

cỏ dùng vào chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm khác; (ii) Đất trồng cây lâu

năm; (iii) Đất rừng sản xuất; (iv) Đất rừng phòng hộ; (v) Đất rừng đặc dụng;

(vi) Đất nuôi trồng thuỷ sản; (vii) Đất làm muối; (viii) Đất nông nghiệp khác

theo quy định của Chính phủ.

Về tên gọi các loại đất trong LĐĐ 2003, LĐĐ 2013 so với LĐĐ 1993

có sự khác nhau. Đó là việc phân chia thành 3 nhóm đất: nhóm đất nông

nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp và nhóm đất chưa sử dụng, thay vì chia ra

thành 5 loại đất như trước đây: Đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất đô thị,

đất chuyên dùng và đất chưa sử dụng. Theo tác giả, khi các nhà lập pháp đề

cập yếu tố “nhóm” là muốn nhấn mạnh đến việc tập hợp những cá thể lại với

nhau theo những nguyên tắc nhất định [50, tr.1255]. Tuy nhiên, khi xét đến

yếu tố tần suất của các cụm từ phân loại đất trong LĐĐ 2003 và LĐĐ 2013

(Phụ lục 1), chúng ta thấy rằng:

Trong LĐĐ 2003 có: (1) 42 lần xuất hiện cụm từ: “nhóm đất nông

10

nghiệp” và “đất nông nghiệp”; trong đó có 1 lần xuất hiện cụm từ “nhóm đất

nông nghiệp”, chiếm tỷ lệ 2,43% và 41 lần xuất hiện cụm từ “đất nông

nghiệp” được sử dụng với nghĩa như là “nhóm đất nông nghiệp”, chiếm tỷ lệ

97,57%; (2) 20 lần xuất hiện cụm từ: “nhóm đất phi nông nghiệp” và “đất phi

nông nghiệp”; trong đó có 1 lần xuất hiện cụm từ “nhóm đất phi nông

nghiệp”, chiếm tỷ lệ 5% và 19 lần xuất hiện cụm từ “đất phi nông nghiệp”

được sử dụng với nghĩa như là “nhóm đất phi nông nghiệp”, chiếm tỷ lệ 95%.

Cũng tương tự như vậy, trong LĐĐ 2013 có: (1) 101 lần xuất hiện cụm

từ: “nhóm đất nông nghiệp” và “đất nông nghiệp”; trong đó có 1 lần xuất hiện

cụm từ “nhóm đất nông nghiệp”, chiếm tỷ lệ 0,009% và 100 lần xuất hiện

cụm từ “đất nông nghiệp” được sử dụng với nghĩa như là “nhóm đất nông

nghiệp”, chiếm tỷ lệ 99,99%; (2) 29 lần xuất hiện cụm từ: “nhóm đất phi nông

nghiệp” và “đất phi nông nghiệp”; trong đó có 1 lần xuất hiện cụm từ “nhóm

đất phi nông nghiệp”, chiếm tỷ lệ 0,03% và 28 lần xuất hiện cụm từ “đất phi

nông nghiệp” được sử dụng với nghĩa như là “nhóm đất phi nông nghiệp”,

chiếm tỷ lệ 99,97%.

Các số liệu phân tích nêu trên cho thấy, các cụm từ: “nhóm đất nông

nghiệp”, “nhóm đất phi nông nghiệp” chỉ xuất hiện trong điều luật định danh cho

việc phân loại đất; còn khi sử dụng ở những nội dung khác, cụm từ “đất nông

nghiệp” được sử dụng với nghĩa như là “nhóm đất nông nghiệp”, và cụm từ “đất

phi nông nghiệp” được sử dụng với nghĩa như là “nhóm đất phi nông nghiệp”.

Như vậy, so với quan điểm của FAO, và các nhà khoa học, khái niệm

đất nông nghiệp theo quy định pháp luật cũng dựa trên tiêu chí chung, đó là

căn cứ vào mục đích sử dụng đất để phân loại. Tuy nhiên, khái niệm được mở

rộng hơn, ngoài đất sản xuất nông nghiệp còn có đất sử dụng vào mục đích

lâm nghiệp, đất làm muối và cả loại đất nông nghiệp khác.

Từ đó, có thể đưa ra khái niệm như sau:

Đất nông nghiệp là tập hợp các loại đất phù hợp với việc sản xuất vào

11

mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối, được cơ

quan nhà nước có thẩm quyền ấn định mục đích sử dụng thông qua công cụ

quy hoạch sử dụng đất.

1.1.1.2. Vai trò của đất nông nghiệp

Mặc cho vai trò của đất đối với mỗi ngành sản xuất có tầm quan trọng

khác nhau, đất đai vẫn là cơ sở tự nhiên, là tiền đề cho mọi quá trình sản xuất

đúng như Williams Petty khẳng định: “Lao động là cha, đất là mẹ sinh ra mọi

của cải vật chất của thế giới này” [11, tr.5]. LĐĐ 1993 cũng đã từng khẳng

định “Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc

biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn

phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh

và quốc phòng”.

Đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng có vai trò vô cùng quan

trọng, thể hiện ở những điểm sau:

Thứ nhất, dưới giác độ chính trị, pháp lý: lãnh thổ xác định (trong đó có

đất đai, đất nông nghiệp) cùng với dân cư ổn định, chính quyền và khả năng

tham gia vào mối quan hệ quốc tế là một trong những bộ phận hợp thành các

yếu tố cấu thành quốc gia theo Điều 1 Công ước Montevideo 1933 [22, tr.7].

Thứ hai, đất đai là nguồn lực quan trọng trong bất kỳ ngành sản xuất

nào, đặc biệt đối với sản xuất nông nghiệp có liên quan mật thiết đến các yếu

tố đặc thù của đất nông nghiệp như tính chất lý hóa của đất, độ phì nhiêu, khí

hậu... Tất cả những loại này đều là đất có giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế

rất cao.

Thứ ba, tổng diện tích đất nông nghiệp cả nước tính đến 31/12/2013 là:

26.822.953 ha/33.096.731 ha tổng diện tích đất tự nhiên, chiếm tỷ lệ 81,04%

[2]. Đây là nguồn lực quan trọng để cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến

hành việc chuyển mục đích sử dụng đất, xây dựng cơ sở hạ tầng cũng như các

khu công nghiệp, khu chế xuất,… phục vụ cho mục tiêu công nghiệp hóa,

12

hiện đại hóa đất nước.

1.1.1.2. Đặc điểm của đất nông nghiệp

Ngoài những đặc điểm chung của đất đai, như đó là tài sản không do

con người tạo ra, có tính cố định và không thể di dời,… đất nông nghiệp còn

có những đặc điểm riêng cơ bản sau đây:

Thứ nhất, đất nông nghiệp là loại đất mà giá trị sử dụng phụ thuộc chủ

yếu vào chất lượng đất đai, độ màu mỡ phì nhiêu của đất.

Gía trị của đất đô thị, đất ở hay một số loại đất chuyên dùng khác phụ

thuộc chủ yếu vào các yếu tố như vị trí địa lý của khu đất đó, khả năng sinh

lợi, mức độ hoàn thiện của hệ thống cơ sở hạ tầng, hướng, hình thể, kích

thước, diện tích v.v. Đối với đất nông nghiệp, do sử dụng làm tư liệu sản

xuất, nên giá trị của loại đất này lại phụ thuộc vào các yếu tố nông, hóa, thổ

nhưỡng như độ phì nhiêu, tầng dày của lớp đất mặt, độ dốc, độ PH (độ

chua) v.v.. Độ phì hay độ màu mỡ là một thuộc tính tự nhiên của đất nông

nghiệp và là yếu tố quyết định chất lượng của đất. Đây là một đặc trưng

của đất nông nghiệp, thể hiện khả năng cung cấp thức ăn, nước cho cây

trồng trong quá trình phát triển.

Đặc điểm này của đất nông nghiệp đã minh chứng rõ vì sao trong các

quy định của pháp luật hiện hành về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, về các

trường hợp thu hồi đất, về chuyển mục đích sử dụng đất v.v. thì đối với loại

đất nông nghiệp có giá trị cao, đặc biệt là đất trồng lúa nước - loại đất mà

nguồn sống và thu nhập của gần 70% dân số trông chờ vào đó, được Nhà

nước quy định hết sức nghiêm ngặt, với chủ trương hạn chế thu hồi để đảm

bảo đời sống cho họ và cao hơn là vì sự an toàn lương thực của quốc gia.

Thứ hai, đất nông nghiệp được sử dụng làm tư liệu sản xuất trực tiếp và

không thể thay thế được trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng

thủy sản và làm muối.

Như đã đề cập trong phần khái niệm đất nông nghiệp cho thấy, đất

13

nông nghiệp là tổng thể của nhiều loại đất được sử dụng trong lĩnh vực sản

xuất nông nghiệp. Bởi trong thực tế khai thác và sử dụng đất của các tổ chức,

hộ gia đình, cá nhân, có những loại đất mà khởi nguồn chúng được sử dụng

cho mục đích chính là sản xuất nông nghiệp như: trồng trọt, chăn nuôi, nuôi

trồng thủy sản, trồng các loại cây ăn quả hay các loại cây lâu năm, song do

nhu cầu tự thân của mỗi chủ thể muốn thay đổi mục đích sử dụng nhằm nâng

cao hiệu quả sử dụng đất, hoặc trong nhiều trường hợp vì lợi ích của những

loại đất sử dụng cho mục đích khác có giá trị cao hơn so với đất nông nghiệp

mà họ đang sử dụng nên các chủ thể đã tự ý thay đổi mục đích so với ban đầu

- và chúng trở thành đất phi nông nghiệp. Sự thay đổi mục đích này có thể

Nhà nước kiểm soát được và cho phép, song cũng có trường hợp Nhà nước

không kiểm soát được. Trong trường hợp này, mục đích sử dụng đất trong

hồ sơ, giấy tờ là đất nông nghiệp, song trên thực tế họ lại sử dụng cho mục

đích phi nông nghiệp như: sử dụng đất vườn ao để làm nhà ở, sử dụng đất

nông nghiệp tiếp giáp với trục giao thông để làm địa điểm kinh doanh phi

nông nghiệp, chuyển từ loại đất trồng cây hàng năm sang loại đất trồng cây

lâu năm...

Với những phân tích trên đây, có thể thấy đất nông nghiệp là loại đất

khá đặc thù trong vốn đất quốc gia, đặc biệt đối với một đất nước đi lên từ nền

kinh tế nông nghiệp như ở Việt Nam. Chính những đặc điểm riêng có của đất

nông nghiệp đã chi phối, ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách, pháp luật của

Nhà nước về bồi thường khi thu hồi đất. Trong quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước, việc thu hồi đất nông nghiệp chuyển sang mục đích phi

nông nghiệp là cần thiết nhưng không có nghĩa là phát triển công nghiệp bằng

mọi giá mà không tính đến sự phát triển bền vững của đất nước. Vì vậy, pháp

luật đất đai cần có sự kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đất nông nghiệp, nhất là

đất trồng lúa, đất có rừng sang sử dụng vào mục đích khác, nhằm đảm bảo

vững chắc an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ môi trường sinh thái và đặc

14

biệt là quyền lợi chính đáng của người dân. Chính vì vậy, khi thu hồi đất nông

nghiệp, việc bồi thường không đơn giản là việc trả lại giá trị quyền sử dụng

đất bị thu hồi mà cần phải tính đến những tác động sâu sắc của việc thu hồi đất

gây ra cho người nông dân như mất việc làm, mất kế sinh nhai, bất ổn định đời

sống và sản xuất. Từ đó đặt ra vấn đề, song song với bồi thường khi thu hồi đất

nông nghiệp, Nhà nước cần phải có kế sách an dân, chú trọng thực hiện chính

sách hỗ trợ để ổn định đời sống, ổn định sản xuất cho người dân sau thu hồi đất.

1.1.2. Khái niệm thu hồi đất nông nghiệp

1.1.2.1. Khái niệm thu hồi đất nông nghiệp

Thực chất, nếu xét dưới góc độ cơ bản nhất thì hoạt động thu hồi đất

được hiểu là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi QSDĐ của người

vi phạm quy định về sử dụng đất để Nhà nước giao cho người khác sử dụng

hoặc trả lại cho chủ sử dụng đất bị lấn chiếm. Trường hợp thật cần thiết, Nhà

nước THĐ đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích

quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng [15, tr.132] Điều này

được thể hiện trong Từ điển Luật học. Có thể thấy, nội hàm của khái niệm này

chưa bao quát hết các trường hợp THĐ của Nhà nước.

Từ điển tiếng Việt cắt nghĩa thu hồi là “thu về lại, lấy lại cái trước đó

đã đưa ra, đã cấp phát hoặc bị mất vào tay kẻ khác.” [48, tr.924]. Như vậy,

THĐ là việc Nhà nước lấy lại QSDĐ đã giao cho các tổ chức, cá nhân sử

dụng, hoặc lấy lại QSDĐ hiện do người khác lấn, chiếm đất của Nhà nước.

Trong quá trình xây dựng LĐĐ năm 2013, tồn tại nhiều quan điểm, ý

kiến bàn luận về khái niệm “thu hồi đất”. Tuy nhiên, từ trước đây cũng có

quan điểm cho rằng việc thu hồi đất là do nhà nước phát hiện ra tình trạng vi

phạm pháp luật đất đai của chủ thể và tiến hành thu hồi để đảm bảo trật tự

pháp luật chung. Lý do được đưa ra là quan điểm này cho rằng khi Nhà nước

giao đất, cho thuê đất hoặc được cấp giấy chứng nhận QSDĐ, mặc dù không

15

có quyền sở hữu nhưng người dân hoặc tổ chức đã được xác lập quyền sử

dụng với ý nghĩa là quyền tài sản tư. Như vậy, trong quá trình sử dụng đất,

họ được “định đoạt” QSDĐ hợp pháp của mình. Do đó, Nhà nước không

được áp đặt việc THĐ mà phải thay cơ chế “Nhà nước THĐ” của LĐĐ

bằng cơ chế “Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng QSDĐ” và chỉ áp dụng

trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích

quốc gia, công cộng.

Xuất phát từ quan hệ đất đai của Việt Nam là chế độ sở hữu toàn dân

mà nhà nước là chủ thể đại diện quản lý. Chính vì vậy, nhà nước thực hiện

việc thu hồi nếu xét thấy cần thiết cho các mục đích khác nhau. Do vậy,

quyết định THĐ đúng pháp luật của nhà nước bản thân nó là không xâm

phạm tới quyền tài sản tư của người dân hoặc tổ chức được Nhà nước giao

đất, cho thuê đất.

Tổng hợp tất cả các quan điểm trên, dựa trên đặc điểm chung của hoạt

động thu hồi đất thì Quốc hội đã ban hành Hiến pháp và đưa ra quy định về

thu hồi đất như sau: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng

trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh;

phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải

công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật." Như

vậy, việc THĐ và bồi thường của Nhà nước đã được ghi nhận trong Hiến

pháp với tư cách là đạo luật gốc.

Từ những trình bày trên đây, có thể quan niệm thu hồi đất là việc Nhà

nước quyết định thu lại QSDĐ thuộc sở hữu toàn dân của người được trao

QSDĐ hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai."

Khoản 11 Điều 3 Luật đất đai đã thể hiện quan điểm này trong điều luật, do

đó, ta có thể thấy quan điểm về thu hồi quyền sử dụng đất là khá thống nhất.

Nói tóm lại, dù vấn đề THĐ đặt ra ở nhiều phương diện khác nhau,

theo đó, THĐ có thể vì lý do nhằm đảm bảo một trật tự chung trong quản

16

lý nhà nước về đất đai, đảm bảo sự tôn trọng và tuân thủ pháp luật đất đai

đối với người sử dụng đất hay THĐ để phục vụ cho những nhiệm vụ và

mục tiêu quan trọng của đất nước như quốc phòng, an ninh, phát triển kinh

tế, xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng thì THĐ phải được hiểu dưới các

khía cạnh sau đây:

- Quyết định THĐ là một quyết định hành chính làm chấm dứt quyền

sử dụng đất của người sử dụng đối với một diện tích đất cụ thể. Quyết định

này chỉ được ban hành bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo luật định;

- Quyết định hành chính thể hiện quyền lực nhà nước nhằm thực thi nội

dung của quản lý nhà nước về đất đai và với vai trò là chủ sở hữu đại diện

toàn bộ vốn đất đai trong cả nước nhằm để phân bổ và điều chỉnh đất đai trên

thực tế cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và nhu cầu của các

chủ thể sử dụng đất;

- Qúa trình thu hồi đất xuất phát từ các yêu cầu khác nhau của nhà nước

trong đó có yêu cầu trong việc xử lý vi phạm pháp luật về sử dụng đất của các tổ

chức và cá nhân.

Dựa trên cơ sở khái niệm thu hồi đất như trên, và khái niệm đất nông

nghiệp chúng ta có thể rút ra khái niệm thu hồi đất nông nghiệp như sau: Thu

hồi đất nông nghiệp là việc Nhà nước ban hành quyết định hành chính để thu

tài sản là quyền sử dụng đất nông nghiệp của người sử dụng đất hoặc thu lại

đất nông nghiệp đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý trong

những trường hợp cụ thể và Nhà nước có trách nhiệm bồi thường giá trị thiệt

hại, hỗ trợ nhằm đảm bảo cuộc sống của người sử dụng đất theo quy định của

pháp luật.

1.1.2.2. Đặc điểm của thu hồi đất nông nghiệp

Qua việc phân tích khái niệm THĐ, ta thấy rằng THĐ có ba đặc điểm cơ

bản sau:

17

Thứ nhất, THĐ phải do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành

Thực tế cho thấy, việc THĐ dù với lý do gì cũng đều dẫn tới hệ quả

làm mất đi quyền khai thác, sử dụng và sinh sống ổn định của một chủ thể đối

với đất bị thu hồi, do đó, việc chấm dứt đó phải hết sức thận trọng và cân nhắc

kỹ lưỡng. Vì lẽ đó, chỉ những cơ quan nào có thẩm quyền THĐ theo quy định

của pháp luật thì cơ quan đó mới được thực hiện quyền này mà không cơ

quan nào khác có quyền này.

Thứ hai, Hoạt động thu hồi đất cần được tiến hành theo một trình tự,

thủ tục và quá trình nhất định

Thu hồi đất mang tính quản lý đất đai rất quan trọng. Bất kỳ một quyết

định THĐ nào làm chấm dứt QSDĐ của những người đang sử dụng đất thì

đều phải được thực hiện theo những quy trình và thủ tục với các bước tiến

hành cụ thể do pháp luật quy định nhằm đảm bảo tính minh bạch, dân chủ,

công khai.

Thứ ba, THĐ thể hiện tính hành chính mệnh lệnh, bắt buộc.

Việc THĐ trước hết sử dụng phương pháp giáo dục, thuyết phục tuy

nhiên vì THĐ làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích của các chủ thể đang sử dụng

đất, do vậy, Nhà nước thường sử dụng phương pháp mệnh lệnh, hành chính.

Sở dĩ THĐ thể hiện tính hành chính mệnh lệnh bắt buộc là bởi THĐ được

thực hiện giữa một bên là Nhà nước, bên kia là người chiếm giữ, quản lý sử

dụng đất. Mà các phương pháp để thực hiện sự quản lý của Nhà nước hữu

hiệu nhất trong trường hợp này chính là phương pháp mệnh lệnh hành chính

bởi Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý đất đai.

Ngoài ra, thì THĐ còn có một số đặc điểm khác như:

Một là, đối tượng bị THĐ là QSDĐ của người được Nhà nước trao

QSDĐ, đất của người vi phạm pháp luật về đất đai;

Hai là, Chủ thể có liên quan đến việc thu hồi đất bằng quyền của mình

18

có thể khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện người có thẩm quyền trong việc thu

hồi đất, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi và hỗ trợ người thu hồi đất bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của mình.

Ba là, Qúa trình thu hồi đất mối quan hệ giữa chủ thể có thẩm quyền

thu hồi và chủ thể bị thu hồi đất không hình thành quan hệ thỏa thuận và

ngang giá, cũng như không có sự trao đổi mà nhà nước thu hồi bằng mệnh

lệnh hành chính và có trách nhiệm bồi thường cũng như hỗ trợ tái định cư,

chuyển đổi công việc.

1.1.2.3. Ý nghĩa của việc thu hồi đất nông nghiệp

Cũng như các hoạt động quản lý khác, hoạt động THĐ là một hiện

tượng tất yếu, khách quan cho đời sống chung của xã hội. Sự tồn tại của hoạt

động THĐ có nhiều ý nghĩa đối với Nhà nước, xã hội, hệ thống pháp luật và

đối với nhân dân, mà cụ thể là đối với các chủ thể, các yếu tố có liên quan đến

quản lý nhà nước về THĐ. Với tư cách là đại diện chủ sở hữu đất đai và thống

nhất quản lý về đất đai, Nhà nước trao QSDĐ cho người sử dụng đất. Mặt

khác, THĐ lại là một trong những hoạt động thể hiện quyền thống nhất quản

lý, đại diện chủ sở hữu đất đai của Nhà nước. Nó là quyền tuyệt đối và duy

nhất thuộc về Nhà nước- chủ thể đặc biệt của quyền lực chính trị.

Để quá trình THĐ diễn ra trong một trật tự ổn định, vừa đảm bảo lợi

ích, an toàn trong việc sử dụng đất, vừa đảm bảo lợi ích cho toàn xã hội, vừa

đảm bảo tốt công tác quản lý về THĐ thì cần phải có sự quản lý của Nhà

nước. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Quyền

sở hữu bao gồm: quyền chiếm hữu, quyền định đoạt và quyền sử dụng. Người

sử dụng đất chỉ được giao quyền sử dụng, không được quyền sở hữu. Chính vì

vậy, khi thực hiện triển khai công tác quản lý đất đai Nhà nước sẽ THĐ trong

trường hợp thật sự cần thiết do luật định. Nếu không có sự quản lý của nhà

nước thì trật tự quản lý sẽ bị đảo lộn; tình trạng tùy tiện, lạm quyền có nguy

cơ bùng phát; người dân sẽ không tuân thủ, chấp hành trong việc bàn giao mặt

19

bằng cho nhà nước; mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ không đạt

được; nguy cơ mâu thuẫn, tranh chấp trong trong THĐ gia tăng; mối bất hòa

giữa nhà nước, nhà đầu tư và người dân bùng phát là nguyên nhân gây ra bất

ổn xã hội. Khi đó, quyền lợi của người dân, của nhà nước sẽ không được bảo

đảm hài hòa và bình đẳng. Vì thế, cần phải có sự quản lý của nhà nước về

THĐ nhằm giải quyết hài hòa lợi ích của người sử dụng đất, lợi ích của xã

hội và lợi ích của nhà đầu tư trên nền tảng của sự minh bạch, dân chủ và công

khai.

1.2. Lý luận pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp

1.2.1. Sự cần thiết của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp

Trong các tác phẩm kinh điển của mình C.Mác phân tích rằng: “Pháp

luật phải lấy xã hội làm cơ sở, pháp luật phải là sự biểu hiện của lợi ích và

nhu cầu chung của xã hội”, “chừng nào Bộ luật không còn thích hợp với xã

hội nữa thì nó sẽ biến thành mớ giấy lộn.” [3, tr.332-333]. Hay nói cách khác,

với tư cách là phạm trù thuộc kiến trúc thượng tầng, pháp luật phải phản ánh

phù hợp với cơ sở hạ tầng đang tồn tại. Do vậy, THĐ cho dù với mục đích gì

và trong trường hợp nào thì bản chất của nó cũng thể hiện mối quan hệ có liên

quan đến tài sản giữa một bên là Nhà nước và một bên là NSDĐ, cần thiết

phải được điều chỉnh bằng pháp luật, và pháp luật THĐ này phải căn cứ từ

thực tiễn để có thể đưa ra những quy định phù hợp, không phải là “mớ giấy

lộn”. Việc điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động thu hồi đất của nhà nước là

nhằm thể hiện thông qua các phương diện chính sau đây:

Thứ nhất, xuất phát từ vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh các

quan hệ xã hội

Quan hệ THĐ do vậy không chỉ là quan hệ giữa các chủ thể sử dụng

đất thông thường, mà còn là quan hệ giữa Nhà nước và người sử dụng đất –

quan hệ mà về bản chất là không mang tính bình đẳng. Không những thế,

việc THĐ còn làm ảnh hưởng tới quyền của chủ thể sử dụng đất và phần

20

nào làm ảnh hưởng tới đời sống của những cá nhân đang sử dụng đất. Do

vậy, khi thực hiện THĐ dễ đẫn đến tâm lý phản kháng của nhân dân, nhất

là khi bị lực lượng xấu xúi giục. Ngoài ra, để tránh việc lạm quyền, sai sót

trong công tác THĐ, làm mất niềm tin của nhân dân, việc thu hồi này

không được hành xử tùy tiện mà phải tuân thủ pháp luật nhằm đảm bảo

thực hiện lợi ích của Nhà nước, của xã hội, không làm phương hại đến lợi

ích hợp pháp của người bị THĐ.

Thứ hai, thông qua hoạt động quy định của pháp luật, thực hiện quyền

quản lý nhà nước thì sẽ bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của người bị thu hồi

đất, bảo đảm được tính chặt chẽ, đúng luật của hoạt động này.

Việc THĐ theo sự điều chỉnh của pháp luật giúp thực hiện tốt công

nghiệp hóa, hiện đại hóa mang lại diện mạo mới cho đất nước theo đường lối

mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Ngoài ra, THĐ được điều chỉnh bằng pháp

luật sẽ đảm bảo việc bồi thường đối với người sử dụng đất mà có đất bị thu

hồi được Nhà nước sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật, quyền của

người có đất bị thu hồi còn bị đảm bảo bởi Nhà nước còn phải có chính sách

hỗ trợ, ổn định đời sống cho cư dân bị thu hồi đất, hay hỗ trợ công ăn việc

làm cho người sử dụng đất nông nghiệp bị thu hồi. Nhờ những công tác này

sẽ hạn chế sự phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện từ phía người dân có đất bị

thu hồi, từ đó góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội, ổn định chính trị.

Thứ ba, Trong quá trình thu hồi đất, việc bồi thường hỗ trợ khi thu hồi

đất chính là quá trình đảm bảo tính công bằng và hài hòa hóa lợi ích giữa

các bên.

Ở nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc các chủ thể tuân thủ và

đảm bảo tính pháp chế là rất quan trọng, quyền và lợi ích của chủ thể này sẽ

không bị xâm phạm nếu như họ không làm ảnh hướng đến chủ thể khác. Qua

việc chấp hành, tuân thủ các quy định của pháp luật đất đai nói chung THĐ

nói riêng, người bị THĐ tự điều chỉnh hành vi ứng xử của mình, giúp người

21

bị THĐ vừa có thể đòi hỏi được sự bảo hộ cho lợi ích hợp pháp của mình,

đồng thời lại không gây phương hại cho Nhà nước và xã hội. Không những

thế, việc tuân thủ pháp luật trong THĐ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền

còn góp phần làm hạn chế thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của NSDĐ.

Nhờ vậy, mới có thể giảm bớt những tranh chấp phát sinh khi Nhà nước THĐ

nông nghiệp.

Thứ tư, việc quy định rõ ràng, đầy đủ hệ thống pháp luật thì quá trình

thu hồi đất sẽ thuận lợi hơn.

Những nội dung như khi nào là THĐ cho phát triển kinh tế vì lợi ích

quốc gia, công cộng; hay cơ sở, căn cứ của việc THĐ; hay thẩm quyền, trình

tự, thủ tục thu hồi và phương thức giải quyết hậu quả do việc THĐ gây ra chỉ

có thể thông qua việc được thể chế, quy định bằng pháp luật mới đảm bảo

được tính rõ ràng, minh bạch và nhờ vậy mà đảm bảo được sự tuân thủ đồng

bộ từ trên xuống dưới, hay giữa các trường hợp trong cùng một vụ việc THĐ.

1.2.2. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp

Pháp luật vẫn là phương thức quản lý nhà nước và điều chỉnh quan hệ

xã hội hiệu quả nhất. Nhóm quan hệ xã hội trong lĩnh vực đất đai nói chung

và trong lĩnh vực thu hồi đất nói riêng do vậy cũng được điều chỉnh bằng

pháp luật nhằm định hướng các quan hệ này đi theo một trật tự chung.

Nghiên cứu, tìm hiểu nội dung các quy định về nguyên tắc, điều kiện,

nội dung và phương thức bồi thường, trình tự, thủ tục, việc giải quyết khiếu

nại, tố cáo về THĐ, và bồi thường THĐ nông nghiệp có thể thấy pháp luật về

thu hồi đất nông nghiệp là một chế định quan trọng của pháp luật đất đai Việt

Nam và được hiểu về mặt lý luận như sau: “Pháp luật về thu hồi đất nông

nghiệp là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều

chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp, nhằm giải quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của chủ

22

đầu tư và của người bị thu hồi đất”.

Đặc điểm pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp

Đặc điểm của hệ thống quy định pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp:

Thứ nhất, với đặc trưng “Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất

đai và thống nhất quản lý về đất đai”1, pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp

cũng chịu sự ảnh hưởng và chi phối bởi hình thức sở hữu toàn dân về đất đai.

Như vậy, với tính chất là chủ thể thực hiện quyền đại diện của toàn dân trong

lĩnh vực đất đai thì nhà nước thực hiện hoạt động phân bổ và phát triển hệ

thống quy hoạch kế hoạch sử dụng đất. Điều này có nghĩa hệ thống pháp luật

về thu hồi đất được xác định mang tính chất đặc biệt riêng có.

Thứ hai, cơ sở để thu hồi đất nông nghiệp không chỉ dựa trên những

nhu cầu cần thiết để phát triển kinh tế, xã hội cũng như đảm bảo an ninh quốc

phòng và thu hồi khi có vi phạm, trong đó có tính đến thiệt hại vật chất thực

tế, mà người nông dân phải gánh chịu khi Nhà nước thu hồi đất, mà còn phải

tính đến những tổn hại phi vật chất ở thời điểm thu hồi và trong tương lai mà

người nông dân phải đối mặt. Bởi lẽ, đối tượng bị thu hồi đất nông nghiệp có

điều kiện sống và công việc để mưu sinh mang đặc thù riêng, khác với các

chủ thể sử dụng đất khác, đất bị thu hồi chính là tư liệu sản xuất chính không

gì thay thế được, của một nghề nghiệp được coi là duy nhất đối với người

nông dân.

Thứ ba, Có thể nói trong quá trình điều chỉnh pháp luật về thu hồi đất

thì hệ thống này phải điều chỉnh mang tính hài hòa lợi ích công và tư giữa nhà

nước và người sử dụng đất. Điều này bởi vì quyền sử dụng đất là một loại

quyền về tài sản được pháp luật bảo hộ, hơn thế nữa đất nông nghiệp còn

được coi là tư liệu sản xuất đặc thù của người nông dân, do vậy, khi thu hồi

đất để sử dụng cho mục đích chung thì Nhà nước phải chú trọng bảo đảm

quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất nông nghiệp bị thu hồi, dựa

23

trên cơ sở. 1 Điều 1 Luật đất đai năm 2013

Như vậy có thể thấy pháp luật về THĐ nông nghiệp là lĩnh vực thu hút

sự quan tâm của nhiều giai tầng trong xã hội do nó có liên quan trực tiếp đến

lợi ích của người bị thu hồi đất, cũng như các tổ chức được giao đất để sử

dụng đất. Chính vì vậy nếu các quy định về THĐ nói chung và THĐ nông

nghiệp nói riêng mà được ban hành phù hợp với thực tiễn, bảo hộ quyền và

lợi ích hợp pháp của người dân thì được dân đồng tình ủng hộ, chính sách

pháp luật dễ đi vào thực tiễn cuộc sống; kết quả là việc thu hồi đất được thực

hiện nhanh chóng, dứt điểm.

1.2.3. Cơ cấu về nội dung của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp

Sự phân bổ và điều chỉnh quỹ đất từ người này sang người khác thông

qua cơ chế THĐ, giao đất, cho thuê đất để phúc đáp sự đa dạng về sử dụng

đất của các chủ thể sử dụng đất, của nhà nước và nhu cầu chung của xã hội

trong thực tế là tất yếu đặt ra. Chính vì vậy việc quy định các căn cứ để Nhà

nước THĐ là vô cùng cần thiết và mang tính khách quan. Theo tác giả các nội

dung cần xem xét, hoàn thiện trong pháp luật về THĐ như sau: (i) Nhóm quy

phạm quy định về cơ sở, căn cứ pháp lý để THĐ; (ii) Nhóm quy phạm quy

định về nội dung, trình tự, thủ tục và thẩm quyền THĐ; (iii) Nhóm quy phạm

quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước THĐ; (iv) Nhóm quy phạm quy

định về khiếu nại khi Nhà nước THĐ.

1.2.3.1. Điều chỉnh bằng pháp luật về cơ sở, căn cứ pháp lý để thu hồi đất

Theo quy định tại Điều 66 Luật đất đai năm 2013 thì UBND cấp tỉnh và

UBND cấp huyện là cơ quan có thẩm quyền THĐ. Với mỗi trường hợp THĐ

khác nhau, pháp luật cũng quy định những căn cứ THĐ đó khác nhau cho phù

hợp nhằm đảm bảo việc THĐ là có cơ sở, có lý do chính đáng, hạn chế tình

trạng tùy tiện và lạm dụng khi THĐ, ảnh hưởng đến quyền lợi của người sử

24

dụng đất.

1.2.3.2. Điều chỉnh bằng pháp luật về nội dung, trình tự, thủ tục và

thẩm quyền thu hồi đất

Như đã phân tích, QSDĐ đã là quyền tài sản, và chính là tài sản, nên

THĐ là thu tài sản của NSDĐ không những cần phải được điều chỉnh bởi

pháp luật nước ta, phù hợp với Điều 54 HP 2013: “QSDĐ được pháp luật bảo

hộ”, mà còn phải tương thích với các quy định của pháp luật quốc tế mà nước

ta đã cam kết thực hiện, như Điều 17 Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con

người, quyền công dân năm 1948 (được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông

qua và công bố theo Nghị quyết số 217A (III) ngày 10/12/1948) quy định

rằng, mọi người đều có quyền sở hữu tài sản của riêng mình hoặc tài sản sở

hữu chung với người khác, cũng như không ai bị tước đoạt tài sản một cách

tùy tiện.

Về quy phạm nội dung, các trường hợp THĐ phải được xem xét, xuất

phát từ yêu cầu khác nhau về phát triển kinh tế, xã hội hay an ninh quốc gia.

Vì vậy, cần thiết phải xác định rõ mục đích THĐ, nhằm làm rõ ranh giới giữa

lợi ích công và tư.

Về quy phạm thủ tục, tức là những thủ tục được quy định khi tiến hành

THĐ, cách thức để thực hiện thẩm quyền của từng cơ quan Nhà nước, cũng

như cá nhân được trao quyền và trách nhiệm của cả NSDĐ đều phải tuân

theo, nhằm đảm bảo cho các quy phạm nội dung được thực hiện có hiệu lực

và hiệu quả theo yêu cầu đặt ra. Đây cũng chính là điều kiện để bảo đảm cho

pháp chế được giữ vững, mở rộng dân chủ và thể hiện tính công khai trong

hoạt động quản lý nhà nước [13, tr.313-314]. Mọi hoạt động, hành vi của cán

bộ quản lý nhà nước về đất đai, của người có đất bị thu hồi, của chủ đầu tư và

các chủ thể khác có liên quan đều phải tuân thủ theo quy trình, thủ tục cụ thể.

Do đó, các quy định về trình tự, thủ tục cần phải đáp ứng các tiêu chí:

(1) nhằm hướng tới đảm bảo tính minh bạch, dân chủ và công khai về THĐ,

25

trên tinh thần tôn trọng và lấy dân làm gốc. Thực hiện điều này nhằm xác

định quá trình bảo đảm cho hoạt động dân chủ trong quá trình thu hồi đất,

đảm bảo quyền lợi của người dân trong hoạt động thu hồi đất, tránh các hoạt

động mang tính mệnh lệnh quyền uy và cường chế. Vai trò của nhà nước chỉ

đặt ra sau khi quy trình, thủ tục đã được áp dụng và tuân thủ triệt để, đúng

pháp luật, các biện pháp giải thích và thuyết phục đã được áp dụng mà không

đạt được mục đích đặt ra; (2) trình tự, thủ tục THĐ phải đảm bảo cho người

dân biết những công việc họ phải làm, phải thực hiện liên quan đến THĐ,

đảm bảo cho người dân chủ động và có kế hoạch trong việc thu xếp thời gian

và kế hoạch di chuyển tài sản ra khỏi khu vực đất bị thu hồi một cách an toàn

và hiệu quả nhất.

Về quy phạm thẩm quyền THĐ giúp xác định rõ giới hạn thẩm quyền

của cơ quan có thẩm quyền THĐ trong từng trường hợp cụ thể. Thực chất

giới hạn này nhằm ràng buộc trách nhiệm của nhà nước trong việc thực hiện

các yêu cầu về thẩm quyền. Thẩm quyền thu hồi đất thuộc về ai, chủ thể nào

cần được xác định chi tiết, đầy đủ tránh tình trạng lạm quyền, và tùy tiện.

1.2.3.3. Điều chỉnh bằng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước

thu hồi đất

Việc THĐ nhanh hay chậm, THĐ diễn ra thuận lợi hay không, có sự

đồng thuận hay không đồng thuận giữa nhà nước với người dân vấn đề mấu

chốt nằm ở bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Qúa trình xây dựng các quy định

của phap luật có liên quan đến hoạt động bồi thường hỗ trợ tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất sẽ mang lại hiệu quả cao, góp phần ổn định trật tự xã hội và

tránh sự chống đối của người dân.

Điều 2(3) Công ước quốc tế các quyền dân sự và chính trị yêu cầu các

Quốc gia thành viên Công ước đảm bảo “sự đền bù hiệu quả” cho những

người có quyền lợi bị tổn hại và xác định nghĩa vụ của “nhà chức trách có

thẩm quyền trong việc bảo đảm những đền bù đó được thực hiện” [15, tr.56-

26

57]. Do vậy, Hiến pháp hiện hành nước ta đã khẳng định, QSDĐ được pháp

luật bảo hộ và việc THĐ phải công khai, minh bạch, được bồi thường theo

quy định của pháp luật. Ngoài ra, cần phải xác định rõ, các hậu quả bất lợi của

người sử dụng đất khi Nhà nước THĐ để xây dựng công trình cần phải được

cả nước chia sẻ. Do vậy, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ trước

hết phải đáp ứng quyền lợi của người bị THĐ.

1.2.3.4. Điều chỉnh pháp luật về khiếu nại khi nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp

Hiến pháp năm 2013 xác định rằng, “mọi người có quyền khiếu nại, tố

cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp

luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân; cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền

phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo.” Quy định này được thể hiện tại

Điều 30. Như vậy, khiếu nại là quyền hiến định. Khi NSDĐ nông nghiệp cho

rằng, quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị tác động bởi các quyết định hành

chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, hoặc người được trao quyền có

liên quan đến việc thu hồi đất, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ,

thì họ được thực hiện quyền khiếu nại. Suy cho cùng, việc khiếu nại và giải

quyết khiếu nại nhằm đảm bảo quyền lợi của người dân trong mối quan hệ với

Nhà nước, trong đó có liên quan đến QSDĐ. Về lĩnh vực này, trong Tuyên

ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 cũng đã quy định: “Ai cũng có quyền yêu

cầu tòa án quốc gia có thẩm quyền can thiệp chống lại những hành động vi

phạm những quyền căn bản được hiến pháp và luật pháp thừa nhận” [6].

Quá trình giải quyết khiếu nại chính là việc xem xét những nội dung,

tình tiết, cơ sở pháp lý cũng như cơ sở thực tiễn của việc khiếu nại. Trên cơ

cở đó, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, người có thẩm quyền sẽ lựa chọn

quy phạm pháp luật để áp dụng, ban hành văn bản áp dụng pháp luật và tổ

chức thực hiện văn bản đã ban hành. Khi xem xét lại quyết định hành chính

do chính mình ban hành theo hướng: giữ nguyên; sửa đổi, bổ sung một phần

27

hay hủy bỏ toàn bộ nội dung đều ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các bên

(Nhà nước hay tổ chức, cá nhân). Do vậy yêu cầu đặt ra là người giải quyết

khiếu nại không thể xuất phát từ quan điểm cá nhân, quan hệ riêng tư, hoặc

của một nhóm lợi ích nào đó chi phối, thể hiện tính khách quan không được

tôn trọng, mà việc áp dụng pháp luật phải phù hợp với lợi ích và mệnh lệnh

của Nhà nước được thể hiện trong các văn bản pháp luật [49, tr.373]. Việc

giải quyết khiếu nại đảm bảo nội dung, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định;

xác định việc khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của NSDĐ, tổ chức bị xâm

hại, sẽ góp phần vào việc củng cố niềm tin của nhân dân đối với chính quyền.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về thu hồi đất nông

nghiệp

1.3.1. Yếu tố về nhận thức

Luật Đất đai năm 2013, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo và các văn bản

quy phạm pháp luật khác đã thực sự trở thành cơ sở pháp lý quan trọng để

việc THĐ được thực hiện nghiêm chỉnh, trên cơ sở đó các cơ quan, tổ chức,

cá nhân đã xác định được quyền và nghĩa vụ của mình trong việc THĐ. Tuy

nhiên, trên thực tế, người dân quan tâm, tìm hiểu pháp luật đất đai, pháp luật

khiếu nại, tố cáo chưa nhiều. Đây chính là nguyên nhân làm gia tăng các vụ

khiếu nại, tố cáo về THĐ. Vì vậy, để giảm bớt các vụ khiếu nại, tố cáo về

THĐ thì cơ quan quản lý nhà nước phải yêu cầu cán bộ, công chức thực hiện

đúng quy định của pháp luật về THĐ và thường xuyên giáo dục, tuyên truyền

phổ biến giáo dục pháp luật về đất đai, khiếu nại, tố cáo đến người dân. Chỉ

khi người dân nắm bắt được các quy định của pháp luật thì họ mới hiểu rõ

những việc làm đúng, làm chưa đúng trong công tác quản lý nhà nước về

THĐ để tuân thủ thực hiện và thực hiện quyền khiếu nại, quyền tố cáo theo

đúng quy định của pháp luật. Khi đó công dân sẽ nhận thức được việc có nên

khiếu nại, tố cáo hay không và tự giác chấp hành các thủ tục, quy định trong

việc giải quyết việc khiếu nại, tố cáo của cơ quan nhà nước; thực hiện khiếu

28

nại, tố cáo đúng cấp có thẩm quyền; chấp nhận hay không chấp nhận kết quả

giải quyết của các cơ quan nhà nước; không bị lôi kéo, xúi giục khiếu kiện

đông người, lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo gây rối trật tự công cộng làm

ảnh hưởng đến tình hình an ninh- chính trị địa phương. Kết quả của công tác

giáo dục nâng cao trình độ nhận thức của người dân sẽ giúp tình hình khiếu

nại, tố cáo ở địa phương đi vào nề nếp; các quyết định giải quyết khiếu nại, tố

cáo của cơ quan nhà nước được thực hiện nghiêm túc sẽ làm giảm đáng kể

các vụ việc khiếu nại, tố cáo tiếp theo, tạo lòng tin đối với nhân dân.

1.3.2. Hiệu quả của hoạt động quản lý Nhà nước trong việc thu hồi

đất

THĐ là vấn đề phức tạp, vừa mang tính xã hội lại vừa mang tính kinh

tế, dễ nảy sinh những mâu thuẫn xã hội đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ

của Nhà nước. Trong số các công cụ được Nhà nước sử dụng để quản lý việc

THĐ thì pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất. Nhà nước sử dụng công cụ pháp

luật trong quản lý để điều chỉnh hành vi của chủ thể bị quản lý. Cơ quan quản

lý nhà nước ban hành các văn bản pháp quy về THĐ, tuyên truyền phổ biến

đến tổ chức, cá nhân thực hiện THĐ, người bị THĐ và tổ chức thực hiện văn

bản đó. Để pháp luật đi vào cuộc sống, phát huy được hiệu quả thì cần đến

công tác tổ chức thực hiện pháp luật. Tổ chức thực hiện pháp luật chủ yếu

được thể hiện ở việc hướng dẫn các chủ thể pháp luật thực hiện pháp luật

trong đó tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn người dân thực hiện pháp luật

là khâu quan trọng nhất.

1.3.3. Yếu tố về bảo đảm quyền con người, quyền công dân

Lịch sử loài người cho thấy, ở bất kỳ đâu, vào bất kỳ giai đoạn nào, tri

thức về quyền con người cũng là nền tảng cho sự phát triển và tiến bộ của các

xã hội cũng như là tiền đề cho phát triển đầy đủ về nhân cách và năng lực của

mỗi cá nhân. Ở phạm vi rộng hơn, tri thức về quyền con người là tiền đề cho

29

hòa bình và thịnh vượng của toàn nhân loại.

Ở Việt Nam công cuộc đấu tranh để giành quyền con người phải trải

qua một quá trình lịch sử lâu dài. Trong quá trình đấu tranh đó, nhận thức về

quyền con người trong các tầng lớp xã hội ngày một được cải thiện. Cuộc đấu

tranh giành quyền dân chủ và độc lập xã hội của nhân dân ta đã thu được

những thành tựu hết sức to lớn. Cùng với độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh

thổ, các quyền con người ngày càng được đảm bảo.

Cũng như tất cả các quốc gia trên thế giới, việc trở thành thành viên của

Liên Hợp Quốc và các Công ước quốc tế về quyền con người đặt ra nghĩa vụ

cho Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết quốc tế trên lĩnh vực này,

trong đó có nghĩa vụ về giáo dục, phổ biến quyền con người.

Quyền con người (human rights) là một phạm trù đa diện, do đó có

nhiều định nghĩa khác nhau. Mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ

nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao

hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người.

Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người phụ thuộc

vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, định

nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người thường được

trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này:

Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal

guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những

hành động (actions) hoặc bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm,

những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms)

của con người.2

Ở Việt Nam, một số định nghĩa về quyền con người do một số chuyên

gia, cơ quan nghiên cứu từng nêu ra cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng

2 Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Đại học Quôc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 55

30

xét chung, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự

nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong

pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.

Như vậy, nhìn ở góc độ nào và ở cấp độ nào thì quyền con người cũng

được xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và

tuân thủ. Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân

loại, chỉ áp dụng với con người, cho tất cả mọi người. Nhờ có những chuẩn

mực này, mọi thành viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân

phẩm và mới có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư

cách là một con người. Cho dù cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định,

một điều rõ ràng là quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn

trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử.

Giống như ở nhiều quốc gia khác, ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã

xác định những tư tưởng và đường lối chỉ đạo về quyền con người làm cơ sở

cho việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trên thực tế.

Những quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền con

người thể hiện:

- Thứ nhất: Quyền con người là giá trị chung của toàn nhân loại.

- Thứ hai: Trong xã hội có phân chia giai cấp đối kháng, khái niệm

quyền con người mang tính giai cấp.

- Thứ ba: Quyền con người vừa có tính phổ biến, vừa có tính đặc thù,

phụ thuộc vào truyền thống, đặc điểm và trình độ phát triển kinh tế, văn hóa,

xã hội của mỗi quốc gia.

- Thứ tư: Quyền con người và quyền dân tộc cơ bản là thống nhất.

- Thứ năm: Quyền con người phải được pháp luật quy định.

- Thứ sáu: Quyền không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm.

- Thứ bảy: Các quyền con người cần được tôn trọng và bảo đảm một

31

cách bình đẳng.

- Thứ tám: Tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trước hết là

trách nhiệm của mỗi quốc gia.

- Thứ chín: Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người gắn liền với việc bảo

vệ và thúc đẩy hòa bình, ổn định, an ninh, bình đẳng và cuộc sống phần vinh

ở mỗi quốc gia trên thế giới.

- Thứ mười: Đối thoại và hợp tác quốc tế là yêu cầu cần thiết, khách

quan để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.

- Thứ mười một: Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là mục tiêu của

Đảng và Nhà nước Việt Nam, là yêu cầu trong xây dựng Nhà nước pháp

quyền và là động lực cho việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.3

Từ những quan điểm cơ bản về quyền con người như nêu trên, Đảng

Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đã và đang xây dựng và thực hiện chính

sách nhằm trực tiếp và gián tiếp bảo vệ, thúc đẩy quyền con người.

Trong lĩnh vực THĐ đai, các quy định của Luật Đất đai, Luật Dân sự

và các văn bản pháp lý có liên quan cũng đã ghi nhận các quyền cơ bản của

con người theo Công ước Quốc tế. Tuy nhiên, với một số lượng các văn bản

tương đối lớn trong lĩnh vực đất đai, bao gồm các luật, nghị định, thông tư

hướng dẫn… dẫn đến có không ít các quy định chồng chéo dẫn đến việc triển

khai thực hiện gặp rất nhiều khó khăn. Hơn nữa, trong quá trình thực thi pháp

luật cũng gặp không ít những tiêu cực làm ảnh hưởng đến các quyền cơ bản

của người bị THĐ. Những vụ việc liên quan đến THĐ trong thời gian vừa qua

là một minh chứng rõ nét cho vấn đề này. Trong lĩnh vực THĐ, người bị THĐ

có nhiều quyền khác nhau theo quy định của pháp luật nhưng về cơ bản là

gồm các quyền về sở hữu, quyền về lao động, việc làm, quyền giáo dục,

quyền được hưởng cuộc sống thích đáng, quyền được thông tin và quyền

3 Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (Đồng chủ biên) (2009), Giáo trình Lý luận và Pháp luật về Quyền con người, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

32

được xét xử công bằng…

Bảo đảm và bảo vệ các quyền cơ bản của người bị THĐ được các cấp,

các ngành đặt ra từ lâu nay nhưng kết quả thực hiện thì chưa được là bao.

Chính vì vậy, đòi hỏi cần phải có sự tìm hiểu kỹ lưỡng từ nguyên nhân đến

33

hậu quả từ đó có những giải pháp phù hợp để giải quyết vấn đề này.

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1 của luận văn, học viên phân tích về nội dung liên quan

đến những vấn đề lý luận về thu hồi đất nông nghiệp và pháp luật về thu hồi

đất nông nghiệp.

Thứ nhất, đất nông nghiệp là loại đất có vị trí, vai trò quan trọng trong

hệ thống đất đai của Việt Nam, đất nông nghiệp chiếm tỉ lệ cao trong hệ thống

đất đai Việt Nam. Hoạt động thu hồi đất nông nghiệp là quyết định của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền trong việc thu hồi quyền sử dụng đất đã cấp

cho hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức có liên quan để nhằm mục đích phát

triển kinh tế, an ninh quốc phòng và các mục đích khác.

Thu hồi đất nông nghiệp là một vấn đề nhạy cảm có khả năng ảnh

hưởng đến an sinh xã hội và đảm bảo quyền của các chủ thể có liên quan.

Chính vì vậy, pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp được đặt ra một cách chi

tiết và đầy đủ để từ đó có khả năng kiểm soát nội dung thu hồi đất cho đúng

quy định tránh tình trạng lạm dụng, xâm phạm quyền và lợi ích của các chủ

thể có liên quan.

Thứ ba, pháp luật thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam trong những

năm vừa qua chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố như chiến lược phát triển

kinh tế xã hội của đất nước, vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công

34

dân trong thực tiễn, vấn đề đảm bảo an ninh lương thực, an ninh quốc gia…

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THU HỒI ĐẤT

NÔNG NGHIỆP TẠI HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Thực trạng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp

2.1.1. Quy định về cơ sở pháp lý của thu hồi đất nông nghiệp

2.1.1.1. Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai

“Quyền tư hữu ruộng đất là hoàn toàn vô lý, nói đến quyền tư hữu

ruộng đất chẳng khác gì nói đến quyền sở hữu cá nhân đối với người đồng

loại của mình. Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì chế độ tư hữu

ruộng đất là vô lý nhất.” [3, tr.224] Đây là khẳng định của Mác trong tác

phẩm kinh điển Tư bản của mình. Kế thừa luận điểm khoa học của C.Mác và

Ph.Ănghen, Lê-nin cho rằng một trong những nhiệm vụ chủ yếu của chính

quyền công nông là phải sáng lập chế độ sở hữu toàn dân về đất đai trong

phạm vi toàn quốc nhằm đem lại ruộng đất cho người nông dân “ruộng đất

phải là sở hữu của toàn dân và một chính quyền có tính chất toàn quốc qui

định điều đó” [8].

Ở nước ta, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền

cách mạng xác lập quyền sở hữu đất đai cho người nông dân. Tiếp đó,

phong trào kháng chiến đã dẫn đến những yêu cầu mới về hình thức hợp

tác xã trong đó hình thành sự tích tụ ruống đất của các cá nhân. Từ đó trở

đi, trong các văn kiện của Đảng, Nghị quyết của Ban chấp hành Trung

ương, cũng như Hiến pháp các năm đều khẳng định chế độ sở hữu toàn dân

đối với đất đai [44].

Tiếp nối những văn bản pháp luật trước đây của nhà nước thì đều xác

định quyền sở hữu toàn dân về đất đai. Tại khoản 1 Điều 5 Luật Đất đai

2003 qui định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở

35

hữu” [25].

Điều 4 Luật đất đai năm 2013 tiếp tục khẳng định chế độ sở hữu đối

với đất đai: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu

và thống nhất quản lý.” [29]. Như vậy, có thể thấy Nhà nước thay mặt toàn

dân quản lý, định đoạt số phận pháp lý của đất đai và THĐ là một trong các

hành vi pháp lý thể hiện quyền định đoạt đó.

2.1.1.2. Chức năng quản lý Nhà nước về đất đai

Nội dung quản lý đất đai được Điều 22 Luật đất đai năm 2013 quy định

theo đó là một loạt các hoạt động từ xây dựng văn bản luật đất đai cho đến

hoạt động xử lý hành vi vi phạm và quản lý khác.

Trong quá trình quản lý nhà nước của mình về đất đai, Nhà nước sẽ xác

định phạm vi đối tượng và thời hạn sử dụng đất đai. Trong đó các nguồn tài

nguyên đều cho thấy, tài nguyên đất không phải là vô hạn, nhu cầu sử dụng

đất của người dân là rất lớn, cần phải hài hòa hóa lợi ích để tăng tối đa hiệu

quả sử dụng đất.

2.1.1.3. Các trường hợp thu hồi đất nông nghiệp

Về các trường hợp Nhà nước THĐ, khoản 1, Điều 16 LĐĐ 2013 quy

định rõ:

Nhà nước quyết định THĐ trong các trường hợp sau đây:

a) THĐ vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì

lợi ích quốc gia, công cộng;

b) THĐ do vi phạm pháp luật về đất đai;

c) THĐ do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại

đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người [29].

LĐĐ 2013 dành cả Chương VI để quy định về THĐ, trưng dụng đất,

bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Trong đó, thẩm quyền về THĐ được quy định

tại Điều 66, cụ thể:

36

1. UBND cấp tỉnh quyết định THĐ trong các trường hợp sau đây:

a) THĐ đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở

nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có

vốn đầu tư, nước ngoài;

b) THĐ nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn.

2. UBND cấp huyện quyết định THĐ trong các trường hợp sau đây:

a) THĐ đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư;

b) THĐ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở

tại Việt Nam.

2.1.2. Quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp

Hoạt động thu hồi đất được thực hiện theo trình tự, thủ tục chi tiết,

nhằm đảm bảo yếu tố đồng thuận của người dân. Theo đó:

Bước 1. Thông báo THĐ

Trong quá trình thu hồi đất của người bị thu hồi thì nhà nước chậm nhất

sau thời hạn 180 ngày kể từ khi có quyết định thu hồi đất của người dân cần

phải ra quyết định thu hồi đất và thông báo cho người dân được biết. Hoạt

động thông báo quyết định thu hồi đất phải được chuyển đến tận tay của từng

người dân trong địa bàn nơi có đất đai bị thu hồi và thông báo rộng rãi trên

phương tiện thông tin đại chúng.

Bước 2. THĐ

Theo đó, việc xây dựng và thực hiện kế hoạch THĐ, điều tra, khảo sát,

đo đạc, kiểm đếm được quy định như sau:

- Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền THĐ ban hành thông báo THĐ.

Hoạt động đo đạc, kiểm đếm để làm căn cứ bồi thường hỗ trợ tái định

cứ, và giải phóng mặt bằng sẽ do UBND cấp xã nơi có địa bàn bị thu hồi đất

thực hiện theo quy định của pháp luật;

- Trong quá trình thu hồi đất chủ thể bị thu hồi đất (tức chủ thể sử dụng

đất) có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình, phối hợp với cơ quan

37

nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động thu hồi đất;

Sau khi được vận động và thuyết phục mà người bị thu hồi đất vẫn

không đảm bảo việc phối hợp sau 10 ngày thì chủ thể thu hồi đất sẽ tiến hành

hoạt động kiểm đếm mang tính bắt buộc.

Thực tế cho thấy việc bổ sung nội dung điều tra, khảo sát, đo đạc kiểm

đếm là phù hợp, cần thiết, bởi thứ nhất, việc kiểm đếm nhằm thống nhất xác

lập số liệu về tài sản trên đất giữa NSDĐ và cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

thứ hai, việc kiểm đếm có thể giúp xác lập cơ sở đề cưỡng chế bắt buộc các

đối tượng có liên quan thi hành theo quy định pháp luật trong trường hợp người

dân có đất bị thu hồi không hợp tác tham gia với Nhà nước trong việc xây dựng

Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.

Ngoài ra, đối với quy định tại điểm d Khoản 1 Điều 69 thì có thể dẫn

đến cách hiểu là trong quyết định kiểm đếm bắt buộc do Chủ tịch UBND

cấp huyện ban hành không bao hàm cả nội dung khác như: điều tra, khảo

sát, đo đạc. Đây là nội dung pháp lý chưa được quy định pháp luật nào điều

chỉnh, do vậy, cần được làm rõ trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật

Đất đai 2013.

Bước 3. Kiểm kê đất đai, tài sản có trên đất

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ của mình, Uỷ ban nhân

dân xã có đất bị thu hồi thực hiện việc khảo sát, đo đạc xác định diện tích đất

bị thu hồi và làm công tác phối hợp với các chủ thể có liên quan để đảm bảo

hiệu quả thu hồi nhất. Qúa trình thu hồi đất thì người bị thu hồi đất phải có

nghĩa vụ phối hợp trong công tác kiểm kê tài sản để đảm bảo quá trình này

được thực hiện đầy đủ và đúng quy định của pháp luật. Nếu như người bị thu

hồi đất không thực hiện sự phối hợp trong hoạt động kiểm kê quyền sử dụng

đất thì cơ quan thu hồi đất thực hiện việc thuyết phục vận động sau thời gian

10 ngày kể từ ngày được thuyết phục vận động mà người đó vẫn không thực

38

hiện thì sẽ tiến hành cưỡng chế theo quy định của pháp luật nếu có.

Bước 4. Lên kế hoạch tính toán, và điều chỉnh về phương án bồi

thường, hỗ trợ người bị thu hồi đất

Tiến hành việc lấy ý kiến tại nơi cứ trú và cư dân nơi thu hồi.

Chủ thể có thẩm quyền lập ra phương án hỗ trợ, tái định cư để trình ra

UBND cấp trên quyết định về hoạt động thu hồi đất.

Bước 5. Thực hiện hoạt động công bố công khai phương án thu hồi đất

và lấy ý kiến của người dân về hoạt động thu hồi đất.

Trong quá trình thu hồi đất, việc công khai về trình tự, thủ tục và

phương án thu hồi đất là một yếu tố then chốt có liên quan đến quyền lợi

của người dân. Theo đó, cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất thực hiện việc

công khai tại trụ sở UBND nơi gần nhất để đảm bảo mọi người dân đếu

biết về trình tự, thủ tục, phương án thu hồi và hỗ trợ bồi thường và tái định

cư khi thu hồi.

Bước 6. Thực hiện trình tự duyệt các phương án đầy đủ và triển khai

các phương án thu hồi đất

- Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quy định tại Điều 66 của Luật

này quyết định THĐ, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư trong cùng một ngày;

- UBND cấp xã tiến hành việc thực hiện nhiệm vụ phối hợp để đảm bảo

hoạt động bồi thường, giải phóng mặt bằng có hiệu quả cao nhất.

- Thực hiện hoạt động hỗ trợ tái định cư và bồi thường cho người bị thu

hồi đất theo phương án đã được phê duyệt theo yêu cầu.

- Nếu như người bị thu hồi đất không thực hiện việc tự nguyện bàn giao

diện tích đất bị thu hồi thì UBND xã, và Mặt trận tổ quốc cấp xã nơi có diện tích

đất cần thu hồi thực hiện việc thuyết phục, vận động để họ tự nguyện giao đất..

Trường hợp người có đất thu hồi đã được vận động, thuyết phục nhưng

không chấp hành việc bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải

39

phóng mặt bằng thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định

cưỡng chế THĐ và tổ chức thực hiện việc cưỡng chế theo quy định tại Điều

71 của Luật này.

Bước 7. Bồi thường về đất khi Nhà nước THĐ ở

Khi thu hồi đất các chủ thể bị thu hồi gồm cá nhân là người Việt Nam

định cư ở nước ngoài, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp FDI và các chủ

thể khác thực hiện việc xây dựng các dự án xây nhà ở được thương lượng

phương thức bồi thường gồm: bồi thường bằng tiền hoặc bồi thường bằng

diện tích đất đai tương ứng.

Bước 8. Bàn giao mặt bằng, cưỡng chế THĐ

Qúa trình thu hồi đất diễn ra xong thì cần thiết phải thống kê và đảm

bảo việc bàn giao mặt bằng sạch sẽ cho nhà đầu tư hoặc cơ quan nhà nước có

thẩm quyền. Nếu như người sử dụng đất có đất đai bị thu hồi mà không tự

nguyện thu hồi đất thì sẽ tiến hành cưỡng chế thu hồi đất bằng các biện pháp

hợp pháp do luật quy định.

2.1.3. Quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp

2.1.3.1. Nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Theo đó, về cơ bản, nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước THĐ nông

nghiệp thể hiện trên các khía cạnh sau:

Thứ nhất, người bị THĐ có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật

thì được bồi thường, hỗ trợ.

Qúa trình thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu

hồi đất thực chất của nó là quá trình bồi hoàn lại giá trị đất đai mà nhà nước

đã lấy đi của người sử dụng đất. Người sử dụng đất, đặc biệt là người sử dụng

đất nông nghiệp dựa vào diện tích đất đó là sinh kế chính, do đó nếu như

không đảm bảo hiệu quả bồi thường hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi

đất là một trong những yêu cầu quan trọng để tránh xảy ra những mâu thuận,

40

chống đối xã hội.

Thứ hai, việc bồi thường bảo đảm đầy đủ các thiệt hại. Khi Nhà nước

THĐ nông nghiệp, người dân không chỉ thiệt hại về đất mà còn có những thiệt

hại về tài sản trên đất, các hoa lợi, lợi tức thu được do việc sử dụng đất. Luật

Đất đai năm 2013 quy định cụ thể nguyên tắc bồi thường về đất và về tài sản

nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của người có đất bị thu hồi. Nguyên tắc này

tạo sự linh hoạt khi cho phép cơ quan thẩm quyền cũng như người bị THĐ

nông nghiệp lựa chọn được phương án bồi thường phù hợp. Hiện nay có quy

định về việc người sử dụng đất bị thu hồi còn có thể được bồi thường bằng

quỹ đất tại địa phương, tức được bồi thường bằng quyền sử dụng đất. Tuy

nhiên quy định này đòi hỏi các điều kiện như chủ thể có mong muốn được bồi

thường bằng quyền sử dụng đất và quỹ đất ở địa phương vẫn còn. Do đó, trên

thực tế vẫn còn nhiều hạn chế, khó khăn khi áp dụng quy định này.

Thứ ba, việc bồi thường phải theo giá thị trường.

Thứ tư, đảm bảo yêu cầu thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ tái định cư phải

công khai minh bạch giữa các chủ thể.

Thực chất của hoạt động công khai minh bạch là bảo đảm cho người

dân ai cũng được biết, ai cũng được tham gia vào quá trình thu hồi đất. Đồng

thời đây cũng là nguyên tắc quan trọng, đảm bảo hiệu quả nhất cho quá trình

thu hồi đất của người dân. Trong quá trình này người dân được quyền biết và

tham gia cũng như khiếu nại tố cáo về thu hồi đất cũng như hỗ trợ tái định cư.

Đối với các trường hợp THĐ nông nghiệp, ngoài việc áp dụng các quy

định và nguyên tắc chung của Luật Đất đai khi THĐ, LĐĐ 2013 cũng có

những quy định riêng mang tính đặc thù. Cụ thể, tại Điều 77 quy định về bồi

thường đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước THĐ nông nghiệp của

hộ gia đình, cá nhân:

1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước

THĐ được bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại theo quy định

41

sau đây:

a) Diện tích đất nông nghiệp được bồi thường bao gồm diện tích trong

hạn mức theo quy định tại Điều 129, Điều 130 của Luật này và diện tích đất

do được nhận thừa kế;

b) Đối với diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức quy định tại Điều

129 của Luật này thì không được bồi thường về đất nhưng được bồi thường

chi phí đầu tư vào đất còn lại;

c) Đối với diện tích đất nông nghiệp do nhận chuyển nhượng QSDĐ

vượt hạn mức trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì việc bồi thường,

hỗ trợ được thực hiện theo quy định của Chính phủ. [29].

Việc hỗ trợ khi Nhà nước THĐ được quy định tại Điều 83 của LĐĐ

2013, theo đó nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước THĐ là:

a) Người sử dụng đất khi Nhà nước THĐ ngoài việc được bồi thường

theo quy định của Luật này còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ;

b) Việc hỗ trợ phải bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công khai

và đúng quy định của pháp luật [29].

Điều này bao gồm hỗ trợ chi phí ổn định sản xuất, ổn định việc tìm

kiếm việc làm, ổn định chi phí doanh nghiệp, hỗ trợ thu hồi đất của cá nhân

và nhà nước có liên quan khác [29].

Đối với các trường hợp hộ gia đình, cá nhân mất việc làm, phải chuyển

đổi nghề khi Nhà nước THĐ thì Điều 84, LĐĐ 2013 quy định:

1. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, khi Nhà

nước THĐ nông nghiệp mà không có đất nông nghiệp để bồi thường thì

ngoài việc được bồi thường bằng tiền còn được hỗ trợ đào tạo, chuyển

đổi nghề, tìm kiếm việc làm.

2. Đối với hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất kết hợp kinh doanh

dịch vụ mà nguồn thu nhập chính từ hoạt động kinh doanh dịch vụ, khi

Nhà nước THĐ mà phải di chuyển chỗ ở thì được vay vốn tín dụng ưu

42

đãi để phát triển sản xuất, kinh doanh; trường hợp người có đất thu hồi

còn trong độ tuổi lao động thì được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề,

tìm kiếm việc làm.

3. Căn cứ vào kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện,

UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện có trách nhiệm tổ chức lập và thực

hiện phương án đào tạo, chuyển đổi nghề, hỗ trợ tìm kiếm việc làm cho

người có đất thu hồi là đất nông nghiệp, đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ.

Phương án đào tạo, chuyển đổi nghề, hỗ trợ tìm kiếm việc làm được lập

và phê duyệt đồng thời với phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư.

Những quy định của LĐĐ 2013 về THĐ nói chung và THĐ nông

nghiệp nói riêng đã có những bước tiến, những đột phá phần nào giải quyết

những bất cập, khó khăn trong thời gian vừa qua về THĐ. Tuy nhiên, trong

quá trình triển khai vẫn cần có những văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Chính

phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng như các Bộ, ngành có liên quan để

những quy định nêu trên đi vào thực tế.

Việc thực hiện chính sách pháp luật về THĐ luôn hướng đến việc đảm

bảo các quyền cơ bản của những người bị THĐ. Pháp luật Việt Nam ghi nhận

và bảo đảm các quyền đó của người bị THĐ như các quyền về sở hữu, quyền

về lao động việc làm, quyền được giáo dục, được hưởng an sinh xã hội… Các

quy định của pháp luật Việt Nam ghi nhận và phản ánh các quy định của các

Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền con người. Theo đó, khi thực thi pháp

luật về THĐ đai cũng cần phải bảo đảm các quyền con người cơ bản theo quy

định của các Công ước về quyền con người của Liên Hợp Quốc.

2.1.4. Quy định về khiếu nại, tố cáo về thu hồi đất nông nghiệp

Ở giai đoạn vừa qua, hoạt động tiếp công dân và giải quyết các khiếu

nại tố cáo về đất đai của nhà nước đã được quan tâm và coi đó là một nhiệm

vụ cần giải quyết của bất cứ cơ quan tổ chức cá nhân nào. Hoạt động đảm bảo

chính sách pháp luật về tổ chức nhà nước về đất đai là hiệu quả bảo đảm đến

43

quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân tổ chức trong sử dụng đất đai. Tuy nhiên,

trên thực tế, tình hình khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai vẫn diễn ra rất

phức tạp, đòi hỏi phải có những giải pháp hết sức căn cơ, đồng bộ, với sự

tham gia của nhiều cấp, nhiều ngành.

Khoản 1 Điều 2 Luật Khiếu nại 2011 quy định: “Khiếu nại về đất đai là

việc người sử dụng đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng

đất theo thủ tục của Luật Khiếu nại đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có

thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý

đất đai của cơ quan hành chính Nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ

quan hành chính Nhà nước khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính

hoặc hành vi hành chính đó trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp

pháp của mình.”

Như vậy, khiếu nại trong lĩnh vực thu hồi đất là việc người có đất bị thu

hồi theo quy định của pháp luật khiếu nại và pháp luật đất đai, đề nghị chủ thể

có thẩm quyền giải quyết khiếu nại xem xét lại quyết định hành chính về bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền

hoặc hành vi hành chính của cán bộ công chức trong quá trình giải quyết công

việc trên lĩnh vực bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, khi họ có căn cứ cho

rằng quyết định, hành vi đó trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp

pháp của mình.

Khiếu nại trong lĩnh vực THĐ có một số đặc điểm cơ bản như sau:

Thứ nhất, khiếu nại trong lĩnh vực THĐ liên quan đến quyền và lợi ích

thiết thực của chủ thể khiếu nại như nhà ở, đất ở, đất sản xuất, việc làm, chất

lượng cuộc sống và nó xảy ra với tính chất gay gắt khi người có đất bị thu hồi

cho rằng việc THĐ của Nhà nước là chưa hợp lý, có dấu hiệu vi phạm pháp

luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Thứ hai, Tuy thuộc vào tính chất của quan hệ mà hoạt động khiếu nại

pháp luật về đất đai là rất phức tạp cần một quá trình đầy đủ, đúng trình tự,

44

thủ tục, nhưng về cơ bản vẫn gây ra những khó khăn hạn chế nhất định.

Thứ ba, tình trạng khiếu nại đông người, vượt cấp diễn ra ngày càng

nhiều khi Nhà nước THĐ. Về cơ bản sự phức tạp của tranh chấp đất đai xuất

phát từ đặc tính của chế độ sở hữu đất đai ở Việt Nam hiện nay, nhiều loại

đất, phức tạp trong quản lý, thời gian sử dụng đất từ lâu, chưa rõ ràng về chủ

thể điều này dẫn đến tranh chấp kéo dài khó giải quyết hơn. Chính bởi tính

chất phức tạp này mà tình trạng khiếu nại đông người, vượt cấp diễn ra ngày

càng nhiều trong lĩnh vực THĐ.

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp tại

huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội

2.2.1. Tình hình thu hồi đất nông nghiệp tại huyện Phúc Thọ, thành

phố Hà Nội

Cơ sở pháp lý của việc thu hồi đất nông nghiệp tại huyện Phúc Thọ,

thành phố Hà Nội

Trước năm 2013, việc thực hiện thu hồi đất được căn cứ vào các văn

bản: Luật Đất đai năm 2003; Nghị định số: 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007

của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền SDĐ, thu

hồi đất, thực hiện quyền SDĐ, trình tự, thủ tục BT, HT, TĐC khi Nhà nước

thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai và các văn bản pháp luật khác

của Chính phủ, của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn thực hiện các

Nghị định của Chính phủ.

Từ năm 2013, với việc Quốc hội thông qua Luật Đất đai mới, cơ sở

pháp lý của việc thực hiện thu hồi đất hiện nay là các văn bản: Luật Đất đai

năm 2013; Nghị định số: 43/2014/NĐ- CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy

định chi tiết một số điều của Luật Đất đai; Nghị định số: 47/2014/NĐ- CP ngày

15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất; Thông tư số: 30/2014/TT- BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ Tài

nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục

45

đích sử dụng đất, thu hồi đất.

Nhìn một cách tổng quát, các văn bản pháp luật kể trên quy định các

vấn đề chủ yếu sau: Thứ nhất, xác định cơ sở, điều kiện của việc thu hồi đất;

Thứ hai, quy định cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất và các cơ quan có trách

nhiệm trong việc bảo đảm thu hồi đất; Thứ ba, quy định thủ tục thu hồi đất và

thủ tục giải quyết các khiếu nại về thu hồi đất.

Bên cạnh các quy định pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm

quyền ở Trung ương, chính quyền thành phố Hà Nội cũng ban hành các văn

bản pháp luật thi hành các văn bản đó ở địa phương. Các văn bản quan trọng

phải kể đến là:

- Quyết định số: 21/2014/QĐ- UBND ngày ngày 20/6/2014 của UBND

thành phố Hà Nội ban hành quy định các nội dung thuộc thẩm quyền của Ủy

ban nhân dân thành phố do Luật Đất đai 2013 và các Nghị định của Chính

phủ giao cho về thu hồi đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất để

thực hiện dự án đầu tư trên địa bàn thành phố Hà Nội;

- Quyết định số: 5077/2014/QĐ- UBND ngày 02/10/2014 của UBND

thành phố Hà Nội về việc Ủy quyền giao cho UBND các huyện, huyện và thị

xã quyết định thu hồi đất một số trường hợp thuộc thẩm quyền của UBND

Thành phố quy định tại khoản 1 Điều 7 Quyết định số: 21/2014/QĐ- UBND

ngày 20/6/2014 của UBND thành phố Hà Nội về việc sửa đổi, bổ sung một số

điều, khoản của bản Quyết định số: 21/2014/QĐ- UBND ngày 20/6/2014 của

Ủy ban nhân dân Thành phố về thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển

mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án trên Thành phố;

- Quyết định số: 23/2014/QĐ- UBND ngày 20/6/2014 của UBND

thành phố Hà Nội ban hành quy định các nội dung thuộc thẩm quyền của Ủy

ban nhân dân thành phố Hà Nội do Luật Đất đai 2013 và các Nghị định của

Chính phủ giao cho về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi

46

đất trên địa bàn thành phố Hà Nội;

- Quyết định số: 32/2015/QĐ- UBND ngày 30/10/2015 của UBND

thành phố Hà Nội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định ban

hành kèm theo Quyết định số: 23/2014/QĐ- UBND ngày 20/6/2014 của

UBND Thành phố;

Các văn bản kể trên của UBND thành phố đã cụ thể hóa, quy định chi tiết

các văn bản pháp luật của Quốc hội, Chính phủ áp dụng trên địa bàn thành phố

Hà Nội.

Thời gian vừa qua, công tác thu hồi đất trên địa bàn huyện Phúc Thọ về

cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu sử dụng đất phục vụ phát triển kinh tế - xã

hội. Tại thành phố Hà Nội nói chung và riêng huyện Phúc Thọ nói riêng hoạt

động thu hồi đất rất sôi động vì số lượng đất mà cơ quan nhà nước phải thu

hồi là rất lớn. Trong những giai đoạn vừa qua, đặc biệt là từ năm 2015 đến

năm 2018 thì tại huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội đã tiến hành thu hồi đất

trong nhiều dự án, đảm bảo đạt được những kết quả nhât định, tổng số dự án

thu hồi là 82 dự án, với 338.164 mét vuông đất đai. Số đất đai này đã bàn giao

cho các nhà đầu tư để thực hiện các dự án phát triển kinh tế xã hội, giao

thông, an ninh quốc phòng như trường đại học Đại Nam, trường phổ thông

Liên cấp Hainam, dự án khu dãn dân phố Gạch, dự án tiểu khu công nghiệp

Hoàng Quân Phúc Thọ, dự án nhà máy dệt may Vinatex...

Từ thực tiễn tổ chức thực hiện thu hồi đất của huyện Phúc Thọ cho

thấy, thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực này luôn gắn chặt với công

tác thu hồi đất cho các trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc

phòng, an ninh; phát triển kinh tế- xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng trên

địa bàn của huyện. Vì lẽ đó, để nghiên cứu đánh giá một cách đầy đủ, toàn

diện hoạt động thu hồi đất trước hết cần đánh giá thực trạng công tác GPMB

trên địa bàn huyện Phúc Thọ.

Trong năm 2018, UBND huyện Phúc Thọ đã tiến hành giải quyết việc

47

thu hồi đất cho các dự án sau: Ủy ban nhân dân huyện chỉ đạo hoàn thành chi

trả kinh phí và bàn giao các mặt bằng dự án đường liên xã Phụng Thượng –

Ngọc Tảo. Chi trả kinh phí bổ sung các dự án: Tiêu Hiệp Thuận; Tỉnh lộ 418

trên địa bàn xã Võng Xuyên và Thị trấn Phúc Thọ, tổng kinh phí 5 tỷ 340

triệu đồng. Phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ GPMB các dự án: Khai

thác mỏ cát tại bãi nổi sông Hồng xã Vân Hà; đấu giá QSD đất khu Đồng Tre,

Lỗ Gió xã Võng Xuyên (giai đoạn 2); dự án xây dựng nhà văn hóa cụm 12,

thôn Tường Phiêu, xã Tích Giang. Thành lập hội đồng, tổ công tác thực hiện

dự án trường THCS Hiệp Thuận, Thọ Lộc. Tổ chức kiểm điểm kê khai tài

sản, vật kiến trúc, cây cối tại dự án đấu giá QSD đất X8 Thị trấn Phúc Thọ và

một số điểm đấu giá QSD đất khác. Giải quyết xong tồn tại, vướng mắc tại

các dự án cải tạo lòng dẫn sông Đáy, đê Hữu Hồng xã Sen Chiểu; đang xem

xét giải quyết một số dự án trên địa bàn Thị trấn Phúc Thọ.

Tổ chức tốt các phiên đấu giá QSD đất tại khu X9 xã Phụng Thượng,

X12 xã Ngọc Tảo, X10 xã Phúc Hòa, tổng diện tích 544,2 m2, số tiền 3 tỷ 067

triệu đồng. Hoàn thiện thủ tục hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSD đất cho các hộ

trúng đấu giá X9 xã Phụng Thượng, X12 xã Ngọc Tảo. Thực hiện tốt công tác

thu hồi đất, xây dựng HTKT các khu, điểm đấu giá đã phê duyệt theo kế

hoạch. Hoàn thiện thủ tục hồ sơ xin giá khởi điểm khu cổng Nội xã Tam

Hiệp; X3 xứ Phù Lưu, xã Sen Chiểu; hồ Vân xã Cẩm Đình; sân vận động Thị

trấn Phúc Thọ (cũ); ao sân mới xã Hiệp Thuận. Hoàn thiện báo cáo KTKT,

đầu tư xây dựng hạ tầng đấu giá đất tại Thị trấn, Trạch Mỹ Lộc, Tam Thuấn.

Theo đó số liệu cụ thể như sau:

Tổng diện tích đất nông nghiệp huyện Phúc Thọ sẽ phải thu hồi trong

năm kế hoạch 2018 là 43,95ha, trong đó:

- Đất chuyên trồng lúa nước: 39,91ha

- Đất trồng lúa nước còn lại: 2,3ha

- Đất cây hàng năm khác : 1,51ha

48

- Đất trồng cây lâu năm: 0,23ha

Bảng 2.1.: Diện tích các loại đất cần thu hồi trong năm kế hoạch 2018

STT Mục đích sử dụng Mã Tổng diện tích (ha)

(4) 43,95 43,95 43,71 42,20 39,91 2,30 1,51 0,23 - 0,00 (1) 1 1.1 1.1.1 1.1.1.1 1.1.1.1.1 1.1.1.1.2 1.1.1.2 1.1.2 1.2 1.3 (2) Đất nông nghiệp Đất sản xuất nông nghiệp Đất trồng cây hàng năm Đất trồng lúa Đất chuyên trồng lúa nước Đất trồng lúa nước còn lại Đất trồng cây hàng năm khác Đất trồng cây lâu năm Đất lâm nghiệp Đất nuôi trồng thủy sản (3) NNP SXN CHN LUA LUC LUK HNK CLN LNP NTS

Trong năm 2017 tình hình thu hồi đất của huyện Phúc Thọ như sau:

Tổng diện tích đất nông nghiệp huyện Phúc Thọ sẽ phải thu hồi trong

năm kế hoạch 2018 là 43,95ha, trong đó:

- Đất chuyên trồng lúa nước: 39,91ha

- Đất trồng lúa nước còn lại :2,3ha

- Đất cây hàng năm khác : 1,51ha

- Đất trồng cây lâu năm: 0,23ha

Bảng 2.2: Diện tích các loại đất cần thu hồi trong năm kế hoạch 2018

Tổng diện STT Mục đích sử dụng Mã tích (ha)

(1) (2) (3) (4)

1 Đất nông nghiệp NNP 43,95

43,95 1.1 Đất sản xuất nông nghiệp SXN

1.1.1 Đất trồng cây hàng năm CHN 43,71

49

1.1.1.1 Đất trồng lúa LUA 42,20

1.1.1.1.1 Đất chuyên trồng lúa nước LUC 39,91

1.1.1.1.2 Đất trồng lúa nước còn lại LUK 2,30

1.1.1.2 Đất trồng cây hàng năm khác HNK 1,51

1.1.2 Đất trồng cây lâu năm CLN 0,23

- 1.2 Đất lâm nghiệp LNP

0,00 1.3 Đất nuôi trồng thủy sản NTS

2.2.2. Đánh giá thực tiễn thực hiện thực trạng thu hồi đất nông

nghiệp tại huyện Phúc Thọ

2.2.2.1. Những ưu điểm và nguyên nhân của việc thực hiện pháp luật về

thu hồi đất nông nghiệp tại huyện Phúc Thọ

* Tổ chức thực hiện công tác thu hồi đất

Để thực hiện thu hồi đất đảm bảo đúng quy định pháp luật, UBND

huyện Phúc Thọ đã thành lập Ban bồi thường GPMB huyện và Tổ chuyên

viên thẩm định trên cơ sở những văn bản quy định của nhà nước về bồi

thường, hỗ trợ GPMB và tái định cư. Nhằm hỗ trợ, đảm bảo hoạt động thu hồi

đất được đúng trình tự, thủ tục, đối chiếu với các văn bản pháp luật có liên

quan UBND huyện Phúc Thọ đã thực hiện đầy đủ yêu cầu về ban hành văn

bản, xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ có liên quan đến công tác thu hồi

đất, ban hành các văn bản mới thay thế các văn bản đã không còn phù hợp.

* Tiến hành thu hồi đất

Theo như thông tin từ cơ quan đăng ký và Trung tâm phát triển quỹ đất

của huyện Phúc Thọ thì ở giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2018 toàn huyện

Phúc Thọ đã tiến hành cấp giấy phép cho 82 dự án trong đó có thu hồi đối với

331.114 mét vuông đất các loại và để bàn giao cho nhà đầu tư hiệu quả nhất,

trong hoạt động thu hồi đất có liên quan đến quyền lợi của hơn 1000 hộ dân

tổng số tiền mà đã bồi tường hỗ trợ tái định cư cho người dân là 559 tỉ đồng

50

và số đất bồi thường là 227 mét vuông.

Thực trạng thực hiện thu hồi đất giai đoạn này trên địa bàn huyện Phúc

Thọ được thể hiện rõ nét qua dự án GPMB xây dựng đường quốc lộ 32 đoạn

qua địa bàn huyện Phúc Thọ.

Công tác thu hồi đất đạt hiệu quả cao, do UBND huyện Phúc Thọ đã

quán triệt đến từng cấp chính quyền, tuyên truyền vận động đến từng hộ dân,

công tác kiểm kê và xác định giá trị đất để bồi thường được tính toán kỹ, đảm

bảo giá trị bồi thường thỏa đáng. Công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư và

chuyển đổi nghề nghiệp cho người bị thu hồi đất được quan tâm. Tất cả

những điểu này dẫn đến hiệu quả công tác thu hồi đất của huyện Phúc Thọ

thành phố Hà Nội trong giai đoạn vừa qua đạt được tốt.

2.2.2.2. Những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của những hạn chế,

thiếu sót của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn thực hiện tại

huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội

* Hạn chế, thiếu sót

Tuy nhiên một số quy định về trình tự, thủ tục THĐ, bồi thường, hỗ trợ,

tái định cư trong Luật Đất đai năm 2013 cần được xem xét và điều chỉnh:

Thứ nhất, quy định về trình tự, thủ tục THĐ rải rác ở nhiều văn bản cả

Luật, Nghị định, Thông tư, gây chậm tiến độ ban hành văn bản có liên quan

và giải phóng mặt bằng, cụ thể quy định tại Điều 67, 69, 70, 71 và 93 Luật

Đất đai năm 2013, Điều 17 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, Điều 28 và 30

Nghị định số 47/2014/NĐ-CP, Điều 13 Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT và

các quy định của địa phương.

Thứ hai, Quy định của pháp luật còn nhiều hạn chế, trong đó có quy

định về Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất. Quy định

về nhiệm vụ của Hội đồng còn chưa đảm bảo, quan hệ phối hợp của Hội đồng

với các chủ thể còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Điều này dẫn đến những khó

51

khăn, hạn chế trong công tác thu hồi đất

Theo quy định về điều kiện bố trí tái định cư thì hộ gia đình, cá nhân

phải di chuyển chổ ở do bị thu hồi hết đất ở, hoặc thu chưa hết đất nhưng diện

tích còn lại (kể cả đất vườn có đủ điều kiện chuyển mục đích sử dụng sang đất

ở) không đủ để làm nhà ở theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh mà

không có chỗ ở, đất ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất

bị thu hồi thì được bố trí đất tái định cư.

Thứ ba, Về quy định có liên quan đến thông báo hoạt động thu hồi đất

của nhà nước còn chưa đảm bảo. Công tác kiểm đếm, đo đạc để đánh giá về

quá trình thu hồi đất còn chưa đảm bảo. Như vậy thông báo THĐ sẽ bao gồm

toàn bộ 05 nội dung của kế hoạch THĐ, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm

được liệt kê trong khoản 1 Điều 17 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định

chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 17

Nghị định này lại quy định nội dung thông báo THĐ chỉ quy định 04 nội

dung, không bao gồm nội dung tại điểm đ khoản 1 Điều 17 Nghị định số

43/2014/NĐ-CP. Bên cạnh đó, nội dung thông báo về diện tích, vị trí đất thu

hồi theo biểu mẫu 07 ban hành kèm theo Thông tư số 30/2014/TTBTNMT

quy định thông báo cả loại đất đang sử dụng sẽ thu hồi là chưa phù hợp với

nội dung tại điểm b khoản 1 Điều 17 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP mà còn

tạo ra không ít khó khăn trong thực tiễn. Trường hợp NSDĐ chưa đăng ký đất

đai thì không có thông tin về loại đất đang sử dụng để thông báo; mục đích sử

dụng đất chỉ có thể xác định chính xác khi thực hiện kiểm đếm và xét tính

pháp lý của đất. Việc không thống nhất về mục đích sử dụng đất trong thông

báo THĐ với mục đích sử dụng đất áp giá bồi thường trong phương án bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư sẽ ảnh hưởng đến công tác bồi thường, là nguyên

nhân phát sinh khiếu nại. Không chỉ có vậy, hiện vẫn còn tồn tại những bất

cập về hiệu lực của thông báo THĐ và thời gian phê duyệt phương án bồi

52

thường, hỗ trợ, tái định cư.

Thứ tư, trình tự, thủ tục THĐ không quy định bước ghi nhận hiện trạng

khu đất bị thu hồi tại thời điểm thông báo THĐ. Khoản 2 Điều 92 Luật Đất

đai năm 2013 quy định tài sản gắn liền với đất được tạo lập từ sau khi có

thông báo THĐ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì không được bồi

thường.

Thứ năm, quy định về cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt

buộc chưa cụ thể, chặt chẽ. Kiểm đếm ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công

của công tác giải phóng mặt bằng.

Thứ sáu, quy định về lấy ý kiến trong quá trình lập phương án bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư chưa rõ ràng, khó thực hiện. Điểm a khoản 2 Điều

69 Luật Đất đai hiện hành quy định Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải

phóng mặt bằng có trách nhiệm lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

và phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức lấy ý kiến

về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư với người dân trong khu vực có

đất thu hồi.

Thứ bảy, vẫn còn mâu thuẫn trong các quy định có liên quan trong quá

trình lập phương án đào tạo, chuyển đổi nghề, hỗ trợ tìm kiếm việc làm. theo

quy định tại Khoản 3 Điều 84 Luật Đất đai thì phương án này được lấy ý kiến

của người có đất thu hồi nhưng Khoản 3 Điều 20 Nghị định 47/2014/NĐ - CP

lại quy định phương án lấy ý kiến của người THĐ.

Cuối cùng, về giá đất bồi thường khi THĐ ở cho người bị THĐ. Những

vấn đề quan trọng có tính nguyên tắc liên quan đến xác định giá đất, đã được

quy định khá cụ thể tại Luật Đất đai năm 2013, và các văn bản hướng dẫn thi

hành. Luật Đất đai năm 2013 đã đề cập đến việc tư vấn xác định giá đất khi

xây dựng, điều chỉnh khung giá đất; xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất và

định giá đất cụ thể mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền có yêu cầu; giá đất do

tư vấn xác định là một trong các căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền

53

quy định, quyết định giá đất. Đặc biệt, việc xác định giá đất được thực hiện

theo nguyên tắc “sát với giá chuyển nhượng QSDĐ trên thị trường trong điều

kiện bình thường”. Tuy nhiên, với quy định Nhà nước vừa là người ra quyết

định THĐ vừa quyết định giá đất tính bồi thường nên chưa bảo đảm tính độc

lập, khách quan trong việc ban hành giá đất và khó mang lại quyền lợi tối đa

cho người sử dụng đất.

Trong thực tế, khung giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố

trực thuộc Trung ương ban hành thường thấp hơn giá trị QSDĐ chuyển

nhượng trên thị trường. Do vậy, nếu áp dụng theo giá khung của Ủy ban nhân

dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì người bị THĐ có thể được

bồi thường thấp hơn giá mà họ chuyển nhượng trên thị trường dẫn đến nhiều

54

trường hợp ách tắc về bồi thường đất đai và phát sinh khiếu kiện.

Tiểu kết chương 2

Trong chương 2 của luận văn, học viên phân tích về nội dung liên quan

đến thực trạng pháp luật và thực tiễn thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn

huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội. Nội dung của chương 2 gồm.

Thứ nhất, thực trạng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp trong giai

đoạn vừa qua. Hiện nay, theo quy định của Luật đất đai và các văn bản hướng

dẫn thi hành thì vấn đề thu hồi đất nông nghiệp được quy định gồm có điều

kiện thu hồi, đối tượng thu hồi, trình tự thủ tục thu hồi đất, phạm vi thu hồi và

vấn đề đền bù giải phóng mặt bằng liên quan đến việc thu hồi đất nông

nghiệp. Các văn bản quy phạm pháp luật này đã thực hiện đầy đủ và bám sát

chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về vấn đề đất đai đặc biệt là đất

nông nghiệp. Tuy nhiên, nghiên cứu chi tiết chúng ta cũng nhận thấy các văn

bản pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp cũng còn tồn tại một số hạn chế, bất

cập cần hoàn thiện ở chương 3 của luận văn.

Thứ hai là thực tiễn thu hồi đất nông nghiệp ở huyện Phúc Thọ thành

phố Hà Nội trong những năm vừa qua. Huyện Phúc Thọ là một huyện ngoại

thành của thành phố Hà Nội, với diện tích đất nông nghiệp lớn và tốc độ phát

triển đô thị hóa, công nghiệp hóa tương đối cao. Chính vì vậy, hoạt động thu

hồi đất nông nghiệp của huyện Phúc Thọ trong những năm vừa qua có nhiều

diễn biến phức tạp và khó lường. Kết quả thu hồi đất nông nghiệp đã đạt hiệu

quả cao, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế tồn tại nhất định gây

55

khó khăn cho công tác này.

Chương 3

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ TỔ

CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP

TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp từ

thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội

Để thực hiện, khắc phục những hạn chế, thiếu sót, bất cập của việc thu

hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công

cộng tại huyện Phúc Thọ:

Thứ nhất, trường hợp thu hồi đất: Đề nghị không quy định việc Nhà

nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội mà chỉ quy

định Nhà nước được thu hồi đất cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội gắn

với lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia nhằm tránh tình trạng thu hồi đất tràn

lan, gây thiệt hại cho người có quyền sử dụng đất, vừa bảo đảm lợi ích quốc

gia và nhu cầu phát triển đất nước.

Thứ hai, cơ chế giải quyết đất đai: Cơ chế giải quyết đất đai phải đảm

bảo khắc phục những bất cập của quy định hiện hành. Đẩy mạnh chuyển đổi

mô hình giải quyết tranh chấp đất đai từ UBND sang tòa án nhằm đảm bảo

giải quyết triệt để và đúng đắn các tranh chấp. Vì Nhà nước khó có đủ ngân

sách, nguồn lực để thực hiện bồi thường khi thu hồi đất; nếu giá đất do Nhà

nước xác định không hợp lý (thấp hơn giá thực tế trên thị trường) thì sẽ không

nhận được sự đồng thuận của người bị thu hồi đất, dẫn đến mâu thuẫn, xung

đột, khiếu nại, khiếu kiện về đất đai tăng lên; việc đấu giá quyền sử dụng đất

sẽ tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng, tiêu cực, móc ngoặc, thông đồng nếu cơ quan

nhà nước có thẩm quyền không công khai, minh bạch các thông tin về đấu

giá, diện tích đất đấu giá, thời gian đấu giá và thông tin về năng lực của các

56

bên tham gia đấu giá.

Thứ ba, cơ chế áp dụng giá đất: Tách thẩm quyền về quyết định giá đất

ra khỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, thu hồi

đất. Cụ thể, việc quyết định giá đất, quy định bảng giá đất được áp dụng trên

địa bàn các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; giải quyết khiếu nại, tranh

chấp về giá đất; quyết định các tiêu chuẩn kỹ thuật về định giá đất, thực hiện

quản lý nhà nước đối với hoạt động cung cấp dịch vụ định giá đất cần phải

thuộc thẩm quyền của hệ thống cơ quan độc lập với UBND (cơ quan có thẩm

quyền quyết định về giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất).

Quy định rõ hơn nguyên tắc xác định giá đất: cơ quan có thẩm quyền

khi xác định giá đất phải tham khảo ý kiến của người dân, đảm bảo dân chủ,

công khai, minh bạch và được giám sát . Đồng thời, cần phải xây dựng cơ chế

hữu hiệu để giải quyết sự chênh lệch về giá đất tại các khu vực giáp ranh giữa

các địa phương.

Thứ tư, xử lý tình trạng dự án “treo”: Quy định người bị thu hồi đất

trong trường hợp được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà

không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liền hoặc tiến độ sử dụng đất

chậm hơn 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư không được trả lại

tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đã nộp, không được thanh toán giá trị đầu tư vào

đất còn lại và tài sản gắn liền với đất; và việc chấp thuận chỉ được thực hiện một

lần và không quá thời hạn 12 tháng thì Nhà nước thu hồi. Đối với các trường hợp

vì lý do khách quan bất khả kháng mà các dự án đầu tư không thực hiện đúng

tiến độ nêu trên thì được Nhà nước bồi thường phần tài sản gắn liền với đất.

3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp

luật về thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố

Hà Nội

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật

Hệ thống văn bản pháp luật trong lĩnh vực THĐ là yếu tố rất quan

trọng, là cơ sở, công cụ để các cơ quan quản lý nhà nước về THĐ tác động

57

vào các hành vi, hoạt động THĐ của tổ chức, cá nhân.

Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực THĐ càng

đầy đủ, đồng bộ và thống nhất, cụ thể và ổn định, càng tạo điều kiện để nâng

cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về THĐ, càng thu hút các nhà đầu tư

vào xây dựng phát triển đô thị, thiết lập trật tự, kỷ cương trong quản lý THĐ;

xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền XHCN.

3.2.1.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

Thứ nhất, pháp luật cần quy định rõ, QH KHSDĐ là cơ sở pháp lý, là

quy hoạch “nền” để điều chỉnh các quy hoạch kỹ thuật khác; do vậy, nên tham

khảo quy trình kỹ thuật về xây dựng QH SDĐ của tổ chức FAO trong công

tác lập quy hoạch, thủ tục lập quy hoạch với sự tham gia thực sự của người

dân, các thủ tục phản biện, nghiệm thu hồ sơ trước khi trình cấp có thẩm

quyền phê duyệt.

Bên cạnh đó, quyết định phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là

quyết định hành chính và có liên quan đến hành vi hành chính của cơ quan

nhà nước và những người có liên quan đến việc lập quy hoạch, kế hoạch sử

dụng đất; cho nên đây là đối tượng sẽ bị các chủ thể có liên quan, bị ảnh

hưởng quyền và lợi ích hợp pháp đến việc điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử

dụng đất có quyền khiếu nại, khiếu kiện theo quy định pháp luật hiện hành.

Thứ hai, thẩm quyền phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

Trên cơ sở đó, về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đề nghị được sửa

đổi, bổ sung theo hướng:

i) UBND cấp có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế

hoạch sử dụng đất trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết nghị quy hoạch,

kế hoạch sử dụng đất sau khi xin ý kiến cơ quan có thẩm quyền chuyên môn

quản lý về đất đai cấp trên.

Cơ quan có thẩm quyền chuyên môn quản lý về đất đai cấp trên có

58

trách nhiệm kiểm tra các nội dung có liên quan như: sự phù hợp với quy

hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp trên, ranh giới quy hoạch, kế hoạch sử dụng

đất tính khả thi,… và cho ý kiến bằng văn bản.

Nghị quyết của HĐND về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có hiệu lực

thi hành, không phải chờ thủ tục UBND cùng cấp ban hành văn bản.

(ii) Trước khi trình quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc phòng, an

ninh cho Chính phủ phê duyệt, đơn vị lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

gửi hồ sơ đến HĐND cấp tỉnh có liên quan để cho ý kiến. Ý kiến của HĐND

cấp tỉnh là một trong căn cứ để Chính phủ xem xét, phê duyệt quy hoạch, kế

hoạch sử dụng đất.

3.2.1.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về thẩm quyền THĐ, các trường

hợp THĐ và trình tự, thủ tục THĐ

Thứ nhất, cần thiết phải định danh lại thuật ngữ pháp lý “THĐ”

Qua các quy định pháp luật có liên quan đến THĐ (hoặc là trưng dụng

đất với nghĩa tương tự được quy định trong Nghị định 151/TTg) đều thiết kế

theo hướng áp đặt ý chí của Nhà nước đối với NSDĐ, cho dù điều đó được

đặt trong chế độ sở hữu về đất đai như thế nào. Càng về sau, các tiêu chí để

phân định thẩm quyền THĐ càng ít chú trọng đến yếu tố mức độ xáo trộn dân

cư (thể hiện ở số hộ phải di dời), mà thiên về hướng phân cấp cho chính

quyền địa phương khi nguồn nhân lực chưa đáp ứng ngang tầm nhiệm vụ. Từ

khi LĐĐ 1993 quy định đất đai có giá, Chính phủ quy định khung giá các loại

đất cho từng vùng, theo từng thời gian và nguyên tắc, phương pháp xác định

giá các loại đất; và đây là cơ sở để tính giá trị tài sản khi giao đất, bồi thường

khi Nhà nước THĐ [36, Tr.66-67] quyền của NSDĐ cũng được mở rộng hơn.

Tuy nhiên, cách ứng xử của Nhà nước vẫn chưa hướng đến sự bình đẳng

trong quan hệ pháp luật đất đai với các chủ thể khác; mặc dù rằng, trên thực tế

QSDĐ được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, không phải chỉ do Nhà

59

nước giao đất.

Chúng ta có thể thấy rằng, tất cả các bản Hiến pháp đều ghi nhận việc

bảo hộ quyền tài sản hợp pháp của công dân, tổ chức, cho dù cách diễn đạt

trong từng giai đoạn lịch sử có khác nhau. Theo Điều 23 HP 1992: “Tài sản

hợp pháp của tổ chức, cá nhân không bị quốc hữu hóa. Trong trường hợp thật

cần thiết vì lý do an ninh, quốc phòng và lợi ích quốc gia. Nhà nước trưng

mua hoặc trưng dụng có BT tài sản của tổ chức hoặc cá nhân theo thời giá thị

trường…” Khác với các quy định trong các Hiến pháp trước về thủ tục trưng

dụng, trưng mua hoặc trưng thu theo pháp luật quy định, thì trong Điều 23 nói

trên đã khẳng định, thể thức trưng mua, trưng dụng do luật định.

Như đã trình bày, ở nước ta, mặc dù đất đai thuộc sở hữu toàn dân, song

QSDĐ lại là tài sản của NSDĐ. Theo đó, Nhà nước sử dụng biện pháp hành

chính theo quy định pháp luật để định đoạt tài sản là QSDĐ của tổ chức, hộ gia

đình, cá nhân.

Về mặt ngữ nghĩa ta có thể hiểu “thu hồi” là lấy lại cái đã cấp phát, đã

đưa ra hoặc bị người khác lấy, chẳng hạn như thu hồi tài sản bị lấy cắp, thu

hồi vốn, thu hồi giấy phép kinh doanh [50, tr.1593]. Như vậy, THĐ là việc

Nhà nước lấy lại QSDĐ đã giao cho các tổ chức, cá nhân sử dụng, hoặc lấy

lại QSDĐ hiện do người khác lấn, chiếm đất. Nếu theo cách hiểu như vậy, thì

việc Nhà nước THĐ chỉ phù hợp trong trường hợp các tổ chức được Nhà

nước giao đất không thu tiền sử dụng đất; còn trong các trường hợp QSDĐ

được hình thành từ việc Nhà nước công nhận, giao đất có thu tiền sử dụng đất,

nhất là qua cơ chế đấu giá QSDĐ hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất, thì

thuật ngữ “THĐ” tỏ ra chưa phù hợp, bởi lẽ, QSDĐ vốn dĩ là của họ, Nhà

nước thừa nhận sự thật hiển nhiên đó thôi, hoặc hàng hóa QSDĐ mà người ta

đã “mua” của Nhà nước qua cơ chế đấu giá, hoặc giá được hình thành trên cơ

sở ý chí của Nhà nước mà NSDĐ không được thỏa thuận, đưa ra giá theo ý

60

muốn của mình.

Thứ hai, về thẩm quyền THĐ

Trên cơ sở đó, chúng tôi đề nghị sửa đổi quy định về thẩm quyền THĐ,

trong đó có đất như sau:

(i) Xác định thẩm quyền THĐ là tập thể cơ quan quản lý hành chính

nhà nước theo địa bàn hành chính, dựa trên tiêu chí về quy mô diện tích đất

thu hồi và số hộ gia đình, số nhân khẩu bị tác động, không phân biệt NSDĐ

có đất bị thu hồi là tổ chức hay hộ gia đình, cá nhân, nhằm tránh việc phải đo

đạc địa chính, ban hành quyết định THĐ nhiều lần để thực hiện trên cùng một

dự án đầu tư.

(ii) Giao cho cơ quan Thanh tra theo chức năng, nhiệm vụ do pháp luật

quy định có thẩm quyền xem xét các quyết định THĐ của UBND cấp dưới.

HĐND cấp huyện, HĐND cấp tỉnh giám sát việc ban hành các quyết định

THĐ của UBND cùng cấp, Quốc hội giám sát các quyết định THĐ của

UBND cấp tỉnh, cấp huyện theo quy định pháp luật nhằm tránh những trường

hợp các cơ quan hành chính nhà nước vi phạm về thẩm quyền, nội dung cũng

như trình tự, thủ tục THĐ như đã phân tích ở trên, nhưng chưa được kiểm soát

hữu hiệu từ phía bên trong bộ máy nhà nước.

Thứ ba, về cưỡng chế thi hành quyết định THĐ

Khi đề cập đến trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện

quyết định cưỡng chế THĐ, tại Khoản 5 Điều 71 LĐĐ 2013 quy định:

“Ủy ban nhân dân cấp huyện chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện

việc cưỡng chế, giải quyết khiếu nại liên quan đến việc cưỡng chế theo

quy định của pháp luật về khiếu nại.”

Điều này có nghĩa là, UBND cấp huyện chịu trách nhiệm thực hiện

và giải quyết khiếu nại liên quan đến quyết định cưỡng chế của Chủ tịch

UBND cấp huyện. Nội dung này chưa phù hợp với Khoản 2 Điều 114 Hiến

61

pháp năm 2013.

Hơn nữa, Khoản 3 Điều 71 LĐĐ 2013 đã quy định: “Chủ tịch Ủy ban

nhân dân cấp huyện ban hành quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định

THĐ và tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế.”, nên không cần thiết phải

tiếp tục quy định về nhiệm vụ của UBND cấp huyện, vì trách nhiệm tổ chức

thực hiện quyết định cưỡng chế thuộc về Ban thực hiện cưỡng chế.

Vấn đề tiếp theo cần đặt ra có liên quan đến nội dung trên là, tại Điều

17 NĐ 43/2014/NĐ-CP lại quy định về giải quyết khiếu kiện phát sinh từ việc

cưỡng chế THĐ; trong đó có nội dung: “Việc thông báo THĐ, thành phần

Ban thực hiện cưỡng chế THĐ, kinh phí cưỡng chế THĐ, giải quyết khiếu

kiện phát sinh từ việc cưỡng chế THĐ…”. Tuy nhiên, cuối Điều 17 nói trên

quy định: “Trong khi chưa có quyết định giải quyết khiếu nại thì vẫn phải tiếp

tục thực hiện quyết định THĐ, quyết định cưỡng chế THĐ…”. Có thể thấy,

các nhà lập quy đang nhầm lẫn giữa khái niệm “khiếu nại” và khái niệm

“khiếu kiện”.

3.2.2. Các giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về thu hồi đất nông

nghiệp từ thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội

3.2.2.1. Mở rộng việc áp dụng cơ chế thỏa thuận đối với các dự án sử

dụng đất nông nghiệp

Trong giai đoạn hiện nay, việc thực hiện cơ chế thỏa thuận để thu hồi đất

được xem như một giải pháp quan trọng góp phần đảm bảo hiệu quả của quá

trình thu hồi đất tránh tình trạng kéo dài, khiếu kiện và tố cáo của người bị thu

hồi. Hoạt động này được hình thành dựa trên cơ sở sự thỏa thuận, do đó người

dân được trực tiếp tham gia thương lượng, xác định giá thành đền bù với doanh

nghiệp có đất bị thu hồi và từ đó tránh được những mâu thuẫn do quyền lợi của

cả 2 bên đều được đáp ứng. Do đó, trong thời gian tới, chúng ta nên cho phép

mở rộng việc thỏa thuận về các dự án sử dụng đất khi bị thu hồi đất, Phúc Thọ

62

có thể là địa phương tiên phong trong việc làm điều này.

Việc mở rộng cơ chế thỏa thuận có thể theo hướng, ngoài mức bồi

thường, hỗ trợ theo quy định của Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành

thì người bị thu hồi đất và các cơ quan đơn vị thu hồi đất có thể thỏa thuận thêm

về mức bồi thường theo biên độ nhất định dựa trên cơ sở giá thị trường. Hoặc

trong trường hợp cần thiết có thể thực hiện cơ chế, mời chuyên gia thẩm định giá

độc lập hoặc các công ty thẩm định giá để tiến hành việc thẩm định giá theo giá

thị trường của mảnh đất có khả năng bị thu hồi để từ đó có phương án thu hồi sát

nhất với giá của thị trường từ đó đảm bảo quyền lợi của người dân. Cơ chế thỏa

thuận trong thu hồi đất được coi là cơ chế mở, linh hoạt, đáp ứng tốt nhất lợi ích

của các chủ thê trong hoạt động thu hồi đất.

3.2.2.2. Đảm bảo đời sống cho người dân có đất bị thu hồi

Tránh tình trạng khiếu kiện khi THĐ, Nhà nước khi thực hiện THĐ

phải: (1) Đảm bảo nguyên tắc dân chủ, khách quan, công bằng, công khai.

Người dân phải được thông báo về kế hoạch THĐ, có quyền và nghĩa vụ tham

gia vào việc kiểm đếm để tránh tình trạng khiếu kiện; (2) luôn ưu tiên bồi

thường bằng việc giao đất mới khi có đủ điều kiện quy định và chỉ bồi thường

bằng tiền khi không có đất để bồi thường; (3) phải bố trí tái định cư, ưu tiên

bố trí tái định cư tại chỗ trong trường hợp hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước

thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở.

3.2.2.3. Minh bạch trình tự, thủ tục, thu hồi và cưỡng chế thu hồi đất

Việc minh bạch quy trình THĐ đòi hỏi không chỉ công khai quy trình,

thủ tục mà còn là quyền của người dân được phép tham gia bàn bạc ngay từ

đầu đối với các dự án thu hồi đất. Việc cưỡng chế thì cần quy định cụ thể trình

tự, thủ tục cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm và quyết định thu hồi đất,

tránh việc lạm quyền của các cơ quan công quyền.

Theo tác giả, trình tự, thủ tục, và cưỡng chế THĐ cần phải hết sức công

khai, minh bạch.

63

3.2.2.4. Nâng cao trình độ, phẩm chất cán bộ, đẩy mạnh tuyên truyền

pháp luật cho người dân

Lực lượng cán bộ làm công tác quản lý đất đai còn thiếu về số lượng,

yếu về chuyên môn, nhất là cán bộ ở cơ sở, dẫn tới tình trạng làm mất lòng tin

của nhân dân. Tiêu cực trong quá trình thu hồi đất, đặc biệt là vấn đề tham

nhũng trong thực hiện bồi thường, hỗ trợ vi phạm nguyên tắc công bằng, dân

chủ, thiếu tính khách quan khi giải quyết công việc cần sớm khắc phục. Cần

phải nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp, đạo đức công vụ cho đội ngũ cán

bộ làm công tác thực thi pháp luật về đất đai, đặc biệt trong các dự án sử dụng

đất vào mục đích phát triển kinh tế.

Cần tiến hành đồng bộ các giải pháp sau:

- Tăng cường tuyển chọn thêm cán bộ, công chức có trình độ chuyên

môn và nghiệp vụ cao phù hợp với nhiệm vụ.

- Bố trí hợp lý cán bộ, công chức phù hợp với năng lực trình độ chuyên

môn của từng người; sàng lọc và loại bỏ những cán bộ thoái hoá, biến chất;

thực hiện quản lý tốt hoạt động của công chức, có chế độ khen thưởng và kỷ

luật, chế độ đãi ngộ thích đáng.

- Thường xuyên tổ chức các lớp, khóa đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ

cán bộ, công chức có liên quan trong lĩnh vực đất đai, đặc biệt là THĐ để thực

hiện tốt nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn thay đổi và nhằm nâng cao

64

tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức.

Tiểu kết chương 3

Tại chương 3 của luận văn, học viên phân tích về phương hướng và giải

pháp nâng cao hiệu quả thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

Thứ nhất về phương hướng thu hồi đất nông nghiệp trong giai đoạn

hiện nay. Chúng ta cần đảm bảo các nguyên tắc sau đây. Một là cần đảm bảo

đúng chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước; hai là cần đảm bảo tình

hình thực tiễn phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương; ba là đảm bảo

quyền con người quyền công dân trong thu hồi đất nông nghiệp.

Thứ hai về các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất thì cần

đảm bảo hoàn thiện luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành

về chủ thể có thẩm quyền thu hồi đất, về trình tự, thủ tục thu hồi đất nông

nghiệp, về đền bù hỗ trợ tái định cư trong thu hồi đất nông nghiệp.

Thứ ba về các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thu hồi

đất nông nghiệp chúng ta cần phải thực hiện các giải pháp về tổ chức cán bộ,

nâng cao năng lực, hiệu quả làm việc của các cơ quan nhà nước; cần nâng cao

nhận thức, ý thức của người dân về công tác thu hồi đất, cần đảm bảo quan hệ

65

phối hợp giữa các cơ quan trong hoạt động thu hồi đất.

KẾT LUẬN

THĐ là một vấn đề quan trọng trong chính sách đất đai của Nhà nước,

là bước ngoặt thay đổi cuộc sống, ảnh hưởng đến số phận của nhiều người

dân, nhiều cộng đồng, nhiều địa phương. Vì những lẽ đó, THĐ luôn là một

chế định quan trọng của pháp luật đất đai Việt Nam, và cũng là lĩnh vực

thường xuyên phát sinh nhiều sai phạm.

Trong phạm vi đề tài, luận văn đã nghiên cứu các vấn đề lí luận và

thực tiễn về THĐ trên địa bàn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội. Cụ thể,

đã làm rõ các vấn đề lí luận pháp luật về THĐ, liên quan đến chủ thể,

khách thể, nội dung, biện pháp THĐ. Luận văn cũng đã phân tích các quy

định hiện hành của Luật Đất đai 2013, cũng như của các văn bản pháp lý có

liên quan. Trên cơ sở đối chiếu với Luật Đất đai 2003, đã làm rõ các sự sửa

đổi của Luật Đất đai mới trong THĐ, cũng như các hoạt động định giá, bồi

thường đất sau thu hồi.

Cần lưu ý rằng, những quy định hiện hành vẫn chưa làm rõ cơ chế thực

hiện quyền định đoạt của Nhà nước với vai trò là đại diện chủ sở hữu đất đai;

chưa giải quyết được một cách cụ thể lợi ích giữa người sử dụng đất, Nhà

nước và nhà đầu tư. Quyền của người sử dụng đất chưa được quy định đầy

đủ, nhất là điều kiện thực hiện các quyền. Năng lực đội ngũ cán bộ và việc tổ

chức bộ máy còn chưa đáp ứng được yêu cầu thực thi nhiệm vụ, đặc biệt là ở

cấp cơ sở…

Sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện quy định pháp luật THĐ để phát

triển kinh tế, xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng từ Hiến pháp đến Luật Đất

đai và các luật liên quan có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Minh bạch, dân chủ, công bằng và bình đẳng trong THĐ chính là chìa

khóa tốt nhất để bảo vệ quyền và lợi ích của người dân, tránh khiếu kiện

khiếu nại và những bức xúc xã hội xảy ra trong thời gian qua vừa qua ở địa

66

bàn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội nói riêng và ở Việt Nam nói chung.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI (2012), Nghị quyết Hội nghị

lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội

2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014), Quyết định số 1467/QĐ-BTNMT

Phê duyệt và công bố kết quả thống kê diện tích đất đai năm 2013, ngày

21/7.

3. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

1995.

4. Ngô Đức Cát (Chủ biên, 2000), Kinh tế tài nguyên đất, Nxb. Nông

nghiệp, Hà Nội

5. Chính phủ (2013), Nghị định 11/2013/NĐ-CP Về Quản lý đầu tư phát

triển đô thị, ngày 14/01, Hà Nội

6. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948,

bản dịch của Trung tâm Nghiên cứu Pháp luật về Quyền con người và

Quyền công dân, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh,

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

9. Đinh Văn Đãn, Lưu Văn Duy (2009), Chuyển đổi cơ cấu lao động nông

dân bị mất đất sản xuất, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, số 12 (74),

tháng 6, Hà Nội

10. Nguyễn Mạnh Hải-Chủ nhiệm đề tài (2009), Vấn đề bồi thường trong

67

THĐ ở Việt Nam: Thực trạng chính sách và giải pháp hoàn thiện, Đề tài

nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung

ương (thuộc Bộ Kế hoạch đầu tư), Hà Nội.

11. Đỗ Hậu - Nguyễn Đình Bồng (2010), Quản lý đất đai và bất động sản đô

thị, Nxb. Xây dựng, tr. 5.

12. Phan Trung Hiền (2008), Cơ sở hiến định về THĐ vì mục đích công cộng

ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 12 (128), tháng 8, Hà Nội

13. Nguyễn Ngọc Hiến (Chủ biên) (2003), Hành chính công, Nxb. Thống kê,

tr. 313 - 314.

14. Trần Quang Huy 2010), Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước THĐ, Tạp chí

Luật học, số 10, Hà Nội

15. Trần Quang Huy (Chủ biên, 2013), Giáo trình Luật Đất đai, Nxb. Tư

pháp, Hà Nội

16. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Quyền con người (Tập hợp

những bình luận/khuyến nghị chung của các Ủy ban Công ước của Liên

hiệp quốc), Nxb. Công an nhân dân, tr. 56 - 57.

17. Nguyễn Thị Nga (2010) Pháp luật về trình tự, thủ tục THĐ, bồi thường và

giải phóng mặt bằng và những vướng mắc nảy sinh trong quá trình áp

dụng, Tạp chí Luật học, số 11, Hà Nội

18. Phạm Hữu Nghị (2008), Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo pháp luật

đất đai Việt Nam: Thực trạng và kiến nghị, Tạp chí Nhà nước và Pháp

luật số 10, Hà Nội

19. Nguyễn Thị Nhàn (2010), Pháp luật về THĐ trong giai đoạn hiện nay,

Luận văn Thạc sỹ Luật học, Hà Nội.

20. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo Luật Kinh tế, Nxb. Đại học Quốc

gia Hà Nội, Hà Nội

21. Phạm Duy Nghĩa (2011), Giáo trình Luật Kinh tế, Nxb. Công an nhân

68

dân, Hà Nội

22. Ngô Hữu Phước - Lê Đức Phương (2013), Văn bản Luật Quốc tế và văn

bản pháp luật Việt Nam phục vụ học tập, nghiên cứu môn Khái luận

chung về Luật Quốc tế, Nxb. Lao động, Hà Nội, tr. 7.

23. Đặng Anh Quân (2012), Đảm bảo quyền lợi của người sử dụng đất trong

công tác quy hoạch sử dụng đất, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 4 (288),

Hà Nội

24. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.

25. Quốc hội (2003), Luật Đất đai, Hà Nội.

26. Quốc hội (2005), Bộ Luật Dân sự, Hà Nội.

27. Quốc hội (2008), Luật Trưng mua trưng dụng tài sản, Hà Nội.

28. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

29. Quốc hội (2013), Luật Đất đai, Hà Nội.

30. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Hà Nội.

31. Phan Nhật Thanh (2016), Bàn về nguồn gốc pháp luật, Tạp chí Khoa học

Pháp lý, số 03 (97), Hà Nội

32. Lê Ngọc Thạnh (2010), Xung quanh quy định thời hạn sử dụng đất, Tạp

chí Dân chủ và Pháp luật, số 11 (224), Hà Nội

33. Nguyễn Đồng Thanh (2010), Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ,

Luận văn Thạc sỹ Luật học, Tp. Hồ Chí Minh.

34. Thanh tra Chính phủ (2010), Báo cáo số 2280/BC-TTCP Tổng kết việc thi

hành Luật khiếu nại, tố cáo (từ năm 2005 đến tháng 6/2009), ngày 04/8.

35. Lê Ngọc Thạnh (2013), Đảm bảo tài sản là QSDĐ của người có đất bị thu

hồi - Nhìn từ quy định trong các bản Hiến pháp và pháp luật đất đai, Tạp

chí Nhà nước và Pháp luật, số 3 (299), Hà Nội

36. Lê Ngọc Thạnh (2013), Dự thảo Luật Đất đai năm 2013 với các quy định

69

về THĐ, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 04 (236), Hà Nội

37. Trịnh Đức Thảo (2008), Hai lý thuyết và hai loại trách nhiệm về bồi

thường nhà nước, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 1 (115), Hà Nội

38. Phạm Thu Thủy (2014), Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước THĐ,

Luận án Tiến sỹ Luật học, Hà Nội.

39. Hồ Thị Lam Trà (Chủ biên) (2008), Giáo trình Định giá đất, Tài liệu sử

dụng cho lớp Cao học Quản lý Đất đai tại Đắk Lắk khóa 2008 - 2010

(trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội tuyển sinh), tr. 1 - 2.

40. Nguyễn Quang Tuyến (2009), Vấn đề lí luận xung quanh khái niệm bồi

thường khi Nhà nước THĐ, Tạp chí Luật học, số tháng 1, Hà Nội

41. Nguyễn Quang Tuyến (2010), Tương đồng và khác biệt giữa pháp luật đất

đai Singapore và pháp luật đất đai Việt Nam - Gợi mở cho Việt Nam trong

quá trình hoàn thiện pháp luật đất đai, Tạp chí Luật học, số 8, Hà Nội

42. Nguyễn Quang Tuyến và Đỗ Xuân Trọng (2012), Hoàn thiện các quy định

của Luật Đất đai về Nhà nưóc điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất đai

không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại, Tạp chí Luật học, số 7

(146), Hà Nội

43. Nguyễn Quang Tuyến và Nguyễn Vĩnh Diện (2015), Trình tự, thủ tục

THĐ và giải phóng mặt bằng theo Luật Đất đai năm 2013, Tạp chí Nhà

nước và Pháp luật, số 2(322), Hà Nội

44. Ủy ban Kinh tế Quốc hội, Báo cáo số 1078/BC-UBKT13 Tiếp thu, giải

trình, chỉnh lý dự án Luật đất đai (sửa đổi) Quốc hội khoá XIII, ngày 16

tháng 4 năm 2013

45. UBND thành phố Hà Nội (2015), Quyết định số 22/2014/QĐ-UBND Quy

định mức giá các loại đất định kỳ 05 năm (2015 - 2019), ngày 26/12, Hà Nội

46. UBND thành phố Hà Nội (2014), Quyết định số 96/2014/QĐ-UBND Ban

hành quy định về giá các loại đất trên địa bàn thành phố Hà Nội áp dụng

70

từ ngày 01/01/2015 đến 31/12/2019, ngày 29/12, Hà Nội

47. Viện Khoa học Pháp lý thuộc Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb.

Từ điển Bách khoa - Nxb. Tư pháp.

48. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm

Từ điển học, Hà Nội

49. Nguyễn Cửu Việt (Chủ biên), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và

Pháp luật, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003, tr. 373.

50. Nguyễn Như Ý (Chủ biên, 1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa -

71

Thông tin, Hà Nội