Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
LỜI MỞ ĐẦU
Thế kỉ 21 là thế kỉ của kinh tế tri thức, với xu hướng khu vực hoá và toàn
cầu hoá đang đặt ra cho các hoạt động thương mại quốc tế những cơ hội mới.
Chính vì vậy, đẩy mạnh xuất khẩu là phương hướng chiến lược được Đại hội
Đảng IX xác định và chỉ đạo thực hiện theo tinh thần : “Việt Nam sẵn sàng làm
bạn, làm đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu
vì hoà bình độc lập dân tộc và phát triển”. Để thực hiện chiến lược và định
hướng xuất khẩu là phấn đấu đạt tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm tới đạt
khoảng 114 tỷ USD, tăng 16%/năm, các doanh nghiệp Việt Nam không thể
không đẩy mạnh xuất khẩu. Vấn đề đặt ra là hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu
đi đâu là có lợi thế nhất.
Thị trường Liên minh Châu Âu EU là một thị trường tiệu thụ rộng lớn, đại
diện cho 6,5% dân số thế giới (382,5 triệu) nhưng chiếm tới 1/5 thương mại toàn
cầu. EU là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai thế giới sau Mỹ, nhu cầu nhập khẩu
hàng năm đa dạng và phong phú. EU nhập rất nhiều các mặt hàng nông sản,
khoáng sản, thuỷ hải sản và dệt may. Đây là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của Việt Nam. Hàng giày dép, dệt may, thuỷ hải sản, đồ gốm đồ gia dụng, cà
phê, chè và gia vị của Việt Nam đang là những mặt hàng được ưa chuộng tại thị
trường Châu Âu và triển vọng phát triển các mặt hàng này rất khả quan. Vì vậy,
có thể nói rằng EU là thị trường xuất khẩu quan trọng và tiềm năng của Việt
Nam. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sang EU, Việt Nam đã phần nào có được
sự tăng trưởng ổn định và tạo thuận lợi cho Việt Nam gia nhập tổ chức thương
mại thế giới (WTO).
Trong hơn 10 năm kể từ khi Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại
giao với EU, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam sang EU không
ngừng tăng cả về chiều rộng và chiều sâu. Tuy nhiên tỷ trọng xuất khẩu của Việt
1
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Nam trong kim ngạch ngoại thương của EU còn khá khiêm tốn và chưa tương
xứng với tiềm năng và lợi ích của hai bên.
Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân quan trọng hạn chế cơ
hội xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam chính là hành lang pháp lý hết
sức chặt chẽ của EU. Những quy định pháp lý này đã trở thành những rào cản
đối với các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Nó hạn chế khả năng thâm nhập
và chiếm lĩnh thị trường. Việc nghiên cứu tìm hiểu những vấn đề pháp lý và
thực tiễn vận dụng của Việt Nam khi thâm nhập thị trường này là điều hết sức
quan trọng.
Chính vì những lý do như vậy nên tôi đã chọn đề tài: “Việc vận dụng các
quy định pháp lý của Liên minh Châu Âu EU về chất lượng và nhãn hiệu
sản phẩm trong xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường này” để
viết Khoá luận tốt nghiệp nhằm đi sâu tìm hiểu về thị trường EU và các yêu cầu
của thị trường EU đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam cũng như việc vận
dụng các quy định pháp lý của EU của các doanh nghiệp Việt Nam. Để hoàn
thành Khoá luận tốt nghiệp, tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp
trên cơ sở những thông tin thu thập được cùng các phương pháp thốngkê, so
sánh... để nghiên cứu những yêu cầu mà đề tài đặt ra. Do thời gian nghiên cứu
không dài và việc thu thập tài liệu còn gặp nhiều hạn chế nên Khoá Luận Tốt
Nghiệp này không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được ý kiến
đóng góp của các thầy cô giáo, các bạn sinh viên để Khoá Luận được hoàn thiện
hơn
Những nội dung của Khoá luận được trình bày trong 3 chương sau:
Chương 1: Tổng quan về Liên Minh Châu Âu và các quy định quy định
về chất lượng - nhãn hiệu sản phẩm xuất khẩu vào thị trường này
2
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Chương 2: Thực tiễn vận dụng các quy định pháp lý về chất lượng và
nhãn hiệu sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu vào thị
trường EU
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định
pháp lý của EU nhằm thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường này.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Ban giám hiệu,
Phòng Đào Tạo, Khoa KTNT và các Phòng Ban khác của trương Đại Học Ngoại
Thương đã tạo môi trường thuận lợi cho tôi được học tập và rèn luyện 4 năm
qua. Đặc biệt tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới PGS –TS Lê
Đình Tường, người đã nhiệt tình hướng dẫn tôi và các bạn bè của tôi, đã giúp đỡ
tôi hoàn thành tốt Khoá luận này. Qua KLTN này tôi cũng tỏ lòng biết ơn sâu
sắc nhất tới cha mẹ, các anh chị và những người thân của tôi, những người đã
ủng hộ tôi cả về vật chất lẫn tinh thần trong suốt 4 năm học vừa qua.
Hà nội tháng 12 năm 2003
Sinh viên
Vũ Thị Nam Phương
3
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
CHƯƠNG 1
LIÊN MINH CHÂU ÂU VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LÝ VỀ
CHẤT LƯỢNG - NHÃN HIỆU SẢN PHẨM XUẤT KHẨU VÀO THỊ
TRƯỜNG NÀY
1.1 KHÁI QUÁT VỀ LIÊN MINH CHÂU ÂU
1.1.1 Tổng quan về liên minh Châu Âu
Liên minh Châu Âu là một tổ chức liên kết kinh tế khu vực lớn nhất, thành
công nhất trên thế giới và được coi là sự mẫu mực của xu thế hợp tác kinh tế
quốc tế. Một tổ chức thực hiện có kết quả quá trình hợp nhất về kinh tế giữa các
quốc gia độc lập về chính trị theo thiết chế thị trường thống nhất và chặt chẽ.
Hiện nay cùng với Mỹ, Nhật Bản Liên minh Châu Âu đang là một trong ba
trung tâm kinh tế hùng mạnh trên thế giới.
Để có được những thành tựu như ngày nay, EU đã phải trải qua một thời
gian dài hình thành và phát triển với những bước thăng trầm của nó, đặc biệt là
cả quá trình nghiên cứu và những nỗ lực to lớn của các nước thành viên trong
liên kết kinh tế.
Sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, một mặt, trước yêu cầu cấp thiết
phải khôi phục và phát triển nền kinh tế bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, các
nước Tây Âu nhận thấy cần phải có sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các nước Tây
Âu với nhau để xây dựng và ngăn chặn chiến tranh sau này có thể nổ ra giữa các
nước Châu Âu, đặc biệt là phải đổi mới kinh tế, lấy sự hợp tác về sản xuất thay
cho sự đối địch về kinh tế. Mặt khác, quá trình khách quan xuất phát từ đòi hỏi
phát triển của lực lượng sản xuất do đời sống kinh tế quốc tế hoá ngày càng rộng
rãi cùng với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã
4
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển của lực lượng sản xuất và đời sống kinh tế
Tây Âu. Sự tiến triển nhanh chóng về công nghệ, kỹ thuật trên thế giới đã tác
động mạnh mẽ làm cho Tây Âu cảm thấy cần phải có sự thay đổi gắn liền với
tiến bộ về kinh tế.
Chính trong bối cảnh đó, việc tăng cường quan hệ kinh tế giữa các nước
Tây Âu với nhau và thiết lập một tổ chức siêu quốc gia có sứ mạng điều hành
phối hợp hoạt động kinh tế của từng quốc gia càng trở nên bức xúc.
Để thống nhất Châu Âu, lúc này có hai hướng vận động:
- Hợp tác: Các quốc gia hợp tác với nhau nhưng mỗi quốc gia đều giữ trọn
chủ quyền dân tộc.
- Hoà nhập hay “nhất thể hoá”: Các quốc gia đều chấp nhận và tuân thủ
theo một cơ quan quyền lực siêu quốc gia. Cuối cùng nó sẽ dẫn tới việc
hình thành một tổ chức kiểu liên bang.
Lịch sử của sự hình thành và phát triển của Cộng Đồng kinh tế Châu Âu đã
được đánh dấu bởi bản tuyên bố vào ngày 09/05/1950 mà lúc đó ít người đánh
giá được tầm quan trọng của nó. Ngoại Trưởng Pháp Robert Struman theo sáng
kiến của nhà chính trị gia- nhà kinh tế học Pháp Jean Monet, đã đề xuất với Đức
việc thành lập một tổ chức hợp tác Châu Âu trong một tổ chức “mở cửa” để các
nước Châu Âu khác nếu có nguyện vọng cùng tham gia để nhằm thống nhất việc
sản xuất cũng như tiêu thụ các sản phẩm than-thép. Bản tuyên bố nêu rõ đề nghị
trên đây của Pháp nhằm đặt nền móng đầu tiên cho một “Liên bang Châu Âu”
để gìn giữ hoà bình. Sáng kiến này của Pháp có ý nghĩa to lớn đối với các nước
Tây Âu, nó vừa mở ra một kiểu quan hệ hoàn toàn mới đối với lĩnh vực kinh tế
(lấy hợp tác thay cho đối địch kinh tế), vừa bao hàm sự hoà giải giữa Pháp và
Đức, tạo thành khung cho sự thống nhất Châu Âu trong tương lai. Các nước
Italia, Bỉ, Hà Lan cũng lên tiếng ủng hộ cho sáng kiến này. Ngày 18/04/1951, tại
Paris, sáu nước Châu Âu đã ký hiệp ước thành lập Cộng đồng Than và Thép
5
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Châu Âu (ECSC) mở ra một chương mới trong lịch sử quan hệ giữa các nước
Tây Âu. Những thành tựu về kinh tế và chính trị mà ECSC mang lại đã dẫn đến
việc ngày 25/3/1957, tại Rome sáu nước thành viên đã cùng nhau kí kết hiệp
ước thiết lập Cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC) và cộng đồng năng lượng
nguyên tử Châu Âu (EURATOM) với nhiệm vụ đẩy mạnh sáng tạo phát triển
công nghiệp nguyên tử, đảm bảo cung cấp nguyên liêu và bảo vệ môi trường,
đảm bảo sự hoà nhập kinh tế, tiến tới một thị trường thống nhất tạo ra sự tự do
lưu thông hàng hoá và nguồn nhân lực trong toàn khối. Năm 1967 các tổ chức
trên hợp nhất thành một tổ chức chung có tên là Cộng đồng Châu Âu (EC). Trên
cơ sở những kết quả đã đạt được cả về mặt kinh tế cũng như chính trị, ngày
1/1/1973 EC “mở cửa” đón ba thành viên mới: Anh, Ailen và Đan Mạch. Sau
lần “mở cửa” thứ nhất, với việc gia nhập của các nước Tây Bắc Âu, Cộng đồng
Châu Âu mở cửa lần thứ hai đón thêm ba nước Nam Âu: Hy Lạp (1981), Tây
Ban Nha (1986) và Bồ Đào Nha (1986). Nhờ những thành công đã đạt được trên
phương diện kinh tế và chính trị, Cộng đồng kinh tế Châu Âu tiếp tục mở rộng
các quá trình liên kết rộng rãi giữa các nước và các dân tộc. Đỉnh cao những nỗ
lực của quá trình thống nhất Châu Âu được thể hiện qua cuộc họp thượng đỉnh
các nước thuộc cộng đồng kinh tế Châu Âu tổ chức tại Maastricht (Hà Lan)
tháng 12 năm 1991. Hội nghị đã thông qua hiệp ước Maastricht với những nội
dung sau: xây dựng ngôi nhà chung Châu Âu, thành lập liên minh kinh tế tiền tệ
(EMU) và liên minh chính trị (EPU). Ngày1/1/1993, hiệp ước Maastricht chính
thức có hiệu lực. EC gồm 12 nước trở thành Liên Minh Châu Âu (EU). Cho đến
nay, EU gồm 15 nước thành viên, trong đó có 3 thành viên mới là Áo, Phần Lan
và Thuỵ Điển (gia nhập năm 1995).
Có thể nói quá trình ra đời và phát triển của EU gần nửa thế kỷ qua là cả
một quá trình đấu tranh gay gắt, một quá trình tranh chấp và thoả hiệp. Song với
nỗ lực to lớn và cam kết thống nhất về mục tiêu của các nước thành viên, EU đã
phát triển vượt bậc, xúc tiến liên kết trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là trong lĩnh
6
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
vực kinh tế, tiền tệ với việc tạo lập thị trường chung và tiến đến thiết lập một
khu vực tiền tệ ổn định nhằm cạnh tranh với đồng đôla Mỹ trên thị trường quốc
tế về lâu về dài để hình thành một liên minh tiền tệ và kinh tế thống nhất tiến tới
tăng cường liên kết về mặt chính trị. Với tiềm năng to lớn về kinh tế, khoa học
công nghệ của mình, EU đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc chi phối các
quan hệ kinh tế quốc tế.
Liên minh Châu Âu ngay từ khi mới thành lập đã đặt vấn đề kinh tế lên
hàng đầu, hướng đến xây dựng một thị trường chung. Thị trường chung có thể
được hiểu là một không gian rộng lớn bao trùm lãnh thổ của tất cả các quốc gia
thành viên mà ở đó hàng hoá, lao động, dịch vụ và tư bản được lưu chuyển hoàn
toàn tự do.
Mở đầu cho việc dẫn đến một thị trường chung là việc hoàn tất xây dựng
Liên Minh thuế quan của 6 nước vào tháng 07/1968. Liên minh thuế quan này
bao hàm việc xoá bỏ hoàn toàn mọi loại thuế quan và những hạn chế về số
lượng đối với hoạt động thương mại trong cộng đồng, đồng thời xây dựng một
biểu thuế quan chung duy nhất cho toàn cộng đồng, giành cho nhau những ưu
đãi trong quan hệ mậu dịch giữa các nước thành viên. Từ năm 1958 cho đến
năm 1968, tỷ lệ khối lượng xuất khẩu giữa các nước trong cộng đồng đã tăng từ
37% lên 50% tồng xuất khẩu của cộng đồng, còn tỷ lệ nhập khẩu tăng từ 30%
lên 47%. Tuy nhiên trong một thời gian dài tiếp sau đó tiến trình xây dựng thị
trường chung bị chậm lại do các nước trong cộng đồng rơi vào cuộc khủng
hoảng dầu lửa năm 1973 và sự sụp đổ của hệ thống tiền tệ Bretton Woods. Các
nước quá lo lắng giải quyết vấn đề của riêng mình nên không còn thực sự quan
tâm đến việc xây dựng thị trường chung nữa.
Phải đến giữa những năm 80, trước sự suy yếu của kinh tế thế giới, các
nước trong cộng đồng buộc phải xem xét lại các hoạt động liên kết kinh tế của
mình nhằm tìm cách khai thông tình trạng trì trệ và đem lại cho tiến trình nhất
7
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
thể hoá kinh tế một đà phát triển mới. Các nước này lại thấy được sự cần thiết
phải có nỗ lực mới để nhanh chóng hoàn tất việc xây dựng thị trường chung EU.
Tháng 07/1987, việc ký kết Định ước Châu Âu thống nhất, tiến trình xây dựng
thị trường chung đã tiến thêm một bước quan trọng. Qua Định ước này các nước
trong cộng đồng đã nhấn mạnh đến việc xoá bỏ các đường biên giới nội bộ, tạo
thị trường chung cho sự lưu thông hàng hoá, lao động dịch vụ và vốn. Ngày
01/01/1993, sau bảy năm tích cực chuẩn bị, toàn thể cộng đồng Châu Âu chính
thức trở thành một thị trường chung được giải phóng khỏi các đường biên giới
nội bộ.
Một bước phát triển tất yếu trong tiến trình dẫn tới thị trường chung là việc
thống nhất các nước trong EU ở lĩnh vực tiền tệ. Nội dung chính ở đây là xây
dựng một liên minh kinh tế và tiền tệ Châu Âu (EMU) và đồng tiền chung Châu
Âu (EURO). Các hoạt động đáng kể trên góp phần thúc đẩy nền kinh tế của các
nước phát triển đồng đều, tăng sức cạnh tranh với hàng hoá của các nước khác.
Tuy nhiên để được tham gia vào Liên minh kinh tế tiền tệ, các nước trong khối
EU phải đạt được 5 tiêu chuẩn cơ bản sau:
- Thiếu hụt ngân sách không được cao quá 3% GDP của nước mình;
- Nợ Nhà nước không được cao quá 60% GDP của nước mình;
- Lạm phát không đựợc cao quá 1,5% mức bình quân của các chỉ tiêu này
ở 3 nước trong khối có nền kinh tế ổn định nhất;
- Lãi suất tín dụng không cao quá mức bình quân của các chỉ tiêu này ở
ba nước trong khối có nền kinh tế ổn định nhất;
- Trong hai năm gần đây đồng bản tệ không bị phá giá.
Đối chiếu với các tiêu chuẩn trên thì hiện đã có 12 trong số 15 nước thành
viên EU đạt đủ tiêu chuẩn EMU.
8
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Ngày 01/01/1999, đồng tiền chung Châu Âu đã chính thức có mặt trên thị
trường. Đồng EURO ra đời đã biến các nước EU thành một thực thể thương mại
duy nhất, một thị trường rộng lớn, nền kinh tế của các nước thành viên có thể ổn
định hơn và phát triển một cách đồng đều hơn, khả năng cạnh tranh so với Mỹ
và Nhật Bản cũng từ đó mà tăng lên. Có thể nói việc thiết lập thị trường chung
là một thành quả lớn nhất trong quá trình liên kết kinh tế Châu Âu, là nền tảng
quan trọng cho các giai đoạn tiếp theo của tiến trình nhất thể hoá EU.
1.1.2 Đặc điểm chung của thị trường EU
1.1.2.1 Những điểm tương đồng
EU là một thị trường rộng lớn, với dân số 382,5 triệu người tiêu dùng, năm
2002 thu nhập quốc dân khoảng 8.562 tỷ USD (khoảng 20% GDP toàn cầu), thu
nhập bình quân đầu người 32.028 USD/năm, hiện tại gồm 15 quốc gia thành
viên. (Nguồn: Tạp chí Thương mại số 31/2003). Thị trường này còn mở rộng
sang các nước thuộc “Hiệp hội mậu dịch tự do Châu Âu” (EFTA) tạo thành
một thị trường rộng lớn khoảng 390 triệu người. EU là thị trường có nhiều thành
viên mặc dầu vậy đây vẫn là thị trường thống nhất trên nhiều khía cạnh.
Ngay từ cuối những năm 60 của thế kỷ 20, EU đã là thị trường có hệ thống
hải quan thống nhất trong cả khối với định mức chung ở các nước thành viên.
Từ khi hiệp định Maastricht có hiệu lực (01/01/1993), EU thành thị trường
chung thống nhất huỷ bỏ đường biên giới nội bộ trong liên minh (biên giới lãnh
thổ quốc gia và biên giới hải quan). Ngoài một thể chế thống nhất, liên minh còn
có cơ chế thống nhất trong việc ra quyết định và thực hiện trong phạm vi cộng
đồng. Những quyết định của cộng đồng phải được tuân thủ nghiêm túc ở mỗi
quốc gia thành viên. Điều này đựơc thể hiện trong nguyên tắc “Luật cộng đồng
luôn cao hơn luật quốc gia”.
9
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Gắn liền với sự ra đời của thị trường chung Châu Âu là một chính sách
thương mại chung. Nó điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu và lưu thông hàng hoá
dịch vụ trong nội bộ khối. EU ngày nay được xem như một đại quốc gia ở Châu
Âu. Bởi vậy chính sách thương mại chung của EU cũng giống như chính sách
thương mại của một quốc gia. Nó bao gồm chính sách thương mại nội khối và
chính sách ngoại thương. Chính sách thương mại nội bộ khối tập trung vào việc
xây dựng và vận hành thị trường chung Châu Âu nhằm xoá bỏ việc kiểm soát
biên giới lãnh thổ quốc gia và hải quan (xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi
quan thuế) để tự do lưu thông hàng hoá sức lao động, dịch vụ và vốn đồng thời
điều hoà các chính sách kinh tế và xã hội của các nước thành viên. Tất cả các
nước thành viên EU đều áp dụng một chính sách ngoại thương chung với các
nước ngoài khối. Uỷ ban Châu Âu (EC) là người đại diện duy nhất cho liên
minh trong việc đàm phán ký kết các hiệp định thương mại và dàn xếp tranh
chấp trong lĩnh vực này. Các biện pháp được áp dụng phổ biến trong chính sách
ngoại thương của EU là thuế quan, hạn ngạch hạn chế về chất lượng, hàng rào
kỹ thuật, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu.
Đối với hàng xuất khẩu theo hạn ngạch vào khối, mức thuế trung bình đánh
vào hàng dệt may là 9%, hàng nông sản là 18% còn hàng công nghiệp là 2%.
Chính sách ngoại thương của EU từ 1951 đến nay phân thành những nhóm
chủ yếu sau: Nhóm chính sách khuyến khích xuất khẩu, nhóm chính sách thay
thế nhập khẩu, nhóm chính sách tự do hoá thương mại và nhóm chính sách hạn
chế xuất khẩu tự nguyện.
Để đảm bảo cạnh tranh công bằng trong thương mại, EU đã thực hiện các
biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp xuất khẩu và chống hàng giả. EU đã
ban hành chính sách chống bán phá giá và áp dụng thuế “chống xuất khẩu bán
phá giá” để đấu tranh với những trở ngại trong buôn bán với thế giới. Có thể kể
đến việc đánh thuế 30% đối với những sản phẩm điện tử của Hàn Quốc va
10
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Singapore, giày dép của Trung Quốc, đánh thuế 50%-100% đối với các xí
nghiệp sản xuất camera truyền hình của Nhật Bản… trong khi đó các biện pháp
chống hàng giả của EU cho phép ngăn chặn không cho nhập khẩu những hàng
hoá đánh cắp bản quyền. Bên cạnh việc áp dụng các biện pháp chống cạnh tranh
không lành mạnh trong thương mại, EU còn sử dụng một biện pháp để đẩy
mạnh thương mại với các nước đang và chậm phát triển. Đó là hệ thống ưu đãi
thuế quan phổ cập (GSP). Bằng cách này, EU có thể làm cho nhóm các nước
đang phát triển (trong đó có Việt Nam) và nhóm nước chậm phát triển dễ dàng
thâm nhập vào thị trường của mình. Sắp tới quốc hội EU sẽ thông qua hệ thống
ưu đãi thuế quan phổ cập mới, hệ thống này sẽ bao gồm 2 nhóm sản phẩm của
các nước đang phát triển được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập của EU thay vì 4
nhóm sản phẩm như đang áp dụng hiện nay, đó là sản phẩm nhạy cảm và sản
phẩm không nhạy cảm. Hàng của các nước đang và chậm phát triển muốn được
hưởng GSP khi nhập khẩu vào EU thì phải tuân thủ các quy định của EU về xuất
xứ hàng hoá và phải xuất trình giấy chứng nhận xuất xứ mẫu A do cơ quan có
thẩm quyền của các nước được hưởng GSP cấp.
Ngoài ra để đảm bảo quyền lợi và an toàn cho người tiêu dùng trong khối,
EU còn ban hành rất nhiều các đạo luật chủ yếu cấm buôn bán các sản phẩm
được sản xuất từ những nước có điều kiện sản xuất chưa đạt mức an toàn ngang
với tiêu chuẩn của EU. Chẳng hạn như đạo luật 91/493/EC của hội đồng EC
“những điều kiện đối với sức khỏe đối với việc nhập khẩu kinh doanh hàng thuỷ
sản trên thị trường EU”. Theo điều 10 của đạo luật này, các tiêu chuẩn áp dụng
ít nhất là tương đương với những tiêu chuẩn chỉ đạo được áp dụng trên thị
trường nội địa EU. Khái niệm tương đương ở đây được hiểu là, tương đương về
tổ chức chức năng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra chất lượng sản
phẩm theo tiêu chuẩn HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point- điểm
giới hạn kiểm tra mức nguy hiểm) đối với hàng thực phẩm. EU cũng thông qua
những quy định bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng về độ an toàn chung của các
11
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
sản phẩm được bán ra, các hợp đồng quảng cáo, nhãn hiệu… Các tổ chức
chuyên nghiên cứu đại diện cho người tiêu dùng sẽ đưa ra các quy chế định
chuẩn Quốc Gia hoặc Châu Âu. Hiện nay ở Châu Âu có 3 tổ chức định chuẩn:
Uỷ ban Châu Âu về định chuẩn, Uỷ Ban Châu Âu về Định chuẩn điện tử, Viện
Định chuẩn viễn thông Châu Âu. Đặc biệt EU có quy chế về nhãn mác rất khắt
khe nhất là đối với các hàng thực phẩm đồ uống, thuốc men và vải lụa. Điều này
chi phối rất lớn tới xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Nhờ ứng dụng thành tựu về công nghệ thông tin, EU đã thiết lập hệ thống
chống gian lận về hạn ngạch trong toàn khối. Hải quan EU với những phương
tiện hiện đại nắm rất chắc các số liệu nhập khẩu của từng nước hàng ngày không
cho phép vượt số lượng giao hàng theo quy định dù chỉ là một đơn vị. Để giải
quyết những trường hợp này có khi phải thương lượng rất khó khăn.
EU có 15 thị trường quốc gia. Mỗi thị trường lại có đặc điểm tiêu dùng
riêng, do vậy có thể thấy rằng thị trường EU có nhu cầu rất đa dạng và phong
phú về hàng hoá. Tuy có những khác biệt nhất định về tập quán và thị hiếu tiêu
dùng nhưng 15 nước thành viên đều là những quốc gia nằm trong khu vực Tây
và Bắc Âu nên có những đặc điểm tương đồng về kinh tế, văn hóa. Trình độ
phát triển kinh tế – xã hội của các nước khá đồng đều cho nên người dân thuộc
khối EU có những điểm chung về sở thích và thói quen tiêu dùng.
Người tiêu dùng Châu Âu có sở thích và thói quen sử dụng các sản phẩm
có nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới. Họ cho rằng, những sản phẩm này gắn liền
với chất lượng sản phẩm và có uy tín lâu đời, cho nên dùng những sản phẩm
mang nhãn hiệu nổi tiếng sẽ an tâm về mặt chất lượng và an toàn cho người sử
dụng. Vì vậy trong nhiều trường hợp mặc dù sản phẩm giá rất đắt nhưng họ vẫn
mua mà không thích chuyển sang tiêu dùng những sản phẩm không nổi tiếng
khác cho dù giá rẻ hơn nhiều.
12
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Người tiêu dùng EU thích sử dụng và có thói quen tiêu dùng một số hàng
hoá sau:
- Hàng may mặc và giày dép: Người dân Áo, Đức, Hà Lan chỉ mua hàng
may mặc hoặc giày dép không chứa chất nhuộm có nguồn gốc hữu cơ (azo-
dyes). Khách hàng EU đặc biệt quan tâm tới chất lượng và thời trang của hai
loại sản phẩm này. Đối với hàng giày dép, người EU có xu hướng đi giầy vải.
Xu hướng này càng tăng lên tỷ lệ thuận với xu hướng tiêu dùng giày dép tăng
hàng năm của EU. Đối với mặt hàng này nhu cầu thay đổi nhanh chóng, nhất là
về mẫu mốt.
- Thuỷ hải sản: Người tiêu dùng EU không mua những sản phẩm thuỷ hải
sản bị nhiễm độc do tác động của môi trường hoặc do các chất phụ gia không
được phép sử dụng. Đối với những sản phẩm thuỷ hải sản qua chế biến, người
Châu Âu chỉ dùng những sản phẩm đóng gói có ghi tên sản phẩm, nơi sản xuất,
các điều kiện bảo quản và sử dụng, mã số và mã vạch. Họ tẩy chay các loại thuỷ
sản nhập khẩu có chứa khuẩn Salmonela, độc tố Lustamine, nhiễm
V.Paraheamoliticus, nhiễm V. Cholerea. Người Châu Âu ăn ngày càng nhiều
thuỷ sản vì họ cho rằng sẽ giảm được béo mà vẫn khoẻ mạnh.
EU là một trong những thị trường lớn nhất trên thế giới cũng chỉ như thị
trường Mỹ nhưng khác với thị trường Mỹ ở chỗ EU là một cộng đồng kinh tế
mạnh và là một trung tâm văn minh lâu đời của nhân loại, do đó sở thích tiêu
dùng của người dân rất cao sang. Họ có thu nhập có mức sống khá đồng đều,
yêu cầu khắt khe về chất lượng và độ an toàn sản phẩm nói chung còn với thực
phẩm thì chất lượng và vệ sinh là hàng đầu. Yếu tố quyết định tiêu dùng của
người Châu Âu là chất lượng hàng hoá chứ không phải là giá cả đối với đại đa
số các mặt hàng được tiêu thụ trên thị trường này. Trong khi đó Mỹ là một xã
hội đa văn hoá, đa dân tộc nên sở thích tiêu dùng của người Mỹ rất đa dạng về
chủng loại hàng hoá và đòi hỏi về chất lượng không khắt khe như thị trường EU.
13
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Xu hướng tiêu dùng trên thị trường EU đang có những thay đổi như: không
thích dùng đồ nhựa mà thích dùng đồ gỗ, thích ăn thuỷ sản hơn ăn thịt, yêu cầu
về mẫu mốt và kiểu dáng thay đổi nhanh đặc biệt đối với những mặt hàng thời
trang (giày dép, quần áo…). Sở thích và thói quen tiêu dùng trên thị trường này
đang thay đổi rất nhanh cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công
nghệ. Ngày nay người Châu Âu cần nhiều chủng loại hàng hoá với số lượng lớn
và những hàng hoá có vòng đời ngắn. Không như trước kia họ chỉ thích dùng
những hàng hoá có chất lượng cao, giá đắt, vòng đời sản phẩm dài, hiện nay sở
thích tiêu dùng lại là những sản phẩm có chu trình sống ngắn hơn giá rẻ hơn và
phương thức dịch vụ tốt hơn. Thói quen này đối với tất cả hàng hoá tiêu dùng,
kể cả hàng công nghệ cao. Tuy có sự thay đổi về sở thích và thói quen tiêu dùng
như vậy nhưng chất lượng hàng hoá vẫn là yếu tố quyết định hàng đầu đối với
phần lớn các hàng hoá tiêu thụ trên thị trường này.
Một điểm tương đồng nữa mà chúng ta phải kể đến đó là văn hoá trong
kinh doanh của các doanh nhân EU. Với các đối tác trong khu vực này, nhiều
khi đã thoả thuận xong về chất lượng giá cả, nhưng họ vẫn đến tận nơi để xem
xét tình hình sản xuất môi trường rồi mới ký hợp đồng. Trong giao dịch các
doanh nhân EU rất coi trọng chữ tín. Họ không thể chấp nhận việc giao hàng
không đúng thời hạn quy định, không thoả mãn các yêu cầu về chất lượng hợp
đồng. Các nhà nhập khẩu Châu Âu rất cẩn trọng trong việc lựa chọn các nhà
cung cấp, các doanh nghiệp thường yêu cầu các nhà cung cấp ký quỹ 5% giá trị
hợp đồng, khoản tiền này sẽ mất nếu không giao hàng.
1.1.2.2 Những điểm khác biệt
EU một thị trường chung thống nhất trong đó, hàng hoá dịch vụ, vốn và sức
lao động được tự do lưu thông giữa 15 nước thành viên và đến nay đã lưu hành
đồng tiền chung Euro trong 12 trên 15 nước thành viên. Tuy nhiên dù không có
rào cản giữa các quốc gia thành viên, các quốc gia mở cửa cho các quốc gia
14
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
thành viên khác, các nền kinh tế thống nhất và hệ thống quy định, luật pháp hoà
hợp, tuy nhiên tính chất thị trường của các nước có những điểm khác biệt đáng
kể do sự khác biệt về dân số, diện tích tôn giáo, phong tục tập quán,văn hoá-xã
hội, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng, hệ thống kinh tế chính trị
khác nhau. Mỗi quốc gia đều có nguồn gốc dân tộc cơ bản có những giá trị
truyền thống và những đặc trưng văn hoá của riêng mình. Điều đó đã tạo nên
những nét riêng biệt trong tính cách và thị hiếu tiêu dùng EU. Vì vậy, chúng ta
phải chú ý đến yếu tố này khi làm ăn buôn bán với từng nước trong khu vực này.
Để thiết lập được mối quan hệ với các thương nhân EU cần lưu ý một số
tính cách cá biệt: với thương nhân Anh mặc dù có sự quen biết lâu nhưng việc
chọn bạn hàng rất chậm chạp theo kiểu “phớt ăng lê”, ngược lại với các thương
nhân Đức, Tây Ban Nha thì ngay ở lần tiếp xúc đầu tiên cũng có thể thiết lập các
mối quan hệ buôn bán. Tuy nhiên với thương nhân Đức thì phải cung cấp cho họ
đầy đủ các thông tin về doanh nghiệp, về sản phẩm mà họ yêu cầu để họ nghiên
cứu động thái phát triển của doanh nghiệp một vài năm, còn đối với thương
nhân Tây Ban Nha chỉ cần đưa mẫu hàng và nội dung giao dịch là có thể bàn
việc buôn bán. Doanh nghiệp Pháp chủ yếu quan tâm đến giá cả và họ thích gán
mác lên hàng hoá theo kiểu Pháp. Doanh nghiệp Đức không chấp nhận mua
hàng theo catalô trong khi các doanh nghiệp Anh lại rất quan tâm đến chất lượng
và sòng phẳng, luôn tuân theo luật lệ một cách chính xác.
Khác với doanh nghiệp Mỹ thường hoạt động một mình, các doanh nghiệp
Đức đi đâu cũng có trợ lý đi cùng. Nếu mời họ đến thăm xí nghiệp sản xuất của
mình, họ thường đọc các tư liệu liên quan và xem xét sản phẩm. Về thời gian
đến thăm xí nghiệp họ cũng rất thận trọng: nếu thảo luận những vấn đề quan
trọng họ thường đến sớm hơn một chút. Kết thúc cuộc trao đổi “chúng tôi sẽ
đến” thì nhất định họ sẽ đến. Nếu hẹn gặp họ thì phải xác định ngày giờ cho
chính xác.
15
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Khi tranh luận mà đút tay vào túi quần hay túi áo sẽ gây ấn tượng không tốt
đối với người Pháp, Bỉ, Thuỵ Điển và Phần Lan; văn hoá ở các nước Phương
Đông coi việc sờ mó vào người khác là suồng sã, xúc phạm riêng tư trong khi đó
các nước Nam Âu hành động như vậy được coi là chứng tỏ sự nhiệt tình và bạn
hữu. Các nhà nhân chủng học tổng kết rằng: người Đức, Thuỵ Sỹ thường ăn nói
thận trọng chính xác, vừa đủ coi trọng tính lôgic khách quan, dựa vào nguyên
văn nguyên bản; người Italia thích nói nhiều, tranh luận bàn cãi một cách hiếu
thắng.
Văn hóa mặc cũng cần phải chú ý: nhiều doanh nhân Pháp có quan niệm
phân tầng xã hội khi nhìn cách ăn mặc của người khác, họ có ấn tượng tốt, có
cảm tình đối với người ăn mặc sang trọng hợp mốt. Người Đức mến mộ trang
phục vải lanh mềm, cà vạt trang nhã, đồ trang sức sáng màu với các nhãn mác
nổi tiếng, coi đó là biểu hiện của sự cởi mở, nghiêm túc thông minh. Doanh
nhân Hà Lan lại không chú trọng đến cách ăn mặc cầu kì mà thích tự nhiên, tiện
lợi…Doanh nhân Anh không thích khi trò chuyện hoặc nói những lời đàm tiếu
về Hoàng Gia Anh, đối với người Pháp và đa số các nước Châu Âu khác không
nên hỏi về đời tư và chuyện gia đình vì coi đây là tọc mạch- trong khi đó ở Việt
Nam lại coi là quan tâm đến người khác. Doanh nhân Thuỵ Sỹ rất chú ý đến
năm tháng ra đời của doanh nghiệp đối tác và mối quan hệ với các doanh nghiệp
khác trên thị trường quốc tế, coi đó là thước đo tài năng, uy tín của chủ doanh
nghiệp và công ty đối tác. Người Bắc Âu rất thích nói đến chức vụ của mình
trong quá trình đàm phán, thương thuyết. Doanh nhân Đức, Áo, hơi lạnh ít cười
có thể bỏ qua một số nghi thức xã giao thăm hỏi mà đi thẳng vào vấn đề, công
việc.
Trong giao dịch quốc tế quan hệ cá nhân có tác dụng khá quan trọng, xuất
phát từ thiện cảm các bạn hàng EU có thể mời đối tác về nhà dự tiệc. Nhưng nên
nhớ: ở Đan Mạch, một nhà buôn được mời đến nhà đồng nghiệp thì nên nhớ
16
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
mang theo hoa tươi hoặc quà tặng; ở Na Uy nếu muốn được đối xử thật tốt thì
ngay hôm bữa tiệc người được mời nên tặng chủ nhà một món quà; ở Pháp trước
hôm nhận lời dự tiệc hay đến thăm cũng phải tặng hoa trước cho người chủ.
Thương nhân Pháp rất thích sau mỗi đợt buôn bán kết hợp tổ chức một cuộc vui
đặc biệt, thậm chí ngay cả trước khi đàm phán công việc.
Khi tặng hoa cũng cần chú ý đến ngôn ngữ văn hoá của hoa đối với phong
tục từng nước Châu Âu: ở Anh và Pháp, hoa loa kèn trắng chỉ dùng trong tang
lễ; hoa hồng đỏ thắm rất được ưu chuộng đối với phụ nữ Pháp và Italia nhưng ở
Tây Ban Nha thì ngược lại; ở Pháp hoa màu vàng gợi nên sự không chung thuỷ
và không dùng để tặng hoa ai cả; ở Châu Âu nên tặng hoa bông lẻ và nên tránh
con số 13.
Đối với người tiêu dùng Châu Âu khác với Mỹ họ rất miễn cưỡng phải sử
dụng bằng thẻ tín dụng, họ cố gắng trả hết tiền sau một thời gian. Thói quen
người tiêu dùng EU đối với một số sản phẩm lưu thông trên thị trường cũng có
phân biệt. Chẳng hạn đối với sản phẩm thuỷ hải sản, những người tiêu dùng ở
những quốc gia Bắc Âu (Na Uy, Thuỵ Điển, Đan Mạch ) ưa thích các loại thuỷ
hải sản vùng nước lạnh hơn các loại thuỷ hải sản ở vùng nước ấm, vốn là sở
thích tiêu dùng ở các nước Nam Âu và vùng Địa Trung Hải, những sản phẩm dệt
may đối với người tiêu dùng EU, yếu tố mốt được đặt lên hàng đầu. Họ coi phần
giá trị về mẫu mốt và thời trang là chính.
Về hệ thống phân phối sản phẩm, trên thị trường EU cũng có những nét đặc
thù đối với từng nhóm quốc gia. Ví dụ ở Bắc Âu việc phân phối các sản phẩm
tiêu dùng có xu hướng tập trung cao, giảm bớt trung gian, rút ngắn đường đi của
sản phẩm tới người tiêu dùng, tập trung vào các cửa hàng bán lẻ lớn, các siêu
thị. Ngược lại ở các quốc gia Nam Âu, việc phân phối các sản phẩm tiêu dùng
chủ yếu vẫn do các cửa hàng bán lẻ nhỏ truyền thống thực hiện (Italia, Hy Lạp,
Tây Ban Nha...)
17
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Để xuất khẩu đựơc hàng hoá vào thị trường EU, các doanh nghiệp Việt
Nam không những cần phải nắm nhu cầu thị trường, thị hiếu tiêu dùng và đảm
bảo sản phẩm có cạnh tranh về chất lượng cũng như giá cả mà còn phải thành
thạo kênh phân phối, hệ thống luật pháp của EU và hệ thống quản lý xuất nhập
khẩu.
1.1.3 Quan hệ kinh tế Việt Nam-EU:
Hiện nay, EU có thể coi là một tổ chức có tiềm năng to lớn để hợp tác về
mọi mặt, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại và đầu tư.
Do hoàn cảnh lịch sử nên đến trước 1975 quan hệ kinh tế-thương mại giữa
Việt Nam và EU còn rất hạn chế. Trong giai đoạn 1975-1979, EU đã giành cho
Việt Nam khoản viện trợ lên tới 109 triệu USD trong đó viện trợ trực tiếp là 68
triệu USD. Song từ tháng 7 năm 1979, do vấn đề Campuchia nên EU đã ngừng
viện trợ cho Việt Nam, kể cả khoản viện trợ 36 triệu USD đã được phê chuẩn.
Từ cuối năm 1984, EU bắt đầu nối lại viện trợ nhân đạo cho Việt Nam.
Quan hệ Việt Nam-EU bắt đầu ngay khi nước ta thống nhất hai miền Nam-
Bắc năm 1975, tuy nhiên mãi đến năm 1990 mối quan hệ hợp tác mới mở ra một
trang mới bắt đầu bằng Hội nghị Ngoại trưởng 12 nước thành viên Cộng đồng
EC quyết định lập quan hệ ngoại giao với chính thức với Việt Nam cấp đại sứ
ngày 22 tháng 10 năm 1990. Từ đó đến nay các mối quan hệ song phương đã
từng bước phát triển cả về chất và về lượng. Các nước thành viên EU đã tăng
cường hơn nữa quan hệ hợp tác, đầu tư thương mại và viện trợ cho Việt Nam.
Tháng 12 năm 1990, đại diện Uỷ ban Châu Âu và Chính phủ Việt Nam đã kí
thoả thuận về chương trình giúp đỡ những người Việt Nam ra đi bất hợp pháp
trở về tái hoà nhập trên nguyên tắc hồi hương tự nguyện với khoản cho vay tín
dụng lên tới 47 triệu USD. Ngoài ra, EU còn giúp đào tạo nghề (mộc, may mặc,
quản lý kinh tế…), cải thiện các vùng nông thôn (làm đường giao thông, cải tạo
môi trường, trồng rừng, lấn biển…) và phát triển y tế (cấp thuốc, cải tạo bệnh
18
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
viện, đào tạo cán bộ). EU cũng quan tâm đến tăng cường quan hệ kinh tế-thương
mại, biểu hiện cụ thể là hiệp định về buôn bán dệt may ngày 15/12/1992 tại
Brucxen và có hiệu lực 5 năm bắt đầu từ 1/1/1993 đến nay đã qua hai lần gia
hạn và điều chỉnh tăng hạn ngạch. Hiệp định đánh dấu một bước chuyển biến
tích cực trong mối quan hệ giữa hai bên. Đây cũng là tiền đề cho việc kí kết các
hiệp định về hợp tác kinh tế- thương mại, khoa học- kỹ thuật sau này.
Cũng cần nhắc lại rằng các nước thành viên EU (Bỉ, Pháp, Hà Lan, Thuỵ
Điển…) cũng tăng cường giúp đỡ Việt Nam trong các lĩnh vực hợp tác khoa
học- kỹ thuật, đào tạo cán bộ chuyên gia cũng như tài trợ cho các sự án phát
triển nông thôn. Đỉnh cao của sự phát triển quan hệ giữa Việt Nam và EU được
đánh dấu bằng sự kiện trọng đại diễn ra vào ngày 17 tháng 7 năm 1995 tại
Brucxen (Bỉ). Hiệp định khung về hợp tác kinh tế có hiệu lực vào 01/01/1996
trong đó có quy định hai bên dành cho nhau chế độ tối huệ quốc (MFN), cam kết
mở cửa thị trường hàng hoá của nhau tới mức tối đa có tính đến điều kiện đặc
thù của mỗi bên, EU cũng cam kết dành cho hàng hoá xuất xứ từ Việt Nam ưu
đãi thuế quan phổ cập (GSP). Trên cơ sở khai thác các điều kiện thuận lợi trong
quan hệ hợp tác giữa hai bên, kết quả hoạt động thương mại giữa Việt Nam và
các nước trong khối đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, chỉ tính riêng trong
giai đoạn 1991-1997, tổng kim ngạch 2 chiều Việt Nam và EU đã tăng gấp 10
lần, trong đó thặng dư mậu dịch của Việt Nam ngày càng lớn. Năm 1998, tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với EU đạt trên 4 tỷ USD; năm 1999
đạt 4,5 tỷ USD; năm 2000 đạt gần 5 tỷ USD và năm 2001 đã vượt trên 5 tỷ
USD. Tuy nhiên xuất nhập khẩu Việt Nam-EU có sự tăng trưởng đều đặn,
nhưng đến nay mới chỉ chiếm khoảng 0,12% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
của EU và chiếm 14 % tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam, trong đó
từ năm 1998 Việt Nam luôn xuất siêu cho EU. Năm 2002, nhiều nước mở rộng
nhập khẩu với Việt Nam. Hầu hết các nước trong khối đều có quan hệ xuất nhập
khẩu với Việt Nam (13 trên tổng số 15 nước). Đức là nước dẫn đầu, chiếm 28,5
19
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với EU năm 2002, Pháp
(20,7%), Anh (12,7%), Italia (9,6%). Thực tế nhìn một cách tổng quan thì quan
hệ thương mại Việt Nam-EU chưa tương xứng với tiềm năng của hai bên. Các
mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang EU là những mặt hàng mà thị
trường này có nhu cầu nhập khẩu hàng năm với khối lượng lớn là giày dép, hàng
may mặc, hàng nông sản, hàng thuỷ hải sản, cao su, than đá. Các mặt hàng này
chiếm từ 72-76% xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam sang EU tăng trung bình 50%/năm. Có thể nói EU là thị trường xuất
khẩu hàng hoá quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Các mặt hàng nhập khẩu chủ
yếu của Việt Nam từ EU là máy móc thiết bị công nghệ cao như linh kiện điện
tử và máy vi tính, máy móc thiết bị phụ liệu dệt may, da, sắt thép các loại,
phương tiện vận tải như ô tô và phụ tùng ô tô và hoá chất, tân dược. Nhìn chung
quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU ngày càng phát triển cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu.
Về tài chính, các nước Pháp, Bỉ, Đức… tích cực xoá nợ, giảm nợ cho Việt
Nam. Pháp tích cực kêu gọi các nước khác cùng với mình giúp Việt Nam trả nợ
quốc tế trong khuôn khổ “Câu lạc bộ Paris”; và giúp nối lại mối quan hệ giữa
Việt Nam với các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế. Đồng thời các nước EU
còn viện trợ phát triển (ODA) với lãi suất ưu đãi đặc biệt cho Việt Nam. Đến hết
năm 1999, EU đã viện trợ cho Việt Nam 2,1 tỉ EURO được tập trung vào 4 lĩnh
vực quan trọng nhất của nền kinh tế: nông nghiệp, phát triển xã hội, y tế và giao
thông. Chương trình viện trợ cho hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam
sang EU rất đa dạng, bao gồm tất cả các lĩnh vực như nghiên cứu thị trường
(nghiên cứu thị hiếu, sản phẩm, hỗ trợ tham gia các hội chợ triển lãm, phổ biến
ngôn ngữ và văn hoá Châu Âu…), phát triển thông tin, cấp tín dụng, cung cấp
các dịch vụ hỗ trợ chuyên môn như lập kế hoạch, kinh doanh, marketing… Một
số chương trình đặc biệt như đầu tư châu Á, chương trình hỗ trợ doanh nghiệp
20
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
vừa và nhỏ (SMEDEF), Trung tâm thông tin thương mại Châu Âu (EBIC) có vai
trò bổ trợ cho các chính sách và hoạt động thương mại giữa hai bên.
Về đầu tư, cho đến nay, EU có tổng dự án là trên 400 dự án với tổng số vốn
đăng kí lên đến 6 tỷ USD. Hiện nay số vốn còn đang hoạt động là 288 dự án
chiếm 9% tổng số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam với số vốn
đăng kí đạt 5,8 tỷ USD chiếm 15,26% tổng số vốn đăng kí vào Việt Nam. Đầu
tư của EU mang một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với công cuộc hiện đại hoá
của Việt Nam, nhiều dự án tập trung vào lĩnh vực then chốt như thăm dò và khai
thác dầu khí, chế tạo ôtô, sản xuất hàng tiêu dùng, phát triển cơ sở hạ tầng, nông
nghiệp. Hiện nay đã có 11 trên 15 nước có các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam. Đứng đầu là Pháp (với 104 dự án, tổng số vốn đăng kí là 1,789 tỷ
USD), Anh (29 dự án, tổng số vốn đăng kí 1,047 tỷ USD), Hà Lan (36 dự án,
578 triệu USD), Thuỵ Điển (8 dự án, 37 triệu USD).
Có thể nói rằng quan hệ kinh tế- thương mại giữa Việt Nam và EU tuy
chưa dài nhưng những kết quả đạt được trong hơn 10 năm qua kể từ khi kí hiệp
định khung hợp tác Việt Nam-EU là hết sức quan trọng và có ý nghĩa thiết thực
đối với cả hai bên. Cùng với nỗ lực của cả hai phía và những yếu tố thuận lợi
bên ngoài, chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng rằng trong tương lai, quan hệ
kinh tế-thương mại Việt Nam-EU sẽ tiếp tục đẩy mạnh và phát triển lên một tầm
cao mới.
1.2 CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ CỦA EU VỀ CHẤT LƯỢNG VÀ NHÃN
HIỆU SẢN PHẨM XUẤT KHẨU VÀO THỊ TRƯỜNG EU
1.2.1 Các quy định về chất lượng
1.2.1.1 Hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm ISO 9000
Liên minh Châu Âu áp dụng hệ thống quản lý ISO 9000 và hệ thống quản
lý 14000. Đối với tiêu chuẩn chất lượng, hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000
gần như là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu
21
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
sang thị trường EU thuộc các nước đang phát triển. Thực tế cho thấy, ở các nước
đang phát triển Châu Á và Việt Nam, hàng của các doanh nghiệp có giấy chứng
nhận chất lượng ISO 9000 thâm nhập vào thị trường EU dễ dàng hơn nhiều so
với các doanh nghiệp không có giấy chứng nhận này. Có thể nói hệ thống quản
lý chất lượng đã trở thành giấy thông hành cho các doanh nghiệp thâm nhập vào
thị trường thế giới nói chung và thị trường không mấy “dễ tính” này nói riêng.
ISO 9000 là hệ thống quản lý chất lượng gồm các quy trình kỹ thuật và
kiểm tra, kiểm soát toàn bộ quá trình sản xuất ra sản phẩm chứ không phải là
một tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm như một số doanh nghiệp và cá nhân lầm
tưởng. ISO là tập hợp các có hệ thống các kinh nghiệm quản lý chất lượng tốt
nhất do Tổ Chức tiêu chuẩn quốc tế (International Standard Organization) đặt ra
để giúp các doanh nghiệp cải tiến các hệ thống quản lý nhằm đạt được các mục
tiêu về năng suất và chất lượng sản phẩm, giảm lãng phí và tỷ lệ phế phẩm để
duy trì một dạng sản phẩm luôn có chất lượng đồng nhất phù hợp với giá thành.
Khi doanh nghiệp áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000, người tiêu
dùng có thể an tâm với chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra. Nói
cách khác, có thể coi việc áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng như một “dấu
hiệu” xác định chữ tín giữa doanh nghiệp và khách hàng, là sự khẳng định cam
kết cung ứng sản phẩm có chất lượng tin cậy.
Trong hai thập kỉ qua “vấn đề chất lượng” nổi lên như là một trong những
yếu tố quan trọng nhất của thương mại và công nghiệp. Khách hàng EU nói
riêng và thế giới nói chung ngày càng có những yêu cầu khắt khe hơn về chất
lượng hàng hoá và dịch vụ cũng như việc chấp hành đầy đủ và nhanh chóng các
điều kiện khác trong hợp đồng. Thông thường, khách hàng không chỉ muốn có
được sản phẩm thích hợp với khả năng thanh toán của họ mà còn muốn các yêu
cầu của họ phải được giải quyết nhanh chóng và doanh nghiệp phải tìm ra căn
nguyên của vấn đề để ngăn chặn tái diễn ở các lần tiếp sau. Sự ra đời của Bộ
22
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Tiêu chuẩn ISO 9000 đã trợ giúp một cách có hiệu quả cho các nhà cung cấp các
loại hàng hoá và dịch vụ xây dựng các hệ thống quản lý chất lượng toàn bộ để
công ty kiểm tra được chất lượng sản phẩm ở mọi khâu của quá trình sản xuất và
nhờ đó sẽ tránh được những sai sót đáng kể, tiết kiệm được chi phí sản xuất và
thời gian.
Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 của Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế (ISO) là hệ thống
đảm bảo chất lượng được áp dụng rộng rãi trong sản xuất kinh doanh hàng hoá
và dịch vụ. ISO đưa ra 20 yêu cầu chính đối với doanh nghiệp áp dụng bao gồm:
Trách nhiệm lãnh đạo, hệ thống chất lượng, xem xét hợp đồng, kiểm soát tài
liệu, mua sản phẩm, kiểm tra sản phẩm do khách hàng cung cấp, nhận biết và
xác định nguồn gốc sản phẩm, kiểm soát quá trình sản xuất, kiểm tra và thử
nghiệm, kiểm soát thiết bị đo lường và thử nghiệm, tình trạng kiểm tra và thử
nghiệm, kiểm soát sản phẩm không phù hợp, hành động khắc phục và ngăn
ngừa, xếp dỡ lưu kho, bao gói, bảo quản giao hàng, kiểm soát hồ sơ chất lượng,
đào tạo, dịch vụ kỹ thuật, kỹ thuật thống kê.
Cấu trúc của Bộ tiêu chuẩn ISO 9000
Bộ tiêu chuẩn ISO 9000:2000 bao gồm nhiều tiêu chuẩn. Trong đó tiêu
chuẩn chính ISO 9001- Hệ thống chất lượng, nêu ra các yêu cầu đối với hệ
thống quản lý chất lượng mà doanh nghiệp cần đáp ứng. Ngoài ra còn có các
tiêu chuẩn hỗ trợ và hướng dẫn thực hiện như : ISO 9000- thuật ngữ và định
nghĩa; ISO 9004- hướng dẫn cải tiến hiệu quả.
Trong quá trình thực hiện, doanh nghiệp có thể áp dụng một trong ba mô
hình sau trong bộ tiêu chuẩn này:
- ISO 9001: áp dụng cho doanh nghiệp từ khâu thiết kế, triển khai, sản
xuất, lắp đặt và dịch vụ .
- ISO 9002: áp dụng cho doanh nghiệp sản xuất, lắp đặt dịch vụ (không
bao gồm khâu thiết kế).
23
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
- ISO 9003: áp dụng cho doanh nghiệp trong quy trình kiểm tra thử
nghiệm cuối cùng đối với sản phẩm.
Để cho bộ ISO 9000 duy trì tính hiệu lực, những tiêu chuẩn này được xem
xét định kì (khoảng 5 năm một lần) nhằm cập nhập những phát triển mới nhất
trong lĩnh vực quản lý chất lượng, và thông tin phản hồi từ người sử dụng. Ban
kỹ thuật của Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ISO/TC/176 bao gồm nhiều chuyên gia
từ các doanh nghiệp và tổ chức trên toàn thế giới theo dõi việc áp dụng các tiêu
chuẩn để xác định những cải tiến cần thiết nhằm thoả mãn những đòi hỏi và
mong muốn của người sử dụng và đưa vào phiên bản mới.
1.2.1.2 Bộ tiêu chuẩn về quản lý môi trường ISO 14000
Đối với tiêu chuẩn bảo vệ môi trường, thị trường EU yêu cầu hàng hoá có
liên quan đến môi trường phải dán nhãn theo quy định (nhãn sinh thái, nhãn tái
sinh) và có chứng chỉ được quốc tế công nhận. Ví dụ, tiêu chuẩn GAP (good
agricultural Practice ) và các nhãn hiệu sinh thái (Ecolabels) đang ngày càng
được phổ biến, chứng tỏ các cấp độ khác nhau về môi trường tốt. Ngoài ra công
ty còn phải tuân thủ hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 và các bộ luật
mang tính đạo đức.
ISO 14000 là Bộ tiêu chuẩn về quản lý môi trường, được xây dựng trên cơ
sở thoả thuận quốc tế bao gồm các yêu cầu đối với các yếu tố cơ bản có thể điều
chỉnh được để thiết lập hệ thống quản lý môi trường có khả năng cải thiện môi
trường một cách liên tục tại các tổ chức cơ sở. Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 đem
đến cách tiếp cận hệ thống cho việc quản lý môi trường và cung cấp các công cụ
hỗ trợ có liên quan như đánh giá môi trường, nhãn môi trường, phân tích môi
trường sống của sản phẩm… cho các doanh nghiệp và các tổ chức cơ sở khác để
quản lý sự tác động của họ tới môi trường, ngăn ngừa sự ô nhiễm và liên tục cải
thiện môi trường với sự cam kết của lãnh đạo và sự tham gia có ý thức của mọi
thành viên từ người sản xuất trực tiếp đến các cán bộ quản lý.
24
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
ISO 14000 đề cập đến 5 lãnh vực sau đây: Hệ thống quản lý môi trường;
Đánh giá kết quả hoạt động môi trường; Ghi nhãn môi trường; Đánh giá chu
trình sống của sản phẩm; Các khía cạnh môi trường trong chu trình sống của sản
phẩm.
Lợi ích cuả việc áp dụng ISO 14000:
(cid:31) Quản lý có hiệu quả nguồn tài nguyên và giảm thiểu chất thải, giảm tiêu
thụ năng lượng
(cid:31) Giảm rủi ro
(cid:31) Cố gắng nỗ lực để cải tiến liên tục công tác bảo vệ môi trường của doanh
nghiệp
(cid:31) Nâng cao năng suất
(cid:31) Tạo hình ảnh tốt về doanh nghiệp đối với khách hàng, bạn hàng cũng như
toàn thể đối với cộng đồng giúp tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị
trường.
Khác với ISO 9000, đối tượng quản lý là chất lượng thì đối tượng quản lý
của ISO 14000 là môi trường. Ở các quốc gia đã có sức ép về yêu cầu bảo vệ
môi trường như Hoa Kì, EU, Canada…thì việc áp dụng ISO 14000 đã trở thành
một đòi hỏi mang tính bắt buộc. Việc áp dụng ISO 14000 sẽ giúp khách hàng
EU yên tâm về khía cạnh bảo vệ môi trường của sản phẩm, dịch vụ mà họ mong
muốn.
1.2.1.3 Hệ thống an toàn vệ sinh thực phẩm
Đối với tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, các công ty chế biến thực phẩm phải
tuân thủ các tiêu chuẩn vệ sinh chặt chẽ. Về phương diện này, viêc áp dụng hệ
thống HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point) là rất quan trọng và gần
như là yêu cầu bắt buộc đối với các xí nghiệp chế biến thuỷ sản của các nước
đang phát triển muốn xuất khẩu vào thị trường EU.
25
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
HACCP là hệ thống phân tích nguy cơ và kiểm soát các khâu trọng yếu
trong quá trình chế biến thực phẩm. HACCP không phải là hệ thống quản lý áp
dụng đại trà như ISO 9000 hoặc ISO 14000. HACCP được thiết kế riêng cho
công nghiệp chế biến thực phẩm và các ngành có liên quan đến thực phẩm (chăn
nuôi trồng trọt…) tập trung vào vấn đề vệ sinh và đưa ra một cách tiếp cận có hệ
thống để phòng ngừa và giảm thiểu nguy cơ. Hệ thống có tính bắt buộc đối với
công ty chế biến thực phẩm tại EU. Các công ty thực phẩm nước ngoài không có
nghĩa vụ phải tuân thủ các quy định của EU về HACCP. Tuy nhiên điều đó chỉ
đúng trên danh nghĩa. Nếu nhà nhập khẩu của EU mua nguyên liệu từ nước
ngoài thì họ phải chịu trách nhiệm về nguyên liệu đó theo các nguyên tắc
HACCP kể từ khi hàng vào đến cửa khẩu. Cơ chế này buộc họ phải đòi hỏi các
nhà xuất khẩu nước ngoài tuân thủ theo nguyên tắc HACCP. Và như vậy,
HACCP trở thành đòi hỏi chung. Các nhà xuất khẩu của các nước đang phát
triển, nếu không muốn mất thị trường, chỉ còn cách ứng dụng hệ thống này trong
sản xuất và thuyết phục các nhà nhập khẩu EU (bằng chứng chỉ hoặc bằng báo
cáo kiểm tra) rằng họ đã đi theo đúng các nguyên tắc của hệ thống phòng ngừa
này. Áp dụng HACCP có những thuận lợi sau:
+ Nó tập trung vào nhận biết và ngăn ngừa mối nguy từ nhiễm bẩn thực
phẩm và tìm cách vượt xa giới hạn của phương pháp kiểm soát an toàn thực
phẩm truyền thống (phương pháp chỉ phát hiện ra thay vì phòng ngừa vấn đề an
toàn thực phẩm).
+ Trước tiên nó cho phép giảm sự giám sát của chính quyền một cách có
hiệu quả và có lợi nhuận hơn, bởi vì biên bản giữ lại cho phép người điều tra
biết công ty đang tuân theo luật an toàn thực phẩm trong toàn bộ thời gian tốt
hơn như thế nào so với khi công ty thực hiện trong một số ngày quy định nào
đó; nó có thể giúp cho đỡ việc kiểm tra bởi những chuyên gia điều khiển.
26
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
+ Nó chú ý đến nhận biết những mối nguy có lý do, có thể tưởng tượng
được thậm chí cả trong những thất bại không có trong kinh nghiệm trước đây. Vì
vậy, nó đặc biệt có ích cho quá trình hoạt động mới.
+ Nó đủ mềm dẻo để làm phù hợp những thay đổi mở đầu, như tiến bộ
trong đề cương trang bị, cải tiến trong thủ tục chế biến và sự phát triển kỹ thuật
liên quan đến sản phẩm.
+ Nó có thể sẵn sàng hợp nhất vào các hệ thống quản lý chất lượng.
1.2.2 Quy định về bao bì, xuất xứ, kí mã hiệu
1.2.2.1 Quy định về bao bì
Các sản phẩm khi xuất khẩu sang thị trường EU phải được đóng gói, dán
nhãn mác, bao gồm các thông tin về chất phụ gia, mã số mã vạch, cách sử dụng
và các thao tác bằng tay cần thiết. EU quy định một số phương pháp chất lượng
của bao bì xuất khẩu như sau: Bao bì phải phù hợp với phương thức vận tải đó.
Bao bì đóng gói vận chuyển, xử lý. Ngoài ra bao bì còn phải chống đỡ lại các
thay đổi của thời tiết, thay đổi nhiệt độ, xử lý không cẩn thận và chống lại mất
mát. Với lý do môi trường trong một số trường hợp các loại bao bì bằng PVC
không được các chính phủ cho phép. Các nhà xuất khẩu của Việt Nam cần phải
thảo luận với khách hàng của mình và cần phải dự đoán trước chi phí đóng gói
đặc biệt trong chi phí bán của họ nếu có yêu cầu (Nguồn: Trung tâm xúc tiến
thương mại và đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh).
1.2.2.2 Quy định về xuất xứ, nhãn mác sản phẩm
* Quy định về xuất xứ: Đối với hàng hoá nhập khẩu, xuất khẩu, trên nhãn
hàng hoá phải ghi cụ thể và rõ ràng tên nước xuất xứ. Phải ghi thật cụ thể để
tránh gây hiểu lầm về nguồn gốc của sản phẩm.
27
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
*Quy định về nhãn mác sản phẩm: Với mục đích dảm bảo an toàn cho
người sử dụng, nhãn mác trở nên rất quan trọng trong việc lưu thông hàng hoá
trên thị trường EU. Nhãn hàng hoá ở EU phải tuân theo các yêu cầu cơ bản sau:
- Tên sản phẩm (điều kiện vật chất hoặc cách xử lý cụ thể)
- Tên/địa chỉ của nhà sản xuất, đóng bao, người bán hoặc người nhập
khẩu bằng ngôn ngữ địa phương của EU
- Nước xuất xứ
- Thành phần theo thứ tự giảm dần về trọng lượng
- Trọng lượng và khối lượng theo hệ đo lường mét
- Chất phụ gia theo tên các loại
- Điều kiện bảo quản đặc biệt
- Thời gian sử dụng
- Hướng dẫn cách sử dụng đặc biệt
Cụ thể đối với từng loại hàng hoá như sau:
Các loại thực phẩm, đồ uống đóng gói phải ghi rõ tên sản phẩm, nhãn mác,
thành phần trọng lượng tịnh, thời gian sử dụng, cách sử dụng, điạ chỉ của nước
sản xuất hoặc nơi bán, nơi sản xuất, các điều kiện đặc biệt để bảo quản, chuẩn bị
sử dụng hoặc các thao tác bằng tay.
Đối với vải lụa, EU lập ra một hệ thống thống nhất về mã hiệu cho biết các
loại sợi cấu thành nên loại vải lụa được bán trên thị trường EU. Bất cứ loại vải
lụa nào được sản xuất ra trên cơ sở hai hay nhiều loại sợi mà một trong các loại
ấy chiếm tối thiểu 85% tổng trọng lượng thì trên mã hiệu có thể đề tên loại sợi
đó kèm tỉ lệ tối thiểu 85% hoặc ghi cấu thành chi tiết của sản phẩm. Nếu sản
phẩm gồm hai hay nhiều loại sợi mà không loại sợi nào đạt tỉ lệ 85% thì trên mã
hiệu ít nhất cũng phải ghi tỉ lệ của hai loại sợi quan trọng nhất, kèm theo tên các
loại sợi đã được sử dụng.
28
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Đối với hàng may mặc, nhìn chung có hai loại nội dung trên nhãn của sản
phẩm gồm yêu cầu bắt buộc như xuất xứ, tỉ lệ sợi, khả năng dễ cháy và yêu cầu
không bắt buộc như hướng dẫn giặt tẩy, kích cỡ.
Đối với hàng thủ công mỹ nghệ và quà tặng, nhãn cộng đồng CE có thể
được áp dụng cho từng sản phẩm.
Nhãn mác hàng hoá của các loại thực phẩm và đồ uống có chứa chất ký
ninh hoặc cafein phải được ghi rõ thành phần trên bao bì, và phải ghi rõ hàm
lượng cafein.
Các sản phẩm có liên quan đến sức khoẻ của người tiêu dùng phải có ký
mã hiệu theo quy định cuả EU như đồ chơi trẻ em, đồ uống có chứa cafein, thiết
bị điện áp thấp, thiết bị y tế, nguyên vật liệu xây dựng, cấm dùng những hoá
chất mà thuộc danh mục EU cấm sử dụng trong nuôi trồng hay bảo quản thực
phẩm.
Ngoài ra các mặt hàng sau đây phải tuân thủ quy chế về nhãn mác đặc biệt:
vôi, ximăng, và chất gắn kết tương tự, đàn piano, kèn acmônica và những nhạc
cụ tương tự, cặp nhiệt độ, thuốc bán theo đơn, mỹ phẩm.
Việc nhập khẩu một số mặt hàng như thức ăn đóng gói, rượu mạnh chưng
cất bia, rượu vang, dấm và thực phẩm phải tuân theo những quy định đặc biệt,
theo đó những mặt hàng này phải có nhãn thể hiện nhà sản xuất, thành phần,
dung tích/khối lượng, nước xuất xứ. Do tính phức tạp của quy định này và việc
thay đổi yêu cầu về nhãn mác nên cần phải nắm được thông tin từ nhà nhập
khẩu trước khi chuyển hàng.
1.2.3 Quy định về nhãn hiệu hàng hoá và bảo hộ sở hữu công nghiệp
* Quy định về nhãn hiệu hàng hoá: Nhãn hiệu là tên gọi, thuật ngữ, dấu
hiệu biểu tượng, thiết kế hay tổng hợp những điều này nhằm xác định
những hàng hoá và dịch vụ mà người bán cố gắng phân biệt với hàng của
29
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
đối thủ cạnh tranh (Định nghĩa cuả Hiệp Hội Marketing Mỹ). Nếu không có
nhãn hiệu, người tiêu dùng không thể phân biệt hàng hoá này với hàng hoá
khác.
EU quy định nhãn hiệu cơ bản có thể hình thành bằng chữ, bằng hình vẽ
lẫn chữ với nhiều màu sắc khác nhau. Dùng những phương tiện này nhà sản xuất
có thể tạo nên rất nhiều loại hình nhãn hiệu khác nhau phù hợp với từng mặt
hàng của từng đối tượng tiêu thụ. EU không dùng các loại nhãn hiệu sau đây:
- Giống quốc kỳ, quốc huy hay quân huy của nước nào đó,
- Huy hiệu hay giống huy hiệu vủa một đoàn thể xã hội nào đó,
Trùng hoặc giống hệt một nhãn hiệu đã được đăng ký hay đã được -
dùng,
Chân dung người khác mà chưa được sự đồng ý của người đó, -
- Chân dung hay tên lãnh tụ,
- Dùng tên địa lý…
Nhãn hiệu hàng hoá muốn đăng kí ở các nước tham gia công ước quốc tế
về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp thì phải đăng kí trước ở trong nước hội
viên và khi đã được đăng kí ở một nước hội viên thì chỉ cần thông báo cho các
nước thành viên khác biết là coi như đã được đăng kí ở tất cả các nước hội viên
khác.
* Các quy định về bảo hộ sở hữu công nghiệp
EU đã tham gia Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp. Đối tượng
bảo hộ bao gồm patent, mẫu hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu dịch vụ,
tên thương mại, chỉ dẫn nguồn gốc hoặc tên gọi xuất xứ và chống cạnh tranh
lành mạnh. Sở hữu công nghiệp ở đây được hiểu theo nghĩa rộng nhất không chỉ
áp dụng cho công nghiệp và thương mại theo đúng nghĩa của chúng mà cho các
ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp khai thác và tất cả các sản phẩm công
30
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
nghiệp tự nhiên và sản phẩm tự nhiên như rượu ngũ cốc, thuốc lá, gia súc, hoa
quả, khoáng sản, nước ngọt bia, hoa và bột.
Để giúp các chủ sở hữu nhãn hiệu tiến hành đăng kí nhãn hiệu hàng hoá
của mình vào các nước Châu Âu thuận lợi, nhanh chóng và đỡ tốn kém hơn,
Cộng đồng Châu Âu đã lập ra một hệ thống đăng kí nhãn hiệu hàng hoá riêng,
độc lập với các nước thuộc cộng đồng. Nhãn hiệu hàng hoá được đăng kí thông
qua hệ thống này được gọi là nhãn hiệu cộng đồng hay còn gọi là CTM là các
chữ cái đầu của tên tiếng Anh "Community Trade Mark". Khi đăng kí nhãn
hiệu hàng hoá qua hệ thống đăng ký CTM, chủ sở hữu nhãn hiệu chỉ phải nộp
một đơn duy nhất cho một cơ quan được đăng kí được thành lập riêng, độc lập
với hệ thống đăng kí quốc gia của mỗi nước thành viên. Để được đăng kí CTM,
nhãn hiệu phải được cả 15 nước trong cộng đồng đồng ý. Sau khi được đăng kí
tại cơ quan đăng kí này, nhãn hiệu đó sẽ có hiệu lực ở tất cả các nước thành viên
Cộng Đồng Châu Âu. Ngược lại, nếu nhãn hiệu bị huỷ bỏ hay mất hiệu lực ở
một nước thành viên thì đương nhiên bị mất hiệu lực trong cả Cộng Đồng.
Vì hệ thống đăng kí CTM là độc lập và không có ảnh hưởng đối với hệ
thống đăng kí quốc gia của mỗi nước thành viên cộng đồng, nên chủ sở hữu
nhãn hiệu hoàn toàn tự do nộp đơn đăng kí nhãn hiệu CTM, hoặc nộp đơn quốc
gia, hoặc cả hai. Điều này có nghĩa là nhãn hiệu CTM và nhãn hiệu đăng ký
quốc gia đều có thể song song tồn tại.
Đơn đăng kí CTM được nộp cho cơ quan đăng ký có tên là "The Office for
Harmonization in the Internal Market" có tên viết tắt là OHIM có trụ sở đóng tại
Tây Ban Nha. Văn phòng này chính thức hoạt động từ 1/4/1996.
* Chủ thể nộp đơn CTM bao gồm :
- Cá nhân, pháp nhân thuộc các nước thành viên Cộng đồng Châu Âu ;
- Cá nhân, pháp nhân thuộc các nước thành viên Công Ước Paris hay Hiệp
Định TRIPs ;
31
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
- Cá nhân, pháp nhân có nơi cư trú hoặc trụ sở kinh doanh đóng tại một
trong các nước thành viên Công Ước Paris hoặc Hiệp Định TRIPs.
Việt Nam là thành viên của Công Ước Paris. Vì vậy các cá nhân, pháp
nhân Việt Nam nếu có nhu cầu đều có thể nộp đơn đăng ký CTM tại OHIM.
Đơn đăng kí nhãn hiệu CTM có thể được làm bằng một trong 11 ngôn ngữ
chính thức của Cộng đồng (đây được coi là ngôn ngữ thứ nhất). Trong đơn,
người nộp đơn phải tuyên bố chọn một trong 5 ngôn ngữ : Tây Ban Nha, Đức,
Anh, Pháp, Ý (đây là 5 ngôn ngữ chính thức được sử dụng ở OHIM ) là ngôn
ngữ thứ 2 để sử dụng khi tiến hành các thủ tục, ví dụ như phản đối đơn, khiếu
nại, huỷ bỏ hiệu lực…
Loại nhãn hiệu được đăng kí là: nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ,
nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận.
*Thủ tục nộp đơn :
Tài liệu thông tin cần cung cấp :
- Tên đầy đủ, địa chỉ, số điện thoại, số fax (nếu có) và quốc tịch của
người nộp đơn ;
- Giấy uỷ quyền của người nộp đơn ;
- 5 mẫu nhãn hiệu cần đăng ký ;
- Danh mục hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu ;
- Phân loại quốc tế hàng hoá, dịch vụ (nếu biết).
*Xét nghiệm đơn :
Đơn sau khi nộp ở OHIM sẽ được cơ quan này xét nghiệm về hình thức. Nếu
đơn có đủ các thông tin và các tài liệu nêu trên, ngày nộp đơn được ghi nhận.
Sau đó đơn được chuyển sang xét nghiệm nội dung.
Trong giai đoạn xét nghiệm nội dung, nhãn hiệu ghi trong đơn chỉ được xét
nghiệm trên cơ sở tuyệt đối tức là đánh giá về khả năng phân biệt của nhãn hiệu,
32
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
ví dụ nhãn hiệu thuộc các dấu hiệu loại trừ theo quy định của pháp luật hay
không; có trái với trật tự công cộng và đạo đức xã hội hay không; nhãn hiệu có
gây nhầm lẫn với công chúng về bản chất, nguồn gốc địa lý của hàng hóa và
dịch vụ mang nhãn hiệu hay không.
*Phản đối đơn
Sau khi đơn được công bố trên công báo CTM, các bên thứ 3 có quyền lợi
và lợi ích liên quan nếu có căn cứ rằng việc đăng ký nhãn hiệu trong đơn sẽ gây
thiệt hại đến quyền và lợi ích của mình có thể tiến hành thủ tục phản đối đơn
trong vòng 3 tháng kể từ ngày công bố đơn. Các lý do để phản đối đơn bao gồm
nhưng không giới hạn ở những lý do chính sau :
(cid:31) Nhãn hiệu trong đơn trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với CTM đã
được đăng ký trước hoặc nộp trước;
(cid:31) Nhãn hiệu trong đơn trùng lặp hoặc tương tự với nhãn hiệu trong đơn
quốc gia hoặc đã được đăng ký quốc gia hoặc nộp đơn quốc gia trước,
hoặc nhãn hiệu đăng kí quốc tế đang có hiệu lực ở các nước thành viên
cộng đồng Châu Âu;
(cid:31) Nhãn hiệu trong đơn trùng lặp hoặc tương tự gây nhâm lẫn với các
nhãn hiệu nổi tiếng được theo quy định của Công Ước Paris.
Nếu không có bên nào phản đối đơn trong thời hạn cho phép, OHIM sẽ
đăng kí nhãn hiệu.
* Thời hạn bảo hộ và gia hạn hiệu lực
Nhãn hiệu CTM sau khi được đăng ký sẽ có hiệu lực 10 năm kể từ ngày
nộp đơn và có thể được gia hạn nhiều lần liên tục, mỗi lần 10 năm, và chủ sở
hữu phải nộp lệ phí gia hạn. Khi gia hạn, chủ sở hữu không phải nộp bằng chứng
sử dụng nhãn hiệu.
33
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Như vậy, các doanh nghiệp muốn xuất khẩu sang thị trường EU thì có thể
đăng kí thương hiệu vào thị trường này thông qua hệ thống CTM. CTM không
yêu cầu nước xuất xứ của doanh nghiệp có nhu cầu đăng kí thương hiệu phải gia
nhập vào hệ thống này. Chi phi cho một lần đăng kí là 4000 USD nộp trực tiếp
đơn cho văn phòng OHIM không cần qua Cục sở hữu công nghiệp. Như vậy ở
mỗi nước doanh nghiệp chỉ tốn vài trăm USD. CTM không yêu cầu doanh
nghiệp phải có hàng hoá ở tất cả các nước trong EU mà chỉ cần tại một nước. Và
doanh nghiệp cũng không cần phải đăng kí tại Việt Nam trước khi đăng kí vào
EU.
Ở Việt Nam đa số là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, việc đăng ký thương
hiệu vào từng nước chiếm một chi phí khá lớn trong khi doanh nghiệp xuất khẩu
với một số lượng nhỏ. Do đó hệ thống này giúp doanh nghiệp mở rộng được thị
trường, đồng thời bảo vệ được thị phần của mình ở các nước khác.
EU ngày nay được coi là một đại quốc gia ở Châu Âu. Cùng với các chính
sách thương mại và chính sách ngoại thương, các quy định pháp lý được xây
dựng nhằm tạo cơ hội kinh doanh cho mọi đối tượng trong thị trường chung và
ngăn ngừa cạnh tranh không lành mạnh bắt nguồn từ sự méo mó về thương mại.
Một thị trường lành mạnh không thể vận hành một cách suôn sẻ nếu không
thống nhất các quy định và điều kiện cạnh tranh áp dụng. Đối với các quốc gia
có quan hệ thương mại với Liên Minh Châu Âu EU, việc nghiên cứu và áp dụng
các quy định pháp lý nêu trên có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong xu thế hội
nhập mở cửa hiện nay, nắm bắt thời cơ và hiểu rõ thị trường sẽ giúp các quốc
gia có thể định hướng chính sách phát triển, thúc đẩy quan hệ buôn bán và hoà
nhập với nền kinh tế thế giới. Với thị trường EU, việc quan hệ với khối liên
minh này sẽ đem lại cho các quốc gia nhiều cơ hội cũng như cả những thách
thức.
Về phía Việt Nam, kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao với EU năm 1990,
quan hệ kinh tế thương mại ngày càng phát triển và được củng cố về mọi mặt.
Đặc biệt trong những năm gần đây, Việt Nam đang xúc tiến, khai thông, hoà
34
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
nhập vào thị trường EU. Trên thực tế vấn đề hoà nhập này không phải dễ dàng
khi những quy định pháp lý và những rào cản thương mại luôn gây trở ngại cho
phía doanh nghiệp Việt Nam. Mặc dù đứng trước những thử thách lớn như vậy
nhưng Việt Nam cũng đã xác định EU là thị trường có thể thâm nhập được. Để
tìm hiểu rõ hơn điều đó, nội dung của chương tiếp theo sẽ trình bày cụ thể thực
tiễn vận dụng các quy định pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu
sang thị trường EU.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VIỆC ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ VỀ
CHẤT LƯỢNG VÀ NHÃN HIỆU SẢN PHẨM CỦA EU Ở CÁC DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM KHI XUẤT KHẨU SANG THỊ TRƯỜNG NÀY
2.1 TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
SANG THỊ TRƯỜNG EU
2.1.1 Giá trị kim ngạch xuất khẩu
Ngay sau khi chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1990, việc buôn
bán giữa Việt Nam và EU phát triển khá mạnh. “Hiệp định dệt may” kí kết năm
1993 và “Hiệp định hợp tác giữa Cộng Hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Cộng Đồng Châu Âu” năm 1995 đã đánh dấu bước đột phá trong mối quan hệ
giữa Việt Nam và EU. Việc kí kết các hiệp định này đã mở ra những triển vọng
mới trong quan hệ hợp tác và tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển các mối quan
hệ bền chặt lâu dài giữa Việt Nam-EU cũng như các nước thành viên. Kể từ sau
khi Hiệp định được kí kết, các cơ hội kinh doanh, xuất khẩu mở ra đối với các
doanh nghiệp Việt Nam. Trên cơ sở khai thác các điều kiện thuận lợi trong quan
hệ, kết quả xuất khẩu của Việt Nam đã tăng trưởng đáng kể. Tốc độ tăng kim
ngạch xuất khẩu sang thị trường EU giai đọan 1991-2002 đạt trung bình trên
50% (xem bảng 1). Theo báo cáo của Tổng Cục Hải Quan thì ở giai đoạn 1991-
1994, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU chưa cao, trung bình tăng
35
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
38,67% do hai bên chưa kí được hiệp định hợp tác nên buôn bán vẫn do từng
bên đơn phương quyết định. Phía EU xếp Việt Nam vào hàng cuối trong thứ tự
phát triển ưu tiên buôn bán, hàng xuất khẩu của Việt Nam đều là đối tượng có
hạn ngạch. Tuy nhiên từ năm 1995 trở lại đây, kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang thị trường này tăng lên nhanh. Nếu năm 1995, kim ngạch xuất khẩu
đạt 720 triệu USD, gấp 6 lần kim ngạch năm 1991 thì năm 1999 tăng lên 2506,3
triệu USD gấp 22,3 lần kim ngạch xuất khẩu năm 1991, năm 2000 tăng lên
2636,9 triệu, gấp hơn 23,5 lần kim ngạch xuất khẩu của năm 1991. Năm 2002,
kim ngạch xuất khẩu mà Việt Nam đạt được sang thị trường EU là 2801,2 triệu
USD gấp hơn 25,6 lần kim ngạch xuất khẩu của năm 1991.
BẢNG 1: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU giai đoạn 1991-2002
Đơn vị : Triệu USD
Năm
91
95
96
97
98
99
2000
2001
2002
1. Tổng KN
122,22 5448,9
9185
9361
11532
11523
14308
16408
17024,4
XK của VN
2. Kim
ngạch XK
112,22
720
900,5
1608,4 2125,8 2506,3 2636,9 2708,3
2801,2
sang EU
3.Tỷ trọng %
5,4
13,2
12,4
17,5
22,7
21,8
18,4
16,5
16,4
4. Tốc độ
-20,8
87,6
87,6
78,6
32,2
17,9
13,2
12,9
14,5
tăngtrưởng%
Nguồn: Báo cáo của Tổng Cục Hải Quan, Bộ Thương
Mại
Rõ ràng, trị giá xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường tăng lên nhanh
chóng nhưng tốc độ hàng năm không ổn định và lên xuống thất thường. Năm
1995, kim ngạch xuất khẩu tăng 87,6% so với năm 1991, năm 1996 tăng 25,15%
so với năm 1995. Năm 1997 tăng 78,6% sơ với năm 1996, năm 1998 chỉ tăng
32,2% so với năm 1997. Bên cạnh đó, nếu so sánh tốc độ gia tăng kim ngạch
36
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
xuất khẩu cả nước và xuất khẩu sang EU ta thấy tỷ trọng nhập khẩu của EU từ
Việt Nam tăng không nhanh bằng tỷ trọng xuất khẩu của cả nước.
Nguyên nhân dẫn đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang EU
giảm vào năm 1996 là do hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam bị giảm
mạnh:
- Đối với hàng thuỷ sản: do ở nhiều khu vực trong nước tôm bị bệnh dịch
chết hàng loạt (tôm chiếm 50% giá trị thuỷ sản xuất khẩu)
- Đối với mặt hàng cà phê: cũng giảm do giá thị trường thế giới giảm nhiều
(cà phê xuất khẩu vào EU chiếm 44,9% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt
hàng này).
Trong khi đó nguyên nhân làm cho kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
sang EU năm 1998 tăng trưởng thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng năm
1997 là do tất cả các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đều gặp trở ngại
trên thị trường EU do các quy định quản lý nhập khẩu của EU gây ra. Cụ thể là:
mặt hàng giày dép có nguy cơ bị ấn định hạn ngạch. Mặt hàng thuỷ sản có khó
khăn do EU chưa nhập khẩu nhuyễn thể và chưa chấp nhận các nhà máy chế
biến thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam vào danh sách 1 (được xuất khẩu thẳng
vào EU). Việt Nam lại không được coi là nước có nền kinh tế thị trường nên các
loại hàng hoá của Việt Nam còn phải chịu sự phân biệt đối xử so với hàng hoá
các nước khác khi EU xem xét áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. Như
vậy, những nội dung pháp lý về chất lượng sản phẩm đã ảnh hưởng đáng kể đến
việc xuất khẩu hàng hoá trong nước.
Từ năm 1999 thì mức tăng trưởng lại giảm xuống còn 17,9% so với năm
1998 và giảm xuống 13,2% vào năm 2000, mức này vẫn tiếp tục giảm khi bước
sang năm 2001. Điều này thể hiện việc xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
EU suy giảm. Đặc biệt, một số hàng hoá xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang
EU như giày dép, dệt may giảm 30% sản lượng. Nếu so với 6 tháng đầu năm
37
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
2001 với cùng thời gian năm 2000 cho thấy hàng hoá xuất khẩu cuả Việt Nam
sang Tây Ban Nha bằng 80%, Hà Lan bằng 85%, Anh bằng 90%, chỉ có riêng
Pháp, Đức, Thuỵ Điển là không giảm (tăng ít hơn 2%). Nguyên nhân của hiện
tượng này chính là do đồng tiền chung Châu Âu (EURO) chưa thật ổn định.
Thực tế, trong thời gian quý I năm 2001, đồng EURO đã giảm giá 20% so với
đồng USD, dẫn đến mức tiêu dùng cũng giảm theo. Điều này là một tác động
quan trọng làm cho hàng hoá của Việt Nam giảm mạnh ở thị trường EU. Tuy
nhiên, hiện nay đồng EURO đã tăng giá và khá ổn định so với đồng USD. Điều
này cũng khiến các nhà kinh doanh tin tưởng vào triển vọng xuất khẩu của Việt
Nam năm 2003 sẽ tăng lên đáng kể. Do đồng Việt Nam sẽ tương đối rẻ đi tương
đối so với đồng EURO, Việt Nam sẽ khai thác được lợi thế của một đồng ngoại
tệ mạnh và thế mạnh của tỷ giá hối đoái có lợi cho xuất khẩu từ đó khuyến khích
xuất khẩu hàng hoá vào EU.
Về bạn hàng của Việt Nam, hiện cả 15 nước thành viên EU đều có quan hệ
buôn bán với Việt Nam. Trong số các nước bạn hàng EU của Việt Nam đứng
đầu là Đức sau đó đến Pháp, Anh, Hà Lan, Bỉ, Italia. Trong đó kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam sang Pháp tuy tăng giảm không ổn định nhưng vẫn chiếm tỷ
trọng lớn trong trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.Tỷ trọng xuất
khẩu sang Đức tới 28,4%, Pháp (20,7%), Anh (12,7%), Italia (9,6%), Bỉ-
Luxembourg (8,1%) và Hà Lan (7,6%),Tây Ban Nha (4,2%), Thuỵ Điển (2,8%),
Đan Mạch (2,2%), Áo (1,4%), Phần Lan (0,9%), Hy Lạp và Bồ Đào Nha
(0,4%).
2.1.2 Mặt hàng
Mặc dù EU là một thị trường “khó tính”, khó thâm nhập, nhưng Việt Nam
đã có những điểm thuận lợi để có thể chen chân vào trong thị trường này. Cơ
cấu hàng xuất khẩu có sự thay đổi tuỳ từng giai đoạn nhất định. Trong những
năm 1991-1992, mặt hàng chủ lực của Việt Nam là gạo, nông sản (gạo chủ yếu
38
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
xuất sang nước thứ 3). Từ khi hai bên kí kết Hiệp định hàng dệt may thì trong
các năm từ 1992 đến 1997, mặt hàng chủ lực của Việt Nam chủ là hàng dệt may,
giày dép, thuỷ hải sản. Hiện nay, cơ cấu mặt hàng của Việt Nam sang EU chủ
yếu tập trung vào các mặt hàng truyền thống: Giày dép, dệt may, cà phê, gạo,
cao su, than đá, điều nhân, rau quả, hàng thủ công mỹ nghệ và thuỷ hải sản.
Những mặt hàng này chiếm 79% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào
EU. Trong đó riêng giày dép chiếm 30%, dệt may chiếm 25% cà phê và hải sản
chiếm trên dưới 14%. Từ năm 1996 đến nay, trong cơ cấu hàng xuất khẩu của
Việt Nam xuất hiện thêm một số mặt hàng như: đồ chơi trẻ em, đồ thể thao, đồ
gỗ nội thất và các sản phẩm gốm. Kim ngạch các mặt hàng này đã không ngừng
tăng lên đặc biệt là vào năm 2001.
BẢNG 2: 10 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường EU
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Nội dung
K.lượng
Giá trị
K.lượng
Giá trị
K.lượng
Giá trị
(ngàn tấn)
(Tr USD)
(ngàn tấn)
(Tr USD)
(ngàn tấn)
(Tr USD)
KNXK sang
2108,7
2493,3
4400
EU
Trong đó các
HHXK chủ yếu
1. Cà Phê
131,150
203,05
170,6
207,07
241,8
168,98
2. Gạo
287,283
71,32
268,1
206,24
39,36
60,8
3. Cao su
48,032
20,2
41,5
52,88
30,22
23,42
4. Hạt điều
-
11,1
1,6
1,95
17,25
10,4
5. Rau quả
-
6,63
-
-
12,57
8,29
6. Hải sản
-
93,4
25,37
32,75
135,37
105,3
7. Dệt may
-
516,5
-
-
750,25
552,98
8. Giày dép
-
625,9
-
-
1255,5
933,3
9. Hàng điện tử
-
-
-
-
24,2
19
10. Hàng thủ công
-
-
-
-
70,75
59,63
mỹ nghệ
Nguồn : Vụ kế hoạch- Thống kê- Bộ Thương mại
39
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Ngoài những mặt hàng truyền thống, hàng xuất khẩu của Việt Nam còn
xuất hiện những mặt hàng mới, phù hợp với nhu cầu của thị trường EU và khai
thác được thế mạnh của Việt Nam như hàng điện tử, linh kiện vi tính, chỉ tính
riêng kim ngạch xuất khẩu hai mặt hàng này đã đạt 78,6 triệu USD chiếm tỷ
trọng 17% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Bước đầu hoạt động xuất khẩu các
mặt hàng trên đã gặt hái được những thành công và thâm nhập được vào thị
trường tiềm năng này.
Xét theo ngành có thể thấy: các mặt hàng chế biến chiếm 65,5%, thực
phẩm:19,7%; nguyên liệu thô: 7,8%; nhiên liệu và khoáng sản: 2,9%; trong đó
hai mặt hàng giữ vai trò chính là giày dép: 38,6% và dệt may 21,3%. Sở dĩ có
tình hình này là do đây là những mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế về lao động
rẻ, được phía EU đặt hàng dưới hình thức gia công; được EU cấp hạn ngạch và
giành ưu đãi GSP đối với nhóm nước kém phát triển. Tuy nhiên trong những
năm gần đây, một số mặt hàng chế biến có hàm lượng kỹ thuật cao (như hàng
điện tử) đã có kim ngạch tăng lên đáng kể, góp phần đưa tỷ trọng hàng xuất
khẩu của Việt Nam sang EU tăng lên, với khoảng 70% tổng kim ngạch và tỷ
trọng hàng nguyên liệu thô giảm xuống còn 30%.
Có thể nói các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị trường
EU hiện nay là những mặt hàng mà chúng ta đang có tiềm năng, lợi thế về
nguồn lực để sản xuất khai thác và phát triển để xuất khẩu.
2.2 THỰC TIỄN VIỆC ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ VỀ CHẤT
LƯỢNG VÀ NHÃN HIỆU SẢN PHẨM VỚI CÁC MẶT HÀNG XUẤT
KHẨU CỦA VIỆT NAM SANG EU
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU không ngừng tăng
cả về lượng và về chất. Tuy nhiên tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu còn nhỏ bé chưa
tương xứng với tiềm năng của hai bên. Thực tế cho thấy, một trong những
nguyên nhân quan trọng hạn chế cơ hội xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt
40
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Nam chính là hành lang pháp lý của liên minh này. Để quản lý chất lượng, EU
đã áp dụng Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000 cùng với những quy định rất
khắt khe về tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm và môi trường. Ngoài ra EU
cũng đưa ra các quy định cụ thể về nhãn hiệu và bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp đối với mỗi mặt hàng. Nhận thức được điều đó, các doanh nghiệp cũng
đã cố gắng tuân thủ các quy định pháp lý để tạo nền tảng, từng bước mở rộng
mặt hàng xuất khẩu. Hơn nữa các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đang hướng
tới tiêu chí làm người tiêu dùng Châu Âu quen dần với nhãn mác của hàng hoá
Việt Nam, từng bước hình thành tập quán và thói quen tiêu dùng hàng Việt
Nam. Tuy nhiên, căn cứ vào khả năng của Việt Nam thì tốc độ tăng vào thị
trường EU vẫn chưa tương xứng. Một nguyên nhân quan trọng ở đây là do việc
vận dụng các quy định về nhãn hiệu và chất lượng sản phẩm của từng mặt hàng.
Ta xem xét thực tiễn xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu để rút ra một số vấn đề
cần xúc tiến đồng thời giải quyết những vấn đề còn tồn tại liên quan đến các quy
định pháp lý của Liên minh Châu Âu EU nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu của
hàng hoá Việt Nam sang thị trường này.
2.2.1 Hàng dệt may
Đây là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sau dầu thô vì vậy kết
quả xuất khẩu của mặt hàng này có ảnh hưởng rất lớn đến tổng kim ngạch. Hơn
nữa, việc đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này còn có ý nghĩa rất lớn do ngành dệt
may thu hút được khá nhiều lao động và với điều kiện ở Việt Nam thì việc khai
thác tiềm năng lao động dồi dào này là hết sức quan trọng.
Theo số liệu thống kê của Vụ kế hoạch thống kê- Bộ Thương Mại, năm
1993 giá trị xuất khẩu sang thị trường EU lớn, chiếm tới 75,6% kim ngạch xuất
khẩu dệt may cả nước do đây là năm đầu tiên áp dụng hạn ngạch. Vào năm
1996, Hiệp Định buôn bán hàng dệt may Việt Nam-EU chính thức có hiệu lực
và 450 triệu USD là kết quả đạt được, có mức tăng gần 30 % so với năm 1995.
41
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Năm 1997, Hiệp định dệt may mới được kí kết cho giai đoạn 1998-2000. Nếu so
với hạn ngạch năm 1993 thì hạn ngạch năm 1998 tăng khoảng 80% và có đến 25
chủng loại hàng đã ra khỏi danh mục quản lý bằng hạn ngạch. Giai đoạn 2000-
2002, EU tăng hạn ngạch cho Việt Nam với 16 mã hàng may mặc xuất khẩu
sang EU. Điều này tạo điều kiện xuất khẩu cho các mặt hàng này vào thị trường
EU. Vì vậy, giá trị xuất khẩu năm 2002 đạt hơn 750 triệu USD bằng 300% giá
trị năm 1993. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào EU tăng liên tục với tỷ lệ
bình quân là 40% thời kì 1993-2002. Điều đáng nói ở đây là tỷ trọng dệt may
vào EU chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Kết quả
này rất đáng khích lệ. Chỉ sau 10 năm hợp tác, EU đã trở thành thị trường chính
trong xuất khẩu dệt may của Việt Nam.
Hiện cả nước có trên 440 doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu hàng dệt may đi
EU. So với năm 1993 mới chỉ có 148 doanh nghiệp thì đó là một bước phát triển
tốt đẹp. Các quốc gia nhập hàng dệt may của Việt Nam là Cộng hoà Liên Bang
Đức, tiếp sau là Pháp, Hà Lan, Anh, Italia, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Hy Lạp,
Bồ Đào Nha. Như vậy có tổng số 10 trên 15 quốc gia thành viên EU đã tiếp
nhận mặt hàng dệt may của Việt Nam. Nhưng chúng ta cũng phải thấy rằng, quy
mô xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU còn thấp so với tiềm năng
kinh tế của Việt Nam và nhu cầu nhập khẩu của EU. Do bị hạn chế bởi hạn
ngạch và thuế suất nhập khẩu cao, đồng thời phải đáp ứng các đòi hỏi khắt khe
của người tiêu dùng về mẫu mã, chất lượng cũng như gặp phải sự cạnh tranh gay
gắt từ Trung Quốc và các nước trong khu vực như Ấn Độ, Philippines, Đài Loan
nên tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu chỉ chiếm 0,5% giá trị hàng dệt may của
EU. Mặc dù vậy, hàng hoá của chúng ta cũng đã được các nước EU đánh giá cao
về chất lượng sản phẩm, đảm bảo tiêu chuẩn hàng xuất khẩu nhập vào EU.
Trong số các chủng loại hàng may mặc xuất khẩu sang EU, hầu hết các
doanh nghiệp may mới chỉ tập trung vào các sản phẩm dễ làm, các mã hàng
42
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
nóng như áo Jacket 2 lớp hoặc 3 lớp, áo váy sơ mi. Áo Jacket chiếm vị trí hàng
đầu trong cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu sang EU, tuy vậy 90% nguyên liệu của
mặt hàng này là ngoại nhập, thậm chí còn do bên đặt hàng cung cấp cho ta. Do
vậy kim ngạch xuất khẩu cao nhưng lợi nhuận chưa tương xứng. Hình thức xuất
khẩu chủ yếu của hàng Việt Nam sang thị trường này là gia công, chiếm tỷ trọng
trên 80% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. 70% hàng dệt may xuất khẩu sang
EU thông qua các thị trường Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore. Các
nước này nhập khẩu hoặc thuê Việt Nam gia công rồi tái xuất sang EU. Do vậy
hàng của Việt Nam chỉ đạt được 30-40% yêu cầu về xuất xứ. Điều này làm suy
giảm đáng kể giá trị xuất khẩu của nước ta, thậm chí còn gây nên những phức
tạp trong việc kiểm soát xuất xứ và tuân thủ quy định về kiểm soát xuất xứ hàng
hoá của EU.
Vì vậy, để mở rộng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU
chúng ta phải tuân thủ chặt chẽ các quy định pháp lý của EU, mặt khác cũng
phải đề ra các biện pháp để tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường
này.
2.2.2 Hàng giày dép
Giày dép là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam sang thị trường EU
hiện nay, trước đây xuất khẩu giày dép của Việt Nam phải chịu sự giám sát (xin
phép trước), nhưng sau khi kí hiệp định hợp tác vào ngày 17/7/1995 nhóm hàng
này được nhập khẩu tự do vào EU. Chính vì vậy kim ngạch xuất khẩu của mặt
hàng này liên tục tăng nhanh, là một trong những nhóm dẫn đầu trong giá trị kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam nói chung và sang thị trường EU nói riêng.
(Bảng 3). Khả năng xuất khẩu mặt hàng này vào EU sẽ còn tiếp tục tăng vì
chúng ta không phải chịu hạn ngạch như hàng dệt may và hệ thống ưu đãi thuế
quan phổ cập GSP áp dụng từ 01/07/1999 cho phép mặt hàng này hưởng mức
thuế nhập khẩu thấp hơn các nước khác chỉ bằng 70% mức thuế thông thường.
43
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Chỉ trong thời gian ngắn gần đây, giày của các hãng nổi tiếng như Nike,
Adidas, Reebook, Fiki…sản xuất tại nước ta đã được tiêu thụ tại các nước Tây
Âu, Canada, Bắc Mỹ.
Việt Nam là một trong 5 nước có khối lượng giày dép xuất khẩu lớn nhất
vào thị trường EU với lý do là : giá rẻ, chất lượng và mẫu mã được thị trường
này chấp nhận. Nếu năm 1996, theo EU thì Việt Nam đứng thứ 3 khu vực Châu
Á sau Trung Quốc và Inđônêxia với số lượng đạt khoảng 92,8 triệu đôi, về giày
vải thì Việt Nam đứng hàng thứ 2 sau Trung Quốc thì hiện nay Việt Nam là
nước đứng thứ 2 chỉ đứng sau có Trung Quốc. EU là thị trường lớn nhất của
giày dép xuất khẩu của Việt Nam, chiếm 74% kim ngạch xuất khẩu mặt hàng
này của Việt Nam. Tình hình xuất khẩu giày dép vào thị trường này cụ thể như
sau :
BẢNG 3 : Kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang thị trường EU
Đơn vị : Triệu USD
1994
1995
1996 1997 1998 1999
2000
2001
2002
Năm
Kim
271
380
520
457,3 625,8 933,3 1225,5 1431,5 1524,5
ngạch
Nguồn: Báo cáo thường niên của Tổng cục Hải Quan
Năm 1994, trong 10 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn sang thị trường
EU, giày dép vẫn giữ vị trí thứ 5 nhưng trong những năm gần đây tăng nhanh
vượt cả dệt may. Năm 1997, xuất khẩu giày dép đứng thứ 2 sau gạo với kim
ngạch tăng 454,3 triệu USD. Đặc biệt trong năm 1998, 1999 mặt hàng này có sự
bứt phá ngoạn mục với giá trị kim ngạch xuất khẩu chiếm tới 30 % tổng kim
ngạch xuất khẩu sang EU, vượt qua cả dệt may để chiếm vị trí số 1. Để có được
44
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
thành công này, các doanh nghiệp đã chủ động thiết kế mẫu mã, triển khai sản
xuất, nhanh chóng đáp ứng được nhu cầu khách hàng. Bên cạnh đó, họ cũng chủ
động tìm kiếm bạn hàng, kí kết được các hiệp định trực tiếp, tích cực đầu tư
thêm máy móc thiết bị mới với quy mô hợp lý cũng như việc làm tốt công tác
xúc tiến mậu dịch.
Các sản phẩm giày dép của Việt Nam chủ yếu xuất sang EU chủ yếu là
giày thể thao chiếm trên 40% kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang
EU, giày vải chiếm gần 20%, giầy nữ chiếm xấp xỉ 15%, dép khoảng 17%, giày
da chiếm hơn 1,5%. Thị trường xuất khẩu giày dép lớn trong Liên minh Châu
Âu là Đức (25,3%), Anh (20,1%), Pháp (14,3%), Bỉ (12,3%), Italia (8,1%), Hà
Lan (37,9%), Tây Ban Nha (4,6%), Thuỵ Điển (2,2%), Đan Mạch (1,3%), Hy
Lạp, Phần Lan và Áo (0,8%), Ailen (0,6%), Bồ Đào Nha (0,2%) và Lucxambua
(0,1%).
Tuy nhiên hiện nay EU đang nghi ngờ trong số các sản phẩm giày dép của
Việt Nam xuất sang EU có một số lượng lớn xuất xứ từ các nước khác. Trước
tình hình đó, Việt Nam và EU đã kí bản ghi nhớ về chống hiện tượng gian lận
thương mại đó. Phía Việt Nam đã cấp giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) mặt hàng
giày dép từ 01/01/2000 còn EU đã không áp dụng hạn ngạch đối với mặt hàng
này của Việt Nam. Mặc dù vậy giày dép xuất khẩu của Việt Nam vẫn phải lo đối
phó với đối thủ cạnh tranh chính là Trung Quốc. Trung Quốc được đánh giá có
lợi thế về ngành giày da vì nguồn nguyên liệu đáp ứng được một cách chủ động
và giá rẻ cho ngành giày da và sản xuất phụ kiện trong nước. Còn Việt Nam kém
lợi thế về mặt hàng này so với Trung Quốc do nguồn nguyên liệu trong nước
không đáp ứng được sản xuất trong nước. Phần lớn mặt hàng giày dép xuất khẩu
của Việt Nam là các loại giầy thể thao theo các hợp đồng sản xuất hay gia công
theo mẫu của nước ngoài. Vì vậy việc xuất hàng của Việt Nam thiếu tính chủ
động cả về nguyên liệu, giá cả và phương thức hoạt động. Các doanh nghiệp
45
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
không nắm bắt được kịp thời những yêu cầu về chất lượng, giá cả và mẫu mã
của thị trường. Do thường chủ yếu xuất khẩu theo hình thức gia công nên không
có cơ sở nào quan tâm đến đa dạng hoá và nâng cao chất lượng và cải tiến mẫu
mã cho sản phẩm cho xuất khẩu nên chất lượng sản phẩm của Việt Nam chưa
cao, mẫu mã đơn điệu kém khả năng cạnh tranh so với sản phẩm của một số
nước trong khu vực.
Hiện nay mặc dù Trung Quốc đã gia nhập Tổ Chức Thương mại Thế giới
(WTO) nhưng EU vẫn quyết định duy trì hạn ngạch với hàng giày dép của
Trung Quốc đến năm 2005. Còn về phía Việt Nam lại được hưởng thuế quan ưu
đãi phổ cập GSP=70% thuế suất thông thường MFN và không bị áp dụng hạn
ngạch, lợi thế trong cạnh tranh này một mặt tạo thuận lợi lớn cho hàng Việt
Nam, mặt khác cũng buộc Việt Nam phải đưa ra các chiến lược cạnh tranh cho
sản phẩm này đặc biệt là từ nay đến năm 2005 để làm cho hàng Việt Nam có vị
thế và chỗ đứng vững chắc trên thị trường EU. Trong chiến lược đó chúng ta
cần:
- Tuân thủ tuyệt đối những quy định pháp lý và chất lượng và nhãn hiệu sản
phẩm do EU quy định.
- Đổi mới thiết bị công nghệ đáp ứng nhu cầu sản xuất, gia công hàng xuất
khẩu.
- Phát triển công nghệ thiết kế nhạy bén với thị hiếu người tiêu dùng Châu
Âu.
2.2.3 Hàng thuỷ sản
Hiện nay, Việt Nam đã và đang trở thành một trong những nước xuất khẩu
thuỷ sản đáng kể trên thế giới. Nếu như đầu những năm 90, thuỷ sản xuất khẩu
của Việt Nam có mặt ở 20 thị trường trong đó thị trường Nhật Bản chiếm tới 70-
80% thì đến nay sản phẩm của Việt Nam đã xuất hiện tại hơn 60 thị trường khác
nhau ở khắp các châu lục.
46
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Hàng thuỷ sản của Việt Nam đã có được những vị thế khá vững vàng tại
các thị trường lớn với các yêu cầu rất cao về chất lượng như ở thị trường Nhật
Bản, Bắc Mỹ…và đặc biệt là hàng thuỷ sản đã tiếp cận ngày càng sâu vào thị
trường EU.
Tuy vậy theo số liệu của Tổng cục thống kê, tốc độ tăng trưởng trung bình
xuất khẩu thuỷ sản của giai đoạn 1999-2002 đạt mức thấp. Năm 1999, kim
ngạch xuất khẩu ngành thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU đạt
106,466 triệu USD chiếm 12,4% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt
Nam. Nhưng sang năm 2000, kim ngạch xuất khẩu lại có sự giảm sút so với năm
1999 chỉ đạt 93,216 triệu (Bảng 4). Nguyên nhân của tình trạng này là do một số
điều kiện khách quan không thuận lợi mang lại như thiên tai trong nước xảy ra,
thị trường nhập khẩu có quy định hạn chế tạm thời…
Đến năm 2001, hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU
chiếm 9% tổng lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam. Năm 2001, con số
này lên tới 15,1%.
Năm 2002 là năm ngành thuỷ sản gặp trở ngại lớn liên quan đến vụ bán phá
giá cá basa. Đồng thời phía EU cũng tăng cường khâu kiểm tra vệ sinh chất
lượng thuỷ sản không được khả quan. Tỷ trọng xuất khẩu tăng không đáng kể so
với năm 2001.
BẢNG 4: Tỷ trọng thị trường nhập khẩu thuỷ sản theo giá trị (1999-2002)
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Tỷ
Tỷ
Tỷ
Tỷ
Thị trường Giá trị
Giá trị
Giá trị
Giá trị
trọng
trọng
trọng
trọng
(Tr $)
(Tr $)
(Tr $)
(Tr $)
(%)
(%)
(%)
(%)
Mỹ
99,598
11,6
133,998
13,8
307,23
20,9
459,003
27,8
Nhật Bản
363,168
42,3
395,197
40,80
482,160
32,8
421,439
26,14
Trung Quốc
90,668
10,56
121,375
12,5
299,880
20,4
285,910
17,32
(+ HK)
47
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
EU
106,466
12,4
93,216
9,6
101,430
9,0
670
15,1
ASEAN
44,647
5,2
66,028
6,8
58,8
4,0
60,456
3,66
Các nước
154,033
17,94
161,186
16,6
220,5
15,0
313,134
18,97
khác
Tổng giá trị
858,600
971,000
1470
1650,61
Nguồn : Tạp chí Thuỷ sản số 1/2003
Nhận xét : Có thể thấy rằng sang năm 2001, trong bối cảnh tình hình kinh
tế thế giới sa sút, thị trường thế giới có nhiều biến động lớn, mức độ cạnh tranh
ngày càng gay gắt, dẫn đến giá cả sụt giảm nghiêm trọng khiến cho các nhà sản
xuất, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản sang EU gặp nhiều khó khăn song giá trị
xuất khẩu vẫn tiếp tục tăng so với năm 2000 đã chứng tỏ hàng thuỷ sản của Việt
Nam đã có được chỗ đứng khá vững chắc trên thị trường EU.
Hiện nay mỗi năm Việt Nam xuất sang EU hàng chục ngàn tấn thuỷ sản
trong đó chủ yếu là các loại tôm đông lạnh, mực cá đông lạnh, cá hộp, thịt tôm
hỗn hợp và một số loại thuỷ sản khác như nhuyễn thể hai mảnh vỏ. Hiện EU là
thị trường lớn thứ ba nhập khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam. Cá biệt trong các
năm Nhật Bản và Đông Nam Á khủng hoảng, thị trường EU là giải pháp hữu
hiệu cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam .
Tuy nhiên với trình độ phát triển công nghiệp và đời sống tiêu dùng chất
lượng cao, EU cũng đặt ra nhiều quy định tương đối khắt khe đối với hàng nhập
khẩu. EU kiểm tra sản phẩm ngay từ nơi sản xuất và có các hệ thống báo động
giữa các nước thành viên. Cùng với các quy định pháp lý về hàng nhập khẩu
được đưa ra nhằm hạn chế các sản phẩm được sản xuất với điều kiện chưa đạt
tiêu chuẩn. Năm 2002, một lô lớn hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam đã bị
loại bỏ do không thực hiện đúng các quy cách ký mã hiệu, thời hạn sử dụng, nơi
sản xuất và điều kiện bảo quản đặc biệt. Những điều kiện khắt khe là các thách
thức rất lớn đối với Việt Nam.
48
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Bộ Thuỷ Sản đang tiếp tục đổi mới không ngừng trang thiết bị kỹ thuật
hiện đại, đồng thời kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực quan trọng nhằm tăng cường khả
năng cạnh tranh cho hàng thuỷ sản Việt Nam trên thị trường EU nói riêng và thị
trường thế giới nói chung. Ngày 18/11/1999, EU đã chính thức công nhận Trung
tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thuỷ sản NAFIQACEN thuộc Bộ Thuỷ Sản
Việt Nam là cơ quan kiểm soát điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm trong sản
xuất và tiêu thụ thuỷ sản của Việt Nam, đủ điều kiện để EU uỷ quyền kiểm soát
hàng thuỷ sản vào EU. Đồng thời EU đưa hàng thuỷ sản của Việt Nam vào danh
sách ưu tiên loại 1 với đợt đầu với 18 doanh nghiệp đủ điều kiện xuất thẳng vào
EU mà không cần phải có những thoả thuận song phương với từng nước trong
liên minh Châu Âu. Điều này cho phép giảm bớt các hàng rào kỹ thuật đối với
hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất vào các nước EU, đồng thời mở ra một thị
trường đầy hứa hẹn cho ngành thuỷ sản.
Đầu năm 2002, EU đã có quyết định công nhận mới 32 doanh nghiệp vào
danh sách 1 được phép xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường này. Tiếp đó, ngày
1/8/2003, EU cũng đã có quyết định công nhận thêm 6 doanh nghiệp nữa đủ tiêu
chuẩn xuất khẩu thuỷ sản sang EU (đây là các doanh nghiệp trước đây bị loại
khỏi danh sách 1) đưa tổng số doanh nghiệp có code vào EU lên 100.
Uỷ ban Châu Âu đã công nhận 5 vùng nhuyễn thể của nước ta ở Tiền
Giang và Bến Tre. Mới gần đây, phía EU cũng đã thông báo là chấp nhận thêm
5 vùng nuôi nhuyễn thể khác ở Cần Giờ (TP.HCM) và vùng biển Kiên Giang đạt
điều kiện an toàn vệ sinh, làm nguyên liệu để sản xuất và xuất khẩu vào EU.
Nhờ đó mà toàn bộ vùng nhuyễn thể của tất cả các vùng nuôi này đều có thể bán
được vào thị trường EU.
Như vậy có thể khẳng định rằng hàng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam đã
dần dần được chấp nhận vào thị trường khắt khe này. Có thể dễ dàng nhận thấy
thị trường EU vừa mang các yếu tố của một thị trường tiêu thụ, vừa mang yếu tố
49
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
giúp nâng cao uy tín cho hàng thuỷ sản trên thị trường quốc tế. Thị trường EU
ngày càng được phát triển và tự khẳng định là một trung tâm kinh tế của thế
giới. Hơn nữa, EU sang năm 2004 sẽ kết nạp thêm thành viên mới, tạo điều kiện
để Việt Nam mở rộng thêm thị trường và nhu cầu tiêu thụ. Chính vì vậy, ngành
thuỷ sản Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa để nâng cao chất lượng hàng hóa. Bởi
một khi đã được EU chấp nhận thì cũng không khó khăn gì cho các doanh
nghiệp Việt Nam khi thâm nhập thị trường lớn khác do tiêu chuẩn của EU được
đánh giá rất cao trên thị trường thế giới.
Tuy nhiên có một vấn đề quan trọng đặt ra cho Việt Nam khi xuất khẩu
thuỷ sản vào thị trường EU đó là có rất nhiều đối thủ cạnh tranh như Trung
Quốc, các nước ASEAN v.v… với các ưu đãi được hưởng tại thị trường giống
Việt Nam. Nhiều nước như Thái Lan, Ấn Độ… có những sản phẩm có chất
lượng cao hơn, chủng loại phong phú hơn, mẫu mã đẹp hơn. Như vậy việc cải
thiện năng lực cạnh tranh hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam sẽ đóng vai trò
quyết định trong việc chiếm lĩnh thị trường EU.
Trong giai đoạn từ nay đến năm 2004, khi Việt Nam vẫn còn được hưởng
chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập GSP của EU thì một số nước thuộc ASEAN và
Trung Quốc đã có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam sẽ bị loại khỏi danh sách
được hưởng GSP. Đây chính là cơ hội để Việt Nam tăng nhanh được kim ngạch
xuất khẩu của mình khi lợi thế cạnh tranh tương đối tạm thời thuộc về nước ta.
Nhưng sau đó khi EU huỷ hoàn toàn chế độ hạn ngạch và GSP đối với hàng hoá
của các nước đang phát triển thì thách thức đến với Việt Nam sẽ nhiều hơn. Tuy
vậy, vẫn có thể đánh giá triển vọng xuất khẩu của ngành thuỷ sản Việt Nam là
hết sức khả quan vì đây là ngành mà Việt Nam chủ động được cả về khâu
nguyên liệu và chế biến.
2.2.4 Hàng nông sản
50
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Mặt hàng nông sản xuất khẩu sang EU chủ yếu là cà phê, cao su, gạo, gia
vị, và một số rau quả. Do đã và đang tập trung thành các khu vực sản xuất và
chế biến lớn, mang tính công nghiệp nên các mặt hàng cao su, cà phê, chè xuất
khẩu sang thị trường EU khá ổn định với tốc độ tăng trưởng cao (trong đó nhóm
hàng chủ yếu là cà phê)
*Mặt hàng gạo
Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn trên thị trường thế giới. Tuy nhiên kim
ngạch xuất khẩu gạo sang EU không nhiều và có xu hướng giảm mạnh vì có 2
mức thuế nhập khẩu đánh vào gạo rất cao: gạo nguyên hạt 100% và hạt gạo gãy
100%. Hơn nữa, chất lượng gạo Việt Nam chưa cao, không kể đến phải cạnh
tranh với gạo Thái Lan do khâu giống, trình độ bảo quản, phơi sấy hay xát gạo
còn rất thấp nên gạo thường gẫy và độ bóng không cao. Chính vì vậy, kim ngạch
xuất khẩu gạo sang EU năm 1998, 1999 và năm 2000 đều giảm so với năm
1997.
BẢNG 5: Kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam sang EU
Đơn vị: ngàn tấn
Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002
618,777 287,283 268,089 206,24 238,24 240,54 Kim ngạch
Nguồn: Báo cáo Bộ Thương Mại
Thị trường nhập khẩu gạo chủ yếu của Việt Nam chủ yếu là Đức, Anh,
Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển…Trong thời gian tới, mặt hàng gạo vẫn
tích cực xuất khẩu sang khu vực này, đặc biệt là các nước Tây Âu.
* Mặt hàng cà phê
Đây là một trong những mặt hàng xuất khẩu dẫn đầu sang EU. Cà phê xuất
khẩu của Việt Nam vào thị trường EU chiếm 44,9% tổng kim ngạch xuất khẩu
mặt hàng này. Theo quy định của EU thì đây là nhóm hàng bán nhạy cảm. Vì
51
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
vậy mức thuế của nhóm hàng này có lợi thế về thuế quan và nhu cầu thị trường
này vẫn tương đối ổn định, có xu hướng mở rộng. Thị trường nhập khẩu chính là
Anh, Đức, Hà Lan, Italia, Pháp, Tây Ban Nha.
Năm 1992 và năm 1993, cà phê đứng thứ 2 trong số 10 mặt hàng xuất khẩu
sang EU. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của sự biến động của sự biến động về giá cả
cà phê trên thị trường thế giới năm 1996 nên kim ngạch xuất khẩu của cà phê
Việt Nam sang thị trường này có biến động không nhiều, mặt hàng này vẫn tăng
từ năm 1996 đến nay (Bảng 6).
BẢNG 6 : Số lượng cà phê xuất khẩu sang EU giai đoạn 1996-2002
Đơnvị : ngàn tấn
Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
54,82 113,52 131,15 170,67 241,8 292,3 298,8 Kim ngạch
Nguồn: Thông tin xuất nhập khẩu Bộ KH- ĐT
*Mặt hàng rau quả
Rau quả là mặt hàng mới thâm nhập vào thị trường EU vài năm gần đây
nhưng kim ngạch tăng tương đối nhanh. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu rau quả
sang thị trường này chiếm khoảng 18% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của
Việt Nam.
Về mặt hàng rau quả chế biến, Việt Nam có sức cạnh tranh và khả năng
chiếm lĩnh thị trường yếu hơn so với các nước khác trong khối ASEAN. Sức
cạnh tranh yếu là do giá thành nguyên liệu khá cao (chủ yếu do giống cây trồng
không tốt nên năng suất thấp, tỷ lệ sản phẩm đạt yêu cầu chế biến cũng thấp),
công nghệ chế biến cũng lạc hậu. Điều đó làm cho sản phẩm chế biến của ta có
giá thành cao nhưng chất lượng sản phẩm lại thấp.
Về các loại rau, Việt Nam là nước có lợi thế cơ bản về khả năng sản xuất
và cung ứng rau trên thị trường thế giới. So với một số nước sản xuất rau thì hầu
52
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
hết họ phải chịu những chi phí khá lớn do phải trồng rau trong nhà kính vào mùa
đông. Tuy vậy, rau xuất khẩu của Việt Nam cũng phải chịu sức ép cạnh tranh
khá lớn của Thái Lan, Trung Quốc… Những nước này hơn hẳn nước ta về công
nghệ bảo quản sau thu hoạch và đặc biệt họ hơn ta về công tác tiếp thị. Nhìn
chung, sản phẩm rau quả của Việt Nam có nhiều lợi thế tương đối trong thâm
nhập, chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ. Song chúng ta cũng cần phải chú ý đến
khâu cải tạo, thay thế những giống rau quả đã bị thoái hoá, lạc hậu… Tiếp đó,
chúng ta cũng cần phải nhanh chóng nâng cấp, thay thế dây chuyền trang thiết bị
trong chế biến rau quả, cải tiến mẫu mã, bao bì, nhãn hiệu… để đáp ứng được
những đòi hỏi, những quy định về chất lượng của thị trường nhằm nâng cao hơn
nữa khả năng thâm nhập, chiếm lĩnh thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh
của sản phẩm rau quả Việt Nam.
Các nguồn nông sản khác như cao su, chè vẫn tiếp tục tăng kim ngạch xuất
khẩu, phần nào tập trung thành các khu sản xuất và chế biến mang tính công
nghiệp. Do vậy, những mặt hàng này xuất sang EU khá ổn định, có cơ hội xâm
nhập và đứng vững tại thị trường này.
Có thể nói mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam hiện nay chỉ mới
bước đầu thâm nhập vào thị trường EU. Nhận thức được tầm quan trọng của
việc áp dụng các tiêu chuẩn quản lý chất lượng sản phẩm để có được vị thế trên
thị trường, hầu hết các doanh nghiệp sản xuất, chế biến nông sản Việt Nam đã
chú trọng và tự nâng cấp hoàn thiện áp dụng các yêu cầu bạn hàng đề ra. Bên
cạnh đó, các doanh nghiệp cũng bắt đầu chú trọng đề cao việc áp dụng Bộ tiêu
chuẩn ISO 9000, ISO 14000 vì đòi hỏi của EU đối với nông sản rất khắt khe.
Nếu vận dụng tốt tiêu chuẩn này, doanh nghiệp xuất khẩu sẽ chủ động hơn trong
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của mình.
2.2.5 Sản phẩm gỗ
53
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Đây là mặt hàng có tiềm năng phát triển và hiện nay đang thâm nhập rất tốt
vào EU- thị trường tiêu thụ đồ gỗ lớn nhất thế giới. Trong khi các doanh nghiệp
sản xuất đồ gỗ của Việt Nam có trình độ ngày càng được nâng cao để có thể đáp
ứng được các yêu cầu khắt khe của thị trường này. Chính vì vậy, sản phẩm gỗ
gia dụng đang được đánh giá là mặt hàng đang có tiềm năng phát triển. Kim
ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang EU tăng trung bình 34,6%, năm 1996
đạt 60,5 triệu USD, năm 1997 đạt 101,3 triệu USD, năm 1998 đạt 108,1 triệu
USD, năm 1999 đạt 145,5 triệu USD, năm 2000 đạt 219,3 triệu USD. Trước mắt
thị trường xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất của Việt Nam trong khối EU là Pháp
(29,1%), Anh (24,8%), Italia (12,6%)… Cho đến nay mới chỉ có thị trường
Lucxambua là mặt hàng này chưa thâm nhập đựơc.
Để sản phẩm gỗ có chỗ đứng vững chắc trên thị trường EU thì các doanh
nghiệp Việt Nam cần nắm chắc các quy định của liên minh Châu Âu về bảo vệ
môi trường tìm hiểu kỹ hệ thống giám sát chất lượng đặc điểm của hệ thống
phân phối gỗ tại từng nước thành viên EU và chú trọng tới cải tiến sản xuất,
nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm, đồng thời phải lưu ý tới các tiêu
chuẩn về môi trường ISO 14000 và về sử dụng lại sản phẩm.
2.2.6 Sản phẩm thủ công mỹ nghệ
Thị trường EU được xác định là thị trường có nhu cầu lớn và dung lượng
thị trường này cũng rất lớn đối với các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt
Nam. Trong những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
của nước ta sang thị trường này cũng khá nhanh. Trong khối EU hầu hết các
nước đều nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Các sản phẩm thủ
công mỹ nghệ chủ yếu của ta xuất sang EU là đồ gốm sứ, song, mây, tre, cói,
đay thêu đan, thảm các loại.
Nhóm hàng gốm sứ mỹ nghệ, hàng gốm sứ mỹ nghệ hiện nay cũng đang
được tiêu thụ mạnh sang thị trường EU thông qua hội chợ Frankfurt hàng năm
54
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
được tổ chức tại CHLB Đức. Hiện nay, các loại gốm sứ mỹ nghệ như của Đồng
Nai, Bình Dương, Bát Tràng và Vĩnh Long đang xuất khẩu mạnh sang thị
trường Tây, Bắc Âu. Một điểm cần lưu ý đối với các cơ sở sản xuất gốm sứ mỹ
nghệ xuất khẩu sang EU là tích cực khôi phục các cơ sở sản xuất truyền thống
với những mặt hàng giả cổ và phương pháp làng nghề Việt Nam. Đồng thời cần
có mối quan hệ bạn hàng thường xuyên, bạn hàng với những người Việt Nam
định cư ở nước ngoài để tiến hành các hoạt động Marketing thích hợp.
Nhóm hàng mây tre đan: Đó là các mặt hàng như mây, tre đan, lá đan, các
sản phẩm bàn ghế, trang trí nội thất bằng nguyên liệu song mây tre, hàng thêu
ren hiện cũng đang được xuất khẩu sang thị trường EU với khối lượng đáng kể.
Các mặt hàng thảm cói, đệm ghế cói được xuất khẩu sang các nước Hà Lan, Tây
Ban Nha, Italia; hàng thêu ren, thảm dệt xuất khẩu sang Pháp, Italia, Thuỵ Sỹ,
Áo, Đức với kim ngạch khoảng 1,5triệu USD/năm.
Tuy kim ngạch xuất khẩu tăng lên hàng năm nhưng hàng thủ công mỹ nghệ
của ta chưa thâm nhập nhiều vào thị trường EU dù cơ hội mở rộng thị trường
còn rất lớn. Nguyên nhân là do sản phẩm thủ công mỹ nghệ của ta còn đơn điệu,
chất lượng không đồng đều, chưa đáp ứng được yêu cầu cao của EU về tính độc
đáo trong kiểu dáng và mẫu mã. Hơn nữa, hàng thủ công mỹ nghệ của Thái Lan,
Inđônêxia vốn đã nổi tiếng tại thị trường EU. Tuy nhiên, hàng thủ công mỹ nghệ
Việt Nam năm 1999 được xuất khẩu tập trung nhiều nhất vào các thị trường
thuộc liên minh Châu Âu. Vì vậy, các sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ của
Việt Nam cần phải khắc phục sự đơn điệu, chất lượng kém, không đồng đều và
phải đáp ứng được yêu cầu rất cao về tính độc đáo trong mẫu mã kiểu dáng. Đáp
ứng được thực tế này thì Việt Nam mới có thể trụ vững được tại thị trường EU
trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt và khốc liệt giữa các nước xuất khẩu mặt hàng
này. EU đang và trong tương lai sẽ là thị trường mà Việt Nam xuất được nhiều
hàng thủ công mỹ nghệ với khối lượng và kim ngạch ngày càng tăng. Để EU
55
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
thực sự là thị trường xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam,
ngoài các chính sách hỗ trợ của nhà nước, điều quan trọng là chính bản thân các
doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng mà nước ta có khả năng rất
lớn này. Đó là vấn đề chất lượng, mẫu mã, công tác Marketing. Người tiêu dùng
Châu Âu nói chung và đặc biệt là các nước Tây Âu thường tinh tế, không xô bồ
như người tiêu dùng các thị trường khác. Cho nên, việc xuất khẩu cái gì thì
chúng ta cũng phải tạo thế mạnh trong cạnh tranh và uy tín về chất lượng,
phương thức bán hàng và sau đó mới là giá cả. Các doanh nghiệp phải thực sự
coi xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là xuất khẩu các biểu tượng văn hóa
truyền thống của dân tộc. Đó chính là bí quyết thành công đối với các cơ sở sản
xuất, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam.
2.3 CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VỚI VIỆC VẬN DỤNG QUY
ĐỊNH PHÁP LÝ VỀ CHẤT LƯỢNG VÀ NHÃN HIỆU SẢN PHẨM KHI
XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ SANG THỊ TRƯỜNG EU
2.2.1 Việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000
Đảm bảo chất lượng hàng hoá xuất khẩu, giữ uy tín trên thị trường thế giới,
một hệ thống kiểm tra chất lượng bắt buộc là một biện pháp cần thiết. Để đạt
được một quá trình sản xuất “không có lỗi” và nâng cao chất lượng với giá cũ
hay thấp hơn và phải dựa trên cơ sở của cái gọi là lao động có chất lượng trong
tất cả các công đoạn của quá trình sản xuất tổng hợp. Tham gia vào hệ thống
tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000 sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất
sản phẩm đạt chất lượng tốt hơn, tỷ lệ phế phẩm ít hơn, chi phí kiểm tra cũng sẽ
giảm. Hơn nữa, việc áp dụng tiêu chuẩn ISO 9000 (cùng với một số hệ tiêu
chuẩn chất lượng khác) được coi là giấy thông hành của doanh nghiệp Việt Nam
đi vào thị trường thế giới.
Trước đây một số doanh nghiệp Việt Nam không cho rằng ISO 9000 là cần
thiết, thậm chí có doanh nghiệp không biết ISO là gì. Công ty cao su Miền Nam
56
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
(Casumina) xuất khẩu lô hàng sang Thuỵ Điển. Thực tế khi bạn hàng nước
ngoài lấy mẫu đi kiểm nghiệm thì chất lượng đạt trên 90 %, doanh nghiệp tập
trung nguồn hàng xuất khẩu nhưng khi kiểm tra cả lô hàng thì chỉ đạt từ 80-90%
yêu cầu. Phía đối tác nước ngài kiên quyết không nhận lô hàng và doanh nghiệp
ôm hàng về kho và chịu toàn bộ chi phí vận chuyển, bốc xếp lưu kho… Một
doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản thuộc Tổng công ty Seaprodex cũng rơi vào
tình trạng tương tự do thiếu hiểu biết về bộ tiêu chuẩn ISO 9000. Kết quả là toàn
bộ hàng hoá bị thiêu huỷ do không đạt yêu cầu chất lượng xuất khẩu sang EU.
Rõ ràng chính sự lơi lỏng không quan tâm đến những quy định pháp lý về chất
lượng và môi trường đã dẫn đến những thiệt hại vật chất vô cùng lớn kèm theo
sự giảm sút uy tín của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Gần đây nhất, khi
EU không chấp nhận lượng hàng thuỷ sản nhập khẩu vào có dư lượng kháng
sinh trên 0,3 phần tỷ thì các doanh nghịêp chế biến xuất khẩu thuỷ sản rơi vào
tình trạng bi đát: hàng chục lô hàng tôm xuất khẩu bị trả về, nhiều doanh nghiệp
bị loại ra khỏi “Danh sách 1” và mất quyền đi thẳng vào thị trường Châu Âu.
EU tiến hành kiểm tra 100% hàng thuỷ sản Việt Nam và sẽ áp dụng biện pháp
cấm nhập khẩu nếu thuỷ sản Việt Nam bị nhiễm dư lượng hoá chất quá mức cho
phép như đã từng làm với Trung Quốc. Cho đến khi Bộ thuỷ sản tiến hành một
loạt cácc biện pháp kiên quyết: kiểm tra 100% container xuất khẩu đi Châu Âu,
loại bỏ những lô hàng không đạt yêu cầu, ban hành các quy chế tiêu chuẩn về
quản lý kháng sinh trong nuôi trồng thuỷ sản… thì các doanh nghiệp mới bình
ổn trở lại. Mới đây, EU cũng phải thừa nhận sự phù hợp tiêu chuẩn của thuỷ sản
nước ta và ngừng kiểm tra 100% thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam. Như vậy, nếu
dự đoán trước được tình hình, áp dụng theo tiêu chuẩn ISO 9000 thì các doanh
nghiệp đã không rơi vào tình trạng khủng hoảng như vậy. Mặc dù hiện nay đã
ban hành Pháp lệnh chất lượng hàng hoá song pháp lệnh còn hết sức chung
chung, chưa cụ thể, rất khó hiểu với nhiều nhà sản xuất. Các nhà sản xuất áp
dụng tiêu chuẩn Việt Nam thì lại không đáp ứng được các tiêu chuẩn của EU.
57
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Điều này gây khó khăn cho việc xuất khẩu hàng hóa sang EU. Mặt khác, việc
xác định chất lượng hàng hoá xuất khẩu cũng gặp trở ngại khi EU không chấp
nhận các tiêu chuẩn chất lượng của Việt Nam. Vì vậy, việc áp dụng ISO 9000 và
ISO 14000 chính là phù hợp với tập quán và thị hiếu tiêu dùng Châu Âu.
Thực tế, nếu áp dụng được ISO 9000, thì các doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ
hội giành quyền đi thẳng vào EU, chất lượng uy tín sản phẩm của chúng ta sẽ
được nâng lên trên thị trường quốc tế. Như vậy tiêu chí hàng đầu được đặt ra đối
với các doanh nghiệp Việt Nam là làm sao xây dựng được các tiêu chuẩn ISO
của riêng mình.
Theo thống kê mới đây, ở nước ta có phong trào xây dựng và áp dụng hệ
thống Quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000 ngày càng phát triển
mạnh mẽ trong các doanh nghiệp và các tổ chức. Năm 1996, Việt Nam mới có
hai doanh nghiệp đạt chứng chỉ thì đến nay cả nước đã có hơn 700 doanh nghiệp
đạt tiêu chuẩn được cấp chứng chỉ ISO 9000. Để có được phát triển như vậy,
trước hết phải kể đến thái độ, nhận thức của doanh nghiệp trong việc hoàn thiện
hệ thống quản lý, bên cạnh đó cũng phải kể đến vai trò của của các tổ chức hoạt
động trong lĩnh vực năng suất trong việc giới thiệu quảng bá và hỗ trợ áp dụng
tiêu chuẩn này. Thế nhưng, hệ thống quản lý môi trường xem ra vẫn còn mới
mẻ, ít được các doanh nghiệp quan tâm đầu tư xây dựng, hiện nay cả nước mới
chỉ có 32 doanh nghiệp đạt chứng chỉ ISO 14000. Đây là con số rất khiêm tốn so
với hơn 700 chứng chỉ ISO 9000.
Trong hơn 700 doanh nghiệp đạt chứng chỉ ISO 9000, chỉ có khoảng 50
doanh nghiệp chế biến thực phẩm. Đối với các doanh nghiệp này, nếu chỉ áp
dụng đơn lẻ hệ thống ISO 9000 sẽ không phải là sự lựa chọn đúng đắn. Hệ thống
này chỉ để kiểm soát các quá trình tổ chức sản xuất đơn thuần, giúp loại bỏ
những bất hợp lý, nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả khi nó được áp dụng
hệ thống chuyên biệt về vệ sinh thực phẩm như HACCP. HACCP là hệ thống
58
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
kiểm soát các điểm trọng yếu trong dây chuyền sản xuất, chế biến và cung ứng
thực phẩm. Hệ thống này đang càng ngày càng được nhiều hãng sản xuất thực
phẩm các nước áp dụng vì nó được công nhận là rất hiệu quả. Việc áp dụng hệ
thống này sẽ giúp các doanh nghiệp kiểm soát có hiệu quả quá trình sản xuất, từ
nguyên liệu đầu vào đến thành phẩm xuất xưởng. Mặt khác, khi áp dụng hệ
thống HACCP, các doanh nghiệp sẽ có cơ sở để được miễn giảm sự kiểm tra của
cơ quan quản lý nhà nước, tạo phong cách công nghiệp và tăng hiệu quả quản lý
doanh nghiệp.
Tại Việt Nam, do sức ép của thị trường về an toàn thực phẩm, HACCP đã
được triển khai áp dụng kể từ 1995, chủ yếu ở ngành thuỷ sản để thay thế cho
cách kiểm soát chất lượng truyền thống dựa trên kết quả kiểm tra ngẫu nhiên
trên sản phẩm cuối cùng. Theo Bộ Thuỷ sản, đến 12/1999, Việt Nam đã có
89/238 cơ sở sản xuất thuỷ sản ở quy mô công nghiệp đã và đang tiến hành áp
dụng tiêu chuẩn HACCP. Cùng với việc khuyến khích áp dụng tiêu chuẩn
HACCP, Bộ Thuỷ sản có quy định bắt buộc áp dụng tiêu chuẩn này ở các doanh
nghiệp đăng kí xuất hàng sang EU và Mỹ. Quy định này dự kiến sẽ bắt buộc áp
dụng ở tất cả các cơ sở chế biến thuỷ sản (cả xuất khẩu lẫn tiêu thụ nội địa)
trong phạm vi cả nước kể từ ngày 1/1/2001. Việc áp dụng HACCP nâng cao
chất lượng hàng, giảm tỷ lệ sai hỏng của sản phẩm và nhờ đó, đáp ứng được yêu
cầu và quy định của những thị trường xuất khẩu lớn như EU.
Bên cạnh vấn đề nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, việc tìm hiểu
triển khai áp dụng Hệ thống Quản trị Xã Hội (SMS) theo tiêu chuẩn SA8000
cũng có vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp muốn
mở rộng thị trường xuất khẩu. Đó chính là lý do các ngành sản xuất tập trung
nhiều lao động như các ngành dệt may, sản xuất giày dép cần phải xây dựng cho
mình Hệ Thống Quản Trị Xã hội SA 8000. Tính đến thời điểm hiện nay, ở Việt
Nam đã có 5 doanh nghiệp được cấp chứng chỉ này, đó là Công ty Coats Phong
59
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Phú, Công ty dệt Thắng Lợi; Công ty May Phương Đông, Công ty Astro- sản
xuất túi và Key Hinge Toys-sản xuất đồ chơi. Và không phải ngẫu nhiên mà mới
đây, Tổng công ty dệt may đã ra yêu cầu các doanh nghiệp thành viên phải thực
hiện tiêu chuẩn SA 8000, bởi việc áp dụng SA 8000 đặc biệt quan trọng đối với
các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu nói chung và doanh nghiệp dệt may muốn
xuất sang thị trường EU nói riêng.
Cho đến nay, số lượng các doanh nghiệp đạt được các chứng chỉ quốc tế
của Việt Nam còn quá ít và so với các nước trong khu vực là đáng báo động. Vì
vậy, để tránh thất bại trong cạnh tranh hàng xuất khẩu cùng loại của các nước
trong khu vực trên thị trường EU thì các doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường
áp dụng ISO 9000, ISO 14000 và HACCP để nâng cao khả năng cạnh tranh của
mình trước các đối thủ, đồng thời lại thực hiện được các yêu cầu đối với chất
lượng sản phẩm một cách tiết kiệm nhất.
Tuy vậy, áp dụng ISO 9000 và ISO 14000 rất tốn kém cả về trong thực
hiện và để được công nhận đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải chi phí rất
lớn. Số liệu từ các doanh nghiệp đạt ISO 9000 cho thấy, chi phí để thực hiện quy
trình từ tư vấn đào tạo xây dựng hệ thống đến cấp giấy chứng nhận chất lượng
và kiểm tra lại sau chứng nhận giao động từ 10 000 đến vài chục nghìn USD tuỳ
theo quy mô, ngành nghề, trình độ, nhân lực trong doanh nghiệp và tuỳ từng tổ
chức tư vấn, chứng nhận nhưng hiệu quả lại rất lớn. Chỉ tính đơn giản, chỉ tiêu
về tỉ lệ hư hỏng trong quá trình sản xuất ở công ty liên doanh Sony Việt Nam đã
giảm từ 3% xuống còn 1% sau khi áp dụng ISO 9000 với doanh số hàng năm
500.000 tỷ USD, Sony đã tiết kiệm được trên 10 tỷ USD. Giám đốc kinh doanh
của Sony kết luận: “Một đồng bỏ ra đầu tư cho hệ thống ngăn ngừa sẽ tiết kiệm
được cả chục ngàn đồng cho việc sửa chữa hư hỏng”. Công ty Cổ phần xuất
nhập khẩu thuỷ sản An giang- Agifish dù phải đối đầu với những bất lợi cho vụ
kiện bán phá giá cá tra cá ba sa ở thị trường Mỹ nhưng hiện nay sản phẩm của
60
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
họ vẫn đứng vững trên thị trường EU. Chính hiệp hội cá tra cá ba sa đưa ra nhận
định: càng ra sức cản trở thì sản lượng nhập cá tra cá ba sa lại càng tăng. Lý do
các nhà nhập khẩu Mỹ cũng như EU thừa nhận là cá Việt Nam có phẩm chất
hàng đầu thế giới và chính họ cũng đang thu nhiều lợi nhuận từ món hàng này.
Lời giải của vấn đề này chính là ở chỗ Agifish An Giang đã bỏ ra 70% vốn, tư
vấn kỹ thuật đầu tư nghiên cứu tiêu chuẩn ISO, đồng thời giải quyết triệt để vấn
đề ổn định nguồn nguyên liệu. Từ nền tảng chất lượng của mình, Agifish An
Giang đã có tiềm lực thâm nhập sâu vào các thị trường trên toàn thế giới. Ngoài
các thị trường truyền thống EU, Nhật Bản, Hồng Kông… công ty đã mở một
văn phòng đại diện tại Thuỵ Sỹ để đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng Bắc
Âu. Ngoài ra thông qua Hiệp hội chế biến xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
(VASEP), công ty đã bắt đầu thâm nhập vào thị trường Trung Mỹ và nhận được
đơn đặt hàng đầu tiên từ phía Mexico.
Như vậy việc áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng sẽ giúp các doanh
nghiệp Việt Nam nâng cao được chất lượng sản phẩm. Đây là yếu tố quan trọng
hàng đầu và là chìa khoá để vào thị trường EU. Bên cạnh việc áp dụng ISO
9000, các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất và xuất
khẩu hàng nông sản thực phẩm chiếm lĩnh thị trường tuy vậy các doanh nghiệp
cũng cần phải lưu ý rằng EU luôn yêu cầu áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng
của Hệ thống phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn (HACCP) cho
hàng nông sản thực phẩm xuất khẩu vào thị trường EU. Theo quy định này,
hàng nông sản thực phẩm nhập khẩu vào EU phải có chứng chỉ của cơ quan
thẩm quyền của nước xuất khẩu lô hàng sản xuất trên cơ sở đã áp dụng HACCP.
Tiêu chuẩn này buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải chú trọng đặc biệt tới tất
cả các khâu trong dây chuyền sản phẩm. Nếu họ nắm bắt được nội dung HACCP
thì khả năng phát hiện sửa chữa và khắc phục thiếu sót sản phẩm rất linh hoạt,
chứ không phải đợi cho đến khi sản phẩm được đóng gói và đem đi xuất khẩu
thì mới nhận thấy sai sót. Thực hiện được điều này, các nhà sản xuất, người
61
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
cung ứng nguyên liệu cũng như các cơ quan chức năng Việt Nam sẽ luôn cập
nhật tri thức khoa học hiện đại, đủ năng lực cạnh tranh trên thị trường EU nói
riêng và quốc tế nói chung.
Theo quyết định 97/296/EEC, Uỷ ban Châu Âu EC thiết lập danh sách các
nước thứ ba được nhập khẩu thuỷ sản vào thị trường EU gồm hai phần:
- Phần 1: Các nước thứ ba được uỷ ban Châu Âu công nhận đảm bảo các
điều kiện tương đương với quy định của Uỷ Ban Châu Âu tại chỉ thị
91/493/EEC.
- Phần 2: Các nước thứ ba đáp ứng các điều kiện trong thời gian chuyển
tiếp quy định tại chỉ thị 95/408/EC.
Về nguyên tắc, các nước thuộc phần 1 của danh sách là các nước có điều
kiện đảm bảo an toàn chất lượng và vệ sinh trong sản xuất và tiêu thụ thuỷ sản
hoàn toàn tương đương với quy định của EU, danh sách các doanh nghiệp kèm
theo quyết định công nhận của Uỷ ban Châu Âu được phép xuất khẩu hàng thuỷ
sản vào các nước thành viên và chịu sự điều chỉnh của hệ thống luật của EU.
Các nước thuộc phần 2 muốn xuất khẩu vào các nước thành viên phải có thoả
thuận song phương với từng nước thành viên.
Ngày 16/11/1999, EU ra quyết định công nhận Việt Nam được vào danh
sách nhóm 1 các nước xuất khẩu thuỷ sản vào EU với 18 doanh nghiệp
(QĐ1999/813/EEC). Hàng hoá được lưu thông trên toàn lãnh thổ các nước EU,
lô hàng chỉ bị lấy mẫu kiểm chứng theo xác suất và việc đình chỉ nhập khẩu
không phải là đơn giản (do hội đồng thú y Liên Minh Châu Âu quyết định với
đa số phiếu áp đảo).
Mới đây, Liên minh Châu Âu còn đưa ra “Sách trắng về an toàn thực
phẩm cho người tiêu dùng EU”. Nội dung của sách trắng này đã thiết lập một
chính sách thực phẩm chặt chẽ trên toàn bộ khâu sản xuất, chế biến, xuất khẩu
và phòng ngừa mối nguy. Các doanh nghiệp Việt Nam lại đứng trước thách thức
62
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
lớn. Để đảm bảo chất lượng hàng hoá, để sản phẩm của Việt Nam đủ sức cạnh
tranh trên thị trường quốc tế, vấn đề tìm hiểu và vận dụng thành công tiêu chuẩn
ISO là vấn đề cốt lõi hàng đầu mà doanh nghiệp cần giải quyết.
2.2.2- Vấn đề nhãn hiệu của sản phẩm
Hiện nay Việt Nam đã tham gia vào một số cam kết đa phương về sở hữu
công nghiệp và sở hữu trí tuệ, nhất là với những thị trường lớn như Liên minh
Châu Âu. Hàng Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU nếu không lưu ý vấn đề
này có thể sẽ bị bắt và truy tố vì vi phạm sở hữu trí tuệ.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã không ngại tốn kém để đăng ký
thương hiệu kể cả ở các thị trường doanh nghiệp chưa bán sản phẩm cuả mình.
Trung Nguyên đăng ký ở Trung Quốc, Singapore, Pháp, Canada, mỗi nước tốn
từ 4000 đến 5000 USD, Vifon Việt Nam đăng ký trên 20 nước. Nệm mút
Kymdan thì đăng ký bảo hộ trên 30 nước trong khi thị trường xuất khẩu của
Kymdan mới dừng lại ở con số 10. Bưởi Năm Roi đã trở thành loại trái cây đầu
tiên của Việt Nam được đăng ký thương hiệu và có mặt trên trang Web ww.5
roi.com. Công ty may Phương đông (Fugamex) cũng quyết tâm thực hiện quyền
sở hữu nhãn hiệu hàng hoá để khẳng định thương hiệu của mình trên thị trường
quốc tế...
Nhiều công ty Việt Nam đã mất nhiều công sức thăm dò thị trường, tiếp thị
tổ chức đại lý tiêu thụ ... nhưng đến khi bán được hàng sang thị trường rất khó
tính là EU lại bị hớt tay trên vì không đăng ký nhãn hiệu sản phẩm của mình.
Nguyên nhân của việc này là do các doanh nghiệp Việt Nam khi xuẩt
khẩu hàng sang EU đã không chú ý đến việc đăng ký quyền sở hữu công nghiệp
về nhãn hiệu hàng hoá. Ví dụ như trường hợp của sản phẩm phồng tôm Sa
Giang. Trước đây các sản phẩm Sa Giang xuất khẩu sang Pháp rất ổn định. Sau
đó có một tổng đại lý đã đem nhãn hiệu Sa Giang đi đăng ký nhãn hiệu tại Pháp
63
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
và Liên minh Châu Âu. Kết cục là nếu sản phẩm Sa Giang muốn xuất khẩu vào
Pháp và Liên minh Châu Âu thì phải xin phép và trả tiền thuê nhãn hiệu cho
nhà buôn kia. Còn trường hợp của công ty Mỹ phẩm Sài Gòn, hàng đang bán
chạy tại Đức thì bị một nhà phân phối bên đó đăng ký luôn nhãn hiệu và ra giá
tiền chuộc 20.000 USD. Sau khi thương lượng, cuối cùng tiền chuộc thoả thuận
còn 5.000 USD. Nhiều nước trong liên minh Châu Âu cũng như Canada cũng
theo chế độ first to use, cấp đăng ký cho người nào sử dụng trước nhãn hiệu đó.
Vì thế, công ty Bia Hà nội muốn xuất khẩu sản phẩm của mình sang các thị
trường nói trên thì phải nộp tiền thuê nhãn hiệu và được người khác cho phép.
Còn trường hợp của công ty Mỹ phẩm Sài Gòn, hàng đang bán chạy tại Đức thì
bị một nhà phân phối bên đó đăng ký luôn nhãn hiệu và ra giá tiền chuộc 20.000
USD. Sau khi thương lượng, cuối cùng tiền chuộc thoả thuận còn 5.000 USD.
Đặc biệt ở Việt Nam người ta chỉ chú ý đến phần tài sản hữu hình như đất
đai, nhà cửa, nhà xưởng, thiết bị ... mà lại chưa chú ý đến phần tài sản vô hình
như uy tín, thương hiệu, các quyền sở hữu trí tuệ ... Thậm chí các công ty Việt
Nam chưa để ý tới các vấn đề này và cho đó là vấn đề không cần phải lưu ý.
Song thực tế, đây lại là những vấn đề cần phải lưu ý và giá trị của tài sản vô hình
kia là rất lớn. Trường hợp như Công ty P/S có trị giá nhãn hiệu là 5,3 triệu USD,
nhãn hiệu bia Sài Gòn của Công ty bia Sài Gòn được tính trị giá góp vốn vào
liên doanh ở Nghệ An là 9,5 triệu USD. Vì tài sản trí tuệ thường có giá trị cao,
thậm chí là rất cao nên các công ty nước ngoài đều ra sức bảo vệ và phát triển tài
sản đó. Có công ty góp vốn vào liên doanh ở hàng chục nước chỉ bằng nhãn
hiệu.
Nhìn lại, cho đến thời điểm này chỉ có một số công ty Việt Nam chú ý đến
việc nộp đơn xin đăng ký quyền sở hữu công nghiệp ở nước khác như
Seaprodex, Bia Sài Gòn, Mỳ Vifon, Mỹ phẩm Sài Gòn... Trong khi đó, nhiều
công ty nước ngoài chưa hề có hàng hoá sản xuất hay nhập bán ở Việt Nam
trong thời gian hiện tại cũng đăng ký nhãn hiệu của họ rồi. Đây là một biện pháp
64
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
bảo vệ thị trường hữu hiệu nhất. Nếu không, có thể sẽ rơi vào bi kịch của bia Hà
nội, bánh phồng tôm Sa Giang, mỳ ăn liền Vifon ...
2.2.3 Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hoá
Nhãn hiệu là một loại tài sản vô hình của doanh nghiệp. Tuy nhiên ở Việt
nam hiện nay tình trạng ăn cắp nhãn hiệu, nhái nhãn hiệu đang khá phổ biến làm
các doanh nghiệp Việt nam cũng như các doanh nghiệp nước ngoài đặc biệt là
các doanh nghiệp nằm trong khối EU không những " hao tiền, tốn của " mà còn
thiệt hại về uy tín.
Gần 20 sản phẩm nhái nhãn hiệu của Công ty liên doanh nước khoáng
Long An (La Vie) như : La Vier, La Vile, La Via, La Viet, La Viole, La Vime ...
là nạn nhân của tình trạng mạo hoá nhãn hiệu. Cục Sở hữu công nghiệp đã nhiều
lần nhắc nhở, Quản lý thị trường vài lần kiểm tra nhưng các biện pháp hãy còn
quá nhẹ nhàng nên không có tác dụng ngăn chặn các hoạt động vi phạm.
Điều ngạc nhiên là các cơ sở vi phạm quyền sở hữu công nghiệp của La
Vie lại có đủ giấy phép sản xuất, giấy đăng ký chất lượng sản phẩm do các cơ
quan chức năng của nhà nước cấp. Nguyên nhân cơ bản của vấn đề này là thiếu
sự phối hợp giữa các cơ quan cấp giấy phép sản xuất, cơ quan cấp giấy đăng ký
chất lượng sản phẩm và cơ quan bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Cơ quan cấp
phép sản xuất và cơ quan cấp giấy đăng ký chất lượng không có quy chế tra cứu
xem doanh nghiệp đó có vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với các doanh
nghiệp khác hay không. Điều này dễ gây ngộ nhận là Việt Nam hợp pháp hoá
các hoạt động vi phạm trên. Khi sự vi phạm xảy ra, Cục sở hữu công nghiệp lại
có quyền lực hết sức hạn chế là chỉ ra văn bản yêu cầu chấm dứt hành vi vi
phạm mà không có biện pháp cưỡng chế. Ngành quản lý thị trường có đủ quyền,
65
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
đủ lực lượng, có văn bản pháp lý quy định mức độ xử lý các hành vi vi phạm
nhưng lại không có kinh phí thực hiện. Thực ra việc đăng ký quyền sở hữu công
nghiệp không phải là bắt buộc như đăng ký sản xuất kinh doanh và đăng ký chất
lượng sản phẩm. Theo quy định hiện hành, thì có rất nhiều cơ quan quản lý về
quyền sở hữu công nghiệp, thậm chí có thể đưa ra toà án dân sự xét xử những
hành vi vi phạm quyền sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên ít doanh nghiệp muốn
dây dưa tranh tụng vì theo Luật Dân sự, nguyên đơn phải tự chứng minh sự vi
phạm của bị đơn, chứng minh mức độ thiệt hại của mình... Nói chung để được
pháp luật bảo vệ, doanh nghiệp bị vi phạm phải mất rất nhiều công mà không
nắm chắc được sự bảo vệ ấy đạt đến mức độ nào. Sự vi phạm quyền sở hữu công
nghiệp về nhãn hiệu hàng hoá, gây thiệt hại không những cho các nhà sản xuất
kinh doanh, cho người tiêu dùng mà còn ảnh hưởng rất xấu đến môi trường đầu
tư tại Việt nam.
Có thể rút ra một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm như sau :
Thứ nhất, ý thức chấp hành pháp luật của các cơ quan, đơn vị và người dân
còn hạn chế : một số thủ trưởng đơn vị, chủ doanh nghiệp còn thờ ơ đối với việc
bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nên sẵn sàng vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu hàng hoá của người khác.
Thứ hai, sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước ở Trung ương và địa
phương chưa chặt chẽ, chưa đồng bộ, có lúc "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược"
(Cục Sở hữu công nghiệp cấp giấy chứng nhận đăng ký độc quyền nhãn hiệu
hàng hoá Marlboro cho công ty Philip Moris - Mỹ) ; Bộ Thương mại cấp Quota
xuất khẩu 9 Containers thuốc lá giả Marlboro sản xuất tại Việt Nam sang Hà
Lan. Hay một trường hợp khác Cục sở hữu công nghiệp cấp giấy chứng nhận
đăng ký nhãn hiệu thuốc Panadol cho Công ty Winthrop Products INC (Mỹ)
song Bộ Y tế cấp giấy phép sản xuất Panadol cho bảy đơn vị sản xuất của Việt
Nam sản xuất thuốc Panadol mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu.
66
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Thứ ba, Việt nam chưa có luật chống cạnh tranh không lành mạnh nên
nhiều đơn vị cứ lợi dụng sơ hở của pháp luật mà sản xuất hàng giả tràn lan nhằm
thu lợi bất chính, không đếm xỉa đến quyền lợi người tiêu dùng cũng như thiệt
hại của chủ nhãn hiệu hàng hoá bị vi phạm .
Thứ tư, các phương tiện thông tin đại chúng, các cơ quan tuyên truyền còn
ít phê phán các hiện tượng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo hộ nhãn hiệu
hàng hoá hoặc đề cập còn chung chung.
Những nguyên nhân trên đây đều có thể được khắc phục nếu như các cơ
quan có thẩm quyền của Việt Nam nỗ lực thực hiện các biện pháp nhằm thực thi
tốt pháp luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá ở Việt nam.
So với hệ thống pháp luật về sở hữu công nghiệp của các nước trong liên
minh Châu Âu, hệ thống pháp luật về sở hữu công nghiệp của Việt Nam không
có những khác biệt cơ bản; nó phù hợp với những nguyên tắc chung của các
điều ước quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp mà Việt nam tham gia.
Điều 3 của Nghị định số 54/2000/NĐ - CP ngày 03/10/2000 về bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và
bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công
nghiệp có nêu rõ : " Việc bảo hộ bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương
mại, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh thuộc lĩnh vực sở hữu công
nghiệp phải tuân theo các quy định của Nghị định này và các văn bản pháp luật
có liên quan khác của Việt nam. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Việt
nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác với quy định của Nghị định này thì
áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó”. Các quy định trên đã tạo điều kiện
cho Việt nam dễ dàng hoà nhập với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực
trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đồng thời tạo ra môi trường
thuận lợi, quen thuộc với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư nước ngoài muốn
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp tại Việt nam.
67
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Theo ông Phạm Đình Chướng, Cục trưởng cục Sở hữu công nghiệp, ở Việt
Nam tốc độ tăng trưởng số đơn sáng chế nộp đề nghị cấp văn bằng bảo hộ ngày
càng gia tăng. Năm 1993 chỉ có khoảng hơn 200 đơn nộp vào Cục Sở hữu công
nghiệp thì đến năm 2000 là gần 1300 đơn. Số đơn sáng chế tăng phản ánh sự
phát triển về công nghệ và sự tin tưởng của các nhà đầu tư vào pháp luật sở hữu
công nghiệp ở Việt Nam. So với hai tiêu chuẩn của WIPO về hệ thống bảo hộ sở
hữu công nghiệp của một quốc gia là đầy đủ và hiệu quả, hiện nay, đối với tiêu
chí đầy đủ (có đủ các văn bằng pháp luật để điều chỉnh tất cả các lĩnh vực, các
đối tượng của Sở hữu công nghiệp...) thì Việt Nam chỉ còn thiếu 2 đối tượng cần
được bảo hộ là giống, cây trồng, vật nuôi và mạch tích hợp. Về tiêu chí hiệu quả,
với các sửa đổi và văn bản ban hành mới, cho đến nay, nhất là 3 năm qua, việc
thực hiện pháp luật về bảo hộ sở hữu công nghiệp ở Việt nam đã được cải thiện
khá nhiều.
Theo thống kê của Cục sở hữu công nghiệp ( 9/2000 ) đã cho các thông số
sau:
Số liệu về văn bằng bảo hộ cho các đối tượng sở hữu công nghiệp đã cấp
từ 1981 - 2000 (cho cả 5 đối tượng được bảo hộ sở hữu công nghiệp )
1 - Bằng độc quyền sáng chế 1.734 văn bằng
2 - Bằng độc quyền giải pháp hữu ích 246 văn bằng
3 - Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp 5.317 văn bằng
4 - Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá 35.871 văn bằng
5 - Giấy chứng nhận tên gọi xuất xứ hàng hoá 0 văn bằng
Thực tế cho thấy những năm gần đây, Nhà nước đã quan tâm sâu về vấn đề
bảo hộ sở hữu công nghiệp cho các mặt hàng xuất khẩu. Đây là một tín hiệu tốt
cho các nhà xuất khẩu trong nước khi quyền lợi của họ được bảo đảm. Vấn đề
68
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
này tạo tiền đề đẩy mạnh xuất khẩu sang EU, nâng cao kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam.
2.4 NHỮNG NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ THỰC TIỄN VẬN DỤNG NHỮNG QUY
ĐỊNH PHÁP LÝ VỀ CHẤT LƯỢNG VÀ NHÃN HIỆU SẢN PHẨM CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM KHI XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ SANG THỊ TRƯỜNG EU
Trong quá trình vận dụng những quy định pháp lý, mặc dù các doanh
nghiệp trong nước đa phần đã cố gắng thực hiện tốt nhưng vẫn tồn tại nhiều lỗ
hổng xuất phát từ sự hạn chế về trình độ của các doanh nghiệp xuất khẩu cũng
như cơ chế quản lý.
Trên thực tế các mặt hàng xuất khẩu của Việt nam chất lượng chưa đồng
đều, chưa kể đến một số hành động gian lận, thiếu nghiêm túc trong kinh doanh.
Rất nhiều trường hợp sau khi ký hợp đồng buôn bán với bạn hàng EU đã không
đảm bảo đúng quy cách kỹ thuật, chất lượng, số lượng, chủng loại ... Các doanh
nghiệp của Việt nam thường nhỏ bé, máy móc chưa hiện đại do vậy ảnh hưởng
rất lớn đến các sản phẩm như bảo quản nguyên liệu không đúng cách, nguyên
liệu không đồng nhất vì nhiều lý do như qua nhiều trung gian, phương tiện thu
gom bảo quản chưa đáp ứng yêu cầu ...
Tất cả các hành động trên đều gây ảnh hưởng xấu cho các doanh nghiệp
xuất khẩu Việt nam và làm giảm uy tín Việt Nam trên thị trường EU.
Bên cạnh đó, tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ ở Việt nam còn rất
phổ biến. Nguyên nhân có rất nhiều, song nguyên nhân cơ bản: thứ nhất, Việt
Nam còn chưa có tập quán về bảo hộ sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp, hệ
thống bảo hộ sở hữu trí tuệ của Việt nam chưa có truyền thống. Thứ hai là hệ
thống luật pháp của ta thiếu những biện pháp chế tài, bây giờ đã và đang bổ
sung. Thứ ba là hệ thống quản lý nhà nước, cơ quan xử lý hành chính về vi
phạm sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp như cơ quan hải quan, quản lý thị
trường, thậm chí trước đây chưa biết đến sở hữu trí tuệ bao giờ. Thứ tư là vấn đề
69
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp liên quan đến tài sản nên việc vi phạm vẫn
xuất hiện và tồn tại lâu dài. Theo các chuyên gia, một trong những nguyên nhân
chủ yếu khiến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chưa tương xứng với tiềm
năng sản xuất của nước ta, hàng hoá xuất khẩu với giá thấp, chịu nhiều thiệt
thòi, rủi ro là việc chúng ta chưa tạo được thương hiệu riêng. Ông Nguyễn Bảo,
phó Cục trưởng Cục xúc tiến thương mại thuộc bộ thương mại cho biết, có nhiều
hàng hoá của Việt Nam như may mặc, giầy dép, nông sản xuất khẩu ra thị
trường thế giới mà chưa có thương hiệu của riêng mình. Từ lâu, thương hiệu đã
giữ vị trí vô cùng quan trọng trong quyết định lựa chọn của người tiêu dùng, đặc
biệt là ở thị trường nước ngoài. Trong khi đó, hàng Việt Nam chưa có những
thương hiệu lớn, đứng độc lập được trong các cửa hàng trung, cao cấp và do đó
vào siêu thị hay cửa hàng bán sỉ phải mang nhãn hiệu của nhà cung cấp. Nhiều
mặt hàng của Việt Nam dù chất lượng tốt nhưng do chưa xây dựng được thương
hiệu riêng, chưa có được danh tiếng để chiếm được lòng tin của người tiêu dùng
nên hầu hết người tiêu dùng trên thế giới không hề biết đến hàng Việt Nam dù
họ đã và đang sử dụng.
Việc triệt tiêu các xâm phạm sở hữu trí tuệ là không thể vì bản chất của
cạnh tranh là người tham gia cạnh tranh sẽ sử dụng bất kỳ phương tiện nào để
cạnh tranh. Việc xâm phạm sở hữu trí tuệ là hiển nhiên, là một phần bản chất
của kinh tế thị trường. Vấn đề của Nhà nước là phải có những biện pháp để xử
lý, ngăn chặn những tình trạng đó. Thực tiễn Việt Nam mới xây dựng hệ thống
bảo hộ sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp được khoảng 10 năm trong khi trên
thế giới họ đã có lịch sử trên 100 năm, riêng sáng chế thì từ mấy trăm năm nay.
Theo tiêu chuẩn của WTO trong sở hữu trí tuệ thì hệ thống sở hữu trí tuệ phải
đáp ứng 2 tiêu chuẩn lớn, một là tiêu chuẩn đầy đủ. Tức là cơ cấu của sở hữu trí
tuệ nó gồm có những cái gì thì phải có cái đấy, trong cơ cấu thì đối tượng nào
chưa có phải quy định cho đầy đủ; thứ hai là tiêu chuẩn về tính hiệu quả tức thì
là hiệu quả của hệ thống pháp luật, hiệu lực của các cơ quan thi hành pháp luật,
70
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
tri thức của toàn xã hội, tất cả phải nâng lên. Về tiêu chuẩn thứ nhất, hiện nay ta
tiếp cận tương đối đầy đủ, còn tiêu chuẩn thứ hai ta còn cách tương đối xa. Do
đó biện pháp trong thời gian tới là phải tăng cường khả năng của các cơ quan
hành chính trong việc thực thi pháp luật về bảo hộ sở hữu công nghiệp, sở hữu
trí tuệ. Thứ hai là còn thiếu những quy định gì về mặt thực thi đặc biệt là các
trình tự xử lý trước toà thì phải bổ sung, nâng cao năng lực của các cơ quan này
lên.
*Đối với việc gắn mã số, mã vạch, phía EU quy định sản phẩm bắt buộc
phải có. Đây là một trong những điều kiện ràng buộc hợp đồng xuất khẩu sang
EU. Việc sử dụng mã số này tạo điều kiện thuận lợi cho công việc của tất cả các
bên tham gia vào chu trình thương mại từ vận chuyển đến lưu kho hay mua
bán... người ta có thể dùng máy đọc mã số là truy xuất được nguồn gốc hàng
hoá ngay chứ không cần chứng từ, sổ sách phức tạp. Trên thị trường hiện nay,
mã vạch ở Việt Nam phát triển tự phát và không quy củ. Trước đây các nhà sản
xuất Việt Nam hoàn toàn xa lạ với mã vạch. Khi sản xuất có in mã vạch lên
hàng hoá chăng nữa cũng chỉ là làm theo những hợp đồng gia công nước ngoài.
Gần đây nhiều nhà sản xuất đã bắt đầu chú ý và vận dụng các con số và mã vạch
này, nhất là những nơi đòi hỏi việc quản lý chặt chẽ như các cửa hàng, siêu thị.
Thế nhưng, các mã này thường do họ tự sáng tạo ra cho riêng mình. Điều này
dẫn đến việc phí phạm rất lớn vì có những mặt hàng khi mua về tuy có sẵn mã
số nhưng nơi này vẫn phải làm thêm công đoạn gắn thêm một mã khác cho phù
hợp với cửa hàng của mình.
Tình trạng làm mã tự phát dẫn đến một thị trường hàng hoá với mã vạch
lộn xộn, khó thống nhất phương thức quản lý, nhận dạng về sau này. Chắc chắn
sẽ là một cản trở cho sự phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng hoá. Nhiều doanh
nghiệp Việt nam đã được cấp mã số rồi cũng chưa biết khai thác hết ưu điểm của
loại mã này, họ chỉ muốn gắn mã vạch để sản phẩm của mình giống hàng ngoại.
71
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Rõ ràng nhìn lại thực tế, việc áp dụng và thực hiện các quy định pháp lý
còn nhiều trở ngại. Nhưng giải quyết được vấn đề này, cơ hội xuất khẩu sang thị
trường EU của các doanh nghiệp Việt Nam là nhiều tiềm năng. Những cơ hội và
thách thức vẫn còn để ngỏ ở phía trước.
Chất lượng là tiêu chí được đặt lên hàng đầu đối với hàng hoá trong nước
xuất khẩu ra thị trường EU. Cơ hội trên thực tế là rất nhiều nhưng áp lực cạnh
tranh rất lớn. Để nâng cao cạnh tranh trong điều kiện mới, yếu tố quan trọng
sống còn là chất lượng và an toàn vệ sinh.
Trong 6 tháng cuối năm 2002, số lô hàng thuỷ sản Việt Nam bị EU phát
hiện nhiễm kháng sinh đã giảm đáng kể (15 lô so với 33 lô trong 6 tháng đầu
năm, 23 lô trong 5 tháng cuối năm 2001). Nhờ đó EU đã quyết định bãi bỏ lệnh
kiểm tra dư lượng kháng sinh đối với 100% số lô hàng thuỷ sản của Việt Nam.
Tuy nhiên “Lệnh này vẫn được treo lơ lửng và có thể được áp dụng bất cứ lúc
nào” (Thứ trưởng Bộ thuỷ sản Nguyễn Hồng Minh). Mặc dù được đầu tư khá
nhiều, năng lực kiểm tra chất lượng và an toàn thuỷ sản của Việt Nam vẫn còn
bị hạn chế. Cả nước mới chỉ có 7 nhà máy kiểm nghiệm lớn, nhiều địa phương
thiếu cán bộ và phương tiện kiểm tra. Nhiều doanh nghiệp thực hiện kiểm định
tiêu chuẩn xuất khẩu theo kiểu đối phó. Công tác quản lý và các cơ sở chế biến
thức ăn và kinh doanh thuốc thú y vẫn còn lỏng lẻo.
Thực tế cho thấy nếu so sánh kim ngạch xuất khẩu gạo giữa Việt Nam và
Thái Lan thì tỷ trọng khối lượng xuất khẩu của ta còn thấp. Nguyên nhân sâu xa
ở đây chính là do chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Sản phẩm của ta số lượng hạt
gẫy nhiều, tỷ lệ vụn cao do người nông dân chưa chú trọng sâu đến khâu chế
biến. Mà phía nhà nhập khẩu EU rất coi trọng thị hiếu hình thức, chất lượng sản
phẩm. Chỉ những sản phẩm đảm bảo tiêu chuẩn của họ thì mới được xâm nhập
vào thị trường và mua với mức giá tương xứng.
72
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Tại một cuộc hội thảo do Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương
thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu Tư tổ chức tại Hà Nội mới đây, một báo cáo đã cho
rằng, nếu phải so sánh với doanh nghiệp nước ngoài, Việt Nam chỉ có thể duy
nhất cạnh tranh được trong các lãnh vực nông sản, may mặc (quần áo và giày
dép) và xe máy. Nhưng các lãnh vực này có giá trị thấp khi so sánh với các lãnh
vực mang lại giá trị cao như: điện tử và các linh kiện điện tử. Đây là hai thành tố
xuất khẩu sang EU mang lại giá trị lớn cho các nước và vùng lãnh thổ như: Đài
Loan, Singapore, Malaysia.
Năm 2003 được Nhà nước coi là năm chất lượng các ngành xuất khẩu. Để
thực hiện thành công tiêu chí này, Nhà nước đã tập trung vào việc đảm bảo an
toàn vệ sinh, cấp chứng nhận, gắn nhãn mác xuất xứ hàng hóa, nhằm gắn lợi ích
kinh tế và quản lý trong hoạt động xuất khẩu. Với sự gia tăng yếu tố toàn cầu
hoá trong các nền kinh tế khu vực, Việt Nam với tư cách là thành viên của các tổ
chức ASEAN và APEC và chẳng bao lâu nữa là WTO, sẽ phải đối mặt với rất
nhiều thách thức đến từ các quốc gia có khả năng cạnh tranh trong việc cung
ứng chất lượng hàng hoá và dịch vụ. Để trụ vững trong môi trường đó thì “Chất
lượng là sống còn ”. Đảm bảo được yếu tố này thì cơ hội mở ra sẽ rất lớn với
các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
Hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang EU không đơn giản vì phải đáp
ứng nhu cầu "Nhập gia tuỳ tục" trong khi luật pháp của EU hết sức chặt chẽ và
nghiêm ngặt, đòi hỏi Việt nam phải thay đổi hoàn toàn hệ thống quản lý chất
lượng cho phù hợp với phương thức quản lý chất lượng của EU.
Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh chất lượng hàng hoá song pháp lệnh này
còn hết sức chung chung, chưa cụ thể, rất khó hiểu với nhiều nhà sản xuất. Các
nhà sản xuất nếu áp dụng tiêu chuẩn Việt Nam thì lại không đáp ứng được tiêu
chuẩn của EU. Điều này gây khó khăn cho việc xuất khẩu hàng hoá sang EU.
Các nhà sản xuất còn rất khó khăn trong việc xác định chất lượng hàng hoá xuất
khẩu. EU cũng không chấp nhận các tiêu chuẩn chất lượng của Việt Nam. Vì
73
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
vậy việc áp dụng ISO 9000 và ISO 14000 chính là phù hợp với tập quán và thị
hiếu tiêu dùng trong EU.
Tóm lại, EU là thị trường khắt khe nhưng không phải chúng ta không thể
không vượt qua các rào cản đó. Việc vận hành tốt các quy định pháp lý, tạo tiền
đề đẩy mạnh xuất khẩu sang Eu phụ thuộc vào sự nỗ lực của mỗi doanh nghiệp
kết hợp với sự phối hợp đồng bộ, có hiệu quả từ phía Nhà nước và các cơ quan
quản lý. Căn cứ trên cơ sở đó, một số giải pháp được trình bày ở chương kế tiếp
sẽ nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường
EU.
74
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC ÁP DỤNG CÁC
QUY ĐỊNH PHÁP LÝ CỦA EU VỀ CHẤT LƯỢNG VÀ NHÃN HIỆU
SẢN PHẨM CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM NHẰM THÚC
ĐẨY XUẤT KHẨU SANG THỊ TRƯỜNG NÀY
3.1 ĐỊNH HƯỚNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM VÀO THỊ
TRƯỜNG EU GIAI ĐOẠN 2002-2010
Trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế, trong thời gian tới công tác xuất
nhập khẩu đóng một vai trò rất quan trọng. Chính vì vậy, Chính Phủ đã phê
duyệt “Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kì 2002-2010”. Đây là điều
kiện thuận lợi để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sang thị trường EU.
Mục tiêu của chiến lược: nhằm nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu góp phần đẩy mạnh công nghịêp hoá, hiện đại hoá, tạo công ăn việc làm,
thu ngoại tệ, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu tăng theo hướng nâng cao giá trị gia
tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lượng
công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ; về nhập khẩu chú trọng
thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, nhất là công nghệ tiên tiến, đảm
bảo cán cân thương mại ở mức hợp lý, tiến tới cân bằng kim ngạch xuất nhập
khẩu; mở rộng và đa dạng hoá thị trường và phương thức kinh doanh; hội nhập
thắng lợi vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
- Tốc độ tăng xuất khẩu bình quân trong thời kì 2002-2010 là 15%/năm,
trong đó thời kì 2002-2005 tăng 16%/năm, thời kì 2006-2010 tăng 14 %/năm.
Giá trị xuất khẩu tăng từ khoảng 13,5 tỷ USD năm 2000 lên 28,4 tỷ USD vào
năm 2005 và 54,6 tỷ USD vào năm 2010, gấp hơn 4 lần năm 2000.
- Cơ cấu hàng xuất khẩu trong 10 năm tới cần được dịch chuyển theo
hướng chủ yếu sau: (1) Trước mắt cần huy động mọi nguồn lực hiện có để có
thể đẩy mạnh xuất khẩu, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ;(2) Đồng thời cần
75
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
chủ động gia tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo với giá trị gia tăng
càng cao, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và trí thức cao, giảm
dần tỉ trọng hàng thô; (3) Mặt hàng, chất lượng và mẫu mã cần đáp ứng nhu cầu
của thị trường.
Hàng nguyên nhiên liệu: gồm dầu thô, than đá, apatit, alumim, quặng sắt…
Tới năm 2005, nhóm hàng này có khả năng chỉ còn đóng góp được khoảng 9%
kim ngạch xuất khẩu (2,5tỷ USD) so với trên 20% hiện nay. Đến năm 2010, tỷ
trọng của nhóm này sẽ giảm xuống còn chưa đầy 1% (dưới 500 triệu USD )
hoặc 3,5% (khoảng 1,75 tỷ USD), tuỳ theo phương án khai thác dầu thô.
Hàng nông lâm thuỷ sản: Hiện nay nhóm này đang chiếm gần 25% kim
ngạch xuất khẩu với những mặt hàng chủ yếu là gạo, cà phê, cao su, chè, rau
quả, thuỷ sản, hạt tiêu và nhân điều (trừ mặt hàng chè, tất cả các mặt hàng khác
đều đạt kim ngạch trên 100 triệu USD/năm). Do sản xuất nông nghiệp phải chịu
những hạn chế mang tính cơ cấu (như diện tích có hạn, khả năng khai thác hoặc
đánh bắt có hạn v.v…) và thời tiết cho nên có thể tốc độ tăng trưởng của nhóm
này sẽ chỉ ở mức 4%/năm trong thời kì 2002-2010. Bên cạnh đó, nhu cầu của
thị trường thế giới cũng có hạn, giá cả lại không ổn định. Vì vậy, dù kim ngạch
tuyệt đối vẫn tăng nhưng tỷ trọng của nhóm sẽ giảm dần xuống còn 22% (tương
đương 8-8,6 tỷ USD) vào năm 2010. Tăng tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu qua chế
biến, gia tăng chất lượng và giá trị gia tăng.
Sản phẩm chế biến và chế tạo: Hiện nay kim ngạch của nhóm này đã đạt
trên 4 tỷ USD, tức là trên 30 % kim ngạch xuất khẩu. Mục tiêu phấn đấu vào
năm 2010 là 20-21 tỷ USD, tăng hơn 5 lần so với hiện nay và chiếm khoảng
40% kim ngạch xuất khẩu. Hạt nhân của nhóm, cho tới năm 2010, vẫn sẽ là dệt
may và giày dép. Bên cạnh hai mặt hàng này, trong 10 năm tới đây cần chú ý
phát triển những ngành kết hợp giữa lao động giản đơn với công nghệ trung bình
mà cụ thể là thủ công mỹ nghệ, thực phẩm chế biến, sản phẩm gỗ, hoá phẩm tiêu
76
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
dùng, sản phẩm nhựa và sản phẩm cơ khí-điện, phấn đấu đưa kim ngạch của
nhóm hàng mới này lên 4,5-5 tỷ USD hoặc hơn vào năm 2010.
Sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao: hạt nhân là hàng điện
tử và tin học. Với xu thế phân công lao động theo chiều sâu trên thế giới hiện
nay, ta hoàn toàn có khả năng phát triển hơn nữa những mặt hàng này, trước mắt
là gia công rồi tiến đến nội hoá dần. Vấn đề cốt lõi là cơ chế chính sách khuyến
khích, phát triển nguồn nhân lực. Mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đặt ra cho
ngành là 2,5 tỷ USD năm 2005 và 6-7 tỷ USD năm 2010. Về thị trường thì nhằm
vào các nước công nghiệp phát triển (phần mềm) và cả các nước đang phát triển.
Cơ cấu thị trường xuất khẩu: tiếp tục củng cố và tăng cường chỗ đứng tại
các thị trường đã có, tới năm 2010 tỷ trọng các thị trường xuất khẩu được dự
kiến như sau: Châu Á ( 46-50%), trong đó Nhật Bản (17-18%), ASEAN (15-
16%)…; Châu Âu (27-30%), trong đó EU (25-27%), SNG và Đông Âu (3-5%);
Bắc Mỹ ( chủ yếu là Mỹ) là 15-20%; úc và New Zealand là 5-7% và các khu
vực khác (2-3%).
Là thị trường rộng lớn, có nhu cầu rất phong phú và đa dạng về hàng hoá,
EU là một trong những thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam hiện nay.
Trong khi thị trường Châu Á tạm thời bị thu hẹp, thị trường Mỹ mới bắt đầu hé
mở, thị trường SNG và Đông Âu vẫn chưa khôi phục lại được thì rõ ràng EU là
sự lựa chọn lý tưởng để chúng ta thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
“hướng về xuất khẩu” và thực hiện “chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu”.
77
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
3.2 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC ÁP DỤNG
CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ VỀ NHÃN HIỆU VÀ CHẤT LƯỢNG SẢN
PHẨM ĐỂ THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU SANG EU
3.2.1 Các giải pháp ở tầm vi mô
3.2.1.1 Tăng cường tìm hiểu và nhận thức về thị trường EU
EU là thị trường tiêu dùng khắt khe trên thế giới và có rào cản kỹ thuật mà
hàng xuất khẩu của các nước đang phát triển rất khó vượt qua. Các doanh
nghiệp Việt Nam cần tìm hiểu kỹ về thị trường EU vì tuy là một thị trường
thống nhất về kỹ thuật song thị trường này thực tế một nhóm các thị trường quốc
gia và khu vực, mỗi nước có bản sắc riêng, đặc điểm riêng mà các nhà xuất khẩu
tại các nước phát triển thường hay để ý đến. Mỗi nước trong EU lại có các yêu
cầu riêng về bao bì, mẫu mã sản phẩm… Cộng đồng Châu Âu không phải là
một mẫu hình thống nhất cho nên quyết định mua hàng chịu ảnh hưởng của các
mô hình văn hoá của từng quốc gia riêng trong EU. Các doanh nghiệp muốn
thành công trong xâm nhập thị trường EU cần phải sẵn sàng thích nghi.
Các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu thị trường, điều tra xã hội học về
nhu cầu thị hiếu tiêu dùng, về chất lượng, giá cả của hàng hoá Việt Nam và các
nước khác trên thị trường EU để đạt hiệu quả cao trong việc xuất khẩu hàng hoá
sang EU. Các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu, ứng dụng các nghiệp vụ
Marketing để phát hiện các mặt hàng mới có khả năng tiêu thụ ở thị trường EU.
Thị trường EU có đặc tính cạnh tranh mạnh mẽ, bắt buộc các công ty phải
tạo lợi thế cạnh tranh hơn các đối thủ khác. Có nghĩa là chất lượng sản phẩm
phải liên tục cải thiện, mẫu mã kiểu dáng phải được đổi mới nhanh hơn trước.
Chu trình sống của một sản phẩm sẽ ngắn hơn và phương thức dịch vụ tốt hơn.
Tuy nhiên phải tuân thủ các yêu cầu và quy định về chất lượng và nhãn hiệu sản
phẩm của EU.
78
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Tiêu chuẩn vệ sinh và y tế cũng như môi trường đã thúc đẩy tạo ra các tiêu
chuẩn quốc tế, kỹ mã hiệu, nhãn mác chứng chỉ. Các nhà xuất khẩu thuộc các
nước đang phát triển như Việt Nam chúng ta phải tuân theo các quy định và yêu
cầu của thị trường. Trong lĩnh vực an toàn sản phẩm, ký mã hiệu EU trở nên
quan trọng số 1 trong việc lưu thông hàng chế tạo trên thị trường EU. Ví dụ kí
mã hiệu CE bắt buộc đối với đồ chơi, thiết bị điện áp thấp, các sản phẩm an toàn
cho con người, thiết bị y tế và nguyên vật liệu xây dựng. Trong lĩnh vực an toàn
thực phẩm, các công ty chế biến thực phẩm phải tuân thủ các tiêu chuẩn vệ sinh
chặt chẽ. Về phương diện này, việc áp dụng hệ thống HACCP trở nên rất quan
trọng. Nhìn chung thị trường này đòi hỏi các tiêu chuẩn nhãn mác và chứng chỉ
được quốc tế công nhận. Ví dụ tiêu chuẩn GAP (Good Agriculture Practice) và
các nhãn hiệu sinh thái (Ecolabels) đang ngày càng được phổ biến, chứng tỏ sự
quan tâm khác nhau về môi trường. Ngoài ra, các công ty ngày càng được yêu
cầu phải tuân thủ hệ thống quản lý môi trường (các tiêu chuẩn ISO 14000) và
các bộ luật mang tính xã hội về đạo đức tiêu chuẩn The Social Accountability
8000 sẽ ngày càng được trở nên quan trọng trong những năm tới.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tự tin, vận động tìm hiểu kỹ môi
trường pháp lý về xuất nhập khẩu vào thị trường EU. Các doanh nghiệp cần phải
có sản phẩm tốt, không có phế phẩm, coi trọng kiểm tra chất lượng sản phẩm.
Đồng thời cần đảm bảo thời gian giao hàng, lựa chọn hãng vận chuyển.
3.2.1.2 Nâng cao chất lượng sản phẩm
Chất lượng hàng hoá có ý nghĩa quyết định sức cạnh tranh của hàng hoá và
của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường EU. Để đảm bảo hàng hoá có
chất lượng cao đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng, các doanh nghiệp
Việt Nam phải có các biện pháp sau đây:
79
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
- Đầu tư thiết bị máy móc, công nghệ tiên tiến, hiện đại đồng bộ, áp dụng
công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất hạ
giá thành sản phẩm.
- Đào tạo một đội ngũ công nhân có tay nghề kỹ thuật cao, đủ trình độ tiếp
thu công nghệ mới để sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao.
- Đảm bảo nguồn cung cấp nguyên liệu cho sản xuất ổn định, chất lượng tốt
nhằm đáp ứng yêu cầu về sản phẩm và chủ động sản xuất, đảm bảo thời
gian giao hàng. Đây là một trong những nhân tố nâng cao sức cạnh tranh
cho sản phẩm.
- Chú ý chặt chẽ khâu kiểm tra chất lượng, không chỉ ở khâu cuối mà ngay
từ khâu đầu tiên.
- Kiểm tra nghiêm ngặt thành phẩm trước khi đóng gói và xuất khẩu trên cơ
sở các tài liệu kỹ thuật và mẫu hàng.
- Xây dựng các phòng thí nghiệm, trung tâm kiểm nghiệm, phòng thanh tra
chất lượng với trang thiết bị phương tịên kiểm tra chất lượng đồng bộ và
hoàn chỉnh, có khả năng kiểm tra nhanh chóng, chính xác và phù hợp với
tiêu chuẩn quốc tế.
- Liên tục đổi mới mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm phù hợp với thị hiếu khách
hàng .
- Đối với mặt hàng giày dép và dệt may, chúng ta chủ yếu làm gia công xuất
khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam cần phấn đấu sản xuất nguyên phụ liệu
nội địa đảm bảo yêu cầu chất lượng. Nâng cao tỷ lệ sử dụng nguyên phụ
liệu trong nước, tăng tỷ lệ nội địa trong nước trong cơ cấu giá trị sản phẩm
để hạ giá thành sản phẩm.
- Đối với mặt hàng thuỷ hải sản, cần tăng cường đầu tư quản lý tốt việc đánh
bắt hải sản xa bờ và nuôi trồng thuỷ sản để đảm bảo nguồn nguyên liệu
80
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
cho chế biến xuất khẩu. Nhờ đó doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu
của Việt Nam sang thị trường EU mới có thể chế biến được những mặt
hàng thuỷ hải sản có chất lượng cao và đảm bảo thời gian giao hàng.
Các doanh nghiệp Việt Nam phải tăng cường đầu tư và hoàn thiện quản lý
vì đây là hai yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất, có tính quyết định đối với
việc cho ra đời một sản phẩm như thế nào. Nếu một doanh nghiệp đã chú trọng
vào việc đầu tư vốn và công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất, lại áp dụng
một chế độ quản lý thích hợp sẽ tạo ra sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao
đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng và vượt được rào cản kỹ thuật của
bất kì thị trường nào dù là khó tính nhất. Tại thời điểm này, các doanh nghiệp
sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam hướng vào thị trường EU thì không còn
cách nào khác là phải tăng cường áp dụng các hệ thống quản lý: ISO 9000, ISO
14000 và HACCP.
Đối với các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và
các ngành có liên quan đến thực phẩm muốn đẩy mạnh xuất khẩu sang EU thì
biện pháp duy nhất là áp dụng tiêu chuẩn HACCP vì nó là yêu cầu bắt buộc đối
với các xí nghiệp chế biến thực phẩm của các nước đang phát triển mà sản phẩm
xuất khẩu vào thị trường này. Với việc áp dụng HACCP, các doanh nghiệp chế
biến thực phẩm (thuỷ sản, thịt gia súc, gia cầm v.v…) có thể cung cấp sản phẩm
có chất lượng cao và đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi khắt khe của thị trường này
về chất lượng và vệ sinh thực phẩm.
Đối với các doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp mà có quá trình sản
xuất gây ô nhiễm môi trường (ngành công nghiệp chế biến gỗ, ngành công
nghiệp sản xuất ô tô…) muốn giữ vững và mở rộng thị phần thì không còn cách
nào khác là phải áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 14000 vì đây là yêu cầu gần như bắt
buộc của EU đối với các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng này.
81
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Đối với các doanh nghịêp thuộc các ngành công nghiệp khác (không thuộc
các ngành công nghiệp nêu trên) muốn đứng vững và phát triển trên thị trường
EU thì biện pháp duy nhất là áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 9000 vì chất lượng của
sản phẩm không chỉ đơn thuần là các yêu cầu về mặt tính chất lý hoá mà còn
đảm bảo cả yêu cầu thẩm mỹ, độ tiện dụng và an toàn. Với khách hàng EU có 4
nguyên tắc cơ bản thâm nhập thị trường thành công (nắm bắt được thị hiếu của
người tiêu dùng, hạ giá thành sản phẩm, đảm bảo thời gian giao hàng và duy trì
chất lượng sản phẩm) cũng chính là nội dung căn bản có liên quan đến hệ thống
quản lý chất lượng ISO 9000. Do đó, việc áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 9000, các
doanh nghiệp Việt Nam sẽ nâng cao được chất lượng hàng hoá, đáp ứng tốt hơn
thị hiếu của người tiêu dùng trong Liên minh và hàng hoá có thể thâm nhập thị
trường EU một cách dễ dàng hơn.
Như vậy có thể nói rằng ISO 9000, ISO 14000 và HACCP chính là chìa
khoá để các doanh nghiệp Việt Nam mở cánh cửa vào thị trường EU. Bộ tiêu
chuẩn ISO 9000, ISO 14000 và HACCP giúp các nhà sản xuất của Việt Nam
cho ra đời các sản phẩm đáp ứng yêu cầu về đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn
thực phẩm, an toàn cho người sử dụng và bảo vệ môi trường. Các sản phẩm có
chất lượng cao, bảo đảm vệ sinh thực phẩm và an toàn cho người sử dụng nhưng
quá trình sản xuất không đảm bảo các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường thì cũng
không được nhập khẩu vào thị trường EU theo quy định của Uỷ Ban Châu Âu
(EC) và người tiêu dùng EU cũng tẩy chay những mặt hàng này.
3.2.1.3 Phát triển nguồn nhân lực
Con người là yếu tố quan trọng cho quá trình sản xuất. Để tạo ra sản phẩm
có chất lượng cao và đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, ngoài việc
trang bị máy móc thiết bị hiện đại phải có những cán bộ kỹ thuật và công nhân
giỏi lành nghề. Hiện nay nước ta có rất thiếu cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ
thuật có tay nghề cao. Cho nên dẫn tới tình trạng sản xuất hàng hoá: chất lượng
82
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
kém, không đồng đều và kiểu dáng còn đơn điệu, thiếu tính sáng tạo. Vì thế mà
khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng hoá rất thấp. Do vậy, để khắc phục tình
trạng này các chúng ta cần phải chú trọng tổ chức nhiều chương trình đào tạo
chuyên sâu cho các cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật thuộc các lĩnh vực,
các ngành kinh tế để tạo ra một đội ngũ cán bộ kỹ thuật giỏi và công nhân lành
nghề trong các ngành chế tạo, sản xuất, chế biến. Đồng thời, chúng ta nên phối
hợp với các nước và các tổ chức quốc tế để gửi các cán bộ kỹ thuật và các công
nhân trẻ có triển vọng của ta ra nước ngoài đào tạo. Nếu chỉ chú trọng đào tạo
cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật thì chưa đủ mà phải có cả một đội ngũ
cán bộ thương mại giỏi nữa thì mới có thể đưa các sản phẩm có chất lượng cao
tới người tiêu dùng EU. Như thế vẫn chưa đủ mà phải có cả một đội ngũ quản lý
giỏi thì mới đưa doanh nghiệp phát triển lên được. Do đó các doanh nghiệp đều
phải:
- Chú trọng công tác đào tạo để nâng cao năng lực cán bộ và công nhân kỹ
thuật vì họ là nhân tố quan trọng không thể thiếu được trong việc nâng cao sức
cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường EU. Các doanh nghiệp phải luôn nâng
cao trình độ cán bộ và công nhân kỹ thuật có trình độ nghiệp vụ, năm vững được
các nghiệp vụ liên quan đến quản lý chất lượng sản phẩm, nhãn hiệu, ký mã
hiệu… phù hợp với các quy định của EU để hàng hoá được xuất khẩu nhanh
chóng hiệu quả.
- Từng doanh nghiệp phải dành một khoản kinh phí nhất định cho hoạt
động này và phải biết tận dụng các chương trình đào tạo cán bộ, công nhân kỹ
thuật của Chính Phủ để cử cán bộ của mình tham gia. Đối với cán bộ thương
mại, các doanh nghiệp không chỉ chú trọng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn mà
phải nâng cao cả ngoại ngữ vì ngoại ngữ kém sẽ khó thành công trong đàm phán
và thường ở thế bất lợi trong giao dịch kinh doanh.
83
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
- Tổ chức các lớp huấn luyện, đào tạo nhằm nâng cao kiến thức và trình độ
cho đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp chuyên xuất khẩu hàng sang EU.
Tham gia các khoá thuyết trình giới thiệu các thông tin mới nhất về chế độ chính
sách cũng như các hướng dẫn về bao bì hàng hoá, marketing… Tham gia các hội
nghị, hội thảo từ phía Liên minh Châu Âu để trao đổi học hỏi kinh nghiệm với
giới kinh doanh của Châu Âu.
- Tổ chức các đoàn đại biểu đi nghiên cứu, thăm dò thị trường EU, đồng
thời mời các doanh nghiệp EU vào làm việc tìm hiểu các cơ hội kinh doanh và
đầu tư sản xuất ở Việt Nam.
3.2.1.4 Đẩy mạnh áp dụng thương mại điện tử:
Các doanh nghiệp Việt Nam nên đẩy mạnh việc áp dụng thương mại điện
tử vì thương mại điện tử đem lại cho các doanh nghiệp những lợi ích to lơn. Các
doanh nghiệp EU cũng như Mỹ có quan niệm là: “Nếu công ty bạn không tồn tại
trên Internet thì công ty bạn không tồn tại” và họ luôn quan tâm xem có tìm thấy
đối tác cần tìm trên Internet không. Như vậy, thương mại điện tử cũng là giải
pháp có tính thách thức lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam. Các Website của
doanh nghiệp được ví như là những Trung tâm thông tin, văn phòng đại diện và
cửa hàng bán lẻ của doanh nghiệp ở mọi nơi mọi lúc trên mọi phương diện do
vậy nó có tầm quan trọng trong việc xúc tiến giới thiệu sản phẩm doanh nghiệp
mình trên thị trường thế giới.
Kết nối Internet, nhờ các công cụ tìm kiếm như Yahoo, AOL, Alta
Vista, doanh nghiệp có thể tìm thấy hết các thông tin cần thiết phục vụ cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình cũng như tìm kiếm đối tác rất nhanh và hiệu
quả. Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng không thể bỏ qua việc đăng ký tên
miền trên Internet. Internet đang trở thành thế mạnh trong giao thương quốc tế,
trong đó có việc tiếp thị. Một địa chỉ tên miền ngắn gọn, thông dụng dễ truy cập
84
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
là điểm thuận lợi để doanh nghiệp đưa hình ảnh, thông tin của mình đến với
người tiêu dùng, vì thế đây là việc cần làm ngay từ bây giờ.
Một hình thức mới là thị trường điện tử ( e- market). Các doanh nghiệp
nên đăng ký vào e – market để trình bày về mình, về sản phẩm của mình. Lợi
thế của nó là thu hút được sự quan tâm của người truy cập vào đúng trang web
cần tìm thay vì phải chọn lựa giữa muôn vàn website cùng ngành hàng khi họ
tìm kiếm.
3.2.1.5 Tăng cường công tác đăng ký thương hiệu ở thị trường EU
Để được pháp luật bảo hộ tránh những rủi ro bị xâm phạm thương hiệu như
trong thời gian qua, các doanh nghiệp Việt Nam phải đăng ký thương hiệu ở
trong nước và đặc biệt ở nước ngoài. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, đăng
ký thương hiệu tại thị trường nước ngoài mang ý nghĩa sống còn. Việc đăng ký
không vì lợi ích trước mắt cho các doanh nghiệp: có thể bán hàng trực tiếp cho
doanh nghiệp nước ngoài không cần tốn kém chi phí trung gian, không bị các
công ty nước ngoài lấy nhãn mác của họ đặt tên cho sản phẩm của mình, không
bị dìm giá trên thị trường vì sản phẩm không có nhãn mác,... mà còn là lợi ích về
lâu dài: tạo nên một thương hiệu uy tín, chất lượng. Doanh nghiệp cũng phải
quan tâm đến việc đăng ký bảo hộ sở hữu công nghiệp ở đâu cho hợp lý và có
lợi nhất, không đăng ký bừa bãi ở các thị trường mình không thể vươn tới, vì
như thế cũng sẽ rất tốn kém, lãng phí...
Trước khi đăng ký thương hiệu, doanh nghiệp cần xác định thị trường
của mình để tìm hiểu luật sở hữu của nước đó. Doanh nghiệp cần tìm hiểu quốc
gia cần đăng ký thương hiệu nằm trong hệ thống sở hữu trí tuệ nào để doanh
nghiệp có thể tham gia đăng ký theo hệ thống đó.
3.2.2 Giải pháp ở tầm vĩ mô
85
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
3.2.2.1 Về đối ngoại
Đẩy mạnh xây dựng chiến lược phát triển thị trường EU thông qua việc
đàm phán ký kết các Hiệp Định, thoả thuận thương mại nhằm tạo ra các tiền đề,
hành lang pháp lý để đẩy mạnh xuất khẩu. Tăng cường đàm phán thương mại
cấp chính phủ giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu để tạo khung pháp lý cho
các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường EU. Để có được kết quả này,
Nhà nước phải có các biện pháp cải cách mạnh mẽ hơn nữa để xây dựng kinh tế
thị trường ở Việt Nam nhằm gây ấn tượng tốt cho các nhà hoạch định chính sách
của EU. Việc tham khảo và giới thiệu chính sách lẫn nhau giữa hai chính phủ
cũng cần được tăng cường.
Hiệp định hợp tác Việt Nam- EU đã kí chỉ quy định chung chung về
thương mại hàng hoá. Sau khi có hiệp định khung Việt Nam- EU, cả hai bên đều
cần thấy phải có một hiệp định chi tiết hơn không những về lĩnh vực thương mại
hàng hoá mà còn về sở hữu trí tuệ, thương mại, dịch vụ và đầu tư. Nghĩa là hai
bên cần phải có Hiệp Định Thương mại Việt Nam- EU, tương tự như Hiệp định
thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ. Việc thay đổi Hiệp định là cần thiết vì trong
giai đoạn này chắc chắn chúng ta phải thương thảo với EU về việc gia nhập Tổ
Chức Thương Mại Thế giới (WTO), chính vì thế phải có một Hiệp định mới
ngang tầm trong đó những quy định chi tiết phải phù hợp với tiến trình gia nhập
WTO của Việt Nam. Chúng ta có thể đồng thời đàm phán hiệp Định Thương
mại với việc đàm phán gia nhập WTO.
Thảo luận ở cấp chính phủ về mở cửa thị trường, trước hết là đối với những
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Thành lập tổ tư vấn cấp cao của Bộ Thương Mại hai Chính phủ nhằm tìm
hiểu những vấn đề pháp lý còn thiếu cho doanh nghiệp hai bên. Tổ này có nhiệm
vụ cập nhật thường xuyên thông tin về thị trường để thông báo cho doanh
nghiệp; điều chỉnh hoặc khắc phục những vướng mắc cho các doanh nghiệp khi
86
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
thực hiện dịch vụ kinh doanh đồng thời giúp các doanh nghiệp tìm các đối tác
trực tiếp, tin cậy lâu dài.
3.2.2.2 Về đối nội
* Hoàn thiện hành lang pháp lý tạo thuận lợi tối đa cho xuất khẩu
Hiện nay Việt Nam vẫn chưa có đạo luật riêng về quản lý chất lượng sản
phẩm, nhãn hiệu sản phẩm và về bảo hộ sở hữu công nghiệp như phần lớn cá
quốc gia trên thế giới (ví dụ như Trung Quốc có luật nhãn hiệu hàng hoá, luật
bản quyền, luật Patent…). Do đó muốn tìm hiểu quy định về sản phẩm, nhãn
hiệu sản phẩm, bảo hộ sở hữu công nghiệp của Việt Nam phải đọc rất nhiều văn
bản pháp luật khác nhau và các văn bản dưới luật khác như quản lý hành chính,
quản lý thương mại và thị trường, đo lường tiêu chuẩn chất lượng. Điều này gây
khó khăn cho việc tìm hiểu pháp luật đặc biệt đối với các doanh nghiệp xuất
khẩu sang thị trường EU khi mà họ còn phải tuân thủ các quy định quy định
riêng của thị trường khó tính này. Để khắc phục được nhược điểm trên đây đòi
hỏi phải tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật về quản lý của Việt Nam; tìm hiểu
và tham khảo thực tế xây dựng các bộ luật về chất lượng sản phẩm và nhãn hiệu
sản phẩm, luật bảo hộ sở hữu công nghiệp của Việt Nam; tìm hiểu và tham khảo
thực tế xây dựng các bộ luật về sản phẩm và nhãn hiệu sản phẩm của các nước
trên thế giới; xây dựng một chương trình dài hạn về khung pháp lý về quản lý
chất lượng sản phẩm; nhãn hiệu sản phẩm và bảo hộ sở hữu công nghiệp; trong
đó có việc soạn thảo và ban hành đạo luật riêng về quản lý chất lượng sản phẩm,
nhãn hiệu sản phẩm, và bảo hộ sở hữu công nghiệp. Nếu chúng ta thực hiện
được điều này thì sẽ tạo nền tảng thuận lợi hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu
vào EU. Trước mắt có thể nhận thấy một số vấn đề cần sớm giải quyết:
- Cần sớm bổ sung một số đối tượng bảo hộ như nhãn hiệu hàng hoá tập
thể, chống cạnh tranh không lành mạnh… để việc bảo hộ nhãn hiệu hàng
hoá ở Việt Nam sớm được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu giao lưu phát
87
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
triển thương mại ở Việt Nam cũng như thâm nhập thị trường EU và thế
giới.
- Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 quy định chi tiết về quyền sở hữu
công nghiệp không có các quy định rõ ràng về xét nghiệm nhãn hiệu
hàng hoá mà áp dụng theo xét nghiệm sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu
dáng công nghiệp. Kết quả xét nghiệm vì vậy, có thể phụ thuộc vào ý
kiến chủ quan của xét nghiệm viên. Tình trạng trên dẫn đến khó xác lập
các căn cứ để khiếu nại khi bị vi phạm. Cần bổ sung các quy định cụ thể
về chế độ xét nghiệm nhãn hiệu hàng hoá nhằm tránh được những vướng
mắc trong quá trình giải quyết các tranh chấp, khiếu nại khi mà nhãn
hiệu của Việt Nam bị xâm phạm bản quyền làm mất uy tín của doanh
nghiệp Việt Nam, mất cơ hội xâm nhập thị trường EU.
Để đổi mới và hoàn thiện các bộ máy quản lý sản phẩm, nhãn hiệu sản
phẩm và bảo hộ sở hữu công nghệp, Việt Nam cần nghiên cứu tham gia vào các
tổ chức quốc tế đặc biệt là các tổ chức của EU để tham khảo kinh nghiệm của
họ.
Vai trò của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức đại diện, người đại diện
ở các nước có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo hộ sở hữu công nghiệp như Hiệp
hội nhãn hiệu hàng hoá Cộng Đồng Châu Âu (ECTA), Hội nhãn hiệu hàng hoá
quốc tế (INTA)… các hội và hiệp hội này đều có điều lệ và cương lĩnh rõ ràng
và hoạt động rất mạnh nhằm hỗ trợ cho các cơ quan của chính phủ đảm bảo thực
thi có hiệu quả việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng
hoá. Thực tế ở Việt Nam cũng có những tổ chức đại diện sở hữu công nghiệp đã
hoạt động như: Trung tâm hỗ trợ sáng tạo và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
(INVENCO) trực thuộc liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam; Hội
bảo trợ về quyền lợi của người tiêu dùng ở Việt Nam; Trung tâm hỗ trợ nghiên
cứu và tư vấn pháp lý (LERES) của Trường Đại học khoa học xã hội và nhân
88
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
văn… Thực tiễn đã chứng minh vai trò của các hội trong việc nâng cao nhận
thức của của cộng đồng về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Nhà nước không
phải chi ngân sách cho hoạt động của các tổ chức này mà pháp luật về sở hữu trí
tuệ của Việt Nam còn được thực thi hiệu quả cao hơn. Bởi vậy, nhà nước cần có
chính sách khuyến khích để nhân rộng loại hình hoạt động này.
* Phát triển các ngành hàng chủ lực sang thị trường EU
Nhà nước cần có chính sách cụ thể để phát triển các ngành hàng xuất khẩu
chủ lực. Thông qua sự hỗ trợ về vốn, ưu đãi về thuế và tạo điều kiện thuận lợi
trong sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp, Việt Nam có thể phát triển
được sản xuất nội địa, đồng thời nâng cao được khả năng cạnh tranh của hàng
hoá và doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường EU.
Đối với mặt hàng xuất khẩu chủ lực là giày dép và dệt may, do có đặc thù
riêng trong sản xuất và xuất khẩu: ta chủ yếu làm gia công cho nước ngoài nên
hiệu quả thực tế thu được từ xuất khẩu rất thấp (25-30% doanh thu). Hơn nữa,
do gia công theo đơn đặt hàng và sản xuất theo kỹ thuật nước ngoài nên các
doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn bị động về mẫu mã, sản xuất cũng như tiêu
thụ sản phẩm. Đây là điểm trọng yếu trong xuất khẩu hai mặt hàng này của ta.
Nếu cứ tiếp tục kéo dài tình trạng này sẽ rất bất lợi cho Việt Nam. Nhà nước cần
có chính sách cụ thể để khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất (chứ không
phải các doanh nghiệp gia công) làm ăn có hiệu quả hoặc các doanh nghiệp sản
xuất đã xuất khẩu trực tiếp sản phẩm sang EU thuộc hai ngành công nghiệp này
tiếp tục đầu tư vốn và đổi mới công nghệ trong quá trình sản xuất để cải tiến sản
phẩm phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng EU, nâng cao chất lượng; tăng
cường xuất khẩu theo phương thức mua đứt bán đoạn, giảm dần phương thức
gia công xuất khẩu; đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp sản phẩm có tỷ lệ
nội địa hoá cao và tiến tới xuất khẩu sản phẩm 100% nguyên liệu trong nước
nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu hai mặt hàng này.
89
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Đối với những mặt hàng đang được ưa chuộng trên thị trường EU như hàng
thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ gia dụng, đồ dùng phục vụ du lịch, đồ chơi trẻ em,
hàng điện tử và hàng thuỷ hải sản là những mặt hàng được người tiêu dùng EU
ưa chuộng, Nhà Nước cần có chính sách cụ thể khuyến khích các doanh nghiệp
đầu tư vốn và công nghệ hiện đại để mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao năng
suất và chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá và nâng cao trình độ tiếp thị sản phẩm
nhằm mục đích tăng khối lượng và nâng cao hiệu quả xuất khẩu những mặt hàng
này sang EU. Đối tượng áp dụng của chính sách là những doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh có hiệu quả, những doanh nghiệp có mặt hàng xuất khẩu mới và có
triển vọng phát triển. Đối với một số mặt hàng nông sản có khả năng xuất khẩu
sang thị trường EU như cà phê, chè điều, hạt tiêu, cao su, rau quả…, Nhà nước
cần xây dung quy hoạch, chọn lựa và có chính sách khuyến khích cụ thể để đẩy
mạnh đầu tư vốn tạo ra các vùng sản xuất chuyên canh ứng dụng các kỹ thuật
tiên tiến, công nghệ sau thu hoạch để đảm bảo sản phẩm làm ra có năng suất
cao, chất lượng tốt, đồng đều giá thành hạ và khối lượng lớn. Việc tạo ra vùng
sản xuất chuyên canh cho xuất khẩu sẽ giúp cho công tác quản lý chất lượng
được thực hiện tốt từ khâu chọn giống, kỹ thuật thâm canh, chăm sóc đến lựa
chọn đảm bảo chất lượng, khắc phục được tình trạng chất lượng kém, không ổn
định và nguồn cung cấp nhỏ. Với chính sách này hàng nông sản của ta có thể
xâm nhập được thị trường.
Chúng ta đang thực hiện tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
phương hướng đến năm 2020 Việt Nam sẽ trở thành nước công nghiệp. Như vậy
10-20 năm tới cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ chuyển mạnh theo
hướng: tăng nhanh tỷ trọng hàng chế biến, chế tạo và giảm mạnh tỷ trọng hàng
nguyên liệu thô. Để có cơ cấu hàng xuất khẩu như trên trong tương lai, Nhà
nước cần có một chính sách cụ thể khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các
ngành công nghiệp chế biến và chế tạo (thực phẩm chế biến, đồ điện, điện tử gia
dụng, điện tử-tin học (phần mềm), công nghệ viễn thông…) đầu tư theo chiều
90
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
sâu để nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và tính độc đáo của sản phẩm, đa
dạng hoá mặt hàng nhằm tăng nhanh khối lượng và nâng cao hiệu quả xuất khẩu
sang thị trường EU. Riêng đối với các doanh nghiệp lớn của Nhà nước thuộc các
ngành điện tử-tin học, công nghệ viễn thông, các ngành có hàm lượng chất xám
cao, Nhà nước cần có sự hỗ trợ về vốn và khuyến khích họ tập trung cho nghiên
cứu cơ bản để tạo ra các sản phẩm công nghệ cao. Đối tượng áp dụng của chính
sách là những doanh nghiệp chế biến và chế tạo có uy tín trên thương trường
quốc tế.
* Gắn nhập khẩu công nghệ nguồn với xuất khẩu
Tây Bắc Âu, trọng tâm sẽ là EU mà chủ yếu là các thị trường lớn như Đức,
Anh, Pháp và Italia. Nhiều mặt hàng có thể tăng xuất khẩu vào EU nhưng chủ
yếu vẫn là dệt may, giày dép, hải sản, rau quả cao su sản phẩm nhựa, sản phẩm
gỗ và cơ khí. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ thị trường này sẽ là máy móc, thiết
bị công nghệ cao, máy chế biến thực phẩm, phương tiện vận tải, máy bay hoá
chất tân dược, nguyên phụ liệu dệt- may-da. Để phát triển xuất khẩu hơn nữa
sang EU, do đó đòi hỏi cao về chất lượng hàng hoá, nhất là hải sản và thực phẩm
chế biến. So với các thị trường xuất khẩu truyền thống khác của Việt Nam thì
EU lại là một thị trường khó thâm nhập, không những cạnh tranh rất gay gắt mà
thị hiếu tiêu dùng cũng rất khắt khe, kênh phân phối phức tạp và có nhiều quy
định ngặt nghèo về hàng nhập khẩu. Song, Việt Nam và EU có cơ cấu hàng hoá
xuất nhập khẩu hoàn toàn bổ sung cho nhau. Bấy lâu nay chúng ta nhập khẩu
máy móc thiết bị từ Châu Á giá rẻ nhưng không bền. Nếu chúng ta tăng cường
nhập khẩu công nghệ nguồn từ Châu Âu sẽ làm cân bằng cán cân thanh toán,
phía EU không tìm cách cản trở hàng xuất khẩu của ta, đồng thời nhập khẩu
được công nghệ hiện đại phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu giúp thay đổi cơ
cấu hàng xuất khẩu nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu nói
chung, sang thị trường EU nói riêng. Do vậy, Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất
91
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
khẩu những mặt hàng mình có lợi thế, đồng thời tăng cường nhập khẩu máy móc
thiết bị và dây chuyền công nghệ hiện đại của EU để phát triển sản xuất tạo
động lực đẩy mạnh kinh tế phát triển. Những sản phẩm thu được từ quá trình sản
xuất hiện đại lại xuất khẩu trở lại EU. Nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU có thể
thực hiện bằng 2 biện pháp sau đây: (1) Đầu tư của chính phủ; (2) Thu hút các
nhà đầu tư EU tham gia vào quá trình sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Để thực hiện những biện pháp này, Nhà nước Việt Nam cần phải có những ưu
đãi dành riêng cho các nhà đầu tư nước ngoài EU bên cạnh những ưu đãi và
quyền lợi mà họ được hưởng theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Những
ưu đãi này có thể là về thuế nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU, thuế suất lợi tức,
thuế chuyển lợi nhuận. Các đối tác EU chỉ được hưởng những ưu đãi này nếu
góp vốn bằng công nghệ hiện đại được chế tạo tại Liên minh và đầu tư vào
những lĩnh vực sau: ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, ngành công nghiệp
sản xuất các thiết bị điện, ngành điện tử, viễn thông…
Thực hiện các biện pháp này, Việt Nam vừa thu hút được công nghệ từ EU
lại vừa nâng cao và tiêu chuẩn hoá chất lượng hàng xuất khẩu nói chung và chất
lượng hàng sang thị trường EU nói riêng. Với sự góp mặt của các các nhà đầu tư
EU trong quá trình sản xuất hàng xuất khẩu, chắc chắn hàng thuỷ sản Việt Nam
sẽ đạt tiêu chuẩn HACCP và các mặt hàng khác đạt tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO
14000. Hàng Việt Nam có thể đáp ứng tốt nhất các yêu cầu khắt khe của thị
trường EU về chất lượng, vệ sinh, bảo vệ môi trường, mẫu mã đẹp và chủng loại
phong phú. Đồng thời đem lại thành công lớn cho xuất khẩu của Việt Nam sang
EU và quá trình sản xuất được thực hiện dưới sự giám sát điều hành của các
doanh nghiệp EU nên hàng Việt Nam sẽ được trang bị tính cạnh tranh quốc tế
cao.
*Hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghịêp xuất khẩu
92
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Đại bộ phận các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu của
Việt Nam sang EU đều có quy mô vừa và nhỏ, nên khả năng cạnh tranh và hiệu
quả không cao. Vì thế để đẩy mạnh, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả xuất
khẩu sang thị trường này, Nhà nước cần có sự hỗ trợ các doanh nghiệp về vốn
thông qua hệ thống ngân hàng. Để triển khai hoạt động hỗ trợ này, Nhà nước
Việt Nam cần thực hiện các biện pháp sau:
- Sử dụng có hiệu quả quỹ hỗ trợ xuất khẩu để các doanh nghiệp được vay
vốn với lãi suất thấp, giải quyết các khó khăn về vốn lưu động và vốn đầu
tư, đổi mới trang thiết bị. Bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp thâm nhập được thị trường.
- Xúc tiến thành lập ngân hàng chuyên doanh của khu vực doanh nghiệp vừa
và nhỏ, thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp lớn
với sự hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức quốc tế. Đảm bảo sự bình đẳng
thực sự trong quan hệ tín dụng ngân hàng trên cơ sở pháp luật giữa các
thành phần kinh tế (hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc khu vực
tư nhân không được lấy giá trị quyền sử dụng đất đai để thế chấp khi vay
vốn). Mở rộng khả năng tiếp cận nguồn tín dụng từ các ngân hàng cũng
như các định chế tài chính. Đơn giản hoá thủ tục vay vốn và yêu cầu thế
chấp tài sản của ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
- Mở rộng khả năng tiếp cận các nguồn vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ,
Nhà nước cần thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng. Quỹ này thực hiện bảo
lãnh cho doanh nghiệp có khả năng phát triển nhưng không đủ tài sản để
thế chấp vay vốn. Quỹ được thành lập dưới hình thức là một tổ chức tài
chính nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, cho phép các
doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất, kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả được
vay vốn theo phương thức tự vay tự trả.
93
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Bên cạnh các chính sách hỗ trợ về vốn, Nhà nước cũng cần có chính sách
hỗ trợ về công tác xúc tiến, hỗ trợ xuất khẩu sang EU. Nhà nước cần khuyến
khích các doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm hoặc hội thảo chuyên đề thị
trường, giúp các doanh nghiệp trực tiếp tiếp cận thị trường, trực tiếp tìm hiểu
nhu cầu, thị hiếu của thị trường và trực tiếp giao dịch với các nhà nhập khẩu
chính của thị trường EU, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp đặt cơ sở ở
các nước EU dưới hình thức thích hợp như cơ quan đại diện thường trú, văn
phong liên lạc, đại diện uỷ thác, công ty liên doanh để phát triển thị trường xuất
khẩu.
Ngoài ra, Nhà nước có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc xúc tiến
và tiếp cận thị trường do các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang rất khó khăn
trong việc tìm kiếm đối tác EU nhất là những đối tác tin cậy. Do vậy cần thiết
phải nâng cao vai trò của các thương vụ trong việc xúc tiến thương mại, tìm các
đối tác, ngân hàng tin cậy cho doanh nghiệp trong nước. Bên cạnh đó, nhà nước
cũng cần phải:
- Cho phép thành lập một Trung Tâm xúc tiến thương mại Việt Nam tại EU
để phục vụ như nơi trưng bày giới thiệu sản phẩm Việt Nam, khuyếch trương
hình ảnh về đất nước và con người Việt Nam. Việc này có thể thu hút được các
doanh nghiệp và cộng đồng người Việt thuê diện tích tại trung tâm để giới thiệu
sản phẩm, bán hàng giao dịch mua hàng của EU, tạo đầu mối, xúc tiến cho các
doanh nghiệp trong nước triển khai buôn bán với các bạn hàng EU.
- Mở rộng hình thức chợ xúc tiến xuất khẩu đối với các mặt hàng xuất khẩu
chủ lực. Hiện nay ở Việt Nam mới có chợ xúc tiến nông sản xuất khẩu. Chợ đã
chính thức được mở cửa, là nơi trao đổi mua bán các loại nông sản xuất khẩu; có
sự tham gia của các nhà kinh doanh, các nhà sản xuất, các công ty giao nhận,
các hãng bảo hiểm, các cơ quan giám định. Hàng ngày chợ cung cấp thông tin
miễn phí về giá cả, sản lượng nông sản thế giới. Tại đây còn được xem truyền
94
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
hình trực tiếp thị trường mua bán nông sản hạn ngạch ở London và New York.
Chợ còn cung cấp các thông tin bằng Fax và email theo yêu cầu. Nếu các mặt
hàng khác như đồ gỗ gia dụng, hàng thủ công mỹ nghệ, thuỷ hải sản…cũng có
chợ xúc tiến xuất khẩu như mặt hàng nông sản thì triển vọng xuất khẩu những
năm tới sẽ rất khả quan.
- Đẩy mạnh công tác trợ cấp xuất khẩu dưới hình thức thưởng xuất khẩu, tỷ
giá khuyến khích đối với ngoại tệ thu được nhờ xuất khẩu, hoặc gián tiếp dùng
ngân sách nhà nước tuyên truyền xúc tiến thương mại. Mở rộng trợ cấp đối với
nhiều mặt hàng Việt Nam có lợi thế, không nên chỉ bó gọn dành cho các sản
phẩm nông nghiệp.
Trên đây là một số giải pháp chủ yếu liên quan đến chất lượng và nhãn hiệu
sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU.
Với nỗ lực của hai bên cùng với những biện pháp thúc đẩy trong ngắn hạn và dài
hạn thì có thể rất tin tưởng quan hệ thương mại Việt Nam-EU sẽ phát triển rất
tốt đẹp. Hàng hoá của Việt Nam có sức cạnh tranh cao trên thị trường EU và tạo
tiền đề thâm nhập các thị trường khác trên thế giới.
KẾT LUẬN
Liên minh châu âu (EU) được xem như là một mẫu mực của xu thế hợp tác
quốc tế, được xem như một đại quốc gia ở Châu Âu. Với thị trường chung thống
nhất, hàng hoá được sản xuất hay nhập khẩu vào một quốc gia thành viên thì
cũng có thể được chuyển sang một quốc gia thành viên khác mà không phải chịu
một hạn chế nào. Các quốc gia thành viên chia sẻ chính sách chung về nông
nghiệp, chính sách an ninh và đối ngoại, hợp tác tư pháp và nội vụ đồng thời áp
dụng một chế độ thương mại chung. Trong xu thế vận động của thế giới, Liên
minh Châu Âu được hình thành, phát triển và chắc chắn sẽ còn phát triển rất
95
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
mạnh trong thế kỷ tới. Quan hệ quốc tế đặc biệt và lĩnh vực thương mại với Liên
minh Châu Âu sẽ mang ý nghĩa chiến lược cho mọi quốc gia, mọi tổ chức.
Bên cạnh đó, EU là thuộc nhóm nền các kinh tế lớn nhất thế giới và là một
thị trường rộng lớn đầy hấp dẫn, có sức tiêu thụ ổn định, lại hứa hẹn có những
khởi sắc trong thời kì 2001-2010 nên việc đẩy mạnh xuất khẩu vào EU là một
trong những trọng điểm của chính sách thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Hơn
nữa với việc mở rộng sang phía Đông với sự tham gia của 10 nước Đông Âu từ
tháng 5 năm 2004 sẽ là cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp của chúng ta. Tuy
vậy, việc thâm nhập vào khu vực kinh tế lớn nhất thế giới này đang là một vấn
đề lớn đặt ra đang là một vấn đề lớn đặt ra đối với các nước đang và kém phát
triển trong đó có Việt Nam. Với những quy định pháp lý và yêu cầu hết sức ngặt
nghèo về đối với hàng nhập khẩu đã trở thành những rào cản của xuất khẩu của
Việt Nam. Thị trường EU đòi hỏi chất lượng sản phẩm phải luôn được cải tiến
và đổi mới với dịch vụ ngày càng tốt và giá cả hợp lý bên cạnh đó là những yêu
cầu về sức khoẻ và an toàn cho người tiêu dùng cũng như về môi trường và
trách nhiệm xã hội. Điều này được đặt ra bởi luật pháp hoặc bị đòi hỏi bởi chính
bản thân thị trường thông qua những chứng nhận, nhãn hiệu và tiêu chuẩn quốc
tế. Các nhà xuất khẩu ở các nước đang và kém phát triển phải tuân theo những
luật lệ này và những đòi hỏi của thị trường. Thực tế quá trình vận dụng những
quy định pháp lý về chất lượng và nhãn hiệu sản phẩm ở Việt Nam cho thấy dù
có một số những thành tựu đáng ghi nhận từ nỗ lực của các doanh nghiệp trong
việc nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá
“Made in Vietnam” trên thị trường quốc tế thì các doanh nghiệp của chúng ta
vẫn còn hiểu biết rất ít về pháp luật cụ thể như những quy định về chất lượng và
nhãn hiệu sản phẩm của EU, chưa tìm hiểu kỹ về thông tin thị trường, khâu tiếp
thị xúc tiến thương mại còn yếu, hàng hoá không đạt yêu cầu về chất lượng,
thiếu nguồn nhân lực…Do vậy giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường
này chiếm tỷ trọng nhỏ chiếm 0,4% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của EU.
96
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
Việc phân tích “ Việc vận dụng những quy định pháp lý của Liên minh
Châu Âu EU về chất lượng và nhãn hiệu sản phẩm trong xuất khẩu hàng
hoá của Việt Nam vào thị trường này ” khẳng định EU là thị trường tiềm năng
lớn. Thông qua việc buôn bán với EU, được EU dành cho nhiều ưu đãi trong
thương mại, đầu tư, Việt Nam sẽ gặt hái được nhiều thành công phù hợp với
đường lối mở cửa mà Chính phủ Việt Nam đã đề ra. Triển vọng của hoạt động
này phụ thuộc vào chính sách hợp tác kinh tế - thương mại của Việt Nam với
EU. Phía EU đã đang và sẽ đẩy mạnh hơn nữa hoạt động hợp tác thương mại với
Việt Nam, mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hoá của Việt Nam. Những
thành quả bước đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá sẽ cho phép
Việt Nam phát triển nhanh khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường EU.
Mặc dù vẫn còn những khó khăn và tồn tại trong bức tranh thương mại của
Việt Nam- EU nhưng với những nỗ lực của hai chính phủ trên cơ sở quan hệ
hợp tác giúp đỡ lẫn nhau tạo đà phát triển cho hoạt động thương mại cũng như
các ngành chủ đạo như dệt may, da giày và thuỷ sản đang có những chương
trình cụ thể để phát triển sản xuất và tăng cường xuất khẩu sang EU. Hi vọng
với những cố gắng đó, trong tương lai kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai bên sẽ
không ngừng được mở rộng, đem lại lợi ích cho Việt Nam và cho các nước
thành viên EU.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Pháp lệnh chất lượng hàng hoá số 18/1999/PL - UBTVQH10.
2. Nghị định của Chính phủ số 54/2000/NĐ - CP ngày 03/10/2000 về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên
thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan
tới sở hữu công nghiệp.
3. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 6/7/95.
97
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
4. Nghị định 57/CP ngày 31/5/1997 quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đo lường và chất lượng hàng hoá.
5. Luật dân sự nước CHXHCN Việt Nam - Phần 6 - Chương 2 : Quyền sở hữu
công nghiệp.
6. Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp.
7. Quản lý chất lượng thuỷ sản do Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh
an toàn thuỷ sản (Bộ Thuỷ sản) xuất bản năm 1999.
8. Công ước Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp.
9. Hiệp ước hợp tác Patent ký tại Washington ngày 19/6/1970, sửa đổi ngày
2/10/1979 và ngày 03/02/1984.
10. Hiệp định Madrid liên quan đến đăng ký nhãn mác ngày 14/04/1891.
11. Sơ lược về ISO 9000 - Tác giả : Khiếu Thiện Thuật
12. 195 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới - NXB Thế giới 2001 - Chủ
biên: Mai Lý Quảng.
13. Tạp chí nghiên cứu Châu Âu số 4/2000, số 5/2000, số 2/2001, số 4/2001 số
5/2002.
14. Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới số 1/2000, số1/2001.
15. Tạp chí thương mại số 10/2001 số 18/ 2003, số 26/2003 số 31/2003.
16. Tạp chí thương nghiệp và thị trường số 2/2001, số 8/2001.
17. Tạp chí ngoại thương số 84 ra ngày 20/5/2000.
18. Tạp chí tuần báo kinh tế số 61/2000, số 91/2000.
19. Niên giám thống kê 96, 97, 98, 99, 2000,2001- NXB Thống kê, Hà nội.
20. Thời báo kinh tế Sài Gòn số 40 ngày 3/10/1996 số 261 ngày 10/5/1996, số
45 ngày 6/11/1997, số 31 ngày 30/7/1998, số 32 ngày 6/8 /1998,
98
Khoá luận tốt nghiệp Vũ Thị Nam Phương - Pháp 2 - K38 KTNT
21. Thời báo kinh tế Việt nam số 50 ngày 25/4/2001, số 56 ngày 9/5/2001.
22. Tạp chí tiêu chuẩn- Đo lường- Chất lượng số 8/2003.
23. Báo Diễn đàn doanh nghiệp, các số: 57, 59, 61, 63, 67, 69, 70, 77, 79, 83,
85 (năm 2002), số 97 năm 2003.
24. Báo Doanh nghiệp, các số: 18, 21, 32, 34, 37 (năm 2002).
25. Các trang Web:
- http://vnexpress.net
http://vnagency.com -
- http://itpc.hochiminh.org.vn
http://www.vneconomy.com.vn -
- http://www.dddn.com.vn
- http://www.vir.com.vn
99