Mâm ngũ quả đầu tiên
Hôm nay hăm chín tết. Tôi giao tr s u ban cho cô phó ch tch, dành mt na ngày
cho tôi. Tôi bo thng My: B cm con động vào vườn quả, mày động vào tao ct cái
Sầm Sơn, bảo trước cho mà biết. Ch là tôi ha vi nó h ngoan ngoãn chu khó hc
hành, hè này tôi cho đi Sầm Sơn cho biết thế nào là bin. Nó biết tính tôi, quân lnh như
sơn, đã nói không đùa.
T lâu, tôi đã d tính có mt buổi như buổi hôm nay, t mình hái qu trong vườn, t
mình bày mâm ngũ quả đầu tiên đón năm mới. Đây là một niềm sung sướng tôi đã chăm
chút, nâng niu đón đi t lâu, ch rình đến hôm nay; nó va có cái hi hp, va có cái
thiêng liêng l lùng, đã tưởng tượng t lâu mà vn không biết nó như thế nào. Qu là như
thế. Đây không phải mâm ngũ quả đầu tiên ca một năm, năm nào mà chả thế, có năm
nào không đến tay tôi bày mâm ngũ quả.
Giá có năm nào lười, gi v bo tôi bận đi họp dân quân phân công trc ngày tết, m
h mt tay, thì "m nó" lườm mt cái rõ dài, giy ny lên mà nói: "Tôi chịu thôi, đấy là
vic của đàn ông". Không, mâm qu này khác, không giống như mọi năm, tôi gọi đây
mâm ngũ quả đầu tiên của đời người.
Cái gì cũng có đầu đuôi của nó.
Làng tôi vn gi là Thảo Điền, rung cỏ, là vùng đồng úng quanh năm, cỏ năn cỏ lác
nhiều hơn lúa má. "Đồng trắng nước trong", "Sng ngâm da chết ngâm xương", "Chiêm
khê mùa thi", là nhng câu ca xut phát t nơi đây. Trong cái vùng đồng quanh năm
trắng nước y, làng tôi li là cái rốn nước, các c xưa gọi là xóm Cn Thoi, là ch cao ráo
nht hình thoi, chen chúc nhng nhà là nhà. Ra khỏi xóm là nước. Bn tr chúng tôi ln
lên trong nhng trò chơi vầy nước, dầm nước, "th đỉa, ba ba, ch bắt đàn bà, phi tội đàn
ông...".
Mt nửa năm trời đi lại bng thuyền, đám cưới rước dâu bng thuyền, đám ma chở áo
quan bng thuyn. Tôi nh năm bà nội tôi mt, m trên gò, mà cha tôi, chú tôi phi ly
cây dìm áo quan xuống nước mới chèn đất lên được. Những năm gọi là "đi mi", trong
làng cũng có một hai cái nhà tng mọc lên, nhưng tên các chủ nhân đều gn vi ch Đức,
nhà Lm-Đức, nhà Kình-Đức,những nhà có con đi Đc mi có tin xây nhà. Qu tht,
bn tr không ra khi làng thì không đứa nào m mày m mặt lên được.
Nhưng cái số tôi không ra khỏi làng được. Mười by tuổi vào Đoàn, mười chín tui đã
làm bí thư, hai năm sau nữa làm đội trưởng dân quân, vic gì cũng đến tay. Ch được ra
khi làng có hai lần, đi thật xa, mt ln lên Lào Cai, mt ln vào Tây nguyên, không phi
du lịch mà đi tìm rước hài ct my thng bn lit sĩ. Vinh quang thay cho chúng nó mà
cũng khốn kh thay cho vong hn chúng nó, m đang chôn trên núi cao, nay về quê nm
trong nghĩa trang đồng nước, có tháng by phải đi thuyền vào đặt vòng hoa, thắp hương,
tại đây chỉ cái đài liệt sĩ là không ngập nước.
Công vic thì lúc nào cũng ngập đầu, nhưng đám lãnh đạo chúng tôi không làm sao cho
dân cho làng xóm giàu lên được. Tt c trông vào đồng đất vào mùa đông xuân nước rút
đi. Chúng tôi bày ra đ phép: tìm ging lúa tt, ngn ngày, sai ht, chen khoai màu, tn
dụng đất đai đến từng ngày. Nhưng trí khôn cũng ch đến đấy thôi. Li còn ni b đánh
nhau na.
Mt nhóm ch trương phát trin cái ch làm kinh tế th trường, m nhà hàng đặc sn,
tôm, tht chó, nu rượu, ri là đ đóm, rồi là dn "tiếp viên" về, đem luôn c "ết" v. Mt
đằng là huy đng vn dân, lên rng m tri, trại đâu chửa thy, thy tòi ra một đám tham
ô. Các c cu chiến binh thì lao vào đấu tranh, đâm đơn kiện cáo. Sắp đến đại hi, các
phe phái rình nhau tng miếng mt, ging ht Tôn Tn, Bàng Quyên.
Thế rồi, y như trong truyện c tích, nhng người ăn hiền lành mà lâm vào cnh khn
kh thì thế nào cũng có Bụt hin v. Bt hi: "Con mun gì?"
Ông Bụt này tên là giáo sư Trương. Ông cầm đầu mt nhóm nhà khoa học, đến làng tôi,
đưa cái giấy gii thiu ca huyện, y như từ trên trời rơi xuống. Năm đó tôi đang làm phó
ch tch xã, ph trách sn xut mùa vụ, dân quân, công an, sinh đ có kế hoch... Ông
Trương bảo: "Tôi đã đến đây nhiu ln, như người đi chơi thôi. Tôi đã ngm k đồng đất
vùng ta. Tôi chn cái rốn nước này giúp các cậu làm giàu. Nhưng tôi ch là người bày v.
Làm được hay không là các cu".
Lúc đó tôi chưa hình dung ông là ông Bt. Ch thy mt ông già nh thó, đầu bc, lông
mày bc, da c nhăn nheo. Chỉ cái trán và đôi mắt ni bật lên. Hôm đầu tiên, ông bo
tôi đưa ông ra đu làng, ch cái mũi nhọn con thoi khép li bng mt mái tranh ca cu
chiến binh Hn. Ông bo:
- Lúc nãy tôi trông thy trên bàn th nhà cu có mt mâm ngũ quả bng tranh. Ch vài
năm sau cậu smt mâm ngũ quả hái ngay trong vườn nhà, không phải đi mua ở đâu
hết.
- Bác nói c như hoá phép ra không bằng. Làm sao cháu có vườn?
Ông ch xung ruộng nước mênh mông:
- Vườn ngay đây chứ đâu?
Ri ông bắt đầu bày v cho tôi. Đúng là một phép l mà sao bao đời nay, t tiên chúng
tôi, c chúng tôi na, không nghĩ ra. Ri ông hi tôi có dám thuyết phục gia đình đổi my
đám "bờ xôi rung mật" trên đồng Cao, ly hn my nghìn mét vuông này, biến cánh
đồng rung chua phèn úng ngập quanh năm thành ao cá vườn cây, rung hai mùa, trên
heo dưới vịt hay không? Để t tay cu bóc cái tranh ngũ quả trên bàn th xung, cái tranh
ấy đẹp đấy, nhưng nó không có hồn, t tay cu s hái qu trong vườn bày mâm ngũ quả
đầu tiên thắp hương cúng ông bà ông vải nhà ta, làm gương cho chay không?
Câu chuyn bắt đầu như thế. Cái phép l ông bày cho chúng tôi là thế này: Trên mt mt
phẳng đồng nước, đợi đến mùa khô ta đào một cái ao gia làm cái rốn nước. Đất đào ao
ta đắp lên b ngoài cùng, cao hơn mặt phng nước hàng năm, vừa làm b, vừa làm vườn.
Quãng giữa ta để nguyên làm ruộng. Đó là c mt công trình lao động, nhưng nói cho
cùng ch đào và đắp. Ta s có mt khoảnh đất bậc thang, trên cùng là vườn, gia là
rung, mà rung này là rung hai mùa vì có th điều tiết nước, dưới cùng là ao th cá,
chăn vịt. Lúa và cá là cái chc. Còn vườn thì ci tạo đất, trồng cây ăn quả, xen canh vi
các loại đậu, rau, màu ly ngắn nuôi dài. Giáo sư Trương bảo tôi: