Mưu vượt khủng hoảng
Ông Paul Critchlow - Cố vấn cho Chủ tịch của Tập đoàn Tài chính
Merrill Lynch - gọi những chiêu thức vượt qua khủng hoảng là
“Ba cú đánh”.
Thứ nhất là những e-mail nội bộ của các nhà phân tích nghiên
cứu Merrill. Họ đã cười nhạo, giễu cợt những cổ phiếu mà h
từng đề xuất cho khách hàng và khuyên họ nên mua vào. Những
e-mail này đã châm ngòi cho cuc điều tra của Tổng chưởng lý
Tiểu bang New York về những mâu thuẫn quyền lợi có thể tồn tại
giữa hai phòng nghiên cứu và nghiệp vụ ngân hàng đầu tư tại
Merrill. Ông này buc tội Merrill đang tìm cách nâng cổ phiếu của
mt số công ty để mong giành chiến thắng hoạt động kinh doanh
ngân hàng đầu tư của họ. Mùa xuân m 2002, Merrill đã phải bỏ
ra 100 triệu đô-la để dàn xếp cuộc điều tra này.
Thứ hai là những cuộc điều trần trước quốc hội chỉ diễn ra không
lâu sau đó về vụ sụp đổ của Enron. Việc này đã hướng dư luận
vào sự dính líu của Merrill trong việc thiết lập quan hệ đối tác và
những thỏa thuận ngầm mà Enron dùng để che đậy tình trạng tài
chính thực tế của mình.
Thứ ba là Martha Stewart – người từng bị điều tra về khả năng
giao dịch tay trong liên quan đến nhà môi giới Merrill của bà cùng
trợ lý của ông ta.
Danh tiếng của một công ty có thể sống sót sau loạt đòn tấn công
đến tối tăm mặt mũi này không? Hãng môi giới nào cũng chỉ có
thể làm ăn phát đạt dựa vào niềm tin của công chúng đầu
dành cho họ, vậy mà cuộc khảo sát công luận năm 2002 của
Harris Interactive về danh tiếng doanh nghiệp đã cho thấy rằng
Merrill bchỉ trích đến mức khó tin. Một người nói: “Theo tôi thì
Merrill Lynch cùng một giuộc với những sòng bạc ở Las Vegas và
bọn Mafia - chuyên bịp bợm và lừa đảo”. Những người khác còn
nặng lời hơn. Họ nói: “Hãy chấm dứt ngay việc cướp bóc của
người già” và “Đừng là lũ heo tham tiền như vậy nữa”.
Kiểu mạt sát nóng nảy như vậy khiến nhiều nhân viên trung thực
của “đại gia dịch vụ tài chính” này chán nản, nhưng công ty đã c
gắng để vượt qua khủng hoảng và đang bắt tay vào chỉnh sửa lại
hình ảnh méo mó của mình. Critchlowngười chỉ đạo quản lý
loạt khủng hoảng này – nói: “Sut thời kỳ này, bạn phải làm mọi
thứ để kiểm soát tất cả những gì mà bạn có thể. Nhưng quả thật
đã có những thời điểm vô cùng khó khăn mà chúng tôi cảm thấy
gần như bất lực để bảo vệ chính mình”.
Critchlow là phó chtịch cao cấp phụ trách công tác thông tin liên
lạc và quan h công chúng trước khi trở thành cố vấn chủ tịch
kiêm phó chtịch các thị trường chung vào tháng 7 năm 2003.
Ông thừa nhận rằng danh tiếng của Merrill chịu tổn hại to lớn từ
ba cú đánh liên hoàn này. Làm sao lại không tổn hại khi những
phán quyết phạm pháp có thể xảy ra và cơn lũ kiện tụng dân s
có thể đẩy công ty đến chỗ phá sản? Critchlow tiết lộ rằng Merrill
đã mất hơn 20 tỉ đô-la vốn thị trường chủ yếu do sự tổn hại danh
tiếng từ những cuộc khủng hoảng trên.
Những cuộc khủng hoảng này chứng tỏ sự sụp đổ nghiêm trọng
trong văn hóa đáng tự hào của Merrill. Một số nhân viên Merrill đã
xa rời lời tuyên b thường được trích dẫn của cựu chủ tịch
William Schreyer: “Không gì quan trọng hơn danh tiếng của công
ty”. Loạt khủng hoảng này cũng vi phạm các nguyên tắc của
Mer*rill được lit kê trong nhiều ấn bản khác nhau của doanh
nghiệp và được treo một cách trang trọng trên các bức tường văn
phòng. Danh sách các nguyên tc này đặt “sự quan tâm đến
khách hàng” lên trên hết, cụ thể là: “Trong ngành công nghiệp
cạnh tranh ngày càng cao của chúng ta, thành công không ph
thuộc vào khả năng bán một sản phẩm hay dịch vụ nào đó, mà
phụ thuộc vào mức độ tin cậy của khách hàng đối với Merrill
Lynch”.