Sáu bài học từ các cuộc khủng hoảng
Mỗi ln nền kinh tế trải qua nhữngn khủng hoảng, thì đây chính là cơ hội
cho các nhà lãnh đạo kiệt xuất được tôi luyện qua thử thách. Hay nói cách
khác, cuộc khủng hoảng tài chính trong thi gian gần đây đã gi ra nhiều bài
học cần suy ngẫm.
Tuy nhiên, chthể học hỏi được được điều gì đó khi chúng ta thực sự thấu
hiểu bản chất của cuộc khủng hoảng đó không phải là hệ quả của những
sai lầm trước đây hay do bất kỳ vận mệnh đen đủi nào. Vậy đâu mới là
nguyên nhân?
Trong quá trình viết bài “7 điều dẫn đến thất bại lớn” (Seven ways to Fail
Big) cho tạp chí Havard Business Review và cuốn “Bài học t đô: Bạn có
thể học được gì từ những thất bại không thể bào chữa trong 25 năm qua?
(Billion-Dollar Lessons: What You Can Learn from the Most Inexcusable
Business Failures of the Last 25 Years) mới được xuất bản gần đây, chúng
tôi đã thực hiện một công trình nghiên cu với 2500 vụ thất bại lớn.
Kết quả của nghiên cứu cho thấy: Sự sụp đổ dây chuyền ca hàng loạt
những tập đoàn như Washington Mutual, Wachovia, Lehman Brothers, AIG,
Bear Stearns, Merrill Lynch hay rất nhiều các tổ chức khác đều sớm bắt
ngun từ các chiến lược đầy nghi ngmà đáng lhọ cần phải tuyệt đối
tránh.
Dưới đây là sáu bài học mà nếu biết tiếp thu từ cách đây một thp kỷ, thì
lẽ chúng ta không phải trải qua tình thế như hin nay.
Không biến mọi khoản tiền thành các khoản trả trước
Liệu có phi chính người cho vay thâu tóm các tài sản thế chấp, giám đốc
ngân hàng tung ra các trái phiếu, hay người bán hàng có quyn chấm dứt các
bản hợp đồng trước khi kết thúc q cuối năm?
Thực ra, chínhc nhà giao dịch mới là người phi chịu trách nhim với sự
sng còn của những quyết định này cho tới tận nhiều năm sau. Những cá
nhân đảm nhiệm vai trò tạo ra các thương vụ nên gn chặt các khoản phúc
li bồi thường vi tình hình hot động lâu dài ca những thương vụ đó.
Công ty vin thông Green Tree Financial đã cảnh báo v việc mi chuyện sẽ
nguy him như thế nào nếu tách rời các khoản p trả trước khỏi trách nhiệm
lâu i.
Vào những năm 90 ca thế kỷ trước, Green Tree có cung cấp loại hình dịch
vụ thế chấp các căn nhà di động (mobile homes), và các hợp đồng thế chấp
thường kéo dài khong 30 năm. Trong khi đó, những tài sn (nhà di động)
được mang ra đảm bảo thường chỉ có vòng đời sử dụng khoảng từ 10 tới 15
năm.
Tuy nhiên, phần lớn thu nhập của Green Tree từ Tổng Giám đốc Điu
hành cho ti các nhân viên cấp dưới đều gn vi tốc độ tăng trưởng của số
lượng các tài sản thế chấp. Chính vì thế đã dẫn đến tình trạng các khoản n
xấu gia tăng với tốc độ chưa từng thy tại công ty.
Khi các vn đề bắt đầu phát sinh, Green Tree thực sự phải dàn xếp để bán lại
cho Tập đoàn Bảo hiểm Conseco với giá gn 6 tỷ USD vào năm 1999. Sau
đó, Conseco tuyên bố xóa bỏ tất cả các khoản li nhun mà Green Tree từng
lưu giữ và hãng này cũng i vào tình trạng thua lkéo dài dẫn đến phải đệ
đơn xin phá sản (2002).
Bỏ qua những bài hc của Green Tree, những người cho vay dưới chuẩn
(subprime lenders)[1] cũng hoàn toàn b mê hoặc và chy theo những khoản
phí trả trước, tạo ra một con số đáng kinh ngc về các khoản nợ xu, mà sau
đó đều được chuyn thành chứng khn và được mang ra giao dch.
Mối tương quan ngầm từ các rủi ro
Các rủi ro có thể có mi tương quan ngầm mà đôi khi bạn không nghĩ tới.
Nói một cách khác, dù chỉ là một vấn đề đơn lẻ phát sinh, nhưng khi chúng
thực sự trầm trọng, thì sẽ dẫn tới những hu quả khôn lường.
Quỹ phòng chng rủi ro[2] cho rằng bản thân họ đã thực hin đa dạng hóa
rủi ro ngay từ những năm 90. Nhưng sau đó, chính quỹ này phi chứng kiến
sự xuống dốc đồng loạt của toàn bộ danh mục đầu tư và cuối cùng cũng đi
tới kết cục b sụp đổ vào năm 1998.
Có lẽ bài học này đã bị lãng quên, nên một kết cục tương tự vừa xảy ra với
Tập đoàn tài chính Merrill Lynch hay Ngân hàng WaMu (Washington
Mutual Inc), họ đã xây dựng hàng lot danh mục đầu tư khng lồ các chng
khoán phát hành dựa trên nhng khoản vay cầm cố địa ốc.
Những danh mục này ch yếu dựa trên các số liệu quá khứ cho thấy thị
trường đa ốc đã bị khu bit – hay nói một cách dễ hiểu là thị trường
Denver độc lập vi Sacramento, và Sacramento lại độc lập với Pittsburgh.
Dù vy, tn thực tế, cuộc khủng hoảng tín dụng (credit crunch)[3] đã đánh
bại hoàn toàn tất cả mọi thị trường và tất cả các thể loại người cho vay,
không trừ một ai.
nh thanh khoản có thể biến mất trong khủng hoảng
Khi xảy ra khủng hoảng, tính thanh khoản có thể biến mất ngay trong chốc
lát.
Quỹ phòng chng rủi ro từng cho rằng, khi các vn đề nảy sinh, hhoàn
toàn có thể tháo gỡ từng vn đề một cách ổn thỏa. Nhưng trên thực tế lúc đó
đã không còn shin diện của bất kỳ một khách hàng nào na - mọi người
mua đều đã ra đi.
Điều tương tự cũng xảy ra vi Merrill Lynch, WaMu và một số tập đoàn
khác. Tâm lý hoang mang, s hãi lan nhanh trong th trường tới nỗi không
một ai muốn bỏ tiền ra mua lại các khoản nợ của họ - dù ở bất kỳ mức giá
nào.
Trong khi đó, lúc Ngân hàng Hoa K (Bank of America) quyết định thực
hiện thương vụ mua lại Merrill Lynch vi mức giá hời – 50 tỷ USD, cũng
chính là lúc họ thu về được một khoản nợ xấu lên tới 64 tỷ USD, mà theo
tính toán thì cuối cùng nó st quá cả chi p thực của vụ mua bán.