Năng suất – phần 1A

VAI TRÒ CHIẾN LƯỢC CỦA SẢN XUẤT

1. Vai trò trung hòa bên trong: Trung hòa các khả năng xấu

2. Vai trò trung hòa bên ngoài: Bắt kịp các đối thủ cạnh tranh

3. Vai trò hỗ trợ bên trong: Tạo ra một sự hỗ trợ đáng tin cậy cho chiến

lược kinh doanh tổng thể

4. Vai trò hỗ trợ bên ngoài: Sản xuất đóng vai trò quan trọng trong việc

giúp cho công ty đạt được những lợi thế so với các đối thủ cạnh tranh của mình.

Các sứ mệnh của sản xuất thể hiện ở:

- Chất lượng

- Độ tin cậy

- Tính linh hoạt về thiết kế

- Tính linh hoạt về sản lượng

- Hiệu quả chi phí

Các nguồn lực:

- Nhân công trực tiếp

- Nguyên liệu và các phụ kiện

- Thiết bị vốn

- Hệ thống (quản lý)

- (Thời gian)

Các ưu tiên cạnh tranh (Tầm quan trọng giảm theo thứ tự)

Châu Âu Mỹ Nhật Bản

Chất lượng ổn định Chất lượng ổn Cạnh tranh về giá cả

định Giao sản phẩm tin Sản phẩm tin cậy

cậy Giao sản phẩm tin Chất lượng ổn định

cậy Sản phẩm tin cậy Giao sản phẩm

Sản phẩm tin cậy Giao sản phẩm nhanh

nhanh Cạnh tranh về giá Hiệu quả cao

Cạnh tranh về giá cả Giao sản phẩm Giao sản phẩm tin

nhanh Giới thiệu sản phẩm cậy

mới nhanh Giới thiệu sản Đáp ứng thị hiếu

phẩm mới nhanh Sản phẩm hiệu quả khách hàng

cao Sản phẩm hiệu quả

Đáp ứng thị hiếu cao Sản phẩm đa dạng

khách hàng Hỗ trợ sản phẩm Dịch vụ sau bán

Hỗ trợ sản phẩm hiệu quả hàng

hiệu quả Thay đổi phối hợp …

… nhanh Sản phẩm bền

Linh hoạt về thiết kế … Thay đổi phối hợp

Sản phẩm đa dạng Linh hoạt về thiết nhanh

kế Thay đổi phối hợp Hỗ trợ sản phẩm

nhanh chóng Phân phối rộng hiệu quả

Phân phối rộng Dịch vụ sau bán Phân phối rộng

hàng

Thay đổi sản

lượng

Những ưu điểm so với các đối thủ cạnh tranh mạnh nhất

(ưu điểm giảm dần theo thứ tự)

Châu Âu Mỹ Nhật bản

Độ tin cậy Độ tin cậy Độ tin cậy

Nhất quán về chất Nhất quán về chất Bền

lượng lượng

Hiệu quả cao Hiệu quả cao Hiệu quả cao

Nhất quán về chất Bền Bền lượng

Giao sản phẩm Giao sản phẩm tin Giao sản phẩm tin

nhanh cậy cậy

Giao sản phẩm tin Đáp ứng thị hiếu Hỗ trợ hiệu quả

cậy khách hàng

Đáp ứng thị hiếu Sản phẩm đa dạng Sản phẩm đa dạng khách hàng

Đáp ứng thị hiếu Thay đổi sản lượng Sản phẩm đa dạng

khách hàng nhanh

Thay đổi sản lượng Giao sản phẩm Hỗ trợ sản phẩm

nhanh nhanh

Thay đổi phối hợp Thay đổi phối hợp Giao sản phẩm

nhanh nhanh nhanh

Thay đổi thiết kế Phân phối rộng Phân phối rộng nhanh

Cạnh tranh về giá Cạnh tranh về giá Giới thiệu sản phẩm

mới nhanh

Giới thiệu sản phẩm Giới thiệu sản phẩm Cạnh tranh về giá

mới nhanh mới nhanh

Năng suất – phần 1B

Điều gì xảy ra nếu chúng ta làm sai?

Giả sử là Liệu có bền vững hay không?

ĐỊNH NGHĨA MỚI VỀ NĂNG SUẤT

(cid:0) Quản lý sản xuất là gì?

(cid:0) Định nghĩa truyền thống về năng suất

(cid:0) Các định nghĩa thích ứng

(cid:0) Một cách nhìn mới về năng suất

(cid:0) Các sản phẩm bao gồm dịch vụ

(cid:0) Bán hàng và làm thỏa mãn

(cid:0) Sự thỏa mãn của khách hàng trên phương diện sản xuất

(cid:0) Vai trò của quản lý tổng hợp

(cid:0) Giá trị tương đối của nguồn lực

(cid:0) Đo lường năng suất

Vai trò mới của quản lý sản xuất là tạo ra một thế mạnh cạnh tranh bền

vững. Vấn đề là nó được tạo ra bằng cách nào? Điểm lại vai trò truyền thống của

sản xuất sẽ là cách tốt nhất để có thể mô tả điều cần thay đổi và nguyên nhân của

những thay đổi về môi trường.

Không chỉ đơn thuần là quản lý sản xuất cần thích nghi với những thay đổi

về môi trường. Những định nghĩa mà dựa vào đó môn học được hình thành cũng

cần được xem xét lại, hơn nữa còn cần chú trọng nghiên cứu kỹ hơn về mục tiêu

chiến lược của toàn doanh nghiệp.

Như vậy, rõ ràng xác định được thứ tự ưu tiên và đo lường chính xác việc

vận dụng những khái niệm về năng suất là bước khởi đầu trong việc quản lý sản

xuất trong tương lai.

Quản lý sản xuất là gì?

Nhân tố then chốt của quản lý sản xuất là năng suất. Sản xuất là một bước

trong mục tiêu của công ty là tạo ra giá trị cho khách hàng – đó cũng là giá trị

được hình thành do chức năng triển khai và được đưa ra thị trường nhờ chức năng

Marketing.

Sản xuất biến vật tư nguyên liệu, chi tiết và các dịch vụ thành các sản phẩm

cuối cùng. Quản lý sản xuất nhằm tối ưu hóa quá trình biến đổi đó hoặc nói cách

khác, làm tăng năng suất.

Định nghĩa truyền thống về năng suất

Năng suất theo truyền thống được định nghĩa là mối quan hệ giữa đầu vào

và đầu ra trong quá trình biến đổi (xem bảng 2.1). Quản lý sản xuất nhằm làm tăng

đầu ra với một lượng đầu vào xác định, giảm đầu vào sử dụng cho một lượng đầu

ra xác định hoặc đồng thời cả hai hướng.

Tuy nhiên, khái niệm đầu ra và đầu vào rất trừu tượng nên khó vận dụng, vì

vậy, những khái niệm đó thường được diễn giải thành một số khái niệm cụ thể

hơn.Đầu ra được hiểu là tấn thép, nghìn lít bia hay số xe hơi được làm ra.

Đầu vào là các đơn vị nguồn lực được sử dụng chủ yếu trong sản xuất và

thường được chia ra thành bốn loại:

Bảng 2.1 Định nghĩa về năng suất

hhhhĐầu ra

Lao động trực tiếp: Số lượng giờ lao động trực tiếp phân bổ cho quá

trình biến đổi.

Thiết bị: Thể hiện giá trị những khoản đầu tư vào nhà xưởng, máy

móc hoặc hệ thống thông tin.

Nguyên liệu: Vật tư, nguyên liệu, phụ kiện, bán thành phẩm tham gia

vào quá trình biến đổi.

Hệ thống: Hệ thống giúp quản lý sản xuất hoạt động được.

Loại nguồn lực cuối cùng, bao quát một phạm vi khá rộng, gồm bảo dưỡng,

qui trình công nghệ, quản lý nhân lực sản xuất, giám sát, các hệ thống kiểm tra

cũng như các loại hoạt động của lao động gián tiếp khác, cần thiết để duy trì quá

trình sản xuất diễn ra một cách suôn sẻ.

Định nghĩa này ngày nay đang được sử dụng một cách rộng rãi. Tuy nhiên,

chương này lại đưa ra lập luận cho rằng định nghĩa này đã lỗi thời, mặc dù các tổ

chức quốc tế như Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đánh giá năng suất

của họ thông qua công cụ đo lường này.

Một số đánh giá về năng suất, thậm chí còn dựa trên những định nghĩa hẹp

hơn, ví dụ như về tổng số nhân công trực tiếp. Tài liệu có ý định chỉ ra rằng định

nghĩa trên đã không còn thích hợp với quá trình quản lý sản xuất nữa.

Tuy vậy, người đọc cũng cần nhớ rằng rất nhiều kết quả so sánh quốc tế

vẫn dựa trên định nghĩa cũ này.

Các định nghĩa thích ứng

Đối với quản lý sản xuất hiện đại, việc giới hạn quan niệm về sản phẩm chỉ

ở sản lượng không tồn tại nữa. Nếu nói rằng sản xuất hàng tấn thép hay hàng

nghìn lít bia là chưa đủ.

Ngày nay, khách hàng còn đòi hỏi chúng được sản xuất ra với mức độ chất

lượng nhất định, trong một phạm vi thời gian nhất định và được đưa đến những địa

điểm cụ thể.

Những hãng hàng không an toàn nhất, với chi phí nguyên liệu tiết kiệm

nhất, với những dịch vụ từ bữa ăn đến những dịch vụ chiếu phim trên máy bay,

với phi hành đoàn niềm nở, phòng chờ tiện nghi và giá rẻ nhất cũng trở nên vô giá

trị nếu như chuyến bay đó cất cánh chậm 2 giờ và làm cho bạn lỡ một cuộc họp

quan trọng.

Về phương diện đầu vào cũng có những thay đổi to lớn. Bốn loại nguồn lực

vẫn còn có giá trị, tuy nhiên, tầm quan trọng tương đối của chúng có thay đổi. Các

sách giáo khoa kỹ thuật công nghiệp thường đã (và thậm chí hiện nay vẫn) giả

định rằng tăng năng suất có nghĩa là giảm số lượng nhân công trực tiếp trong quá

trình sản xuất, vì thế, các chương trình tăng năng suất lao động thường hướng đến

việc thay thế nhân công lao động trực tiếp bằng các thiết bị và hệ thống với hy

vọng là giá trị tổng thể của các nguồn lực được sử dụng sẽ giảm xuống.

Các thế hệ kỹ sư đã bị nhồi nhét điều răn thứ nhất của kỹ thuật công

nghiệp: Nhà ngươi hãy thay thế con người bằng máy móc. Và điều đó đã diễn ra.

Nhân công lao động trực tiếp đã giảm xuống.

Đến năm 1990, chi phí nhân công trực tiếp đã giảm 15% trong tổng chi phí

sản xuất (xem bảng 2.2).Trong nhiều ngành công nghiệp, đặc biệt trong các ngành

lắp ráp, tỷ lệ nhân công trực tiếp trên tổng chi phí sản xuất đã giảm xuống một con

số.

Trong ngành lắp ráp máy tính cá nhân, chi phí nhân công trực tiếp chỉ

chiếm 1 đến 2 % tổng chi phí. Thậm chí trong nhiều ngành công nghiệp truyền

thống đòi hỏi nhiều lao động như ngành may mặc, tổng chi phí nhân công trực tiếp

chỉ chiếm 6 – 7 %.

Tuy thế, định nghĩa về năng suất đã không được xét đến trong quá trình

thay đổi mạnh mẽ này.Nền sản xuất hiện đại rõ ràng là cần đến một định nghĩa

mới về năng suất.

Bảng 2.2 Tỷ lệ chi phí nguồn lực sản xuất trong tổng chi phí sản xuất

(1991)

Châu Âu Mỹ Nhật

Chi phí nguyên 55,3

liệuNăng lượngNhân công 53,4 %4,8 59,5 %4,0 %4,8 % 16,6 % trực tiếpThiết bị và chi phí % 13,2 %28,5 % %16,3 %20,5 % 23,4 %

quản lý

Nguồn: J.G Miller, A De Mayer và J. Nakane, Global Benchmarking in

Manufacturing. Homewood, IL.: Business One Irwin, 1992.

Năng suất – phần 1C

Một cách nhìn mới về năng suất

Một định nghĩa thích hợp hơn về năng suất sẽ hướng sự tập trung từ máy

móc sang một biến số quan trọng hơn nhiều: Đó là khách hàng (xem bảng 2.3).

Mục đích của quá trình sản xuất là tạo ra những giá trị cho khách hàng, do đó, yếu

tố này cần phải được xem xét trong định nghĩa về năng suất.

Định nghĩa này cũng cần thiết phản ánh những sự phát triển khác, ví dụ như

sự chuyển đổi tương đối giữa cơ cấu các nguồn lực khác nhau và sự xuất hiện của

các loại nguồn lực mới.

Tất cả những điều đó đưa đến một định nghĩa sau đây về sản lượng đầu ra:

Sản lượng đầu ra là các sản phẩm và/hoặc dịch vụ làm thỏa mãn khách

hàng. Và đầu vào sẽ được định nghĩa và các nguồn lực được phân bổ một cách

khôn ngoan.

Các sản phẩm bao gồm dịch vụ

Định nghĩa đầu ra nêu trên đưa ra một cách rõ ràng những thách thức đối

với các nhà quản lý sản xuất. Mọi từ trong đó đều rất quan trọng.

Sản phẩm và/hoặc dịch vụ là những nhận thức mà chỉ một khái niệm sản

phẩm thôi không đủ, chúng chỉ là một phần của khái niệm trọn gói, bao gồm vai

trò của dịch vụ, mà vai trò này ngày càng tăng lên.Không ai lại chỉ bán có sản

phẩm không thôi.

Các công ty máy tính bán các giải pháp mà công ty thiết bị Digital gọi là

“xí nghiệp tổ hợp”. Volvo không bao giờ bán bất kỳ cái gì tương tự như xe hơi, nó

bán “phương tiện đi lại an toàn với giá bán phải chăng”.

Bảng 2.3.Năng suất theo cách nhìn mới

hhhhSản phẩm và dịch vụ thỏa mãn khách hàng

Năng = —————————————————————–

suất

“cách hhhhCác nguồn lực phân bổ một cách khôn ngoan

nhìn mới”

Định nghĩa này giải thích việc mua sắm gần đây của một công ty bảo hiểm

lớn. Cách nhìn nhận mới cho phép người bán đưa ra một sản phẩm trọn gói cho

khách hàng của mình.

Nó bao gồm xe hơi và cả dịch vụ đi kèm từ các dịch vụ tài chính, dịch vụ

sau bán hàng đến hợp đồng bảo hành và bảo dưỡng.Tương tự như vậy, khách hàng

không chỉ mua thuốc – đó chỉ là phần nhìn thấy được của tảng băng phức hợp.

Khách hàng mua sự đảm bảo an toàn được biểu thị bằng các hệ thống sản

xuất có độ phức tạp cao. Hệ thống đảm bảo rằng một công ty có thể ngay lập tức

lần lại mọi yếu tố để tìm ra một viên thuốc hỏng trên toàn dây chuyền ngược lại từ

quá trình sản xuất đến người cung ứng.

Ví dụ này chỉ ra rằng cùng với các dịch vụ truy tìm, chức năng sản xuất

phải bao gồm các hệ thống thông tin tại bất kỳ giai đoạn nào của quá trình sản

xuất.

Bán hàng và làm thỏa mãn

Định nghĩa về năng suất nhấn mạnh một thực tế rằng một sản phẩm cần

phải thỏa mãn khách hàng. Điều đó mang nhiều ý nghĩa hơn chỉ đơn giản là bán

hàng.

Bán một cái gì đó thì tương đối dễ. Một người bán hàng thạo việc hầu như

có thể bán mọi thứ. Thách thức là ở chỗ bán hàng sao cho khách hàng quay trở lại

và đề nghị bạn bán cho họ một sản phẩm khác.

Đó chính là điều quá trình sản xuất cần phải sự tập trung nỗ lực của nó.Một

sản phẩm chỉ được xem như có đóng góp vào năng suất sau khi nó đã thỏa mãn

một khách hàng. Rất nhiều khi chúng ta đo lường năng suất ngay tại cổng nhà

máy.

Năng suất mà đo lường bằng các kiện hàng ngoài cổng nhà máy khuyến

khích người ta sản xuất ra nhiều kiện hàng hơn. Nhưng nó cũng có thể khuyến

khích người ta sản xuất những kiện hàng mà không ai muốn.

Một công ty máy tính lớn của Mỹ đã có khó khăn khi đưa các sản phẩm (tổ

hợp cả phần cứng và phần mềm) đến với khách hàng của nó đúng thời gian. Một

trong số những chỉ số đo lường về năng suất chủ yếu của họ, vì phân phối sản

phẩm đến tay khách hàng muộn, đã liên tục phát các tín hiệu báo động.

Một nỗ lực quản lý nhằm chỉnh đốn đã sớm giải quyết một số khúc mắc

trong các kênh phân phối. Mặc dù một số phần trong các kênh phân phối vẫn còn

chưa đúng thời gian, số lượng trung bình của các đợt phân phối bị chậm đã giảm

xuống dưới mức qui định.

Do đó, thậm chí có rất nhiều đơn đặt hàng vẫn đến với công ty.Đo lường

năng suất tại cổng nhà máy là một sự tiến bộ đáng kể. Chỉ có một vấn đề tồn tại là

đối với khách hàng là một đợt phân phối sản phẩm sớm cũng làm phiền họ như

một đợt bị muộn vậy.

Một số đơn đặt hàng được phân phối sớm hoặc muộn tăng lên trong khi

không bao giờ đúng hạn cả. Về phương diện sự thỏa mãn của khách hàng, kết quả

hoạt động như thế đã thực sự là một sự suy giảm.

Chỉ khi chúng ta đo lường sản lượng (và qua đó đo lường năng suất) từ

quan điểm của khách hàng thì chúng ta mới có thể tính toán được một cách thực

tế.

Năng suất – phần 1D

Sự thỏa mãn của khách hàng trên phương diện sản xuất

Theo truyền thống, sản xuất đã sử dụng khái niệm sứ mạng để mô tả sự

đóng góp của nó vào giá trị khách hàng. Hoàn thành được sứ mạng chiến lược là

một trong những nhiệm vụ quan trọng của các nhà quản lý sản xuất.

Tầm quan trọng của tuyên bố sứ mạng này là ở chỗ xác định mục tiêu nào

trong số các mục tiêu sản xuất là mục tiêu ưu tiên. Mục tiêu nào được lựa chọn

phản ánh chiến lược công ty.

Sản xuất có thể theo đuổi những sứ mạng khác nhau phản ánh những giá trị

khác nhau của khách hàng:

Chất lượng

(cid:0) Phân phối một cách tin cậy

(cid:0) Hiệu quả chi phí

(cid:0) Khuynh hướng đáp ứng thị hiếu khách hàng

(cid:0) Sản lượng linh hoạt BMW, Mercedes và Lexus lựa chọn cách thức thỏa

mãn khách hàng bằng cách đưa ra một sản phẩm chất lượng cao.

Trong những trường hợp khác, ví dụ như trường hợp của quá trình sản xuất

linh hoạt kịp thời khi dây chuyền phục vụ khách hàng là một yếu tố xác định, phân

phối một cách tin cậy sẽ được ưu tiên.

Một số sản phẩm, ví dụ như nhiên liệu, được mua bán đơn giản chỉ dựa

trên giá cả, do đó, nhiệm vụ chủ yếu của nhà sản xuất là làm sao tăng được hiệu

quả chi phí.

Các công ty khác đặt nhiệm vụ chiến lược của mình trên việc đưa ra những

số lượng đáng kể các sản phẩm có khuynh hướng đáp ứng thị hiếu khách hàng,

trong khi đó, vẫn còn những công ty, ví dụ như trong các ngành công nghiệp theo

mùa, bị lệ thuộc vào đặc điểm kinh doanh của họ, tìm cách đảm bảo một mức độ

sản lượng linh hoạt.

Trong ngành sản xuất xe hơi, khuynh hướng đáp ứng thị hiếu khách hàng là

một ưu tiên hàng đầu. Quyết định đầu tiên của khách hàng là mua loại xe nào.

Nhưng một khi sự lựa chọn đã được xác định, sản phẩm sẽ được đưa ra thị trường

với một tập hợp nhiều chủng loại phong phú để lựa chọn.

Khi loại xe cải tiến Audi 80 được đưa ra chào bán vào mùa thu năm 1991,

công ty đã đưa ra 14 kiểu xe cơ bản với động cơ và hệ thống truyền động khác

nhau. Mười bốn kiểu này có thể tổ hợp được thành 262 mẫu xe khác nhau về màu

sắc và cấu tạo bên trong.

Khi bổ sung thêm những yếu tố lựa chọn khác, từ hệ thống khóa trung tâm

hay các hệ thống mở cửa điều khiển tự động bằng điện tử đến các đặc điểm khác

về bảo hiểm như túi khí và hệ thống chống kẹt phanh, người ta có thể tạo ra được

một số lượng tổ hợp các mẫu khác nhau nhiều đến trên 5,9 triệu kiểu khác nhau.

Thật khó có thể tìm thấy được hai chiếc Audi 80 giống hệt nhau cùng chạy

trên đường.Khuynh hướng đáp ứng thị hiếu khách hàng đang trở nên một hiện

tượng phổ biến và ngày càng có nhiều công ty đưa khuynh hướng này vào phương

châm hành động sản xuất của công ty.

Xu thế đa dạng hóa giờ đây đang trở nên hiển nhiên ở hầu hết mọi sản

phẩm từ các thiết bị Hi – Fi đến các xe đạp địa hình. Trang thiết bị sản xuất có thể

thích hợp với mọi tổ hợp phức tạp với các cách lắp ráp khác nhau các loại hàng

hóa để phục vụ cho những khách hàng có yêu cầu về một kiểu thiết kế đặc biệt.

Mặt khác, các nhà sản xuất bia hơi cũng quan tâm đến tính linh hoạt về sản

lượng. Người ta uống bia khi thời tiết nóng nực. Họ lại uống cacao khi thời tiết trở

lạnh. Mối liên hệ trực tiếp giữa loại hàng hóa này với nhiệt độ, kết hợp với đặc

tính vòng đời rất ngắn của sản phẩm bia hơi mang ý nghĩa là nó phải được sản

xuất khi người ta muốn tiêu dùng nó.

Hầu như không thể dự trữ bia hơi với số lượng lớn. Vì thế, một điểm ưu

tiên hàng đầu của việc chuyên môn hóa vào sản xuất bia hơi là khả năng tăng hoặc

giảm thật nhanh mức sản xuất.

Lý tưởng nhất là khi các nhà sản xuất đưa ra một sản phẩm ở mức giá phải

chăng, vừa hấp dẫn lại có chất lượng cao, đáp ứng được thị hiếu đa dạng của

người tiêu dùng và với một mức sản lượng cung ứng linh hoạt.

Trên thực tế, không thể đạt được tình trạng mọi chỉ tiêu đều tối ưu. Điều

kiện công nghệ không cho phép. Một số điều khoản trong phương châm hành

động quy định những mục tiêu chất lượng.

Một mức tối thiểu về chất lượng hay tính linh hoạt và một mức độ tối đa về

chi phí được quy định chỉ nhằm đảm bảo có thể chống chọi được với sự cạnh tranh

mà thôi.

Điều đó có nghĩa là phương châm hành động – và cả môi trường làm tiền

đề cho xác định phương châm hành động này – phải được các cấp thực hiện chức

năng sản xuất nhận thức thật đầy đủ.

Mục tiêu của các nhà sản xuất ở châu Âu ngày nay

Cuộc khảo sát về tương lai của ngành sản xuất ở châu Âu do viện INSEAD

thực hiện trong khoảng thời gian 9 năm vừa qua ở các hãng chế tạo hàng đầu châu

Âu, đã minh họa những bản tuyên bố về phương châm hành động và những ưu

tiên ngắn hạn của các hãng sản xuất của châu Âu ngày nay.

Bảng 2 .4 cho biết những yếu tố được một công ty trung bình ở châu Âu coi

là đáng giá ưu tiên, xếp theo thứ tự tầm quan trọng. So với năm điểm được nêu lên

ở trên, bảng này trình bày chi tiết hơn nữa về mục đích tôn chỉ hoạt động do đã sử

dụng một định nghĩa chi tiết hơn. Ví dụ, chất lượng được chia thành ba khái niệm

riêng biệt:

Giảm tỷ lệ khuyết tật (đo lường bên trong)

(cid:0) Tăng độ tin cậy đối với sản phẩm (mục tiêu thị trường bên ngoài)

(cid:0) Hiệu quả sản xuất cao

Năng suất – phần 1E và hết

Bảng 2.4

Sự phát triển của ưu tiên cạnh tranh ở châu Âu

(trên cùng có nghĩa là quan trọng nhất)

Xếp hạng thứ tự ưu tiên hhh Xếp hạng thứ tự ưu tiên

cạnh tranh (1990) cạnh tranh(1992)

Nguồn: Kết quả điều tra về tương lai ngành chế tạo ở châu Âu, 1990 và

1992Vào những năm 1990, ba khái niệm này về chất lượng cùng với việc phân

phối sản phẩm một cách đáng tin cậy đã được đánh giá là bốn điểm ưu tiên hàng

đầu.

Các cuộc tranh luận với các nhà quản lý đã dẫn đến một kết luận là các

hãng sản xuất trung bình ở châu Âu, trong khi theo đuổi các mục tiêu này, đã hình

thành được khái niệm quản lý chất lượng đồng bộ cho mọi khía cạnh của một bản

tuyên bố về phương châm hành động cơ bản cho những năm 1990.

Phân phối sản phẩm nhanh được xếp là yếu tố có thứ tự yêu tiên thứ hai

ngay sau tiêu chuẩn chất lượng trong bảng xếp hạng trên. Trong khi đó, yếu tố

cạnh tranh về giá cả với ý nghĩa làm tăng tính hiệu quả về chi phí lại chỉ dành

được vị trí ưu tiên ở mức trung bình.

Các điểm ưu tiên liên quan đến khả năng đáp ứng thị hiếu khách hàng và

tính linh hoạt về sản lượng chỉ được xếp vị trí gần cuối bảng.Có thể các hãng chế

tạo trung bình ở châu Âu chỉ muốn cải thiện về giá cả, chi phí và mức độ linh hoạt

chứ không phải tập trung vào việc cạnh tranh về chất lượng đồng bộ.

Tuy nhiên, điều đó có thể chưa đủ để khẳng định. Mỗi công ty đều theo

đuổi những chiến lược rất khác nhau và thậm chí các công ty trung bình trong một

nghành nhất định để thể hiện những nét riêng biệt.

Các công ty lắp ráp các sản phẩm và dụng cụ điện tử thường chú trọng đến

tầm quan trọng của việc nhanh chóng tung ra thị trường những thiết kế sản phẩm

mới (khuynh hướng đáp ứng thị hiếu khách hàng).

Các hãng sản xuất hàng tiêu dùng mau hỏng, ví dụ như thực phẩm và đồ vệ

sinh, lại chú ý nhiều đến tính cạnh tranh về giá cả (hiệu quả chi phí).Bằng cách so

sánh với kết quả của năm 1992, sự phát triển về phương châm hành động của

những hãng chế tạo ở châu Âu có thể xác định được (xem bảng 2 .4, cột thứ hai).

Chất lượng luôn là yếu tố ưu tiên hàng đầu của các hãng chế tạo ở châu Âu.

Nhưng so sánh với năm 1990, có thể nhận thấy có những thay đổi đáng lưu ý trong

năm nhân tố được ưu tiên nhất.

Các hãng chế tạo châu Âu dường như lưu tâm hơn đến tính cấp thiết của

việc cạnh tranh bằng giá cả và việc phân phối sản phẩm một cách nhanh chóng và

đáng tin cậy.

Việc giới thiệu sản phẩm mới cũng dành được thứ tự ưu tiên cao trong

danh sách, ở vị trí thứ sáu năm 1992, ngay sau chất lượng, phân phối sản phẩm và

giá cả.

Nhưng khả năng thay đổi nhanh chóng thiết kế sản phẩm đã bắt đầu xuất

hiện. Năm 1990, tiêu chuẩn này còn đứng ở cuối danh sách ưu tiên, nhưng đến

năm 1992 đã được đưa lên vị trí thứ 13.

Các hãng sản xuất châu Âu coi chỉ tiêu này như một điều kiện cần thiết để

tung ra thị trường được nhiều sản phẩm mới và thật nhanh chóng nhưng họ lại

không muốn thay đổi sản phẩm hiện hành một cách thường xuyên đối với sản

phẩm (và mọi thay đổi về quá trình công nghệ dẫn đến kết quả này), đồng thời

cũng thể hiện một sự thừa nhận về những thay đổi lớn về sản phẩm sẽ được đưa ra

ngày càng nhanh hơn.

Mục đích của sự so sánh không phải là nhằm vào những thay đổi mới xuất

hiện mà là ở việc nhấn mạnh vào sự thay đổi dần dần trong cơ cấu các mục tiêu ưu

tiên theo thời gian.

Vai trò của quản lý tổng hợp

Phương châm hành động trong sản xuất được coi là một chức năng trong

chiến lược kinh doanh và những cương lĩnh đó thường do các cán bộ quản lý tổng

hợp xây dựng.

Các công ty phải lựa chọn phương châm hành động hay tập hợp những

phương châm hành động nào chỉ ra được một cách rõ nhất những chỉ tiêu họ mong

muốn cạnh tranh.

Điều đó vượt quá ranh giới của chức năng sản xuất – nó sẽ thể hiện ảnh

hưởng về lâu dài. Cho dù phương châm sản xuất có được lựa chọn như thế nào

chăng nữa, chúng đều có ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ linh hoạt và sự lựa chọn

chiến lược lâu dài của công ty.

Sản xuất giống như một thùng chứa nhiên liệu. Một khi bạn đã chỉ ra được

sứ mệnh của nó thì không dễ gì có thể thay đổi lại được. Vì mật độ tài sản và

nguồn nhân lực tham gia khá cao, cần phải có thời gian để có thể thay đổi.

Các công ty cần thận trọng để tránh tình trạng tạo ra một chức năng gây trở

ngại cho chiến lược của công ty.Nếu chiến lược của một công ty sản xuất xe hơi là

bán các xe hơi đơn giản với giá rẻ để kiếm tiền, họ cần có một dây chuyền sản

xuất có thể tạo ra được hàng triệu kiểu xe khác nhau.

Công ty không muốn có một dây truyền lắp ráp cực kỳ hữu hiệu nhưng lại

không linh hoạt ở mức cần thiết để kiểm soát được quá trình cung cấp hậu cần

phức tạp nhằm đáp ứng việc phân phối nhanh chóng một kiểu xe thỏa mãn rất tốt

yêu cầu của khách hàng.

Tuy nhiên, không nên coi mật độ tài sản cao là một lý do cản trở tính linh

hoạt. Theo thời gian cấu trúc sản xuất cần được thay đổi và thích nghi với môi

trường cạnh tranh.

Gần đây, các công ty đã và đang điều chỉnh lại các phương châm hoạt

động, trong đó nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tính hiệu quả về chi phí theo

hướng ưu tiên tập trung vào chất lượng và khả năng tiếp thị của sản phẩm.

Vì vậy, ngay cả thùng nhiên liệu khi đó cũng có thể cần được thay đổi

hướng sử dụng. Sau đây là một ví dụ về khoảng thời gian cần để một công ty lớn

triển khai và thu được kết quả từ một chương trình chất lượng vào những năm

1980.

Corning Glass, một hãng sản xuất thủy tinh đặc biệt, đã đầu tư mạnh vào

một chương trình chất lượng từ năm 1982. Hoạt động của toàn công ty trở nên linh

hoạt hơn.

Những người quản lý cấp cao thể hiện thái độ ủng hộ mạnh mẽ cho chương

trình này thông qua một chương trình video được chiếu rộng khắp công ty. Quản

lý chất lượng là đề tài số một trong mọi chương nghị sự của các cuộc họp cấp

giám đốc.

Trong khi công ty nhanh chóng đạt được một vài tiến bộ, họ phải cần đến 5

năm để thành công trong việc đưa công ty thích ứng với những mối quan tâm ưu

tiên mới.

Họ cần đạt được sự thay đổi sâu rộng về bản sắc văn hóa của công ty –

trong đó bao hàm phương châm sản xuất – từ chỗ nhấn mạnh đến tính hiệu quả và

sức mạnh công nghệ sang chú trọng vào chất lượng và giá trị khách hàng.Phương

châm hành động cần được lựa chọn một cách cẩn thận và được thay đổi một cách

chiến lược.

Năng suất – phần 2A

Giá trị tương đối của nguồn lực

Việc thay đổi tầm quan trọng tương đối của bốn loại yếu tố đầu vào (lao

động trực tiếp, thiết bị, nguyên liệu và hệ thống) cần đến những thay đổi trong

chương trình nâng cao năng suất.

Tầm quan trọng ngày càng tăng của việc đầu tư vốn

Các thế hệ những người quản lý sản xuất đã được đào tạo theo quan niệm

cho rằng tăng năng suất có nghĩa là tăng năng suất của lao động trực tiếp. Ngày

nay, kết quả cho thấy là ý nghĩa của chức năng sản xuất nằm ở nơi khác.

Nỗ lực tăng năng suất giờ đây hướng trọng tâm vào việc chống lãng phí

trong việc sử dụng thiết bị và nguyên liệu.Bỉ là một nước có mức giờ công lao

động theo tuần và theo đầu người thấp nhất thế giới.

Nhưng họ cũng là một trong những nền kinh tế có năng suất cao nhất với tỷ

lệ sử dụng thiết bị rất cao. Điều đó chủ yếu lệ thuộc vào tính linh hoạt của lực

lượng lao động trực tiếp.

Nó cho thấy rằng năng suất lao động cao hơn là xuất phát từ việc có được

một khối lượng lớn những đồng Franc (Bỉ) để giảm chi phí nhân lực. Đó cũng

chính là nguyên nhân giải thích tại sao công nghiệp của Bỉ lại có khả năng giảm

được chi phí đầu tư vốn của họ.

Hiện tượng này không tồn tại ở cấp vĩ mô. Các công ty nhỏ thường có tính

linh hoạt cao do lực lượng lao động dễ điều chỉnh cho phép duy trì mức độ hoạt

động của máy móc thiết bị luôn ổn định.

Salmon, một công ty của Pháp chuyên sản xuất máy bơm và phụ kiện

đường cung cấp nước với 700 công nhân đã đưa vào áp dụng một hệ thống công

việc có thể tính theo tuần.

Ở hầu hết bộ phận, tuần làm việc dao động trong phạm vi 33 đến 43 giờ,

tùy thuộc nhu cầu. Vì vậy, thay vì cố định thời gian một tuần làm việc, đôi khi

công nhân rất nhàn rỗi và đôi khi lại cần có sự trợ giúp tạm thời khác, tính linh

hoạt đã được thiết lập ngay trong nội bộ lực lượng lao động của công ty.

Một số người làm việc theo hệ thống hai ca, mỗi ca 6 giờ, một số khác làm

việc theo hệ thống bốn ca hoặc năm ca. Kết quả là thiết bị được tận dụng tối đa và

được sử dụng ở mức 155 giờ mỗi tuần.

Thời gian còn lại không phải là thời gian ngừng máy mà là thời gian dành

cho việc bảo dưỡng.Những gì đúng với thiết bị thì cũng đúng với nguyên liệu.

Trong rất nhiều dây chuyền sản xuất, nguyên liệu và cấu kiện chiếm tới 80% chi

phí sản xuất.

Việc giảm lãng phí bằng cách nâng cao chất lượng và cải thiện hệ thống

kiểm soát bằng thống kê có thể có một ảnh hưởng đáng kể đối với năng suất dây

chuyền.

Theo kết quả khảo sát của McKinsey and Co. năm 1989, các giám đốc điều

hành của 230 công ty châu Âu hàng đầu đã cho rằng tổng số doanh thu của họ có

thể tăng lên trung bình 17% và chi phí khả biến có thể giảm xuống 35% nếu hệ

thống quản lý chất lượng đồng bộ được triển khai thực sự.

Nguồn lực mới: thông tin

Không ai có thể phủ nhận việc thông tin đóng vai trò quan trọng trong quản

lý sản xuất. Thông tin thị trường luôn giúp cho việc xác định năng lực sản xuất và

điều hành việc thực hiện các kế hoạch. Số liệu về qui trình công nghệ có thể góp

phần giúp cải thiện việc tổ chức quá trình sản xuất.

Tuy nhiên, xu thế hiện nay đã thể hiện một sự thay đổi rõ rệt, trong đó,

thông tin được coi là một nguồn lực riêng biệt.Để đáp ứng kịp thời với những thay

đổi về điều kiện hoạt động của thị trường và để đáp ứng tốt hơn những yêu cầu

của khách hàng, quá trình sản xuất đã đưa yếu tố thông tin vào tận từng phân

xưởng.

Trong một thế giới gồm các hệ thống cung ứng linh hoạt, kịp thời, các bộ

lọc chắn giữa người sản xuất và người tiêu dùng không thể tồn tại được nữa.

Những bộ phận chào hàng, những người nghiên cứu thị trường, những người lập

kế hoạch thị trường, những người lập kế hoạch sản xuất có vai trò rất quan trọng

nhưng cũng chính họ thường hay làm méo mó thông tin giữa người sử dụng và

người sản xuất.

Mối quan hệ cơ bản này cần được bảo vệ một cách thận trọng để tránh

những sai lệch có thể phát sinh từ những khâu trung gian khác.Thông tin cũng

được tổng hợp trực tiếp từ quá trình sản xuất.

Các số liệu về công nghệ, thị trường, người cung ứng và môi trường đã có

những đóng góp vào các quyết định chính sách có tính cạnh tranh. Thông tin đã

trở nên quan trọng hơn, không còn là yếu tố hỗ trợ sản xuất đơn thuần. Nó đã trở

thành một nguồn lực đầy đủ ý nghĩa của khái niệm này.

Cắt bỏ việc cung cấp thông tin sẽ làm nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng

chuyệch choạc, mất phương hướng.Các hãng sản xuất thời trang hay các mạng

lưới phân phối kiểu như hãng Marks & Spencer của Anh hiểu rất rõ rằng mọi sự

gián đoạn về thông tin đều có nghĩa là khó khăn sẽ nảy sinh đối với việc sản xuất.

Lĩnh vực này thường phải tổ chức xây dựng hai bộ sưu tập mẫu thời trang

hàng năm nhưng giờ đây, họ đã phải cho ra mắt ít nhất bảy bộ sưu tập. Các bộ

mùa hè và mùa đông đã được mở rộng thành bốn bộ theo từng mùa, thêm một bộ

cho lễ Giáng sinh, hai bộ cho thể thao, một bộ cho trời nắng, một bộ cho mùa

tuyết. Như vậy, công ty như kiểu Marks & Spencer chỉ có 35 ngày để đánh giá,

thiết kế, sản xuất và tung ra thị trường cho mỗi bộ sưu tập thời trang. Điều đó có

nghĩa là nếu họ chậm trễ một ngày trong việc đáp ứng với những khuynh hướng

mốt mới nhất, họ sẽ dễ dàng mất đi lợi thế cạnh tranh của mình. Tính kịp thời về

thời gian trong ngành công nghiệp này là yếu tố quyết định.

Và tất cả những điều đó tùy thuộc vào các nguồn thông tin thường xuyên và

được cập nhật từng giây phút.Thông tin sử dụng được xem như một nguồn lực tự

nhiên.

Vì không cần đến một khoản chi phí nào cho nó, dường như đang có một

thứ gì đó đang tự do “chảy” xung quanh chúng ta. Tuy nhiên, một khi thông tin đã

trở thành một nguồn lực sản xuất, nó cần được nhìn nhận theo một cách thức khác

đi.

Giống như mọi nguồn lực khác, nhân lực chẳng hạn, họ được lựa chọn, đào

tạo và đề bạt, nguồn thông tin phải được quản lý chặt chẽ. Rất nhiều câu hỏi cần

có những câu trả lời chính xác, ví dụ như:

Thông tin cho sản xuất được thu thập bằng cách nào và mức độ

thường xuyên ra sao?

(cid:0) Nó được lưu trữ như thế nào?

(cid:0) Nó được hoàn thiện như thế nào?

(cid:0) Các công ty học tập được gì từ những thông tin hiện nay?

(cid:0) Thông tin được xây dựng để mô tả quá trình, phản ứng của thị trường,

màng lưới những người cung ứng và những hiểu biết về tình trạng cạnh tranh cơ

bản khác như thế nào?

Các nguồn lực sản xuất không chỉ bao gồm yếu tố nhân lực. Mọi đầu vào

cần được đánh giá và được tính vào trong quá trình sản xuất và trong công tác

quản lý.

Năng suất – phần 2B

Những người cung ứng là những nguồn lực của công ty

Những người cung ứng cũng có thể có ảnh hưởng làm thay đổi quan điểm

của chúng ta về nguồn lực. Trước đây, các định nghĩa về năng suất chỉ tính đến

những nguồn lực do công ty sở hữu và kiểm soát.

Các công ty đánh giá năng suất của lao động trực tiếp, của thiết bị hoặc của

việc sử dụng nguyên vật liệu. Nhưng như vậy, sẽ khó tối ưu hóa được toàn bộ quá

trình.

Các nhà máy không hoạt động trong môi trường chân không. Chúng được

tập hợp bởi những chuỗi giá trị tạo nên giá trị sử dụng cuối cùng. Để tạo ra giá trị

này một cách có kết quả nhất, các công ty không chỉ cần thúc đẩy năng suất của

các cơ sở chính của mình mà còn cần góp phần vào việc tạo ra năng suất cho toàn

bộ chuỗi giá trị.

Điều đó có nghĩa là cần xây dựng mối quan hệ hợp tác với những người

cung ứng và những người phân phối sản phẩm. Những hoạt động đầu tư vào quá

trình công nghệ và cải tiến việc sử dụng nguyên vật liệu cần được thực hiện trong

mối liên hệ với những đối tác này.

Sản xuất một cuốn sách chẳng hạn, gồm 15% chi phí sản xuất, 35% chi phí

vật tư biên tập và quyền tác giả, 50% cho chi phí phát hành. Chi phí sản xuất bao

gồm giấy, mực in, … (50 %), đóng (26 %) và in (19 %).

Tăng năng suất bằng cách tập trung vào việc giảm 3% chi phí in sẽ không

mang lại kết quả đáng kể. Năng suất chỉ có thể được tạo nên trên toàn bộ chuỗi

bao gồm tác giả, biên tập, nhà in và người cung ứng vật tư in … kết hợp lại để tạo

ra một giá trị khách hàng cao hơn.

Đo lường năng suất

Những thay đổi về định nghĩa sản xuất đòi hỏi phải có những thay đổi về

cách thức đo lường năng suất. Hệ thống được sử dụng để giám sát năng suất phải

đáp ứng được tất cả những biến cố mô tả trên đây: phương châm sản xuất, hình

thức các nguồn lực được sử dụng và tỷ trọng tương đối của chúng.

Điều này dễ hơn người ta tưởng nhiều. Mỗi điều nêu ra trong phương châm

đều phải chứa đựng một đại lượng đo lường kết quả thực hiện. Phương châm về

chất lượng và hiệu quả chi phí đã mang nghĩa hết sức rõ ràng.

Phân phối sản phẩm một cách tin cậy có thể đo được bằng cách đánh dấu

những lần phân phối đúng thời hạn, không đúng thời hạn (khi nút bấm bật không

làm việc) và số lần đơn hàng bị lỡ…

Tính linh hoạt có thể đo lường một cách gần đúng bằng độ dài khoảng thời

gian chuẩn bị máy móc, tốc độ khởi động, khả năng giải quyết những thay đổi kỹ

thuật của đơn đặt hàng,…

Vấn đề không chỉ ở chỗ xác định đúng những đại lượng đo lường mà còn là

ở chỗ tổng hợp chúng vào trong hệ thống kế toán và kiểm soát hiện hành.Định

nghĩa theo cách nhìn mới về năng suất đòi hỏi phải thay đổi ba yếu tố sau trong hệ

thống kiểm tra:

Khả năng xác định và tổng hợp những đại lượng đo lường hiệu quả

phản ánh phương châm sản xuất;

(cid:0) Cơ chế phân phối nguồn lực liên quan đến những thay đổi tầm quan

trọng trong tương đối của các nguồn lực khác nhau; và

(cid:0) Tỷ lệ về sự thay đổi của các đại lượng so với các mục tiêu cố định. Hai

yêu cầu đầu tiên có thể giải quyết một phần thông qua hệ thống kiểm tra hiện đại

dựa trên những tính toán chi phí theo hoạt động, đã được trao đổi trong Chương

10.Yêu cầu thứ ba là một thách thức.

Lấy ví dụ về một trường hợp sản xuất mạch analog. Hình 2.1 cho thấy kết

quả phân phối sản phẩm mạch analog đúng hạn của 9 cơ sở sản xuất. So sánh

tương đối với một chỉ tiêu cụ thể, cơ sở D dường như là cơ sở hoạt động tốt nhất.

Nó đạt được những mục tiêu đề ra và hạn chế được những biến động xung quanh

nó.

Tuy nhiên, nếu tính đến yếu tố năng động thì cơ sở C hoạt động tốt nhất.

Nó là cơ sở giảm nhanh nhất số lượng những lần phân phối sản phẩm chậm chễ

(50%).Nếu công ty hướng đến những mục tiêu năng suất mới của mình, quan điểm

động về kết quả hoạt động này sẽ trở thành một yếu tố then chốt.

Hình 2.1Số liệu hàng tháng về kết quả phục vụ khách hàng đúng hẹn của

sản phẩm mạch analog (tháng tám 1997 – tháng bảy 1988)Kết luậnMột cách nhìn

mới về năng suất

Các điều kiện thị trường ngày nay đang ngày càng chú trọng đến khách

hàng và điều đó dẫn đến một định nghĩa mới:

Sản lượng = sản phẩm và dịch vụ thỏa mãn khách hàng.

(cid:0) Đầu vào = các nguồn lực được khai thác một cách khôn ngoan.

(cid:0) Sản phẩm = Sản phẩm + Dịch vụ Không nên đo lường năng suất theo

mức độ hoạt động của các nhân tố nội bộ, chúng cần được đánh giá dựa trên sự

thỏa mãn của khách hàng.

Bản tuyên bố phương châm sản xuất

Bản tuyên bố về phương châm sản xuất cần chú trọng vào những điểm ưu

tiên trong sản xuất để hỗ trợ cho chiến lược của công ty (ví dụ chất lượng, phân

phối sản phẩm một cách tin cậy, giá cả, khuynh hướng đáp ứng thị hiếu khách

hàng, tính linh hoạt về sản lượng). Bản tuyên bố về phương châm sản xuất cần

được chọn lựa một cách cẩn thận vì chúng rất chậm thay đổi.

Giá trị tương đối của các nguồn lựcT

ỷ trọng tương đối của các nguồn lực đang thay đổi đòi hỏi các chương trình

năng suất phải kịp thích ứng. Cần xác định tỷ trọng tương đối của các nguồn lực

sản xuất của công ty.

Đo lường năng suất

Định nghĩa theo cách nhìn mới về năng suất phản ánh ba xu thế thay đổi

trong hệ thống đo lường:

Xác định và tổng hợp các thông số đo lường để phản ánh phương

châm sản xuất;

(cid:0) Thiết lập quá trình phân bổ trong đó quan tâm đến tầm quan trọng tương

đối của các nguồn lực sản xuất; và

(cid:0) Thiết lập các đại lượng đo lường những thay đổi so với các mục tiêu cố

định đã đề ra.

Năng suất – phần 2C

ĐƯA PHƯƠNG CHÂM VÀO THỰC TIẾN

(cid:0) Xây dựng thứ tự ưu tiên

(cid:0) Phương châm sản xuất đón đầu

(cid:0) Chất lượng là chưa đủ

Ba giai đoạn quản lý chất lượng

1. Chất lượng là hoạt động điều chỉnh

2. Chất lượng là cơ hội

3. Quản lý chất lượng chiến lược

(cid:0) Khai phương hình tròn những khả năng thích ứng với thị trường

Không thể có một công thức thần kỳ dành cho việc xác định phương châm

sản xuất cũng như không có được một cách tiếp cận chuẩn mực nào cho từng

ngành cụ thể.

Phương châm chứa đựng những gì còn bao quát hơn nhiều so với chức

năng sản xuất vì sự định hướng lệ thuộc vào chiến lược của công ty và ban quản

lý. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những bài học kinh nghiệm từ những gì người ta đã làm

để thiết kế và quản lý sự phát triển của phương châm.

Xây dựng thứ tự ưu tiên

Mối quan hệ giữa chiến lược và phương châm

Khái niệm chiến lược sản xuất, trong đó chứa đựng sự lựa chọn phương

châm sản xuất đã có từ hơn 25 năm trước đây. Việc xác định chiến lược sản xuất

đòi hỏi phải tìm ra được mối liên hệ giữa chiến lược của công ty và việc thiết kế

hệ thống sản xuất.

Công việc này bao quát ba loại hình lựa chọn:

Những giải pháp liên quan đến tổ chức và những giải pháp liên quan đến

hạ tầng. Việc xét đến khía cạnh tổ chức chứa đựng những nhân tố như địa điểm

nhà máy, năng lực sản xuất qui trình công nghệ và mức độ phối hợp ngang.

Những quyết định về hạ tầng liên quan đến hệ thống quản lý chất lượng,

quản lý nguồn nhân lực trong nhà máy, tổ chức các hoạt động sản xuất, hệ thống

kiểm tra, dòng lưu chuyển, thông tin và cách thức các sản phẩm mới được đưa vào

sản xuất.

Để đảm bảo các quyết định về những vấn đề này phù hợp với hoàn cảnh

chiến lược của một công ty là một công việc không phải lúc nào cũng dễ thực hiện

được. Đôi khi nó cần đến cái gọi là một “máy cải biến”:

Những nguyên tắc chủ yếu của công ty cần được biến đổi thành ý tưởng và

chỉ thị để những người tham gia sản xuất có thể hiểu được. Kết quả nghiên cứu

của Wickham Skinner đã cho thấy rằng công việc biến đổi này lệ thuộc vào việc

lựa chọn phương châm sản xuất.

Xác định các chiến lược sản xuất bao gồm việc lựa chọn một danh mục các

nhiệm vụ khác nhau (cả về mặt có được đơn đặt hàng lẫn mặt chất lượng) thích

hợp nhất đối với mục tiêu của công ty.

Một khi đã xác định được danh mục này, việc lựa chọn về cấu trúc và hạ

tầng trở nên rõ ràng hơn. Nếu công ty định ra chiến lược đi đầu về khía cạnh chi

phí, hiển nhiên là nhiệm vụ có được đơn đặt hàng sẽ phải hướng vào tính hiệu quả

về chi phí. Sự lựa chọn này chuyển hóa thành một điểm đặt nhà máy ở một địa bàn

có nguồn lao động rẻ, một qui trình sản xuất tiêu chuẩn hóa cao, khối lượng hàng

sản xuất lớn để khai thác tính hiệu quả về qui mô và kiểm soát được ở mức độ

nhất định – nếu như không có quyền sở hữu – đối với những người cung ứng.

Điều đó cũng có nghĩa là hạn chế việc giới thiệu sản phẩm mới, hệ thống

kiểm soát chi phí rất chặt chẽ, …Trong những năm 1960 và 1970, các công ty có

xu thế lựa chọn chỉ một nhiệm vụ có được đơn đặt hàng và cảm thấy thỏa mãn với

mục tiêu về cấp chất lượng đối với những nhiệm vụ khác.

Nhưng trong vòng trên 25 năm qua, các công ty đã xác định nhiệm vụ ngày

càng rộng và có tính chiến lược hơn cho các hoạt động sản xuất của mình.

Trước tiên là hiệu quả về chi phí

Trong những năm 1970, phương châm sản xuất của hầu hết mọi công ty

đều chỉ giới hạn ở một số nhiệm vụ sản xuất căn bản. Phương châm phổ biến nhất

là sản xuất với chi phí thấp.

Trong hoàn cảnh nhận thức về năng suất ở thời điểm đó, các công ty chế

tạo thường đưa việc cắt giảm chi phí sản xuất lên làm mục tiêu được ưu tiên hàng

đầu. Điều đó không có nghĩa là công ty không dành sự ưu tiên cho vấn đề chất

lượng và vai trò chủ đạo về công nghệ.

Nhưng họ chỉ đầu tư vào những mục tiêu này sau khi đã đạt được thành

quả từ những nỗ lực trong việc giảm chi phí. Sự chú trọng vào chất lượng đã tồn

tại ở các công ty như General Motors, Ford và Volkswagen.

Thế nhưng, điều đó chỉ được xét đến sau khi đã tính toán kỹ về chi phí.Một

phương pháp tiếp cận khác là chọn các phân mảng thị trường trong đó giá cả rất

khác biệt.

Những hãng sản xuất các loại xe hơi đắt tiền như Mercedes – Benz hay

Rolls – Royce rất chú trọng đến chất lượng nhưng họ mong đợi khách hàng của họ

không nhạy cảm quá đối với giá cả.

Nhiệm vụ phối hợp

Cơn sốc mạnh xảy ra vào những năm 1970, khi có một số công ty (chủ yếu

là của Nhật) đã đưa ra ý tưởng rằng chất lượng cao và giá thành hạ không nhất

thiết là những mục tiêu mâu thuẫn nhau.

Họ đã hoàn toàn thuyết phục mọi người rằng chất lượng đồng bộ thực tế

chính là cơ sở của việc cắt giảm chi phí. Nhiều công ty ngay sau đó đã chuyển

sang hướng hoàn thiện liên tục thiết kế sản phẩm và nắm bắt chắc hơn toàn bộ quá

trình sản xuất.

Điều đó dẫn đến việc giảm lãng phí nguyên liệu, giám sát chất lượng, thủ

tục kiểm soát, bảo hành, dịch vụ sau bán hàng và chi phí sửa chữa và cũng dẫn đến

việc giảm chi phí sản xuất tổng thể.

Trong quá trình sản xuất, những hãng chế tạo đã phát hiện ra rằng họ

không chỉ giới hạn trong việc theo đuổi từng mục tiêu – mà có thể kết hợp cả hai.

Các công ty Mỹ phải mất khá nhiều thời gian – và các công ty châu Âu còn

mất nhiều thời gian hơn nữa – để nhận ra được và đồng hóa ảnh hưởng của chất

lượng và hậu quả của nó đối với việc cắt giảm chi phí.

Trong những năm 1980, thái độ của các công ty châu Âu đã có những thay

đổi quan trọng. Từ thái độ cho rằng “chất lượng của chúng ta là tốt nhất và khách

hàng sẽ sẵn sàng trả tiền cho điều đó”, họ bắt đầu suy nghĩ rằng “chúng ta không

thực sự cần phải thay đổi phương pháp của mình nhưng hãy thử áp dụng một số

công cụ và kỹ thuật đáng quan tâm về chất lượng xem sao”.

Giờ đây, cuối cùng họ đã nhận thức được rằng “nếu chúng ta không hoàn

toàn thay đổi tư duy của mình, chúng ta sẽ không thể tồn tại được”.Đó là một bước

tiến, cho dù điều đó diễn ra không được nhanh ở mức cần thiết.

Khác thường là, các công ty châu Âu có lẽ đã tỏ ra chậm chạp hơn các đối

thủ của mình ở Bắc Mỹ trong việc đáp lại những thách thức về chất lượng một

cách chính xác do thói quen ưu tiên dành cho sản phẩm có năng lực hoạt động tốt

và chất lượng thị trường cao của mình.

Trong khi đó … ở Nhật BảnĐuổi kịp mức chất lượng của các đối thủ cạnh

tranh quốc tế cũng giống như việc đuổi theo một cái đích di động.

Trong khi các công ty châu Âu đang phát kiến ra việc quản lý chất lượng

đồng bộ, đối thủ của họ ở châu Á và, ở giác độ nào đó, ở Mỹ, đang thử áp dụng

một tổ hợp mới: hiệu quả chi phí và đáp ứng thị hiếu khách hàng.

Hiệu quả tổng cộng của hai mục tiêu này là khả năng đưa ra một cách

nhanh chóng và liên tục các thế hệ sản phẩm mới mà không cần đến giai đoạn giới

thiệu hay chi phí khởi sự.

Điều đó cũng có nghĩa là cho phép các khoản chi phí điều hành và đầu tư

về thiết kế có thể khấu hao được chỉ với một số lượng sản phẩm nhỏ.Ngành công

nghiệp xe hơi châu Âu và Bắc Mỹ đã tin rằng đối với mỗi mẫu xe cơ bản, họ cần

phải bán một khối lượng xe khoảng 2 triệu chiếc để có thể thu hồi được các khoản

đầu tư của mình.

Những hãng sản xuất xe hơi với khối lượng lớn của Nhật Bản chỉ cần con

số 500.000 chiếc. Điều đó giúp họ có khả năng thay đổi mẫu thiết kế thường

xuyên hơn, như vậy sẽ lại dẫn tới khả năng đáp ứng nhanh chóng đối với những

đòi hỏi của thị trường luôn thay đổi.

Liệu có phải tất cả mọi người đều cần phải tập trung vào tổ hợp cụ thể gồm

tính hiệu quả về chi phí và đáp ứng thị hiếu khách hàng này hay không? Nhất định

là không.

Đối với một công ty cụ thể, một ngành cụ thể, điều đó có thể là nhất thiết

nhưng bắt chước một cách máy móc là điều không nên. Việc đưa ra những chiến

lược chế tạo đã được hình thành từ một vài năm trước ở Nhật Bản không thể trở

thành một chiến lược thành công.

Các chiến lược mới đang gõ vào cánh cửa của các công ty.

Năng suất – phần 2D

Xu thế gần đây nhất

Các chiến lược mới đây có thể tóm tắt lại là mạng lưới sản xuất toàn cầu và

tạo nên giá trị khách hàng. Đối với Nhật Bản, cả hai xu thế này đều có xuất phát

điểm là từ các chính sách trước đó.

Mạng lưới sản xuất truyền thống của Nhật giống như một ngôi sao: Một

trung tâm mạnh tỏa các tia của mình sang các thị trường nước ngoài rộng lớn. Ở

cuối mỗi tia là một văn phòng chào hàng hay một cơ sở sản xuất nhất định chịu

trách nhiệm lắp ráp cuối cùng các thành phẩm chi tiết, điều chỉnh theo thị trường

địa phương và thử nghiệm.

Các công ty Nhật giờ đây đã bắt đầu thiết lập các cơ sở sản xuất ở nước

ngoài, nhiệm vụ của cơ sở đó không đơn giản là tiến hành công việc lắp ráp cuối

cùng và thử nghiệm, phần lớn là cơ sở như “mũi khoan” được xây dựng từ những

năm 1970 và 1980.

Ngày nay người ta có thể nhận thấy rõ rằng các nhà máy của Nhật ở châu

Âu và Mỹ đang tạo ra những giá trị đáng kể. Một số thậm chí còn tiến hành thiết

kế sản phẩm. Quản lý những mạng lưới như vậy, trong đó các điểm chốt đều có

vai trò như nhau về giá trị tạo thành, đang đặt ra một tập hợp hoàn toàn mới những

thách thức mang tính quốc tế, như đã được trình bày trong Chương 7.Phong trào

“tạo ra giá trị khách hàng” cũng đang thay đổi.

Cho mãi tới gần đây, phương pháp tiếp cận của các công ty Nhật vẫn còn

dựa vào việc sản xuất những sản phẩm đại trà tiêu chuẩn hóa thỏa mãn nhu cầu

khách hàng đang được hình thành.Cách kết hợp này của ba nhiệm vụ khác nhau

chưa hề được những người quản lý sản xuất biết đến. Hệ thống kế hoạch hóa sản

xuất, hệ thống kiểm soát, hay qui trình công nghệ cần đáp ứng được với yêu cầu

phản ứng nhanh chóng đối với những đòi hỏi đầy thách thức của người tiêu dùng

bằng các sản phẩm có chất lượng cao, chi phí thấp không phải là thứ có sẵn trong

các danh mục của những người bán hàng truyền thống.

Chọn lựa phương châm: Các phương pháp tiếp cận theo phong cách mỹ,

châu âu và nhật bản

Nhận thức được môi trường công ty cạnh tranh là yếu tố cơ bản trong quá

trình soạn thảo chiến lược kinh doanh một cách có kết quả. Tương tự, việc thiết

lập những phương châm sản xuất cạnh tranh cũng đóng vai trò cực kỳ quan trọng.

Điều đó đòi hỏi phải thiết lập một hệ chuẩn mực cao nhất (benchmarking)

cho phép giám sát được đối thủ cạnh tranh đang làm gì hay chuẩn bị làm gì.Dự án

Tương lai Chế tạo Toàn cầu, do J. G. Miller và đồng sự của ông xuất bản, đã đưa

ra những số liệu căn cứ vào đó các công ty chế tạo khác đang làm.

Bảng 3.1a và bảng 3.1b cho thấy một số kết quả nghiên cứu quan trọng

nhất.Bảng thứ nhất cho biết các công ty trung bình của châu Âu, Bắc Mỹ và Nhật

Bản xếp hạng các nhiệm vụ sản xuất hay ưu tiên sản xuất để cạnh tranh như thế

nào. Khi được hỏi nhân tố nào được tổ chức của họ mong muốn nhấn mạnh như

những nhân tố ưu tiên để cạnh tranh trong phạm vi thời gian năm năm tới, nhiều

người quản lý sản xuất cao cấp đã nêu lên những ưu tiên ngắn và trung hạn của

công ty họ.

Bảng 3.1aƯu tiên cạnh tranh với các hãng lớn, 1990

Châu Âu hhh Nhật hhh Bắc Mỹ

Bảng 3.1bNăm điểm mạnh và bốn điểm yếu chính đối với các hãng chế tạo,

1990

(Thế mạnh cạnh tranh theo thứ tự tầm quan trọng giảm dần)

Châu Âu hhh Nhật hhh Bắc Mỹ

Chương 2 đã phân tích một số nguồn số liệu của châu Âu (xem lại bảng

2.4). Trong năm 1990, một hãng sản xuất trung bình ở châu Âu chú trọng trước

tiên đến chất lượng đồng bộ, sau đó đến những vấn đề về tính hiệu quả chi phí và

cuối cùng là đến tính linh hoạt. Kết quả gây nhiều tranh cãi nhất có thể thấy được

từ bảng 3.1a là có rất nhiều điểm tương đồng giữa ba khu vực.

Ở Nhật bản và Bắc Mỹ, các vấn đề chất lượng đều có vị trí trên cùng và hầu

hết những vấn đề liên quan đến tính linh hoạt đều nằm ở vị trí thấp nhất, tuy vậy,

vẫn có đôi chút khác biệt cần dành thời gian suy nghĩ.

Đối với các hãng sản xuất ở Bắc Mỹ, việc lập nên và quản lý một mạng

lưới phân phối rộng rãi được coi là một vấn đề có tầm quan trọng hơi lớn hơn so

với cách suy nghĩ của các hãng châu Âu và Nhật Bản. Điều đó có thể giải thích

được bằng điều kiện thị trường khác biệt ở Bắc Mỹ, trong đó đảm bảo một thị

trường đồng nhất rộng nhất thế giới với mức độ tự do cạnh tranh cao nhất.

Việc có khả năng nhanh chóng chiếm lĩnh được toàn bộ thị trường có ý

nghĩa quan trọng đối với một công ty Mỹ hơn đối với nhiều hãng sản xuất châu

Âu, những người chỉ đưa sản phẩm của mình ra những thị trường hay phân mảng

khá hẹp.

Ở châu Âu, ưu tiên số một luôn là việc sản xuất ra các sản phẩm không

khuyết tật. Thế nhưng đối với các hãng sản xuất trung bình của Nhật Bản, ưu tiên

số một về chất lượng lại là độ đáng tin cậy của một sản phẩm trên thị trường. Điều

đó có nghĩa là hai nhóm này đang ở vào những giai đoạn khác nhau của quá trình

phát triển về mặt chất lượng.

Nhóm châu Âu, có xu thế hướng nội nhiều hơn, tập trung vào việc đạt được

những điều kiện cần cho chương trình hành động bên trong có thể tạo ra được chất

lượng tốt hơn.

Nhóm Nhật Bản, có xu thế hướng ngoại, tập trung nhiều hơn vào việc nâng

cao kết quả hoạt động của sản phẩm trên thị trường.Một sự khác biệt nữa là hệ

thống phân hạng về khả năng thay đổi nhanh chóng thiết kế sản phẩm. Ở châu Âu

và Bắc Mỹ, chúng được xếp vào cuối danh sách ưu tiên.

Trong khi đó ở Nhật, nó được xếp thứ ba trong số 14 yếu tố. Yếu tố tưởng

chừng rất đơn giản này chứa đựng rất nhiều những thử thách khác nhau, trong đó

gồm cả việc thích nghi cả với những đơn hàng yêu cầu sự thay đổi về công nghệ,

việc bắt tay vào sản xuất rất nhanh chóng và việc thiết kế lại quá trình sản xuất cho

từng thế hệ tiếp theo của sản phẩm đã được thiết kế lại.

Nó cũng ngầm định về khả năng một tổ chức có thể thích nghi với những

thay đổi thường xuyên và nó cũng chứa đựng những hiểu biết đạt được thông qua

kinh nghiệm của nhiều thế hệ mới.

Năng suất – phần 2E

Sức mạnh và điểm yếu cạnh tranh

Ý đồ chỉ là một nửa bức tranh. Việc xác định nhiệm vụ sản xuất và chính

sách có thể biến ý đồ thành hành động cũng có nghĩa là so sánh chúng với những

gì các đối thủ cạnh tranh đang làm.Bảng 3.1b cho thấy cách thức các hãng sản

xuất nhận thức về mình khi so sánh với các đối thủ cạnh tranh mạnh nhất của họ.

Đối thủ cạnh tranh mạnh nhất của họ không nhất thiết là các hãng lớn nhất

mà là đối thủ gây mối đe dọa lớn nhất – có năng lực nhất, xét về các mặt . Đương

nhiên, điều đó chỉ là những đánh giá mang tính rất chủ quan.

Các hình vẽ (hình 3.1a và hình 3.1b) giúp trình bày các số liệu về các điểm

mạnh và điểm yếu hiện nay so sánh với các mục tiêu tương lai.Phân tích các đồ thị

liên quan có thể cho thấy các hãng sản xuất châu Âu về khía cạnh nào đó ở tình

trạng không dễ chịu chút nào.

Với tư cách là một nhóm, họ dự kiến sẽ tập trung vào việc kiên trì sản xuất

các sản phẩm có năng lực hoạt động cao, không khiếm khuyết và đáng tin cậy. Họ

không coi trọng khả năng thay đổi nhanh chóng thiết kế sản phẩm.

Các hãng châu Âu thường tự cho rằng họ rất mạnh ở điểm thứ nhất, nhưng

tự đánh giá là không mạnh ở điểm thứ hai. Nói cách khác, họ cho rằng họ khá

thuận lợi về những gì sẽ cần đến cho tương lai.

Và họ cũng tin rằng họ không mạnh lắm về những gì sẽ không có ý nghĩa

nhiều lắm trong tương lai. Liệu họ có may mắn hay hài lòng hay không?Người ta

có thể nói rằng, bằng việc đề cao một điểm, những hãng sản xuất châu Âu đang tự

xoa dịu bản thân.

Những ưu tiên cạnh tranh được đánh giá có tầm quan trọng trước mắt sẽ là

những ưu tiên thể hiện thế mạnh lớn nhất. Những ưu tiên được cho rằng đã không

đạt được giá trị thật sự của nó sẽ bị coi là những ưu tiên không mấy quan trọng.Sự

thỏa mãn này có thể tạm hiểu được trong hoàn cảnh tiến hành điều tra. Số liệu

được thu thập vào kỳ đầu những năm 1990.

Đó là thời kỳ kỷ nguyên châu Âu: Thị trường Đông Âu đang mở cửa, các

con số đáng hài lòng về lợi nhuận của năm 1989 mới được công bố và thị trường

thống nhất EC còn là viễn cảnh xa vời chưa đáng lo ngại.Vì vậy, mọi người đều có

thể chờ đợi việc chẳng có một công ty nào tự đặt mình vào các vị trí ưu tiên không

thuận lợi về khía cạnh cạnh tranh (các chi tiết ở góc bên trái của hình 3.1a). Một

tập hợp các điểm ưu tiên cạnh tranh phải được thể hiện ở góc trên bên phải.

Đó chính là những điểm mạnh mà các công ty sẽ dựa vào đó để cạnh tranh

lúc này và trong tương lai. Nhưng không nên lấy làm ngạc nhiên nếu thấy xuất

hiện ở góc dưới bên phải một hoặc hai yếu tố.

Chúng gồm những thứ tự ưu tiên – cần – được – khai – thác về các lĩnh vực

cần được cải thiện để trở thành những ưu tiên cạnh tranh trung hạn. Nhất thiết các

yếu tố ưu tiên mà công ty sẽ sử dụng để cạnh tranh trong tương lai cần phải được

xác định và chuẩn bị ngay từ lúc này.

Thế nhưng điều đáng buồn là đối với các hãng chế tạo trung bình ở châu

Âu các tập hợp này vẫn còn trống rỗng.Thế còn những hãng sản xuất khác có xác

định điều đó một cách rõ ràng hơn không? Hình vẽ đối với các hãng sản xuất trung

bình của Nhật Bản phức tạp hơn nhiều (xem hình 3.1b).

Các số liệu ít tập trung xung quanh đường chéo hơn, điều đó có nghĩa là

những điểm mạnh và điểm yếu được thừa nhận ít có quan hệ với tầm quan trọng

của chúng hơn. Và ai đó có thể lấy làm nghi ngờ về khả năng kết hợp các yếu tố

cạnh tranh về giá cả, thay đổi thiết kế nhanh, sản phẩm có kết quả hoạt động cao

và phân phối sản phẩm nhanh.

Vậy thì người ta đang làm cái gì: Những thế hệ liên tiếp của các sản phẩm

hàng đầu được sản xuất một cách hiệu quả, phân phối nhanh? Có thể là như vậy.

Chắc chắn điều đó là đúng đối với một số hãng sản xuất xe hơi hay thiết bị

chất lượng cao tinh vi của Nhật. Nhưng thật khó có thể khái quát cho tất cả chỉ

bằng một số lượng tư liệu ít ỏi như vậy.

Hình 3.1a. Ưu tiên cạnh tranh và điểm mạnh: Điều tra tương lai châu

Âu, 1990

Hình 3.1b Ưu tiên cạnh tranh và điểm mạnh:

Điều tra tương lai Nhật Bản, 1990

Phương châm sản xuất đón đầu

Việc phân tích các số liệu thực nghiệm trên đây đã dẫn đến việc hình thành

một chỉ dẫn duy nhất cho việc xây dựng các phương châm hay nhiệm vụ sản xuất

của công ty.

Năng suất – phần 2F và hết

Chỉ dẫn này bao gồm 5 bước:

1 – Xác định các ưu tiên cạnh tranh trung hạn và dài hạn trong sản xuất.

Việc chỉ ra những điểm mạnh của công ty là điều cần thiết để phát triển

năng lực cạnh tranh trong ngành trong một khoảng thời gian là năm năm tới. Một

danh sách gồm 15 điểm được sử dụng trong cuộc điều tra về tương lai ngành chế

tạo có thể sử dụng để tham khảo. Cũng có thể áp dụng các biện pháp khác nếu như

chúng kết hợp được năm nhóm yếu tố cơ bản sau:

Chất lượng;

(cid:0) Giao hàng đáng tin cậy;

(cid:0) Hiệu quả về chi phí;

(cid:0) Có khả năng thỏa mãn nhu cầu từng khách hàng; và

(cid:0) Linh hoạt về mức sản lượng. Đương nhiên, nếu chỉ lập danh sách không

thôi thì chưa đủ. Cần gắn cho mỗi yếu tố một hệ số về tầm quan trọng nhất định để

có thể sắp xếp thứ tự ưu tiên cho các yếu tố này.

Việc tiến hành lựa chọn hay chỉ tính đến những yếu tố cho phép công ty có

thể giành được hợp đồng hay thắng thầu sẽ chẳng có ý nghĩa gì lớn. Chúng có thể

hữu ích cho việc phân tích sau này, thế nhưng ở giai đoạn này điều quan trọng là

phải đạt được sự thống nhất về những điểm cần ưu tiên.

2 – Thiết lập hệ thống chuẩn mực cao nhất đối với năng lực sản xuất trên

cơ sở so với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất.

Điều này đòi hỏi phải hoàn thành hai nhiệm vụ nặng nề: xác định đối thủ

cạnh tranh mạnh nhất và thiết lập được những kết quả so sánh về các nhân tố ưu

tiên cạnh tranh.

Thường thì các số liệu đại diện được sử dụng làm thông tin về năng lực của

các đối thủ cạnh tranh do các số liệu thực tế không phải lúc nào cũng có thể có

được.

Ví dụ, số liệu về tính linh hoạt về sản lượng hay số liệu thực tế về tình trạng

sai hỏng có thể không thể tìm được. Khi đó, sự dao động về thời gian điều chỉnh

việc phân phối hàng khi hoạt động lại là thông tin có thể đo lường được.

Hay số lượng sai hỏng trên thị trường có thể sử dụng để biểu thị cho kết

quả thực hiện về chất lượng bên trong.Chỉ riêng việc tìm cách thực hiện quá trình

thiết lập các chuẩn mực cao nhất cũng đã làm cho các công ty hiểu rõ hơn những

gì họ chọn làm những chuẩn mực cao nhất.

Điều đó cũng góp phần hình thành hệ thống trí tuệ để hiểu được kỹ hơn các

đối thủ cạnh tranh. Kết quả của bước công việc này là xếp hạng được các điểm

mạnh và điểm yếu.

3 – Vạch ra một biểu đồ về những năng lực ngắn hạn và trung hạn trên cơ

sở những điểm mạnh và điểm yếu đã xác định rõ.

Như đã trình bày trong phần phân tích các số liệu thực nghiệm, công việc

này mang lại kết quả là cho thấy rõ hơn vị thế của công ty: Những nỗ lực phí

phạm (góc trên bên trái), cơ sở của tình trạng cạnh tranh hiện nay (góc trên bên

phải), kế hoạch cạnh tranh trong tương lai (góc dưới bên phải) và những điểm đen

về năng lực sản xuất (góc dưới bên trái).

4 – Xác định vị trí nào trên biểu đồ công ty cần tiến tới.

Một biểu đồ như vậy không phải là bất biến. Những xu thế vận động nào

cần được khởi đầu? Làm cách nào công ty có thể dịch chuyển từ một vị trí tương

đối yếu sang một vị trí tương đối mạnh?

Chắc chắn không phải bằng cách chờ đợi cho đến khi những điểm mạnh

cần thiết trở nên có tầm quan trọng lớn hơn và các điểm yếu tương đối của công ty

bộc lộ rõ hơn.

Điều đó cần chấp nhận một cuộc chơi có tính toán về việc những thứ tự ưu

tiên cần thiết nào sẽ trở thành quan trọng và làm cách nào có thể thiết lập được từ

trước những thế mạnh tương ứng.

5 – Chuyển hóa thành một danh mục những nhiệm vụ hay phương châm

sản xuất.

Công việc phân tích biểu đồ cần hướng tới việc xác định những nhiệm vụ

hay phương châm thích hợp để dành được đơn hàng hiện tại và tương lai. Như đã

đề cập ở trên trong chương trình này, cần phải chuyển hóa những gì tìm được

thành chương trình hành động đối với sản xuất.

Tóm tắt

Gắn chiến lược của công ty với nhiệm vụ hay phương châm sản xuất.

Theo truyền thống, nhiệm vụ hay phương châm thường tập trung vào

việc sản xuất với chi phí thấp.

(cid:0) Sau đó, xu thế là kết hợp chất lượng với chi phí thấp.

(cid:0) Ngày nay, thách thức mới là theo đuổi nhiều mục tiêu, ví dụ như chất

lượng đồng bộ, hiệu quả về chi phí và thỏa mãn yêu cầu khách hàng. Xu thế gần

đây nhất báo hiệu những bước tiếp theo là:

Toàn cầu hóa mạng lưới sản xuất.

(cid:0) Tạo ra giá trị khách hàng.

So sánh cạnh tranh – các cách tiếp cận của Mỹ, châu Âu và Nhật Bản.

Ưu tiên sản xuất rất khác nhau giữa các khu vực:

Châu Âu: sản xuất các sản phẩm ít hỏng hóc.

(cid:0) Nhật: Độ tin cậy của sản phẩm trên thị trường.

(cid:0) Mỹ: Mạng lưới phân phối rộng và thời gian đưa ra thị trường.

Nhiệm vụ hay phương châm sản xuất đón đầu.

Năm bước thiết lập phương châm sản xuất:

Đặt các điểm ưu tiên ngắn hạn và trung hạn.

(cid:0) Thiết lập tiêu chuẩn tốt nhất về năng lực so sánh với các đối thủ cạnh

tranh mạnh nhất.

(cid:0) Thiết lập biểu đồ về năng lực ngắn hạn và trung hạn cũng như các điểm

mạnh và điểm yếu

. (cid:0) Xác định điểm đích công ty mong muốn tiến tới

. (cid:0) Chuyển hóa thành một danh mục các nhiệm vụ hay phương châm.