
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2024. ISBN: 978-604-82-8175-5
514
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ
TRONG QUY TRÌNH SẢN XUẤT CHẾ PHẨM
Aspergillus oryzae CÓ KHẢ NĂNG SINH PROTEASE CAO
TRÊN MÔI TRƯỜNG BÁN RẮN
Trần Thanh Thy1, Trần Thị Hoàng Đông2
1Trường Đại học Thủy lợi
2Trường Đại học Nông Lâm Huế, Đại học Huế
1. GIỚI THIỆU
Aspergillus oryzae được biết đến là loài
nấm mốc có khả năng sinh tổng hợp các
enzyme amylase, protease, cellulase... có
hoạt tính cao trong môi trường bán rắn theo
phương pháp nuôi cấy bề mặt (Lương Đức
Phẩm, 1998; Manan và Webb, 2016). A.
oryzae là tác nhân chủ yếu lên men trong sản
xuất nước tương theo phương pháp vi sinh
vật (Nguyễn Thị Hiền, 2006). Hơn nữa, A.
oryzae có kiểu gen đặc trưng và được xem là
một sinh vật an toàn cho sản xuất thực phẩm
vì không sản sinh độc tố aflatoxin (Ogawa et
al, 1995). Protease ngoại bào có thể được sản
xuất theo phương pháp lên men chìm hoặc
lên men bán rắn. Phương pháp lên men bán
rắn đặc biệt thích hợp cho sự phát triển của
nấm vì chúng yêu cầu độ ẩm thấp hơn so với
vi khuẩn (Ogawa et al., 1995). Ngoài ra,
phương pháp lên men này tương đối đơn
giản, rẻ tiền và mang lại hiệu suất sinh tổng
hợp enzyme cao (Wang et al., 2005;
Thanapimmetha et al., 2012). Cơ chất dùng
trong phương pháp lên men này là các sản
phẩm nông nghiệp như gạo, cám, ngô mảnh,
bột mỳ hay các phế phụ phẩm (Nguyễn Đức
Lượng, 2010; Lương Đức Phẩm, 1998). Do
giá trị ứng dụng, giá trị kinh tế cao và tınh
khả thi của việc nuôi nấm A. oryzae ở quy
mô công nghiệp, việc phát triển các nghiên
cứu về nuôi A. oryzae trên môi trường rắn
nhằm tăng quy mô sản xuất, đáp ứng nhu cầu
của thị trường trong nước và chuyển giao
công nghệ cho các đơn vị sản xuất để đem lại
lợi ıch kinh tế cho địa phương là hết sức cần
thiết. Nghiên cứu này trình bày kết quả khảo
sát ảnh hưởng của một số yếu tố lên hoạt độ
protease và mật độ tế bào trong quy trình sản
xuất chế phẩm A. oryzae trên môi trường bán
bán gồm tỷ lệ sinh khối nấm mốc bổ sung,
thời gian nuôi cấy và nhiệt độ sấy.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chủng A. oryzae được phân lập từ một số
mẫu vỏ củ, quả giàu pectin như dưa lưới,
chuối, xoài, táo và được nuôi trên môi trường
Czapek có bổ sung 15 % pectin. Sau khi chọn
lọc được chủng A. oryzae thuần được định
danh bằng phương pháp giải trình tự vùng
ITS đã khẳng định được loài Aspergillus
oryzae và được lưu trữ nguồn giống trong tủ
môi trường -80oC cho tới khi sử dụng
Ảnh hưởng của A. oryzae đến hoạt độ
protease và mật độ tế bào của chế phẩm A.
oryzae: Thí nghiệm (TN) được khảo sát gồm
4 nghiệm thức (NT) xác định mật độ bào tử
của A. oryzae và 20 lần lặp lại. Cố định môi
trường bán rắn là gạo ST25, nuôi nấm trong
điều kiện tối hoàn toàn và ẩm độ không khí
đạt 85%. Sau 3 ngày nuôi cấy nấm trên môi
trường tối ưu, thu chế phẩm sấy ở 40°C trong
6 giờ, làm nguội chế phẩm trong bình hút ẩm,
bao gói và bảo quản lạnh.
Ảnh hưởng của thời gian nuôi cấy đến
hoạt độ protease và mật độ tế bào của chế