LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự tìm tòi,
nghiên cứu; các số liệu trong luận văn có cơ sở rõ ràng và
trung thực.
Tác giả luận văn Nguyễn Hồng Khanh
2
MỞ ĐẦU
Tài nguyên nước hiện nay đã và đang được các quốc gia và toàn thể cộng đồng
trên thế giới quan tâm bảo vệ. Như chúng ta đã biết, Hội nghị thượng đỉnh của lãnh
đạo các quốc gia trên thế giới tổ chức tại Rio de Janeiro (Brazil), tháng 6/1992 về
Môi trường và Phát triển, đã đưa ra bốn nguyên tắc khuyến nghị các quốc gia trên
thế giới có những biện pháp khẩn cấp, nhằm tăng cường việc bảo vệ và phát triển
nguồn nước, trong đó đã đề cập đến các khía cạnh sinh thái, thể chế, xã hội và kinh
tế. Cụ thể như sau:
“Nguyên tắc sinh thái: Nước ngọt là nguồn tài nguyên có hạn và dễ bị tổn
thương, cần thiết cho sự sống, phát triển và môi trường.
Nguyên tắc thể chế: Phát triển và quản lý nước phải dựa trên cơ sở tiếp cận có
sự tham gia của các bên có liên quan, từ người sử dụng đến người lập kế hoạch quy
hoạch, người lập chính sách, ở mọi cấp độ.
Nguyên tắc xã hội: Phụ nữ đóng vai trò trung tâm trong việc cung cấp, quản lý
và đảm bảo an toàn về nước.
Nguyên tắc kinh tế: Nước có giá trị kinh tế ở mọi nhu cầu sử dụng có tính cạnh
tranh và phải được xem như hàng hóa kinh tế”.
Ở nước ta, trong những năm gần đây, nước đã được coi là tài nguyên và Chính
phủ đã đệ trình Quốc hội ban hành Luật Tài nguyên nước, chính thức được thông
qua vào tháng 5/1998.
Việc ban hành Luật Tài nguyên nước là một bước tiến quan trọng trong việc
đưa vấn đề bảo vệ tài nguyên nước trở thành một yêu cầu cấp bách trong giai đoạn
hiện nay của Chính phủ Việt Nam, đồng thời cũng đưa Việt Nam là một trong số ít
các nước có Luật riêng về Tài nguyên nước.
Tại mục 3, khoản 1, Điều 23 của Luật Tài nguyên nước đã quy định về nghĩa
vụ của các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước như sau:
“1. Tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước có những nghĩa vụ
sau đây:
e) Thực hiện nghĩa vụ tài chính; bồi thường thiệt hại do mình gây ra trong khai
3
thác, sử dụng tài nguyên nước theo quy định của pháp luật”.
Tại khoản 3, Điều 47 của Luật Tài nguyên nước, về khai thác và bảo vệ công
trình thuỷ lợi đã quy định:
“3. Tổ chức, cá nhân khai thác và hưởng lợi từ công trình thủy lợi phải thực
hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp
luật”.
Như vậy, tiếp cận nước là một loại hàng hoá kinh tế và việc các tổ chức, cá
nhân phải có trách nhiệm tài chính đối với việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước
đã được các quốc gia và Chính phủ Việt Nam quan tâm từ lâu.
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đến nay, Nhà nước và nhân dân ta đã đầu tư xây dựng để hình thành nên một
hệ thống cơ sở hạ tầng thuỷ lợi hết sức to lớn, góp phần quan trọng trong việc tưới
tiêu, cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm
muối, phòng chống lũ lụt, cấp nước công nghiệp, sinh hoạt, giao thông, du lịch và
nhiều ngành kinh tế xã hội khác. Hiệu quả của công tác thuỷ lợi mang lại cho sản
xuất đời sống xã hội là hết sức to lớn, có những hiệu quả tính được bằng tiền, nhưng
cũng có nhiều những hiệu quả hết sức to lớn khác khó có thể định lượng được, đó là
những tác động tích cực về dân trí, xã hội môi trường, nông nghiệp nông thôn...
Để đáp ứng cho yêu cầu quản lý và khai thác khép kín các công trình, hệ thống
công trình thuỷ lợi, hiện nay, cả nước đã hình thành một hệ thống các tổ chức để
quản lý, khai thác các công trình như sau:
- Khoảng 100 doanh nghiệp quản lý các công trình đầu mối lớn, kênh trục
chính (cấp 1, cấp 2): các công trình đầu mối lớn, kênh trục chính, chưa bao gồm các
tổ chức khác thuộc nhà nước cũng được giao nhiệm vụ quản lý, khai thác công trình
thuỷ lợi.
- Khoảng 12.000 tổ chức hợp tác dùng nước bao gồm các hợp tác xã nông lâm
nghiệp có làm dịch vụ thuỷ lợi, hợp tác xã dùng nước, tổ chức hợp tác, Ban quản lý,
khai thác công trình thuỷ lợi, tổ thuỷ nông, đường nước độc lập... quản lý các công
4
trình thuỷ lợi cơ sở nhỏ, hệ thống thuỷ lợi mặt ruộng.
- Một số loại hình có tính chất đặc thù khác: như Ban, Trạm Quản lý khai thác
công trình thuỷ lợi huyện, liên xã, Trung tâm quản lý khai thác công trình thuỷ lợi,
Chi cục thuỷ lợi, công ty khác cũng được giao chức năng quản lý, khai thác công
trình thuỷ lợi.
Để đảm bảo cho các hệ thống công trình thuỷ lợi nói trên vận hành an toàn,
hàng năm yêu cầu phải có đủ kinh phí để vận hành, duy tu, bảo dưỡng, chưa kể đến
kinh phí yêu cầu xây dựng mới, nâng cấp, khôi phục công trình hư hỏng do sử dụng
lâu ngày và do thiên tai gây ra và kinh phí khắc phục hạn hán, úng lụt. Với mục tiêu
này, chính sách thuỷ lợi phí đã được ban hành.
Nhằm bù đắp một phần kinh phí yêu cầu nói trên, giảm nhẹ gánh nặng bao cấp
ngân sách nhà nước, Nhà nước đã có chủ trương thu thuỷ lợi phí từ người hưởng lợi
và thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong các đơn vị quản lý khai thác công trình
thủy lợi. Ngay từ năm 1962, Hội đồng Chính phủ, nay là Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 66/CP ngày 5/6/1962 quy định điều lệ thu thuỷ lợi phí, tuy nhiên Nghị
định này chỉ áp dụng đối với các hệ thống nông giang lớn. Tiếp đó, là các Nghị định
số 112-HĐBT ngày 25/8/1984 của Hội đồng Bộ trưởng và Nghị định số
143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ.
Để khuyến khích sản xuất lương thực, trong các văn bản trên, thuỷ lợi phí đối
với tưới chỉ thu ở mức cần thiết, đảm bảo chi phí cho sửa chữa thường xuyên (chưa
tính đến chi phí nâng cấp, thu hồi vốn). Nhà nước phải hỗ trợ phần chi phí tiền điện
tiêu úng, sửa chữa công trình hư hỏng nặng do thiên tai gây ra bằng những quy định
chặt chẽ.
Xuất phát từ chính sách hỗ trợ nông dân được giao đất sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và làm muối, từ năm 2008, Chính phủ đã miễn giảm
thuỷ lợi phí cho người dân theo quy định của Nghị định số 154/2007/NĐ-CP ngày
15/10/2007 của Chính phủ, sau đó được thay thế bằng Nghị định số 115/2008/NĐ-
CP ngày 14/11/2008 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
5
điều của Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi.
Việc nghiên cứu và ban hành chính sách thuỷ lợi phí phù hợp từng giai đoạn
phát triển của đất nước là thực sự cần thiết như đã được đề cập ở trên. Ngoài việc
giúp có được một khoản kinh phí đáng kể cho công tác vận hành, duy tu bảo dưỡng
công trình, nếu chính sách thuỷ lợi phí phù hợp, chúng ta sẽ nâng cao được ý thức
của người nông dân trong việc sử dụng nước có ý thức, tiết kiệm và nâng cao trách
nhiệm, vai trò của họ trong việc gìn giữ, bảo vệ công trình thuỷ lợi.
Về bản chất, thuỷ lợi phí thực chất là chính sách của nhà nước đối với nông
dân, vì khi nhà nước hỗ trợ cho công ty khai thác công trình thuỷ lợi phần thiếu hụt
do mất mùa không thu được thuỷ lợi phí, hoặc thu ở mức quy định thấp chính là nhà
nước hỗ trợ nông dân để sản xuất lương thực. Ở từng giai đoạn phát triển sẽ có
chính sách thuỷ lợi phí tương ứng, thu hay miễn, giảm là giải pháp cụ thể của Chính
phủ nhằm mục đích đáp ứng bài toán phát triển tổng thể kinh tế xã hội, phù hợp với
từng giai đoạn, và bài toán được đặt ra đối với chính sách thủy lợi phí sẽ là:
- Nếu quy định thu thuỷ lợi phí, Nhà nước sẽ giảm nguồn kinh phí đáp ứng cho
vận hành, duy tu bảo dưỡng, sửa chữa công trình.
- Ngược lại, nếu giảm hoặc không thu, Nhà nước phải hỗ trợ hoặc chi phí
nhiều hơn cho công tác quản lý vận hành, khai thác công trình thuỷ lợi.
Là một cán bộ làm việc tại Tổng cục Thuỷ lợi - Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, cơ quan chuyên nghiên cứu, tham mưu đề xuất giúp Bộ và giúp Chính
phủ ban hành các cơ chế, chính sách trong lĩnh vực quản lý, khai thác công trình
thuỷ lợi, bao gồm cả cơ chế chính sách về tài chính trong quản lý, khai thác công
trình thuỷ lợi và chính sách về thuỷ lợi phí, học viên lựa chọn và thực hiện đề tài
luận văn thạc sĩ “Nghiên cứu chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động
tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp” nhằm đóng góp một phần nhỏ bé của
mình vào việc nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất một số giải pháp đổi
mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của chính sách thuỷ lợi phí.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Từ lâu, chính sách thuỷ lợi phí đã được Chính phủ, các Bộ ngành và chính
quyền các địa phương rất quan tâm, nhằm đảm bảo một khoản kinh phí nhất định để
đáp ứng cho công tác vận hành, duy tu bảo dưỡng, sửa chữa các công trình thuỷ lợi.
6
Có thể liệt kê ra một số các công trình, tài liệu nghiên cứu có liên quan đến chính
sách thuỷ lợi phí như sau:
- Quản lý thuỷ nông trong nền kinh tế thị trường, Đoàn Thế Lợi, sách do Nhà
xuất bản nông nghiệp – 2004.
- Thuỷ lợi phí và chính sách thuỷ lợi phí trong nền kinh tế thị trường và hội
nhập kinh tế quốc tế - Đề tài cấp Bộ, Trung tâm nghiên cứu Kinh tế, Viện Khoa học
Thuỷ lợi thực hiện năm 2007-2008.
- Nghiên cứu xây dựng giá nước tại hệ thống thuỷ lợi hồ Núi Cốc – tỉnh Thái
Nguyên – Trung tâm nghiên cứu kinh tế, Viện Khoa học Thuỷ lợi thực hiện năm
2002.
- Nghiên cứu mô hình quản lý thuỷ lợi hiệu quả và bền vững phục vụ nông
nghiệp và nông thôn, Trung tâm nghiên cứu kinh tế, Viện Khoa học Thuỷ lợi thực
hiện năm 2006-2008.
- Nghiên cứu xây dựng hệ thống các chỉ tiêu khoản mục chi phí hợp lý trong sản xuất 1m3 nước để tính giá nước lấy từ công trình thủy lợi cho các mục đích sử
dụng khác nhau, Trường Đại học Thuỷ lợi thực hiện, năm 2006-2007.
- Nghiên cứu tính giá thành 1m3 nước tưới tiêu của hệ thống thuỷ lợi sáu trạm
bơm Bắc Nam Hà, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam 2007-2008.
- Nghiên cứu những vấn đề phát sinh từ chính sách miễn, giảm thuỷ lợi phí,
Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, thực hiện năm
2008-2009.
Tuy vậy, những nghiên cứu này chủ yếu tiến hành vào trong giai đoạn nhà
nước đang thực hiện thu thuỷ lợi phí hoặc chính sách miễn thuỷ lợi phí đang được
thực hiện ở giai đoạn đầu chưa thực sự hoàn thiện, nên chưa thể hiện được nhiều và
toàn diện. Mặc dù vậy, các tài liệu này sẽ là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị để
học viên tiến hành nghiên cứu này.
II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
1. Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn chính sách thuỷ lợi phí, luận văn sẽ
7
kiến nghị, luận chứng những giải pháp bảo đảm hiệu quả của chính sách thuỷ lợi
phí, nhằm góp phần nghiên cứu đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của công tác quản lý, khai thác công trình thủy lợi trong thời gian tới. Để đạt được
mục đích này, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận, quá trình hình thành và thực thi chính sách thuỷ lợi
phí ở Việt Nam.
- Phân tích, xác định những mặt được, những mặt còn hạn chế và tác động chủ
yếu của chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong sản xuất nông nghiệp đối với hoạt
động quản lý, khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi.
- Kiến nghị đề xuất một số giải pháp, góp phần nâng cao hiệu quả khai thác
các hệ thống công trình thuỷ lợi hiện có.
2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu: Đánh giá tổng thể trên phạm vi cả nước, có tập trung
nghiên cứu điển hình tại 1 tỉnh.
Do thuỷ lợi phí là chính sách nhạy cảm, có tác động đến nhiều đối tượng dùng
nước, phạm vi của luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu, đánh giá các tác động của
thuỷ lợi phí trong tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp, trên cơ sở hoạt động của
các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi.
III. CÁCH TIẾP CẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu đã nêu trên, cách tiếp cận và
phương pháp nghiên cứu trong luận văn được sử dụng như sau:
- Cách tiếp cận: được vận dụng theo phương pháp từ dưới lên, từ đối tượng
hưởng lợi; tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, tổ chức hợp tác dùng nước;
cơ quan nghiên cứu; cơ quan quản lý nhà nước về quản lý, khai thác công trình thuỷ
lợi.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp khảo sát từ thực tế quản lý, khai thác ở một số hệ thống công
trình thuỷ lợi;
+ Áp dụng triệt để nguyên tắc tiếp cận từ dưới lên;
8
+ Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá;
+ Phương pháp chuyên gia.
IV. CÁC KẾT QUẢ DỰ KIẾN ĐẠT ĐƯỢC
- Cơ sở lý luận quá trình hình thành và thực thi chính sách thuỷ lợi phí;
- Những tác động chủ yếu của chính sách thuỷ lợi phí trong sản xuất nông
nghiệp tới hoạt động quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi;
- Đề xuất định hướng chính sách thuỷ lợi phí phù hợp đối với sản xuất nông
nghiệp.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và áp dụng
trong việc nghiên cứu, sửa đổi bổ sung chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí và các
chính sách về tài chính trong quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Từ các vấn đề đã được trình bày ở trên sẽ hình thành nội dung nghiên cứu.
Những nội dung này được thể hiện trong bố cục của luận văn như sau:
9
Chương 1:
THỰC TRẠNG THUỶ LỢI Ở VIỆT NAM
1.1. Tổng quan thực trạng về các hệ thống thuỷ lợi.
Ngành thuỷ lợi giữ một vị trí quan trọng đối với phát triển sản xuất nông
nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Vì vậy, nhân dân ta có
truyền thống và bề dày lịch sử làm thuỷ lợi, xây dựng hệ thống đê điều và mạng lưới
kênh rạch “dẫn thuỷ nhập điền” rộng khắp, nhằm khai thác mặt lợi và hạn chế mặt
hại của nước.
Từ khi giành độc lập, đặc biệt kể từ giai đoạn đất nước thống nhất đến nay,
Nhà nước và nhân dân ta đã đặc biệt quan tâm đến công tác thuỷ lợi. Kết quả đầu tư
thuỷ lợi không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế, mà còn mang ý nghĩa chính trị, xã hội
sâu sắc. Trong phát triển nông nghiệp, thuỷ lợi là biện pháp hàng đầu, nhờ được đầu
tư thuỷ lợi rộng khắp trên mọi vùng đất nước, đã tạo điều kiện đưa khoa học kỹ
thuật trong nông nghiệp, nhất là về giống, về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ.
Trước đây, nhiều khu vực ở miền núi, Trung bộ, Tây nguyên, Đông Nam bộ hầu hết
dựa vào nước "trời" thì nay phần lớn diện tích gieo trồng lúa, và một phần diện tích
cây trồng cạn đã được tưới nước bằng công trình thuỷ lợi.
Trong quá trình phát triển nông nghiệp nói riêng và kinh tế xã hội nói chung,
công tác thuỷ lợi luôn có vị trí quan trọng và nhận được sự quan tâm đầu tư của Nhà
nước cùng với sự đóng góp công sức vô cùng to lớn của nhân dân. Sự nghiệp phát
triển thuỷ lợi đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần quan trọng cho sự phát
triển của mọi ngành kinh tế - xã hội, tạo điều kiện để nông nghiệp nước ta có những
bước nhảy vọt.
Nhiều thập kỷ qua, cùng với tiến trình phát triển kinh tế, xã hội, Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta đã đầu tư xây dựng nhiều công trình, hệ thống công trình thuỷ
lợi lớn, nhỏ, hình thành nên một cơ sở vật chất hạ tầng hết sức to lớn, phục vụ đa
mục tiêu tưới tiêu cho nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, cắt lũ, giao thông, phát
10
điện, ngăn mặn giữ ngọt, du lịch..., bảo đảm cho sản xuất và đời sống dân sinh. Đặc
biệt, thuỷ lợi đã góp phần ổn định sản xuất, giữ vững và nâng cao năng suất sản
lượng cây trồng, đảm bảo an ninh lương thực, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn, đưa
nước ta từ một nước thiếu lương thực, trở thành một nước không chỉ ổn định lương
thực mà còn có dư thừa, là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu trên
thế giới.
Theo kết quả điều tra đánh giá của Cục Thuỷ lợi, đến nay (31/12/2008), trên cả
nước đã hình thành rất nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi lớn nhỏ, trong đó có 904
hệ thống thuỷ lợi vừa và lớn có diện tích phục vụ từ 200ha trở lên. Cụ thể số lượng
phân theo các loại diện tích tưới được thể hiện ở 1.1.
Bảng 1.1: Hệ thống công trình thuỷ lợi phân theo diện tích phục vụ
TT Khu vực Tổng số Phân loại theo diện tích phục vụ > 2.000 (ha) 2002.000 (ha)
1 Miền núi Bắc bộ 78 10 68
Đồng bằng trung du Bắc bộ 44 28 16 2
Bắc Trung bộ 227 23 204 3
Duyên hải Nam Trung bộ 51 21 30 4
Tây Nguyên 87 8 79 5
Đông nam Bộ 82 8 74 6
Đồng bằng sông Cửu Long 335 12 323 7
Tổng cộng 904 110 794
Trong danh mục 110 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 2.000ha trở lên
trên toàn quốc, bao gồm:
- 19 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 2.000 ÷ 3.000 ha.
- 15 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 3.000 ÷ 4000 ha.
- 9 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 4.000 ÷ 5000 ha.
- 13 hệ thống có diện tích phục vụ từ 5.000 ÷ 10000 ha.
- 43 hệ thống có diện tích phục vụ từ 10.000 ÷100.000 ha.
11
- 11 hệ thống có diện tích phục vụ lớn hơn 100.000 ha.
Tổng số có trên 5000 hồ chứa các loại, với tổng dung tích trữ nước trên 35,34 tỷ m3, gồm: 26 hồ chứa thuỷ điện có tổng dung tích trữ là 27,12 tỷ m3, 2460 hồ chứa thủy lợi có dung tích từ 200 ngàn m3 trở lên và hàng ngàn hồ nhỏ với tổng dung tích trữ khoảng 8,22 tỷ m3, phục vụ cho phát điện, cấp nước sinh hoạt, cấp nước cho các
ngành kinh tế trọng yếu và bảo đảm tưới cho 80 vạn ha đất canh tác; trên 10.000
trạm bơm điện lớn với các loại máy bơm khác nhau, có tổng công suất lắp máy phục
vụ tưới là 250 Mw, phục vụ tiêu là 300Mw.
Ngoài ra, còn có gần 5.000 cống tưới tiêu lớn các loại. Tổng số 126.000km
kênh mương các loại, trong đó có trên 1.000 km kênh trục lớn, cùng với hàng vạn
công trình trên kênh. Trên 26.000 km bờ bao ngăn lũ đầu vụ hè thu ở Đồng bằng
sông Cửu Long, khoảng 3700 km đê sông, trên 2000 km đê biển.
Các hệ thống công trình thuỷ lợi này đã cơ bản đáp ứng được những yêu cầu
thiết yếu trong sản xuất và đời sống dân sinh. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay,
việc biến đổi khí hậu và nước biển dâng đang diễn ra theo chiều hướng cực đoan và
đã có những tác động trực tiếp và rõ nét đối với nước ta đòi hỏi Chính phủ và nhân
dân ta cần có sự quan tâm nhiều hơn nữa trong công tác đầu tư và quản lý khai thác
mới có thể đáp ứng được các mục tiêu, yêu cầu ngày càng lớn hiện nay.
1.2. Tổ chức, quản lý khai thác công trình thuỷ lợi.
Để quản lý, vận hành các hệ thống công trình thuỷ lợi đã có, hiện nay cả nước
hình thành một hệ thống tổ chức quản lý thuỷ nông, khép kín gồn hai cấp bao gồm:
- Các đơn vị quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc Nhà nước.
- Các tổ chức quản lý thuỷ nông thuộc tập thể, người dân (gọi là tổ chức hợp
tác dùng nước).
Các tổ chức này độc lập hoặc phối hợp với nhau trong việc quản lý, khai thác
hệ thống công trình thuỷ lợi, đảm bảo phục vụ các hoạt động sản xuất và dân sinh
kinh tế.
1.2.1. Số lượng, loại hình các đơn vị quản lý thuỷ nông thuộc nhà nước
Theo quy định tại Điều 9, Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi:
12
“Công trình thuỷ lợi được xây dựng bằng ngân sách nhà nước hoặc có nguồn gốc từ
ngân sách nhà nước do doanh nghiệp nhà nước quản lý, khai thác và bảo vệ”.
Theo số liệu báo cáo của các địa phương trên toàn quốc, hình thức tổ chức
quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc nhà nước trên toàn quốc chủ yếu là các
doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi. Tuy nhiên, trong từng điều kiện cụ thể,
mỗi địa phương đã quy định những mô hình tổ chức khác nhau. Cụ thể ở các vùng
như sau:
1.2.1.1. Đối với các tỉnh miền núi phía Bắc:
Miền núi phía Bắc bao gồm 15 tỉnh, với những mô hình tổ chức quản lý, khai
thác công trình thủy lợi như sau:
- Các tỉnh không thành lập tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc
nhà nước gồm: Hà Giang, Lào Cai. Ở các tỉnh này, công trình thuỷ lợi đã được giao
cho cấp huyện, xã quản lý, khai thác. Tỉnh Lào Cai trước kia có thành lập một số
Trạm quản lý khai thác công trình thuỷ lợi trực thuộc huyện nhưng do không có
kinh phí hoạt động nay đã giải tán.
- Các tỉnh có thành lập doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi bao gồm:
Yên Bái, Cao Bằng, Bắc Kạn, Sơn La, Hoà Bình, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Điện
Biên, Lai Châu, Quảng Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ. Tuy vậy, mô hình ở tỉnh Bắc
Kạn chưa phù hợp.
- Các tỉnh có đơn vị sự nghiệp tham gia quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi
gồm: Tuyên Quang (Ban quản lý công trình thuỷ lợi Ngòi Là), Yên Bái (Trạm Quản
lý khai thác công trình thuỷ lợi Văn Yên, Lục Yên), Quảng Ninh (Trung tâm ở Hải
Hà, Đầm Hà).
1.2.1.2. Vùng Đồng bằng sông Hồng
Ở các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng, tổ chức quản lý, khai thác công trình
thuỷ lợi thuộc Nhà nước tương đối giống nhau. 100% các tỉnh có thành lập Công ty
Khai thác công trình thuỷ lợi (Công ty quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi liên
tỉnh, toàn tỉnh hoặc quản lý công trình thuỷ lợi liên huyện hoặc trong phạm vi
huyện). Có 2 doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi quản lý, khai thác công
13
trình thuỷ lợi liên tỉnh, trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý
(Bắc Nam Hà, Bắc Hưng Hải), 5 hệ thống công trình thuỷ lợi liên tỉnh trực thuộc
các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi thuộc các tỉnh, thành phố (Bắc
Đuống, An Kim Hải, Sông Nhuệ, Thác Huống, Sông Cầu).
Tỉnh Hà Tây (nay đã sáp nhập vào Thủ đô Hà Nội) có 10 Công ty Khai thác
công trình thuỷ lợi. Tuy nhiên, theo lộ trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt, nay chỉ còn 4 công ty là Công ty Khai thác công trình thuỷ lợi Sông Nhuệ,
Sông Đáy, Sông Tích và Mê Linh. Như vậy, Thành phố Hà Nội (mới) hiện nay có 5
công ty khai thác công trình thuỷ lợi. Tỉnh Hải Dương còn có Xí nghiệp Khai thác
công trình thuỷ lợi Thành phố Hải Dương trực thuộc Công ty TNHH MTV quản lý
công trình đô thị Hải Dương.
Trong 11 tỉnh, thành phố thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng có 3 tỉnh, thành
phố thành lập công ty với quy mô toàn tỉnh (Ninh Bình, Hải Dương, Hưng Yên –
trên cơ sở sáp nhập các công ty khai thác công trình thuỷ lợi huyện trước kia), các
tỉnh còn lại thành lập công ty khai thác công trình thuỷ lợi quy mô liên huyện hoặc
quy mô huyện để quản lý các hệ thống công trình thuỷ lợi có tính chất tương tự.
1.2.1.3. Vùng Bắc Trung bộ
Đây là vùng có mô hình tổ chức khá tương đồng với vùng Đồng bằng sông
Hồng. Vùng Bắc Trung bộ có 6 tỉnh, thì 100% các tỉnh có thành lập doanh nghiệp
khai thác công trình thuỷ lợi. Có 3 tỉnh thành lập công ty khai thác công trình thuỷ
lợi có quy mô toàn tỉnh (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế). Các tỉnh còn lại
(Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh) thành lập mô hình công ty khai thác công trình
thuỷ lợi có quy mô liên huyện hoặc quy mô huyện.
Hiện nay, một số huyện ở Nghệ An, Hà Tĩnh và các tỉnh trong vùng này còn có
nơi giao công trình vừa và nhỏ cho huyện hoặc xã trực tiếp quản lý.
1.2.1.4. Vùng Duyên hải Nam Trung bộ
Vùng này bao gồm gồm 6 tỉnh, mô hình quản lý, khai thác công trình thủy lợi
tương đối giống nhau. Ngoại trừ tỉnh Khánh Hoà thành lập hai Công ty khai thác
công trình thuỷ lợi theo quy mô liên huyện (Bắc Khánh Hoà và Nam Khánh Hoà),
14
các tỉnh trong vùng đều thành lập công ty có quy mô toàn tỉnh, hoạt động khá hiệu
quả. Một số huyện miền núi, công trình thuỷ lợi nhỏ được giao cho huyện hoặc Uỷ
ban nhân dân các xã tự tổ chức mô hình quản lý, khai thác.
1.2.1.5. Các tỉnh Tây Nguyên
Tây Nguyên có 5 tỉnh thì có 4 tỉnh có mô hình tổ chức quản lý, khai thác công
trình thuỷ lợi có quy mô toàn tỉnh. Riêng tỉnh Đắc Nông không có mô hình doanh
nghiệp quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Chỉ có một Trạm Quản lý khai thác
công trình thuỷ lợi Đắc Mil (thuộc Huyện), quản lý hệ thống công trình thuỷ lợi Đăc
Mil tưới chủ yếu cho cây cà phê và một ít diện tích trồng lúa.
Tỉnh Lâm Đồng có công ty khai thác công trình thuỷ lợi có quy mô toàn tỉnh,
nhưng công ty này đã giải tán và sáp nhập với Ban Quản lý khai thác công trình thuỷ
lợi Thành phố Đà Lạt thành Trung tâm quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi Lâm
Đồng, hoạt động như một đơn vị sự nghiệp có thu.
Cũng giống như các nơi khác, các công trình thủy lợi nhỏ trong khu vực được
giao cho Uỷ ban nhân dân các huyện, xã trong vùng tổ chức các loại hình để quản
lý, khai thác.
1.2.1.6. Các tỉnh Đông Nam bộ
Mô hình quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi khu vực Đông Nam Bộ khá đa
dạng. Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu không thành lập công ty quản lý khai thác công trình
thuỷ lợi, Chi cục Quản lý thuỷ nông trực tiếp tham gia quản lý, khai thác công trình
thuỷ lợi. Tỉnh Bình Dương có Xí nghiệp quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi trực
thuộc Công ty cấp thoát nước và môi trường Bình Dương. Các tỉnh còn lại đều
thành lập công ty khai thác công trình thuỷ lợi có quy mô toàn tỉnh như Thành phố
Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Phước, Tây Ninh, Ninh Thuận, Bình Thuận hoạt
động khá hiệu quả.
Khu vực này còn có Công ty TNHH Một thành viên Khai thác Thuỷ lợi Dầu
Tiếng – Phước Hoà, quản lý, khai thác Hồ Dầu Tiếng, sắp tới thêm hồ Phước Hoà
phục vụ tưới, cấp nước, xả ngọt đẩy mặn và phòng lũ cho các tỉnh, thành phố: Tây
Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Long An và Bình Phước trực thuộc
15
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
1.2.1.7. Các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long
Thực tế cho thấy, mô hình quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi vùng Đồng
bằng sông Cửu Long thể hiện sự đa dạng và có nhiều sự biến đổi nhất so với các
vùng khác trong toàn quốc. Toàn vùng có 13 tỉnh, thành phố thì hiện nay chỉ có 5
tỉnh thành lập công ty có quy mô toàn tỉnh gồm Tiền Giang, An Giang, Trà Vinh,
Bến Tre và Sóc Trăng, trong đó Sóc Trăng là mô hình công ty cổ phần, hoạt động
chủ yếu là các dịch vụ xây lắp, được Uỷ ban nhân dân tỉnh giao nhiệm vụ quản lý,
khai thác công trình thuỷ lợi trong toàn tỉnh (chủ yếu là cống, bọng, kênh mương).
Một số tỉnh trước kia cũng thành lập công ty khai thác công trình thuỷ lợi như
Đồng Tháp, Vĩnh Long, Bạc Liêu, Cần Thơ nhưng hiện nay đã được giải tán hoặc
chuyển đổi để thành lập trung tâm quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi trực thuộc
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc giao về các huyện thành lập các trạm
quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi chịu sự quản lý về chuyên môn của Chi cục
như Cần Thơ, Vĩnh Long.
Một số tỉnh thành các trạm quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc các
huyện như Hậu Giang, Cà Mau, Kiên Giang. Tỉnh Long An, trước đây Chi cục Thủy
lợi trực tiếp quản lý, khai thác các công trình thuỷ lợi, kể cả hệ thống thuỷ lợi liên
tỉnh như cống Bắc Đông, Rạch Chanh. Đến năm 2010, tỉnh Long An đã thành lập
Trung tâm quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn.
Ở tỉnh Đồng Tháp, ngoài Chi cục Thủy lợi làm chức năng quản lý nhà nước,
trực tiếp quản lý, vận hành công trình thuỷ lợi do tỉnh quản lý khai thác thì Công ty
Cổ phần Vinaconex 27 cũng tham gia quản lý một số trạm bơm, hoạt động dịch vụ,
Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các huyện quản lý, khai thác công trình
thuỷ lợi do huyện quản lý, khai thác. Các công trình nhỏ, lẻ giao các tổ chức của
người dân trực tiếp quản lý, khai thác.
Tổng hợp số liệu về mô hình tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi
toàn quốc như bảng 1.2.
16
Bảng 1.2: Tổng hợp tổ chức khai thác công trình thuỷ lợi thuộc nhà nước
Số lượng công ty, đơn vị sự
nghiệp QLKCTTL Tên vùng
Thứ tự
Tỉnh/liên tỉnh Huyện, liên huyện Đơn vị sự nghệp
1 Miền núi phía Bắc (25/15 tỉnh) 8 13 4
2 Đồng bằng sông Hồng (35/11 tỉnh) 5 30 0
3 Bắc Trung bộ (21/6 tỉnh) 3 18 0
4 Duyên hải miền Trung (7/6 tỉnh) 5 2 0
5 Tây Nguyên (5 tỉnh) 4 0 1
6 Đông Nam Bộ (8/8 tỉnh) 8 0 0
5 0 2 7 Đồng bằng sông Cửu Long (7/13 tỉnh)
7 Tổng: 38 63
Bảng tổng hợp này không bao gồm các Chi cục thuỷ lợi vừa thực hiện chức
năng quản lý nhà nước, vừa tham gia quản lý khai thác như Bà Rịa Vũng Tàu, Kiên
Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Cà Mau, Bà Rịa Vũng Tàu.
1.2.2. Về loại hình hoạt động của doanh nghiệp:
Phân theo phạm vi phục vụ của các doanh nghiệp, hiện nay có các loại hình
chủ yếu sau:
1.2.2.1. Công ty khai thác công trình thuỷ lợi quản lý, vận hành các hệ thống
công trình thuỷ lợi lớn, kỹ thuật phức tạp, kênh trục chính phục vụ tưới tiêu, cấp
17
nước có tính chất liên tỉnh (gọi tắt là công ty liên tỉnh). Các công ty này do Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn trực tiếp quản lý (như Bắc Nam Hà, Bắc Hưng Hải,
Dầu Tiếng) hoặc do địa phương có diện tích hưởng lợi lớn quản lý như Sông Nhuệ,
Bắc Đuống.
1.2.2.2. Công ty khai thác công trình thuỷ lợi quản lý, vận hành các hệ thống
thủy lợi, kênh trục chính, kênh nhánh các cấp lớn phục vụ tưới tiêu, cấp nước trong
phạm vi toàn tỉnh hoặc có tính chất liên huyện, như công ty của tỉnh Hoà Bình, Lai
Châu, Lạng Sơn, Hải Dương, Thái Nguyên, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Ninh Thuận, Bình Thuận, Tiền Giang, Trà Vinh.
1.2.2.3. Các công ty khai thác công trình thuỷ lợi quản lý, vận hành các hệ
thống công trình thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu, cấp nước trong phạm vi huyện hoặc liên
huyện như các công ty của tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định, Thái
Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Khánh Hoà.
Phương thức hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay được thực hiện theo
quy định của Nghị định số 31/2005/NĐ-CP ngày 11/3/2005 của Chính phủ về sản
xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích và theo quy định khác của pháp luật
hướng dẫn phương thức này. Thực hiện Luật Doanh nghiệp năm 2005, đến nay, hầu
hết các đơn vị chuyển đổi từ loại hình công ty nhà nước hoạt động công ích trong
quản lý khai thác công trình thuỷ lợi sang loại hình Công ty TNHH một thành viên.
Bên cạnh đó, một số nơi có hình thức công ty cổ phần tham gia/được giao
nhiệm vụ quản lý khai thác công trình thuỷ lợi như: Công ty Cổ phần Khai thác
công trình thuỷ lợi Sơn La; Công ty CP Khai thác thuỷ lợi Kon Tum; Công ty Cổ
phần dịch vụ Thuỷ lợi Vĩnh Long (hiện đã không còn tham gia quản lý thuỷ nông);
Công ty Cổ phần Thuỷ lợi Sóc Trăng. Tuy nhiên việc thực hiện cổ phần ở các công
ty này chưa đúng bản chất của vấn đề cổ phần hoá nên hoạt động còn nhiều khó
khăn. Tỉnh Sơn La đang đề xuất chuyển đổi công ty này sang loại hình công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên, 100% vốn thuộc sở hữu nhà nước.
Đến nay, hầu hết, các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi đã được
chuyển đổi thành Công ty TNHH một thành viên theo đúng lộ trình quy định của
18
Luật Doanh nghiệp năm 2005.
1.2.3. Loại hình các đơn vị quản lý thuỷ nông cơ sở
Bên cạnh các doanh nghiệp, tổ chức quản lý khai thác công trình thuỷ lợi thuộc
nhà nước, còn có các tổ chức của tập thể, cá nhân cùng tham gia. Theo báo cáo tổng
hợp, cả nước có khoảng trên 12.000 tổ chức làm dịch vụ thuỷ nông gồm:
- Hợp tác xã nông nghiệp làm dịch vụ thuỷ lợi hoặc chuyên khâu
- Tổ hợp tác dùng nước:
- Hội dùng nước:
- Ban quản lý thủy nông xã (hoặc liên xã):
- Ban tự quản dùng nước thôn bản.
1.3. Một số tồn tại, thách thức của công tác thuỷ lợi hiện nay.
1.3.1. Một số tồn tại của công tác thuỷ lợi
Mặc dù đã phát huy và đạt được nhiều thành tựu trong việc phục vụ sản xuất
và đời sống dân sinh, tuy nhiên công tác thuỷ lợi còn bộc lộ nhiều tồn tại, yếu kém.
Những tồn tại yếu kém trong công tác thuỷ lợi phục vụ sản xuất và đời sống dân
sinh, biểu hiện qua các nội dung sau đây:
Thứ nhất là, các hệ thống công trình phát huy hiệu quả còn ở mức thấp, bình
quân chỉ đạt 70% năng lực thiết kế do nhiều nguyên nhân, như việc chuyển đổi cơ
cấu sản xuất, tốc độ công nghiệp hoá, đô thị hoá, dẫn đến diện tích, mục tiêu phục
vụ không còn như thiết kế ban đầu, hiệu suất sử dụng công trình theo thiết kế thấp.
Thứ hai là, hầu hết diện tích được bảo đảm chủ động tưới, tiêu còn thấp hoặc
tưới tiêu không chắc chắn. Theo chỉ tiêu thiết kế, công trình tưới bảo đảm ở mức
p=75% (đến nay đã có nhiều hệ thống đạt 85%), tiêu ở mức 10%, song trên thực tế
nhiều vùng diện tích còn bị hạn, bị úng ngay cả khi thời tiết, khí hậu chưa nghiêm
trọng như tính toán thiết kế ban đầu. Diện tích không chủ động tiêu tập trung ở các
vùng tiêu bằng trọng lực hoặc nội đồng. Vấn đề tiêu thoát nước nội đồng ở nhiều hệ
thống rất phức tạp.
Thứ ba là, nhiều công trình bị xuống cấp nhanh do một thời gian dài không
được duy tu bảo dưỡng đầy đủ, kịp thời; nhiều công trình có hệ số an toàn theo quy
19
phạm trước đây còn thấp, có thể gây nguy hiểm khi gặp lũ. Nhiều hệ thống kênh dẫn
chất lượng kém và tình trạng quản lý nước trên kênh tưới không chặt chẽ, dẫn đến
phần đầu kênh thì thừa nước, cuối kênh thiếu nước;
Thứ bốn là, tại các hệ thống thuỷ lợi lớn, diện tích phải bơm tưới, bơm tiêu hỗ
trợ chiếm tỷ lệ khá cao, đặc biệt là những vùng cuối nguồn; tình trạng lãng phí nước
tưới còn phổ biến; mức tiêu hao nhiên liệu, năng lượng lớn; cho phí cho tưới cao;
Thứ năm là, vấn đề ô nhiễm nước trong hệ thống công trình thuỷ lợi do nước
thải, rác thải xả bừa bãi vào hệ thống kênh xảy ra phổ biến; tình trạng vi phạm, xâm
hại, lấn chiếm công trình và phạm vi bảo vệ công trình thuỷ lợi xảy ra ở hầu hết các
hệ thống thuỷ lợi chưa được ngăn chặn kịp thời, đặc biệt là ở hệ thống kênh chuyển
nước.
Nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém trong công tác thuỷ lợi có nhiều,
nhưng tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau:
Một là, công trình thuỷ lợi thường có giá trị lớn, nằm trên địa bàn rộng nên
công tác quản lý và hiệu quả của các công trình thuỷ lợi chịu tác động của nhiều yếu
tố khách quan, như điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội từng vùng, lũ lụt,
hạn hán và các thiên tai khác. Thời tiết, khí hậu diễn biến bất thường có xu hướng
ngày càng bất lợi, vấn đề biến đổi khí hậu và nước biển dâng ngày càng nghiêm
trọng, trong khi tần suất thiết kế các công trình thuỷ lợi ở nước ta còn ở mức thấp
(tưới 75%, tiêu 10%).
Hai là, quá trình thay đổi, chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất từ nông nghiệp sang
đất đô thị, công nghiệp và các mục đích khác trong các hệ thống thuỷ lợi diễn ra rất
nhanh và mạnh mẽ, dẫn đến việc điều hành hệ thống công trình thuỷ lợi rất khó
khăn, việc phát huy hiệu quả không đảm bảo như thiết kế, nhiều hệ thống thuỷ lợi
phải sửa chữa, nâng cấp mới đáp ứng yêu cầu thực tế.
Ba là, rất nhiều công trình thuỷ lợi được đầu tư xây dựng trong điều kiện nền
kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn, suất đầu tư còn thấp, do vậy khi thiết kế thường
có diện tích thiên lớn. Nhiều hệ thống thuỷ lợi công trình được xây dựng thiếu kiên
cố, công nghệ xây dựng lạc hậu, chưa được đầu tư đồng bộ từ đầu mối đến mặt
20
ruộng, nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi thiếu trang thiết bị cho công tác quản lý,
vận hành. Việc đầu tư phát triển thuỷ lợi chưa phù hợp, nặng về xây dựng các công
trình mới, nhẹ về củng cố, khôi phục, nâng cấp sửa chữa các công trình đã có. Nhiều
công trình thuỷ lợi hiện nay đã bị xuống cấp, thiếu kinh phí để sửa chữa công trình
hoặc nâng cấp công trình cho phù hợp với mục tiêu nhiệm vụ mới. Bên cạnh đó, đầu
tư cho công tác quản lý còn chưa được coi trọng, do vậy không phát huy hết hiệu
quả của hệ thống.
Bốn là, yêu cầu cấp nước ngày càng cao để đáp ứng với việc ứng dụng các tiến
bộ kỹ thuật trong nông nghiệp; trong khi đó quy hoạch thuỷ lợi tổng thể phục vụ cho
đa ngành, đa mục tiêu chưa đáp ứng yêu cầu; chưa tính toán đầy đủ yêu cầu cấp
nước phục vụ sinh hoạt nông thôn, nước cho sản xuất công nghiệp, các làng nghề,
nước cho nuôi trồng thuỷ sản. Do vậy, có nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi không
đáp ứng được yêu cầu sản xuất thực tế.
Năm là, việc thực thi Pháp lệnh Khai thác và Bảo vệ công trình thuỷ lợi và
các cơ chế chính sách trong quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi ở nhiều địa
phương chưa tốt. Nhiều văn bản pháp quy được ban hành nhưng khó đi vào cuộc
sống, dẫn đến việc vi phạm diễn ra phổ biến, đặc biệt là vi phạm hành lang bảo vệ
công trình thuỷ lợi, hành vi xả thải vào công trình thuỷ lợi.
Sáu là, nguồn nhân lực phát triển chưa tương xứng với yêu cầu hiện tại. Năng
lực và trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân khai thác công trình thuỷ
lợi chưa đáp ứng được với yêu cầu về công nghiệp hoá và hiện đại hoá quản lý khai
thác công trình thuỷ lợi. Phân bố nhân lực ngành giữa các vùng, miền chưa cân đối,
nhiều nơi rất thiếu cán bộ thuỷ lợi, đặc biệt là các tỉnh vùng trung du, miền núi.
Bảy là, tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi ở nhiều địa phương còn
chưa đồng bộ, khép kín, kể cả hệ thống tổ chức quản lý nhà nước và quản lý khai
thác. Chưa có tổ chức thanh tra chuyên ngành, chế tài xử phạt các hành vi xâm hại
công trình thuỷ lợi còn chưa đủ mạnh. Năng suất lao động chưa cao, thu nhập thấp,
đời sống của cán bộ, công nhân khó khăn và không thu hút được cán bộ kỹ thuật có
năng lực về làm việc cho đơn vị. Nhiều tổ chức quản lý, khai thác công trình thủy
21
lợi còn tính ỷ lại, thiếu năng động. Tổ chức quản lý thuỷ nông ở cơ sở còn chưa
được quan tâm đúng mức, chưa phát huy được vai trò của cộng đồng tham gia trong
công tác quản lý khai thác công trình thuỷ lợi.
1.3.2. Một số thách thức trong công tác thuỷ lợi sắp tới
Đất nước ngày càng ổn định và phát triển, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là
thời cơ thuận lợi để thuỷ lợi có điều kiện phát triển đi lên. Tuy vậy, bên cạnh những
thời cơ, thuận lợi trong công tác thủy lợi hiện nay cũng đang đứng trước những
thách thức rất lớn, đó là:
Thứ nhất là, nguồn nước ở nước ta phân bố không đều cả theo không gian và
thời gian, hệ thống sông lớn chủ yếu bắt nguồn từ nước ngoài, rất lệ thuộc vào khả
năng khai thác, sử dụng nước của quốc gia ở phía thượng lưu; trong khi đó, nước ta
nằm ở vùng hạ lưu, không chủ động được nguồn nước.
Thứ hai là, xu thế biến đổi khí hậu toàn cầu, nhiệt độ trái đất nóng lên, nước
biển dâng cao làm cho thiên tai trên phạm vi toàn cầu xảy ra nhiều hơn, phức tạp
hơn, cường độ tăng mạnh hơn, cực đoan hơn và khả năng tác động không thể lường
hết. Việt Nam được cảnh báo là 1 trong 5 quốc gia sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
Do biến đổi khí hậu toàn cầu, hiện tượng Elnino, Lanina thường xuyên xuất hiện,
gây lũ lụt, hạn hán liên tiếp. Tình trạng xâm nhập mặn, khan hiếm nước ngọt đã xuất
hiện ngày càng nghiêm trọng.
Thứ ba là, tình trạng ô nhiễm nguồn nước trong các hệ thống công trình thuỷ
lợi ngày càng gia tăng, do nước thải từ các khu công nghiệp được phát triển nhanh,
những làng nghề, khu đô thị tập trung nhiều nơi đã xả trực tiếp nước vào các hệ
thống công trình thuỷ lợi không qua xử lý.
Thứ bốn là, nhu cầu nước cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, nuôi trồng
thuỷ sản, cấp nước dân sinh, đô thị, du lịch, dịch vụ, môi trường và các yêu cầu
dùng nước khác đang tăng cao. Các đối tượng sử dụng nước ngày càng đa dạng, với
yêu cầu chất lượng dịch vụ cao hơn, trong khi nguồn nước đang ngày càng khan
hiếm, cạn kiệt và có nguy cơ bị ô nhiễm. Theo dự báo của Ngân hàng Phát triển
châu Á, đối với Việt Nam, cần phải yêu cầu bảo đảm an ninh lương thực cho dân số
22
trên 100 triệu người đến năm 2020 và 130 triệu người đến năm 2050, trong khi diện
tích lúa ngày càng giảm, đòi hỏi chất lượng, mức bảo đảm tưới tiêu phải được nâng
cao hơn nữa.
Thứ năm là, mâu thuẫn về lợi ích kinh tế trong quá trình quản lý, vận hành,
điều tiết nguồn nước ở các công trình thuỷ lợi đầu nguồn, giữa việc phục vụ cho
tưới tiêu và phát điện hoặc giữa việc nuôi trồng thuỷ sản hay trồng lúa cũng là một
thách thức trong công tác thuỷ lợi trong thời gian tới.
Trong nhiều thập kỷ qua, Nhà nước và nhân dân ta đã đầu tư, hình thành một
hệ thống cơ sở hạ tầng thuỷ lợi hết sức to lớn, cơ bản đáp ứng những yêu cầu bức
thiết của sản xuất và đời sống dân sinh. Để quản lý, vận hành các hệ thống thuỷ lợi
này, chúng ta cũng đã hình thành một hệ thống tổ chức để thực hiện nhiệm vụ quản
lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Các công trình thuỷ lợi đã phát huy được vai trò
của mình, tuy nhiên trong thực tế vẫn còn nhiều tồn tại. Công tác thuỷ lợi cũng đứng
trước nhiều khó khăn, thách thức trước mắt đòi hỏi các cơ quan chức năng phải có
các giải pháp cần thiết để biến những khó khăn, thách thức thành cơ hội để phát
triển ngành thuỷ lợi, đáp ứng với yêu cầu phát triển dân sinh, kinh tế xã hội của đất
nước.
Với mục tiêu quản lý, khai thác công trình hiệu quả, đảm bảo an toàn thì việc
ban hành những cơ chế, chính sách, đặc biệt là chính sách về tài chính, mà thuỷ lợi
phí là một trong những chính sách đó, nhằm đáp ứng được yêu cầu tổng thể, phù
hợp với sự phát triển của nền kinh tế, đáp ứng lòng mong mỏi của người dân nhưng
phải theo hướng khai thác, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm và bền vững nguồn tài
nguyên là yêu cầu đặc biệt cần thiết.
23
Chương 2:
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ SỰ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH THUỶ LỢI PHÍ
2.1. Cơ sở khoa học và sự cần thiết của chính sách thuỷ lợi phí.
2.1.1. Khái niệm thuỷ lợi phí:
Thuỷ lợi phí hay định giá nước tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp nói
chung là mô tả việc định giá của dịch vụ cung cấp nước cho các tổ chức, cá nhân
sản xuất nông nghiệp. Đối với việc áp dụng cho tưới tiêu (thuỷ lợi phí), giá nước
nhìn chung được nhìn nhận qua hai loại hàng hoá kinh tế: 1) dịch vụ cung cấp nước
(thời lượng, phân phối và chất lượng của dịch vụ); và 2) nước được phân phối,
thường được xác định bởi khối lượng, nhưng đôi khi cũng đề cập đến vấn đề chất
lượng.
Liên quan đến vấn đề này, chúng ta hãy tìm hiểu, làm rõ thêm vấn đề tại sao
các chính sách không đề cập thuỷ lợi phí là giá, thuế, chi phí, hay lệ phí chi trả cho
dịch vụ về nước đối với sản xuất nông nghiệp mà gọi là phí – thuỷ lợi phí.
Thứ nhất, khái niệm giá, trong đó, chỉ đề cập khái niệm giá thành và giá bán.
Giá thành sản phẩm là toàn bộ chi phí bằng tiền để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm. Như vậy, khái niệm giá thành sản phẩm và chi phí trực tiếp liên quan mật
thiết với nhau, thể hiện những chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất một
24
đơn vị sản phẩm.
Giá bán được hiểu là số tiền người mua phải trả cho người bán để có/nhận
được sản phẩm hoặc dịch vụ mà người mua mong muốn có. Giá bán chính là thước
đo trao đổi của một hàng hoá cho một hàng hoá khác, được tính bằng tiền. Trong cơ
chế thị trường, giá bán được xác định dựa trên những nguyên tắc mà ở đó cho phép
giá có thể tự do dịch chuyển nhằm đáp ứng cầu của một loại hàng hoá nhất định.
Nếu cung vượt cầu thì giá giảm và ngược lại.
Thứ hai, thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có
nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp
luật do Nhà nước ban hành. Đây là một khoản thu chủ yếu của ngân sách mang tính
chất nghĩa vụ bắt buộc. Thuế không được hoàn trả trực tiếp, ngang giá cho người
nộp thuế. Một phần số thuế đã nộp cho ngân sách Nhà nước trả về cho người dân
một cách gián tiếp dưới những hình thức đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng về giáo
dục, y tế, phúc lợi công cộng, an ninh quốc phòng và xây dựng cơ sở hạ tầng như
đường xá, cầu cống, đê điều.
Thứ ba, khái niệm chi phí được hiểu là tổng nguồn lực (thường được qui ra
tiền) để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó. Sự tiết kiệm hay lãng
phí chi phí sản xuất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm và hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Chi phí bao gồm chi phí biến đổi, là những chi phí thay
đổi cùng với sự thay đổi của sản lượng; và chi phí cố định là những chi phí không
thay đổi khi sản lượng thay đổi.
Thứ tư, lệ phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan
nhà nước hoặc tổ chức được ủy quyền phục vụ công việc quản lý Nhà nước được
qui định trong danh mục lệ phí ban hành kèm theo Pháp lệnh Phí và lệ phí. Lệ phí là
khoản thu vừa mang tính chất phục vụ cho đối tượng nộp lệ phí về việc thực hiện
một số thủ tục hành chính vừa mang tính chất động viên sự đóng góp cho ngân sách
Nhà nước.
Thứ năm, phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức,
cá nhân khác cung cấp dịch vụ được qui định trong Danh mục phí ban hành kèm
25
theo Pháp lệnh Phí và lệ phí. Phí là khoản thu mang tính chất bù đắp chi phí thường
xuyên hoặc bất thường như phí về xây dựng, bảo dưỡng, duy tu của Nhà nước đối
với những hoạt động phục vụ người nộp phí.
Như vậy, xét theo tiêu chí các khái niệm trên, thì định giá nước đối với nông
nghiệp, không thể theo giá thị trường, hoặc lấy tổng chi phí làm ra sản phẩm/dịch vụ
để quy định mức thu đối với những người sản xuất nông nghiệp, vì họ sẽ không thể
chịu đựng nổi. Tuy vậy, ở một số trường hợp vẫn có thể gọi là giá dịch vụ thuỷ lợi
đối với sản xuất nông nghiệp hoặc giá nước đối với sản xuất nông nghiệp. Tất nhiên,
không thể gọi là thuế nước vì tính chất của thuế khác hẳn với giá, chi phí và các loại
phí. Vì thuế là khoản có tính chất bắt buộc tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ nộp
cho nhà nước khi thực hiện một dịch vụ nào đó mà Nhà nước quy định phải nộp
thuế. Đương nhiên, không thể gọi chi phí này là lệ phí vì lệ phí là chi phí cho các
nội dung có tính chất hành chính.
Để thể hiện sự ưu đãi đối với sản xuất nông nghiệp và tính “khoan sức dân”,
thuỷ lợi phí chính thức được xem, định nghĩa như là một loại phí, điều đó cũng được
khẳng định trong Pháp lệnh Phí và lệ phí ngày 28/8/2001 của Uỷ ban thường vụ
Quốc Hội. Trải qua nhiều văn bản có khái niệm khác nhau, tại Pháp lệnh khai thác
và bảo vệ công trình thuỷ lợi (ngày 4/4/2001) thuỷ lợi phí đã định nghĩa như sau:
“Thuỷ lợi phí là phí dịch vụ về nước thu từ tổ chức, cá nhân sử dụng nước hoặc làm
dịch vụ từ công trình thủy lợi cho mục đích sản xuất nông nghiệp để góp phần chi phí
cho việc quản lý, duy tu, bảo dưỡng và bảo vệ công trình thuỷ lợi”. Định nghĩa đã thể
hiện rõ bản chất của thuỷ lợi phí đối với sản xuất nông nghiệp.
2.1.2. Cơ sở khoa học và sự hình thành chính sách thuỷ lợi phí ở Việt Nam.
2.1.2.1. Cơ sở khoa học
Nước là một nguồn tài nguyên vô cùng quý giá và có hạn. Không có nước sẽ
không thể duy trì sự sống hay bất kỳ một hoạt động nào khác. Ngày nay, nguồn
nước đang ngày càng có xu hướng cạn kiệt, suy thoái và ô nhiễm trầm trọng, trong
khi nhu cầu sử dụng nước cho các ngành kinh tế, sinh hoạt ngày càng tăng cao.
Bên cạnh đó, nước được xem như một loại hàng hoá, hàng hoá đặc biệt và
26
không có hàng thay thế, đặc biệt nước khi đã qua công trình thuỷ lợi thì đặc tính
nước là hàng hoá càng thể hiện rõ nét. Do vậy, mọi người cần phải có trách nhiệm
trong việc giữ gìn và bảo vệ tài nguyên nước.
Trên cơ sở đánh giá những hiệu quả thực tế của công tác thuỷ lợi mang lại cho
sản xuất đời sống xã hội và dân sinh kinh tế, chúng ta có thể nhận định rằng, những
hiệu quả này là hết sức to lớn, có hiệu quả được định lượng, có thể tính được bằng
tiền. Tuy nhiên, còn nhiều hiệu quả hết sức to lớn mà khó định lượng được hoặc quy
đổi thành tiền, như việc giảm thiểu thiệt hại do lũ, lụt ở vùng hạ du, tác dụng về dân
trí, xã hội do việc khai hoang, phục hoá, mở rộng diện tích đất canh tác, tạo nên
những vùng đất sản xuất trù phú mới, hoặc tạo ra những vùng có môi trường thiên
nhiên trong lành, tuyệt vời làm nơi du lịch sinh thái, đặc biệt ở những vùng có hồ
chứa, hoặc thay đổi bộ mặt nông nghiệp nông thôn dự trên kết quả đầu tư thuỷ lợi.
Nguyên tắc người dùng hoặc hưởng lợi đều phải trả chi phí được áp dụng đối
với bất cứ loại dịch vụ nào, trong đó có người sử dụng, hưởng lợi từ nước, kể cả sử
dụng nước cho sản xuất nông nghiệp, đều phải có nghĩa vụ tài chính đối với việc sử
dụng nước từ công trình thuỷ lợi. Vì vậy, việc đặt ra và thực hiện chính sách thuỷ lợi
phí là có cơ sở khoa học rõ ràng.
2.1.2.2. Sự cần thiết phải có chính sách thuỷ lợi phí
Như trong chương 1 đã đề cập, với hệ thống thuỷ lợi hiện có, để đáp ứng cho
yêu cầu quản lý và khai thác khép kín các công trình, hệ thống công trình này, hiện
nay, đã hình thành hai cấp quản lý như sau:
Thứ nhất, các tổ chức, đơn vị thuộc nhà nước, bao gồm: hơn 100 công ty nhà
nước, công ty TNHH một thành viên 100% vốn thuộc sở hữu nhà nước thực hiện
nhiệm vụ quản lý, khai thác các công trình đầu mối lớn, công trình có kỹ thuật phức
tạp, kênh trục chính (chưa bao gồm các doanh nghiệp, tổ chức khác thuộc nhà nước
cũng có chức năng quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi).
Thứ hai, cấp tập thể, cá nhân (gọi là tổ chức thuỷ nông cơ sở): bao gồm
khoảng 12.000 tổ chức hợp tác dùng nước (bao gồm các hợp tác xã nông nghiệp có
làm dịch vụ thuỷ lợi, hợp tác xã dùng nước, tổ hợp tác, tổ, đội, ban) làm chức năng
27
cầu nối giữa các đơn vị quản lý khai thác của nhà nước với các hộ nông dân và quản
lý, khai thác những công trình thuỷ lợi nhỏ, có quy mô phù hợp.
Muốn đảm bảo cho các hệ thống công trình thuỷ lợi nói trên vận hành an toàn,
hàng năm, yêu cầu phải có một khoản kinh phí nhất định để vận hành, duy tu, bảo
dưỡng công trình thuỷ lợi (chưa kể đến kinh phí yêu cầu để đầu tư xây dựng mới,
nâng cấp, đại tu sửa chữa công trình thuỷ lợi bị hư hỏng do sử dụng lâu ngày và do
thiên tai gây ra).
Để bù đắp một phần kinh phí yêu cầu nói trên, giảm nhẹ gánh nặng bao cấp
ngân sách nhà nước, Nhà nước đã có chủ trương thu thuỷ lợi phí từ người hưởng lợi.
Ngay từ năm 1962, Hội đồng chính phủ, nay là Chính phủ đã ban hành Nghị định số
66/CP ngày 5/6/1962 quy định điều lệ thu thuỷ lợi phí (Nghị định 66), tuy nhiên, số
thuỷ lợi phí thu được là không đáng kể.
Chính sách thuỷ lợi phí được thay đổi theo thời gian, tuỳ thuộc vào tình hình
phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Chính phủ đã ban hành chính sách thuỷ lợi
phí cho phù hợp. Năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Nghị
định số 112-HĐBT ngày 25/8/1094 về việc thu thuỷ lợi phí (Nghị định 112), thay
thế Nghị định 66. Đến năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 143/2003/NĐ-
CP ngày 28/11/2003 quy định thi hành chi tiết một số điều của Pháp lệnh Khai thác
và bảo vệ công trình thuỷ lợi, trong đó có quy định về việc thu thuỷ lợi phí (Nghị
định 143).
Năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 154/2007/NĐ-CP ngày
15/10/2007 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày
28/11/2003 quy định thi hành chi tiết một số điều của Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ
công trình thuỷ lợi, trong đó quy định miễn thu thuỷ lợi phí (Nghị định 154). Đến
năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 115/2008/NĐ-CP ngày 14/11/2008 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 quy
định thi hành chi tiết một số điều của Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ
lợi (Nghị định 115), thay thế Nghị định 154 nói trên.
Như vậy, tính đến nay, chúng ta đã có 05 văn bản cấp Chính phủ quy định về
28
chính sách thuỷ lợi phí, trong đó có 2 văn bản (Nghị định 66 và Nghị định 112 là có
hiệu lực thi hành lâu nhất, tương ứng là 22 và 19 năm.
Để giải được bài toán về chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí, nếu không có sự
tính toán, cấp bù đúng mức, đáp ứng chi phí trong quản lý, duy tu, sửa chữa thì các
công trình thuỷ lợi sẽ bị xuống cấp, đe doạ đến an toàn công trình, thậm chí đến
ninh lương thực, an toàn xã hội. Do vậy, sự lựa chọn về chính sách thuỷ lợi phí có
một ý nghĩa kinh tế - chính trị - xã hội hết sức to lớn.
2.1.3. Một số phương pháp xác định mức thuỷ lợi phí
Hiện nay, có 3 phương pháp chủ yếu thường được sử dụng để định giá nước:
(1) giá nước theo diện tích; (2) giá theo khối lượng sử dụng và (3) giá cân bằng thị
trường. Thực tế, phương pháp đầu tiên hay được sử dụng để thực hiện quy định mức
thuỷ lợi phí. Ngoài ra, ở một số nước, thì việc áp dụng thu phí theo diện tích kết hợp
với tính giá theo khối lượng nước thực tế sử dụng cũng hay được áp dụng, thường
được gọi là giá nước hai thành phần: phần cứng và phần mềm.
2.1.3.1. Giá nước theo diện tích
Giá nước nước theo diện tích phục vụ là phí cố định, dựa vào diện tích được
tưới hoặc có thể được tưới. Chúng thường được tính toán bằng cách chia tổng chi
phí vận hành bảo dưỡng cho việc cung cấp nước tưới cho tổng diện tích được tưới,
mà thường được xác định theo nguyên tắc giá trung bình. Việc xác định chi phí vận
hành và bảo dưỡng là rất quan trọng, bởi vì tổ chức quản lý, khai thác công trình
thuỷ lợi cung cấp nước có thể có động cơ tăng chi phí đối với người dân. Hơn nữa,
việc sử dụng diện tích được tưới rất đa dạng từ năm này qua năm khác, mùa này qua
mùa khác. Ví dụ, diện tích được tưới trong mùa mưa thường lớn hơn trong mùa khô.
Hơn nữa, diện tích vùng dự án thường lớn hơn diện tích được tưới thực tế. Bởi vậy,
các tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi cần phải ước tính được diện tích
thực tế tưới cho mỗi mùa vụ.
Điểm không thuận lợi trong việc xác định giá theo phương pháp này là, khi đã
quyết định diện tích phải chịu giá, giá nước tưới sẽ không có tác động được việc tiêu
dùng nước của người nông dân, bởi vậy, chi phí cận biên của khối lượng nước tăng
29
thêm cho một hectare bằng không. Thế nên, nhu cầu nước theo phương pháp này
thường cao hơn khi giá nước được định bằng phương pháp cấp nước theo khối
lượng, và nó cũng dẫn đến tình trạng sử dụng thừa thãi nước của những người nông
dân ở khu vực đầu kênh.
Điểm thuận lợi của phương pháp này là áp dụng đơn giản, dễ hiểu để tính toán,
dễ dàng cho người nông dân hiểu và các chi phí thực hiện thấp hơn giá theo mét
khối bởi vì nước được cung cấp mà không được đo đếm một cách rõ ràng. Mặc dù
nó không giúp cho người nông dân động cơ giảm mức sử dụng nước trên 01 ha,
nhưng phương pháp này cũng được sử dụng rộng rãi ở rất nhiều hệ thống trên thế
giới bởi tính đơn giản trong cách thực hiện. Ở Haryana (Ấn độ), nước tưới được
định giá là 2,5USD/ha, trong khi đó ở Pakistan giá từ 2÷8USD/ha, mức phí này
được đặt ra chỉ đủ bù đắp một phần chi phí vận hành và bảo dưỡng.
Việc định giá nước theo hectare sử dụng thuần tuý chỉ được áp dụng ở những
nơi không khan hiếm về nước, mùa vụ không đa dạng và ở những nơi mà việc đo
đếm nước theo mét khối rất khó khăn hoặc đắt đỏ. Dẫu sao, hệ thống định giá nước
theo diện tích ngày càng trở nên ít phổ biến, và các hệ thống định giá nước theo diện
tích sử dụng trong thời gian gần đây đã đưa ra những nét riêng biệt mới. Sự cải tiến
của việc định giá nước tưới theo diện tích bao gồm diện tích vụ (hầu như được sử
dụng có điều chỉnh), diện tích theo mùa, và giá theo diện tích kết hợp công nghệ.
Hệ thống giá theo diện tích vụ thay đổi theo hectare được tưới dựa trên các vụ
khác nhau. Sự biến đổi của giá nước theo các vụ phụ thuộc vào mục tiêu của những
người làm chính sách. Nếu họ muốn khuyến khích hiệu quả sử dụng nước, các vụ
tiêu thụ nhiều nước như lúa, sẽ phải có giá cao hơn theo hectare. Nếu sự khác nhau
về giá đủ lớn, người nông dân sẽ chuyển đổi vụ. Mặt khác, nếu Chính phủ có chính
sách thu mua lương thực với giá thập hoặc muốn khuyến khích những vụ sản xuất
vụ phục vụ thương mại, giá nước đối với vụ này sẽ được đặt thấp hơn cho những vụ
khác. Tuy nhiên, cần quan tâm trong việc trợ cấp đầu vào như nước để tăng sản
phẩm các vụ bởi vì nó thường dẫn tới vấn đề không hiệu quả và sử dụng dự thừa
nguồn tài nguyên, đặc biệt như các vụ sản xuất lúa hay mía.
30
Trong phương pháp xác định mức giá theo diện tích được tưới, phí nước
thường phản ánh sự khác nhau trong chi phí dịch vụ tưới bởi các phương pháp tưới
khác nhau. Ví dụ, hầu hết các hệ thống tưới bằng trọng lực có mức phí biến đổi thấp
hơn so với các hệ thống tưới bằng bơm điện.
Tuy nhiên, lợi thế của hệ thống tưới bằng bơm điện là việc kiểm soát nước và
việc đo đếm nước nhìn chung dễ dàng hơn hệ thống tưới bằng trọng lực. Bởi vậy,
thuỷ lợi phí theo diện tích được tưới ở các hệ thống bơm thường cao hơn ở các hệ
thống hồ chứa bởi các chi phí tưới và thu nhập thực trên một đơn vị nước nhìn
chung cao hơn.
Ở một số nước thường sử dụng phương pháp thu theo diện tích mùa. Ví dụ, giá
cao sẽ được áp dụng ở mùa khô, khi nguồn nước khan hiếm, mức giá thấp sẽ được
áp dụng ở thời điểm gió mùa hay mùa ướt, khi nguồn nước tương đối dồi dào. Nếu
mức giá đặt cao vừa phải ở mùa khô, sẽ giúp giới hạn số lượng ha được tưới.
Một phương pháp khác là đặt giá theo diện tích liên quan đến công nghệ tưới.
Cho dù không nhận được nhiều sự quan tâm, về lý thuyết, phương pháp này khuyến
khích lựa chọn công nghệ tưới mới, tiết kiệm. Ý tưởng của phương pháp này tương
tự như phí dựa theo diện tích vụ, khi nông dân sử dụng công nghệ tiết kiệm nước sẽ
trả ít hơn cho 1 ha.
Ví dụ, tưới nhỏ giọt và tưới phun cho phép kiểm soát việc sử dụng nước tốt
hơn và hiệu quả hơn so với phương pháp tưới ngập. Bởi vậy, mức giá thấp hơn cho
một ha có thể được đặt ra đối với những người nông dân sử dụng phương pháp này
nhằm khuyến khích người dân chuyển đổi.
2.1.3.2. Giá nước theo khối lượng
Với việc đặt giá nước theo khối lượng, thì giá nước sẽ được dựa vào khối
lượng nước đã được cung cấp. Nguyên tắc giá tối ưu về kinh tế yêu cầu giá phải
được thiết lập cân bằng với chi phí cận biên của việc tăng thêm 01 sản phẩm nước
và nó khuyến khích người nông dân giới hạn việc sử dụng nước của họ. Bên cạnh
đó, nó cũng dễ dàng để người dân hiểu và cảm nhận được rằng họ trả cho khối
lượng nước cung cấp cho đồng ruộng của họ. Dẫu sao, phương pháp này cũng có
31
một số tồn tại. Thứ nhất, các chi phí thực hiện có thể cao bởi yêu cầu đo đếm theo
mét khối, và họ phải sẵn sàng trong việc đọc và thông báo các chỉ số sử dụng nước.
Thứ hai, giá theo chi phí cận biên không cho phép đảm bảo chi phí thu hồi vốn trong
trường hợp các chi phí trung bình giảm (ví dụ như hệ thống kênh mương lớn). Mặt
khác, trong trường hợp các trạm bơm tưới sử dụng nước ngầm, các chi phí dự án
cận biên có thể cao hơn chi phí dự án trung bình, đặc biệt khi các chi phí cận biên
bao gồm cả chi phí người dùng cận biên. Bởi vậy, trong một số dự án nước ngầm,
giá chi phí cận biên có thể tăng thu cũng như giá nước cao liên quan tới thu nhập
của người dân. Ví dụ, có hệ thống, thuỷ lợi phí chiếm tới trên 30% của thu nhập
người dân nhưng không đủ bù đắp chi phí vận hành và bảo dưỡng bởi vì chi phí tiền
điện rất lớn và phải được trợ cấp. Hơn nữa, đối với các hệ thống trọng lực, thuỷ lợi
phí thường nhỏ hơn nhiều so với % thu nhập thực của nông trại. Để chỉ ra những
vấn đề liên quan đến tác động của thuỷ lợi phí đối với thu nhập của nông trại,
phương pháp định giá nước hai thành phần theo khối lượng sẽ được sử dụng.
Giá theo block
Giá block bao gồm thay đổi giá nước khi sử dụng nước vượt quá một ngưỡng nhất định, (ví dụ 6.000m3 cho 1ha vụ). Nếu sử dụng cao hơn, việc thu phí đối với
block tăng thêm sẽ được sử dụng. Giá cho block đầu tiên sẽ được đặt ra dựa trên cơ
sở bù đắp một phần chi phí vận hành và bảo dưỡng. Giá cho các block thứ hai và
cuối cùng được tăng lên theo tỷ lệ để bù đắp chi phí vận hành và bảo dưỡng và
tương ứng với chi phí cận biên của việc vận hành. Khối lượng của block đầu tiên
thường được cân nhắc như là khối lượng cơ bản về nhu cầu nước để hỗ trợ người
nông dân, vì vậy, phương pháp này cũng nhằm đạt tới vấn đề công bằng. Người dân
sẽ trả với mức phí thấp cho block đầu tiên nhưng giá cao hơn cho việc sử dụng tăng
thêm bất kỳ khối lượng nước nào của block đầu tiên. Phương pháp định giá này thực
hiện tương tự như việc cấp quota. Thực tế, quota là một trường hợp đặc biệt của
việc định giá nước theo block.
Nếu giá khác nhau giữa các block đủ lớn, nông dân sẽ cố gắng không sử dụng
nhiều hơn block nước đầu tiên. Sự bất tiện của phương pháp này là không dễ dàng
32
quyết định mức giá cho mỗi block hay khối lượng của mỗi block (ví dụ như mức giá thấp áp dụng cho 6.000m3 đầu tiên/ha vụ hay nhiều hơn 6.000 m3). Hơn nữa, giá trị
dường như không chắc để bù đắp chi phí vận hành bảo dưỡng, đặc biệt nếu phạm vi
của block thứ nhất lớn. Nó phù hợp để sử dụng trong trường hợp ở những nơi nước
khan hiếm, thu nhập của nông trại thấp, và giá nước cao liên quan đến thu nhập thực
của nông trại. Thuận lợi của phương pháp này là bạn có, ít nhất, ba công cụ ảnh
hưởng đến việc sử dụng nước và phục hồi chi phí: giá của block thứ nhất, thứ hai và
khối lượng mà nó bắt đầu giá của block thứ hai.
Giá hai thành phần:
Sự cải tiến thứ hai là giá hai thành phần, đây là sự kết hợp của giá nước theo
khối lượng và phí thành viên cố định (một số nơi dựa vào của diện tích khu tưới).
Đối với phương pháp giá theo block mô tả ở trên, hai mục tiêu (1) thu đủ chi phí
phục hồi và (2) giảm khối lượng nước sử dụng là thường mâu thuẫn. Thuận lợi của
giá hai thành phần này là có thể làm hài hoà các mâu thuẫn này. Phần khối lượng sử
dụng có thể dựa vào chi phí cận biên, điều này sẽ khuyến khích người dân sử dụng
tiết kiệm nước, trong khi đó, phần cố định có thể được sử dụng để bù đắp bất kỳ sự
thiếu hụt nào để đảm bảo nguồn thu nhập cố định mà không cần biết đến có bao
nhiêu nước có thể được sử dụng và cung cấp. Kể cả cho chi phí vận hành và bảo
dưỡng, có thành phần cố định mà không phụ thuộc vào khối lượng nước được cung
cấp, những chi phí cố định này phải được bù đắp khi nước không được sử dụng cho
một mùa. Sự bất lợi trong phương pháp này là nó rất khó khăn trong việc tính toán
và rất khó khăn cho người dùng nước để hiểu được.
Bên cạnh phương pháp đặt giá đã nêu, còn có phương pháp đặt giá theo sản
phẩm đầu ra. Tuy nhiên, phương pháp này ít được các nước sử dụng trong việc cung
cấp nước tưới.
2.1.3.3. Thị trường nước
Ở những quốc gia có thị trường nước, chính thức hoặc không chính thức, các
công ty hoặc cá nhân có thể trao đổi nước ở mức giá cân bằng thị trường đặc biệt mà
sẽ thay đổi theo mùa. Để vận hành hiệu quả, thị trường nước yêu cầu phải có cấu
33
trúc rõ ràng của quyền sử dụng nước, bộ quy tắc rõ ràng và toàn diện trong giao
dịch, cơ quan quản lý phân phối nước và cơ quan pháp luật để giám sát các hoạt
động thương mại và giải quyết các tranh chấp. Họ cũng yêu cầu hệ thống vận
chuyển nước hiện đại cho mọi người sử dụng. Nếu những yêu cầu này được thực
hiện, giá cân bằng thị trường sẽ được điều chỉnh dựa theo cung và cầu.
2.1.4. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về chính sách thuỷ lợi phí
2.1.4.1. Tổng quan
Đối với mỗi hệ thống tưới tiêu cụ thể, việc thiết lập mức thu thuỷ lợi phí đối
với sản xuất nông nghiệp phải dựa vào điều kiện thực tiễn của từng quốc gia, đặc
biệt là điều kiện kinh tế xã hội và mức sống của người dân để quyết định. Mức thu
thuỷ lợi phí ở các nước chỉ đề trang trải chi phí vận hành và bảo dưỡng và hầu như
vẫn chưa đủ chỉ bù đắp được khoảng 20-70% cho phí vận hành và bảo dưỡng. Hầu
hết các nước không thu hồi chi phí đầu tư, hoặc nếu có thu thì tỷ lệ thu cũng rất thấp
như Canada và Italy, kể cả các nước công nghiệp phát triển. Thực tế hiện nay, cả các
nước phát triển và đang phát triển cũng đang tính lại chính sách về phí sử dụng nước
và một số nước đã bắt đầu thu lại ít nhất một phần kinh phí đầu tư ban đầu từ người
sử dụng như Australia và Brazil.
Bên cạnh đó, việc chuyển giao quản lý vận hành cho người sử dụng cũng là
một tiếp cận trong chính sách thiết lập mức thuỷ lợi phí ở các nước. Nhiều nước
đang có xu hướng chuyển giao quản lý vận hành cho người sử dụng hay các tổ chức
phi chính phủ, đặc biệt là chuyển giao hệ thống thủy lợi cho người hưởng lợi và họ
tự thu phí sử dụng nước để đảm bảo chi phí quản lý vận hành. Madagasca là nước
điển hình tốt về công tác chuyển giao và hiện nay các nước như Ấn độ và Pakistan
và nhiều nước khác, Việt Nam cũng đang xúc tiến chương trình chuyển giao này.
Hoặc vấn đề thúc đẩy thị trường nước và quyền sử dụng nước ở các nước phát
triển cũng đang là một chương trình đang được triển khai. Các nước đang phát triển
đang chuyển sang thương mại hóa các dịch vụ về nước như Mỹ, Australia và Israel
cũng tương tự như vậy.
2.1.4.2. Kinh nghiệm về chính sách giá nước tưới/thuỷ lợi phí ở một số nước
34
trên thế giới:
Macedonia (Cornish and Perry 2003)
Thuỷ lợi phí được thu đảm bảo bù đắp đủ chi phí vận hành bảo dưỡng và chi
phí khấu hao cơ bản. Thuỷ lợi phí được thu trên diện tích, gồm 2 thành phần: cố
định và biến đổi. Trong thời gian dài, phí cố định tương đương 50% tổng chi phí
vận hành và bảo dưỡng của hệ thống (O&M) và chi phí khấu hao cơ bản cho năm
tiếp theo (khoảng 10%). Phần cố định đảm bảo nguồn thu ngay cả khi mùa mưa khi
có rất ít hoặc không có nhu cầu tưới. Phần biến đổi dựa vào diện tích được tưới cho
các vụ khác nhau với giá của mỗi vụ tương ứng với lượng nước tiêu thụ. Từ năm 1992, thuỷ lợi phí ở đây không tăng, giá khoảng 0,016EUR/m3. Phần phí cố định
khoảng 7,05EUR/ha. Tuy thuộc vào giá trị của lượng nước cần cho mỗi vụ cũng như
theo diện tích được tưới cho loại cây trồng khác nhau, thuỷ lợi phí cố định có thể lên
tới 20-70EUR/ha. Thực tế cho thấy, phần cố định là quá thấp bởi vì hầu hết các chi
phí cho tưới là cố định. Phần chi phí biến đổi dao động lớn theo mùa vụ vì đây là
vùng khí hậu bán ẩm ướt. Có tổ chức quản lý nước, thu nhập cao hơn chi phí vận
hành và bảo dưỡng là 41USD/ha nếu chi phí không bao gồm nợ cũ và chi phí khấu
hao. Nếu kể cả nợ xấu và chi phí khấu hao, thì chi phí lớn hơn thu nhập là
165USD/ha.
Bulgaria, 2001
Thuỷ lợi phí được thiết lập dựa vào phương pháp tưới, động lực hay trọng lực,
và không có một sự thống nhất trong việc thiết lập thuỷ lợi phí cho toàn quốc. Mỗi
công ty thuỷ nông và Hội người dùng nước có phương pháp tính giá khác nhau.
Thuỷ lợi phí bao gồm phí lấy nước và tiền nước sử dụng theo khối lượng. Giá trung bình khoảng 0,01$-0,085$/m3. Giá nước đối với các hệ thống công trình đầu mối
bằng động lực thường bằng gấp 2 hoặc gấp 3 lần so với các vùng tưới tiêu bằng các
hệ thống công trình trọng lực. Thuỷ lợi phí thu được thường chỉ đủ bù đắp một phần
chi phí vận hành và bảo dưỡng và trong một số trường hợp cũng đủ bù đắp một
phần chi phí vốn đầu tư.
Trung quốc (Awati County Government 2002)
35
Trước đây, cơ quan Nhà nước chịu trách nhiệm thực hiện dịch vụ tưới tiêu và
bây giờ là các doanh nghiệp tự chủ tài chính. Lương của nhân viên có liên quan trực
tiếp đến tỷ lệ thuỷ lợi phí thu được. Thông qua Hội những người dùng nước được tổ
chức ở mỗi làng xã, chương trình đào tạo cộng đồng được thực hiện. Kể từ khi đổi
mới, thuỷ lợi phí, chủ yếu dựa vào khối lượng nước sử dụng, tăng khoảng 50% so
với khối lượng quotas được cấp cho mỗi nông trại. Với bất kỳ lượng quotas vượt
định mức nào, nông dân phải trả gấp 2 lần so với mức giá bình thường. Khối lượng nước sử dụng cho mỗi 0.067ha giảm khoảng 50m3 sau khi đổi mới, và tỷ lệ phí thu
được đạt khoảng 98%.
Trước khi có các chương trình tự chủ tài chính cho các cơ quan tưới tiêu, có
một số vấn đề lớn. Thứ nhất, thuỷ lợi phí thu được thường được sử dụng sai mục
đích. Thứ hai, việc thu phí nước theo diện tích được thực hiện, và việc trả không
trên cơ sở khối lượng nước được sử dụng. Thứ ba, trong thời gian gieo cấy chính vụ,
nông dân thường có ý định sẽ dùng các biện pháp hữu hiệu nhất để lấy nước, kể cả
làm cho người khác xấu đi. Thứ tư, một số nhóm người sử dụng nước được thành
lập, nhưng họ không phải là tổ chức cố định. Lãnh đạo nhóm dược chỉ định bởi
quan chức chính quyền và không phải do nông dân bầu. Bởi vậy, thiếu sự tham gia
và quyền làm chủ của người dân sẽ làm người dân ít có động cơ tham gia vào quản
lý, khai thác công trình thuỷ lợi.
Mục tiêu của cải cách là thành lập hệ thống tự chủ về tổ chức và quản lý bao
gồm hai bộ phận thống nhất: Tổng công ty cấp nước sẽ phân phối nước từ các công
trình đầu mối và tổ chức những người dùng nước vận hành công trình cấp cơ sở.
Mỗi Uỷ ban điều hành tổ chức dùng nước được nông dân bầu ra tại hội nghị của tổ
chức dùng nước. Các làng sẽ hỗ trợ để huy động nguồn nhân lực để tham gia các hội
nghị của hội dùng nước và bầu cử Uỷ ban điều hành, và điều đó sẽ mở rộng sự tham
gia của người dân và hoạt động của tổ chức dùng nước. Sau khi chuyển giao các hệ
thống tưới ở cơ sở, các cơ quan tưới và các cơ quan nhà nước về tưới sẽ hỗ trợ các
chương trình đào tạo cho nông dân, nâng cao năng lực của người dân. Các tổ chức
dùng nước được thành lập sẽ có nhiều lợi ích. Thứ nhất, tổ chức dùng nước kiểm
36
soát việc tưới tiêu ở cơ sở sẽ tiết kiệm lao động, nhân lực và rút ngắn chu kỳ tưới.
Nước sẽ được phân phối đúng thời gian và phù hợp yêu cầu khối lượng. Điều này sẽ
làm tăng khả năng và động cơ của người dân trong việc tham gia quản lý tưới. Thứ
hai, các tổ chức dùng nước sẽ cải thiện việc bảo dưỡng các hệ thống kênh chính và
hệ thống kênh nhánh. Nông dân sẽ đầu tư lao động và kinh phí bởi họ biết công
trình bây giờ là của họ. Thứ ba, chi phí tưới sẽ được giảm đi theo nhiều cách khác
nhau khi tổ chức dùng nước sẽ đưa ra mức giá phù hợp theo khối lượng. Người dân
sẽ sử dụng nước sẽ hiệu quả hơn, và việc phân phối nước cũng sẽ hiệu quả hơn.
Thứ tư, sản phẩm sẽ được cải thiện, bình quân sản lượng tăng lên 6%, trong đó
2,5% là do cải thiện việc tưới.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần xem xét. Thuỷ lợi phí thu quá thấp nên
không đủ bù đắp chi phí. Ví dụ ở Hunan, thuỷ lợi phí thu 0.032NDT/m3, trong khi đó chi phí khoảng từ 0.1 đến 0.15NDT/m3. Hơn nữa, nông dân cũng không sẵn sàng
trả nhiều thuỷ lợi phí hơn nữa vì họ đã phải nộp nhiều các loại thuế, phí khác và đã
đóng góp về lao động. Bởi vậy, cần phải nỗ lực hơn nữa để cải thiện vấn đề minh
bạch hoá tài chính, riêng rẽ với thuỷ lợi phí
Ai cập (Perry 1995)
Nghiên cứu năm 1995 do Viện Quản lý tưới Quốc tế (IIMI) đã xác định được
tác động của các phương án giá khác nhau trong ngành nông nghiệp có sử dụng
nước tưới và thu nhập của nông trại. Kết quả tìm được ở Ai cập cho thấy, thuỷ lợi
phí được thiết lập trên vụ gieo trồng hiệu quả như giá nước thu theo khối lượng.
• Tỷ lệ thu cố định là 52$/1ha, không cần biết là nước sử dụng vào mùa vụ gì,
chiếm khoảng 4.5% thu nhập của nông trại, nhưng không ảnh hưởng đến lựa chọn
mùa vụ hoặc công nghệ tưới.
• Thuỷ lợi phí theo vụ trên ha, tương ứng với mức tiêu thụ nước trung bình của
mỗi vụ nhất định
• Thuỷ lợi phí theo khối lượng dựa vào khối lượng nước được phân phối có tác
động gần như tương tự đối với trường hợp thứ hai. Các nhân tố chính giải thích sự
phản ứng khác nhau xuất hiện là khả năng lựa chọn mùa vụ để gieo trồng. Hơn nữa,
37
thuỷ lợi phí chỉ chiếm một phần nhỏ thu nhập của nông trại.
Gujarat - Ấn độ (Cornish and Perry 2003)
Nước mặt để tưới rất có hạn ở vùng Bắc Gujarat và việc phát triển tưới bằng
nước ngầm đã được thực hiện. Các giếng bơm nước tưới là phương tiện chủ yếu để
tưới nước. Bởi vì nước ngầm không bị kiểm soát, và thị trường nước cạnh tranh đã
được phát triển mà không ảnh hưởng/liên quan đối với việc sử dụng tài nguyên bền
vững. Các công trình tưới được phát triển và làm chủ bởi tư nhân. Hầu hết được làm
chủ bởi 3-10 nông dân, những người đã phát triển hệ thống quản lý có thể có lãi về
tài chính dưới tỷ lệ tiền điện của Chính phủ rất thấp. Thuỷ lợi phí chủ yếu được tính
theo khối lượng nước sử dụng và đặt ra đảm bảo đủ bù đắp chi phí vận hành và bảo
dưỡng. Các ông chủ đầu tư vốn thu thuỷ lợi phí dựa vào diện tích mà họ có khả
năng tưới và lợi ích tăng lên từ sản phẩm nông nghiệp. Thuỷ lợi phí hiện nay đảm
bảo đủ chi phí vận hành và bảo dưỡng. Vấn đề nợ đọng thuỷ lợi phí ít khi xảy ra vì
khả năng của nông dân và nếu xảy ra điều này, nông dân sẽ không được sử dụng
nước trong mùa tới.
Iran
Vào năm 2001, thuỷ lợi phí đối với vùng tưới nước bằng công trình trọng lực ở lưu vực Zayande Rud là 4$/1000m3. Giá này đã gần đảm bảo chi phí vận hành và
bảo dưỡng. Thuỷ lợi phí chiếm không đến 10% thu nhập thực của nông nghiệp. Để giảm nhu cầu nước, giá cần phải tăng lên khoảng từ $20 đến 50$/1000m3. Nghiên
cứu cho biết, giá thuỷ lợi phí hiện tại tăng gấp hai mươi lần thì người dân sẽ đầu tư
vào công nghệ tưới hiệu quả hoặc tưới tiết kiệm nước. Ở mức cao này, thuỷ lợi phí
sẽ tương đương 2/3 thu nhập của nông trại, và khó có thể áp dụng trong thực tế.
Pery (2001) đã chỉ khuyến cáo rằng, sử dụng thuỷ lợi phí để bù đắp các khoản chi
phí vận hành và bảo dưỡng và nên sử dụng biện pháp phân phối nước như là một
công cụ riêng biệt để hạn chế khối lượng nước sử dụng, hơn là dùng biện pháp đặt
mức thu cao.
Mêxico (Phát triển các Hội dùng nước - Zekri and Easter 2003)
Năm 1990, sau khi có rất nhiều kinh nghiệm trong các vấn đề nghiêm trọng
38
trong việc phân phối nước và thu thuỷ lợi phí, Mêxico đã cho thực hiện chương
trình chuyển giao quản lý tưới và chuyển quyền sử dụng nước cho các Hội dùng
nước. Nhưng đến năm 1997, 400 Hội dùng nước đã đi vào hoạt động, trong đó mỗi
Hội dùng nước quản lý công trình tưới có diện tích trung bình khoảng 7.600ha. Kết
quả nghiên cứu ở 6% các địa phương cho thấy, nước sử dụng hiệu quả và vấn đề
bảo trì công trình được cải thiện. Thuỷ lợi phí thu được tăng lên ở hầu hết các địa
phương vì mục tiêu tự chủ của các tổ chức, có nơi cho thấy tăng tới 5 lần so với
trước khi chuyển giao. Chính phủ trợ cấp, cho đến năm 1996, chỉ khoảng 15% chi
phí vận hành và bảo dưỡng ở những địa phương thực hiện chuyển giao.
Sự thành công của Hội dùng nước ở Mêxico được tăng cường bởi kỹ năng thuê
nhân viên kỹ thuật. Ở rất nhiều địa phương, thành viên của Hội dùng nước được hỗ
trợ về bán sản phẩm đầu ra, mua nguyên vật liệu đầu vào, thuê mướn máy móc thiết
bị. 8 công ty trách nhiệm hữu hạn, thực chất là hiệp hội các tổ chức dùng nước, hoạt
động và cung cấp dịch vụ cho các Hội dùng nước đến hết năm 1996. Những công ty
này đã mở rộng dịch vụ bảo dưỡng và vận hành các hệ thống lớn.
Maroc - Hệ thống thuỷ lợi Tadla (Cornish and Perry 2003)
Mục tiêu của chính sách thuỷ lợi phí ở Moroco là bù đắp 40% chi phí vốn đầu
tư và toàn bộ chi phí vận hành và bảo dưỡng. Thuỷ lợi phí được thu theo khối lượng
nước sử dụng và mức thu cao theo tiêu chuẩn quốc tế. Khối lượng nước thanh toán
thường chiếm 80% lượng nước thực tế vì tổn thất nước khi phân phối.
Tỷ lệ thuỷ lợi phí thu được ở Tadla thường đạt từ 70-80%. Ở hệ thống công
trình đầu tiên và lâu đời nhất ở Moroco, cần nhiều chi phí để vận hành và bảo dưỡng
(127$/ha/năm, thu đủ chi phí là 150$ ha/năm) hơn ở hệ thống Haouz. Thuỷ lợi phí
chiếm khoảng 15% thu nhập thực của nông trại. Tất cả nông dân ở Tadla có sổ kiểm
tra để theo dõi lượng nước sử dụng. Mỗi khi dùng nước, nông dân đưa sổ để người
phân phối nước xác nhận khối lượng nước sử dụng. Nông dân và người phân phối
nước ký xác nhận hàng tháng để đảm bảo không có sai sót gì trong hoá đơn. Tổng
lượng nước sử dụng cả vụ được xác định ở sổ kiểm tra, nhưng kế hoạch phân phối
nước có thể thay đổi bởi nhu cầu dùng nước của người dân.
39
Niger (Abernethy et al. 2000)
Mục tiêu của Chính phủ là chuyển giao trách nhiệm vận hành và bảo dưỡng
công trình tưới cho các hợp tác xã của người dùng nước. Thuỷ lợi phí được thiết lập
nhằm thu hồi toàn bộ chi phí vận hành và bảo dưỡng và một phần chi phí đầu tư ban
đầu. Từ năm 1992 đến 1996, mức phí mùa trung bình đối với lúa là 124$/ha vụ, cao
so với bình quân trên toàn thế giới. Thuỷ lợi phí tương đương 12-25% tổng giá trị
của mùa vụ.
Tỷ lệ thuỷ lợi phí thu được khá cao, từ 90-100%, nhưng nông dân thường trả
chậm. Mục tiêu của hệ thống giá nước là làm giảm nhu cầu sử dụng nước,nhưng
dường như nó không được thành công lắm bởi thuỷ lợi phí không liên quan đến sử
dụng và phân phối nước. Nông dân có rất ít động cơ để cải thiện việc dùng nước
hiệu quả vì dường như nó không có thay đổi gì so với cái họ phải trả.
Việc tạo nguồn mất khoảng 40-60%, và những mất mát này là chi phí phụ tăng thêm
được chia cho những thành viên tham gia hợp tác xã, có thể lên tới hàng nghìn
người. Bởi vậy, nông dân không có động cơ đóng góp lao động để cải thiện hệ
thống, và cân nhắc việc họ chỉ nhận được 1 đồng trong lợi ích vô vàn từ việc giảm
tổn thất nước.
Pháp Giá nước tưới ở Pháp từ 0,049-0,171USD/m3) và thu 0,022USD/m3 nước thải trở lại sông. Mức thu của các tổ nhóm nông dân 0,081$/m3 (giá ở trên là tính đối với
tự chảy còn đối với những vùng phải bơm động lực thì giá phải cộng thêm chi phí
bơm nên giá sẽ cao hơn mức trên).
Hoa Kỳ
Trước kia, thuỷ nông địa phương thu thuỷ lợi phí dựa trên cơ sở chi phí vận
hành và bảo dưỡng cho các vùng đất canh tác khác nhau. Ví dụ, mức thu đối với
những vùng tưới động lực sẽ cao hơn mức thu những vùng tưới tự chảy.
Bắt đầu từ cuối những năm 80 của thế kỷ trước, nhà nước đã xây dựng luật mà
nó bao hàm cả việc bảo vệ nguồn tài nguyên nước. Thuỷ lợi phí đã được thu tăng
lên đáng kể.
40
Ví dụ: thời điểm năm 1988 thuỷ nông huyện Broadview đã tăng mức thu từ
40USD/ha lên 100USD/ha với mức nước sử dụng được tính toán; năm 1987 tại thuỷ
nông huyện Pacheco mức thu tính theo 2 bậc, bậc thứ nhất mức thu 90USD/ha và
bậc thứ 2 thu 150USD/ha; đối với mức thu dựa trên khối lượng sử dụng ở hệ thống thuỷ nông bang Califonia tăng mức thu từ từ 4,4USD/1000m3 lên 11,9USD/100m3.
Với mức thu như vậy thì thực tế đã cao hơn mức cần thiết để thu hồi các chi phí.
Riêng đối với hệ thống thuỷ nông bang California, thu bình quân mức 6,3USD/1000m3, và sau đó tăng lên 11,0-16,3USD/1000m3 tuỳ thuộc vào mức đảm
bảo tưới; trong khi đó đối với hệ thống tưới huyện Madera mức thu tương ứng là 19,9 tăng lên 24,7÷42,3USD/1000m3.
2.2. Nội dung một số chính sách thuỷ lợi phí đã được thực thi.
2.2.1. Giai đoạn từ khi thống nhất đất nước đến trước năm 1984.
Kể từ ngày nước nhà được độc lập tới trước năm 1962, việc đầu tư, xây dựng
và quản lý, khai thác các công trình thuỷ lợi chủ yếu huy động sự tham gia của
người dân.
Đến năm 1962, Chính phủ ban hành Nghị định 66 là văn bản pháp lý đầu tiên
được ra đời quy định về mức thu thuỷ lợi phí trong các hệ thống thuỷ lợi, hay các hệ
thống nông giang. Tuy nhiên, Nghị định này được thi hành đối với các hệ thống
nông giang thuộc loại đại thuỷ nông, còn đối với những hệ thống trung thuỷ nông thì
Uỷ ban hành chính khu, thành, tỉnh sẽ căn cứ vào điều lệ này để quy định việc thu
thuỷ lợi phí sao cho sát với hoàn cảnh địa phương nhằm mục đích tổ chức việc quản
lý, khai thác sử dụng tốt hệ thống nông giang, phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Tại Nghị định này, khái niệm thủy lợi phí được hiểu như sau: “Tất cả các hệ
thống nông giang do nhà nước đầu tư vốn phục hồi hoặc xây dựng mới, sau khi đã
hoạt động bình thường và sản lượng của ruộng đất được tưới hay tiêu nước đã tăng
lên, đều do nhân dân, hợp tác xã hoặc nông trường quốc doanh có ruộng đất được
hưởng nước chịu phí tổn về quản lý và tu sửa. Phí tổn này gọi là thuỷ lợi phí”.
Nghị định này được ban hành nhằm tăng cường công tác quản lý và khai thác
các hệ thống nông giang, làm cho việc đóng góp của người dân được công bằng,
41
hợp lý, đảm bảo đoàn kết ở nông thôn, đồng thời tạo điều kiện tiến lên, quản lý các
hệ thống nông giang theo chế độ hạch toán kinh tế, thúc đẩy việc tiết kiệm nước, hạ
giá thành quản lý để phục vụ tốt sản xuất nông nghiệp.
Mức thuỷ lợi phí - được gọi là phí tổn về quản lý và tu sửa các hệ thống nông
giang sẽ được căn cứ vào lợi ích hưởng nước của ruộng đất và phí tổn về quản lý và
tu sửa của hệ thống nông giang tuỳ theo từng loại. Thủy lợi phí được quy định để
chi về các khoản như: “Trả lương cho cán bộ, công nhân của nông giang và chi cho
việc quản lý, khai thác, tu bổ sửa chữa thường xuyên trong hệ thống nông giang để
tiến tới xây dựng các xí nghiệp địa phương”
Nguyên tắc thu thuỷ lợi phí được quy định trong Nghị định 66 là căn cứ vào
lợi ích hưởng nước của ruộng đất và phí tổn về quản lý tu sửa của hệ thống nông
giang tuỳ theo từng loại. Để khuyến khích sản xuất nông nghiệp, tại điều 5 của Điều
lệ quy định như sau:
- Ruộng đất trồng trọt quá hai vụ trong một năm cũng chỉ thu thủy lợi phí 2 vụ
chính.
- Ruộng đất phải tát cao quá 1 mét rưỡi so với mức nước trung bình trong kênh
mương nông giang không phải trả thủy lợi phí.
- Đất trồng hoa màu, cây công nghiệp trả thủy lợi phí ít hơn ruộng lúa.
Dựa trên những nguyên tắc nêu trên, Nghị định 66 đã đưa ra biểu mức thu thuỷ
lợi phí cả năm chung cho mỗi ha ruộng đất gieo cấy lúa hưởng nước tính bằng cân
thóc được nêu trong bảng 2.1.
Bảng 2.1. Mức thủy lợi phí tính cho 1 ha ruộng theo Nghị định 66
Đơn vị: kg thóc/năm
Hình thức phục vụ Mức thu cả năm
Loại hình công trình Tối đa Tối thiểu
42
180 140 Hệ thống bơm điện Tưới thẳng
Phải tát dưới 1,5 m 80 40
Tưới thẳng 140 90
Hệ thống cống đập hoặc hồ chứa nước Phải tát dưới 1,5 m 50 30
Tưới thẳng 90 60
Hệ thống nước thủy triều Phải tát dưới 1,5 m 40 20
Đối với ruộng đất chỉ được hưởng lợi về tiêu nước mà không hưởng lợi về tưới
nước chỉ thu bằng 1/2 mức thu của ruộng đất được hưởng về tưới hoặc cả về tưới và
tiêu nước. Mức thu cho hoa màu và cây công nghiệp chỉ thu bằng 1/2 mức thu của
ruộng đất gieo cấy lúa.
Nghị định cũng quy định rõ thuỷ lợi phí được thu bằng thóc, trường hợp đặc
biệt mới được thu bằng tiền và một năm được thu làm 2 lần cùng một lúc với thuế
nông nghiệp. Tuy nhiên, để tránh nhầm lẫn giữa thuỷ lợi phí và thuế nông nghiệp,
nghị định cũng khuyến nghị nên tách biệt riêng giữa thuỷ lợi phí và thuế nông
nghiệp, nếu có ghi chung biên lai cũng cần ghi rõ diện tích phải trả thuỷ lợi phí và
số thóc (hoặc tiền) đã trả về thuỷ lợi phí.
2.2.2. Giai đoạn từ năm 1984 đến trước năm 2003.
Đến năm 1984, để phù hợp với yêu cầu mới, tiến lên một bước trong việc thu
thuỷ lợi phí, nhằm đáp ứng một phần chi phí cho các đơn vị quản lý thuỷ nông, Nghị
định 112 đã quy định thuỷ lợi phí bao gồm các khoản sau:
a) Khấu hao cơ bảo, khấu hao sửa chữa lớn và chi phí sửa chữa thường xuyên
các máy móc, thiết bị, nhà xưởng, kho tàng, phương tiện vận tải và các phương tiện
khác dùng vào việc duy trì, khai thác và quản lý các công trình thủy nông, không kể
khấu hao cơ bản các máy bơm lớn;
b) Chi phí sửa chữa lớn, tu bổ, sửa chữa thường xuyên các công trình xây đúc
và bằng đất, ngoài số nhân công do nhân dân đóng góp;
c) Chi phí về điện và xăng dầu;
d) Chi lương cán bộ, nhân viên và chi phí quản lý của các xí nghiệp thuỷ nông.
43
Như vậy, cơ sở để thiết lập mức thu của Nghị định 112 đã có sự thay đổi nhiều
so với Nghị định 66. Cơ cấu mức thu thuỷ lợi phí trong nghị định 112 đã có đề cập
tới một phần khấu hao cơ bản, khấu hao sửa chữa lớn của các máy móc, thiết bị nhà
xưởng và một số loại công trình thuỷ lợi khác, do đó mức thu đã có sự khác biệt so
với mức thu của Nghị định 66 trước đây.
Tuy nhiên, để giảm nhẹ thuỷ lợi phí, tạm thời chưa tính khấu hao cơ bản các
công trình xây đúc và bằng đất và khấu hao cơ bản các máy bơm lớn, xem đây như
một khoản trợ cấp của nhà nước đối với nông nghiệp. Khi cần trang bị thêm hoặc
thay thế các máy bơm lớn, ngân sách Trung ương cấp trực tiếp cho Bộ Thuỷ lợi (nay
là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) qua kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản
hàng năm.
Nghị định 112 ban hành đã tạo một tiền đề rất lớn trong hoạt động của các
doanh nghiệp thuỷ nông, tuy chưa đáp ứng được hết yêu cầu thực tế nhưng nó đã
giúp cho các doanh nghiệp nhà nước về khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi có
nguồn thu, đáp ứng được các yêu cầu vốn cho duy tu bảo dưỡng công trình an toàn
phục vụ tốt sản xuất tưới tiêu trong nông nghiệp.
Việc tính toán quy định mức thuỷ lợi phí theo nghị định 112 căn cứ theo các
nguyên tắc sau:
- Mức độ phục vụ tưới, tiêu nước của từng công trình (chủ động, bán chủ động
và tạo nguồn hoặc mở đường nước tiêu).
- Điều kiện và chi phí tưới nước, tiêu nước của từng công trình, trong từng vụ
sản xuất. Tuy vậy, khi áp dụng nguyên tắc này cần được vận dụng linh hoạt đối với
những công trình có điều kiện tự nhiên thuận lợi, chi phí tương đối thấp, có thể thu
thuỷ lợi phí cao hơn một chút so với chi phí thực tế để bù cho những công trình mà
điều kiện tự nhiên không thuận lợi, chi phí cao, năm thời tiết thuận, chi phí thấp, vẫn
thu thuỷ lợi phí theo mức bình thường để bù cho những năm thời tiết không thuận,
chi phí cao.
- Hiệu quả của dịch vụ tưới nước, tiêu nước, thể hiện ở năng suất, sản lượng
của ruộng đất.
44
- Thuỷ lợi phí tính bằng thóc hoặc lương thực khác đối với những diện tích
trồng cây lương thực khác.
Thuỷ lợi phí được quy định thu bằng thóc, tuy nhiên, có một số trường hợp thì
thuỷ lợi phí được phép thu bằng tiền, đó là:
- Những diện tích trồng các loại cây không phải là cây lương thực;
- Các dịch vụ thuỷ lợi không có liên quan đến trồng trọt;
- Những hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, hộ nông dân cá thể tuy sản xuất lương
thực nhưng cân đối lương thực chưa vượt quá mức tối thiểu cần thiết do Uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu (dưới đây gọi tắt là tỉnh) quy định.
Thuỷ lợi phí thu bằng tiền là số thóc phải trả tính theo giá mua thỏa thuận do
Uỷ ban nhân dân tỉnh quy định cho vụ sản xuất đó. Riêng đối với các tổ chức kinh tế
quốc doanh và các cơ quan Nhà nước thì tính theo giá chỉ đạo thu mua của Nhà
nước quy định.
Trên cơ sở những nguyên tắc đã nêu ở trên, mức thu thuỷ lợi phí theo Nghị
định 112 được quy định tính theo tỷ lệ phần trăm trên sản lượng trung bình của
ruộng đất đối với một đơn vị diện tích trồng lúa tưới tiêu chủ động quy định như
Bảng 2.2.
Bảng 2.2. Mức thu thủy lợi phí của Nghị định 112
Hình thức phục vụ Vụ đông xuân Vụ hè thu Vụ mùa
Tưới và tiêu bằng trọng lực 4-6.5% 4.5-7% 3-5.5%
Tưới bằng bơm điện,
4.5-7% 5-7.5% 3.5-6% tiêu bằng trọng lực
Tưới và tiêu bằng bơm điện 5-7.5% 5.5-8% 4-6.5%
Đối với các trường hợp khác được quy định như sau:
- Trong trường hợp tưới tiêu mới chủ động một phần thì thu bằng 70-80% mức
trên. Trong trường hợp mới tạo nguồn nước tưới hoặc mở đường nước tiêu thì thu
bằng 50÷70% mức trên.
- Đối với vụ hè thu, ở những nơi mưa đều, tưới ít thì thu bằng 90% mức trên
45
(mức quy định cho vụ hè thu).
Nghị định cũng quy định rõ việc quy định mức thu trong trường hợp lợi dụng
thuỷ triều hoặc phải tưới bằng bơm dầu suốt vụ; các trường hợp tưới cho rau, màu
cây công nghiệp ngắn ngày, cây vụ đông và trường hợp tưới bằng nguồn nước ngầm
và tưới phun mưa; thuỷ lợi phí đối với nuôi trồng thuỷ sản; thu thuỷ lợi phí các
phương tiện vận tải qua âu thuyền.
Uỷ ban nhân dân tỉnh căn cứ mức tối thiểu và tối đa trên đây, quy định mức
thu cụ thể ở địa phương.
Cũng giống như Nghị định 66 trước kia, Nghị định 112 quy định thuỷ lợi phí
được thu bằng thóc (hoặc lương thực khác) và thông qua ngành lương thực. Một số
trường hợp thu bằng tiền thì xí nghiệp thuỷ nông trực tiếp thu của các tổ chức cá
nhân được hưởng lợi từ dịch vụ về thuỷ lợi.
Có một điểm khác biệt mà Nghị định 112 đưa ra là quy định thành lập quỹ
thuỷ nông của tỉnh từ các nguồn thu thuỷ lợi phí, cụ thể: nguồn thu khấu hao cơ bản
và khấu hao sửa chữa lớn, thu điều tiết từ các xí nghiệp có những điều kiện khách
quan thuận lợi. Quỹ này sẽ do uỷ ban nhân dân tỉnh quản lý và sử dụng chủ yếu vào
việc sửa chữa lớn, đổi mới máy móc, thiết bị, các công trình xây đúc và bằng đất, và
hỗ trợ cho những xí nghiệp do khó khăn về điều kiện khách quan mà nguồn thu
không đảm bảo các yêu cầu về chi phí; dự phòng cho những năm thiên tai, chi phí
tăng nhưng nguồn thu giảm. Việc quy định thành lập quỹ này đã có tác dụng trong
việc điều hoà kinh phí thuỷ lợi phí giữa những năm thuận lợi và khó khăn.
Tuy vậy, do được ban hành trong thời kỳ bao cấp, và đã được áp dụng quá lâu
nhiều điểm không còn phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, do vậy Nghị
định 112 phải được sửa đổi bổ sung cho phù hợp.
2.2.3. Giai đoạn từ năm 2003 đến trước năm 2008.
Để khai thác tối đa năng lực các hệ thống công trình thuỷ lợi hiện có, gắn trách
nhiệm với quyền lợi của người dùng nước, giảm bớt gánh nặng bao cấp của Nhà
nước trong lĩnh vực thuỷ lợi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã báo cáo
Chính phủ ban hành chính sách về tiền nước và thuỷ lợi phí theo quy định tại Nghị
46
định 143. Quan điểm khi xây dựng mức thu tiền nước đối với các đối tượng không
phải sản xuất nông nghiệp và thuỷ lợi phí đối với sản suất nông nghiệp như sau:
Thứ nhất, nước từ công trình thủy lợi có giá trị sử dụng (nước là hàng hoá), do
đó nước phải được tính đúng, tính đủ các khoản chi phí hợp lý, đảm bảo cho các
doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi tồn tại và phát triển.
Thứ hai, mọi cá nhân, tổ chức sử dụng nước từ công trình thủy lợi đều phải có
nghĩa vụ tài chính theo quy định, hộ dùng nước không trả tiền, doanh nghiệp quản lý
khai thác công trình thuỷ lợi có quyền từ chối phục vụ. Doanh nghiệp khai thác công
trình thuỷ lợi phải bồi thường cho hộ dùng nước nếu phục vụ không đáp ứng đúng
yêu cầu đã ký kết (trừ những trường hợp bất khả kháng).
Thứ ba, Nhà nước có chính sách hỗ trợ về thuỷ lợi phí đối với nông dân sản
xuất lương thực, nông dân vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, các xã thuộc diện
xoá đói giảm nghèo. Tuỳ theo tình hình cụ thể từng nơi mà có tỷ lệ miễn giảm thích
hợp. Phần hỗ trợ được cấp thẳng cho doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi.
Thứ bốn, trường hợp gặp những năm thiên tai mất mùa sẽ có xử lý riêng theo
quy định.
Thứ năm, khuyến khích các hộ dùng nước ứng dụng công nghệ tiên tiến, nhằm
tiết kiệm nước, nâng cao hiệu quả tưới tiêu.
Do coi nước là hàng hoá và giá bán của nó phải được tính đủ đầu vào, nhưng
do tính chất quan trọng của nó nên đối với từng đối tượng, đặc biệt những đối tượng
dùng nước cho tưới tiêu sản xuất nông nghiệp nhà nước sẽ có chính sách riêng. Trên
quan điểm và nguyên tắc đã nêu, phương pháp xác định giá nước được xác định trên
các căn cứ và cơ cấu như sau:
Một là, các căn cứ để xác định giá nước:
- Kinh phí đầu tư xây dựng và quản lý đối với từng loại công trình và hệ thống
công trình cụ thể (hồ đập, trạm bơm).
- Mức độ phục vụ tưới tiêu (chủ động, chủ động, chủ động một phần), quy mô
công trình (lớn, vừa, nhỏ), tính chất của từng loại công trình, phạm vi quản lý của
một tổ chức quản lý thích hợp.
47
- Hiệu quả của dịch vụ được cấp nước, tiêu thoát nước hoặc làm dịch vụ từ
công trình thuỷ lợi và yêu cầu của các hộ dùng nước khác nhau.
- Đối với nước tưới tiêu cho lúa phải căn cứ vào tình hình thực tế của vùng sản
xuất được tưới thông qua các chính sách hợp lý, có sự cân đối với thu nhập (lợi ích)
cuối cùng của người sản xuất (nông dân), đồng thời phải tính đến khả năng hỗ trợ tài
chính của Nhà nước, nhằm đảm bảo đủ kinh phí cho đơn vị quản lý khai thác công
trình thủy lợi hoạt động.
Hai là, cơ cấu giá nước được xác định trên cơ sở các khoản mục chi phí chủ
yếu bao gồm:
- Tiền lương, phụ cấp lương và các khoản có tính chất lương;
- Chi phí nguyên, nhiên vật liệu vận hành bảo dưỡng;
- Khấu hao cơ bản tài sản cố định đối với những tài sản phải trích khấu hao của
doanh nghiệp;
- Chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định;
- Chi phí sửa chữa thường xuyên tài sản cố định;
- Tiền điện phục vụ tưới tiêu;
- Chi phí quản lý doanh nghiệp.
- Chi phí bảo hộ lao động, đào tạo nâng cao năng lực;
- Các chi phí khác.
Qua tính toán với các thành phần chi phí nêu trên, mức giá ứng với mức cao
nhất và khả năng thu thực tế phải thu cũng chưa vượt quá mức tương đương 8%
năng suất đã quy định theo Nghị định 112 theo thời giá hiện tại được quy định thu
bằng tiền.
Tại thời điểm năm 2003, nếu tính đầy đủ các chi phí, kể cả chi phí đầu tư xây
dựng và khấu hao cơ bản tài sản cố định của hạ tầng cơ sở thuỷ lợi, hàng năm cả
nước phải thu đạt trên 3.000 tỷ đồng thủy lợi phí (khoảng 1,7 triệu tấn thóc). Tuy
nhiên, nếu thu đạt 2.000 tỷ đồng/năm (khoảng 1,05 triệu tấn thóc) thì hàng năm Nhà
nước cũng phải hỗ trợ khoảng 6001000 tỷ đồng và, nếu thu đạt 840 nghìn tấn
thóc/năm thì hàng năm nhà nước phải hỗ trợ 1.0001.200 tỷ đồng cho các đơn vị
48
quản lý khai thác công trình thuỷ lợi. Đó là chưa tính đến khoản tiền nước tưới tiêu
trên mặt ruộng.
2.3. Vấn đề miễn giảm thủy lợi phí trong những chính sách thủy lợi phí đã ban
hành.
Trong các chính sách thuỷ lợi phí đã ban hành, trước khi có chính sách miễn
thuỷ lợi phí theo quy định của Nghị định số 154, cũng đều đề cập đến các quy định
về miễn, giảm thuỷ lợi phí, tuy nhiên mức độ có khác nhau.
Tại điều 9, 10 của Nghị định 66 của Chính phủ đã quy định về việc miễn, giảm
thuỷ lợi phí. Theo đó, người sử dụng nước từ các hệ thống nông giang mới được xây
dựng đưa vào quản lý, khai thác sẽ được miễn giảm thuỷ lợi phí từ 1 đến 2 năm, tính
từ ngày đưa vào sử dụng. Chỉ khi nào hệ thống đã hoạt động tưới tiêu ổn định, góp
phần tăng năng suất hiệu quả cây trồng thì địa phương mới cùng Bộ Thuỷ lợi và
Điện lực trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và quyết định thời điểm bắt đầu được
thu thuỷ lợi phí. Bên cạnh đó, khi gặp thời tiết bất lợi, thiên tai địch hoạ, như bão
lụt, hạn hán, sâu bệnh gây mất mùa, hoặc sản lượng lương thực bị giảm sút, người
dân cũng được miễn giảm thuỷ lợi phí theo quy định tương tự với quy định và tỷ lệ
miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Tại điều 5 của Nghị định 66 cũng quy định việc giảm thuỷ lợi phí đối với
ruộng đất trồng trọt quá hai vụ một năm thì cũng chỉ thu 2 vụ, nhằm khuyến khích
nông dân tăng vụ, tăng thu nhập cho người dân. Đối với vùng diện tích phải tát cao
quá 1,5m so với mức nước trung bình trong kênh tưới cũng sẽ không phải nộp thuỷ
lợi phí. Hay, những vùng trồng hoa màu, cây công nghiệp sẽ phải trả thuỷ lợi phí
thấp hơn vùng diện tích được gieo cấy lúa.
Ngoài việc quy định rõ sự hỗ trợ cho người sử dụng nước trong sản xuất nông
nghiệp thông qua chính sách giảm nhẹ mức đóng góp bằng việc quy định mức thu
thuỷ lợi phí thấp, chưa tính khấu hao cơ bản các công trình xây đúc và bằng đất và khấu hao cơ bản các máy bơm lớn có công suất từ 8.000m3/h trở lên, xem đây là một
khoản trợ cấp của Nhà nước đối với sản xuất nông nghiệp, thì việc thực hiện chính
sách miễn, giảm theo quy định của Nghị định 112 chỉ được quy định đơn giản tại
49
điều 10 của Nghị định. Theo đó, khi gặp thiên tai gây thiệt hại nặng cho mùa màng
thì người dân sẽ được giảm hoặc miễn thuỷ lợi phí, tuỳ theo mức độ thiệt hại được
đánh giá bởi các cơ quan chức năng. Nếu thiệt hại từ 30÷50% thì giảm 30%, từ 50-
70% thì giảm 50% tổng số thuỷ lợi phí phải đóng. Khi mức thiệt hại được các cơ
quan chức năng đánh giá vượt quá 70% thì người dân không phải đóng thuỷ lợi phí.
Chính phủ giao cho Uỷ ban nhân dân các tỉnh thực hiện miễn giảm.
Việc miễn, giảm thuỷ lợi phí theo quy định của Nghị định 143, ngoài bản chất
việc quy định mức thu thấp, không đáp ứng yêu cầu chi phí cho công tác khấu hao cơ bản công trình xây đúc và bằng đất, máy bơm lớn có công suất từ 8.000m3/h trở
lên, chi phí đại tu, sửa chữa nâng cấp công trình thuỷ lợi tương tự như bản chất của
Nghị định 112, tại điều 16 của đã quy định việc miễn, giảm thuỷ lợi phí đối với
người dân khi bị thất thu do thiên tai, gây mất mùa.
Khi có thiên tai gây mất mùa, thiệt hại nặng về năng suất, sản lượng cây trồng
đến mức người dùng nước có yêu cầu miễn giảm thì tổ chứ quản lý, khai thác công
trình thuỷ lợi phải báo cáo các cơ quan có thẩm quyền lập đoàn kiểm tra đánh giá
kết quả thiệt hại và trình các cấp có thẩm quyền quyết định miễn, giảm thuỷ lợi phí.
Cụ thể, thiệt hại dưới 30% sản lượng sẽ được giảm 50% thủy lợi phí phải nộp, thiệt
hại từ 30÷50% sản lượng thì được giảm 70% thuỷ lợi phí phải nộp. Thiệt hại từ 50%
sản lượng trở lên, được miễn thuỷ lợi phí.
Bên cạnh đó, tại khoản 1, điều 19 của Nghị định 143 cũng quy định việc miễn
giảm thuỷ lợi phí cho các đối tượng đang sinh sống, sản xuất ở những địa bàn có
điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, theo đó ở những nơi có điều kiện kinh tế xã hội
khó khăn được giảm từ 50-70% thuỷ lợi phí phải nộp. Ở những địa bàn có điều kiện
kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn thì được miễn thuỷ lợi phí. Khi thực hiện Nghị định
143, một số địa phương cũng đã chủ động có chính sách miễn hoặc giảm thuỷ lợi
phí đối với người dân sản xuất nông nghiệp trên địa bàn như tỉnh Hưng Yên (năm
2007), Vĩnh Phúc (năm 2006), Thành phố Hồ Chí Minh (năm 2007).
Việc hình thành chính sách thuỷ lợi phí là rất cần thiết, và nó cần được thay
đổi theo từng thời kỳ phát triển đất nước, nhằm phù hợp với tính tất yếu của quy luật
50
phát triển kinh tế xã hội, cho dù có thể quy định thu hay không thu từ người dân.
Các chính sách thuỷ lợi phí đã ban hành trước đây, khi chưa thực hiện chính sách
miễn giảm thuỷ lợi phí như từ năm 2008, cũng đã đều thể hiện được chính sách
khoan sức dân của Đảng và nhà nước ta. Các chính sách này đã phát huy vai trò lịch
sử của mình, góp phần quan trọng trong việc đóng góp một phần kinh phí, giảm bao
cấp từ ngân sách nhà nước đối với công tác quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.
Trong các chính sách cũng đã quy định những trường hợp được miễn hoặc giảm tuỳ
theo tình huống phát sinh trong thực tế, đặc biệt là do điều kiện thiên tai, luôn gắn
liền với hiệu quả hoạt động của các hệ thống công trình thuỷ lợi.
Tuy nhiên, mỗi chính sách chỉ gắn với và phù hợp với từng giai đoạn lịch sử
phát triển của đất nước, có chính sách được dài, có chính sách nhanh phải thay đổi.
Thuỷ lợi phí cũng là một trong những chính sách như vậy. Bắt đầu từ năm 2008, với
điều kiện phát triển kinh tế của đất nước, Chính phủ đã thực hiện chính sách miễn
thuỷ lợi phí cho người dân được giao đất, mặt nước sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và làm muối. Vấn đề này sẽ được luận văn nghiên cứu ở
chương tiếp theo.
51
Chương 3:
NỘI DUNG CHÍNH SÁCH MIỄN GIẢM THUỶ LỢI PHÍ HIỆN NAY VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CHỦ YẾU
3.1. Bối cảnh và sự cần thiết phải ban hành chính sách miễn giảm thủy lợi phí.
3.1.1. Bối cảnh thực hiện chính sách miễn giảm.
Xuất phát từ kết quả điều tra, đánh giá thực trạng cuộc sống, thu nhập người
nông dân của các cơ quan thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục Hợp
tác xã và Phát triển nông thôn và Viện Chiến lược Chính sách Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn) đã cho thấy, đời sống của người nông dân, đặc biệt những người
nông dân sống ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa còn rất khó khăn.
Hàng năm, người dân còn phải đóng rất nhiều các khoản phí, lệ phí đối với hoạt
động của chính quyền và các tổ chức mà họ tham gia, Hợp tác xã, đoàn thể. Theo
kết quả điều tra đánh giá, bình quân một người dân hàng năm phải đóng từ 15÷28
các loại phí, chi phí. Thậm chí, có nơi phải đóng tới 41 chi phí các loại. Theo kết
quả phân loại các loại phí, lệ phí, tỷ trọng thuỷ lợi phí chiếm một phần khá lớn trong
tổng các loại phí, lệ phí phải đóng góp.
Trên diễn đàn Quốc hội, tại nhiều kỳ họp, nhiều năm, đã có không ít đại biểu
Quốc hội lo lắng cho đời sống của hơn 70% dân số sống bằng sản xuất nông nghiệp,
đã đề nghị Chính phủ cần có nghiên cứu, đề xuất ban hành chính sách miễn giảm
thuỷ lợi phí đối với người dân sản xuất nông nghiệp, nhằm tạo điều kiện hỗ trợ
người dân, giảm bớt chi phí sản xuất trong nông nghiệp. Bên cạnh đó, năm 2007,
nước ta chính thức trở thành một thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), nền kinh tế Việt Nam bắt đầu hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới.
Giai đoạn hiện nay, nguồn thu ngân sách Nhà nước đã được cải thiện đáng kể,
giúp cho Chính phủ có điều kiện đầu tư, hỗ trợ đối với người dân. Tuy nhiên, yêu
cầu đầu tư cho các công trình hạ tầng cơ sở và các yêu cầu chi tiêu xã hội khác còn
rất lớn. Vì vậy chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí phải được tính toán kỹ, trên cơ sở
52
tối ưu hoá hệ thống quản lý khai thác công trình thuỷ lợi, thực hành tiết kiệm chi phí
ở mức cao nhất để đề ra lộ trình giảm, miễn thuỷ lợi phí phù hợp với khả năng ngân
sách của Nhà nước.
3.1.2. Sự cần thiết và mục tiêu ban hành chính sách miễn giảm.
Trong những năm qua, Nhà nước đã quan tâm nhiều đến sản xuất nông nghiệp,
phát triển nông thôn nhằm cải thiện và nâng cao đời sống cho nông dân. Nhà nước
đã đầu tư số vốn rất lớn để xây dựng các công trình thuỷ lợi, giao thông nông thôn,
trường học, đường điện, công trình văn hoá, thực hiện chính sách miễn thuế nông
nghiệp, khuyến nông, khuyến ngư... Đến nay, nông nghiệp, nông thôn đã phát triển
tương đối ổn định, tăng trưởng nông nghiệp, thuỷ sản trong các năm 2005 đến năm
2008 là khoảng 4%, đời sống của người nông dân, nông thôn đã cải thiện một bước.
Tuy nhiên, hiện nay ở nông thôn, sản xuất nông nghiệp vẫn là chủ yếu, số hộ
làm nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản, chiếm hơn 70 % tổng số hộ. Chi phí sản
xuất sản phẩm, dịch vụ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản ngày một tăng do giá cả vật tư
đầu vào (như giống, phân bón...) tăng, tình trạng hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh xảy ra
liên tục.
Mặt khác, do sức ép tăng dân số, quá trình đô thị hoá và phát triển các khu
công nghiệp, diện tích đất đai sản xuất bình quân đầu người ngày một giảm (hiện tại ở đồng bằng Sông Hồng 500 m2/người). Trong khi đó, người nông dân vẫn còn phải
đóng góp nhiều khoản để xây dựng, sửa chữa cơ sở hạ tầng ở nông thôn, xã, bản. Vì
vậy, thu nhập và mức sống của người nông dân hiện nay đang còn rất thấp, nhất là
khu vực miền núi, địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn. Khoảng cách về đời
sống và thu nhập của nông dân với các tầng lớp dân cư khác trong xã hội ngày một
rộng thêm. Theo đánh giá của các chuyên gia, thì trong quá trình hội nhập kinh tế
thế giới, lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đời sống của nông dân sẽ bị tác động và
chịu thiệt nhiều nhất do sức cạnh tranh sản phẩm kém.
Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ về thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, phát triển nông
nghiệp, nâng cao đời sống nông dân, nông thôn gắn với sự nghiệp xoá đói giảm
53
nghèo thì miễn thuỷ lợi phí biện pháp cần thiết và phù hợp với tình hình hiện nay.
Mục tiêu của chính sách miễn thuỷ lợi phí phải được là:
Thứ nhất, giảm bớt chi phí sản xuất nông nghiệp của người nông dân, tạo điều
kiện cho người nông dân có điều kiện đầu tư sản xuất và cải thiện một bước thu
nhập của nông dân.
Thứ hai, đảm bảo năng lực tưới, tiêu của hệ thống công trình thuỷ lợi, chống
xuống cấp công trình. Nâng cao năng lực quản lý khai thác công trình thuỷ lợi của
các tổ chức quản lý khai thác công trình thuỷ lợi trên cơ sở củng cố, nâng cao tổ
chức và phương thức quản lý, phân cấp quản lý hệ thống công trình thuỷ lợi rõ ràng,
hợp lý.
Xuất phát từ bối cảnh và sự cần thiết như đã nêu, Nghị định 154 và Nghị định
115 (thay thế Nghị định 154) đã được ra đời.
3.2. Phân tích, đánh giá chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí.
3.2.1. Những nội dung cơ bản của chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí
3.2.1.1. Miễn thuỷ lợi phí theo quy định của Nghị định 154
a) Đối tượng áp dụng:
Các hộ gia đình, cá nhân có đất, mặt nước dùng vào sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, nuôi trồng thủy sản và làm muối gồm đất do nhà nước giao, đất được quyền
sử dụng do được cho, tặng, thừa kế nhận chuyển nhượng sử dụng hợp pháp. Bao
gồm cả phần diện tích đất 5% công ích do địa phương quản lý các hộ gia đình cá
nhân được giao hoặc đấu thầu quyền sử dụng.
b) Phạm vi áp dụng:
Nhà nước miễn thu thuỷ lợi phí cho diện tích đất sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, thuỷ sản, làm muối nằm trong hạn mức giao đất nông nghiệp cho hộ gia
đình cá nhân (theo Điều 69 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của
Chính phủ về thi hành Luật Đất đai).
Những diện tích, đối tượng không được miễn thu thuỷ lợi phí gồm diện tích
đất vượt hạn mức giao cho hộ gia đình, cá nhân; và các đối tượng khác như doanh
nghiệp, hoạt động cung cấp, tiêu nước cho sản xuất công nghiệp, nước cấp cho các
54
nhà máy nước sạch, thuỷ điện, kinh doanh du lịch, vận tải qua cống, âu thuyền và
các hoạt động khác được hưởng lợi từ công trình thuỷ lợi.
c) Thời điểm áp dụng miễn thu thuỷ lợi phí bắt đầu từ ngày 1-1-2008
d) Phương án miễn thu thuỷ lợi phí:
- Nhà nước miễn thu thuỷ lợi phí từ công trình đầu mối (tạo nguồn) đến vị trí
cống đầu kênh của tổ chức hợp tác dùng nước (mức thu được quy định trong Nghị
định 143). Các tổ chức hợp tác dùng nước thoả thuận với các hộ dùng nước về mức
thu thuỷ lợi phí vị trí đầu kênh của tổ chức hợp tác dùng nước đến mặt ruộng (kênh
nội đồng) đảm bảo cho hoạt động của tổ chức.
- Nguồn ngân sách cấp bù do miễn thuỷ lợi phí:
+ Ngân sách trung ương cấp kinh phí cho các công ty thuộc Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn.
+ Ngân sách các tỉnh, thành phố cấp kinh phí cho các tổ chức quản lý, khai
thác công trình thuỷ lợi thuộc địa phương bao gồm cả kinh phí duy tu, bảo dưỡng,
sửa chữa thường xuyên, sửa chữa lớn các công trình thuỷ lợi theo phân cấp.
Ngân sách trung ương hỗ trợ 100% kinh phí tương ứng với số thu thuỷ lợi phí
được miễn cho các tỉnh, thành phố nhận trợ cấp từ ngân sách trung ương (không bao
gồm kinh phí duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa thường xuyên, sửa chữa lớn các công
trình thuỷ lợi do ngân sách địa phương đảm bảo theo phân cấp).
Đối với tỉnh, thành phố có điều tiết nguồn thu về ngân sách trung ương thì tự
bảo đảm ngân sách hỗ trợ cho các tổ chức thủy nông địa phương. Các khoản ngân
sách địa phương đang hỗ trợ cho các công ty thuỷ nông thuộc địa phương quản lý
vẫn được thực hiện theo các chế độ hiện hành.
Theo tính toán khi xây dựng chính sách, dự kiến kinh phí phải cấp bù hàng
năm do miễn thu thuỷ lợi phí khoảng 1.000 tỷ đồng (chưa tính các khoản tăng lương
theo quy định, các khoản trượt giá theo thị trường...), trong đó cho các công ty khai
thác công trình thuỷ lợi do trung ương quản lý là: 100 tỷ đồng, các tổ chức thuộc địa
phương quản lý là: 900 tỷ đồng.
Nghị định 154 được ban hành và thực hiện sau đúng 01 năm thì Nghị định 115
55
ra đời và thay thế Nghị định 154. Lý do phải thay đổi sẽ được trình bày cụ thể trong
phần đánh giá tình hình triển khai thực hiện chính sách.
3.2.1.2. Miễn thuỷ lợi phí theo Nghị định 115
Về nội dung, Nghị định 115 giữ một số nội dung của Nghị định 154 và bổ
sung một số quy định như sau:
a) Phạm vi miễn thuỷ lợi phí:
Mở rộng phạm vi miễn thuỷ lợi phí đối với diện tích sản xuất nông nghiệp
được tưới tiêu bằng các công trình thuỷ lợi đầu tư từ tất cả các nguồn vốn, kể cả
nguồn vốn ngoài ngân sách, tính từ đầu mối đến cống đầu kênh nội đồng.
Phí dịch vụ cấp nước từ sau cống đầu kênh đến mặt ruộng (kênh nội đồng) do
tổ chức, cá nhân sử dụng nước chi trả. Mức phí cụ thể của tổ chức hợp tác dùng
nước thoả thuận với tổ chức, cá nhân sử dụng nước, nhưng không vượt quá mức quy
định của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
b) Về mức thủy lợi phí
Đối với các công trình được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, lấy
mức quy định tài Nghị định 143 làm chuẩn, điều chỉnh cho phù hợp với chế độ tiền
lương và mặt bằng giá cả hiện nay để bảo đảm cho các đơn vị quản lý khai thác
công trình thủy lợi có đủ kinh phí để hoạt động, thực hiện duy tu, sửa chữa công
trình thuỷ lợi, đảm bảo chống xuống cấp công trình, phát huy cao nhất hiệu quả của
các công trình hiện có, đáp ứng yêu cầu cho sản xuất nông nghiệp và dân sinh. Theo
tính toán, mức thuỷ lợi phí mới bằng mức tối thiểu theo quy định của Nghị định 143
nhân với 2,31 lần (tính toán hệ số trượt giá).
Tuy nhiên, phần lớn diện tích tưới tiêu đã được miễn thuỷ lợi phí, số diện tích
phải nộp thuỷ lợi phí rất ít, do vậy để đảm bảo công bằng giữa các địa phương,
thuận tiện trong việc tính toán cấp bù, kiểm tra giám sát, Nghị định 115 chỉ quy định
một mức thu cho tất cả các mùa vụ trong năm, không chia theo vụ như Nghị định
143, áp dụng thống nhất cho cả vùng, phù hợp với phương thức tưới tiêu như động
lực, trọng lực hoặc động lực kết hợp trọng lực như quy định tại Nghị định 143.
Đối với các công trình đầu tư bằng nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước, mức
56
thuỷ lợi phí được thực hiện theo thoả thuận giữa các đơn vị thuỷ nông, tổ chức hợp
tác dùng nước với các tổ chức, cá nhân dùng nước và được Uỷ ban nhân dân các
tỉnh chấp thuận, đảm bảo thuỷ lợi phí mà người dân phải trả cho các đơn vị quản lý,
khai thác công trình thuỷ lợi, tổ chức hợp tác dùng nước ở mức hợp lý, phù hợp với
thu nhập của người dân, tránh tình trạng lợi dụng chính sách của Nhà nước để thoả
thuận thu ở mức cao nhằm thu bất lợi từ chính nguồn cấp bù của nhà nước.
c) Cấp bù về kinh phí do miễn thu thuỷ lợi phí
- Đối với các công trình đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, ngân sách
nhà nước cấp bù 100% theo mức thuỷ lợi phí do Nhà nước quy định.
- Đối với các công trình đầu tư bằng nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước hiện
đang thu theo thoả thuận, ngân sách nhà nước cấp bù 100% theo mức thoả thuận
giữa các đơn vị thuỷ nông với các hộ dùng nước, đã được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
chấp thuận.
d) Thời gian thực hiện từ 01-01-2009.
Theo tính toán khi xây dựng chính sách, Bộ Tài chính dự kiến, tổng kinh phí
cấp bù từ ngân sách Trung ương sẽ khoảng 3.519 tỷ đồng, tăng hơn so với kinh phí
thực hiện năm 2008 khoảng 2.519 tỷ đồng do mở rộng phạm vi miễn và nâng mức
miễn thuỷ lợi như đã nêu ở trên.
Tuy nhiên, theo tính toán thực tế, nếu áp dụng chính sách và cấp bù theo quy
định của Nghị định 115, ngân sách nhà nước sẽ phải bỏ ra không dưới 6.000 tỷ đồng
để cấp bù cho các địa phương thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí.
3.2.2. Thực trạng triển khai những nội dung của chính sách
3.2.2.1. Thực trạng triển khai Nghị định 154
a) Các hoạt động, hướng dẫn triển khai từ các cơ quan Trung ương
Nghị định 154 được ban hành từ 15/10/2007, đến 28/3/2008, Bộ Tài chính mới
ban hành Thông tư số 26/2008/TT-BTC (Thông tư 26) hướng dẫn thi hành một số
điều của Nghị định 154. Về cơ bản chính sách miễn thuỷ lợi phí ban hành đáp ứng
nguyện vọng đông đảo của người nông dân, đã giúp cho người dân giảm bớt chi phí
sản xuất nông nghiệp, có điều kiện đầu tư sản xuất cải thiện một bước thu nhập của
57
người nông dân.
b) Triển khai của các địa phương
Triển khai thi hành Nghị định 154, nhiều địa phương đã tổ chức các hội nghị
tập huấn chỉ đạo các huyện và các địa phương quán triệt, giải thích người dân hiểu
rõ nội dung, tinh thần của Nghị định. Tuy vậy, khi triển khai còn nhiều lúng túng.
Nhiều tỉnh chưa quyết định thu thuỷ lợi phí theo quy định của Nghị định 143 trước
đây đã quyết định mức thu mới, theo quy định của Nghị định 143, tuy nhiên lại lấy
theo mức cao của Nghị định 143, dẫn đến số kinh phí đề nghị cấp bù tăng vọt,
thường gấp đôi so với mức cũ, không phù hợp với quy định của Thông tư 26.
Theo quy định, các tỉnh phải tiến hành thống kê diện tích được miễn thuỷ lợi
phí theo quy định, trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định. Theo yêu cầu
của Thông tư 26 là phải xong trước 30/6/2008, tuy nhiên hầu hết các tỉnh không thể
thực hiện được đúng thời gian quy định.
Trên cơ sở phân bổ kinh phí từ Nhà nước, các địa phương cũng đã triển khai
phẩn bổ kinh phí cho các đơn vị tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi trong
tỉnh. Tuy nhiên, việc triển khai phân bổ kinh phí cho các tổ chức hợp tác dùng nước
và các đơn vị quản lý khai thác công trình thuỷ lợi không phải là doanh nghiệp còn
gặp nhiều vướng mắc.
c) Một số khó khăn, bất cập trong việc triển khai
Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị định 154 và Thông tư 26 của Bộ Tài
chính, đã nảy sinh một số vướng mắc mà các địa phương không thể tự giải quyết
được, cần được tháo gỡ. Cụ thể như sau:
Thứ nhất là, đối tượng được miễn thuỷ lợi phí:
Nghị định 154 mới chỉ đề cập đến diện tích tưới tiêu đối với các công trình
thuỷ lợi xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước; đối với diện tích tưới tiêu
các công trình thuỷ lợi xây dựng bằng vốn không phải của ngân sách và đang thu
theo thoả thuận thì không được miễn.
Theo hướng dẫn tại điểm 2.5, mục 2, phần I, của Thông tư 26: “Diện tích nằm
trong phạm vi tưới, tiêu và cấp nước của các hệ thống công trình thuỷ lợi do các tổ
58
chức, cá nhân đầu tư bằng các nguồn vốn không thuộc nguồn vốn của ngân sách nhà
nước và nộp thuỷ lợi phí theo mức thoả thuận giữa đơn vị quản lý thuỷ nông và hộ
dùng nước” không thuộc diện được miễn thuỷ lợi phí.
Như vậy, để được miễn thuỷ lợi phí phải là vùng diện tích được phục vụ từ các
công trình thuỷ lợi được đầu tư bằng ngân sách Nhà nước và thu thuỷ lợi phí theo
quy định của Nghị định 143. Đối với những tổ chức hợp tác dùng nước quản lý, khai
thác công trình thuỷ lợi không có nguồn gốc đầu tư từ ngân sách nhà nước, hoặc
những tổ chức hợp tác dùng nước được giao quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi
do nhà nước đầu tư xây dựng nhưng không nộp thuỷ lợi phí theo quy định của Nghị
định 143 vẫn sẽ phải nộp thuỷ lợi phí. Điều này là không công bằng, ngay ở cấp
cộng đồng dân cư, rất khó khăn trong việc xác định nguồn gốc vốn đầu tư xây dựng
và phân biệt các loại hình diện tích.
Bên cạnh đó, khái niệm “nguồn vốn của ngân sách nhà nước” cũng không
được giải thích cho rõ ràng, do vậy, mỗi địa phương đã hiểu và áp dụng một cách
khác nhau dẫn đến rất không thống nhất.
Thứ hai là, tổ chức được hưởng kinh phí cấp bù do miễn thu thuỷ lợi phí: Theo
điểm 3.3, mục 3, phần I của Thông tư 26 quy định “các tổ hợp tác dùng nước: Ban
quản lý thuỷ nông, tổ đường nước, đội thuỷ nông, hội dùng nước, hiệp hội dùng
nước, hợp tác xã nông nghiệp được giao quản lý các công trình thuỷ lợi đầu mối đến
cống đầu kênh của tổ hợp tác dùng nước phục vụ tưới nước và tiêu nước cho sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản có thu thuỷ lợi phí.
Các đơn vị quản lý thuỷ nông phải được cơ quan có thẩm quyền (Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) quyết định thành lập, hoặc có giấy phép
đăng ký kinh doanh hoặc được đại hội xã viên thông qua quy chế, điều lệ hoạt động
và được sự đồng ý bằng văn bản của Uỷ ban nhân dân quận, huyện hoặc thị xã nơi
đóng trụ sở chính”.
Điều này, sẽ dẫn đến sự khập khiễng giữa các văn bản hướng dẫn của các cơ
quan Trung ương đối với tổ chức hợp tác dùng nước, một đối tượng quan trọng
trong việc triển khai chính sách miễn thuỷ lợi phí, làm các địa phương rất khó vận
59
dụng, vì Thông tư số 75/2004/TT-BNN ngày 20/12/2004 của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn.
Như vậy, nhiều tỉnh không có đơn vị tổ chức quản lý, khai thác công trình thủy
lợi sẽ không được hưởng chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí. Ví dụ như tỉnh Bắc
Kạn, Cà Mau, Hà Giang…
Thứ ba là, mức thuỷ lợi phí để cấp bù: theo Thông tư 26, việc xác định kinh
phí để thực hiện miễn thu thuỷ lợi phí dựa trên cơ sở quyết định mức thu thuỷ lợi phí
của địa phương đang áp dụng theo Nghị định 143, hoặc nếu chưa áp dụng thì Uỷ
ban nhân dân tỉnh phải ban hành quyết định mới theo quy định của Nghị định 143
nhưng mức thu không cao hơn năm 2007.
Như vậy, áp theo quy định này, sẽ có sự không công bằng giữa các địa
phương, đặc biệt những tỉnh chưa thực hiện Nghị định 143 sẽ quyết định mức cao
nhất trong khung quy định. Bởi vì, nếu vẫn thực hiện thu theo quy định của Nghị
định 112 (theo % sản lượng thóc), cùng với giá thóc tương đương mức cao nhất của
Nghị định 143. Dẫn đến tình trạng địa phương quy định mức cao thì ngân sách địa
phương phải chi ít và được ngân sách Trung ương hỗ trợ nhiều. Ngược lại địa
phương (thường là các tỉnh nghèo) quy định mức thu thấp được ngân sách trung
ương hỗ trợ ít, ngân sách địa phương phải chi nhiều.
Mặt khác mặt bằng thu thuỷ lợi phí của các địa phương đang ở mức thấp nên
chưa bảo đảm kinh phí để chi cho các đơn vị thuỷ nông, nhất là chi cho việc duy tu,
bảo dưỡng công trình. Mặt khác mức thu thuỷ lợi phí theo Nghị định 143 được xây
dựng trên cơ sở tiền lương và giá cả năm 2001-2002 (lương tối thiểu 210.000 đồng).
Đến thời điểm Nghị định 154 ra đời, tiền lương tối thiểu tăng hơn 2 lần, giá cả
nguyên nhiên vật liệu tăng nhiều lần, nhất là xăng dầu nên người lao động trong các
đơn vị quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi gặp khó khăn, thiếu kinh phí để duy tu,
sửa chữa thường xuyên công trình, kênh mương.
Trường hợp các tỉnh đã quy định mức thu theo Nghị định 143, với điều kiện
biến động giá cả, lạm phát như hiện nay, nếu không có chính sách miễn thu thuỷ lợi
phí, chắc chắn cũng phải điều chỉnh tăng mức thu thuỷ lợi phí để đáp ứng yêu cầu
60
kinh phí cho quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, vì nhiều địa phương, ngoài kinh
phí từ nguồn thu thuỷ lợi phí, tỉnh không thực hiện cấp bù đối với hoạt động công
ích trong lĩnh vực tưới tiêu cho các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi do
ngân sách của tỉnh không đáp ứng được yêu cầu.
Do đó, quy định mức cấp bù được khống chế theo mức thu của năm 2007 sẽ
đặt các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi vào hoàn cảnh khó khăn về kinh
phí, đặc biệt là tiền lương cho cán bộ, nhân viên.
Thứ tư là một số vấn đề bất cập khác
Điểm 1.2, mục 1, phần II Thông tư 26 quy định “Uỷ ban nhân dân cấp quận,
huyện, thị xã nơi đối tượng miễn thuỷ lợi phí cư trú xác nhận bảng kê do đơn vị
quản lý thuỷ nông lập” cũng chưa hợp lý, bởi vì, nhiều đối tượng có đất canh tác
trên địa bàn này, nhưng cư trú ở địa bàn khác.
Mục 4, phần II, Thông tư 26 quy định “Việc xác định diện tích miễn thu thuỷ
lợi phí của năm 2008 phải thực hiện xong trước ngày 30/6/2008”. Do Thông tư
hướng dẫn mới ban hành ngày 28/3/2008, do vậy, nếu quy định thời điểm như vậy
phải hoàn thành sẽ quá gấp gáp, các địa phương không thể đáp ứng được. Thực tế
đã chứng minh điều này.
Mục 5, phần III, Thông tư 26 quy định ”Đối với các đơn vị thuỷ nông thuộc
diện đặt hàng, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương uỷ quyền cho
cơ quan chuyên môn trực thuộc (Sở Tài chính, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn) ký hợp đồng đặt hàng”. Nhiều tỉnh, ngoài doanh nghiệp khai thác công trình
thuỷ lợi, còn một số lượng lớn các đơn vị quản lý thuỷ nông là các tổ chức hợp tác
dùng nước, với số lượng cán bộ chuyên môn hiện tại thì Sở Tài chính, Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn khó có thể đảm đương được khối lượng công việc.
Việc quy định phải có hợp đồng, thanh lý hợp đồng dùng nước cũng không phù hợp
với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
Do còn quá nhiều bất cập trong việc triển khai thực hiện Nghị định 154, đặc
biệt là vấn đề công bằng, bình đẳng giữa những người nông dân được hưởng lợi từ
các công trình thuỷ lợi khác nhau, do vậy, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài chính chủ
61
trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sớm sửa đổi, bổ sung
Nghị định 154. Nghị định 115 ra đời trong hoàn cảnh như vậy.
3.2.2.2. Kết quả triển khai Nghị định 115
a) Công tác chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện chính sách miễn giảm thuỷ
lợi phí từ các cơ quan Trung ương
Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định, Bộ Tài chính đã phối hợp Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Thông tư số 36/2009/TT-BTC ngày
26/2/2009 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định nói trên (Thông tư 36).
Để hỗ trợ triển khai chính sách này, Bộ Tài chính cũng đã phối hợp với Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Thông tư số 11/2009/TT-BTC ngày
19/01/2009 hướng dẫn giao kế hoạch, đặt hàng đối với các đơn vị quản lý, khai thác
công trình thủy và quy chế quản lý tài chính đối với công ty nhà nước quản lý, khai
thác công trình thuỷ lợi. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết các doanh nghiệp khai thác
công trình thuỷ lợi đã được chuyển đổi sang loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn
100% vốn thuộc sở hữu nhà nước và hoạt động theo quy định tại Nghị định số
25/2010/NĐ-CP ngày 19/3/2010 của Chính phủ về chuyển đổi công ty nhà nước
thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và tổ chức quản lý công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu và Thông tư số
117/2010/TT-BTC ngày 05/8/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế tài chính của
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.
Nhằm đồng bộ với các quy định hiện hành, thực hiện các nội dung của Nghị
định số 115, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư số
65/2009/TT-BNNPTNT ngày 12/10/2009 hướng dẫn tổ chức hoạt động và phân cấp
quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi; Quyết định số 2891/QĐ-BNN-TL ngày
12/10/2009 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hướng dẫn xây
dựng định mức kinh tế kỹ thuật trong công tác quản lý, khai thác và bảo vệ công
trình thuỷ lợi. Các văn bản này là cơ sở pháp lý quan trọng giúp các địa phương, các
đơn vị quản lý khai thác công trình thuỷ lợi triển khai đồng bộ các cơ chế, chính
sách trong lĩnh vực miễn thuỷ lợi phí, đồng thời tăng cường công tác quản lý, khai
62
thác công trình thuỷ lợi.
Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang chỉ đạo các cơ quan,
đơn vị có liên quan soạn thảo, trình Bộ ban hành văn bản để chuẩn hoá năng lực của
các tổ chức, cá nhân khi tham gia quản lý, vận hành các hệ thống công trình thuỷ
lợi.
b) Triển khai các nhiệm vụ cụ thể của các địa phương
Theo quy định của Nghị định 115 và các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương đã triển khai một số công việc nhằm cụ thể hoá một số nội dung
của Nghị định, như việc phân cấp quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, quy định cụ
thể mức thu thuỷ lợi phí, quy định vị trí cống đầu kênh của tổ chức hợp tác dùng
nước; quy định mức trần thuỷ lợi phí nội đồng trên địa bàn địa phương nhằm gắn
trách nhiệm, quyền hạn của người dùng nước trong việc tham gia đóng góp đối với
việc quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi và bảo vệ nguồn nước
Mặc dù vậy, Nghị định 115 ban hành và thực hiện đến nay đã được 2 năm,
nhưng vẫn còn nhiều tỉnh đang triển khai các nội dung thuộc trách nhiệm của địa
phương trong việc cụ thể hoá Nghị định 115 trên địa bàn của địa phương, như quy
định về vấn đề phân cấp quản lý công trình thuỷ lợi, quy định cống đầu kênh, quy
định mức trần kinh phí của tổ chức hợp tác dùng nước; chỉ đạo xây dựng định mức
kinh tế kỹ thuật trong quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi; hoàn thiện quá trình sắp
xếp, đổi mới doanh nghiệp và củng cố các tổ chức hợp tác dùng nước, dẫn đến việc
triển khai thi hành chính sách miễn thuỷ lợi phí chưa thực hiện đồng bộ trên toàn
quốc. Nhiều tỉnh, hầu hết là các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên… đều không
quy định mức trần kinh phí thuỷ nông nội đồng, nông dân mặc nhiên được miễn
toàn bộ thuỷ lợi phí, kể cả thuỷ lợi phí nội đồng.
Thực chất, đây là vấn đề tồn tại, bất cập trong khái niệm cống đầu kênh được
áp dụng kể từ khi Nghị định 143 ra đời, do quy mô của các công trình thuỷ lợi nhỏ,
các công trình tưới cho ruộng trực tiếp từ kênh chính, kênh cấp 1, do vậy việc quy
định cống đầu kênh là không thể thực hiện được.
63
Theo tổng kết báo cáo của các địa phương, thì việc triển khai ban hành các quy
định để hoàn thiện, đồng bộ việc thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí từ trung
ương tới các địa phương chưa cao. Còn nhiều tỉnh đến năm 2010 mới tiếp cận hoặc
hiểu rõ chính sách sách này và mới vận dụng được chính sách này trong thực tế ở
địa phương (Cà Mau, Kiên Giang). Một số địa phương khi lập dự toán kinh phí
miễn thuỷ lợi phí chưa áp dụng đúng theo quy định của Nghị định 115 như Thành
phố Cần Thơ, Tỉnh Hậu Giang. Thực tế, việc áp dụng chính sách này còn vướng
mắc xảy ra ở hầu hết các tỉnh chưa thành lập được các công ty khai thác công trình
thuỷ lợi.
Tuy vậy, theo đánh giá chung, việc triển khai các nội dung theo quy định của
Nghị định 115 ở các địa phương còn nhiều thụ động, có địa phương còn quá trông
chờ, ỷ lại vào hướng dẫn chi tiết của Trung ương, mà nhiều nội dung cụ thể áp dụng
cho từng hệ thống công trình, từng vùng kinh tế xã hội phụ thuộc chủ yếu vào quyết
định của địa phương. Một số nội dung thuộc thẩm quyền của địa phương nhưng
nhiều nơi vẫn đòi hỏi các hướng dẫn cụ thể từ các cơ quan Trung ương.
c) Tình hình cấp ngân sách thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí trong các
năm vừa qua
Năm 2009, Ngân sách Trung ương đã cân đối trên 2.800 tỷ đồng (chưa kể các
tỉnh tự bù đắp kinh phí) để hỗ trợ các địa phương cấp kinh phí cho các đơn vị quản
lý, khai thác công trình thuỷ lợi thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí. Năm 2010,
ngân sách Trung ương bố trí khoảng 3.339 tỷ đồng để bố trí cho các địa phương
thực hiện chính sách này, chưa kể các tỉnh tự đảm bảo ngân sách để thực hiện cấp
bù miễn thu thuỷ lợi phí. Theo tổng hợp sơ bộ từ báo cáo của các địa phương, tổng
số nhu cầu kinh phí để miễn giảm thuỷ lợi phí năm 2011 khoảng trên 4.900 tỷ đồng.
Theo quy định của Chính phủ, từ 2011-2015, mức thuỷ lợi phí sẽ được ổn định cho
các địa phương trên cơ sở mức miễn thuỷ lợi phí đã được các cấp có thẩm quyền
phê duyệt. Tổng hợp kinh phí đối với các vùng trong các năm thực hiện miễn thuỷ
lợi phí thể hiện trong bảng 3.1.
64
Bảng 3.1. Tổng hợp kinh phí miễn thuỷ lợi phí
Đơn vị: Tỷ đồng
TT Vùng Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 KH 2011
122 1 Vùng miền núi phía Bắc 292 320 369
727 2 Vùng Đồng bằng sông Hồng 1.346 1.441 1.474
513 3 Bắc Khu 4 và DHMT 1.035 1.064 1.106
25 4 Tây Nguyên 61 84 103
32 5 Đông Nam Bộ 50 58 71
6 Đồng bằng sông Cửu Long 201 413 747 1.909
Tổng số 1.563 3.141 3.658 4.978
Đồ thị 3.1. Diễn biến kinh phí cấp bù thuỷ lợi phí
Tỷ đồng
Bên cạnh đó, trong năm 2010, theo quy định của Nghị định 115, theo đề nghị
của Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thủ tướng Chính phủ
cũng đã quyết định cấp 288,05 tỷ đồng để hỗ trợ cho các địa phương và hai công ty
khai thác công trình thuỷ lợi trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(Bắc Nam Hà, Bắc Hưng Hải) để thực hiện xoá nợ đọng thuỷ lợi phí và xử lý lỗ do
65
nguyên nhân khách quan, trong đó cho các địa phương là 278,96 tỷ đồng, các đơn vị
quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi trực thuộc Bộ là 9,09 tỷ đồng.
Việc xoá nợ đọng thuỷ lợi phí, xử lý lỗ do nguyên nhân khách quan cho các
theo quy định của Nghị định 115 đã làm lành mạnh hoá tài chính cho các doanh
nghiệp, tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, tạo điều kiện thuận lợi cho
các tổ chức này trong hoạt động, hạch toán sổ sách kế toán trong bối cảnh nhà nước
miễn giảm thuỷ lợi phí cho người dân, phù hợp trong bối cảnh nhà nước thực hiện
chính sách miễn thuỷ lợi phí. Tuy vậy, việc chưa có cơ chế xử lý số nợ và lỗ còn lại
cũng đang là một khó khăn với các địa phương để xử lý dứt điểm vấn đề này.
d) Một số kết quả đánh giá mặt được của chính sách
Thứ nhất, diện tích tưới, tiêu năng suất lúa được nâng nên:
Việc thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí đã làm kết quả phục vụ tưới tiêu
của các công trình thuỷ lợi được tăng lên rõ rệt kể từ khi chính sách miễn giảm thuỷ
lợi phí được triển khai thực hiện. Rất nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi được duy tu
sửa chữa, hệ thống kênh mương được tu sửa nạo vét đã nâng cao năng lực, mở rộng
diện tích tưới, thường tăng từ 4-10%, thậm chí có hệ thống tăng 40%.
Hiệu quả của chính sách này là tăng diện tích tưới chủ động, tăng năng suất
lúa. Nhiều diện tích gieo trồng lúa, màu cây vụ đông trước đây chỉ được tạo nguồn
nước tưới hoặc tưới chủ động, tuy nhiên, khi thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí
đã được tưới chắc, tưới chủ động. Diện tích rau màu, cây công nghiệp, cây vụ đông
được tưới cũng ngày được tăng lên. Kết quả tưới tiêu, cấp nước của các địa phương
các vùng tăng đều hàng năm, do nhiều nguyên nhân, phản ánh mặt tích cực của
chính sách miễn thuỷ lợi phí đã được ban hành.
Thứ hai, công trình thuỷ lợi được duy tu, sửa chữa thường xuyên, đảm bảo an
toàn, chống xuống cấp công trình, tạo nguồn nước tưới tiêu
Khi thực hiện chính sách miễn giảm thủy lợi phí theo quy định của Nghị định
115, mức thu đối với các vùng đều được tăng lên, bằng 2,31 lần so với mức tối thiểu
hay bằng 1,3 đến 1,7 lần mức cao nhất theo quy định tại Nghị định 143, đồng thời,
so với trước đây, các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi phải đi thu, thường
66
không thu đủ 100%, nay luôn được cấp ứng một khoản kinh phí trước từ đầu năm
nên rất chủ động trong hoạt động, duy tu, sửa chữa công trình thuỷ lợi.
Tỷ lệ kinh phí miễn thuỷ lợi phí được giành cho công tác duy tu, sửa chữa
công trình thuỷ lợi được tăng lên rõ rệt, Yên Bái, Lạng Sơn, Hải Dương, Nam Định,
Hà Nam, Thanh Hoá, các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Đặc biệt, hầu hết các tỉnh
vùng Đồng bằng sông Cửu long thường giành một khối lượng lớn kinh phí để thực
hiện duy tu các công trình cống, khơi thông kênh rạch.
Thứ ba, tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi từng bước được sắp xếp,
củng cố và kiện toàn, đời sống cán bộ công nhân quản lý khai thác công trình thuỷ
lợi ngày càng ổn định và nâng cao
Sau khi thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí, đồng thời với quá trình sắp
xếp, đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước theo quy định Luật Doanh
nghiệp, hầu hết doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi ở các địa phương đã
được chuyển đổi hình thức hoạt động sang loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên (100% vốn thuộc sở hữu Nhà nước). Các doanh nghiệp đã và đang
tiếp tục củng cố, sắp xếp cho phù hợp với những chế độ, chính sách mới đã được
ban hành. Một số tỉnh (Hoà Bình), việc chuyển đổi còn chậm so với quy định, một
số địa phương đang triển khai đề án thành lập công ty nhưng chưa thực hiện được
như Cà Mau, Tuyên Quang...
Kể từ sau khi thực hiện miễn thuỷ lợi phí đến nay, ngoài việc kiện toàn các
doanh nghiệp, tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, đã có 01 tỉnh chuyển
đổi mô hình hoạt động từ Trung tâm thành Công ty TNHHMTV Khai thác công
trình thuỷ lợi (tỉnh An Giang), 02 tỉnh thành lập mới công ty TNHHMTV Khai thác
công trình thuỷ lợi (Lai Châu, Bắc Kạn), 01 tỉnh thành lập mới Trung tâm Quản lý,
khai thác công trình thuỷ lợi Long An (trực thuộc Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh
Long An, thành lập năm 2010).
Có nguồn thu ổn định, do vậy, các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi
đã đảm bảo chế độ tiền lương cho cán bộ, công nhân viên thuỷ nông theo đúng các
quy định hiện hành. Thu nhập trung bình của cán bộ, công nhân viên thuỷ nông của
67
một số doanh nghiệp đã bằng mức trung bình hoặc hơn các doanh nghiệp khác trên
địa bàn. Một số doanh nghiệp đã khuyến khích cán bộ, công nhân viên phát huy
năng lực, nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí để nâng cao thu nhập cho
cán bộ, công nhân viên thuỷ nông như Thái Nguyên, Xuân Thuỷ (Nam Định), Bình
Định, Bình Thuận…
Do hoạt động có hiệu quả, nhiều công ty khai thác công trình thuỷ lợi đã thu
hút được những cán bộ có trình độ vào làm việc.
Thứ tư, chính sách này đã đáp ứng được chủ trương giảm bớt một phần chi
phí của người dân trong sản xuất
Việc thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí là một chủ trương lớn của Đảng,
Chính phủ. Mặc dù trong quá trình thực hiện còn một số tồn tại, nhưng chính sách
này đã đáp ứng được chủ trương giảm bớt một phần chi phải đóng góp của người
dân trong sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng. Theo kết quả điều tra đánh giá, việc
miễn thuỷ lợi phí đã trực tiếp tác động làm người dân giảm được từ 5-10% chi phí
sản xuất nông nghiệp, làm tăng thu nhập cho các hộ dân sản xuất nông nghiệp. Có
nơi, người dân không phải nộp thuỷ lợi phí (kể cả kinh phí nội đồng).
Hầu hết tại các tỉnh đều đánh giá cao những thuận lợi của chính sách miễn
giảm thuỷ lợi phí đã được ban hành. Chính sách này đã tạo điều kiện cho các địa
phương tập trung hơn cho công tác quản lý, khai thác các hệ thống công trình thuỷ
lợi, kênh mương hiện có, nâng cao năng lực quản lý điều hành nhằm phát huy tối đa
hiệu quả của các công trình. Các tổ chức quản lý khai thác công trình thuỷ lợi ở các
địa phương cũng từng bước được củng cố, sắp xếp theo hướng tinh gọn, phù hợp
với tình hình mới.
Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí theo quy định của Nghị định 115 đã tạo
điều kiện thuận lợi cho các hộ nông dân tập trung đầu tư phát triển sản xuất, nâng
cao lợi nhuận, kích thích tham gia sản xuất được nhân dân đồng tình ủng hộ, giảm
bớt khó khăn kinh tế.
Thứ năm, tạo ra nguồn kinh phí ổn định cho các địa phương, đơn vị quản lý
khai thác công trình thuỷ lợi chủ động trong hoạt động phục vụ sản xuất, dân sinh,
68
duy tu, sửa chữa công trình thuỷ lợi
Nhờ hỗ trợ từ việc thực hiện chính miễn thuỷ lợi phí, nhiều địa phương, đơn vị
quản lý khai thác công trình thuỷ lợi đã có kinh phí để duy tu, sửa chữa kịp thời các
công trình bị hư hỏng, xuống cấp. Thực tế trong những năm trước đây, ngoài số
kinh phí thuỷ lợi phí thu được rất ít ỏi, rất ít tỉnh thực hiện cấp bù cho hoạt động
công ích trong quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Một số tỉnh thực hiện thông
qua cấp kinh phí sự nghiệp thuỷ lợi để đầu tư sửa chữa lớn, nạo vét những công
trình mang tính cấp bách, hư hỏng trầm trọng hoặc cấp tiền điện bơm tưới, tiêu úng
vượt định mức. Khi thực hiện chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí, các địa phương đã
nhận được kinh phí hỗ trợ từ Trung ương để thực hiện sửa chữa, duy tu, bảo dưỡng
công trình, nạo vét kênh mương, góp phần phục hồi và nâng cao hiệu suất hoạt động
của công trình thuỷ lợi, phục vụ tốt cho sản xuất và đời sống dân sinh.
Chính sách này đã giúp các địa phương chủ động kinh phí để đầu tư cho công
tác sửa chữa, duy tu, vận hành công trình thuỷ lợi, để giành kinh phí sự nghiệp thuỷ
lợi (vẫn phải chi cho duy tu, sửa chữa nhỏ công trình thuỷ lợi trước kia) để thực hiện
cho các nhu cầu chi phí đầu tư khác của địa phương.
Thứ sáu, tạo điều kiện đảm bảo đời sống vật chất cho cán bộ, công nhân quản
lý khai thác công trình thuỷ lợi
Không còn tình trạng chậm lương, nợ lương đối với cán bộ, công nhân viên
thuỷ nông như ở một số công ty khai thác công trình thuỷ lợi trước đây. Hầu hết các
doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi đã đảm bảo chế độ lương cơ bản cho
cácn bộ. Tuy nhiên, còn nhiều doanh nghiệp, chủ yếu ở miền núi, Tây Nguyên, chưa
được thực hiện chế độ khen thưởng, phúc lợi (2÷3 tháng lương thực tế), chế độ ăn
ca theo quy định cũng chưa được thực hiện đầy đủ.
Thứ bảy, khắc phục được tình trạng giấu diện tích được phục vụ tưới tiêu và
không còn tình trạng nợ đọng thuỷ lợi phí
Thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi cho thấy hiệu quả công trình thuỷ lợi được
tăng lên rõ rệt, thể hiện qua kết quả tưới tiêu từ các năm. Hiện nay, không còn tình
trạng giấu diện tích giữa người sử dụng nước với các doanh nghiệp khai thác công
69
trình thuỷ lợi, dẫn đến nhiều khu vực diện tích tăng lên từ 3-5%, thậm chí có nơi
tăng 10% diện tích so với trước khi miễn thuỷ lợi phí.
Bên cạnh đó, do được duy tu, sửa chữa đầy đủ, các công trình thuỷ lợi đã nâng
cao năng lực tưới, dẫn đến kết quả tưới tăng lên đáng kể. Tính từ thời điểm thực
hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí, không còn tồn tại tình trạng nợ đọng thuỷ lợi phí
từ người dân và tổ chức hợp tác dùng nước đối với công ty khai thác công trình thuỷ
lợi.
đ) Những vấn đề còn tồn tại khi thực hiện chính sách
Tuy có rất nhiều mặt tích cực, nhưng chính sách miễn thuỷ lợi phí theo quy
định của Nghị định 115 cũng bộc lộ không ít tồn tại. Cụ thể như sau:
Thứ nhất là, mức thu thuỷ lợi phí còn có nhiều bất cập
Việc lấy mức quy định của Nghị định 143 làm cơ sở tính toán, trên cơ sở đó
nhân với hệ số trượt giá (2,31 lần) để xác định mức thu quy định của Nghị định 115
là không phù hợp thực tế, vì quan điểm khi đặt mức thu tại Nghị định 143 và 115
khác nhau.
Với mức này, các vùng miền núi, Tây nguyên sẽ gặp nhiều khó khăn do việc
quản lý công trình thuỷ lợi trải trên địa bàn rộng, diện tích manh mún, chi phí quản
lý, vận hành công trình cao nhưng mức thu quy định thấp, do vậy mức cấp bù rất
thấp. Hầu hết các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi ở miền núi và Tây
nguyên đều có doanh thu không đủ bù đắp các chi phí hợp lý theo quy định, dẫn đến
hoạt động còn nhiều khó khăn, không đảm bảo kinh phí để duy tu bảo dưỡng công
trình, trong khi đó đối với các vùng khác, như Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng
sông Cửu Long còn dư kinh phí để sửa chữa lớn công trình.
Theo mức thu quy định của Nghị định 115, kinh phí cấp bù cho các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long rất lớn, mặc dù chỉ tính theo mức thu tạo nguồn. Khi thực
hiện, việc cấp bù kinh phí miễn thuỷ lợi phí đối với các tỉnh đồng bằng sông Cửu
Long không thể thực hiện theo quy định của Nghị định 115, vì nếu cấp đủ, các địa
phương sẽ chuyển việc sử dụng nguồn kinh phí này theo hình thức xây dựng cơ bản.
Trong khi đó, do không có cơ chế cấp kinh phí trực tiếp tới người dân, nên khoản
70
kinh phí phải trả cho việc bơm nước tưới, tiêu ở khu vực nội đồng của người dân ở
khu vực Đồng bằng sông Cửu Long còn rất lớn. Mặc dù đã miễn phần lớn thuỷ lợi
phí cho người dân, tuy nhiên, một số người dân vùng khó khăn vẫn phải chi phí
nhiều cho chi phí tưới tiêu, thường từ 500.000-700.000đồng/ha vụ để bơm nước
tưới tiêu.
Việc sử dụng kinh phí miễn thu thuỷ lợi phí ở các địa phương chủ yếu đáp ứng
cho các công trình tạo nguồn, song còn không thống nhất. Các tỉnh Tiền Giang, Bến
Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng thực hiện theo các quy định hiện hành, do các tỉnh này đã
có mô hình Công ty khai thác công trình thuỷ lợi. Tuy nhiên, một số tỉnh như Long
An, Hậu Giang, An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Vĩnh Long không giao cho tổ
chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, mà kinh phí được sử dụng chủ yếu cho
mục đích đầu tư xây dựng cơ bản, do tỉnh hoặc phân cấp cho huyện làm chủ đầu tư.
Trong các quy định hiện hành, còn chưa có quy định về việc tiêu cho các khu công
nghiệp, đô thị…, mặc dù hầu hết việc tiêu thoát nước cho các khu vực này đều chảy qua
hệ thống công trình thuỷ lợi. Theo quy định của Nghị định 115 có quy định về miễn thuỷ
lợi phí đối với đất sử dụng cho lâm nghiệp, nhưng trong các mức thu và hướng dẫn cụ
thể đối với loại hình này chưa có, nên nhiều địa phương còn chưa thực hiện được.
Thứ hai là, thuỷ lợi phí, tiền nước đối với nuôi trồng thuỷ sản và các dịch vụ
phi sản xuất nông nghiệp
Mặc dù mức thu đối với nuôi cá lồng, cá bè theo quy định của Nghị định 115
không điều chỉnh so với Nghị định số 143, tuy nhiên theo phản ánh của một số tổ
chức, cá nhân nuôi trồng thuỷ sản, mức thu 8÷10% giá trị sản lượng là quá cao,
không tạo điều kiện phát triển thủy sản cũng như không khuyến khích khai thác tổng
hợp các công trình thủy lợi. Bên cạnh đó, việc áp mức thu trên giá trị sản lượng sẽ
rất khó thực hiện, vì các đơn vị quản lý, khai thác công trình thủy lợi không kiểm
soát được giá trị sản lượng thực tế của các tổ chức, cá nhân nuôi trồng thuỷ sản.
Việc xác định doanh thu đối với dịch vụ nuôi trồng thủy sản, sử dụng công
trình thuỷ lợi để kinh doanh du lịch, nghỉ mát, an dưỡng, giải trí (kể cả kinh doanh
sân golf, nhà hàng, casino…) rất khó. Hiện cũng chưa có cơ chế xử phạt đối với các
71
đối tượng kinh doanh nhưng không hợp tác, chây ỳ việc nộp tiền nước cho các đơn
vị quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.
Thứ ba là, việc xác định một số chỉ tiêu chuyên môn theo quy định còn rất khó
áp dụng đối với hệ thống công trình thuỷ lợi nhỏ
Theo quy định, thuỷ lợi phí chỉ được miễn đến cống đầu kênh của tổ chức hợp
tác dùng nước. Tuy nhiên, việc xác định cống đầu kênh đối với nhiều hệ thống công
trình thuỷ lợi là rất khó khăn, có hệ thống không thể xác định được. Thông tư số 65
đã quy định việc xác định cống đầu kênh của tổ chức hợp tác dùng nước, tuy vậy
việc triển khai cụ thể ở các địa phương còn nhiều vướng mắc.
Việc quy định mức trần của thuỷ nông nội đồng có nơi cũng không áp dụng
được do công trình thuỷ lợi nhỏ, công trình chỉ gồm đầu mối và kênh cấp 1 và tưới
trực tiếp cho ruộng và do tổ chức của người dân trực tiếp quản lý, vận hành. Không
thể quy định mức trần và nếu có cũng không biết phải nộp cho tổ chức nào.
Thứ tư là, một bộ phận người dân còn chưa hiểu hết chính sách miễn thuỷ lợi
phí và thiếu ý thức trong việc sử dụng tiết kiệm nước
Việc tuyên truyền, hướng dẫn, phổ biến chính sách, đối tượng, phạm vi miễn
thuỷ lợi phí ở các địa phương nhìn chung còn nhiều hạn chế, nhiều người dân, thậm
chí cả cán bộ các cấp nhận thức chưa đúng về miễn thuỷ lợi phí, gây khó khăn trong
việc triển khai thực hiện và ảnh hưởng đến hoạt động của các tổ chức quản lý, khai
thác công trình thủy lợi.
Khi người dân được miễn thuỷ lợi phí, trách nhiệm của người dân trong việc
tham gia quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi bị giảm sút, tư tưởng sử dụng nước
tiết kiệm bị triệt tiêu, do vậy xảy ra tình trạng lãng phí nước ở một số nơi, một số hệ
thống công trình thuỷ lợi không được kiểm soát tốt nguồn nước (Ninh Bình, Hà
Nội). Vai trò, trách nhiệm của người cán bộ, công nhân viên thuỷ nông được giao sẽ
nặng nề hơn, nhưng cũng khó có thể đáp ứng được do đặc thù của hệ thống công
trình thuỷ lợi là nằm ngoài trời và trải rộng trên khắp địa bàn của các địa phương.
Bên cạnh đó, thực tế rất nhiều người dân khi được hỏi đã trả lời Nhà nước đã miễn
toàn bộ thuỷ lợi phí cho người dân, do vậy họ không phải đóng bất kỳ khoản gì về
72
thuỷ lợi nữa, kể cả phí thuỷ lợi nội đồng. Vấn đề này đòi hỏi các cơ quan chuyên
môn có liên quan cần tiếp tục có những biện pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật
có hiệu quả hơn nữa để người dân có thể hiểu rõ hơn về chính sách.
Thứ năm là, hướng dẫn quản lý tài chính cho các tổ chức hợp tác dùng nước
chưa cụ thể nên việc giải ngân kinh phí của các tổ chức này còn nhiều khó khăn
Trước khi thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí, thì phí thuỷ lợi nội đồng
được thu theo thoả thuận, giữa tổ chức hợp tác dùng nước với người dân, mọi kế
hoạch chi phí, hoạt động của tổ chức này được thống nhất thông qua hội nghị toàn
thể hoặc đại biểu của tổ chức hợp tác dùng nước.
Khi thực hiện chính miễn thuỷ lợi phí, nhiều tổ chức tổ chức hợp tác dùng
nước được sử dụng kinh phí, cấp từ ngân sách, do vậy, việc sử dụng nguồn kinh phí
này phải thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, chế
độ quản lý tài chính đối với các tổ chức này trong việc sử dụng nguồn cấp bù chưa
rõ ràng, hiện mới chỉ có Thông tư số 74/2008/TTLT-BTC-BNN ngày 14/8/2008 của
liên Bộ Tài chính - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn chế độ quản
lý tài chính trong Hợp tác xã nông nghiệp và Thông tư số 11/2009/TT-BTC hướng
dẫn đặt hàng, giao kế hoạch và quản lý tài chính đối với công ty nhà nước thực hiện
trong lĩnh vực quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Đối với những nơi tổ chức hợp
tác xã nông nghiệp có dịch vụ thuỷ lợi, việc thực hiện cơ bản gặp thuận lợi, ít có
vướng mắc. Tuy vậy, những văn bản này là chưa đủ đối với những tổ chức hợp tác
dùng nước chưa phải là Hợp tác xã nông nghiệp. Điều này đã làm cho nhiều địa
phương đặc biệt lúng túng trong vấn đề quản lý tài chính đối với kinh phí miễn thuỷ
lợi phí cho các tổ chức hợp tác dùng nước, như Phú Thọ, Lai Châu, Thanh Hoá và
nhiều địa phương khác.
Thứ sáu là, bất cập trong mức thuỷ lợi phí cơ chế, phương pháp thu thuỷ lợi
phí tạo nguồn và đối với diện tích phải thực hiện bơm 2 cấp hay 3 cấp, đặc biệt đối
với các hệ thống thuỷ lợi liên tỉnh. Không tách được chi phí của diện tích được tưới
riêng, tiêu riêng
Trong thực tế, việc tạo nguồn tưới rất đa dạng, có công trình tạo nguồn đến
73
đầu mối công trình do tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi khác quản lý, có
công trình tạo nguồn đến đến kênh cấp 2, 3 của tổ chức hợp tác dùng nước, hoặc có
công trình chỉ tạo nguồn đến bể hút trạm bơm tưới của tổ chức hợp tác dùng nước,
do vậy, khi phân chia kinh phí giữa các công trình quản lý hệ thống thuỷ lợi tạo
nguồn và các đơn vị khác rất dễ nảy sinh tranh chấp, đặc biệt là đối với các hệ thống
thuỷ lợi liên tỉnh.
Theo các quy định hiện hành chưa đề cập đến những khu vực phải bơm tưới
nhiều bậc, chỉ một diện tích nhưng phải tưới nhiều bậc cũng chỉ được hưởng mức
thuỷ lợi phí như các vùng bơm một cấp, từ đó dẫn tới mức miễn không đủ bù đắp
cho các chi phí bơm tưới tiêu đối với các vùng diện tích được tưới từ 2 bậc trở lên.
Có những diện tích việc tưới, tiêu do các tổ chức khác nhau thực hiện, như
tưới do tổ chức hợp tác dùng nước thực hiện, tiêu do công ty khai thác công trình
thuỷ lợi thực hiện nhưng mức thu không tách biệt, do vậy khi triển khai nhiều địa
phương còn gặp vướng mắc.
Thứ bảy là, việc sử dụng thuỷ lợi phí còn bị gò ép do các chính sách hiện hành
Theo quy định của Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi, Nghị
định 143, các hướng dẫn hiện hành thì thuỷ lợi phí chỉ dùng cho duy tu, sửa chữa,
bảo dưỡng và vận hành công trình thuỷ lợi, có bao gồm sửa chữa lớn. Do vậy, một
số địa phương (chủ yếu ở Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long, nơi
có mức thu cao), sau khi sử dụng kinh phí thuỷ lợi phí cho công tác vận hành, duy
tu, bảo dưỡng sửa chữa công trình thuỷ lợi còn dư rất muốn sử dụng cho việc xây
dựng cơ bản thuỷ lợi (kiên cố hoá kênh mương, đại tu nâng cấp công trình thuỷ lợi,
xây dựng một số công trình thuỷ lợi nhỏ) nhưng rất khó thực hiện do vướng mắc về
cơ chế. Mặc dù, trước đây khi còn thực hiện chính sách thu thuỷ lợi phí, trong phong
trào kiên cố hoá kênh mương thì công ty khai thác công trình thuỷ lợi hoàn toàn
được phép trích một phần kinh phí để thực hiện các nội dung này.
Thứ tám là, một số tồn tại khác
Nhiều địa phương chưa triển khai đồng bộ các nội dung theo các yêu cầu
nhiệm vụ được giao. Trong quá trình vận dụng chính sách, cơ quan chức năng thuộc
74
địa phương còn chưa chủ động tham mưu cho Uỷ ban nhân tỉnh triển khai cụ thể các
nội dung chi tiết thi hành Nghị định, như mức trần kinh phí thuỷ nông nội đồng, quy
định mức phân bổ cho tổ chức hợp tác dùng nước quản lý công trình có quy mô
vượt cống đầu kênh, phân bổ mức thuỷ lợi phí tạo nguồn…
Có địa phương ban hành quyết định phê duyệt diện tích miễn thuỷ lợi phí theo
diện tích đất canh tác (An Giang, Sóc Trăng…), không đúng quy định của Nghị định
115 là miễn thuỷ lợi phí theo từng vụ. Dẫn đến, việc triển khai thực hiện còn nhiều
lúng túng.
Theo quy định, các địa phương phải rà soát lại diện tích đất đai, trên cơ sở bản
đồ giải thửa và phương pháp tưới tiêu để xác định diện tích được miễn và mức miễn
thuỷ lợi phí của địa phương, tuy vậy, nhiều tỉnh chưa thực hiện được nội dung này.
3.2.3. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu về chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí
Chủ trương miễn giảm thuỷ lợi phí cho người dân sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và làm muối là phù hợp trong bối cảnh đời sống người
nông dân đang gặp rất nhiều khó khăn trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, việc
thực hiện chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong giai đoạn hiện nay cần tiếp tục
được nghiên cứu để chính sách được hoàn thiện hơn. Ngoài việc phải giải quyết
những tồn tại đã nêu ra trong mục 3.2.2. chương này, chính sách miễn giảm thuỷ lợi
phí cần được xem xét ở mức độ tổng thể, trong đó có những vấn đề sau cần được
nghiên cứu cụ thể thêm:
Một là, cần xem xét đến vấn đề ngân sách. Việc bỏ thu thuỷ lợi phí còn phụ
thuộc vào khả năng của ngân sách nhà nước. Trong điều kiện ngân sách nhà nước
còn khó khăn trong khi đó phải trang trải các chi phí liên quan ngày càng gia tăng,
thì kinh phí để thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí cũng là một gánh nặng đối với
khả năng ngân sách của nước ta hiện nay.
Hai là, vấn đề đảm bảo công bằng xã hội. Mặt khác, việc bỏ thu thuỷ lợi phí sẽ
dẫn đến tình trạng bất công bằng xã hội ngày càng lớn giữa nơi được đầu tư và nơi
không được đầu tư công trình thuỷ lợi. Vì những nơi được đầu tư công trình thuỷ lợi
sẽ được tất cả (cả chi phí đầu tư và chi phí quản lý khai thác), còn những nơi không
75
được đầu tư sẽ chẳng được gì, trong khi đó còn 70% diện tích đất nông nghiệp chưa
được hưởng gì về thuỷ lợi của Nhà nước, thậm chí thiếu cả nguồn nước sinh hoạt.
Bên cạnh đó, việc bỏ thu thuỷ lợi phí sẽ làm triệt tiêu động lực của người dân trong
việc sử dụng nước tiết kiệm, có hiệu quả và không phát huy được vai trò người dân
trong công tác quản lý, khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi.
Ba là, cần làm rõ hoặc có chính sách tuyên truyền tới tận người dân, chính
miễn giảm thuỷ lợi phí hiện nay được thực hiện trên nguyên tắc Chính phủ hỗ trợ
người nông dân, thông qua việc cấp ngân sách cho các công ty khai thác công trình
thuỷ lợi đảm bảo hoạt động bình thường, chống xuống cấp công trình. Người dân
vẫn phải đóng kinh phí thuỷ lợi nội đồng để vận hành, duy tu bảo dưỡng hệ thống
công trình thuỷ lợi mặt ruộng.
Bốn là, cần phải có các giải pháp phù hợp, nhằm giải quyết vấn đề khi thực
hiện miễn thuỷ lợi phí, cho dù đến mức độ nào, thì tiếp cận nước là hàng hoá sẽ bị
xem nhẹ, ý thức của người dân sẽ bị giảm sút trong việc sử dụng nước tiết kiệm, gìn
giữ bảo vệ nguồn nước và bảo vệ công trình thuỷ lợi. Có thể xuất hiện tâm lý ỷ lại
trong một bộ phận người dân. Người dân sẽ không quan tâm tới việc quản lý, bảo vệ
công trình thuỷ lợi, coi nước như của “trời cho” nên không có động lực trong việc
sử dụng nước tiết kiệm, trong khi đó tổng lượng nước bình quân đầu người ngày
càng suy giảm.
Năm là, thế giới cũng như các ngành kinh tế xã hội ở nước ta đang đẩy mạnh
việc phân công, phân cấp, thực hiện xã hội hoá và việc xã hội hoá công tác quản lý
khai thác công trình thuỷ lợi cũng phải là một xu hướng tất yếu. Việc miễn giảm
thuỷ lợi phí có thể sẽ là một xu hướng đi ngược lại việc xã hội hoá trong công tác
thuỷ lợi, không nâng cao ý thức và phát huy được nội lực của người dân và sẽ làm
phong trào quản lý tưới có sự tham gia của người dân (PIM) đang được đẩy mạnh ở
Việt Nam khó phát huy.
Sáu là, miễn giảm thuỷ lợi phí có thể sẽ làm giảm một phần trách nhiệm của
những người làm công tác quản lý khai thác công trình thuỷ lợi do mối quan hệ,
kiểm soát ràng buộc lẫn nhau về hiệu quả dịch vụ tưới giữa người sử dụng nước và
76
các cơ quan quản lý tưới của nhà nước sẽ không được coi trọng. Kinh phí bao cấp
cho công tác quản lý có thể sẽ ngày càng gia tăng.
Bảy là, cần có những giải pháp đồng bộ về cơ chế tài chính, chế độ giải ngân
đối kinh phí cấp cho công tác quản lý khai thác công trình thuỷ lợi, nếu không có
thể sẽ hình thành cơ chế xin cho giữa các tổ chức quản lý khai thác công trình thuỷ
lợi với các cơ quan quản lý, cấp phát vốn, do vậy sẽ rất dễ xảy ra hiện tượng tiêu
cực; chính sách cần phải đồng bộ để khi thực hiện miễn thuỷ lợi phí, các tổ chức
quản lý khai thác công trình thuỷ lợi ngày càng chủ động trong việc sử dụng, đáp
ứng cho mục tiêu đảm bảo an toàn, nâng cao hiệu quả công trình thuỷ lợi và bảo
đảm tuân theo các quy định của pháp luật;
Tám là, cần tiếp tục nghiên cứu các cơ chế, chính sách khác để đảm bảo những
người dân ở các vùng miền, ở các hệ thống công trình thuỷ lợi khác nhau cũng đều
được hưởng chính sách miễn thuỷ lợi phí và hỗ trợ từ nhà nước công bằng, bình
đẳng, lưu ý người dân ở những nơi chưa có hệ thống thuỷ lợị. Đặc biệt chú ý tới các
hệ thống công trình thuỷ lợi do người dân tự bỏ tiền đầu tư, quản lý và người dân ở
Đồng bằng sông Cửu Long phải bỏ chi phí thuê hoặc tự bơm nước vào đồng ruộng
của họ. Mức thu cần phải tiếp tục được xem xét.
Chín là, cần đơn giản hoá những thuật ngữ trong văn bản để người dân cũng
như chính quyền các địa phương vận dụng thuận lợi. Tránh đưa ra những khái niệm
trừu tượng khó hiểu, dễ nhầm lẫn hoặc những khái niệm không thể triển khai được
trong thực tế. Ví dụ, khái niệm cống đầu kênh của tổ chức hợp tác dùng nước» là
khái niệm mà nhiều địa phương không thể áp dụng được, hoặc khái niệm hộ dùng
nước còn nhiều nơi bị nhầm lẫn.
3.3. Tác động của chính sách miễn giảm thủy lợi phí đối với công tác quản lý,
khai thác công trình thủy lợi.
3.3.1. Vai trò của thuỷ lợi phí
a) Đối với người dân
Việt Nam là nước chủ yếu sản xuất nông nghiệp có tưới, do vậy, thuỷ lợi phí
đã ăn sâu vào tiềm thức người dân Việt Nam. Từ bao đời nay, người dân luôn sẵn
77
sàng góp công, góp của để đầu tư xây dựng, duy tu, sửa chữa và vận hành công trình
thuỷ lợi, trong đó bao gồm cả thuỷ lợi phí. Mức thuỷ lợi phí hợp lý sẽ có tác động
tích cực, nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân trong việc sử dụng tiết kiệm
nước và bảo vệ công trình thuỷ lợi, cũng là điều kiện ràng buộc người quản lý nâng
cao trách nhiệm, phục vụ tốt yêu cầu của người dùng nước thông qua hợp đồng
được ký kết, hạ giá thành sản phẩm tưới tiêu, tăng năng suất, sản lượng cây trồng, là
yếu tố quan trọng tăng thu nhập cho nông dân.
Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí rất được lòng dân và các cấp chính quyền
địa phương. Việc miễn giảm thuỷ lợi phí đã làm giảm chi phí sản xuất sản xuất nông
nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và làm muối. Mức độ giảm chi phí sản xuất
có khác nhau đối với các loại cây trồng, các vùng kinh tế, dao động từ 2-8%. Tuy
nhiên, khi miễn giảm thuỷ lợi phí thì người dân ở Đồng bằng sông Hồng, Bắc khu 4,
duyên hải miền Trung và Đông Nam bộ được hưởng nhiều hơn cả. Người dân đồng
bằng sông Cửu Long có mức giảm chi phí sản xuất thấp nhất khi thực hiện chính
sách miễn thuỷ lợi phí.
«Dân cường thì nước thịnh», để dân giàu thì phải bằng mọi cách hỗ trợ hoặc
tạo điều kiện cho người dân sản xuất hiệu quả, mức sống ngày càng được nâng cao,
trong đó việc miễn, giảm thuỷ lợi phí có thể là một phương cách. Nhưng miễn, giảm
như thế nào để người dân thực sự nâng cao thu nhập, ổn định đời sống, góp phần
giảm gánh nặng bao cấp thì là vấn đề cần phải bàn. Đối với yêu cầu của người dân
thì chính sách thuỷ lợi phí cần minh bạch hơn nữa. Chất lượng của dịch vụ tưới tiêu
yêu cầu phải tăng cao, bởi vì ngay khi còn phải nộp thuỷ lợi phí, thì ở nhiều nơi,
theo ý kiến của người dân thì không quan trọng là mức thuỷ lợi phí cao hay thấp, mà
chất lượng dịch vụ tưới tiêu, cấp nước có đáp ứng được yêu cầu của người dân hay
không.
b) Đối với công ty khai thác công trình thuỷ lợi.
Thủy lợi phí là nguồn thu chủ yếu của các doanh nghiệp. Ngay từ khi chính
sách thuỷ lợi phí theo quy định của Nghị định 112, với khung mức thuỷ lợi phí từ
38% năng suất lúa, mức thu do Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố quy định,
78
hàng năm cả nước đã có một khoản kinh phí thu từ nguồn thuỷ lợi phí tương đương
500600 tỷ đồng để đầu tư cho công tác quản lý, vận hành, duy tu, bảo dưỡng công
trình. Mặc dù nguồn thu trên mới đạt 7080% so với kế hoạch nhưng đã góp phần
giảm đáng kể việc bao cấp của Ngân sách nhà nước đối với doanh nghiệp.
Nghị định 143 trong đó có quy định mức thu thuỷ lợi phí mới bằng tiền và mức
thu tiền nước đối với các đối tượng sử dụng nước khác: cấp nước tưới cây công
nghiệp, cấp nước sinh hoạt, công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, du lịch, phát điện... đã
tháo gỡ một phần khó khăn về tài chính cho các công ty khai thác công trình thuỷ
lợi. Tuy nhiên, mức thuỷ lợi phí theo quy định của Nghị định 143 vẫn chưa đảm bảo
cho hoạt động tài chính của các doanh nghiệp.
Nguồn thu không đáp ứng yêu cầu nên các công ty chỉ tập trung chi cho một số
hoạt động chính, chủ yếu tập trung cho lương và các khoản có tính chất lương. Chi
phí sửa chữa thường xuyên công trình thuỷ lợi là rất cần thiết để duy trì năng lực
hoạt động bình thường của các công trình thuỷ lợi. Theo quy định mức khung chi
phí sửa chữa thường xuyên chiếm từ 2030% tổng chi phí hoạt động tưới tiêu.
Nhưng do nguồn vốn khó khăn nên nhiều doanh nghiệp không trích đủ kinh phí cho
công tác sửa chữa thường xuyên. Trong thực tế mức chi này của nhiều doanh nghiệp
chỉ đạt từ 1015% tổng chi phí cho hoạt động tưới tiêu.
Đối với công ty khai thác công trình thuỷ lợi quản lý hệ thống nhiều trạm bơm
điện, ngoài chi phí sửa chữa thường xuyên thì chi phí tiền điện chiếm tỷ trọng khá
lớn (chiếm 3050% tổng chi phí). Chi phí này không ổn định phụ thuộc vào tình
hình thiên tai (úng hạn, lũ lụt...) những năm thiên tai khắc nghiệt, chi phí này lên tới
5060%. Do nguồn hỗ trợ từ ngân sách thường không đủ và không kịp thời, thủy lợi
phí thu đạt kết quả thấp nên các công ty không thể cân đối được thu chi.
Tuy nhiên, với thực trạng tài chính theo mức thu của Nghị định 112 và Nghị
định 143, đời sống của cán bộ, công nhân viên chức trong các công ty khai thác
công trình thuỷ lợi gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều công ty chưa được hưởng lương
làm thêm giờ, chế độ ăn ca... chủ yếu mới đủ chi cho lương, trả một phần tiền điện,
không đáp ứng yêu cầu chi phí cho sửa chữa công trình, dẫn đến công trình ngày
79
càng xuống cấp, hiệu quả phục vụ không cao, đời sống của cán bộ công nhân viên
thuỷ nông gặp nhiều khó khăn.
Khi thực hiện miễn thuỷ lợi phí theo quy định của Nghị định 115, hầu hết các
doanh nghiệp khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi đã có nguồn kinh phí vững
chắc để hoạt động. Một số doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi trước khi thực
hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí tỏ ra rất hoài nghi, lo lắng, tuy nhiên, sau khi
chính sách được triển khai thực hiện một số năm đã nhận thấy, đây là một thời cơ
thuận lợi để thúc đẩy công tác quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.
Nguồn thu của các doanh nghiệp hầu hết đã được tăng lên, kể cả các doanh
nghiệp ở miền núi và Tây Nguyên, cho dù mức thuỷ lợi phí vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu chi phí thực tế ở các địa phương này. Theo ý kiến đánh giá khách quan của
một số doanh nghiệp, chỉ cần điều chỉnh một chút thì chính sách này sẽ có hiệu quả
tác động sâu rộng.
c) Đối với chính quyền địa phương và các cơ quan khác
Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí được chính quyền các cấp hết sức ủng hộ.
Ngoài việc giảm chi phí sản xuất cho người dân, đảm bảo an sinh xã hội, chính sách
thuỷ lợi phí đã giúp các địa phương chủ động trong việc cấp kinh phí cho các tổ
chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Đối với nhiều địa phương, mức thuỷ lợi
phí được cấp chiếm một tỷ trọng lớn trong nguồn thu ngân sách của tỉnh, như Hà
Nam, Ninh Thuận.
Tuy vậy, việc miễn giảm thuỷ lợi phí cũng sẽ làm nhiều cơ quan chuyên môn
lo ngại, đặc biệt là các cơ quan chuyên môn về tài chính và thuỷ lợi. Do việc thực
hiện các biện pháp nghiệp vụ để xác định các vùng diện tích được miễn, tính toán
xác định nhu cầu miễn, hướng dẫn giải ngân kinh phí được cấp là những khối lượng
công việc rất lớn, đòi hỏi các cấp chính quyền và hai ngành tài chính và nông nghiệp
và phát triển nông thôn phải tập trung nhân lực mới có thể đáp ứng được yêu cầu
triển khai chính sách hiệu quả.
3.3.2. Tác động của việc miễn giảm đối với cơ chế tài chính trong hoạt động của
các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi
80
Khi thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí, Bộ Tài chính đã phối hợp với Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Thông tư số 11 hướng dẫn đặt hàng,
giao kế hoạch trong quản lý khai thác công trình thuỷ lợi và quy chế quản lý tài
chính đối với công ty nhà nước thực hiện chức năng quản lý, khai thác công trình
thuỷ lợi. Việc thay đổi này không hẳn do chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí, mà thực
hiện theo lộ trình ban hành văn bản thay thế các văn bản cũ đã được đặt ra.
Về nguyên tắc, khi thực hiện miễn thuỷ lợi phí, mọi vấn đề liên quan đến hoạt
động tài chính của các công ty khai thác công trình thuỷ lợi không thay đổi, chỉ coi
như Chính phủ thay mặt dân trả thuỷ lợi phí, thông qua cấp ngân sách cho các tổ
chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.
Cơ chế hoạt động tài chính của các công ty khai thác công trình thuỷ lợi cơ
bản vẫn giữ nguyên. Trước đây, công ty là các doanh nghiệp công ích nhưng nay họ
hoạt động cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích. Có nghĩa, ngoài việc được cấp do
chính sách miễn thu thuỷ lợi phí, nếu trong hoạt động của công ty, nguồn thu không
đủ bù đắp các khoản chi phí hợp lý, thì vẫn được nhà nước cấp bù đủ phần thiếu hụt
và các quỹ khen thưởng và phục lợi theo quy định.
Trong thực tế, vấn đề này ít được thực hiện đầy đủ, do ngân sách các địa
phương rất khó khăn, trong khi đó, nguồn kinh phí hỗ trợ cấp bù công ích về địa
phương không được phân theo mục tiêu nên thường được sử dụng cho mục đích
khác, do vậy, rất ít địa phương thực hiện cấp bù công ích đầy đủ cho các công ty
khai thác công trình thuỷ lợi. Phần lớn, việc cấp đều thông qua hình thức cấp tiền
điện chống úng, hạn vượt định mức, một phần kinh phí sự nghiệp thuỷ lợi.
Hiện nay, quan điểm về cơ chế hoạt động tài chính cũng như phương thức hoạt
động của các công ty khai thác công trình thuỷ lợi cũng đang tiếp tục nghiên cứu.
Một số ý kiến cho rằng, với những công ty khai thác công trình thuỷ lợi chỉ thuần
tuý hoạt động trong lĩnh vực khai thác công trình thuỷ lợi, thì thực chất đó chỉ là
đơn vị sự nghiệp có thu, vì họ không hoạt động kinh doanh gì, hàng năm được cấp
từ ngân sách nhà nước. Đây cũng là một vấn đề yêu cầu những cơ quan chức năng
cần tiếp tục nghiên cứu, xem xét.
81
3.3.3. Tác động của việc miễn giảm đối với mô hình tổ chức quản lý, khai thác công
trình thuỷ lợi.
Mô hình tổ chức hoạt động của bất kỳ một tổ chức nào đều gắn với cơ chế hoạt
động tài chính của tổ chức đó, đặc biệt là đối với các tổ chức chịu sự chi phối của
nhà nước như các công ty khai thác công trình thuỷ lợi. Do các cơ chế tài chính của
công ty khai thác công trình thuỷ lợi không thay đổi khi thực hiện chính sách thuỷ
lợi phí, nên mô hình tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi ở các địa phương
chủ yếu vẫn là các công ty khai thác công trình thuỷ lợi với các quy mô và loại hình
khác nhau.
Tuy vậy, cùng với tiến trình sắp xếp đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp
nhà nước theo chỉ đạo của Chính phủ, cũng như thực hiện lộ trình chuyển đổi của
các doanh nghiệp nhà nước theo mô hình phù hợp theo quy định của Luật Doanh
nghiệp năm 2005, trùng với thời điểm thực hiện chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí
theo quy định của Nghị định 154 và Nghị định 115, hầu hết các doanh nghiệp khai
thác công trình thuỷ lợi đã được chuyển đổi sang loại hình công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên, 100% vốn thuộc sở hữu nhà nước. Một số địa phương cũng
thành lập mới hoặc thành lập mới công ty theo loại hình này như An Giang, Lai
Châu. Khi thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí, nhiều tỉnh cũng đang có xu hướng
thành lập lại các công ty khai thác công trình thuỷ lợi hoặc một đơn vị sự nghiệp cấp
tỉnh để thực hiện chức năng quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi cấp tỉnh, nhằm
quản lý các công trình thuỷ lợi lớn, kỹ thuật phức tạp và các kênh trục chính, kênh
cấp 1, cấp hai của các hệ thống công trình thuỷ lợi.
So với số lượng công ty, đơn vị sự nghiệp cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ quản lý,
khai thác công trình thuỷ lợi trước ngày có chính sách miễn thuỷ lợi phí, thì sau khi
thực hiện chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí số lượng tổ chức này có tăng lên. Đây
cũng là một bước hoàn thiện mô hình tổ chức ở các tỉnh, nhằm thực hiện tốt chính
sách miễn giảm thuỷ lợi phí, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả của các công ty
khai thác công trình thủy lợi.
3.4. Nghiên cứu điển hình ở địa phương.
82
Để nghiên cứu tình hình thực tế và thực trạng triển khai thi hành chính sách,
chúng ta nghiên cứu triển khai điển hình ở tỉnh Tiền Giang, một tỉnh thuộc vùng
Đồng bằng sông Cửu Long. Nghiên cứu này được trình bày trong Phụ lục kèm theo
luận văn này.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, cùng với tiến trình phát
triển kinh tế xã hội của đất nước, sự tiến bộ của đời sống xã hội, tìm giải pháp để cải
thiện đời sống, giảm bớt chi phí nhằm mục tiêu nâng cao mức sống cho người dân
chủ yếu sống bằng sản xuất nông nghiệp là một trong những nội dùng được Đảng và
Nhà nước đặc biệt quan tâm. Thực hiện mục tiêu này, cũng là nhằm thu hẹp khoảng
cách về mức sống và thu nhập giữa người dân sống ở nông thôn với người dân sống
ở khu vực thành thị, theo nhận xét, khoảng cách này ngày càng có nguy cơ rộng ra
khi chúng ta đã gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) và hướng tới nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí thể
hiện tính ưu việt và phù hợp với các chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước
ta.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện một số chính sách đã ban hành đã biểu
hiện một số tồn tại, bất cập cần phải chỉnh sửa, bổ sung. Những tồn tại, bất cập này
sẽ là bài học quý báu để các cơ quan nghiên cứu và ban hành chính sách tổng kết,
đúc rút kinh nghiệm để đưa ra những chính sách mới hiệu lực, hiệu quả hơn. Định
hướng những nội dung và việc đề xuất các giải pháp để sửa đổi, bổ sung chính sách
miễn thuỷ lợi phí sẽ được đề cập trong chương 4 dưới đây.
Chương 4.
ĐỀ XUẤT ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH THỦY LỢI PHÍ PHÙ HỢP
VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
83
4.1. Sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung.
Việc thực hiện chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí chính thức, toàn diện đến
nay đã được 3 năm, với 2 Nghị định của Chính phủ đã được ban hành và rất nhiều
văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và
các Bộ ngành liên quan. Mặc dù chính sách đã đạt được nhiều mặt tích cực như đã
được đánh ở chương 3, nhưng quá trình thực hiện đã cho thấy nếu Chính phủ không
có những điều chỉnh, bổ sung phù hợp sẽ gây rất nhiều khó khăn cho các địa phương
trong quá trình thực hiện, đồng thời làm giảm hiệu quả sử dụng kinh phí từ nguồn
miễn giảm thuỷ lợi phí, không nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác công trình thuỷ
lợi.
Một số vấn đề bất cập lẽ ra phải được sửa đổi, bổ sung ngay như mức thuỷ lợi
phí, đối tượng, phạm vi được miễn, giảm thuỷ lợi phí ở một số vùng hiện nay không
phù hợp, dẫn đến kết quả không triển khai thực hiện được những quy định của Nghị
định 115. Như việc, hiện nay có nhiều địa phương khi thực hiện miễn giảm, tiếp
nhận nguồn kinh phí thuỷ lợi phí về địa phương nhưng không thể sử dụng hết, vì
nếu áp dụng theo đúng những quy định hiện hành thì không thể giải ngân hết số
kinh phí hoặc nếu giải ngân sẽ không phù hợp với các quy định của pháp luật. Chính
vì vấn đề này mà hiện nay, việc giải ngân kinh phí thực hiện chính sách miễn thuỷ
lợi phí có khác nhau ở một số địa phương.
Mục tiêu của chương này không có ý định đưa ra những nội dung của chính
sách chính sách mới sẽ được ban hành, mà chủ yếu nêu mục tiêu và định hướng
những nội dung, vấn đề cần sửa đổi và một số giải pháp chủ yếu cần phải thực hiện,
nhằm tạo hệ thống cơ chế chính sách đồng bộ, hợp lý trong công tác quản lý, khai
thác công trình thuỷ lợi và tăng cường hiệu lực hiệu quả của chính sách đã ban hành.
Trên cơ sở nghiên cứu thực tế, luận văn đưa ra một số những gợi ý mục tiêu cũng
như định hướng nên sửa đổi trong chính sách mới.
4.2. Mục tiêu và định hướng những nội dung cần sửa đổi, bổ sung
4.2.1. Mục tiêu của việc sửa đổi:
Thứ nhất, một trong những mục tiêu chính và toàn diện của chính sách miễn
84
giảm thuỷ lợi phí là nhằm giảm mức đóng góp, giảm chi phí sản xuất nông nghiệp,
tăng thu nhập của người dân được giao đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi
trồng thuỷ sản và làm muối. Do vậy, mục tiêu của chính sách sửa đổi, bổ sung cần
làm rõ nét thêm mục tiêu của chính sách. Đảm bảo khi thực thi chính sách sẽ giúp
người dân giảm chi phí, tăng thu nhập thực chất hơn.
Thứ hai, việc thi hành chính sách đã bộc lộ những tồn tại, vướng mắc trong
quá trình triển khai thực hiện, do vậy, sửa đổi, bổ sung chính sách miễn thuỷ lợi phí
phải đạt được mục tiêu là giải quyết được cơ bản những vấn đề tồn tại, vướng mắc
đã được đúc rút, tổng kết khi thực hiện các chính sách miễn thuỷ lợi phí đã được ban
hành và thực hiện trong các năm vừa qua.
4.2.2. Định hướng các nội dung cần sửa đổi, bổ sung
Trên cơ sở mục tiêu của việc sửa đổi, bổ sung chính sách miễn thuỷ lợi phí đã
được đặt ra, định hướng các nội dung sửa đổi hay ban hành mới chính sách miễn
thuỷ lợi phí cần tập trung vào nhưng vấn đề sau đây:
Một là, cho dù Chính phủ có thay mặt người dân trả thuỷ lợi phí cho tổ chức
quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi hay thực hiện miễn giảm thuỷ lợi phí bằng
cách nào đi nữa thì cũng cần phải xây dựng mức phí trên cơ sở tiếp cận nước là
hàng hoá, việc miễn hày giảm chỉ là một giải pháp chính sách trong một thời đoạn
phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Có như vậy mới làm cho người dân và mọi
đối tượng dùng nước hiểu được tầm quan trọng của nguồn tài nguyên nước và có ý
thức tiết kiệm nước trong điều kiện nguồn nước ngày càng suy giảm và cạn kiệt.
Hai là, khi ban hành chính sách, cần đảm bảo nguyên tắc công bằng, bình đẳng
được hưởng lợi cho mọi đối tượng được hưởng lợi nước từ công trình thuỷ lợi. Vì
nước là hàng hoá nhưng lại là một tài nguyên thiết yếu, có tính chất sống còn đối với
cuộc sống của mỗi con người, do vậy cần đảm bảo mọi người dân đều có quyền tiếp
cận đối với nguồn tài nguyên đó, vì nó đem lại sự tồn tại và phát triển cho người dân
và cho xã hội. Khi chính sách thực hiện được định hướng này, nó sẽ tạo được sự
đồng thuận cao của mọi người dân và toàn xã hội.
Ba là, việc thực hiện chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí cần xem xét đến khả
85
năng của ngân sách và vấn đề quản lý quản lý kinh phí được cấp cho những tổ chức
quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi không phải là các công ty khai thác công trình
thuỷ lợi. Mặc dù bỏ ra một khối lượng kinh phí rất lớn để thực hiện chính sách miễn
thuỷ lợi phí, nhưng một số năm gần đây, ngân sách nhà nước tập trung cho sửa
chữa, nâng cấp công trình thuỷ lợi không đáp ứng yêu cầu thực tế, dẫn đến, nhiều hệ
thống công trình thuỷ lợi đã phục vụ hàng chục năm nhưng vẫn chưa được đại tu,
nâng cấp, trong khi đó, nguồn kinh phí thực hiện miễn thuỷ lợi phí, về cơ bản chỉ
đảm bảo cho việc duy tu, sửa chữa thường xuyên công trình thuỷ lợi.
Bốn là, dù miễn hay không miễn thuỷ lợi phí thì nhà nước vẫn phải có các cơ
chế, chính sách đảm bảo chi phí hoạt động của các tổ chức quản lý, khai thác công
trình thuỷ lợi, đặc biệt là chi phí về tiền lương và khoản kinh phí dùng để duy tu, sửa
chữa công trình nhằm đảm bảo an toàn công trình và phát huy tối đa hiệu quả công
trình trong việc phục vụ sản xuất và dân sinh.
Năm là, song song với chính sách miễn thuỷ lợi phí ban hành, các cơ quan
chuyên môn cần có những hướng dẫn cụ thể, rõ ràng hoặc phải có những quy chế
ràng buộc, nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân trong việc sử dụng
nước tiết kiệm, đồng thời tích cực chủ động tham gia quản lý, khai thác công trình
thuỷ lợi.
Sáu là, phải tiếp tục có các giải pháp củng cố, sắp xếp đổi mới hoạt động, hoàn
thiện bộ máy tổ chức về thuỷ lợi. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, đối với bộ máy quản lý nhà nước về thuỷ lợi,
- Củng cố, kiện toàn và nâng cao năng lực, tăng cường hiệu lực hiệu quả hoạt
động của bộ máy quản lý nhà nước về thuỷ lợi ở cả Trung ương và các địa phương,
đáp ứng yêu cầu chỉ đạo điều hành sản xuất cũng như các lĩnh vực khác về thuỷ lợi.
Tách quản lý nhà nước ra khỏi quản lý, khai thác ở những địa phương hiện nay còn
mô hình này. Thống nhất mô hình tổ chức quản lý nhà nước về thuỷ lợi cấp tỉnh ở
63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Hướng dẫn thành lập các cơ quan quản lý nhà nước về thuỷ lợi ở địa phương,
bao gồm cả cấp huyện và xã, nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng quản lý nhà
86
nước về thuỷ lợi trên địa bàn, bao gồm cả hỗ trợ kỹ thuật cho các tổ chức quản lý
khai thác công trình, đặc biệt cho các tổ chức hợp tác dùng nước.
Thứ hai, đối với tổ chức và hoạt động của các đơn vị làm nhiệm vụ quản lý,
khai thác công trình thủy lợi.
- Tiếp tục nghiên cứu mô hình quản lý đối với các hệ thống công trình thuỷ lợi
từng vùng, từng địa phương để đề xuất mô hình tổ chức quản lý phù hợp, đảm bảo
tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả.
- Hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi: Thành lập
các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi ở các địa phương có hệ thống công
trình thuỷ lợi lớn, quan trọng, quản lý phức tạp. Thống nhất mô hình công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên, 100% vốn thuộc sở hữu nhà nước theo quy định của
Luật Doanh nghiệp năm 2005.
- Nâng cao tính tự chủ của các doanh nghiệp về trách nhiệm, tổ chức nhân sự
và cơ chế tài chính. Từng bước tiến tới phải gắn thu nhập của người lao động với
kết quả hoàn thành nhiệm vụ tương ứng.
Thứ ba, đối với tổ chức và hoạt động của các tổ chức hợp tác dùng nước:
- Củng cố, kiện toàn hình thức tổ chức hợp tác dùng nước theo mô hình Hợp
tác xã dịch vụ nông nghiệp có làm dịch vụ thuỷ lợi hoặc Hợp tác xã dùng nước hoặc
mô hình Tổ chức hợp tác dùng nước (không phân biệt tên gọi).
- Ở những nơi không thành lập được Tổ chức hợp tác dùng nước, có thể giao
cho doanh nghiệp hoặc các tổ chức có chức năng để quản lý, vận hành công trình
thuỷ lợi trong phạm vi xã. Trường hợp, trên địa bàn không có tổ chức doanh nghiệp
và tổ chức hợp tác dùng nước, chính quyền cử người làm công tác quản lý, vận hành
công trình tạm thời, sau đó phải kiện toàn tổ chức.
Bảy là, cần quan tâm đến việc ban hành cơ chế chính sách hỗ trợ cho tổ chức
hợp tác dùng nước đủ điều kiện năng lực tham gia quản lý, khai thác công trình thuỷ
lợi, bao gồm:
Thứ nhất, Nhà nước có chính sách hỗ trợ tài chính đối với các Tổ chức hợp tác
dùng nước quản lý công trình thuỷ lợi nhỏ để đại tu, nâng cấp, khôi phục công trình
87
thuỷ lợi; đầu tư kiên cố hoá hệ thống kênh và xây dựng, hoàn thiện hệ thống thuỷ
nông nội đồng.
Thứ hai, các cơ quan chuyên môn thường xuyên thực hiện hỗ trợ kỹ thuật cho
tổ chức hợp tác dùng nước thông qua hình thức tập huấn, đào tạo trong việc kiểm tra
an toàn công trình trước và sau mùa mưa lũ hàng năm; kiểm tra hư hỏng, đánh giá
chất lượng công trình thuỷ lợi; hướng dẫn về sửa chữa, nâng cấp, khôi phục công trình
bị hư hỏng đơn giản; quản lý; kỹ thuật quản lý vận hành công trình, quản lý nguồn
nước, vận hành phân phối nước và kỹ thuật sử dụng nước tiết kiệm.
Đây là nội dung rất quan trọng, vì tổ chức hợp tác dùng nước hoạt động hiệu quả
sẽ quyết định hiệu quả cuối cùng, toàn diện và đồng bộ của hệ thống thuỷ lợi. Tuy
được các Bộ, ngành và chính quyền địa phương quan tâm nhưng vẫn là vấn đề cần
tiếp tục phải có chính sách cụ thể hơn.
4.3. Các giải pháp thực hiện.
Để đáp ứng được các mục tiêu và một số định hướng như trên, các cơ quan
chức năng, các Bộ, ngành, chính quyền địa phương và các cơ quan có liên quan cần
thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau :
4.3.1. Sửa đổi, ban hành các cơ chế chính sách để đồng bộ hệ thống pháp luật
trong quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.
Để phát huy tối đa hiệu quả của các hệ thống công trình thủy lợi, nâng cao hiệu
lực hiệu quả hoạt động của các tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thì
không chỉ riêng có chính sách thuỷ lợi phí (dù miễn hay không miễn), mà cần có
một hệ thống pháp luật đồng bộ trong công tác quản lý, khai thác công trình thuỷ
lợi. Hiện nay, chính thức trong lĩnh vực quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi mới có
Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi ngày 4/4/2001 của Uỷ ban thường
vụ quốc hội là văn bản cao nhất. Do vậy, để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước,
cần nâng pháp lệnh này thành Luật để bao trùm, điều chỉnh toàn bộ các nội dung,
hành vi trong hoạt động quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.
Trên cơ sở nòng cốt là văn bản Luật này, Chính phủ và các Bộ, ngành có liên
quan sẽ ban hành các Nghị định, thông tư hướng dẫn các hoạt động của các tổ chức
88
quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, cơ chế tài chính trong lĩnh vực quản lý, khai
thác công trình thủy lợi.
4.3.2. Ban hành chính sách riêng về thuỷ lợi phí
Như chúng ta đã thấy, trước năm 2003, Chính phủ luôn ban hành riêng 01
Nghị định quy định về chính sách thuỷ lợi phí. Tuy nhiên, từ năm 2003, Chính phủ
ban hành Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh khai thác
và bảo vệ công trình thuỷ lợi đã bao gồm cả nội dung của chính sách thuỷ lợi phí
trong đó. Vì thuỷ lợi phí là một chính sách rất phức tạp, nhạy cảm, nên việc chỉ đưa
một số điều trong một Nghị định hướng dẫn chung như vậy, sẽ còn rất nhiều nội
dung không được quy định cụ thể, dẫn đến trong quá trình thực hiện còn rất nhiều
vướng mắc, tranh chấp, đặc biệt là đối với các hệ thống công trình thuỷ lợi phục vụ
tưới, tiêu liên tỉnh.
Để các nội dung của chính sách được rõ ràng, cụ thể, giúp các cơ quan thực thi
cũng như người dân dễ dàng tiếp cận và hiểu về chính sách, cần phải ban hành một
Nghị định riêng của Chính phủ quy định về việc miễn thuỷ lợi phí, như thời kỳ của
Nghị định 112 trước đây, với các nội dung chủ yếu được đề cập và quy định cụ thể
như sau:
a) Đối tượng miễn: Cần làm rõ đối tượng được miễn thuỷ lợi phí là ai. Do
chính sách miễn thuỷ lợi phí hiện nay mới chỉ hỗ trợ cho cá nhân, hộ gia đình được
giao đất sản xuất, mặt nước làm nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và
làm muối, nên còn một số đối tượng khác vẫn chưa được xem xét. Ví dụ, như công
nhân nông trường trước đây, hiện nay, hầu hết các nông trường đã giải thể hoặc
được chuyển đổi, nhưng đất được giao cho người công nhân sản xuất, đời sống như
những người nông dân nhưng không được miễn thuỷ lợi phí; hoặc đối với những
doanh nghiệp, tổ chức hoạt động mang tính chất thực nghiệm, thử nghiệm, hoặc có
mục đích phục vụ sản xuất nông nghiệp cũng nên được xem xét là đối tượng được
miễn hoặc giảm thuỷ lợi phí.
b) Phạm vi miễn: Theo quy định hiện nay, việc miễn thuỷ lợi phí chỉ được thực
hiện đối với diện tích trong hạn điền, còn diện tích vượt hạn điền không được miễn
89
thuỷ lợi phí. Tuy nhiên, vấn đề này cũng chưa được quy định rõ trong chính sách là
tổng diện tích của 1 cá nhân, hộ gia đình vượt hạn điền hay một khu tưới có diện
tích vượt hạn điền sẽ phải nộp thuỷ lợi phí. Bên cạnh đó, trong chính sách quy định
miễn đối với đất lâm nghiệp nhưng không quy định cụ thể mức thu, do vậy không có
cơ sở để miễn.
Cũng cần xem xét yếu tố thuận lợi trong việc thực hiện, vì với diện tích trong
hạn điền, phần vượt hạn điền sẽ còn rất ít, và như vậy sẽ thường không khuyến
khích các tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thu phần thuỷ lợi phí của
diện tích vượt hạn điền.
c) Mức thuỷ lợi phí miễn
- Cần xem xét lại sự bất hợp lý trong mức thuỷ lợi phí hiện nay đối với các
vùng miền của cả nước trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đặc biệt đối với miền
núi, Tây Nguyên và vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Đảm bảo sự công bằng, bình
đẳng giữa các vùng miền. Tránh tình trạng những vùng khó khăn lại có mức cấp bù
thấp hơn vùng thuận lợi. Xem lại mức thu đối với các đối tượng hưởng lợi khác, sao
cho đảm bảo nguyên tắc thu đúng, thu đủ đối với các đối tượng hưởng lợi từ công
trình thuỷ lợi có lãi và dễ dàng trong việc ký kết hợp đồng, xác định mức thuỷ lợi
phí phải đóng góp.
- Ban hành định mức kinh tế kỹ thuật chuẩn trong quản lý, khai thác công trình
thuỷ lợi, trên cơ sở đó ban hành mức thu. Mức thu cần linh hoạt, điều chỉnh theo
trượt giá của từng giai đoạn, không nhất thiết phải điều chỉnh hàng năm. Mức thuỷ
lợi phí cần đáp ứng chi phí tối thiểu của doanh nghiệp, đảm bảo cơ bản chi phí vận
hành và bảo dưỡng công trình thuỷ lợi.
- Trường hợp Chính phủ ổn định ngân sách miễn thuỷ lợi phí trong giai đoạn 5
hoặc 10 năm, giao quyền chủ động quyết định cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và chủ
sở hữu quyết định mức thu để điều hoà chi phí quản lý, vận hành toàn hệ thống.
d) Nguồn kinh phí đảm bảo
Vì xét về nguyên tắc, thuỷ lợi phí chỉ là phí, đáp ứng một phần chi phí doanh
nghiệp quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, do vậy đây vẫn là các doanh nghiệp
90
sản xuất, cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích, như vậy, hàng năm ngân sách phải
hỗ trợ hàng năm tương ứng với giá trị của những công trình không phải trích khấu
hao để giúp doanh nghiệp có kinh phí trong việc sửa chữa, đại tu hệ thống công
trình thuỷ lợi.
đ) Nghiên cứu các phương pháp miễn
Theo một số ý kiến đánh giá, việc miễn thuỷ lợi phí trên diện tích được tưới
tiêu cũng chưa thực sự hiệu quả. Thông qua đó, miễn thuỷ lợi phí thông qua cấp
ngân sách nhà nước trực tiếp cho các tổ chức quản lý khai thác công trình thuỷ lợi sẽ
không hiệu quả, không gắn được trách nhiệm của người dân trong công tác quản lý,
khai thác công trình thuỷ lợi, cũng như việc giám sát của người dân đối với việc sử
dụng kinh phí được cấp từ ngân sách.
Các cơ quan nghiên cứu và đề xuất ban hành chính sách tiếp tục nghiên cứu
các phương pháp thực hiện miễn thuỷ lợi phí theo hướng thuận lợi, đảm bảo minh
bạch, hiệu quả nhất. Có thể nghiên cứu phương pháp miễn trực tiếp cho người dân,
nghĩa là người dân vẫn trực tiếp trả thuỷ lợi phí cho các tổ chức quản lý khai thác
công trình thuỷ lợi thông qua hợp đồng, trên cơ sở hoá đơn và nghiệm thu hợp đồng,
các cơ quan của nhà nước sẽ cấp kinh phí trả người dân.
4.3.3. Thực hiện phân cấp quản lý công trình rõ ràng, minh bạch
Việc phân cấp quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi rất quan trọng. Khi phân
cấp tốt, sẽ làm rõ trách nhiệm, phạm vi trong quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi,
giữa các đơn vị quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi cũng như người dân, đồng thời
cũng xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan chuyên
môn, chính quyền các cấp trong việc quản lý khai thác công trình thuỷ lợi.
Việc gắn trách nhiệm của người hưởng lợi đối với phần kinh phí thuỷ lợi nội
đồng cũng như kinh phí miễn thuỷ lợi phí đến phạm vi người dân vẫn phải đóng góp
chi phí cũng sẽ được làm rõ ràng nếu phân cấp tốt.
Bên cạnh đó, với một hệ thống thuỷ lợi nhỏ, kỹ thuật vận hành đơn giản,
không quá mất an toàn, việc phân cấp cho tổ chức hợp tác dùng nước quản lý, khai
thác, bảo vệ công trình thuỷ lợi quản lý sẽ hiệu quả, tiết kiệm chi phí hơn rất nhiều
91
so với các tổ chức của nhà nước quản lý.
4.3.4. Một số giải pháp phụ trợ khác
Nghiên cứu mô hình tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi phù hợp
hơn, đặc biệt là đối với từng vùng, miền trong giai đoạn miễn thuỷ lợi phí hiện nay.
Cần thực hiện điều tra, đánh giá thực trạng tổ chức quản lý, khai thác công trình
thuỷ lợi, đặc biệt ở cấp cơ sở để có giải pháp củng cố, kiện toàn; đánh giá thực trạng
tổ chức quản lý nhà nước về thuỷ lợi ở cấp huyện và xã, để có giải pháp củng cố,
kiện toàn.
Thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật
của Nhà nước về quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, đặc biệt là chính sách về
thuỷ lợi phí, các chính sách về quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi đến tận người
dân. Đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực và vai trò của người dân trong quản lý, khai
thác công trình thuỷ lợi.
Không có một chính sách nào có thể gọi là hoàn hảo, đáp ứng và thoả mãn
được tất cả các đối tượng mà chính sách điều chỉnh, trong khi đó, đây lại là chính
sách có ảnh hưởng tác động tới 70% dân số sinh sống trong lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp. Do vậy, chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí, trong 3 năm đã có 2 Nghị định
của Chính phủ và tới nay đang được tổng kết đánh giá để có những kiến nghị điều
chỉnh, bổ sung cho phù hợp là rất cần thiết. Trong 3 năm qua, việc thực hiện chính
sách miễn giảm thuỷ lợi phí nhằm mục tiêu làm giảm chi phí sản xuất nông nghiệp
của người, góp phần tăng cao thu nhập, nâng cao mức sống của người nông dân
trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp là rất cần thiết.
Có thể, khi chính sách miễn thuỷ lợi phí mới ra đời cũng chưa thể giải quyết
được toàn bộ những tồn tại, vướng mắc đã thể hiện như đánh giá những tồn tại đã
nêu ở trên, cũng có thể khi ban hành chính sách miễn thuỷ lợi phí mới sẽ tiếp tục
nảy sinh ra những vấn đề mới, đó cũng là một điều bình thường khi ban hành một
chính sách. Nhưng, không thể cầu toàn, cũng không vội vã, thì việc nghiên cứu,
điều tra đánh giá cũng như tổng kết chính sách hiện hành để có những kiến nghị, đề
xuất sửa đổi, bổ sung chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí cho phù hợp với tình hình
92
thực tế hiện nay là một chủ trương đúng đắn của Chính phủ, các bộ ngành liên quan
và các địa phương.
93
KẾT LUẬN
Như chúng ta đã biết, chính sách thuỷ lợi phí là một chính sách rất phức tạp,
nhạy cảm, đặc biệt đối với những nước có nền sản xuất nông nghiệp lúa nước như ở
Việt Nam. Tính đến nay, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy định về chính
sách thuỷ lợi phí. Việc miễn thuỷ lợi phí đã được đề cập ở hầu hết các chính sách từ
khi ban hành, tuy ở từng mức độ khác nhau. Đặc biệt, chính sách miễn thuỷ lợi phí
đã được ban hành và thực hiện một cách đồng bộ và toàn diện hơn được thể hiện ở
Nghị định số 154 và Nghị định số 115 của Chính phủ.
Kết quả nghiên cứu của đề tài đã đạt được những mục tiêu chính theo yêu cầu
đặt ra, đó là :
Thứ nhất, đã làm rõ được cơ sở khoa học, sự cần thiết của việc ban hành các
chính sách thuỷ lợi phí và chính sách miễn thuỷ lợi phí của Việt Nam, nguyên tắc
các phương pháp xác định thuỷ lợi phí. Trong đó, đã nêu được một số kinh nghiệm
về chính sách thuỷ lợi phí ở một số nước trên thế giới.
Thứ hai, đã phân tích đánh giá được những nội dung của các chính sách thuỷ
lợi phí đã được Chính phủ ban hành, đặc biệt là các chính sách miễn giảm thủy lợi
phí trong giai đoạn gần đây và đang thực hiện hiện nay. Trong đó, đã phân tích, chỉ
rõ những mặt được, những mặt còn tồn tại trong các chính sách miễn thuỷ lợi phí
đang được thực hiện và nêu ra những vấn đề tiếp tục cần được nghiên cứu để chính
sách hoàn thiện hơn.
Thứ ba, trên cơ sở đánh giá những ưu điểm, nhận ra những tồn tại, luận văn đã
nêu được mục tiêu, đề xuất định hướng nội dung một số vấn đề cần được xem xét
sửa đổi trong chính sách sắp được ban hành.
Bản thân chính sách thuỷ lợi phí, khi còn đang thu, cũng thể hiện sự bất công
bằng, bình đẳng giữa những người được hưởng lợi về nước, do vậy, việc thực hiện
chính sách miễn thu thuỷ lợi phí sẽ rất khó khăn trong việc đảm bảo công bằng, bình
đẳng cho mọi người dùng nước. Tuy nhiên, việc ban hành một chính sách hiệu quả
không nhất thiết phải đảm bảo sự công bằng, bình đẳng cho mọi đối tượng, mà
chính sách đó chỉ có tác động và ảnh hưởng tới một bộ phận nhóm lợi ích nào đó,
94
miễn là đạt được một trong các hiệu quả về mặt kinh tế, xã hội hoặc chính trị.
Việc nghiên cứu thực thi chính sách miễn cần tiếp tục được nghiên cứu sâu
thêm hơn nữa trong việc đánh giá chi tiết sự ảnh hưởng đến quá trình hình thành,
hoạt động và hiệu quả của các tổ chức hợp tác dùng nước, tổ chức là cầu nối giữa
các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi và người dân, quyết định hiệu quả
cuối cùng của một hệ thống công trình thuỷ lợi; tác động của chính sách miễn, giảm
thuỷ lợi phí tới thu nhập, mức sống của người dân cũng như ảnh hưởng của vấn đề
này tới hiệu quả quản lý, khai thác vận hành công trình thuỷ lợi. Kết quả thu thập từ
thu nhập và chi phí của người nông dân cho thấy, khi thực hiện chính sách miễn
thuỷ lợi phí, đã có mức độ giảm nhất định trong chi phí của người nông dân đối với
sản xuất nông nghiệp, tuy nhiên, mức độ giảm thay đổi tuỳ theo từng vùng tuỳ thuộc
vào mức độ đóng góp trước đây, cũng như mô hình tổ chức quản lý khai thác và đặc
thù trong tập quán canh tác của nông dân từng địa phương. Bên cạnh đó, thì cơ chế
tài chính, vấn đề có liên quan chặt chẽ tới chính sách thuỷ lợi phí cũng cần được
nghiên cứu, đề xuất để ban hành chính sách minh bạch, cụ thể và phù hợp hơn. Tuy
nhiên, những vấn đề này cần có những đánh giá nghiên cứu sâu sắc, chi tiết và cụ
thể hơn và có thể được đặt ra trong những nghiên cứu chuyên sâu và cao hơn luận
văn này.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng, trong công tác quản lý, khai thác công
trình thuỷ lợi, nếu chỉ tập trung vào sửa đổi, bổ sung riêng một chính sách thuỷ lợi
phí, cho dù có thu từ nông dân hay Chính phủ trả thay nông dân thì vẫn chưa đủ để
có thể nâng cao hiệu quả các hệ thống công trình thuỷ lợi và vấn đề chống xuống
cấp, đảm bảo an toàn công trình. Vì vậy, để đồng bộ trong hệ thống chính sách và
góp phần thực hiện hiệu quả chính sách miễn thuỷ lợi phí, Chính phủ, các bộ ngành
liên quan và các địa phương cần ban hành một hệ thống chính sách đồng bộ hơn nữa
trong công tác quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, đặc biệt những chính sách quy
định về phương thức hoạt động cũng như cơ chế tài chính trong quản lý, khai thác
công trình thuỷ lợi.
95
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2004), Thông tư số 75/2004/TT-BNN-TL
ngày 20/12/2004 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn củng
cố, thành lập và phát triển các tổ chức hợp tác dùng nước.
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính (2008), Thông tư số
74/2008/TTLT-BTC-BNN ngày 14/8/2008 của liên Bộ Tài chính - Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn chế độ quản lý tài chính trong Hợp tác
xã nông nghiệp.
3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2009), Thông tư số 65/2009/TT-
BNNPTNT ngày 12/10/2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng
dẫn tổ chức hoạt động và phân cấp quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.
4. Bộ Tài chính (2008), Thông tư số 26/2008/TT-BTC ngày 30/3/2008 của Bộ Tài
chính hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 154/2007/NĐ-CP ngày
15/10/2007 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi (đã hết hiệu lực).
5. Bộ Tài chính (2009), Thông tư số 11/2009/TT-BTC ngày 21/01/2009 của Bộ Tài
chính hướng dẫn đặt hàng, giao kế hoạch đối với các tổ chức quản lý khai thác
công trình thuỷ lợi và quy chế tài chính đối với các công ty nhà nước tham gia
quản lý khai thác công trình thuỷ lợi.
6. Bộ Tài chính (2009), Thông tư số 36/2009/TT-BTC ngày 28/3/2009 của Bộ Tài
chính hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 115/2008/NĐ-CP ngày
14/11/2008 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi.
7. Bộ Tài chính (2010), Thông tư số 117/2010/TT-BTC ngày 05/8/2010 của Bộ Tài
chính hướng dẫn cơ chế tài chính của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
96
viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.
8. Chính phủ (2003), Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công
trình thủy lợi.
9. Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ
về thi hành Luật Đất đai.
10. Chính phủ (2007), Nghị định số 154/2007/NĐ-CP ngày 15/10/2007 của Chính phủ
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày
28/11/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh
Khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi (đã hết hiệu lực).
11. Chính phủ (2008), Nghị định số 115/2008/NĐ-CP ngày 14/11/2008 của Chính phủ
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày
28/11/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh
Khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi.
12. Chính phủ (2010), Nghị định số 25/2010/NĐ-CP ngày 19/3/2010 của Chính phủ về
chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
và tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước
làm chủ sở hữu.
13. Hội đồng Bộ trưởng (1984), Nghị định số 112-HĐBT ngày 25/8/1984 của Hội đồng
Bộ trưởng về việc thu thuỷ lợi phí (đã hết hiệu lực).
14. Hội đồng Chính phủ (1962), Nghị định số 66/CP ngày 5/6/1962 của Hội đồng
Chính phủ về việc ban hành Điều lệ thu thuỷ lợi phí (đã hết hiệu lực).
15. Nguyễn Bá Uân, Ngô Thị Thanh Vân (2006), Giáo trình Kinh tế Thuỷ lợi, Nhà xuất
bản xây dựng.
16. Quốc hội (1998), Luật Tài nguyên nước, ngày 20 tháng 5 năm 1998.
17. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2001), Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thuỷ
lợi, số 32/2001/PL-UBTVQH của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ngày 4/4/2001.
18. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2001), Pháp lệnh phí và lệ phí, số 38/2001/PL-
UBTVQH của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ngày 28/8/2001.
97
19. Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (2008-2009),
Nghiên cứu những vấn đề phát sinh từ chính sách miễn, giảm thuỷ lợi phí.
20. Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam (2008-2009), đề tài nghiên cứu Thuỷ lợi phí và
chính sách thuỷ lợi phí ở Việt Nam.
Tiếng Anh:
21. Christina Jackson (2005), Water Resources Division - Department of Primary
Industries, Water and Environment: Review of fees payable under the water
management Act 1999.
22. Consuelo Varela-Ortega and Juan A. Sagardoy (2001): Irrigation Water Policies in
Syria: Current Developments and Future Options.
23. G.A.Cornish and C.J.Perry (2003), Water Charging in Irrigated Agriculture:
Lessons from the Field.
24. Ilija Kondinski (2005), Public Watereconomy Enterprise "Strezevo", Bitola,
Republic of MACEDONIA: Water Consumption Forecast and Water Demand
Management in Strezevo Irrigation System.
25. Intizar Hussain (2004) International Water Management Institute (IWMI): Have
Low Irrigation Service Charges Disadvantaged the Poor?, at the second ADB’s
Water Week, 26-30 January 2004, Manila, Philippines.
26. K. William Easter & Yang Liu (2005), The International Bank for Reconstruction
and Development/The World Bank: Cost Recovery and Water Pricing for
Irrigation and Drainage Projects.
27. Natural Resources Management and Environment Department – FAO (2005):
Water charging in irrigated agriculture.
28. Olubode-Awosola, O.O., Idowu E.O. & Van Schalkwyk H.D. (2005): Irrigation
Projects Reform Case Studies: An Assessment of Projects' Performance, a paper
presented at the 8th International Riversymposium 2005, 6-9 September,
Brisbane, Australia.