LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự tìm tòi,

nghiên cứu; các số liệu trong luận văn có cơ sở rõ ràng và

trung thực.

Tác giả luận văn Nguyễn Hồng Khanh

2

MỞ ĐẦU

Tài nguyên nước hiện nay đã và đang được các quốc gia và toàn thể cộng đồng

trên thế giới quan tâm bảo vệ. Như chúng ta đã biết, Hội nghị thượng đỉnh của lãnh

đạo các quốc gia trên thế giới tổ chức tại Rio de Janeiro (Brazil), tháng 6/1992 về

Môi trường và Phát triển, đã đưa ra bốn nguyên tắc khuyến nghị các quốc gia trên

thế giới có những biện pháp khẩn cấp, nhằm tăng cường việc bảo vệ và phát triển

nguồn nước, trong đó đã đề cập đến các khía cạnh sinh thái, thể chế, xã hội và kinh

tế. Cụ thể như sau:

“Nguyên tắc sinh thái: Nước ngọt là nguồn tài nguyên có hạn và dễ bị tổn

thương, cần thiết cho sự sống, phát triển và môi trường.

Nguyên tắc thể chế: Phát triển và quản lý nước phải dựa trên cơ sở tiếp cận có

sự tham gia của các bên có liên quan, từ người sử dụng đến người lập kế hoạch quy

hoạch, người lập chính sách, ở mọi cấp độ.

Nguyên tắc xã hội: Phụ nữ đóng vai trò trung tâm trong việc cung cấp, quản lý

và đảm bảo an toàn về nước.

Nguyên tắc kinh tế: Nước có giá trị kinh tế ở mọi nhu cầu sử dụng có tính cạnh

tranh và phải được xem như hàng hóa kinh tế”.

Ở nước ta, trong những năm gần đây, nước đã được coi là tài nguyên và Chính

phủ đã đệ trình Quốc hội ban hành Luật Tài nguyên nước, chính thức được thông

qua vào tháng 5/1998.

Việc ban hành Luật Tài nguyên nước là một bước tiến quan trọng trong việc

đưa vấn đề bảo vệ tài nguyên nước trở thành một yêu cầu cấp bách trong giai đoạn

hiện nay của Chính phủ Việt Nam, đồng thời cũng đưa Việt Nam là một trong số ít

các nước có Luật riêng về Tài nguyên nước.

Tại mục 3, khoản 1, Điều 23 của Luật Tài nguyên nước đã quy định về nghĩa

vụ của các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước như sau:

“1. Tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước có những nghĩa vụ

sau đây:

e) Thực hiện nghĩa vụ tài chính; bồi thường thiệt hại do mình gây ra trong khai

3

thác, sử dụng tài nguyên nước theo quy định của pháp luật”.

Tại khoản 3, Điều 47 của Luật Tài nguyên nước, về khai thác và bảo vệ công

trình thuỷ lợi đã quy định:

“3. Tổ chức, cá nhân khai thác và hưởng lợi từ công trình thủy lợi phải thực

hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp

luật”.

Như vậy, tiếp cận nước là một loại hàng hoá kinh tế và việc các tổ chức, cá

nhân phải có trách nhiệm tài chính đối với việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước

đã được các quốc gia và Chính phủ Việt Nam quan tâm từ lâu.

I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đến nay, Nhà nước và nhân dân ta đã đầu tư xây dựng để hình thành nên một

hệ thống cơ sở hạ tầng thuỷ lợi hết sức to lớn, góp phần quan trọng trong việc tưới

tiêu, cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm

muối, phòng chống lũ lụt, cấp nước công nghiệp, sinh hoạt, giao thông, du lịch và

nhiều ngành kinh tế xã hội khác. Hiệu quả của công tác thuỷ lợi mang lại cho sản

xuất đời sống xã hội là hết sức to lớn, có những hiệu quả tính được bằng tiền, nhưng

cũng có nhiều những hiệu quả hết sức to lớn khác khó có thể định lượng được, đó là

những tác động tích cực về dân trí, xã hội môi trường, nông nghiệp nông thôn...

Để đáp ứng cho yêu cầu quản lý và khai thác khép kín các công trình, hệ thống

công trình thuỷ lợi, hiện nay, cả nước đã hình thành một hệ thống các tổ chức để

quản lý, khai thác các công trình như sau:

- Khoảng 100 doanh nghiệp quản lý các công trình đầu mối lớn, kênh trục

chính (cấp 1, cấp 2): các công trình đầu mối lớn, kênh trục chính, chưa bao gồm các

tổ chức khác thuộc nhà nước cũng được giao nhiệm vụ quản lý, khai thác công trình

thuỷ lợi.

- Khoảng 12.000 tổ chức hợp tác dùng nước bao gồm các hợp tác xã nông lâm

nghiệp có làm dịch vụ thuỷ lợi, hợp tác xã dùng nước, tổ chức hợp tác, Ban quản lý,

khai thác công trình thuỷ lợi, tổ thuỷ nông, đường nước độc lập... quản lý các công

4

trình thuỷ lợi cơ sở nhỏ, hệ thống thuỷ lợi mặt ruộng.

- Một số loại hình có tính chất đặc thù khác: như Ban, Trạm Quản lý khai thác

công trình thuỷ lợi huyện, liên xã, Trung tâm quản lý khai thác công trình thuỷ lợi,

Chi cục thuỷ lợi, công ty khác cũng được giao chức năng quản lý, khai thác công

trình thuỷ lợi.

Để đảm bảo cho các hệ thống công trình thuỷ lợi nói trên vận hành an toàn,

hàng năm yêu cầu phải có đủ kinh phí để vận hành, duy tu, bảo dưỡng, chưa kể đến

kinh phí yêu cầu xây dựng mới, nâng cấp, khôi phục công trình hư hỏng do sử dụng

lâu ngày và do thiên tai gây ra và kinh phí khắc phục hạn hán, úng lụt. Với mục tiêu

này, chính sách thuỷ lợi phí đã được ban hành.

Nhằm bù đắp một phần kinh phí yêu cầu nói trên, giảm nhẹ gánh nặng bao cấp

ngân sách nhà nước, Nhà nước đã có chủ trương thu thuỷ lợi phí từ người hưởng lợi

và thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong các đơn vị quản lý khai thác công trình

thủy lợi. Ngay từ năm 1962, Hội đồng Chính phủ, nay là Chính phủ đã ban hành

Nghị định số 66/CP ngày 5/6/1962 quy định điều lệ thu thuỷ lợi phí, tuy nhiên Nghị

định này chỉ áp dụng đối với các hệ thống nông giang lớn. Tiếp đó, là các Nghị định

số 112-HĐBT ngày 25/8/1984 của Hội đồng Bộ trưởng và Nghị định số

143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ.

Để khuyến khích sản xuất lương thực, trong các văn bản trên, thuỷ lợi phí đối

với tưới chỉ thu ở mức cần thiết, đảm bảo chi phí cho sửa chữa thường xuyên (chưa

tính đến chi phí nâng cấp, thu hồi vốn). Nhà nước phải hỗ trợ phần chi phí tiền điện

tiêu úng, sửa chữa công trình hư hỏng nặng do thiên tai gây ra bằng những quy định

chặt chẽ.

Xuất phát từ chính sách hỗ trợ nông dân được giao đất sản xuất nông nghiệp,

lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và làm muối, từ năm 2008, Chính phủ đã miễn giảm

thuỷ lợi phí cho người dân theo quy định của Nghị định số 154/2007/NĐ-CP ngày

15/10/2007 của Chính phủ, sau đó được thay thế bằng Nghị định số 115/2008/NĐ-

CP ngày 14/11/2008 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số

143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số

5

điều của Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi.

Việc nghiên cứu và ban hành chính sách thuỷ lợi phí phù hợp từng giai đoạn

phát triển của đất nước là thực sự cần thiết như đã được đề cập ở trên. Ngoài việc

giúp có được một khoản kinh phí đáng kể cho công tác vận hành, duy tu bảo dưỡng

công trình, nếu chính sách thuỷ lợi phí phù hợp, chúng ta sẽ nâng cao được ý thức

của người nông dân trong việc sử dụng nước có ý thức, tiết kiệm và nâng cao trách

nhiệm, vai trò của họ trong việc gìn giữ, bảo vệ công trình thuỷ lợi.

Về bản chất, thuỷ lợi phí thực chất là chính sách của nhà nước đối với nông

dân, vì khi nhà nước hỗ trợ cho công ty khai thác công trình thuỷ lợi phần thiếu hụt

do mất mùa không thu được thuỷ lợi phí, hoặc thu ở mức quy định thấp chính là nhà

nước hỗ trợ nông dân để sản xuất lương thực. Ở từng giai đoạn phát triển sẽ có

chính sách thuỷ lợi phí tương ứng, thu hay miễn, giảm là giải pháp cụ thể của Chính

phủ nhằm mục đích đáp ứng bài toán phát triển tổng thể kinh tế xã hội, phù hợp với

từng giai đoạn, và bài toán được đặt ra đối với chính sách thủy lợi phí sẽ là:

- Nếu quy định thu thuỷ lợi phí, Nhà nước sẽ giảm nguồn kinh phí đáp ứng cho

vận hành, duy tu bảo dưỡng, sửa chữa công trình.

- Ngược lại, nếu giảm hoặc không thu, Nhà nước phải hỗ trợ hoặc chi phí

nhiều hơn cho công tác quản lý vận hành, khai thác công trình thuỷ lợi.

Là một cán bộ làm việc tại Tổng cục Thuỷ lợi - Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn, cơ quan chuyên nghiên cứu, tham mưu đề xuất giúp Bộ và giúp Chính

phủ ban hành các cơ chế, chính sách trong lĩnh vực quản lý, khai thác công trình

thuỷ lợi, bao gồm cả cơ chế chính sách về tài chính trong quản lý, khai thác công

trình thuỷ lợi và chính sách về thuỷ lợi phí, học viên lựa chọn và thực hiện đề tài

luận văn thạc sĩ “Nghiên cứu chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động

tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp” nhằm đóng góp một phần nhỏ bé của

mình vào việc nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất một số giải pháp đổi

mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của chính sách thuỷ lợi phí.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Từ lâu, chính sách thuỷ lợi phí đã được Chính phủ, các Bộ ngành và chính

quyền các địa phương rất quan tâm, nhằm đảm bảo một khoản kinh phí nhất định để

đáp ứng cho công tác vận hành, duy tu bảo dưỡng, sửa chữa các công trình thuỷ lợi.

6

Có thể liệt kê ra một số các công trình, tài liệu nghiên cứu có liên quan đến chính

sách thuỷ lợi phí như sau:

- Quản lý thuỷ nông trong nền kinh tế thị trường, Đoàn Thế Lợi, sách do Nhà

xuất bản nông nghiệp – 2004.

- Thuỷ lợi phí và chính sách thuỷ lợi phí trong nền kinh tế thị trường và hội

nhập kinh tế quốc tế - Đề tài cấp Bộ, Trung tâm nghiên cứu Kinh tế, Viện Khoa học

Thuỷ lợi thực hiện năm 2007-2008.

- Nghiên cứu xây dựng giá nước tại hệ thống thuỷ lợi hồ Núi Cốc – tỉnh Thái

Nguyên – Trung tâm nghiên cứu kinh tế, Viện Khoa học Thuỷ lợi thực hiện năm

2002.

- Nghiên cứu mô hình quản lý thuỷ lợi hiệu quả và bền vững phục vụ nông

nghiệp và nông thôn, Trung tâm nghiên cứu kinh tế, Viện Khoa học Thuỷ lợi thực

hiện năm 2006-2008.

- Nghiên cứu xây dựng hệ thống các chỉ tiêu khoản mục chi phí hợp lý trong sản xuất 1m3 nước để tính giá nước lấy từ công trình thủy lợi cho các mục đích sử

dụng khác nhau, Trường Đại học Thuỷ lợi thực hiện, năm 2006-2007.

- Nghiên cứu tính giá thành 1m3 nước tưới tiêu của hệ thống thuỷ lợi sáu trạm

bơm Bắc Nam Hà, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam 2007-2008.

- Nghiên cứu những vấn đề phát sinh từ chính sách miễn, giảm thuỷ lợi phí,

Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, thực hiện năm

2008-2009.

Tuy vậy, những nghiên cứu này chủ yếu tiến hành vào trong giai đoạn nhà

nước đang thực hiện thu thuỷ lợi phí hoặc chính sách miễn thuỷ lợi phí đang được

thực hiện ở giai đoạn đầu chưa thực sự hoàn thiện, nên chưa thể hiện được nhiều và

toàn diện. Mặc dù vậy, các tài liệu này sẽ là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị để

học viên tiến hành nghiên cứu này.

II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI

1. Mục đích:

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn chính sách thuỷ lợi phí, luận văn sẽ

7

kiến nghị, luận chứng những giải pháp bảo đảm hiệu quả của chính sách thuỷ lợi

phí, nhằm góp phần nghiên cứu đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động

của công tác quản lý, khai thác công trình thủy lợi trong thời gian tới. Để đạt được

mục đích này, luận văn có nhiệm vụ sau:

- Nghiên cứu cơ sở lý luận, quá trình hình thành và thực thi chính sách thuỷ lợi

phí ở Việt Nam.

- Phân tích, xác định những mặt được, những mặt còn hạn chế và tác động chủ

yếu của chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong sản xuất nông nghiệp đối với hoạt

động quản lý, khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi.

- Kiến nghị đề xuất một số giải pháp, góp phần nâng cao hiệu quả khai thác

các hệ thống công trình thuỷ lợi hiện có.

2. Phạm vi nghiên cứu:

Phạm vi nghiên cứu: Đánh giá tổng thể trên phạm vi cả nước, có tập trung

nghiên cứu điển hình tại 1 tỉnh.

Do thuỷ lợi phí là chính sách nhạy cảm, có tác động đến nhiều đối tượng dùng

nước, phạm vi của luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu, đánh giá các tác động của

thuỷ lợi phí trong tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp, trên cơ sở hoạt động của

các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi.

III. CÁCH TIẾP CẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu đã nêu trên, cách tiếp cận và

phương pháp nghiên cứu trong luận văn được sử dụng như sau:

- Cách tiếp cận: được vận dụng theo phương pháp từ dưới lên, từ đối tượng

hưởng lợi; tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, tổ chức hợp tác dùng nước;

cơ quan nghiên cứu; cơ quan quản lý nhà nước về quản lý, khai thác công trình thuỷ

lợi.

- Phương pháp nghiên cứu:

+ Phương pháp khảo sát từ thực tế quản lý, khai thác ở một số hệ thống công

trình thuỷ lợi;

+ Áp dụng triệt để nguyên tắc tiếp cận từ dưới lên;

8

+ Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá;

+ Phương pháp chuyên gia.

IV. CÁC KẾT QUẢ DỰ KIẾN ĐẠT ĐƯỢC

- Cơ sở lý luận quá trình hình thành và thực thi chính sách thuỷ lợi phí;

- Những tác động chủ yếu của chính sách thuỷ lợi phí trong sản xuất nông

nghiệp tới hoạt động quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi;

- Đề xuất định hướng chính sách thuỷ lợi phí phù hợp đối với sản xuất nông

nghiệp.

Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và áp dụng

trong việc nghiên cứu, sửa đổi bổ sung chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí và các

chính sách về tài chính trong quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.

V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

Từ các vấn đề đã được trình bày ở trên sẽ hình thành nội dung nghiên cứu.

Những nội dung này được thể hiện trong bố cục của luận văn như sau:

9

Chương 1:

THỰC TRẠNG THUỶ LỢI Ở VIỆT NAM

1.1. Tổng quan thực trạng về các hệ thống thuỷ lợi.

Ngành thuỷ lợi giữ một vị trí quan trọng đối với phát triển sản xuất nông

nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Vì vậy, nhân dân ta có

truyền thống và bề dày lịch sử làm thuỷ lợi, xây dựng hệ thống đê điều và mạng lưới

kênh rạch “dẫn thuỷ nhập điền” rộng khắp, nhằm khai thác mặt lợi và hạn chế mặt

hại của nước.

Từ khi giành độc lập, đặc biệt kể từ giai đoạn đất nước thống nhất đến nay,

Nhà nước và nhân dân ta đã đặc biệt quan tâm đến công tác thuỷ lợi. Kết quả đầu tư

thuỷ lợi không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế, mà còn mang ý nghĩa chính trị, xã hội

sâu sắc. Trong phát triển nông nghiệp, thuỷ lợi là biện pháp hàng đầu, nhờ được đầu

tư thuỷ lợi rộng khắp trên mọi vùng đất nước, đã tạo điều kiện đưa khoa học kỹ

thuật trong nông nghiệp, nhất là về giống, về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ.

Trước đây, nhiều khu vực ở miền núi, Trung bộ, Tây nguyên, Đông Nam bộ hầu hết

dựa vào nước "trời" thì nay phần lớn diện tích gieo trồng lúa, và một phần diện tích

cây trồng cạn đã được tưới nước bằng công trình thuỷ lợi.

Trong quá trình phát triển nông nghiệp nói riêng và kinh tế xã hội nói chung,

công tác thuỷ lợi luôn có vị trí quan trọng và nhận được sự quan tâm đầu tư của Nhà

nước cùng với sự đóng góp công sức vô cùng to lớn của nhân dân. Sự nghiệp phát

triển thuỷ lợi đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần quan trọng cho sự phát

triển của mọi ngành kinh tế - xã hội, tạo điều kiện để nông nghiệp nước ta có những

bước nhảy vọt.

Nhiều thập kỷ qua, cùng với tiến trình phát triển kinh tế, xã hội, Đảng, Nhà

nước và nhân dân ta đã đầu tư xây dựng nhiều công trình, hệ thống công trình thuỷ

lợi lớn, nhỏ, hình thành nên một cơ sở vật chất hạ tầng hết sức to lớn, phục vụ đa

mục tiêu tưới tiêu cho nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, cắt lũ, giao thông, phát

10

điện, ngăn mặn giữ ngọt, du lịch..., bảo đảm cho sản xuất và đời sống dân sinh. Đặc

biệt, thuỷ lợi đã góp phần ổn định sản xuất, giữ vững và nâng cao năng suất sản

lượng cây trồng, đảm bảo an ninh lương thực, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn, đưa

nước ta từ một nước thiếu lương thực, trở thành một nước không chỉ ổn định lương

thực mà còn có dư thừa, là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu trên

thế giới.

Theo kết quả điều tra đánh giá của Cục Thuỷ lợi, đến nay (31/12/2008), trên cả

nước đã hình thành rất nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi lớn nhỏ, trong đó có 904

hệ thống thuỷ lợi vừa và lớn có diện tích phục vụ từ 200ha trở lên. Cụ thể số lượng

phân theo các loại diện tích tưới được thể hiện ở 1.1.

Bảng 1.1: Hệ thống công trình thuỷ lợi phân theo diện tích phục vụ

TT Khu vực Tổng số Phân loại theo diện tích phục vụ > 2.000 (ha) 2002.000 (ha)

1 Miền núi Bắc bộ 78 10 68

Đồng bằng trung du Bắc bộ 44 28 16 2

Bắc Trung bộ 227 23 204 3

Duyên hải Nam Trung bộ 51 21 30 4

Tây Nguyên 87 8 79 5

Đông nam Bộ 82 8 74 6

Đồng bằng sông Cửu Long 335 12 323 7

Tổng cộng 904 110 794

Trong danh mục 110 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 2.000ha trở lên

trên toàn quốc, bao gồm:

- 19 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 2.000 ÷ 3.000 ha.

- 15 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 3.000 ÷ 4000 ha.

- 9 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 4.000 ÷ 5000 ha.

- 13 hệ thống có diện tích phục vụ từ 5.000 ÷ 10000 ha.

- 43 hệ thống có diện tích phục vụ từ 10.000 ÷100.000 ha.

11

- 11 hệ thống có diện tích phục vụ lớn hơn 100.000 ha.

Tổng số có trên 5000 hồ chứa các loại, với tổng dung tích trữ nước trên 35,34 tỷ m3, gồm: 26 hồ chứa thuỷ điện có tổng dung tích trữ là 27,12 tỷ m3, 2460 hồ chứa thủy lợi có dung tích từ 200 ngàn m3 trở lên và hàng ngàn hồ nhỏ với tổng dung tích trữ khoảng 8,22 tỷ m3, phục vụ cho phát điện, cấp nước sinh hoạt, cấp nước cho các

ngành kinh tế trọng yếu và bảo đảm tưới cho 80 vạn ha đất canh tác; trên 10.000

trạm bơm điện lớn với các loại máy bơm khác nhau, có tổng công suất lắp máy phục

vụ tưới là 250 Mw, phục vụ tiêu là 300Mw.

Ngoài ra, còn có gần 5.000 cống tưới tiêu lớn các loại. Tổng số 126.000km

kênh mương các loại, trong đó có trên 1.000 km kênh trục lớn, cùng với hàng vạn

công trình trên kênh. Trên 26.000 km bờ bao ngăn lũ đầu vụ hè thu ở Đồng bằng

sông Cửu Long, khoảng 3700 km đê sông, trên 2000 km đê biển.

Các hệ thống công trình thuỷ lợi này đã cơ bản đáp ứng được những yêu cầu

thiết yếu trong sản xuất và đời sống dân sinh. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay,

việc biến đổi khí hậu và nước biển dâng đang diễn ra theo chiều hướng cực đoan và

đã có những tác động trực tiếp và rõ nét đối với nước ta đòi hỏi Chính phủ và nhân

dân ta cần có sự quan tâm nhiều hơn nữa trong công tác đầu tư và quản lý khai thác

mới có thể đáp ứng được các mục tiêu, yêu cầu ngày càng lớn hiện nay.

1.2. Tổ chức, quản lý khai thác công trình thuỷ lợi.

Để quản lý, vận hành các hệ thống công trình thuỷ lợi đã có, hiện nay cả nước

hình thành một hệ thống tổ chức quản lý thuỷ nông, khép kín gồn hai cấp bao gồm:

- Các đơn vị quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc Nhà nước.

- Các tổ chức quản lý thuỷ nông thuộc tập thể, người dân (gọi là tổ chức hợp

tác dùng nước).

Các tổ chức này độc lập hoặc phối hợp với nhau trong việc quản lý, khai thác

hệ thống công trình thuỷ lợi, đảm bảo phục vụ các hoạt động sản xuất và dân sinh

kinh tế.

1.2.1. Số lượng, loại hình các đơn vị quản lý thuỷ nông thuộc nhà nước

Theo quy định tại Điều 9, Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi:

12

“Công trình thuỷ lợi được xây dựng bằng ngân sách nhà nước hoặc có nguồn gốc từ

ngân sách nhà nước do doanh nghiệp nhà nước quản lý, khai thác và bảo vệ”.

Theo số liệu báo cáo của các địa phương trên toàn quốc, hình thức tổ chức

quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc nhà nước trên toàn quốc chủ yếu là các

doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi. Tuy nhiên, trong từng điều kiện cụ thể,

mỗi địa phương đã quy định những mô hình tổ chức khác nhau. Cụ thể ở các vùng

như sau:

1.2.1.1. Đối với các tỉnh miền núi phía Bắc:

Miền núi phía Bắc bao gồm 15 tỉnh, với những mô hình tổ chức quản lý, khai

thác công trình thủy lợi như sau:

- Các tỉnh không thành lập tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc

nhà nước gồm: Hà Giang, Lào Cai. Ở các tỉnh này, công trình thuỷ lợi đã được giao

cho cấp huyện, xã quản lý, khai thác. Tỉnh Lào Cai trước kia có thành lập một số

Trạm quản lý khai thác công trình thuỷ lợi trực thuộc huyện nhưng do không có

kinh phí hoạt động nay đã giải tán.

- Các tỉnh có thành lập doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi bao gồm:

Yên Bái, Cao Bằng, Bắc Kạn, Sơn La, Hoà Bình, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Điện

Biên, Lai Châu, Quảng Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ. Tuy vậy, mô hình ở tỉnh Bắc

Kạn chưa phù hợp.

- Các tỉnh có đơn vị sự nghiệp tham gia quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi

gồm: Tuyên Quang (Ban quản lý công trình thuỷ lợi Ngòi Là), Yên Bái (Trạm Quản

lý khai thác công trình thuỷ lợi Văn Yên, Lục Yên), Quảng Ninh (Trung tâm ở Hải

Hà, Đầm Hà).

1.2.1.2. Vùng Đồng bằng sông Hồng

Ở các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng, tổ chức quản lý, khai thác công trình

thuỷ lợi thuộc Nhà nước tương đối giống nhau. 100% các tỉnh có thành lập Công ty

Khai thác công trình thuỷ lợi (Công ty quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi liên

tỉnh, toàn tỉnh hoặc quản lý công trình thuỷ lợi liên huyện hoặc trong phạm vi

huyện). Có 2 doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi quản lý, khai thác công

13

trình thuỷ lợi liên tỉnh, trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý

(Bắc Nam Hà, Bắc Hưng Hải), 5 hệ thống công trình thuỷ lợi liên tỉnh trực thuộc

các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi thuộc các tỉnh, thành phố (Bắc

Đuống, An Kim Hải, Sông Nhuệ, Thác Huống, Sông Cầu).

Tỉnh Hà Tây (nay đã sáp nhập vào Thủ đô Hà Nội) có 10 Công ty Khai thác

công trình thuỷ lợi. Tuy nhiên, theo lộ trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê

duyệt, nay chỉ còn 4 công ty là Công ty Khai thác công trình thuỷ lợi Sông Nhuệ,

Sông Đáy, Sông Tích và Mê Linh. Như vậy, Thành phố Hà Nội (mới) hiện nay có 5

công ty khai thác công trình thuỷ lợi. Tỉnh Hải Dương còn có Xí nghiệp Khai thác

công trình thuỷ lợi Thành phố Hải Dương trực thuộc Công ty TNHH MTV quản lý

công trình đô thị Hải Dương.

Trong 11 tỉnh, thành phố thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng có 3 tỉnh, thành

phố thành lập công ty với quy mô toàn tỉnh (Ninh Bình, Hải Dương, Hưng Yên –

trên cơ sở sáp nhập các công ty khai thác công trình thuỷ lợi huyện trước kia), các

tỉnh còn lại thành lập công ty khai thác công trình thuỷ lợi quy mô liên huyện hoặc

quy mô huyện để quản lý các hệ thống công trình thuỷ lợi có tính chất tương tự.

1.2.1.3. Vùng Bắc Trung bộ

Đây là vùng có mô hình tổ chức khá tương đồng với vùng Đồng bằng sông

Hồng. Vùng Bắc Trung bộ có 6 tỉnh, thì 100% các tỉnh có thành lập doanh nghiệp

khai thác công trình thuỷ lợi. Có 3 tỉnh thành lập công ty khai thác công trình thuỷ

lợi có quy mô toàn tỉnh (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế). Các tỉnh còn lại

(Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh) thành lập mô hình công ty khai thác công trình

thuỷ lợi có quy mô liên huyện hoặc quy mô huyện.

Hiện nay, một số huyện ở Nghệ An, Hà Tĩnh và các tỉnh trong vùng này còn có

nơi giao công trình vừa và nhỏ cho huyện hoặc xã trực tiếp quản lý.

1.2.1.4. Vùng Duyên hải Nam Trung bộ

Vùng này bao gồm gồm 6 tỉnh, mô hình quản lý, khai thác công trình thủy lợi

tương đối giống nhau. Ngoại trừ tỉnh Khánh Hoà thành lập hai Công ty khai thác

công trình thuỷ lợi theo quy mô liên huyện (Bắc Khánh Hoà và Nam Khánh Hoà),

14

các tỉnh trong vùng đều thành lập công ty có quy mô toàn tỉnh, hoạt động khá hiệu

quả. Một số huyện miền núi, công trình thuỷ lợi nhỏ được giao cho huyện hoặc Uỷ

ban nhân dân các xã tự tổ chức mô hình quản lý, khai thác.

1.2.1.5. Các tỉnh Tây Nguyên

Tây Nguyên có 5 tỉnh thì có 4 tỉnh có mô hình tổ chức quản lý, khai thác công

trình thuỷ lợi có quy mô toàn tỉnh. Riêng tỉnh Đắc Nông không có mô hình doanh

nghiệp quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Chỉ có một Trạm Quản lý khai thác

công trình thuỷ lợi Đắc Mil (thuộc Huyện), quản lý hệ thống công trình thuỷ lợi Đăc

Mil tưới chủ yếu cho cây cà phê và một ít diện tích trồng lúa.

Tỉnh Lâm Đồng có công ty khai thác công trình thuỷ lợi có quy mô toàn tỉnh,

nhưng công ty này đã giải tán và sáp nhập với Ban Quản lý khai thác công trình thuỷ

lợi Thành phố Đà Lạt thành Trung tâm quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi Lâm

Đồng, hoạt động như một đơn vị sự nghiệp có thu.

Cũng giống như các nơi khác, các công trình thủy lợi nhỏ trong khu vực được

giao cho Uỷ ban nhân dân các huyện, xã trong vùng tổ chức các loại hình để quản

lý, khai thác.

1.2.1.6. Các tỉnh Đông Nam bộ

Mô hình quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi khu vực Đông Nam Bộ khá đa

dạng. Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu không thành lập công ty quản lý khai thác công trình

thuỷ lợi, Chi cục Quản lý thuỷ nông trực tiếp tham gia quản lý, khai thác công trình

thuỷ lợi. Tỉnh Bình Dương có Xí nghiệp quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi trực

thuộc Công ty cấp thoát nước và môi trường Bình Dương. Các tỉnh còn lại đều

thành lập công ty khai thác công trình thuỷ lợi có quy mô toàn tỉnh như Thành phố

Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Phước, Tây Ninh, Ninh Thuận, Bình Thuận hoạt

động khá hiệu quả.

Khu vực này còn có Công ty TNHH Một thành viên Khai thác Thuỷ lợi Dầu

Tiếng – Phước Hoà, quản lý, khai thác Hồ Dầu Tiếng, sắp tới thêm hồ Phước Hoà

phục vụ tưới, cấp nước, xả ngọt đẩy mặn và phòng lũ cho các tỉnh, thành phố: Tây

Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Long An và Bình Phước trực thuộc

15

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

1.2.1.7. Các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long

Thực tế cho thấy, mô hình quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi vùng Đồng

bằng sông Cửu Long thể hiện sự đa dạng và có nhiều sự biến đổi nhất so với các

vùng khác trong toàn quốc. Toàn vùng có 13 tỉnh, thành phố thì hiện nay chỉ có 5

tỉnh thành lập công ty có quy mô toàn tỉnh gồm Tiền Giang, An Giang, Trà Vinh,

Bến Tre và Sóc Trăng, trong đó Sóc Trăng là mô hình công ty cổ phần, hoạt động

chủ yếu là các dịch vụ xây lắp, được Uỷ ban nhân dân tỉnh giao nhiệm vụ quản lý,

khai thác công trình thuỷ lợi trong toàn tỉnh (chủ yếu là cống, bọng, kênh mương).

Một số tỉnh trước kia cũng thành lập công ty khai thác công trình thuỷ lợi như

Đồng Tháp, Vĩnh Long, Bạc Liêu, Cần Thơ nhưng hiện nay đã được giải tán hoặc

chuyển đổi để thành lập trung tâm quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi trực thuộc

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc giao về các huyện thành lập các trạm

quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi chịu sự quản lý về chuyên môn của Chi cục

như Cần Thơ, Vĩnh Long.

Một số tỉnh thành các trạm quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc các

huyện như Hậu Giang, Cà Mau, Kiên Giang. Tỉnh Long An, trước đây Chi cục Thủy

lợi trực tiếp quản lý, khai thác các công trình thuỷ lợi, kể cả hệ thống thuỷ lợi liên

tỉnh như cống Bắc Đông, Rạch Chanh. Đến năm 2010, tỉnh Long An đã thành lập

Trung tâm quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn.

Ở tỉnh Đồng Tháp, ngoài Chi cục Thủy lợi làm chức năng quản lý nhà nước,

trực tiếp quản lý, vận hành công trình thuỷ lợi do tỉnh quản lý khai thác thì Công ty

Cổ phần Vinaconex 27 cũng tham gia quản lý một số trạm bơm, hoạt động dịch vụ,

Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các huyện quản lý, khai thác công trình

thuỷ lợi do huyện quản lý, khai thác. Các công trình nhỏ, lẻ giao các tổ chức của

người dân trực tiếp quản lý, khai thác.

Tổng hợp số liệu về mô hình tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi

toàn quốc như bảng 1.2.

16

Bảng 1.2: Tổng hợp tổ chức khai thác công trình thuỷ lợi thuộc nhà nước

Số lượng công ty, đơn vị sự

nghiệp QLKCTTL Tên vùng

Thứ tự

Tỉnh/liên tỉnh Huyện, liên huyện Đơn vị sự nghệp

1 Miền núi phía Bắc (25/15 tỉnh) 8 13 4

2 Đồng bằng sông Hồng (35/11 tỉnh) 5 30 0

3 Bắc Trung bộ (21/6 tỉnh) 3 18 0

4 Duyên hải miền Trung (7/6 tỉnh) 5 2 0

5 Tây Nguyên (5 tỉnh) 4 0 1

6 Đông Nam Bộ (8/8 tỉnh) 8 0 0

5 0 2 7 Đồng bằng sông Cửu Long (7/13 tỉnh)

7 Tổng: 38 63

Bảng tổng hợp này không bao gồm các Chi cục thuỷ lợi vừa thực hiện chức

năng quản lý nhà nước, vừa tham gia quản lý khai thác như Bà Rịa Vũng Tàu, Kiên

Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Cà Mau, Bà Rịa Vũng Tàu.

1.2.2. Về loại hình hoạt động của doanh nghiệp:

Phân theo phạm vi phục vụ của các doanh nghiệp, hiện nay có các loại hình

chủ yếu sau:

1.2.2.1. Công ty khai thác công trình thuỷ lợi quản lý, vận hành các hệ thống

công trình thuỷ lợi lớn, kỹ thuật phức tạp, kênh trục chính phục vụ tưới tiêu, cấp

17

nước có tính chất liên tỉnh (gọi tắt là công ty liên tỉnh). Các công ty này do Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn trực tiếp quản lý (như Bắc Nam Hà, Bắc Hưng Hải,

Dầu Tiếng) hoặc do địa phương có diện tích hưởng lợi lớn quản lý như Sông Nhuệ,

Bắc Đuống.

1.2.2.2. Công ty khai thác công trình thuỷ lợi quản lý, vận hành các hệ thống

thủy lợi, kênh trục chính, kênh nhánh các cấp lớn phục vụ tưới tiêu, cấp nước trong

phạm vi toàn tỉnh hoặc có tính chất liên huyện, như công ty của tỉnh Hoà Bình, Lai

Châu, Lạng Sơn, Hải Dương, Thái Nguyên, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng

Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Ninh Thuận, Bình Thuận, Tiền Giang, Trà Vinh.

1.2.2.3. Các công ty khai thác công trình thuỷ lợi quản lý, vận hành các hệ

thống công trình thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu, cấp nước trong phạm vi huyện hoặc liên

huyện như các công ty của tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định, Thái

Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Khánh Hoà.

Phương thức hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay được thực hiện theo

quy định của Nghị định số 31/2005/NĐ-CP ngày 11/3/2005 của Chính phủ về sản

xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích và theo quy định khác của pháp luật

hướng dẫn phương thức này. Thực hiện Luật Doanh nghiệp năm 2005, đến nay, hầu

hết các đơn vị chuyển đổi từ loại hình công ty nhà nước hoạt động công ích trong

quản lý khai thác công trình thuỷ lợi sang loại hình Công ty TNHH một thành viên.

Bên cạnh đó, một số nơi có hình thức công ty cổ phần tham gia/được giao

nhiệm vụ quản lý khai thác công trình thuỷ lợi như: Công ty Cổ phần Khai thác

công trình thuỷ lợi Sơn La; Công ty CP Khai thác thuỷ lợi Kon Tum; Công ty Cổ

phần dịch vụ Thuỷ lợi Vĩnh Long (hiện đã không còn tham gia quản lý thuỷ nông);

Công ty Cổ phần Thuỷ lợi Sóc Trăng. Tuy nhiên việc thực hiện cổ phần ở các công

ty này chưa đúng bản chất của vấn đề cổ phần hoá nên hoạt động còn nhiều khó

khăn. Tỉnh Sơn La đang đề xuất chuyển đổi công ty này sang loại hình công ty trách

nhiệm hữu hạn một thành viên, 100% vốn thuộc sở hữu nhà nước.

Đến nay, hầu hết, các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi đã được

chuyển đổi thành Công ty TNHH một thành viên theo đúng lộ trình quy định của

18

Luật Doanh nghiệp năm 2005.

1.2.3. Loại hình các đơn vị quản lý thuỷ nông cơ sở

Bên cạnh các doanh nghiệp, tổ chức quản lý khai thác công trình thuỷ lợi thuộc

nhà nước, còn có các tổ chức của tập thể, cá nhân cùng tham gia. Theo báo cáo tổng

hợp, cả nước có khoảng trên 12.000 tổ chức làm dịch vụ thuỷ nông gồm:

- Hợp tác xã nông nghiệp làm dịch vụ thuỷ lợi hoặc chuyên khâu

- Tổ hợp tác dùng nước:

- Hội dùng nước:

- Ban quản lý thủy nông xã (hoặc liên xã):

- Ban tự quản dùng nước thôn bản.

1.3. Một số tồn tại, thách thức của công tác thuỷ lợi hiện nay.

1.3.1. Một số tồn tại của công tác thuỷ lợi

Mặc dù đã phát huy và đạt được nhiều thành tựu trong việc phục vụ sản xuất

và đời sống dân sinh, tuy nhiên công tác thuỷ lợi còn bộc lộ nhiều tồn tại, yếu kém.

Những tồn tại yếu kém trong công tác thuỷ lợi phục vụ sản xuất và đời sống dân

sinh, biểu hiện qua các nội dung sau đây:

Thứ nhất là, các hệ thống công trình phát huy hiệu quả còn ở mức thấp, bình

quân chỉ đạt 70% năng lực thiết kế do nhiều nguyên nhân, như việc chuyển đổi cơ

cấu sản xuất, tốc độ công nghiệp hoá, đô thị hoá, dẫn đến diện tích, mục tiêu phục

vụ không còn như thiết kế ban đầu, hiệu suất sử dụng công trình theo thiết kế thấp.

Thứ hai là, hầu hết diện tích được bảo đảm chủ động tưới, tiêu còn thấp hoặc

tưới tiêu không chắc chắn. Theo chỉ tiêu thiết kế, công trình tưới bảo đảm ở mức

p=75% (đến nay đã có nhiều hệ thống đạt 85%), tiêu ở mức 10%, song trên thực tế

nhiều vùng diện tích còn bị hạn, bị úng ngay cả khi thời tiết, khí hậu chưa nghiêm

trọng như tính toán thiết kế ban đầu. Diện tích không chủ động tiêu tập trung ở các

vùng tiêu bằng trọng lực hoặc nội đồng. Vấn đề tiêu thoát nước nội đồng ở nhiều hệ

thống rất phức tạp.

Thứ ba là, nhiều công trình bị xuống cấp nhanh do một thời gian dài không

được duy tu bảo dưỡng đầy đủ, kịp thời; nhiều công trình có hệ số an toàn theo quy

19

phạm trước đây còn thấp, có thể gây nguy hiểm khi gặp lũ. Nhiều hệ thống kênh dẫn

chất lượng kém và tình trạng quản lý nước trên kênh tưới không chặt chẽ, dẫn đến

phần đầu kênh thì thừa nước, cuối kênh thiếu nước;

Thứ bốn là, tại các hệ thống thuỷ lợi lớn, diện tích phải bơm tưới, bơm tiêu hỗ

trợ chiếm tỷ lệ khá cao, đặc biệt là những vùng cuối nguồn; tình trạng lãng phí nước

tưới còn phổ biến; mức tiêu hao nhiên liệu, năng lượng lớn; cho phí cho tưới cao;

Thứ năm là, vấn đề ô nhiễm nước trong hệ thống công trình thuỷ lợi do nước

thải, rác thải xả bừa bãi vào hệ thống kênh xảy ra phổ biến; tình trạng vi phạm, xâm

hại, lấn chiếm công trình và phạm vi bảo vệ công trình thuỷ lợi xảy ra ở hầu hết các

hệ thống thuỷ lợi chưa được ngăn chặn kịp thời, đặc biệt là ở hệ thống kênh chuyển

nước.

Nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém trong công tác thuỷ lợi có nhiều,

nhưng tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau:

Một là, công trình thuỷ lợi thường có giá trị lớn, nằm trên địa bàn rộng nên

công tác quản lý và hiệu quả của các công trình thuỷ lợi chịu tác động của nhiều yếu

tố khách quan, như điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội từng vùng, lũ lụt,

hạn hán và các thiên tai khác. Thời tiết, khí hậu diễn biến bất thường có xu hướng

ngày càng bất lợi, vấn đề biến đổi khí hậu và nước biển dâng ngày càng nghiêm

trọng, trong khi tần suất thiết kế các công trình thuỷ lợi ở nước ta còn ở mức thấp

(tưới 75%, tiêu 10%).

Hai là, quá trình thay đổi, chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất từ nông nghiệp sang

đất đô thị, công nghiệp và các mục đích khác trong các hệ thống thuỷ lợi diễn ra rất

nhanh và mạnh mẽ, dẫn đến việc điều hành hệ thống công trình thuỷ lợi rất khó

khăn, việc phát huy hiệu quả không đảm bảo như thiết kế, nhiều hệ thống thuỷ lợi

phải sửa chữa, nâng cấp mới đáp ứng yêu cầu thực tế.

Ba là, rất nhiều công trình thuỷ lợi được đầu tư xây dựng trong điều kiện nền

kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn, suất đầu tư còn thấp, do vậy khi thiết kế thường

có diện tích thiên lớn. Nhiều hệ thống thuỷ lợi công trình được xây dựng thiếu kiên

cố, công nghệ xây dựng lạc hậu, chưa được đầu tư đồng bộ từ đầu mối đến mặt

20

ruộng, nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi thiếu trang thiết bị cho công tác quản lý,

vận hành. Việc đầu tư phát triển thuỷ lợi chưa phù hợp, nặng về xây dựng các công

trình mới, nhẹ về củng cố, khôi phục, nâng cấp sửa chữa các công trình đã có. Nhiều

công trình thuỷ lợi hiện nay đã bị xuống cấp, thiếu kinh phí để sửa chữa công trình

hoặc nâng cấp công trình cho phù hợp với mục tiêu nhiệm vụ mới. Bên cạnh đó, đầu

tư cho công tác quản lý còn chưa được coi trọng, do vậy không phát huy hết hiệu

quả của hệ thống.

Bốn là, yêu cầu cấp nước ngày càng cao để đáp ứng với việc ứng dụng các tiến

bộ kỹ thuật trong nông nghiệp; trong khi đó quy hoạch thuỷ lợi tổng thể phục vụ cho

đa ngành, đa mục tiêu chưa đáp ứng yêu cầu; chưa tính toán đầy đủ yêu cầu cấp

nước phục vụ sinh hoạt nông thôn, nước cho sản xuất công nghiệp, các làng nghề,

nước cho nuôi trồng thuỷ sản. Do vậy, có nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi không

đáp ứng được yêu cầu sản xuất thực tế.

Năm là, việc thực thi Pháp lệnh Khai thác và Bảo vệ công trình thuỷ lợi và

các cơ chế chính sách trong quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi ở nhiều địa

phương chưa tốt. Nhiều văn bản pháp quy được ban hành nhưng khó đi vào cuộc

sống, dẫn đến việc vi phạm diễn ra phổ biến, đặc biệt là vi phạm hành lang bảo vệ

công trình thuỷ lợi, hành vi xả thải vào công trình thuỷ lợi.

Sáu là, nguồn nhân lực phát triển chưa tương xứng với yêu cầu hiện tại. Năng

lực và trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân khai thác công trình thuỷ

lợi chưa đáp ứng được với yêu cầu về công nghiệp hoá và hiện đại hoá quản lý khai

thác công trình thuỷ lợi. Phân bố nhân lực ngành giữa các vùng, miền chưa cân đối,

nhiều nơi rất thiếu cán bộ thuỷ lợi, đặc biệt là các tỉnh vùng trung du, miền núi.

Bảy là, tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi ở nhiều địa phương còn

chưa đồng bộ, khép kín, kể cả hệ thống tổ chức quản lý nhà nước và quản lý khai

thác. Chưa có tổ chức thanh tra chuyên ngành, chế tài xử phạt các hành vi xâm hại

công trình thuỷ lợi còn chưa đủ mạnh. Năng suất lao động chưa cao, thu nhập thấp,

đời sống của cán bộ, công nhân khó khăn và không thu hút được cán bộ kỹ thuật có

năng lực về làm việc cho đơn vị. Nhiều tổ chức quản lý, khai thác công trình thủy

21

lợi còn tính ỷ lại, thiếu năng động. Tổ chức quản lý thuỷ nông ở cơ sở còn chưa

được quan tâm đúng mức, chưa phát huy được vai trò của cộng đồng tham gia trong

công tác quản lý khai thác công trình thuỷ lợi.

1.3.2. Một số thách thức trong công tác thuỷ lợi sắp tới

Đất nước ngày càng ổn định và phát triển, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là

thời cơ thuận lợi để thuỷ lợi có điều kiện phát triển đi lên. Tuy vậy, bên cạnh những

thời cơ, thuận lợi trong công tác thủy lợi hiện nay cũng đang đứng trước những

thách thức rất lớn, đó là:

Thứ nhất là, nguồn nước ở nước ta phân bố không đều cả theo không gian và

thời gian, hệ thống sông lớn chủ yếu bắt nguồn từ nước ngoài, rất lệ thuộc vào khả

năng khai thác, sử dụng nước của quốc gia ở phía thượng lưu; trong khi đó, nước ta

nằm ở vùng hạ lưu, không chủ động được nguồn nước.

Thứ hai là, xu thế biến đổi khí hậu toàn cầu, nhiệt độ trái đất nóng lên, nước

biển dâng cao làm cho thiên tai trên phạm vi toàn cầu xảy ra nhiều hơn, phức tạp

hơn, cường độ tăng mạnh hơn, cực đoan hơn và khả năng tác động không thể lường

hết. Việt Nam được cảnh báo là 1 trong 5 quốc gia sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất.

Do biến đổi khí hậu toàn cầu, hiện tượng Elnino, Lanina thường xuyên xuất hiện,

gây lũ lụt, hạn hán liên tiếp. Tình trạng xâm nhập mặn, khan hiếm nước ngọt đã xuất

hiện ngày càng nghiêm trọng.

Thứ ba là, tình trạng ô nhiễm nguồn nước trong các hệ thống công trình thuỷ

lợi ngày càng gia tăng, do nước thải từ các khu công nghiệp được phát triển nhanh,

những làng nghề, khu đô thị tập trung nhiều nơi đã xả trực tiếp nước vào các hệ

thống công trình thuỷ lợi không qua xử lý.

Thứ bốn là, nhu cầu nước cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, nuôi trồng

thuỷ sản, cấp nước dân sinh, đô thị, du lịch, dịch vụ, môi trường và các yêu cầu

dùng nước khác đang tăng cao. Các đối tượng sử dụng nước ngày càng đa dạng, với

yêu cầu chất lượng dịch vụ cao hơn, trong khi nguồn nước đang ngày càng khan

hiếm, cạn kiệt và có nguy cơ bị ô nhiễm. Theo dự báo của Ngân hàng Phát triển

châu Á, đối với Việt Nam, cần phải yêu cầu bảo đảm an ninh lương thực cho dân số

22

trên 100 triệu người đến năm 2020 và 130 triệu người đến năm 2050, trong khi diện

tích lúa ngày càng giảm, đòi hỏi chất lượng, mức bảo đảm tưới tiêu phải được nâng

cao hơn nữa.

Thứ năm là, mâu thuẫn về lợi ích kinh tế trong quá trình quản lý, vận hành,

điều tiết nguồn nước ở các công trình thuỷ lợi đầu nguồn, giữa việc phục vụ cho

tưới tiêu và phát điện hoặc giữa việc nuôi trồng thuỷ sản hay trồng lúa cũng là một

thách thức trong công tác thuỷ lợi trong thời gian tới.

Trong nhiều thập kỷ qua, Nhà nước và nhân dân ta đã đầu tư, hình thành một

hệ thống cơ sở hạ tầng thuỷ lợi hết sức to lớn, cơ bản đáp ứng những yêu cầu bức

thiết của sản xuất và đời sống dân sinh. Để quản lý, vận hành các hệ thống thuỷ lợi

này, chúng ta cũng đã hình thành một hệ thống tổ chức để thực hiện nhiệm vụ quản

lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Các công trình thuỷ lợi đã phát huy được vai trò

của mình, tuy nhiên trong thực tế vẫn còn nhiều tồn tại. Công tác thuỷ lợi cũng đứng

trước nhiều khó khăn, thách thức trước mắt đòi hỏi các cơ quan chức năng phải có

các giải pháp cần thiết để biến những khó khăn, thách thức thành cơ hội để phát

triển ngành thuỷ lợi, đáp ứng với yêu cầu phát triển dân sinh, kinh tế xã hội của đất

nước.

Với mục tiêu quản lý, khai thác công trình hiệu quả, đảm bảo an toàn thì việc

ban hành những cơ chế, chính sách, đặc biệt là chính sách về tài chính, mà thuỷ lợi

phí là một trong những chính sách đó, nhằm đáp ứng được yêu cầu tổng thể, phù

hợp với sự phát triển của nền kinh tế, đáp ứng lòng mong mỏi của người dân nhưng

phải theo hướng khai thác, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm và bền vững nguồn tài

nguyên là yêu cầu đặc biệt cần thiết.

23

Chương 2:

CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ SỰ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH THUỶ LỢI PHÍ

2.1. Cơ sở khoa học và sự cần thiết của chính sách thuỷ lợi phí.

2.1.1. Khái niệm thuỷ lợi phí:

Thuỷ lợi phí hay định giá nước tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp nói

chung là mô tả việc định giá của dịch vụ cung cấp nước cho các tổ chức, cá nhân

sản xuất nông nghiệp. Đối với việc áp dụng cho tưới tiêu (thuỷ lợi phí), giá nước

nhìn chung được nhìn nhận qua hai loại hàng hoá kinh tế: 1) dịch vụ cung cấp nước

(thời lượng, phân phối và chất lượng của dịch vụ); và 2) nước được phân phối,

thường được xác định bởi khối lượng, nhưng đôi khi cũng đề cập đến vấn đề chất

lượng.

Liên quan đến vấn đề này, chúng ta hãy tìm hiểu, làm rõ thêm vấn đề tại sao

các chính sách không đề cập thuỷ lợi phí là giá, thuế, chi phí, hay lệ phí chi trả cho

dịch vụ về nước đối với sản xuất nông nghiệp mà gọi là phí – thuỷ lợi phí.

Thứ nhất, khái niệm giá, trong đó, chỉ đề cập khái niệm giá thành và giá bán.

Giá thành sản phẩm là toàn bộ chi phí bằng tiền để sản xuất ra một đơn vị sản

phẩm. Như vậy, khái niệm giá thành sản phẩm và chi phí trực tiếp liên quan mật

thiết với nhau, thể hiện những chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất một

24

đơn vị sản phẩm.

Giá bán được hiểu là số tiền người mua phải trả cho người bán để có/nhận

được sản phẩm hoặc dịch vụ mà người mua mong muốn có. Giá bán chính là thước

đo trao đổi của một hàng hoá cho một hàng hoá khác, được tính bằng tiền. Trong cơ

chế thị trường, giá bán được xác định dựa trên những nguyên tắc mà ở đó cho phép

giá có thể tự do dịch chuyển nhằm đáp ứng cầu của một loại hàng hoá nhất định.

Nếu cung vượt cầu thì giá giảm và ngược lại.

Thứ hai, thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có

nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp

luật do Nhà nước ban hành. Đây là một khoản thu chủ yếu của ngân sách mang tính

chất nghĩa vụ bắt buộc. Thuế không được hoàn trả trực tiếp, ngang giá cho người

nộp thuế. Một phần số thuế đã nộp cho ngân sách Nhà nước trả về cho người dân

một cách gián tiếp dưới những hình thức đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng về giáo

dục, y tế, phúc lợi công cộng, an ninh quốc phòng và xây dựng cơ sở hạ tầng như

đường xá, cầu cống, đê điều.

Thứ ba, khái niệm chi phí được hiểu là tổng nguồn lực (thường được qui ra

tiền) để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó. Sự tiết kiệm hay lãng

phí chi phí sản xuất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm và hiệu quả kinh

doanh của doanh nghiệp. Chi phí bao gồm chi phí biến đổi, là những chi phí thay

đổi cùng với sự thay đổi của sản lượng; và chi phí cố định là những chi phí không

thay đổi khi sản lượng thay đổi.

Thứ tư, lệ phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan

nhà nước hoặc tổ chức được ủy quyền phục vụ công việc quản lý Nhà nước được

qui định trong danh mục lệ phí ban hành kèm theo Pháp lệnh Phí và lệ phí. Lệ phí là

khoản thu vừa mang tính chất phục vụ cho đối tượng nộp lệ phí về việc thực hiện

một số thủ tục hành chính vừa mang tính chất động viên sự đóng góp cho ngân sách

Nhà nước.

Thứ năm, phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức,

cá nhân khác cung cấp dịch vụ được qui định trong Danh mục phí ban hành kèm

25

theo Pháp lệnh Phí và lệ phí. Phí là khoản thu mang tính chất bù đắp chi phí thường

xuyên hoặc bất thường như phí về xây dựng, bảo dưỡng, duy tu của Nhà nước đối

với những hoạt động phục vụ người nộp phí.

Như vậy, xét theo tiêu chí các khái niệm trên, thì định giá nước đối với nông

nghiệp, không thể theo giá thị trường, hoặc lấy tổng chi phí làm ra sản phẩm/dịch vụ

để quy định mức thu đối với những người sản xuất nông nghiệp, vì họ sẽ không thể

chịu đựng nổi. Tuy vậy, ở một số trường hợp vẫn có thể gọi là giá dịch vụ thuỷ lợi

đối với sản xuất nông nghiệp hoặc giá nước đối với sản xuất nông nghiệp. Tất nhiên,

không thể gọi là thuế nước vì tính chất của thuế khác hẳn với giá, chi phí và các loại

phí. Vì thuế là khoản có tính chất bắt buộc tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ nộp

cho nhà nước khi thực hiện một dịch vụ nào đó mà Nhà nước quy định phải nộp

thuế. Đương nhiên, không thể gọi chi phí này là lệ phí vì lệ phí là chi phí cho các

nội dung có tính chất hành chính.

Để thể hiện sự ưu đãi đối với sản xuất nông nghiệp và tính “khoan sức dân”,

thuỷ lợi phí chính thức được xem, định nghĩa như là một loại phí, điều đó cũng được

khẳng định trong Pháp lệnh Phí và lệ phí ngày 28/8/2001 của Uỷ ban thường vụ

Quốc Hội. Trải qua nhiều văn bản có khái niệm khác nhau, tại Pháp lệnh khai thác

và bảo vệ công trình thuỷ lợi (ngày 4/4/2001) thuỷ lợi phí đã định nghĩa như sau:

“Thuỷ lợi phí là phí dịch vụ về nước thu từ tổ chức, cá nhân sử dụng nước hoặc làm

dịch vụ từ công trình thủy lợi cho mục đích sản xuất nông nghiệp để góp phần chi phí

cho việc quản lý, duy tu, bảo dưỡng và bảo vệ công trình thuỷ lợi”. Định nghĩa đã thể

hiện rõ bản chất của thuỷ lợi phí đối với sản xuất nông nghiệp.

2.1.2. Cơ sở khoa học và sự hình thành chính sách thuỷ lợi phí ở Việt Nam.

2.1.2.1. Cơ sở khoa học

Nước là một nguồn tài nguyên vô cùng quý giá và có hạn. Không có nước sẽ

không thể duy trì sự sống hay bất kỳ một hoạt động nào khác. Ngày nay, nguồn

nước đang ngày càng có xu hướng cạn kiệt, suy thoái và ô nhiễm trầm trọng, trong

khi nhu cầu sử dụng nước cho các ngành kinh tế, sinh hoạt ngày càng tăng cao.

Bên cạnh đó, nước được xem như một loại hàng hoá, hàng hoá đặc biệt và

26

không có hàng thay thế, đặc biệt nước khi đã qua công trình thuỷ lợi thì đặc tính

nước là hàng hoá càng thể hiện rõ nét. Do vậy, mọi người cần phải có trách nhiệm

trong việc giữ gìn và bảo vệ tài nguyên nước.

Trên cơ sở đánh giá những hiệu quả thực tế của công tác thuỷ lợi mang lại cho

sản xuất đời sống xã hội và dân sinh kinh tế, chúng ta có thể nhận định rằng, những

hiệu quả này là hết sức to lớn, có hiệu quả được định lượng, có thể tính được bằng

tiền. Tuy nhiên, còn nhiều hiệu quả hết sức to lớn mà khó định lượng được hoặc quy

đổi thành tiền, như việc giảm thiểu thiệt hại do lũ, lụt ở vùng hạ du, tác dụng về dân

trí, xã hội do việc khai hoang, phục hoá, mở rộng diện tích đất canh tác, tạo nên

những vùng đất sản xuất trù phú mới, hoặc tạo ra những vùng có môi trường thiên

nhiên trong lành, tuyệt vời làm nơi du lịch sinh thái, đặc biệt ở những vùng có hồ

chứa, hoặc thay đổi bộ mặt nông nghiệp nông thôn dự trên kết quả đầu tư thuỷ lợi.

Nguyên tắc người dùng hoặc hưởng lợi đều phải trả chi phí được áp dụng đối

với bất cứ loại dịch vụ nào, trong đó có người sử dụng, hưởng lợi từ nước, kể cả sử

dụng nước cho sản xuất nông nghiệp, đều phải có nghĩa vụ tài chính đối với việc sử

dụng nước từ công trình thuỷ lợi. Vì vậy, việc đặt ra và thực hiện chính sách thuỷ lợi

phí là có cơ sở khoa học rõ ràng.

2.1.2.2. Sự cần thiết phải có chính sách thuỷ lợi phí

Như trong chương 1 đã đề cập, với hệ thống thuỷ lợi hiện có, để đáp ứng cho

yêu cầu quản lý và khai thác khép kín các công trình, hệ thống công trình này, hiện

nay, đã hình thành hai cấp quản lý như sau:

Thứ nhất, các tổ chức, đơn vị thuộc nhà nước, bao gồm: hơn 100 công ty nhà

nước, công ty TNHH một thành viên 100% vốn thuộc sở hữu nhà nước thực hiện

nhiệm vụ quản lý, khai thác các công trình đầu mối lớn, công trình có kỹ thuật phức

tạp, kênh trục chính (chưa bao gồm các doanh nghiệp, tổ chức khác thuộc nhà nước

cũng có chức năng quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi).

Thứ hai, cấp tập thể, cá nhân (gọi là tổ chức thuỷ nông cơ sở): bao gồm

khoảng 12.000 tổ chức hợp tác dùng nước (bao gồm các hợp tác xã nông nghiệp có

làm dịch vụ thuỷ lợi, hợp tác xã dùng nước, tổ hợp tác, tổ, đội, ban) làm chức năng

27

cầu nối giữa các đơn vị quản lý khai thác của nhà nước với các hộ nông dân và quản

lý, khai thác những công trình thuỷ lợi nhỏ, có quy mô phù hợp.

Muốn đảm bảo cho các hệ thống công trình thuỷ lợi nói trên vận hành an toàn,

hàng năm, yêu cầu phải có một khoản kinh phí nhất định để vận hành, duy tu, bảo

dưỡng công trình thuỷ lợi (chưa kể đến kinh phí yêu cầu để đầu tư xây dựng mới,

nâng cấp, đại tu sửa chữa công trình thuỷ lợi bị hư hỏng do sử dụng lâu ngày và do

thiên tai gây ra).

Để bù đắp một phần kinh phí yêu cầu nói trên, giảm nhẹ gánh nặng bao cấp

ngân sách nhà nước, Nhà nước đã có chủ trương thu thuỷ lợi phí từ người hưởng lợi.

Ngay từ năm 1962, Hội đồng chính phủ, nay là Chính phủ đã ban hành Nghị định số

66/CP ngày 5/6/1962 quy định điều lệ thu thuỷ lợi phí (Nghị định 66), tuy nhiên, số

thuỷ lợi phí thu được là không đáng kể.

Chính sách thuỷ lợi phí được thay đổi theo thời gian, tuỳ thuộc vào tình hình

phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Chính phủ đã ban hành chính sách thuỷ lợi

phí cho phù hợp. Năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Nghị

định số 112-HĐBT ngày 25/8/1094 về việc thu thuỷ lợi phí (Nghị định 112), thay

thế Nghị định 66. Đến năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 143/2003/NĐ-

CP ngày 28/11/2003 quy định thi hành chi tiết một số điều của Pháp lệnh Khai thác

và bảo vệ công trình thuỷ lợi, trong đó có quy định về việc thu thuỷ lợi phí (Nghị

định 143).

Năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 154/2007/NĐ-CP ngày

15/10/2007 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày

28/11/2003 quy định thi hành chi tiết một số điều của Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ

công trình thuỷ lợi, trong đó quy định miễn thu thuỷ lợi phí (Nghị định 154). Đến

năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 115/2008/NĐ-CP ngày 14/11/2008 sửa

đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 quy

định thi hành chi tiết một số điều của Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ

lợi (Nghị định 115), thay thế Nghị định 154 nói trên.

Như vậy, tính đến nay, chúng ta đã có 05 văn bản cấp Chính phủ quy định về

28

chính sách thuỷ lợi phí, trong đó có 2 văn bản (Nghị định 66 và Nghị định 112 là có

hiệu lực thi hành lâu nhất, tương ứng là 22 và 19 năm.

Để giải được bài toán về chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí, nếu không có sự

tính toán, cấp bù đúng mức, đáp ứng chi phí trong quản lý, duy tu, sửa chữa thì các

công trình thuỷ lợi sẽ bị xuống cấp, đe doạ đến an toàn công trình, thậm chí đến

ninh lương thực, an toàn xã hội. Do vậy, sự lựa chọn về chính sách thuỷ lợi phí có

một ý nghĩa kinh tế - chính trị - xã hội hết sức to lớn.

2.1.3. Một số phương pháp xác định mức thuỷ lợi phí

Hiện nay, có 3 phương pháp chủ yếu thường được sử dụng để định giá nước:

(1) giá nước theo diện tích; (2) giá theo khối lượng sử dụng và (3) giá cân bằng thị

trường. Thực tế, phương pháp đầu tiên hay được sử dụng để thực hiện quy định mức

thuỷ lợi phí. Ngoài ra, ở một số nước, thì việc áp dụng thu phí theo diện tích kết hợp

với tính giá theo khối lượng nước thực tế sử dụng cũng hay được áp dụng, thường

được gọi là giá nước hai thành phần: phần cứng và phần mềm.

2.1.3.1. Giá nước theo diện tích

Giá nước nước theo diện tích phục vụ là phí cố định, dựa vào diện tích được

tưới hoặc có thể được tưới. Chúng thường được tính toán bằng cách chia tổng chi

phí vận hành bảo dưỡng cho việc cung cấp nước tưới cho tổng diện tích được tưới,

mà thường được xác định theo nguyên tắc giá trung bình. Việc xác định chi phí vận

hành và bảo dưỡng là rất quan trọng, bởi vì tổ chức quản lý, khai thác công trình

thuỷ lợi cung cấp nước có thể có động cơ tăng chi phí đối với người dân. Hơn nữa,

việc sử dụng diện tích được tưới rất đa dạng từ năm này qua năm khác, mùa này qua

mùa khác. Ví dụ, diện tích được tưới trong mùa mưa thường lớn hơn trong mùa khô.

Hơn nữa, diện tích vùng dự án thường lớn hơn diện tích được tưới thực tế. Bởi vậy,

các tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi cần phải ước tính được diện tích

thực tế tưới cho mỗi mùa vụ.

Điểm không thuận lợi trong việc xác định giá theo phương pháp này là, khi đã

quyết định diện tích phải chịu giá, giá nước tưới sẽ không có tác động được việc tiêu

dùng nước của người nông dân, bởi vậy, chi phí cận biên của khối lượng nước tăng

29

thêm cho một hectare bằng không. Thế nên, nhu cầu nước theo phương pháp này

thường cao hơn khi giá nước được định bằng phương pháp cấp nước theo khối

lượng, và nó cũng dẫn đến tình trạng sử dụng thừa thãi nước của những người nông

dân ở khu vực đầu kênh.

Điểm thuận lợi của phương pháp này là áp dụng đơn giản, dễ hiểu để tính toán,

dễ dàng cho người nông dân hiểu và các chi phí thực hiện thấp hơn giá theo mét

khối bởi vì nước được cung cấp mà không được đo đếm một cách rõ ràng. Mặc dù

nó không giúp cho người nông dân động cơ giảm mức sử dụng nước trên 01 ha,

nhưng phương pháp này cũng được sử dụng rộng rãi ở rất nhiều hệ thống trên thế

giới bởi tính đơn giản trong cách thực hiện. Ở Haryana (Ấn độ), nước tưới được

định giá là 2,5USD/ha, trong khi đó ở Pakistan giá từ 2÷8USD/ha, mức phí này

được đặt ra chỉ đủ bù đắp một phần chi phí vận hành và bảo dưỡng.

Việc định giá nước theo hectare sử dụng thuần tuý chỉ được áp dụng ở những

nơi không khan hiếm về nước, mùa vụ không đa dạng và ở những nơi mà việc đo

đếm nước theo mét khối rất khó khăn hoặc đắt đỏ. Dẫu sao, hệ thống định giá nước

theo diện tích ngày càng trở nên ít phổ biến, và các hệ thống định giá nước theo diện

tích sử dụng trong thời gian gần đây đã đưa ra những nét riêng biệt mới. Sự cải tiến

của việc định giá nước tưới theo diện tích bao gồm diện tích vụ (hầu như được sử

dụng có điều chỉnh), diện tích theo mùa, và giá theo diện tích kết hợp công nghệ.

Hệ thống giá theo diện tích vụ thay đổi theo hectare được tưới dựa trên các vụ

khác nhau. Sự biến đổi của giá nước theo các vụ phụ thuộc vào mục tiêu của những

người làm chính sách. Nếu họ muốn khuyến khích hiệu quả sử dụng nước, các vụ

tiêu thụ nhiều nước như lúa, sẽ phải có giá cao hơn theo hectare. Nếu sự khác nhau

về giá đủ lớn, người nông dân sẽ chuyển đổi vụ. Mặt khác, nếu Chính phủ có chính

sách thu mua lương thực với giá thập hoặc muốn khuyến khích những vụ sản xuất

vụ phục vụ thương mại, giá nước đối với vụ này sẽ được đặt thấp hơn cho những vụ

khác. Tuy nhiên, cần quan tâm trong việc trợ cấp đầu vào như nước để tăng sản

phẩm các vụ bởi vì nó thường dẫn tới vấn đề không hiệu quả và sử dụng dự thừa

nguồn tài nguyên, đặc biệt như các vụ sản xuất lúa hay mía.

30

Trong phương pháp xác định mức giá theo diện tích được tưới, phí nước

thường phản ánh sự khác nhau trong chi phí dịch vụ tưới bởi các phương pháp tưới

khác nhau. Ví dụ, hầu hết các hệ thống tưới bằng trọng lực có mức phí biến đổi thấp

hơn so với các hệ thống tưới bằng bơm điện.

Tuy nhiên, lợi thế của hệ thống tưới bằng bơm điện là việc kiểm soát nước và

việc đo đếm nước nhìn chung dễ dàng hơn hệ thống tưới bằng trọng lực. Bởi vậy,

thuỷ lợi phí theo diện tích được tưới ở các hệ thống bơm thường cao hơn ở các hệ

thống hồ chứa bởi các chi phí tưới và thu nhập thực trên một đơn vị nước nhìn

chung cao hơn.

Ở một số nước thường sử dụng phương pháp thu theo diện tích mùa. Ví dụ, giá

cao sẽ được áp dụng ở mùa khô, khi nguồn nước khan hiếm, mức giá thấp sẽ được

áp dụng ở thời điểm gió mùa hay mùa ướt, khi nguồn nước tương đối dồi dào. Nếu

mức giá đặt cao vừa phải ở mùa khô, sẽ giúp giới hạn số lượng ha được tưới.

Một phương pháp khác là đặt giá theo diện tích liên quan đến công nghệ tưới.

Cho dù không nhận được nhiều sự quan tâm, về lý thuyết, phương pháp này khuyến

khích lựa chọn công nghệ tưới mới, tiết kiệm. Ý tưởng của phương pháp này tương

tự như phí dựa theo diện tích vụ, khi nông dân sử dụng công nghệ tiết kiệm nước sẽ

trả ít hơn cho 1 ha.

Ví dụ, tưới nhỏ giọt và tưới phun cho phép kiểm soát việc sử dụng nước tốt

hơn và hiệu quả hơn so với phương pháp tưới ngập. Bởi vậy, mức giá thấp hơn cho

một ha có thể được đặt ra đối với những người nông dân sử dụng phương pháp này

nhằm khuyến khích người dân chuyển đổi.

2.1.3.2. Giá nước theo khối lượng

Với việc đặt giá nước theo khối lượng, thì giá nước sẽ được dựa vào khối

lượng nước đã được cung cấp. Nguyên tắc giá tối ưu về kinh tế yêu cầu giá phải

được thiết lập cân bằng với chi phí cận biên của việc tăng thêm 01 sản phẩm nước

và nó khuyến khích người nông dân giới hạn việc sử dụng nước của họ. Bên cạnh

đó, nó cũng dễ dàng để người dân hiểu và cảm nhận được rằng họ trả cho khối

lượng nước cung cấp cho đồng ruộng của họ. Dẫu sao, phương pháp này cũng có

31

một số tồn tại. Thứ nhất, các chi phí thực hiện có thể cao bởi yêu cầu đo đếm theo

mét khối, và họ phải sẵn sàng trong việc đọc và thông báo các chỉ số sử dụng nước.

Thứ hai, giá theo chi phí cận biên không cho phép đảm bảo chi phí thu hồi vốn trong

trường hợp các chi phí trung bình giảm (ví dụ như hệ thống kênh mương lớn). Mặt

khác, trong trường hợp các trạm bơm tưới sử dụng nước ngầm, các chi phí dự án

cận biên có thể cao hơn chi phí dự án trung bình, đặc biệt khi các chi phí cận biên

bao gồm cả chi phí người dùng cận biên. Bởi vậy, trong một số dự án nước ngầm,

giá chi phí cận biên có thể tăng thu cũng như giá nước cao liên quan tới thu nhập

của người dân. Ví dụ, có hệ thống, thuỷ lợi phí chiếm tới trên 30% của thu nhập

người dân nhưng không đủ bù đắp chi phí vận hành và bảo dưỡng bởi vì chi phí tiền

điện rất lớn và phải được trợ cấp. Hơn nữa, đối với các hệ thống trọng lực, thuỷ lợi

phí thường nhỏ hơn nhiều so với % thu nhập thực của nông trại. Để chỉ ra những

vấn đề liên quan đến tác động của thuỷ lợi phí đối với thu nhập của nông trại,

phương pháp định giá nước hai thành phần theo khối lượng sẽ được sử dụng.

Giá theo block

Giá block bao gồm thay đổi giá nước khi sử dụng nước vượt quá một ngưỡng nhất định, (ví dụ 6.000m3 cho 1ha vụ). Nếu sử dụng cao hơn, việc thu phí đối với

block tăng thêm sẽ được sử dụng. Giá cho block đầu tiên sẽ được đặt ra dựa trên cơ

sở bù đắp một phần chi phí vận hành và bảo dưỡng. Giá cho các block thứ hai và

cuối cùng được tăng lên theo tỷ lệ để bù đắp chi phí vận hành và bảo dưỡng và

tương ứng với chi phí cận biên của việc vận hành. Khối lượng của block đầu tiên

thường được cân nhắc như là khối lượng cơ bản về nhu cầu nước để hỗ trợ người

nông dân, vì vậy, phương pháp này cũng nhằm đạt tới vấn đề công bằng. Người dân

sẽ trả với mức phí thấp cho block đầu tiên nhưng giá cao hơn cho việc sử dụng tăng

thêm bất kỳ khối lượng nước nào của block đầu tiên. Phương pháp định giá này thực

hiện tương tự như việc cấp quota. Thực tế, quota là một trường hợp đặc biệt của

việc định giá nước theo block.

Nếu giá khác nhau giữa các block đủ lớn, nông dân sẽ cố gắng không sử dụng

nhiều hơn block nước đầu tiên. Sự bất tiện của phương pháp này là không dễ dàng

32

quyết định mức giá cho mỗi block hay khối lượng của mỗi block (ví dụ như mức giá thấp áp dụng cho 6.000m3 đầu tiên/ha vụ hay nhiều hơn 6.000 m3). Hơn nữa, giá trị

dường như không chắc để bù đắp chi phí vận hành bảo dưỡng, đặc biệt nếu phạm vi

của block thứ nhất lớn. Nó phù hợp để sử dụng trong trường hợp ở những nơi nước

khan hiếm, thu nhập của nông trại thấp, và giá nước cao liên quan đến thu nhập thực

của nông trại. Thuận lợi của phương pháp này là bạn có, ít nhất, ba công cụ ảnh

hưởng đến việc sử dụng nước và phục hồi chi phí: giá của block thứ nhất, thứ hai và

khối lượng mà nó bắt đầu giá của block thứ hai.

Giá hai thành phần:

Sự cải tiến thứ hai là giá hai thành phần, đây là sự kết hợp của giá nước theo

khối lượng và phí thành viên cố định (một số nơi dựa vào của diện tích khu tưới).

Đối với phương pháp giá theo block mô tả ở trên, hai mục tiêu (1) thu đủ chi phí

phục hồi và (2) giảm khối lượng nước sử dụng là thường mâu thuẫn. Thuận lợi của

giá hai thành phần này là có thể làm hài hoà các mâu thuẫn này. Phần khối lượng sử

dụng có thể dựa vào chi phí cận biên, điều này sẽ khuyến khích người dân sử dụng

tiết kiệm nước, trong khi đó, phần cố định có thể được sử dụng để bù đắp bất kỳ sự

thiếu hụt nào để đảm bảo nguồn thu nhập cố định mà không cần biết đến có bao

nhiêu nước có thể được sử dụng và cung cấp. Kể cả cho chi phí vận hành và bảo

dưỡng, có thành phần cố định mà không phụ thuộc vào khối lượng nước được cung

cấp, những chi phí cố định này phải được bù đắp khi nước không được sử dụng cho

một mùa. Sự bất lợi trong phương pháp này là nó rất khó khăn trong việc tính toán

và rất khó khăn cho người dùng nước để hiểu được.

Bên cạnh phương pháp đặt giá đã nêu, còn có phương pháp đặt giá theo sản

phẩm đầu ra. Tuy nhiên, phương pháp này ít được các nước sử dụng trong việc cung

cấp nước tưới.

2.1.3.3. Thị trường nước

Ở những quốc gia có thị trường nước, chính thức hoặc không chính thức, các

công ty hoặc cá nhân có thể trao đổi nước ở mức giá cân bằng thị trường đặc biệt mà

sẽ thay đổi theo mùa. Để vận hành hiệu quả, thị trường nước yêu cầu phải có cấu

33

trúc rõ ràng của quyền sử dụng nước, bộ quy tắc rõ ràng và toàn diện trong giao

dịch, cơ quan quản lý phân phối nước và cơ quan pháp luật để giám sát các hoạt

động thương mại và giải quyết các tranh chấp. Họ cũng yêu cầu hệ thống vận

chuyển nước hiện đại cho mọi người sử dụng. Nếu những yêu cầu này được thực

hiện, giá cân bằng thị trường sẽ được điều chỉnh dựa theo cung và cầu.

2.1.4. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về chính sách thuỷ lợi phí

2.1.4.1. Tổng quan

Đối với mỗi hệ thống tưới tiêu cụ thể, việc thiết lập mức thu thuỷ lợi phí đối

với sản xuất nông nghiệp phải dựa vào điều kiện thực tiễn của từng quốc gia, đặc

biệt là điều kiện kinh tế xã hội và mức sống của người dân để quyết định. Mức thu

thuỷ lợi phí ở các nước chỉ đề trang trải chi phí vận hành và bảo dưỡng và hầu như

vẫn chưa đủ chỉ bù đắp được khoảng 20-70% cho phí vận hành và bảo dưỡng. Hầu

hết các nước không thu hồi chi phí đầu tư, hoặc nếu có thu thì tỷ lệ thu cũng rất thấp

như Canada và Italy, kể cả các nước công nghiệp phát triển. Thực tế hiện nay, cả các

nước phát triển và đang phát triển cũng đang tính lại chính sách về phí sử dụng nước

và một số nước đã bắt đầu thu lại ít nhất một phần kinh phí đầu tư ban đầu từ người

sử dụng như Australia và Brazil.

Bên cạnh đó, việc chuyển giao quản lý vận hành cho người sử dụng cũng là

một tiếp cận trong chính sách thiết lập mức thuỷ lợi phí ở các nước. Nhiều nước

đang có xu hướng chuyển giao quản lý vận hành cho người sử dụng hay các tổ chức

phi chính phủ, đặc biệt là chuyển giao hệ thống thủy lợi cho người hưởng lợi và họ

tự thu phí sử dụng nước để đảm bảo chi phí quản lý vận hành. Madagasca là nước

điển hình tốt về công tác chuyển giao và hiện nay các nước như Ấn độ và Pakistan

và nhiều nước khác, Việt Nam cũng đang xúc tiến chương trình chuyển giao này.

Hoặc vấn đề thúc đẩy thị trường nước và quyền sử dụng nước ở các nước phát

triển cũng đang là một chương trình đang được triển khai. Các nước đang phát triển

đang chuyển sang thương mại hóa các dịch vụ về nước như Mỹ, Australia và Israel

cũng tương tự như vậy.

2.1.4.2. Kinh nghiệm về chính sách giá nước tưới/thuỷ lợi phí ở một số nước

34

trên thế giới:

Macedonia (Cornish and Perry 2003)

Thuỷ lợi phí được thu đảm bảo bù đắp đủ chi phí vận hành bảo dưỡng và chi

phí khấu hao cơ bản. Thuỷ lợi phí được thu trên diện tích, gồm 2 thành phần: cố

định và biến đổi. Trong thời gian dài, phí cố định tương đương 50% tổng chi phí

vận hành và bảo dưỡng của hệ thống (O&M) và chi phí khấu hao cơ bản cho năm

tiếp theo (khoảng 10%). Phần cố định đảm bảo nguồn thu ngay cả khi mùa mưa khi

có rất ít hoặc không có nhu cầu tưới. Phần biến đổi dựa vào diện tích được tưới cho

các vụ khác nhau với giá của mỗi vụ tương ứng với lượng nước tiêu thụ. Từ năm 1992, thuỷ lợi phí ở đây không tăng, giá khoảng 0,016EUR/m3. Phần phí cố định

khoảng 7,05EUR/ha. Tuy thuộc vào giá trị của lượng nước cần cho mỗi vụ cũng như

theo diện tích được tưới cho loại cây trồng khác nhau, thuỷ lợi phí cố định có thể lên

tới 20-70EUR/ha. Thực tế cho thấy, phần cố định là quá thấp bởi vì hầu hết các chi

phí cho tưới là cố định. Phần chi phí biến đổi dao động lớn theo mùa vụ vì đây là

vùng khí hậu bán ẩm ướt. Có tổ chức quản lý nước, thu nhập cao hơn chi phí vận

hành và bảo dưỡng là 41USD/ha nếu chi phí không bao gồm nợ cũ và chi phí khấu

hao. Nếu kể cả nợ xấu và chi phí khấu hao, thì chi phí lớn hơn thu nhập là

165USD/ha.

Bulgaria, 2001

Thuỷ lợi phí được thiết lập dựa vào phương pháp tưới, động lực hay trọng lực,

và không có một sự thống nhất trong việc thiết lập thuỷ lợi phí cho toàn quốc. Mỗi

công ty thuỷ nông và Hội người dùng nước có phương pháp tính giá khác nhau.

Thuỷ lợi phí bao gồm phí lấy nước và tiền nước sử dụng theo khối lượng. Giá trung bình khoảng 0,01$-0,085$/m3. Giá nước đối với các hệ thống công trình đầu mối

bằng động lực thường bằng gấp 2 hoặc gấp 3 lần so với các vùng tưới tiêu bằng các

hệ thống công trình trọng lực. Thuỷ lợi phí thu được thường chỉ đủ bù đắp một phần

chi phí vận hành và bảo dưỡng và trong một số trường hợp cũng đủ bù đắp một

phần chi phí vốn đầu tư.

Trung quốc (Awati County Government 2002)

35

Trước đây, cơ quan Nhà nước chịu trách nhiệm thực hiện dịch vụ tưới tiêu và

bây giờ là các doanh nghiệp tự chủ tài chính. Lương của nhân viên có liên quan trực

tiếp đến tỷ lệ thuỷ lợi phí thu được. Thông qua Hội những người dùng nước được tổ

chức ở mỗi làng xã, chương trình đào tạo cộng đồng được thực hiện. Kể từ khi đổi

mới, thuỷ lợi phí, chủ yếu dựa vào khối lượng nước sử dụng, tăng khoảng 50% so

với khối lượng quotas được cấp cho mỗi nông trại. Với bất kỳ lượng quotas vượt

định mức nào, nông dân phải trả gấp 2 lần so với mức giá bình thường. Khối lượng nước sử dụng cho mỗi 0.067ha giảm khoảng 50m3 sau khi đổi mới, và tỷ lệ phí thu

được đạt khoảng 98%.

Trước khi có các chương trình tự chủ tài chính cho các cơ quan tưới tiêu, có

một số vấn đề lớn. Thứ nhất, thuỷ lợi phí thu được thường được sử dụng sai mục

đích. Thứ hai, việc thu phí nước theo diện tích được thực hiện, và việc trả không

trên cơ sở khối lượng nước được sử dụng. Thứ ba, trong thời gian gieo cấy chính vụ,

nông dân thường có ý định sẽ dùng các biện pháp hữu hiệu nhất để lấy nước, kể cả

làm cho người khác xấu đi. Thứ tư, một số nhóm người sử dụng nước được thành

lập, nhưng họ không phải là tổ chức cố định. Lãnh đạo nhóm dược chỉ định bởi

quan chức chính quyền và không phải do nông dân bầu. Bởi vậy, thiếu sự tham gia

và quyền làm chủ của người dân sẽ làm người dân ít có động cơ tham gia vào quản

lý, khai thác công trình thuỷ lợi.

Mục tiêu của cải cách là thành lập hệ thống tự chủ về tổ chức và quản lý bao

gồm hai bộ phận thống nhất: Tổng công ty cấp nước sẽ phân phối nước từ các công

trình đầu mối và tổ chức những người dùng nước vận hành công trình cấp cơ sở.

Mỗi Uỷ ban điều hành tổ chức dùng nước được nông dân bầu ra tại hội nghị của tổ

chức dùng nước. Các làng sẽ hỗ trợ để huy động nguồn nhân lực để tham gia các hội

nghị của hội dùng nước và bầu cử Uỷ ban điều hành, và điều đó sẽ mở rộng sự tham

gia của người dân và hoạt động của tổ chức dùng nước. Sau khi chuyển giao các hệ

thống tưới ở cơ sở, các cơ quan tưới và các cơ quan nhà nước về tưới sẽ hỗ trợ các

chương trình đào tạo cho nông dân, nâng cao năng lực của người dân. Các tổ chức

dùng nước được thành lập sẽ có nhiều lợi ích. Thứ nhất, tổ chức dùng nước kiểm

36

soát việc tưới tiêu ở cơ sở sẽ tiết kiệm lao động, nhân lực và rút ngắn chu kỳ tưới.

Nước sẽ được phân phối đúng thời gian và phù hợp yêu cầu khối lượng. Điều này sẽ

làm tăng khả năng và động cơ của người dân trong việc tham gia quản lý tưới. Thứ

hai, các tổ chức dùng nước sẽ cải thiện việc bảo dưỡng các hệ thống kênh chính và

hệ thống kênh nhánh. Nông dân sẽ đầu tư lao động và kinh phí bởi họ biết công

trình bây giờ là của họ. Thứ ba, chi phí tưới sẽ được giảm đi theo nhiều cách khác

nhau khi tổ chức dùng nước sẽ đưa ra mức giá phù hợp theo khối lượng. Người dân

sẽ sử dụng nước sẽ hiệu quả hơn, và việc phân phối nước cũng sẽ hiệu quả hơn.

Thứ tư, sản phẩm sẽ được cải thiện, bình quân sản lượng tăng lên 6%, trong đó

2,5% là do cải thiện việc tưới.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần xem xét. Thuỷ lợi phí thu quá thấp nên

không đủ bù đắp chi phí. Ví dụ ở Hunan, thuỷ lợi phí thu 0.032NDT/m3, trong khi đó chi phí khoảng từ 0.1 đến 0.15NDT/m3. Hơn nữa, nông dân cũng không sẵn sàng

trả nhiều thuỷ lợi phí hơn nữa vì họ đã phải nộp nhiều các loại thuế, phí khác và đã

đóng góp về lao động. Bởi vậy, cần phải nỗ lực hơn nữa để cải thiện vấn đề minh

bạch hoá tài chính, riêng rẽ với thuỷ lợi phí

Ai cập (Perry 1995)

Nghiên cứu năm 1995 do Viện Quản lý tưới Quốc tế (IIMI) đã xác định được

tác động của các phương án giá khác nhau trong ngành nông nghiệp có sử dụng

nước tưới và thu nhập của nông trại. Kết quả tìm được ở Ai cập cho thấy, thuỷ lợi

phí được thiết lập trên vụ gieo trồng hiệu quả như giá nước thu theo khối lượng.

• Tỷ lệ thu cố định là 52$/1ha, không cần biết là nước sử dụng vào mùa vụ gì,

chiếm khoảng 4.5% thu nhập của nông trại, nhưng không ảnh hưởng đến lựa chọn

mùa vụ hoặc công nghệ tưới.

• Thuỷ lợi phí theo vụ trên ha, tương ứng với mức tiêu thụ nước trung bình của

mỗi vụ nhất định

• Thuỷ lợi phí theo khối lượng dựa vào khối lượng nước được phân phối có tác

động gần như tương tự đối với trường hợp thứ hai. Các nhân tố chính giải thích sự

phản ứng khác nhau xuất hiện là khả năng lựa chọn mùa vụ để gieo trồng. Hơn nữa,

37

thuỷ lợi phí chỉ chiếm một phần nhỏ thu nhập của nông trại.

Gujarat - Ấn độ (Cornish and Perry 2003)

Nước mặt để tưới rất có hạn ở vùng Bắc Gujarat và việc phát triển tưới bằng

nước ngầm đã được thực hiện. Các giếng bơm nước tưới là phương tiện chủ yếu để

tưới nước. Bởi vì nước ngầm không bị kiểm soát, và thị trường nước cạnh tranh đã

được phát triển mà không ảnh hưởng/liên quan đối với việc sử dụng tài nguyên bền

vững. Các công trình tưới được phát triển và làm chủ bởi tư nhân. Hầu hết được làm

chủ bởi 3-10 nông dân, những người đã phát triển hệ thống quản lý có thể có lãi về

tài chính dưới tỷ lệ tiền điện của Chính phủ rất thấp. Thuỷ lợi phí chủ yếu được tính

theo khối lượng nước sử dụng và đặt ra đảm bảo đủ bù đắp chi phí vận hành và bảo

dưỡng. Các ông chủ đầu tư vốn thu thuỷ lợi phí dựa vào diện tích mà họ có khả

năng tưới và lợi ích tăng lên từ sản phẩm nông nghiệp. Thuỷ lợi phí hiện nay đảm

bảo đủ chi phí vận hành và bảo dưỡng. Vấn đề nợ đọng thuỷ lợi phí ít khi xảy ra vì

khả năng của nông dân và nếu xảy ra điều này, nông dân sẽ không được sử dụng

nước trong mùa tới.

Iran

Vào năm 2001, thuỷ lợi phí đối với vùng tưới nước bằng công trình trọng lực ở lưu vực Zayande Rud là 4$/1000m3. Giá này đã gần đảm bảo chi phí vận hành và

bảo dưỡng. Thuỷ lợi phí chiếm không đến 10% thu nhập thực của nông nghiệp. Để giảm nhu cầu nước, giá cần phải tăng lên khoảng từ $20 đến 50$/1000m3. Nghiên

cứu cho biết, giá thuỷ lợi phí hiện tại tăng gấp hai mươi lần thì người dân sẽ đầu tư

vào công nghệ tưới hiệu quả hoặc tưới tiết kiệm nước. Ở mức cao này, thuỷ lợi phí

sẽ tương đương 2/3 thu nhập của nông trại, và khó có thể áp dụng trong thực tế.

Pery (2001) đã chỉ khuyến cáo rằng, sử dụng thuỷ lợi phí để bù đắp các khoản chi

phí vận hành và bảo dưỡng và nên sử dụng biện pháp phân phối nước như là một

công cụ riêng biệt để hạn chế khối lượng nước sử dụng, hơn là dùng biện pháp đặt

mức thu cao.

Mêxico (Phát triển các Hội dùng nước - Zekri and Easter 2003)

Năm 1990, sau khi có rất nhiều kinh nghiệm trong các vấn đề nghiêm trọng

38

trong việc phân phối nước và thu thuỷ lợi phí, Mêxico đã cho thực hiện chương

trình chuyển giao quản lý tưới và chuyển quyền sử dụng nước cho các Hội dùng

nước. Nhưng đến năm 1997, 400 Hội dùng nước đã đi vào hoạt động, trong đó mỗi

Hội dùng nước quản lý công trình tưới có diện tích trung bình khoảng 7.600ha. Kết

quả nghiên cứu ở 6% các địa phương cho thấy, nước sử dụng hiệu quả và vấn đề

bảo trì công trình được cải thiện. Thuỷ lợi phí thu được tăng lên ở hầu hết các địa

phương vì mục tiêu tự chủ của các tổ chức, có nơi cho thấy tăng tới 5 lần so với

trước khi chuyển giao. Chính phủ trợ cấp, cho đến năm 1996, chỉ khoảng 15% chi

phí vận hành và bảo dưỡng ở những địa phương thực hiện chuyển giao.

Sự thành công của Hội dùng nước ở Mêxico được tăng cường bởi kỹ năng thuê

nhân viên kỹ thuật. Ở rất nhiều địa phương, thành viên của Hội dùng nước được hỗ

trợ về bán sản phẩm đầu ra, mua nguyên vật liệu đầu vào, thuê mướn máy móc thiết

bị. 8 công ty trách nhiệm hữu hạn, thực chất là hiệp hội các tổ chức dùng nước, hoạt

động và cung cấp dịch vụ cho các Hội dùng nước đến hết năm 1996. Những công ty

này đã mở rộng dịch vụ bảo dưỡng và vận hành các hệ thống lớn.

Maroc - Hệ thống thuỷ lợi Tadla (Cornish and Perry 2003)

Mục tiêu của chính sách thuỷ lợi phí ở Moroco là bù đắp 40% chi phí vốn đầu

tư và toàn bộ chi phí vận hành và bảo dưỡng. Thuỷ lợi phí được thu theo khối lượng

nước sử dụng và mức thu cao theo tiêu chuẩn quốc tế. Khối lượng nước thanh toán

thường chiếm 80% lượng nước thực tế vì tổn thất nước khi phân phối.

Tỷ lệ thuỷ lợi phí thu được ở Tadla thường đạt từ 70-80%. Ở hệ thống công

trình đầu tiên và lâu đời nhất ở Moroco, cần nhiều chi phí để vận hành và bảo dưỡng

(127$/ha/năm, thu đủ chi phí là 150$ ha/năm) hơn ở hệ thống Haouz. Thuỷ lợi phí

chiếm khoảng 15% thu nhập thực của nông trại. Tất cả nông dân ở Tadla có sổ kiểm

tra để theo dõi lượng nước sử dụng. Mỗi khi dùng nước, nông dân đưa sổ để người

phân phối nước xác nhận khối lượng nước sử dụng. Nông dân và người phân phối

nước ký xác nhận hàng tháng để đảm bảo không có sai sót gì trong hoá đơn. Tổng

lượng nước sử dụng cả vụ được xác định ở sổ kiểm tra, nhưng kế hoạch phân phối

nước có thể thay đổi bởi nhu cầu dùng nước của người dân.

39

Niger (Abernethy et al. 2000)

Mục tiêu của Chính phủ là chuyển giao trách nhiệm vận hành và bảo dưỡng

công trình tưới cho các hợp tác xã của người dùng nước. Thuỷ lợi phí được thiết lập

nhằm thu hồi toàn bộ chi phí vận hành và bảo dưỡng và một phần chi phí đầu tư ban

đầu. Từ năm 1992 đến 1996, mức phí mùa trung bình đối với lúa là 124$/ha vụ, cao

so với bình quân trên toàn thế giới. Thuỷ lợi phí tương đương 12-25% tổng giá trị

của mùa vụ.

Tỷ lệ thuỷ lợi phí thu được khá cao, từ 90-100%, nhưng nông dân thường trả

chậm. Mục tiêu của hệ thống giá nước là làm giảm nhu cầu sử dụng nước,nhưng

dường như nó không được thành công lắm bởi thuỷ lợi phí không liên quan đến sử

dụng và phân phối nước. Nông dân có rất ít động cơ để cải thiện việc dùng nước

hiệu quả vì dường như nó không có thay đổi gì so với cái họ phải trả.

Việc tạo nguồn mất khoảng 40-60%, và những mất mát này là chi phí phụ tăng thêm

được chia cho những thành viên tham gia hợp tác xã, có thể lên tới hàng nghìn

người. Bởi vậy, nông dân không có động cơ đóng góp lao động để cải thiện hệ

thống, và cân nhắc việc họ chỉ nhận được 1 đồng trong lợi ích vô vàn từ việc giảm

tổn thất nước.

Pháp Giá nước tưới ở Pháp từ 0,049-0,171USD/m3) và thu 0,022USD/m3 nước thải trở lại sông. Mức thu của các tổ nhóm nông dân 0,081$/m3 (giá ở trên là tính đối với

tự chảy còn đối với những vùng phải bơm động lực thì giá phải cộng thêm chi phí

bơm nên giá sẽ cao hơn mức trên).

Hoa Kỳ

Trước kia, thuỷ nông địa phương thu thuỷ lợi phí dựa trên cơ sở chi phí vận

hành và bảo dưỡng cho các vùng đất canh tác khác nhau. Ví dụ, mức thu đối với

những vùng tưới động lực sẽ cao hơn mức thu những vùng tưới tự chảy.

Bắt đầu từ cuối những năm 80 của thế kỷ trước, nhà nước đã xây dựng luật mà

nó bao hàm cả việc bảo vệ nguồn tài nguyên nước. Thuỷ lợi phí đã được thu tăng

lên đáng kể.

40

Ví dụ: thời điểm năm 1988 thuỷ nông huyện Broadview đã tăng mức thu từ

40USD/ha lên 100USD/ha với mức nước sử dụng được tính toán; năm 1987 tại thuỷ

nông huyện Pacheco mức thu tính theo 2 bậc, bậc thứ nhất mức thu 90USD/ha và

bậc thứ 2 thu 150USD/ha; đối với mức thu dựa trên khối lượng sử dụng ở hệ thống thuỷ nông bang Califonia tăng mức thu từ từ 4,4USD/1000m3 lên 11,9USD/100m3.

Với mức thu như vậy thì thực tế đã cao hơn mức cần thiết để thu hồi các chi phí.

Riêng đối với hệ thống thuỷ nông bang California, thu bình quân mức 6,3USD/1000m3, và sau đó tăng lên 11,0-16,3USD/1000m3 tuỳ thuộc vào mức đảm

bảo tưới; trong khi đó đối với hệ thống tưới huyện Madera mức thu tương ứng là 19,9 tăng lên 24,7÷42,3USD/1000m3.

2.2. Nội dung một số chính sách thuỷ lợi phí đã được thực thi.

2.2.1. Giai đoạn từ khi thống nhất đất nước đến trước năm 1984.

Kể từ ngày nước nhà được độc lập tới trước năm 1962, việc đầu tư, xây dựng

và quản lý, khai thác các công trình thuỷ lợi chủ yếu huy động sự tham gia của

người dân.

Đến năm 1962, Chính phủ ban hành Nghị định 66 là văn bản pháp lý đầu tiên

được ra đời quy định về mức thu thuỷ lợi phí trong các hệ thống thuỷ lợi, hay các hệ

thống nông giang. Tuy nhiên, Nghị định này được thi hành đối với các hệ thống

nông giang thuộc loại đại thuỷ nông, còn đối với những hệ thống trung thuỷ nông thì

Uỷ ban hành chính khu, thành, tỉnh sẽ căn cứ vào điều lệ này để quy định việc thu

thuỷ lợi phí sao cho sát với hoàn cảnh địa phương nhằm mục đích tổ chức việc quản

lý, khai thác sử dụng tốt hệ thống nông giang, phục vụ sản xuất nông nghiệp.

Tại Nghị định này, khái niệm thủy lợi phí được hiểu như sau: “Tất cả các hệ

thống nông giang do nhà nước đầu tư vốn phục hồi hoặc xây dựng mới, sau khi đã

hoạt động bình thường và sản lượng của ruộng đất được tưới hay tiêu nước đã tăng

lên, đều do nhân dân, hợp tác xã hoặc nông trường quốc doanh có ruộng đất được

hưởng nước chịu phí tổn về quản lý và tu sửa. Phí tổn này gọi là thuỷ lợi phí”.

Nghị định này được ban hành nhằm tăng cường công tác quản lý và khai thác

các hệ thống nông giang, làm cho việc đóng góp của người dân được công bằng,

41

hợp lý, đảm bảo đoàn kết ở nông thôn, đồng thời tạo điều kiện tiến lên, quản lý các

hệ thống nông giang theo chế độ hạch toán kinh tế, thúc đẩy việc tiết kiệm nước, hạ

giá thành quản lý để phục vụ tốt sản xuất nông nghiệp.

Mức thuỷ lợi phí - được gọi là phí tổn về quản lý và tu sửa các hệ thống nông

giang sẽ được căn cứ vào lợi ích hưởng nước của ruộng đất và phí tổn về quản lý và

tu sửa của hệ thống nông giang tuỳ theo từng loại. Thủy lợi phí được quy định để

chi về các khoản như: “Trả lương cho cán bộ, công nhân của nông giang và chi cho

việc quản lý, khai thác, tu bổ sửa chữa thường xuyên trong hệ thống nông giang để

tiến tới xây dựng các xí nghiệp địa phương”

Nguyên tắc thu thuỷ lợi phí được quy định trong Nghị định 66 là căn cứ vào

lợi ích hưởng nước của ruộng đất và phí tổn về quản lý tu sửa của hệ thống nông

giang tuỳ theo từng loại. Để khuyến khích sản xuất nông nghiệp, tại điều 5 của Điều

lệ quy định như sau:

- Ruộng đất trồng trọt quá hai vụ trong một năm cũng chỉ thu thủy lợi phí 2 vụ

chính.

- Ruộng đất phải tát cao quá 1 mét rưỡi so với mức nước trung bình trong kênh

mương nông giang không phải trả thủy lợi phí.

- Đất trồng hoa màu, cây công nghiệp trả thủy lợi phí ít hơn ruộng lúa.

Dựa trên những nguyên tắc nêu trên, Nghị định 66 đã đưa ra biểu mức thu thuỷ

lợi phí cả năm chung cho mỗi ha ruộng đất gieo cấy lúa hưởng nước tính bằng cân

thóc được nêu trong bảng 2.1.

Bảng 2.1. Mức thủy lợi phí tính cho 1 ha ruộng theo Nghị định 66

Đơn vị: kg thóc/năm

Hình thức phục vụ Mức thu cả năm

Loại hình công trình Tối đa Tối thiểu

42

180 140 Hệ thống bơm điện Tưới thẳng

Phải tát dưới 1,5 m 80 40

Tưới thẳng 140 90

Hệ thống cống đập hoặc hồ chứa nước Phải tát dưới 1,5 m 50 30

Tưới thẳng 90 60

Hệ thống nước thủy triều Phải tát dưới 1,5 m 40 20

Đối với ruộng đất chỉ được hưởng lợi về tiêu nước mà không hưởng lợi về tưới

nước chỉ thu bằng 1/2 mức thu của ruộng đất được hưởng về tưới hoặc cả về tưới và

tiêu nước. Mức thu cho hoa màu và cây công nghiệp chỉ thu bằng 1/2 mức thu của

ruộng đất gieo cấy lúa.

Nghị định cũng quy định rõ thuỷ lợi phí được thu bằng thóc, trường hợp đặc

biệt mới được thu bằng tiền và một năm được thu làm 2 lần cùng một lúc với thuế

nông nghiệp. Tuy nhiên, để tránh nhầm lẫn giữa thuỷ lợi phí và thuế nông nghiệp,

nghị định cũng khuyến nghị nên tách biệt riêng giữa thuỷ lợi phí và thuế nông

nghiệp, nếu có ghi chung biên lai cũng cần ghi rõ diện tích phải trả thuỷ lợi phí và

số thóc (hoặc tiền) đã trả về thuỷ lợi phí.

2.2.2. Giai đoạn từ năm 1984 đến trước năm 2003.

Đến năm 1984, để phù hợp với yêu cầu mới, tiến lên một bước trong việc thu

thuỷ lợi phí, nhằm đáp ứng một phần chi phí cho các đơn vị quản lý thuỷ nông, Nghị

định 112 đã quy định thuỷ lợi phí bao gồm các khoản sau:

a) Khấu hao cơ bảo, khấu hao sửa chữa lớn và chi phí sửa chữa thường xuyên

các máy móc, thiết bị, nhà xưởng, kho tàng, phương tiện vận tải và các phương tiện

khác dùng vào việc duy trì, khai thác và quản lý các công trình thủy nông, không kể

khấu hao cơ bản các máy bơm lớn;

b) Chi phí sửa chữa lớn, tu bổ, sửa chữa thường xuyên các công trình xây đúc

và bằng đất, ngoài số nhân công do nhân dân đóng góp;

c) Chi phí về điện và xăng dầu;

d) Chi lương cán bộ, nhân viên và chi phí quản lý của các xí nghiệp thuỷ nông.

43

Như vậy, cơ sở để thiết lập mức thu của Nghị định 112 đã có sự thay đổi nhiều

so với Nghị định 66. Cơ cấu mức thu thuỷ lợi phí trong nghị định 112 đã có đề cập

tới một phần khấu hao cơ bản, khấu hao sửa chữa lớn của các máy móc, thiết bị nhà

xưởng và một số loại công trình thuỷ lợi khác, do đó mức thu đã có sự khác biệt so

với mức thu của Nghị định 66 trước đây.

Tuy nhiên, để giảm nhẹ thuỷ lợi phí, tạm thời chưa tính khấu hao cơ bản các

công trình xây đúc và bằng đất và khấu hao cơ bản các máy bơm lớn, xem đây như

một khoản trợ cấp của nhà nước đối với nông nghiệp. Khi cần trang bị thêm hoặc

thay thế các máy bơm lớn, ngân sách Trung ương cấp trực tiếp cho Bộ Thuỷ lợi (nay

là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) qua kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản

hàng năm.

Nghị định 112 ban hành đã tạo một tiền đề rất lớn trong hoạt động của các

doanh nghiệp thuỷ nông, tuy chưa đáp ứng được hết yêu cầu thực tế nhưng nó đã

giúp cho các doanh nghiệp nhà nước về khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi có

nguồn thu, đáp ứng được các yêu cầu vốn cho duy tu bảo dưỡng công trình an toàn

phục vụ tốt sản xuất tưới tiêu trong nông nghiệp.

Việc tính toán quy định mức thuỷ lợi phí theo nghị định 112 căn cứ theo các

nguyên tắc sau:

- Mức độ phục vụ tưới, tiêu nước của từng công trình (chủ động, bán chủ động

và tạo nguồn hoặc mở đường nước tiêu).

- Điều kiện và chi phí tưới nước, tiêu nước của từng công trình, trong từng vụ

sản xuất. Tuy vậy, khi áp dụng nguyên tắc này cần được vận dụng linh hoạt đối với

những công trình có điều kiện tự nhiên thuận lợi, chi phí tương đối thấp, có thể thu

thuỷ lợi phí cao hơn một chút so với chi phí thực tế để bù cho những công trình mà

điều kiện tự nhiên không thuận lợi, chi phí cao, năm thời tiết thuận, chi phí thấp, vẫn

thu thuỷ lợi phí theo mức bình thường để bù cho những năm thời tiết không thuận,

chi phí cao.

- Hiệu quả của dịch vụ tưới nước, tiêu nước, thể hiện ở năng suất, sản lượng

của ruộng đất.

44

- Thuỷ lợi phí tính bằng thóc hoặc lương thực khác đối với những diện tích

trồng cây lương thực khác.

Thuỷ lợi phí được quy định thu bằng thóc, tuy nhiên, có một số trường hợp thì

thuỷ lợi phí được phép thu bằng tiền, đó là:

- Những diện tích trồng các loại cây không phải là cây lương thực;

- Các dịch vụ thuỷ lợi không có liên quan đến trồng trọt;

- Những hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, hộ nông dân cá thể tuy sản xuất lương

thực nhưng cân đối lương thực chưa vượt quá mức tối thiểu cần thiết do Uỷ ban

nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu (dưới đây gọi tắt là tỉnh) quy định.

Thuỷ lợi phí thu bằng tiền là số thóc phải trả tính theo giá mua thỏa thuận do

Uỷ ban nhân dân tỉnh quy định cho vụ sản xuất đó. Riêng đối với các tổ chức kinh tế

quốc doanh và các cơ quan Nhà nước thì tính theo giá chỉ đạo thu mua của Nhà

nước quy định.

Trên cơ sở những nguyên tắc đã nêu ở trên, mức thu thuỷ lợi phí theo Nghị

định 112 được quy định tính theo tỷ lệ phần trăm trên sản lượng trung bình của

ruộng đất đối với một đơn vị diện tích trồng lúa tưới tiêu chủ động quy định như

Bảng 2.2.

Bảng 2.2. Mức thu thủy lợi phí của Nghị định 112

Hình thức phục vụ Vụ đông xuân Vụ hè thu Vụ mùa

Tưới và tiêu bằng trọng lực 4-6.5% 4.5-7% 3-5.5%

Tưới bằng bơm điện,

4.5-7% 5-7.5% 3.5-6% tiêu bằng trọng lực

Tưới và tiêu bằng bơm điện 5-7.5% 5.5-8% 4-6.5%

Đối với các trường hợp khác được quy định như sau:

- Trong trường hợp tưới tiêu mới chủ động một phần thì thu bằng 70-80% mức

trên. Trong trường hợp mới tạo nguồn nước tưới hoặc mở đường nước tiêu thì thu

bằng 50÷70% mức trên.

- Đối với vụ hè thu, ở những nơi mưa đều, tưới ít thì thu bằng 90% mức trên

45

(mức quy định cho vụ hè thu).

Nghị định cũng quy định rõ việc quy định mức thu trong trường hợp lợi dụng

thuỷ triều hoặc phải tưới bằng bơm dầu suốt vụ; các trường hợp tưới cho rau, màu

cây công nghiệp ngắn ngày, cây vụ đông và trường hợp tưới bằng nguồn nước ngầm

và tưới phun mưa; thuỷ lợi phí đối với nuôi trồng thuỷ sản; thu thuỷ lợi phí các

phương tiện vận tải qua âu thuyền.

Uỷ ban nhân dân tỉnh căn cứ mức tối thiểu và tối đa trên đây, quy định mức

thu cụ thể ở địa phương.

Cũng giống như Nghị định 66 trước kia, Nghị định 112 quy định thuỷ lợi phí

được thu bằng thóc (hoặc lương thực khác) và thông qua ngành lương thực. Một số

trường hợp thu bằng tiền thì xí nghiệp thuỷ nông trực tiếp thu của các tổ chức cá

nhân được hưởng lợi từ dịch vụ về thuỷ lợi.

Có một điểm khác biệt mà Nghị định 112 đưa ra là quy định thành lập quỹ

thuỷ nông của tỉnh từ các nguồn thu thuỷ lợi phí, cụ thể: nguồn thu khấu hao cơ bản

và khấu hao sửa chữa lớn, thu điều tiết từ các xí nghiệp có những điều kiện khách

quan thuận lợi. Quỹ này sẽ do uỷ ban nhân dân tỉnh quản lý và sử dụng chủ yếu vào

việc sửa chữa lớn, đổi mới máy móc, thiết bị, các công trình xây đúc và bằng đất, và

hỗ trợ cho những xí nghiệp do khó khăn về điều kiện khách quan mà nguồn thu

không đảm bảo các yêu cầu về chi phí; dự phòng cho những năm thiên tai, chi phí

tăng nhưng nguồn thu giảm. Việc quy định thành lập quỹ này đã có tác dụng trong

việc điều hoà kinh phí thuỷ lợi phí giữa những năm thuận lợi và khó khăn.

Tuy vậy, do được ban hành trong thời kỳ bao cấp, và đã được áp dụng quá lâu

nhiều điểm không còn phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, do vậy Nghị

định 112 phải được sửa đổi bổ sung cho phù hợp.

2.2.3. Giai đoạn từ năm 2003 đến trước năm 2008.

Để khai thác tối đa năng lực các hệ thống công trình thuỷ lợi hiện có, gắn trách

nhiệm với quyền lợi của người dùng nước, giảm bớt gánh nặng bao cấp của Nhà

nước trong lĩnh vực thuỷ lợi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã báo cáo

Chính phủ ban hành chính sách về tiền nước và thuỷ lợi phí theo quy định tại Nghị

46

định 143. Quan điểm khi xây dựng mức thu tiền nước đối với các đối tượng không

phải sản xuất nông nghiệp và thuỷ lợi phí đối với sản suất nông nghiệp như sau:

Thứ nhất, nước từ công trình thủy lợi có giá trị sử dụng (nước là hàng hoá), do

đó nước phải được tính đúng, tính đủ các khoản chi phí hợp lý, đảm bảo cho các

doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi tồn tại và phát triển.

Thứ hai, mọi cá nhân, tổ chức sử dụng nước từ công trình thủy lợi đều phải có

nghĩa vụ tài chính theo quy định, hộ dùng nước không trả tiền, doanh nghiệp quản lý

khai thác công trình thuỷ lợi có quyền từ chối phục vụ. Doanh nghiệp khai thác công

trình thuỷ lợi phải bồi thường cho hộ dùng nước nếu phục vụ không đáp ứng đúng

yêu cầu đã ký kết (trừ những trường hợp bất khả kháng).

Thứ ba, Nhà nước có chính sách hỗ trợ về thuỷ lợi phí đối với nông dân sản

xuất lương thực, nông dân vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, các xã thuộc diện

xoá đói giảm nghèo. Tuỳ theo tình hình cụ thể từng nơi mà có tỷ lệ miễn giảm thích

hợp. Phần hỗ trợ được cấp thẳng cho doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi.

Thứ bốn, trường hợp gặp những năm thiên tai mất mùa sẽ có xử lý riêng theo

quy định.

Thứ năm, khuyến khích các hộ dùng nước ứng dụng công nghệ tiên tiến, nhằm

tiết kiệm nước, nâng cao hiệu quả tưới tiêu.

Do coi nước là hàng hoá và giá bán của nó phải được tính đủ đầu vào, nhưng

do tính chất quan trọng của nó nên đối với từng đối tượng, đặc biệt những đối tượng

dùng nước cho tưới tiêu sản xuất nông nghiệp nhà nước sẽ có chính sách riêng. Trên

quan điểm và nguyên tắc đã nêu, phương pháp xác định giá nước được xác định trên

các căn cứ và cơ cấu như sau:

Một là, các căn cứ để xác định giá nước:

- Kinh phí đầu tư xây dựng và quản lý đối với từng loại công trình và hệ thống

công trình cụ thể (hồ đập, trạm bơm).

- Mức độ phục vụ tưới tiêu (chủ động, chủ động, chủ động một phần), quy mô

công trình (lớn, vừa, nhỏ), tính chất của từng loại công trình, phạm vi quản lý của

một tổ chức quản lý thích hợp.

47

- Hiệu quả của dịch vụ được cấp nước, tiêu thoát nước hoặc làm dịch vụ từ

công trình thuỷ lợi và yêu cầu của các hộ dùng nước khác nhau.

- Đối với nước tưới tiêu cho lúa phải căn cứ vào tình hình thực tế của vùng sản

xuất được tưới thông qua các chính sách hợp lý, có sự cân đối với thu nhập (lợi ích)

cuối cùng của người sản xuất (nông dân), đồng thời phải tính đến khả năng hỗ trợ tài

chính của Nhà nước, nhằm đảm bảo đủ kinh phí cho đơn vị quản lý khai thác công

trình thủy lợi hoạt động.

Hai là, cơ cấu giá nước được xác định trên cơ sở các khoản mục chi phí chủ

yếu bao gồm:

- Tiền lương, phụ cấp lương và các khoản có tính chất lương;

- Chi phí nguyên, nhiên vật liệu vận hành bảo dưỡng;

- Khấu hao cơ bản tài sản cố định đối với những tài sản phải trích khấu hao của

doanh nghiệp;

- Chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định;

- Chi phí sửa chữa thường xuyên tài sản cố định;

- Tiền điện phục vụ tưới tiêu;

- Chi phí quản lý doanh nghiệp.

- Chi phí bảo hộ lao động, đào tạo nâng cao năng lực;

- Các chi phí khác.

Qua tính toán với các thành phần chi phí nêu trên, mức giá ứng với mức cao

nhất và khả năng thu thực tế phải thu cũng chưa vượt quá mức tương đương 8%

năng suất đã quy định theo Nghị định 112 theo thời giá hiện tại được quy định thu

bằng tiền.

Tại thời điểm năm 2003, nếu tính đầy đủ các chi phí, kể cả chi phí đầu tư xây

dựng và khấu hao cơ bản tài sản cố định của hạ tầng cơ sở thuỷ lợi, hàng năm cả

nước phải thu đạt trên 3.000 tỷ đồng thủy lợi phí (khoảng 1,7 triệu tấn thóc). Tuy

nhiên, nếu thu đạt 2.000 tỷ đồng/năm (khoảng 1,05 triệu tấn thóc) thì hàng năm Nhà

nước cũng phải hỗ trợ khoảng 6001000 tỷ đồng và, nếu thu đạt 840 nghìn tấn

thóc/năm thì hàng năm nhà nước phải hỗ trợ 1.0001.200 tỷ đồng cho các đơn vị

48

quản lý khai thác công trình thuỷ lợi. Đó là chưa tính đến khoản tiền nước tưới tiêu

trên mặt ruộng.

2.3. Vấn đề miễn giảm thủy lợi phí trong những chính sách thủy lợi phí đã ban

hành.

Trong các chính sách thuỷ lợi phí đã ban hành, trước khi có chính sách miễn

thuỷ lợi phí theo quy định của Nghị định số 154, cũng đều đề cập đến các quy định

về miễn, giảm thuỷ lợi phí, tuy nhiên mức độ có khác nhau.

Tại điều 9, 10 của Nghị định 66 của Chính phủ đã quy định về việc miễn, giảm

thuỷ lợi phí. Theo đó, người sử dụng nước từ các hệ thống nông giang mới được xây

dựng đưa vào quản lý, khai thác sẽ được miễn giảm thuỷ lợi phí từ 1 đến 2 năm, tính

từ ngày đưa vào sử dụng. Chỉ khi nào hệ thống đã hoạt động tưới tiêu ổn định, góp

phần tăng năng suất hiệu quả cây trồng thì địa phương mới cùng Bộ Thuỷ lợi và

Điện lực trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và quyết định thời điểm bắt đầu được

thu thuỷ lợi phí. Bên cạnh đó, khi gặp thời tiết bất lợi, thiên tai địch hoạ, như bão

lụt, hạn hán, sâu bệnh gây mất mùa, hoặc sản lượng lương thực bị giảm sút, người

dân cũng được miễn giảm thuỷ lợi phí theo quy định tương tự với quy định và tỷ lệ

miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp.

Tại điều 5 của Nghị định 66 cũng quy định việc giảm thuỷ lợi phí đối với

ruộng đất trồng trọt quá hai vụ một năm thì cũng chỉ thu 2 vụ, nhằm khuyến khích

nông dân tăng vụ, tăng thu nhập cho người dân. Đối với vùng diện tích phải tát cao

quá 1,5m so với mức nước trung bình trong kênh tưới cũng sẽ không phải nộp thuỷ

lợi phí. Hay, những vùng trồng hoa màu, cây công nghiệp sẽ phải trả thuỷ lợi phí

thấp hơn vùng diện tích được gieo cấy lúa.

Ngoài việc quy định rõ sự hỗ trợ cho người sử dụng nước trong sản xuất nông

nghiệp thông qua chính sách giảm nhẹ mức đóng góp bằng việc quy định mức thu

thuỷ lợi phí thấp, chưa tính khấu hao cơ bản các công trình xây đúc và bằng đất và khấu hao cơ bản các máy bơm lớn có công suất từ 8.000m3/h trở lên, xem đây là một

khoản trợ cấp của Nhà nước đối với sản xuất nông nghiệp, thì việc thực hiện chính

sách miễn, giảm theo quy định của Nghị định 112 chỉ được quy định đơn giản tại

49

điều 10 của Nghị định. Theo đó, khi gặp thiên tai gây thiệt hại nặng cho mùa màng

thì người dân sẽ được giảm hoặc miễn thuỷ lợi phí, tuỳ theo mức độ thiệt hại được

đánh giá bởi các cơ quan chức năng. Nếu thiệt hại từ 30÷50% thì giảm 30%, từ 50-

70% thì giảm 50% tổng số thuỷ lợi phí phải đóng. Khi mức thiệt hại được các cơ

quan chức năng đánh giá vượt quá 70% thì người dân không phải đóng thuỷ lợi phí.

Chính phủ giao cho Uỷ ban nhân dân các tỉnh thực hiện miễn giảm.

Việc miễn, giảm thuỷ lợi phí theo quy định của Nghị định 143, ngoài bản chất

việc quy định mức thu thấp, không đáp ứng yêu cầu chi phí cho công tác khấu hao cơ bản công trình xây đúc và bằng đất, máy bơm lớn có công suất từ 8.000m3/h trở

lên, chi phí đại tu, sửa chữa nâng cấp công trình thuỷ lợi tương tự như bản chất của

Nghị định 112, tại điều 16 của đã quy định việc miễn, giảm thuỷ lợi phí đối với

người dân khi bị thất thu do thiên tai, gây mất mùa.

Khi có thiên tai gây mất mùa, thiệt hại nặng về năng suất, sản lượng cây trồng

đến mức người dùng nước có yêu cầu miễn giảm thì tổ chứ quản lý, khai thác công

trình thuỷ lợi phải báo cáo các cơ quan có thẩm quyền lập đoàn kiểm tra đánh giá

kết quả thiệt hại và trình các cấp có thẩm quyền quyết định miễn, giảm thuỷ lợi phí.

Cụ thể, thiệt hại dưới 30% sản lượng sẽ được giảm 50% thủy lợi phí phải nộp, thiệt

hại từ 30÷50% sản lượng thì được giảm 70% thuỷ lợi phí phải nộp. Thiệt hại từ 50%

sản lượng trở lên, được miễn thuỷ lợi phí.

Bên cạnh đó, tại khoản 1, điều 19 của Nghị định 143 cũng quy định việc miễn

giảm thuỷ lợi phí cho các đối tượng đang sinh sống, sản xuất ở những địa bàn có

điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, theo đó ở những nơi có điều kiện kinh tế xã hội

khó khăn được giảm từ 50-70% thuỷ lợi phí phải nộp. Ở những địa bàn có điều kiện

kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn thì được miễn thuỷ lợi phí. Khi thực hiện Nghị định

143, một số địa phương cũng đã chủ động có chính sách miễn hoặc giảm thuỷ lợi

phí đối với người dân sản xuất nông nghiệp trên địa bàn như tỉnh Hưng Yên (năm

2007), Vĩnh Phúc (năm 2006), Thành phố Hồ Chí Minh (năm 2007).

Việc hình thành chính sách thuỷ lợi phí là rất cần thiết, và nó cần được thay

đổi theo từng thời kỳ phát triển đất nước, nhằm phù hợp với tính tất yếu của quy luật

50

phát triển kinh tế xã hội, cho dù có thể quy định thu hay không thu từ người dân.

Các chính sách thuỷ lợi phí đã ban hành trước đây, khi chưa thực hiện chính sách

miễn giảm thuỷ lợi phí như từ năm 2008, cũng đã đều thể hiện được chính sách

khoan sức dân của Đảng và nhà nước ta. Các chính sách này đã phát huy vai trò lịch

sử của mình, góp phần quan trọng trong việc đóng góp một phần kinh phí, giảm bao

cấp từ ngân sách nhà nước đối với công tác quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.

Trong các chính sách cũng đã quy định những trường hợp được miễn hoặc giảm tuỳ

theo tình huống phát sinh trong thực tế, đặc biệt là do điều kiện thiên tai, luôn gắn

liền với hiệu quả hoạt động của các hệ thống công trình thuỷ lợi.

Tuy nhiên, mỗi chính sách chỉ gắn với và phù hợp với từng giai đoạn lịch sử

phát triển của đất nước, có chính sách được dài, có chính sách nhanh phải thay đổi.

Thuỷ lợi phí cũng là một trong những chính sách như vậy. Bắt đầu từ năm 2008, với

điều kiện phát triển kinh tế của đất nước, Chính phủ đã thực hiện chính sách miễn

thuỷ lợi phí cho người dân được giao đất, mặt nước sản xuất nông nghiệp, lâm

nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và làm muối. Vấn đề này sẽ được luận văn nghiên cứu ở

chương tiếp theo.

51

Chương 3:

NỘI DUNG CHÍNH SÁCH MIỄN GIẢM THUỶ LỢI PHÍ HIỆN NAY VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CHỦ YẾU

3.1. Bối cảnh và sự cần thiết phải ban hành chính sách miễn giảm thủy lợi phí.

3.1.1. Bối cảnh thực hiện chính sách miễn giảm.

Xuất phát từ kết quả điều tra, đánh giá thực trạng cuộc sống, thu nhập người

nông dân của các cơ quan thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cục Hợp

tác xã và Phát triển nông thôn và Viện Chiến lược Chính sách Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn) đã cho thấy, đời sống của người nông dân, đặc biệt những người

nông dân sống ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa còn rất khó khăn.

Hàng năm, người dân còn phải đóng rất nhiều các khoản phí, lệ phí đối với hoạt

động của chính quyền và các tổ chức mà họ tham gia, Hợp tác xã, đoàn thể. Theo

kết quả điều tra đánh giá, bình quân một người dân hàng năm phải đóng từ 15÷28

các loại phí, chi phí. Thậm chí, có nơi phải đóng tới 41 chi phí các loại. Theo kết

quả phân loại các loại phí, lệ phí, tỷ trọng thuỷ lợi phí chiếm một phần khá lớn trong

tổng các loại phí, lệ phí phải đóng góp.

Trên diễn đàn Quốc hội, tại nhiều kỳ họp, nhiều năm, đã có không ít đại biểu

Quốc hội lo lắng cho đời sống của hơn 70% dân số sống bằng sản xuất nông nghiệp,

đã đề nghị Chính phủ cần có nghiên cứu, đề xuất ban hành chính sách miễn giảm

thuỷ lợi phí đối với người dân sản xuất nông nghiệp, nhằm tạo điều kiện hỗ trợ

người dân, giảm bớt chi phí sản xuất trong nông nghiệp. Bên cạnh đó, năm 2007,

nước ta chính thức trở thành một thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới

(WTO), nền kinh tế Việt Nam bắt đầu hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới.

Giai đoạn hiện nay, nguồn thu ngân sách Nhà nước đã được cải thiện đáng kể,

giúp cho Chính phủ có điều kiện đầu tư, hỗ trợ đối với người dân. Tuy nhiên, yêu

cầu đầu tư cho các công trình hạ tầng cơ sở và các yêu cầu chi tiêu xã hội khác còn

rất lớn. Vì vậy chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí phải được tính toán kỹ, trên cơ sở

52

tối ưu hoá hệ thống quản lý khai thác công trình thuỷ lợi, thực hành tiết kiệm chi phí

ở mức cao nhất để đề ra lộ trình giảm, miễn thuỷ lợi phí phù hợp với khả năng ngân

sách của Nhà nước.

3.1.2. Sự cần thiết và mục tiêu ban hành chính sách miễn giảm.

Trong những năm qua, Nhà nước đã quan tâm nhiều đến sản xuất nông nghiệp,

phát triển nông thôn nhằm cải thiện và nâng cao đời sống cho nông dân. Nhà nước

đã đầu tư số vốn rất lớn để xây dựng các công trình thuỷ lợi, giao thông nông thôn,

trường học, đường điện, công trình văn hoá, thực hiện chính sách miễn thuế nông

nghiệp, khuyến nông, khuyến ngư... Đến nay, nông nghiệp, nông thôn đã phát triển

tương đối ổn định, tăng trưởng nông nghiệp, thuỷ sản trong các năm 2005 đến năm

2008 là khoảng 4%, đời sống của người nông dân, nông thôn đã cải thiện một bước.

Tuy nhiên, hiện nay ở nông thôn, sản xuất nông nghiệp vẫn là chủ yếu, số hộ

làm nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản, chiếm hơn 70 % tổng số hộ. Chi phí sản

xuất sản phẩm, dịch vụ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản ngày một tăng do giá cả vật tư

đầu vào (như giống, phân bón...) tăng, tình trạng hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh xảy ra

liên tục.

Mặt khác, do sức ép tăng dân số, quá trình đô thị hoá và phát triển các khu

công nghiệp, diện tích đất đai sản xuất bình quân đầu người ngày một giảm (hiện tại ở đồng bằng Sông Hồng 500 m2/người). Trong khi đó, người nông dân vẫn còn phải

đóng góp nhiều khoản để xây dựng, sửa chữa cơ sở hạ tầng ở nông thôn, xã, bản. Vì

vậy, thu nhập và mức sống của người nông dân hiện nay đang còn rất thấp, nhất là

khu vực miền núi, địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn. Khoảng cách về đời

sống và thu nhập của nông dân với các tầng lớp dân cư khác trong xã hội ngày một

rộng thêm. Theo đánh giá của các chuyên gia, thì trong quá trình hội nhập kinh tế

thế giới, lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đời sống của nông dân sẽ bị tác động và

chịu thiệt nhiều nhất do sức cạnh tranh sản phẩm kém.

Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ về thúc đẩy sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, phát triển nông

nghiệp, nâng cao đời sống nông dân, nông thôn gắn với sự nghiệp xoá đói giảm

53

nghèo thì miễn thuỷ lợi phí biện pháp cần thiết và phù hợp với tình hình hiện nay.

Mục tiêu của chính sách miễn thuỷ lợi phí phải được là:

Thứ nhất, giảm bớt chi phí sản xuất nông nghiệp của người nông dân, tạo điều

kiện cho người nông dân có điều kiện đầu tư sản xuất và cải thiện một bước thu

nhập của nông dân.

Thứ hai, đảm bảo năng lực tưới, tiêu của hệ thống công trình thuỷ lợi, chống

xuống cấp công trình. Nâng cao năng lực quản lý khai thác công trình thuỷ lợi của

các tổ chức quản lý khai thác công trình thuỷ lợi trên cơ sở củng cố, nâng cao tổ

chức và phương thức quản lý, phân cấp quản lý hệ thống công trình thuỷ lợi rõ ràng,

hợp lý.

Xuất phát từ bối cảnh và sự cần thiết như đã nêu, Nghị định 154 và Nghị định

115 (thay thế Nghị định 154) đã được ra đời.

3.2. Phân tích, đánh giá chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí.

3.2.1. Những nội dung cơ bản của chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí

3.2.1.1. Miễn thuỷ lợi phí theo quy định của Nghị định 154

a) Đối tượng áp dụng:

Các hộ gia đình, cá nhân có đất, mặt nước dùng vào sản xuất nông nghiệp, lâm

nghiệp, nuôi trồng thủy sản và làm muối gồm đất do nhà nước giao, đất được quyền

sử dụng do được cho, tặng, thừa kế nhận chuyển nhượng sử dụng hợp pháp. Bao

gồm cả phần diện tích đất 5% công ích do địa phương quản lý các hộ gia đình cá

nhân được giao hoặc đấu thầu quyền sử dụng.

b) Phạm vi áp dụng:

Nhà nước miễn thu thuỷ lợi phí cho diện tích đất sản xuất nông nghiệp, lâm

nghiệp, thuỷ sản, làm muối nằm trong hạn mức giao đất nông nghiệp cho hộ gia

đình cá nhân (theo Điều 69 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của

Chính phủ về thi hành Luật Đất đai).

Những diện tích, đối tượng không được miễn thu thuỷ lợi phí gồm diện tích

đất vượt hạn mức giao cho hộ gia đình, cá nhân; và các đối tượng khác như doanh

nghiệp, hoạt động cung cấp, tiêu nước cho sản xuất công nghiệp, nước cấp cho các

54

nhà máy nước sạch, thuỷ điện, kinh doanh du lịch, vận tải qua cống, âu thuyền và

các hoạt động khác được hưởng lợi từ công trình thuỷ lợi.

c) Thời điểm áp dụng miễn thu thuỷ lợi phí bắt đầu từ ngày 1-1-2008

d) Phương án miễn thu thuỷ lợi phí:

- Nhà nước miễn thu thuỷ lợi phí từ công trình đầu mối (tạo nguồn) đến vị trí

cống đầu kênh của tổ chức hợp tác dùng nước (mức thu được quy định trong Nghị

định 143). Các tổ chức hợp tác dùng nước thoả thuận với các hộ dùng nước về mức

thu thuỷ lợi phí vị trí đầu kênh của tổ chức hợp tác dùng nước đến mặt ruộng (kênh

nội đồng) đảm bảo cho hoạt động của tổ chức.

- Nguồn ngân sách cấp bù do miễn thuỷ lợi phí:

+ Ngân sách trung ương cấp kinh phí cho các công ty thuộc Bộ Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn.

+ Ngân sách các tỉnh, thành phố cấp kinh phí cho các tổ chức quản lý, khai

thác công trình thuỷ lợi thuộc địa phương bao gồm cả kinh phí duy tu, bảo dưỡng,

sửa chữa thường xuyên, sửa chữa lớn các công trình thuỷ lợi theo phân cấp.

Ngân sách trung ương hỗ trợ 100% kinh phí tương ứng với số thu thuỷ lợi phí

được miễn cho các tỉnh, thành phố nhận trợ cấp từ ngân sách trung ương (không bao

gồm kinh phí duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa thường xuyên, sửa chữa lớn các công

trình thuỷ lợi do ngân sách địa phương đảm bảo theo phân cấp).

Đối với tỉnh, thành phố có điều tiết nguồn thu về ngân sách trung ương thì tự

bảo đảm ngân sách hỗ trợ cho các tổ chức thủy nông địa phương. Các khoản ngân

sách địa phương đang hỗ trợ cho các công ty thuỷ nông thuộc địa phương quản lý

vẫn được thực hiện theo các chế độ hiện hành.

Theo tính toán khi xây dựng chính sách, dự kiến kinh phí phải cấp bù hàng

năm do miễn thu thuỷ lợi phí khoảng 1.000 tỷ đồng (chưa tính các khoản tăng lương

theo quy định, các khoản trượt giá theo thị trường...), trong đó cho các công ty khai

thác công trình thuỷ lợi do trung ương quản lý là: 100 tỷ đồng, các tổ chức thuộc địa

phương quản lý là: 900 tỷ đồng.

Nghị định 154 được ban hành và thực hiện sau đúng 01 năm thì Nghị định 115

55

ra đời và thay thế Nghị định 154. Lý do phải thay đổi sẽ được trình bày cụ thể trong

phần đánh giá tình hình triển khai thực hiện chính sách.

3.2.1.2. Miễn thuỷ lợi phí theo Nghị định 115

Về nội dung, Nghị định 115 giữ một số nội dung của Nghị định 154 và bổ

sung một số quy định như sau:

a) Phạm vi miễn thuỷ lợi phí:

Mở rộng phạm vi miễn thuỷ lợi phí đối với diện tích sản xuất nông nghiệp

được tưới tiêu bằng các công trình thuỷ lợi đầu tư từ tất cả các nguồn vốn, kể cả

nguồn vốn ngoài ngân sách, tính từ đầu mối đến cống đầu kênh nội đồng.

Phí dịch vụ cấp nước từ sau cống đầu kênh đến mặt ruộng (kênh nội đồng) do

tổ chức, cá nhân sử dụng nước chi trả. Mức phí cụ thể của tổ chức hợp tác dùng

nước thoả thuận với tổ chức, cá nhân sử dụng nước, nhưng không vượt quá mức quy

định của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

b) Về mức thủy lợi phí

Đối với các công trình được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, lấy

mức quy định tài Nghị định 143 làm chuẩn, điều chỉnh cho phù hợp với chế độ tiền

lương và mặt bằng giá cả hiện nay để bảo đảm cho các đơn vị quản lý khai thác

công trình thủy lợi có đủ kinh phí để hoạt động, thực hiện duy tu, sửa chữa công

trình thuỷ lợi, đảm bảo chống xuống cấp công trình, phát huy cao nhất hiệu quả của

các công trình hiện có, đáp ứng yêu cầu cho sản xuất nông nghiệp và dân sinh. Theo

tính toán, mức thuỷ lợi phí mới bằng mức tối thiểu theo quy định của Nghị định 143

nhân với 2,31 lần (tính toán hệ số trượt giá).

Tuy nhiên, phần lớn diện tích tưới tiêu đã được miễn thuỷ lợi phí, số diện tích

phải nộp thuỷ lợi phí rất ít, do vậy để đảm bảo công bằng giữa các địa phương,

thuận tiện trong việc tính toán cấp bù, kiểm tra giám sát, Nghị định 115 chỉ quy định

một mức thu cho tất cả các mùa vụ trong năm, không chia theo vụ như Nghị định

143, áp dụng thống nhất cho cả vùng, phù hợp với phương thức tưới tiêu như động

lực, trọng lực hoặc động lực kết hợp trọng lực như quy định tại Nghị định 143.

Đối với các công trình đầu tư bằng nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước, mức

56

thuỷ lợi phí được thực hiện theo thoả thuận giữa các đơn vị thuỷ nông, tổ chức hợp

tác dùng nước với các tổ chức, cá nhân dùng nước và được Uỷ ban nhân dân các

tỉnh chấp thuận, đảm bảo thuỷ lợi phí mà người dân phải trả cho các đơn vị quản lý,

khai thác công trình thuỷ lợi, tổ chức hợp tác dùng nước ở mức hợp lý, phù hợp với

thu nhập của người dân, tránh tình trạng lợi dụng chính sách của Nhà nước để thoả

thuận thu ở mức cao nhằm thu bất lợi từ chính nguồn cấp bù của nhà nước.

c) Cấp bù về kinh phí do miễn thu thuỷ lợi phí

- Đối với các công trình đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, ngân sách

nhà nước cấp bù 100% theo mức thuỷ lợi phí do Nhà nước quy định.

- Đối với các công trình đầu tư bằng nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước hiện

đang thu theo thoả thuận, ngân sách nhà nước cấp bù 100% theo mức thoả thuận

giữa các đơn vị thuỷ nông với các hộ dùng nước, đã được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh

chấp thuận.

d) Thời gian thực hiện từ 01-01-2009.

Theo tính toán khi xây dựng chính sách, Bộ Tài chính dự kiến, tổng kinh phí

cấp bù từ ngân sách Trung ương sẽ khoảng 3.519 tỷ đồng, tăng hơn so với kinh phí

thực hiện năm 2008 khoảng 2.519 tỷ đồng do mở rộng phạm vi miễn và nâng mức

miễn thuỷ lợi như đã nêu ở trên.

Tuy nhiên, theo tính toán thực tế, nếu áp dụng chính sách và cấp bù theo quy

định của Nghị định 115, ngân sách nhà nước sẽ phải bỏ ra không dưới 6.000 tỷ đồng

để cấp bù cho các địa phương thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí.

3.2.2. Thực trạng triển khai những nội dung của chính sách

3.2.2.1. Thực trạng triển khai Nghị định 154

a) Các hoạt động, hướng dẫn triển khai từ các cơ quan Trung ương

Nghị định 154 được ban hành từ 15/10/2007, đến 28/3/2008, Bộ Tài chính mới

ban hành Thông tư số 26/2008/TT-BTC (Thông tư 26) hướng dẫn thi hành một số

điều của Nghị định 154. Về cơ bản chính sách miễn thuỷ lợi phí ban hành đáp ứng

nguyện vọng đông đảo của người nông dân, đã giúp cho người dân giảm bớt chi phí

sản xuất nông nghiệp, có điều kiện đầu tư sản xuất cải thiện một bước thu nhập của

57

người nông dân.

b) Triển khai của các địa phương

Triển khai thi hành Nghị định 154, nhiều địa phương đã tổ chức các hội nghị

tập huấn chỉ đạo các huyện và các địa phương quán triệt, giải thích người dân hiểu

rõ nội dung, tinh thần của Nghị định. Tuy vậy, khi triển khai còn nhiều lúng túng.

Nhiều tỉnh chưa quyết định thu thuỷ lợi phí theo quy định của Nghị định 143 trước

đây đã quyết định mức thu mới, theo quy định của Nghị định 143, tuy nhiên lại lấy

theo mức cao của Nghị định 143, dẫn đến số kinh phí đề nghị cấp bù tăng vọt,

thường gấp đôi so với mức cũ, không phù hợp với quy định của Thông tư 26.

Theo quy định, các tỉnh phải tiến hành thống kê diện tích được miễn thuỷ lợi

phí theo quy định, trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định. Theo yêu cầu

của Thông tư 26 là phải xong trước 30/6/2008, tuy nhiên hầu hết các tỉnh không thể

thực hiện được đúng thời gian quy định.

Trên cơ sở phân bổ kinh phí từ Nhà nước, các địa phương cũng đã triển khai

phẩn bổ kinh phí cho các đơn vị tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi trong

tỉnh. Tuy nhiên, việc triển khai phân bổ kinh phí cho các tổ chức hợp tác dùng nước

và các đơn vị quản lý khai thác công trình thuỷ lợi không phải là doanh nghiệp còn

gặp nhiều vướng mắc.

c) Một số khó khăn, bất cập trong việc triển khai

Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị định 154 và Thông tư 26 của Bộ Tài

chính, đã nảy sinh một số vướng mắc mà các địa phương không thể tự giải quyết

được, cần được tháo gỡ. Cụ thể như sau:

Thứ nhất là, đối tượng được miễn thuỷ lợi phí:

Nghị định 154 mới chỉ đề cập đến diện tích tưới tiêu đối với các công trình

thuỷ lợi xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước; đối với diện tích tưới tiêu

các công trình thuỷ lợi xây dựng bằng vốn không phải của ngân sách và đang thu

theo thoả thuận thì không được miễn.

Theo hướng dẫn tại điểm 2.5, mục 2, phần I, của Thông tư 26: “Diện tích nằm

trong phạm vi tưới, tiêu và cấp nước của các hệ thống công trình thuỷ lợi do các tổ

58

chức, cá nhân đầu tư bằng các nguồn vốn không thuộc nguồn vốn của ngân sách nhà

nước và nộp thuỷ lợi phí theo mức thoả thuận giữa đơn vị quản lý thuỷ nông và hộ

dùng nước” không thuộc diện được miễn thuỷ lợi phí.

Như vậy, để được miễn thuỷ lợi phí phải là vùng diện tích được phục vụ từ các

công trình thuỷ lợi được đầu tư bằng ngân sách Nhà nước và thu thuỷ lợi phí theo

quy định của Nghị định 143. Đối với những tổ chức hợp tác dùng nước quản lý, khai

thác công trình thuỷ lợi không có nguồn gốc đầu tư từ ngân sách nhà nước, hoặc

những tổ chức hợp tác dùng nước được giao quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi

do nhà nước đầu tư xây dựng nhưng không nộp thuỷ lợi phí theo quy định của Nghị

định 143 vẫn sẽ phải nộp thuỷ lợi phí. Điều này là không công bằng, ngay ở cấp

cộng đồng dân cư, rất khó khăn trong việc xác định nguồn gốc vốn đầu tư xây dựng

và phân biệt các loại hình diện tích.

Bên cạnh đó, khái niệm “nguồn vốn của ngân sách nhà nước” cũng không

được giải thích cho rõ ràng, do vậy, mỗi địa phương đã hiểu và áp dụng một cách

khác nhau dẫn đến rất không thống nhất.

Thứ hai là, tổ chức được hưởng kinh phí cấp bù do miễn thu thuỷ lợi phí: Theo

điểm 3.3, mục 3, phần I của Thông tư 26 quy định “các tổ hợp tác dùng nước: Ban

quản lý thuỷ nông, tổ đường nước, đội thuỷ nông, hội dùng nước, hiệp hội dùng

nước, hợp tác xã nông nghiệp được giao quản lý các công trình thuỷ lợi đầu mối đến

cống đầu kênh của tổ hợp tác dùng nước phục vụ tưới nước và tiêu nước cho sản

xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản có thu thuỷ lợi phí.

Các đơn vị quản lý thuỷ nông phải được cơ quan có thẩm quyền (Uỷ ban nhân

dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) quyết định thành lập, hoặc có giấy phép

đăng ký kinh doanh hoặc được đại hội xã viên thông qua quy chế, điều lệ hoạt động

và được sự đồng ý bằng văn bản của Uỷ ban nhân dân quận, huyện hoặc thị xã nơi

đóng trụ sở chính”.

Điều này, sẽ dẫn đến sự khập khiễng giữa các văn bản hướng dẫn của các cơ

quan Trung ương đối với tổ chức hợp tác dùng nước, một đối tượng quan trọng

trong việc triển khai chính sách miễn thuỷ lợi phí, làm các địa phương rất khó vận

59

dụng, vì Thông tư số 75/2004/TT-BNN ngày 20/12/2004 của Bộ Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn.

Như vậy, nhiều tỉnh không có đơn vị tổ chức quản lý, khai thác công trình thủy

lợi sẽ không được hưởng chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí. Ví dụ như tỉnh Bắc

Kạn, Cà Mau, Hà Giang…

Thứ ba là, mức thuỷ lợi phí để cấp bù: theo Thông tư 26, việc xác định kinh

phí để thực hiện miễn thu thuỷ lợi phí dựa trên cơ sở quyết định mức thu thuỷ lợi phí

của địa phương đang áp dụng theo Nghị định 143, hoặc nếu chưa áp dụng thì Uỷ

ban nhân dân tỉnh phải ban hành quyết định mới theo quy định của Nghị định 143

nhưng mức thu không cao hơn năm 2007.

Như vậy, áp theo quy định này, sẽ có sự không công bằng giữa các địa

phương, đặc biệt những tỉnh chưa thực hiện Nghị định 143 sẽ quyết định mức cao

nhất trong khung quy định. Bởi vì, nếu vẫn thực hiện thu theo quy định của Nghị

định 112 (theo % sản lượng thóc), cùng với giá thóc tương đương mức cao nhất của

Nghị định 143. Dẫn đến tình trạng địa phương quy định mức cao thì ngân sách địa

phương phải chi ít và được ngân sách Trung ương hỗ trợ nhiều. Ngược lại địa

phương (thường là các tỉnh nghèo) quy định mức thu thấp được ngân sách trung

ương hỗ trợ ít, ngân sách địa phương phải chi nhiều.

Mặt khác mặt bằng thu thuỷ lợi phí của các địa phương đang ở mức thấp nên

chưa bảo đảm kinh phí để chi cho các đơn vị thuỷ nông, nhất là chi cho việc duy tu,

bảo dưỡng công trình. Mặt khác mức thu thuỷ lợi phí theo Nghị định 143 được xây

dựng trên cơ sở tiền lương và giá cả năm 2001-2002 (lương tối thiểu 210.000 đồng).

Đến thời điểm Nghị định 154 ra đời, tiền lương tối thiểu tăng hơn 2 lần, giá cả

nguyên nhiên vật liệu tăng nhiều lần, nhất là xăng dầu nên người lao động trong các

đơn vị quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi gặp khó khăn, thiếu kinh phí để duy tu,

sửa chữa thường xuyên công trình, kênh mương.

Trường hợp các tỉnh đã quy định mức thu theo Nghị định 143, với điều kiện

biến động giá cả, lạm phát như hiện nay, nếu không có chính sách miễn thu thuỷ lợi

phí, chắc chắn cũng phải điều chỉnh tăng mức thu thuỷ lợi phí để đáp ứng yêu cầu

60

kinh phí cho quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, vì nhiều địa phương, ngoài kinh

phí từ nguồn thu thuỷ lợi phí, tỉnh không thực hiện cấp bù đối với hoạt động công

ích trong lĩnh vực tưới tiêu cho các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi do

ngân sách của tỉnh không đáp ứng được yêu cầu.

Do đó, quy định mức cấp bù được khống chế theo mức thu của năm 2007 sẽ

đặt các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi vào hoàn cảnh khó khăn về kinh

phí, đặc biệt là tiền lương cho cán bộ, nhân viên.

Thứ tư là một số vấn đề bất cập khác

Điểm 1.2, mục 1, phần II Thông tư 26 quy định “Uỷ ban nhân dân cấp quận,

huyện, thị xã nơi đối tượng miễn thuỷ lợi phí cư trú xác nhận bảng kê do đơn vị

quản lý thuỷ nông lập” cũng chưa hợp lý, bởi vì, nhiều đối tượng có đất canh tác

trên địa bàn này, nhưng cư trú ở địa bàn khác.

Mục 4, phần II, Thông tư 26 quy định “Việc xác định diện tích miễn thu thuỷ

lợi phí của năm 2008 phải thực hiện xong trước ngày 30/6/2008”. Do Thông tư

hướng dẫn mới ban hành ngày 28/3/2008, do vậy, nếu quy định thời điểm như vậy

phải hoàn thành sẽ quá gấp gáp, các địa phương không thể đáp ứng được. Thực tế

đã chứng minh điều này.

Mục 5, phần III, Thông tư 26 quy định ”Đối với các đơn vị thuỷ nông thuộc

diện đặt hàng, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương uỷ quyền cho

cơ quan chuyên môn trực thuộc (Sở Tài chính, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn) ký hợp đồng đặt hàng”. Nhiều tỉnh, ngoài doanh nghiệp khai thác công trình

thuỷ lợi, còn một số lượng lớn các đơn vị quản lý thuỷ nông là các tổ chức hợp tác

dùng nước, với số lượng cán bộ chuyên môn hiện tại thì Sở Tài chính, Sở Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn khó có thể đảm đương được khối lượng công việc.

Việc quy định phải có hợp đồng, thanh lý hợp đồng dùng nước cũng không phù hợp

với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.

Do còn quá nhiều bất cập trong việc triển khai thực hiện Nghị định 154, đặc

biệt là vấn đề công bằng, bình đẳng giữa những người nông dân được hưởng lợi từ

các công trình thuỷ lợi khác nhau, do vậy, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài chính chủ

61

trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sớm sửa đổi, bổ sung

Nghị định 154. Nghị định 115 ra đời trong hoàn cảnh như vậy.

3.2.2.2. Kết quả triển khai Nghị định 115

a) Công tác chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện chính sách miễn giảm thuỷ

lợi phí từ các cơ quan Trung ương

Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định, Bộ Tài chính đã phối hợp Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Thông tư số 36/2009/TT-BTC ngày

26/2/2009 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định nói trên (Thông tư 36).

Để hỗ trợ triển khai chính sách này, Bộ Tài chính cũng đã phối hợp với Bộ

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Thông tư số 11/2009/TT-BTC ngày

19/01/2009 hướng dẫn giao kế hoạch, đặt hàng đối với các đơn vị quản lý, khai thác

công trình thủy và quy chế quản lý tài chính đối với công ty nhà nước quản lý, khai

thác công trình thuỷ lợi. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết các doanh nghiệp khai thác

công trình thuỷ lợi đã được chuyển đổi sang loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn

100% vốn thuộc sở hữu nhà nước và hoạt động theo quy định tại Nghị định số

25/2010/NĐ-CP ngày 19/3/2010 của Chính phủ về chuyển đổi công ty nhà nước

thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và tổ chức quản lý công ty trách

nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu và Thông tư số

117/2010/TT-BTC ngày 05/8/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế tài chính của

công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.

Nhằm đồng bộ với các quy định hiện hành, thực hiện các nội dung của Nghị

định số 115, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư số

65/2009/TT-BNNPTNT ngày 12/10/2009 hướng dẫn tổ chức hoạt động và phân cấp

quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi; Quyết định số 2891/QĐ-BNN-TL ngày

12/10/2009 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hướng dẫn xây

dựng định mức kinh tế kỹ thuật trong công tác quản lý, khai thác và bảo vệ công

trình thuỷ lợi. Các văn bản này là cơ sở pháp lý quan trọng giúp các địa phương, các

đơn vị quản lý khai thác công trình thuỷ lợi triển khai đồng bộ các cơ chế, chính

sách trong lĩnh vực miễn thuỷ lợi phí, đồng thời tăng cường công tác quản lý, khai

62

thác công trình thuỷ lợi.

Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang chỉ đạo các cơ quan,

đơn vị có liên quan soạn thảo, trình Bộ ban hành văn bản để chuẩn hoá năng lực của

các tổ chức, cá nhân khi tham gia quản lý, vận hành các hệ thống công trình thuỷ

lợi.

b) Triển khai các nhiệm vụ cụ thể của các địa phương

Theo quy định của Nghị định 115 và các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính,

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực

thuộc Trung ương đã triển khai một số công việc nhằm cụ thể hoá một số nội dung

của Nghị định, như việc phân cấp quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, quy định cụ

thể mức thu thuỷ lợi phí, quy định vị trí cống đầu kênh của tổ chức hợp tác dùng

nước; quy định mức trần thuỷ lợi phí nội đồng trên địa bàn địa phương nhằm gắn

trách nhiệm, quyền hạn của người dùng nước trong việc tham gia đóng góp đối với

việc quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi và bảo vệ nguồn nước

Mặc dù vậy, Nghị định 115 ban hành và thực hiện đến nay đã được 2 năm,

nhưng vẫn còn nhiều tỉnh đang triển khai các nội dung thuộc trách nhiệm của địa

phương trong việc cụ thể hoá Nghị định 115 trên địa bàn của địa phương, như quy

định về vấn đề phân cấp quản lý công trình thuỷ lợi, quy định cống đầu kênh, quy

định mức trần kinh phí của tổ chức hợp tác dùng nước; chỉ đạo xây dựng định mức

kinh tế kỹ thuật trong quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi; hoàn thiện quá trình sắp

xếp, đổi mới doanh nghiệp và củng cố các tổ chức hợp tác dùng nước, dẫn đến việc

triển khai thi hành chính sách miễn thuỷ lợi phí chưa thực hiện đồng bộ trên toàn

quốc. Nhiều tỉnh, hầu hết là các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên… đều không

quy định mức trần kinh phí thuỷ nông nội đồng, nông dân mặc nhiên được miễn

toàn bộ thuỷ lợi phí, kể cả thuỷ lợi phí nội đồng.

Thực chất, đây là vấn đề tồn tại, bất cập trong khái niệm cống đầu kênh được

áp dụng kể từ khi Nghị định 143 ra đời, do quy mô của các công trình thuỷ lợi nhỏ,

các công trình tưới cho ruộng trực tiếp từ kênh chính, kênh cấp 1, do vậy việc quy

định cống đầu kênh là không thể thực hiện được.

63

Theo tổng kết báo cáo của các địa phương, thì việc triển khai ban hành các quy

định để hoàn thiện, đồng bộ việc thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí từ trung

ương tới các địa phương chưa cao. Còn nhiều tỉnh đến năm 2010 mới tiếp cận hoặc

hiểu rõ chính sách sách này và mới vận dụng được chính sách này trong thực tế ở

địa phương (Cà Mau, Kiên Giang). Một số địa phương khi lập dự toán kinh phí

miễn thuỷ lợi phí chưa áp dụng đúng theo quy định của Nghị định 115 như Thành

phố Cần Thơ, Tỉnh Hậu Giang. Thực tế, việc áp dụng chính sách này còn vướng

mắc xảy ra ở hầu hết các tỉnh chưa thành lập được các công ty khai thác công trình

thuỷ lợi.

Tuy vậy, theo đánh giá chung, việc triển khai các nội dung theo quy định của

Nghị định 115 ở các địa phương còn nhiều thụ động, có địa phương còn quá trông

chờ, ỷ lại vào hướng dẫn chi tiết của Trung ương, mà nhiều nội dung cụ thể áp dụng

cho từng hệ thống công trình, từng vùng kinh tế xã hội phụ thuộc chủ yếu vào quyết

định của địa phương. Một số nội dung thuộc thẩm quyền của địa phương nhưng

nhiều nơi vẫn đòi hỏi các hướng dẫn cụ thể từ các cơ quan Trung ương.

c) Tình hình cấp ngân sách thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí trong các

năm vừa qua

Năm 2009, Ngân sách Trung ương đã cân đối trên 2.800 tỷ đồng (chưa kể các

tỉnh tự bù đắp kinh phí) để hỗ trợ các địa phương cấp kinh phí cho các đơn vị quản

lý, khai thác công trình thuỷ lợi thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí. Năm 2010,

ngân sách Trung ương bố trí khoảng 3.339 tỷ đồng để bố trí cho các địa phương

thực hiện chính sách này, chưa kể các tỉnh tự đảm bảo ngân sách để thực hiện cấp

bù miễn thu thuỷ lợi phí. Theo tổng hợp sơ bộ từ báo cáo của các địa phương, tổng

số nhu cầu kinh phí để miễn giảm thuỷ lợi phí năm 2011 khoảng trên 4.900 tỷ đồng.

Theo quy định của Chính phủ, từ 2011-2015, mức thuỷ lợi phí sẽ được ổn định cho

các địa phương trên cơ sở mức miễn thuỷ lợi phí đã được các cấp có thẩm quyền

phê duyệt. Tổng hợp kinh phí đối với các vùng trong các năm thực hiện miễn thuỷ

lợi phí thể hiện trong bảng 3.1.

64

Bảng 3.1. Tổng hợp kinh phí miễn thuỷ lợi phí

Đơn vị: Tỷ đồng

TT Vùng Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 KH 2011

122 1 Vùng miền núi phía Bắc 292 320 369

727 2 Vùng Đồng bằng sông Hồng 1.346 1.441 1.474

513 3 Bắc Khu 4 và DHMT 1.035 1.064 1.106

25 4 Tây Nguyên 61 84 103

32 5 Đông Nam Bộ 50 58 71

6 Đồng bằng sông Cửu Long 201 413 747 1.909

Tổng số 1.563 3.141 3.658 4.978

Đồ thị 3.1. Diễn biến kinh phí cấp bù thuỷ lợi phí

Tỷ đồng

Bên cạnh đó, trong năm 2010, theo quy định của Nghị định 115, theo đề nghị

của Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thủ tướng Chính phủ

cũng đã quyết định cấp 288,05 tỷ đồng để hỗ trợ cho các địa phương và hai công ty

khai thác công trình thuỷ lợi trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

(Bắc Nam Hà, Bắc Hưng Hải) để thực hiện xoá nợ đọng thuỷ lợi phí và xử lý lỗ do

65

nguyên nhân khách quan, trong đó cho các địa phương là 278,96 tỷ đồng, các đơn vị

quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi trực thuộc Bộ là 9,09 tỷ đồng.

Việc xoá nợ đọng thuỷ lợi phí, xử lý lỗ do nguyên nhân khách quan cho các

theo quy định của Nghị định 115 đã làm lành mạnh hoá tài chính cho các doanh

nghiệp, tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, tạo điều kiện thuận lợi cho

các tổ chức này trong hoạt động, hạch toán sổ sách kế toán trong bối cảnh nhà nước

miễn giảm thuỷ lợi phí cho người dân, phù hợp trong bối cảnh nhà nước thực hiện

chính sách miễn thuỷ lợi phí. Tuy vậy, việc chưa có cơ chế xử lý số nợ và lỗ còn lại

cũng đang là một khó khăn với các địa phương để xử lý dứt điểm vấn đề này.

d) Một số kết quả đánh giá mặt được của chính sách

Thứ nhất, diện tích tưới, tiêu năng suất lúa được nâng nên:

Việc thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí đã làm kết quả phục vụ tưới tiêu

của các công trình thuỷ lợi được tăng lên rõ rệt kể từ khi chính sách miễn giảm thuỷ

lợi phí được triển khai thực hiện. Rất nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi được duy tu

sửa chữa, hệ thống kênh mương được tu sửa nạo vét đã nâng cao năng lực, mở rộng

diện tích tưới, thường tăng từ 4-10%, thậm chí có hệ thống tăng 40%.

Hiệu quả của chính sách này là tăng diện tích tưới chủ động, tăng năng suất

lúa. Nhiều diện tích gieo trồng lúa, màu cây vụ đông trước đây chỉ được tạo nguồn

nước tưới hoặc tưới chủ động, tuy nhiên, khi thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí

đã được tưới chắc, tưới chủ động. Diện tích rau màu, cây công nghiệp, cây vụ đông

được tưới cũng ngày được tăng lên. Kết quả tưới tiêu, cấp nước của các địa phương

các vùng tăng đều hàng năm, do nhiều nguyên nhân, phản ánh mặt tích cực của

chính sách miễn thuỷ lợi phí đã được ban hành.

Thứ hai, công trình thuỷ lợi được duy tu, sửa chữa thường xuyên, đảm bảo an

toàn, chống xuống cấp công trình, tạo nguồn nước tưới tiêu

Khi thực hiện chính sách miễn giảm thủy lợi phí theo quy định của Nghị định

115, mức thu đối với các vùng đều được tăng lên, bằng 2,31 lần so với mức tối thiểu

hay bằng 1,3 đến 1,7 lần mức cao nhất theo quy định tại Nghị định 143, đồng thời,

so với trước đây, các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi phải đi thu, thường

66

không thu đủ 100%, nay luôn được cấp ứng một khoản kinh phí trước từ đầu năm

nên rất chủ động trong hoạt động, duy tu, sửa chữa công trình thuỷ lợi.

Tỷ lệ kinh phí miễn thuỷ lợi phí được giành cho công tác duy tu, sửa chữa

công trình thuỷ lợi được tăng lên rõ rệt, Yên Bái, Lạng Sơn, Hải Dương, Nam Định,

Hà Nam, Thanh Hoá, các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Đặc biệt, hầu hết các tỉnh

vùng Đồng bằng sông Cửu long thường giành một khối lượng lớn kinh phí để thực

hiện duy tu các công trình cống, khơi thông kênh rạch.

Thứ ba, tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi từng bước được sắp xếp,

củng cố và kiện toàn, đời sống cán bộ công nhân quản lý khai thác công trình thuỷ

lợi ngày càng ổn định và nâng cao

Sau khi thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí, đồng thời với quá trình sắp

xếp, đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước theo quy định Luật Doanh

nghiệp, hầu hết doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi ở các địa phương đã

được chuyển đổi hình thức hoạt động sang loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn

một thành viên (100% vốn thuộc sở hữu Nhà nước). Các doanh nghiệp đã và đang

tiếp tục củng cố, sắp xếp cho phù hợp với những chế độ, chính sách mới đã được

ban hành. Một số tỉnh (Hoà Bình), việc chuyển đổi còn chậm so với quy định, một

số địa phương đang triển khai đề án thành lập công ty nhưng chưa thực hiện được

như Cà Mau, Tuyên Quang...

Kể từ sau khi thực hiện miễn thuỷ lợi phí đến nay, ngoài việc kiện toàn các

doanh nghiệp, tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, đã có 01 tỉnh chuyển

đổi mô hình hoạt động từ Trung tâm thành Công ty TNHHMTV Khai thác công

trình thuỷ lợi (tỉnh An Giang), 02 tỉnh thành lập mới công ty TNHHMTV Khai thác

công trình thuỷ lợi (Lai Châu, Bắc Kạn), 01 tỉnh thành lập mới Trung tâm Quản lý,

khai thác công trình thuỷ lợi Long An (trực thuộc Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh

Long An, thành lập năm 2010).

Có nguồn thu ổn định, do vậy, các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi

đã đảm bảo chế độ tiền lương cho cán bộ, công nhân viên thuỷ nông theo đúng các

quy định hiện hành. Thu nhập trung bình của cán bộ, công nhân viên thuỷ nông của

67

một số doanh nghiệp đã bằng mức trung bình hoặc hơn các doanh nghiệp khác trên

địa bàn. Một số doanh nghiệp đã khuyến khích cán bộ, công nhân viên phát huy

năng lực, nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí để nâng cao thu nhập cho

cán bộ, công nhân viên thuỷ nông như Thái Nguyên, Xuân Thuỷ (Nam Định), Bình

Định, Bình Thuận…

Do hoạt động có hiệu quả, nhiều công ty khai thác công trình thuỷ lợi đã thu

hút được những cán bộ có trình độ vào làm việc.

Thứ tư, chính sách này đã đáp ứng được chủ trương giảm bớt một phần chi

phí của người dân trong sản xuất

Việc thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí là một chủ trương lớn của Đảng,

Chính phủ. Mặc dù trong quá trình thực hiện còn một số tồn tại, nhưng chính sách

này đã đáp ứng được chủ trương giảm bớt một phần chi phải đóng góp của người

dân trong sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng. Theo kết quả điều tra đánh giá, việc

miễn thuỷ lợi phí đã trực tiếp tác động làm người dân giảm được từ 5-10% chi phí

sản xuất nông nghiệp, làm tăng thu nhập cho các hộ dân sản xuất nông nghiệp. Có

nơi, người dân không phải nộp thuỷ lợi phí (kể cả kinh phí nội đồng).

Hầu hết tại các tỉnh đều đánh giá cao những thuận lợi của chính sách miễn

giảm thuỷ lợi phí đã được ban hành. Chính sách này đã tạo điều kiện cho các địa

phương tập trung hơn cho công tác quản lý, khai thác các hệ thống công trình thuỷ

lợi, kênh mương hiện có, nâng cao năng lực quản lý điều hành nhằm phát huy tối đa

hiệu quả của các công trình. Các tổ chức quản lý khai thác công trình thuỷ lợi ở các

địa phương cũng từng bước được củng cố, sắp xếp theo hướng tinh gọn, phù hợp

với tình hình mới.

Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí theo quy định của Nghị định 115 đã tạo

điều kiện thuận lợi cho các hộ nông dân tập trung đầu tư phát triển sản xuất, nâng

cao lợi nhuận, kích thích tham gia sản xuất được nhân dân đồng tình ủng hộ, giảm

bớt khó khăn kinh tế.

Thứ năm, tạo ra nguồn kinh phí ổn định cho các địa phương, đơn vị quản lý

khai thác công trình thuỷ lợi chủ động trong hoạt động phục vụ sản xuất, dân sinh,

68

duy tu, sửa chữa công trình thuỷ lợi

Nhờ hỗ trợ từ việc thực hiện chính miễn thuỷ lợi phí, nhiều địa phương, đơn vị

quản lý khai thác công trình thuỷ lợi đã có kinh phí để duy tu, sửa chữa kịp thời các

công trình bị hư hỏng, xuống cấp. Thực tế trong những năm trước đây, ngoài số

kinh phí thuỷ lợi phí thu được rất ít ỏi, rất ít tỉnh thực hiện cấp bù cho hoạt động

công ích trong quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Một số tỉnh thực hiện thông

qua cấp kinh phí sự nghiệp thuỷ lợi để đầu tư sửa chữa lớn, nạo vét những công

trình mang tính cấp bách, hư hỏng trầm trọng hoặc cấp tiền điện bơm tưới, tiêu úng

vượt định mức. Khi thực hiện chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí, các địa phương đã

nhận được kinh phí hỗ trợ từ Trung ương để thực hiện sửa chữa, duy tu, bảo dưỡng

công trình, nạo vét kênh mương, góp phần phục hồi và nâng cao hiệu suất hoạt động

của công trình thuỷ lợi, phục vụ tốt cho sản xuất và đời sống dân sinh.

Chính sách này đã giúp các địa phương chủ động kinh phí để đầu tư cho công

tác sửa chữa, duy tu, vận hành công trình thuỷ lợi, để giành kinh phí sự nghiệp thuỷ

lợi (vẫn phải chi cho duy tu, sửa chữa nhỏ công trình thuỷ lợi trước kia) để thực hiện

cho các nhu cầu chi phí đầu tư khác của địa phương.

Thứ sáu, tạo điều kiện đảm bảo đời sống vật chất cho cán bộ, công nhân quản

lý khai thác công trình thuỷ lợi

Không còn tình trạng chậm lương, nợ lương đối với cán bộ, công nhân viên

thuỷ nông như ở một số công ty khai thác công trình thuỷ lợi trước đây. Hầu hết các

doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi đã đảm bảo chế độ lương cơ bản cho

cácn bộ. Tuy nhiên, còn nhiều doanh nghiệp, chủ yếu ở miền núi, Tây Nguyên, chưa

được thực hiện chế độ khen thưởng, phúc lợi (2÷3 tháng lương thực tế), chế độ ăn

ca theo quy định cũng chưa được thực hiện đầy đủ.

Thứ bảy, khắc phục được tình trạng giấu diện tích được phục vụ tưới tiêu và

không còn tình trạng nợ đọng thuỷ lợi phí

Thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi cho thấy hiệu quả công trình thuỷ lợi được

tăng lên rõ rệt, thể hiện qua kết quả tưới tiêu từ các năm. Hiện nay, không còn tình

trạng giấu diện tích giữa người sử dụng nước với các doanh nghiệp khai thác công

69

trình thuỷ lợi, dẫn đến nhiều khu vực diện tích tăng lên từ 3-5%, thậm chí có nơi

tăng 10% diện tích so với trước khi miễn thuỷ lợi phí.

Bên cạnh đó, do được duy tu, sửa chữa đầy đủ, các công trình thuỷ lợi đã nâng

cao năng lực tưới, dẫn đến kết quả tưới tăng lên đáng kể. Tính từ thời điểm thực

hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí, không còn tồn tại tình trạng nợ đọng thuỷ lợi phí

từ người dân và tổ chức hợp tác dùng nước đối với công ty khai thác công trình thuỷ

lợi.

đ) Những vấn đề còn tồn tại khi thực hiện chính sách

Tuy có rất nhiều mặt tích cực, nhưng chính sách miễn thuỷ lợi phí theo quy

định của Nghị định 115 cũng bộc lộ không ít tồn tại. Cụ thể như sau:

Thứ nhất là, mức thu thuỷ lợi phí còn có nhiều bất cập

Việc lấy mức quy định của Nghị định 143 làm cơ sở tính toán, trên cơ sở đó

nhân với hệ số trượt giá (2,31 lần) để xác định mức thu quy định của Nghị định 115

là không phù hợp thực tế, vì quan điểm khi đặt mức thu tại Nghị định 143 và 115

khác nhau.

Với mức này, các vùng miền núi, Tây nguyên sẽ gặp nhiều khó khăn do việc

quản lý công trình thuỷ lợi trải trên địa bàn rộng, diện tích manh mún, chi phí quản

lý, vận hành công trình cao nhưng mức thu quy định thấp, do vậy mức cấp bù rất

thấp. Hầu hết các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi ở miền núi và Tây

nguyên đều có doanh thu không đủ bù đắp các chi phí hợp lý theo quy định, dẫn đến

hoạt động còn nhiều khó khăn, không đảm bảo kinh phí để duy tu bảo dưỡng công

trình, trong khi đó đối với các vùng khác, như Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng

sông Cửu Long còn dư kinh phí để sửa chữa lớn công trình.

Theo mức thu quy định của Nghị định 115, kinh phí cấp bù cho các tỉnh đồng

bằng sông Cửu Long rất lớn, mặc dù chỉ tính theo mức thu tạo nguồn. Khi thực

hiện, việc cấp bù kinh phí miễn thuỷ lợi phí đối với các tỉnh đồng bằng sông Cửu

Long không thể thực hiện theo quy định của Nghị định 115, vì nếu cấp đủ, các địa

phương sẽ chuyển việc sử dụng nguồn kinh phí này theo hình thức xây dựng cơ bản.

Trong khi đó, do không có cơ chế cấp kinh phí trực tiếp tới người dân, nên khoản

70

kinh phí phải trả cho việc bơm nước tưới, tiêu ở khu vực nội đồng của người dân ở

khu vực Đồng bằng sông Cửu Long còn rất lớn. Mặc dù đã miễn phần lớn thuỷ lợi

phí cho người dân, tuy nhiên, một số người dân vùng khó khăn vẫn phải chi phí

nhiều cho chi phí tưới tiêu, thường từ 500.000-700.000đồng/ha vụ để bơm nước

tưới tiêu.

Việc sử dụng kinh phí miễn thu thuỷ lợi phí ở các địa phương chủ yếu đáp ứng

cho các công trình tạo nguồn, song còn không thống nhất. Các tỉnh Tiền Giang, Bến

Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng thực hiện theo các quy định hiện hành, do các tỉnh này đã

có mô hình Công ty khai thác công trình thuỷ lợi. Tuy nhiên, một số tỉnh như Long

An, Hậu Giang, An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Vĩnh Long không giao cho tổ

chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, mà kinh phí được sử dụng chủ yếu cho

mục đích đầu tư xây dựng cơ bản, do tỉnh hoặc phân cấp cho huyện làm chủ đầu tư.

Trong các quy định hiện hành, còn chưa có quy định về việc tiêu cho các khu công

nghiệp, đô thị…, mặc dù hầu hết việc tiêu thoát nước cho các khu vực này đều chảy qua

hệ thống công trình thuỷ lợi. Theo quy định của Nghị định 115 có quy định về miễn thuỷ

lợi phí đối với đất sử dụng cho lâm nghiệp, nhưng trong các mức thu và hướng dẫn cụ

thể đối với loại hình này chưa có, nên nhiều địa phương còn chưa thực hiện được.

Thứ hai là, thuỷ lợi phí, tiền nước đối với nuôi trồng thuỷ sản và các dịch vụ

phi sản xuất nông nghiệp

Mặc dù mức thu đối với nuôi cá lồng, cá bè theo quy định của Nghị định 115

không điều chỉnh so với Nghị định số 143, tuy nhiên theo phản ánh của một số tổ

chức, cá nhân nuôi trồng thuỷ sản, mức thu 8÷10% giá trị sản lượng là quá cao,

không tạo điều kiện phát triển thủy sản cũng như không khuyến khích khai thác tổng

hợp các công trình thủy lợi. Bên cạnh đó, việc áp mức thu trên giá trị sản lượng sẽ

rất khó thực hiện, vì các đơn vị quản lý, khai thác công trình thủy lợi không kiểm

soát được giá trị sản lượng thực tế của các tổ chức, cá nhân nuôi trồng thuỷ sản.

Việc xác định doanh thu đối với dịch vụ nuôi trồng thủy sản, sử dụng công

trình thuỷ lợi để kinh doanh du lịch, nghỉ mát, an dưỡng, giải trí (kể cả kinh doanh

sân golf, nhà hàng, casino…) rất khó. Hiện cũng chưa có cơ chế xử phạt đối với các

71

đối tượng kinh doanh nhưng không hợp tác, chây ỳ việc nộp tiền nước cho các đơn

vị quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.

Thứ ba là, việc xác định một số chỉ tiêu chuyên môn theo quy định còn rất khó

áp dụng đối với hệ thống công trình thuỷ lợi nhỏ

Theo quy định, thuỷ lợi phí chỉ được miễn đến cống đầu kênh của tổ chức hợp

tác dùng nước. Tuy nhiên, việc xác định cống đầu kênh đối với nhiều hệ thống công

trình thuỷ lợi là rất khó khăn, có hệ thống không thể xác định được. Thông tư số 65

đã quy định việc xác định cống đầu kênh của tổ chức hợp tác dùng nước, tuy vậy

việc triển khai cụ thể ở các địa phương còn nhiều vướng mắc.

Việc quy định mức trần của thuỷ nông nội đồng có nơi cũng không áp dụng

được do công trình thuỷ lợi nhỏ, công trình chỉ gồm đầu mối và kênh cấp 1 và tưới

trực tiếp cho ruộng và do tổ chức của người dân trực tiếp quản lý, vận hành. Không

thể quy định mức trần và nếu có cũng không biết phải nộp cho tổ chức nào.

Thứ tư là, một bộ phận người dân còn chưa hiểu hết chính sách miễn thuỷ lợi

phí và thiếu ý thức trong việc sử dụng tiết kiệm nước

Việc tuyên truyền, hướng dẫn, phổ biến chính sách, đối tượng, phạm vi miễn

thuỷ lợi phí ở các địa phương nhìn chung còn nhiều hạn chế, nhiều người dân, thậm

chí cả cán bộ các cấp nhận thức chưa đúng về miễn thuỷ lợi phí, gây khó khăn trong

việc triển khai thực hiện và ảnh hưởng đến hoạt động của các tổ chức quản lý, khai

thác công trình thủy lợi.

Khi người dân được miễn thuỷ lợi phí, trách nhiệm của người dân trong việc

tham gia quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi bị giảm sút, tư tưởng sử dụng nước

tiết kiệm bị triệt tiêu, do vậy xảy ra tình trạng lãng phí nước ở một số nơi, một số hệ

thống công trình thuỷ lợi không được kiểm soát tốt nguồn nước (Ninh Bình, Hà

Nội). Vai trò, trách nhiệm của người cán bộ, công nhân viên thuỷ nông được giao sẽ

nặng nề hơn, nhưng cũng khó có thể đáp ứng được do đặc thù của hệ thống công

trình thuỷ lợi là nằm ngoài trời và trải rộng trên khắp địa bàn của các địa phương.

Bên cạnh đó, thực tế rất nhiều người dân khi được hỏi đã trả lời Nhà nước đã miễn

toàn bộ thuỷ lợi phí cho người dân, do vậy họ không phải đóng bất kỳ khoản gì về

72

thuỷ lợi nữa, kể cả phí thuỷ lợi nội đồng. Vấn đề này đòi hỏi các cơ quan chuyên

môn có liên quan cần tiếp tục có những biện pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật

có hiệu quả hơn nữa để người dân có thể hiểu rõ hơn về chính sách.

Thứ năm là, hướng dẫn quản lý tài chính cho các tổ chức hợp tác dùng nước

chưa cụ thể nên việc giải ngân kinh phí của các tổ chức này còn nhiều khó khăn

Trước khi thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí, thì phí thuỷ lợi nội đồng

được thu theo thoả thuận, giữa tổ chức hợp tác dùng nước với người dân, mọi kế

hoạch chi phí, hoạt động của tổ chức này được thống nhất thông qua hội nghị toàn

thể hoặc đại biểu của tổ chức hợp tác dùng nước.

Khi thực hiện chính miễn thuỷ lợi phí, nhiều tổ chức tổ chức hợp tác dùng

nước được sử dụng kinh phí, cấp từ ngân sách, do vậy, việc sử dụng nguồn kinh phí

này phải thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, chế

độ quản lý tài chính đối với các tổ chức này trong việc sử dụng nguồn cấp bù chưa

rõ ràng, hiện mới chỉ có Thông tư số 74/2008/TTLT-BTC-BNN ngày 14/8/2008 của

liên Bộ Tài chính - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn chế độ quản

lý tài chính trong Hợp tác xã nông nghiệp và Thông tư số 11/2009/TT-BTC hướng

dẫn đặt hàng, giao kế hoạch và quản lý tài chính đối với công ty nhà nước thực hiện

trong lĩnh vực quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Đối với những nơi tổ chức hợp

tác xã nông nghiệp có dịch vụ thuỷ lợi, việc thực hiện cơ bản gặp thuận lợi, ít có

vướng mắc. Tuy vậy, những văn bản này là chưa đủ đối với những tổ chức hợp tác

dùng nước chưa phải là Hợp tác xã nông nghiệp. Điều này đã làm cho nhiều địa

phương đặc biệt lúng túng trong vấn đề quản lý tài chính đối với kinh phí miễn thuỷ

lợi phí cho các tổ chức hợp tác dùng nước, như Phú Thọ, Lai Châu, Thanh Hoá và

nhiều địa phương khác.

Thứ sáu là, bất cập trong mức thuỷ lợi phí cơ chế, phương pháp thu thuỷ lợi

phí tạo nguồn và đối với diện tích phải thực hiện bơm 2 cấp hay 3 cấp, đặc biệt đối

với các hệ thống thuỷ lợi liên tỉnh. Không tách được chi phí của diện tích được tưới

riêng, tiêu riêng

Trong thực tế, việc tạo nguồn tưới rất đa dạng, có công trình tạo nguồn đến

73

đầu mối công trình do tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi khác quản lý, có

công trình tạo nguồn đến đến kênh cấp 2, 3 của tổ chức hợp tác dùng nước, hoặc có

công trình chỉ tạo nguồn đến bể hút trạm bơm tưới của tổ chức hợp tác dùng nước,

do vậy, khi phân chia kinh phí giữa các công trình quản lý hệ thống thuỷ lợi tạo

nguồn và các đơn vị khác rất dễ nảy sinh tranh chấp, đặc biệt là đối với các hệ thống

thuỷ lợi liên tỉnh.

Theo các quy định hiện hành chưa đề cập đến những khu vực phải bơm tưới

nhiều bậc, chỉ một diện tích nhưng phải tưới nhiều bậc cũng chỉ được hưởng mức

thuỷ lợi phí như các vùng bơm một cấp, từ đó dẫn tới mức miễn không đủ bù đắp

cho các chi phí bơm tưới tiêu đối với các vùng diện tích được tưới từ 2 bậc trở lên.

Có những diện tích việc tưới, tiêu do các tổ chức khác nhau thực hiện, như

tưới do tổ chức hợp tác dùng nước thực hiện, tiêu do công ty khai thác công trình

thuỷ lợi thực hiện nhưng mức thu không tách biệt, do vậy khi triển khai nhiều địa

phương còn gặp vướng mắc.

Thứ bảy là, việc sử dụng thuỷ lợi phí còn bị gò ép do các chính sách hiện hành

Theo quy định của Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi, Nghị

định 143, các hướng dẫn hiện hành thì thuỷ lợi phí chỉ dùng cho duy tu, sửa chữa,

bảo dưỡng và vận hành công trình thuỷ lợi, có bao gồm sửa chữa lớn. Do vậy, một

số địa phương (chủ yếu ở Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long, nơi

có mức thu cao), sau khi sử dụng kinh phí thuỷ lợi phí cho công tác vận hành, duy

tu, bảo dưỡng sửa chữa công trình thuỷ lợi còn dư rất muốn sử dụng cho việc xây

dựng cơ bản thuỷ lợi (kiên cố hoá kênh mương, đại tu nâng cấp công trình thuỷ lợi,

xây dựng một số công trình thuỷ lợi nhỏ) nhưng rất khó thực hiện do vướng mắc về

cơ chế. Mặc dù, trước đây khi còn thực hiện chính sách thu thuỷ lợi phí, trong phong

trào kiên cố hoá kênh mương thì công ty khai thác công trình thuỷ lợi hoàn toàn

được phép trích một phần kinh phí để thực hiện các nội dung này.

Thứ tám là, một số tồn tại khác

Nhiều địa phương chưa triển khai đồng bộ các nội dung theo các yêu cầu

nhiệm vụ được giao. Trong quá trình vận dụng chính sách, cơ quan chức năng thuộc

74

địa phương còn chưa chủ động tham mưu cho Uỷ ban nhân tỉnh triển khai cụ thể các

nội dung chi tiết thi hành Nghị định, như mức trần kinh phí thuỷ nông nội đồng, quy

định mức phân bổ cho tổ chức hợp tác dùng nước quản lý công trình có quy mô

vượt cống đầu kênh, phân bổ mức thuỷ lợi phí tạo nguồn…

Có địa phương ban hành quyết định phê duyệt diện tích miễn thuỷ lợi phí theo

diện tích đất canh tác (An Giang, Sóc Trăng…), không đúng quy định của Nghị định

115 là miễn thuỷ lợi phí theo từng vụ. Dẫn đến, việc triển khai thực hiện còn nhiều

lúng túng.

Theo quy định, các địa phương phải rà soát lại diện tích đất đai, trên cơ sở bản

đồ giải thửa và phương pháp tưới tiêu để xác định diện tích được miễn và mức miễn

thuỷ lợi phí của địa phương, tuy vậy, nhiều tỉnh chưa thực hiện được nội dung này.

3.2.3. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu về chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí

Chủ trương miễn giảm thuỷ lợi phí cho người dân sản xuất nông nghiệp, lâm

nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và làm muối là phù hợp trong bối cảnh đời sống người

nông dân đang gặp rất nhiều khó khăn trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, việc

thực hiện chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong giai đoạn hiện nay cần tiếp tục

được nghiên cứu để chính sách được hoàn thiện hơn. Ngoài việc phải giải quyết

những tồn tại đã nêu ra trong mục 3.2.2. chương này, chính sách miễn giảm thuỷ lợi

phí cần được xem xét ở mức độ tổng thể, trong đó có những vấn đề sau cần được

nghiên cứu cụ thể thêm:

Một là, cần xem xét đến vấn đề ngân sách. Việc bỏ thu thuỷ lợi phí còn phụ

thuộc vào khả năng của ngân sách nhà nước. Trong điều kiện ngân sách nhà nước

còn khó khăn trong khi đó phải trang trải các chi phí liên quan ngày càng gia tăng,

thì kinh phí để thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí cũng là một gánh nặng đối với

khả năng ngân sách của nước ta hiện nay.

Hai là, vấn đề đảm bảo công bằng xã hội. Mặt khác, việc bỏ thu thuỷ lợi phí sẽ

dẫn đến tình trạng bất công bằng xã hội ngày càng lớn giữa nơi được đầu tư và nơi

không được đầu tư công trình thuỷ lợi. Vì những nơi được đầu tư công trình thuỷ lợi

sẽ được tất cả (cả chi phí đầu tư và chi phí quản lý khai thác), còn những nơi không

75

được đầu tư sẽ chẳng được gì, trong khi đó còn 70% diện tích đất nông nghiệp chưa

được hưởng gì về thuỷ lợi của Nhà nước, thậm chí thiếu cả nguồn nước sinh hoạt.

Bên cạnh đó, việc bỏ thu thuỷ lợi phí sẽ làm triệt tiêu động lực của người dân trong

việc sử dụng nước tiết kiệm, có hiệu quả và không phát huy được vai trò người dân

trong công tác quản lý, khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi.

Ba là, cần làm rõ hoặc có chính sách tuyên truyền tới tận người dân, chính

miễn giảm thuỷ lợi phí hiện nay được thực hiện trên nguyên tắc Chính phủ hỗ trợ

người nông dân, thông qua việc cấp ngân sách cho các công ty khai thác công trình

thuỷ lợi đảm bảo hoạt động bình thường, chống xuống cấp công trình. Người dân

vẫn phải đóng kinh phí thuỷ lợi nội đồng để vận hành, duy tu bảo dưỡng hệ thống

công trình thuỷ lợi mặt ruộng.

Bốn là, cần phải có các giải pháp phù hợp, nhằm giải quyết vấn đề khi thực

hiện miễn thuỷ lợi phí, cho dù đến mức độ nào, thì tiếp cận nước là hàng hoá sẽ bị

xem nhẹ, ý thức của người dân sẽ bị giảm sút trong việc sử dụng nước tiết kiệm, gìn

giữ bảo vệ nguồn nước và bảo vệ công trình thuỷ lợi. Có thể xuất hiện tâm lý ỷ lại

trong một bộ phận người dân. Người dân sẽ không quan tâm tới việc quản lý, bảo vệ

công trình thuỷ lợi, coi nước như của “trời cho” nên không có động lực trong việc

sử dụng nước tiết kiệm, trong khi đó tổng lượng nước bình quân đầu người ngày

càng suy giảm.

Năm là, thế giới cũng như các ngành kinh tế xã hội ở nước ta đang đẩy mạnh

việc phân công, phân cấp, thực hiện xã hội hoá và việc xã hội hoá công tác quản lý

khai thác công trình thuỷ lợi cũng phải là một xu hướng tất yếu. Việc miễn giảm

thuỷ lợi phí có thể sẽ là một xu hướng đi ngược lại việc xã hội hoá trong công tác

thuỷ lợi, không nâng cao ý thức và phát huy được nội lực của người dân và sẽ làm

phong trào quản lý tưới có sự tham gia của người dân (PIM) đang được đẩy mạnh ở

Việt Nam khó phát huy.

Sáu là, miễn giảm thuỷ lợi phí có thể sẽ làm giảm một phần trách nhiệm của

những người làm công tác quản lý khai thác công trình thuỷ lợi do mối quan hệ,

kiểm soát ràng buộc lẫn nhau về hiệu quả dịch vụ tưới giữa người sử dụng nước và

76

các cơ quan quản lý tưới của nhà nước sẽ không được coi trọng. Kinh phí bao cấp

cho công tác quản lý có thể sẽ ngày càng gia tăng.

Bảy là, cần có những giải pháp đồng bộ về cơ chế tài chính, chế độ giải ngân

đối kinh phí cấp cho công tác quản lý khai thác công trình thuỷ lợi, nếu không có

thể sẽ hình thành cơ chế xin cho giữa các tổ chức quản lý khai thác công trình thuỷ

lợi với các cơ quan quản lý, cấp phát vốn, do vậy sẽ rất dễ xảy ra hiện tượng tiêu

cực; chính sách cần phải đồng bộ để khi thực hiện miễn thuỷ lợi phí, các tổ chức

quản lý khai thác công trình thuỷ lợi ngày càng chủ động trong việc sử dụng, đáp

ứng cho mục tiêu đảm bảo an toàn, nâng cao hiệu quả công trình thuỷ lợi và bảo

đảm tuân theo các quy định của pháp luật;

Tám là, cần tiếp tục nghiên cứu các cơ chế, chính sách khác để đảm bảo những

người dân ở các vùng miền, ở các hệ thống công trình thuỷ lợi khác nhau cũng đều

được hưởng chính sách miễn thuỷ lợi phí và hỗ trợ từ nhà nước công bằng, bình

đẳng, lưu ý người dân ở những nơi chưa có hệ thống thuỷ lợị. Đặc biệt chú ý tới các

hệ thống công trình thuỷ lợi do người dân tự bỏ tiền đầu tư, quản lý và người dân ở

Đồng bằng sông Cửu Long phải bỏ chi phí thuê hoặc tự bơm nước vào đồng ruộng

của họ. Mức thu cần phải tiếp tục được xem xét.

Chín là, cần đơn giản hoá những thuật ngữ trong văn bản để người dân cũng

như chính quyền các địa phương vận dụng thuận lợi. Tránh đưa ra những khái niệm

trừu tượng khó hiểu, dễ nhầm lẫn hoặc những khái niệm không thể triển khai được

trong thực tế. Ví dụ, khái niệm cống đầu kênh của tổ chức hợp tác dùng nước» là

khái niệm mà nhiều địa phương không thể áp dụng được, hoặc khái niệm hộ dùng

nước còn nhiều nơi bị nhầm lẫn.

3.3. Tác động của chính sách miễn giảm thủy lợi phí đối với công tác quản lý,

khai thác công trình thủy lợi.

3.3.1. Vai trò của thuỷ lợi phí

a) Đối với người dân

Việt Nam là nước chủ yếu sản xuất nông nghiệp có tưới, do vậy, thuỷ lợi phí

đã ăn sâu vào tiềm thức người dân Việt Nam. Từ bao đời nay, người dân luôn sẵn

77

sàng góp công, góp của để đầu tư xây dựng, duy tu, sửa chữa và vận hành công trình

thuỷ lợi, trong đó bao gồm cả thuỷ lợi phí. Mức thuỷ lợi phí hợp lý sẽ có tác động

tích cực, nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân trong việc sử dụng tiết kiệm

nước và bảo vệ công trình thuỷ lợi, cũng là điều kiện ràng buộc người quản lý nâng

cao trách nhiệm, phục vụ tốt yêu cầu của người dùng nước thông qua hợp đồng

được ký kết, hạ giá thành sản phẩm tưới tiêu, tăng năng suất, sản lượng cây trồng, là

yếu tố quan trọng tăng thu nhập cho nông dân.

Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí rất được lòng dân và các cấp chính quyền

địa phương. Việc miễn giảm thuỷ lợi phí đã làm giảm chi phí sản xuất sản xuất nông

nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và làm muối. Mức độ giảm chi phí sản xuất

có khác nhau đối với các loại cây trồng, các vùng kinh tế, dao động từ 2-8%. Tuy

nhiên, khi miễn giảm thuỷ lợi phí thì người dân ở Đồng bằng sông Hồng, Bắc khu 4,

duyên hải miền Trung và Đông Nam bộ được hưởng nhiều hơn cả. Người dân đồng

bằng sông Cửu Long có mức giảm chi phí sản xuất thấp nhất khi thực hiện chính

sách miễn thuỷ lợi phí.

«Dân cường thì nước thịnh», để dân giàu thì phải bằng mọi cách hỗ trợ hoặc

tạo điều kiện cho người dân sản xuất hiệu quả, mức sống ngày càng được nâng cao,

trong đó việc miễn, giảm thuỷ lợi phí có thể là một phương cách. Nhưng miễn, giảm

như thế nào để người dân thực sự nâng cao thu nhập, ổn định đời sống, góp phần

giảm gánh nặng bao cấp thì là vấn đề cần phải bàn. Đối với yêu cầu của người dân

thì chính sách thuỷ lợi phí cần minh bạch hơn nữa. Chất lượng của dịch vụ tưới tiêu

yêu cầu phải tăng cao, bởi vì ngay khi còn phải nộp thuỷ lợi phí, thì ở nhiều nơi,

theo ý kiến của người dân thì không quan trọng là mức thuỷ lợi phí cao hay thấp, mà

chất lượng dịch vụ tưới tiêu, cấp nước có đáp ứng được yêu cầu của người dân hay

không.

b) Đối với công ty khai thác công trình thuỷ lợi.

Thủy lợi phí là nguồn thu chủ yếu của các doanh nghiệp. Ngay từ khi chính

sách thuỷ lợi phí theo quy định của Nghị định 112, với khung mức thuỷ lợi phí từ

38% năng suất lúa, mức thu do Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố quy định,

78

hàng năm cả nước đã có một khoản kinh phí thu từ nguồn thuỷ lợi phí tương đương

500600 tỷ đồng để đầu tư cho công tác quản lý, vận hành, duy tu, bảo dưỡng công

trình. Mặc dù nguồn thu trên mới đạt 7080% so với kế hoạch nhưng đã góp phần

giảm đáng kể việc bao cấp của Ngân sách nhà nước đối với doanh nghiệp.

Nghị định 143 trong đó có quy định mức thu thuỷ lợi phí mới bằng tiền và mức

thu tiền nước đối với các đối tượng sử dụng nước khác: cấp nước tưới cây công

nghiệp, cấp nước sinh hoạt, công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, du lịch, phát điện... đã

tháo gỡ một phần khó khăn về tài chính cho các công ty khai thác công trình thuỷ

lợi. Tuy nhiên, mức thuỷ lợi phí theo quy định của Nghị định 143 vẫn chưa đảm bảo

cho hoạt động tài chính của các doanh nghiệp.

Nguồn thu không đáp ứng yêu cầu nên các công ty chỉ tập trung chi cho một số

hoạt động chính, chủ yếu tập trung cho lương và các khoản có tính chất lương. Chi

phí sửa chữa thường xuyên công trình thuỷ lợi là rất cần thiết để duy trì năng lực

hoạt động bình thường của các công trình thuỷ lợi. Theo quy định mức khung chi

phí sửa chữa thường xuyên chiếm từ 2030% tổng chi phí hoạt động tưới tiêu.

Nhưng do nguồn vốn khó khăn nên nhiều doanh nghiệp không trích đủ kinh phí cho

công tác sửa chữa thường xuyên. Trong thực tế mức chi này của nhiều doanh nghiệp

chỉ đạt từ 1015% tổng chi phí cho hoạt động tưới tiêu.

Đối với công ty khai thác công trình thuỷ lợi quản lý hệ thống nhiều trạm bơm

điện, ngoài chi phí sửa chữa thường xuyên thì chi phí tiền điện chiếm tỷ trọng khá

lớn (chiếm 3050% tổng chi phí). Chi phí này không ổn định phụ thuộc vào tình

hình thiên tai (úng hạn, lũ lụt...) những năm thiên tai khắc nghiệt, chi phí này lên tới

5060%. Do nguồn hỗ trợ từ ngân sách thường không đủ và không kịp thời, thủy lợi

phí thu đạt kết quả thấp nên các công ty không thể cân đối được thu chi.

Tuy nhiên, với thực trạng tài chính theo mức thu của Nghị định 112 và Nghị

định 143, đời sống của cán bộ, công nhân viên chức trong các công ty khai thác

công trình thuỷ lợi gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều công ty chưa được hưởng lương

làm thêm giờ, chế độ ăn ca... chủ yếu mới đủ chi cho lương, trả một phần tiền điện,

không đáp ứng yêu cầu chi phí cho sửa chữa công trình, dẫn đến công trình ngày

79

càng xuống cấp, hiệu quả phục vụ không cao, đời sống của cán bộ công nhân viên

thuỷ nông gặp nhiều khó khăn.

Khi thực hiện miễn thuỷ lợi phí theo quy định của Nghị định 115, hầu hết các

doanh nghiệp khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi đã có nguồn kinh phí vững

chắc để hoạt động. Một số doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi trước khi thực

hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí tỏ ra rất hoài nghi, lo lắng, tuy nhiên, sau khi

chính sách được triển khai thực hiện một số năm đã nhận thấy, đây là một thời cơ

thuận lợi để thúc đẩy công tác quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.

Nguồn thu của các doanh nghiệp hầu hết đã được tăng lên, kể cả các doanh

nghiệp ở miền núi và Tây Nguyên, cho dù mức thuỷ lợi phí vẫn chưa đáp ứng được

yêu cầu chi phí thực tế ở các địa phương này. Theo ý kiến đánh giá khách quan của

một số doanh nghiệp, chỉ cần điều chỉnh một chút thì chính sách này sẽ có hiệu quả

tác động sâu rộng.

c) Đối với chính quyền địa phương và các cơ quan khác

Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí được chính quyền các cấp hết sức ủng hộ.

Ngoài việc giảm chi phí sản xuất cho người dân, đảm bảo an sinh xã hội, chính sách

thuỷ lợi phí đã giúp các địa phương chủ động trong việc cấp kinh phí cho các tổ

chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Đối với nhiều địa phương, mức thuỷ lợi

phí được cấp chiếm một tỷ trọng lớn trong nguồn thu ngân sách của tỉnh, như Hà

Nam, Ninh Thuận.

Tuy vậy, việc miễn giảm thuỷ lợi phí cũng sẽ làm nhiều cơ quan chuyên môn

lo ngại, đặc biệt là các cơ quan chuyên môn về tài chính và thuỷ lợi. Do việc thực

hiện các biện pháp nghiệp vụ để xác định các vùng diện tích được miễn, tính toán

xác định nhu cầu miễn, hướng dẫn giải ngân kinh phí được cấp là những khối lượng

công việc rất lớn, đòi hỏi các cấp chính quyền và hai ngành tài chính và nông nghiệp

và phát triển nông thôn phải tập trung nhân lực mới có thể đáp ứng được yêu cầu

triển khai chính sách hiệu quả.

3.3.2. Tác động của việc miễn giảm đối với cơ chế tài chính trong hoạt động của

các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi

80

Khi thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí, Bộ Tài chính đã phối hợp với Bộ

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Thông tư số 11 hướng dẫn đặt hàng,

giao kế hoạch trong quản lý khai thác công trình thuỷ lợi và quy chế quản lý tài

chính đối với công ty nhà nước thực hiện chức năng quản lý, khai thác công trình

thuỷ lợi. Việc thay đổi này không hẳn do chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí, mà thực

hiện theo lộ trình ban hành văn bản thay thế các văn bản cũ đã được đặt ra.

Về nguyên tắc, khi thực hiện miễn thuỷ lợi phí, mọi vấn đề liên quan đến hoạt

động tài chính của các công ty khai thác công trình thuỷ lợi không thay đổi, chỉ coi

như Chính phủ thay mặt dân trả thuỷ lợi phí, thông qua cấp ngân sách cho các tổ

chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.

Cơ chế hoạt động tài chính của các công ty khai thác công trình thuỷ lợi cơ

bản vẫn giữ nguyên. Trước đây, công ty là các doanh nghiệp công ích nhưng nay họ

hoạt động cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích. Có nghĩa, ngoài việc được cấp do

chính sách miễn thu thuỷ lợi phí, nếu trong hoạt động của công ty, nguồn thu không

đủ bù đắp các khoản chi phí hợp lý, thì vẫn được nhà nước cấp bù đủ phần thiếu hụt

và các quỹ khen thưởng và phục lợi theo quy định.

Trong thực tế, vấn đề này ít được thực hiện đầy đủ, do ngân sách các địa

phương rất khó khăn, trong khi đó, nguồn kinh phí hỗ trợ cấp bù công ích về địa

phương không được phân theo mục tiêu nên thường được sử dụng cho mục đích

khác, do vậy, rất ít địa phương thực hiện cấp bù công ích đầy đủ cho các công ty

khai thác công trình thuỷ lợi. Phần lớn, việc cấp đều thông qua hình thức cấp tiền

điện chống úng, hạn vượt định mức, một phần kinh phí sự nghiệp thuỷ lợi.

Hiện nay, quan điểm về cơ chế hoạt động tài chính cũng như phương thức hoạt

động của các công ty khai thác công trình thuỷ lợi cũng đang tiếp tục nghiên cứu.

Một số ý kiến cho rằng, với những công ty khai thác công trình thuỷ lợi chỉ thuần

tuý hoạt động trong lĩnh vực khai thác công trình thuỷ lợi, thì thực chất đó chỉ là

đơn vị sự nghiệp có thu, vì họ không hoạt động kinh doanh gì, hàng năm được cấp

từ ngân sách nhà nước. Đây cũng là một vấn đề yêu cầu những cơ quan chức năng

cần tiếp tục nghiên cứu, xem xét.

81

3.3.3. Tác động của việc miễn giảm đối với mô hình tổ chức quản lý, khai thác công

trình thuỷ lợi.

Mô hình tổ chức hoạt động của bất kỳ một tổ chức nào đều gắn với cơ chế hoạt

động tài chính của tổ chức đó, đặc biệt là đối với các tổ chức chịu sự chi phối của

nhà nước như các công ty khai thác công trình thuỷ lợi. Do các cơ chế tài chính của

công ty khai thác công trình thuỷ lợi không thay đổi khi thực hiện chính sách thuỷ

lợi phí, nên mô hình tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi ở các địa phương

chủ yếu vẫn là các công ty khai thác công trình thuỷ lợi với các quy mô và loại hình

khác nhau.

Tuy vậy, cùng với tiến trình sắp xếp đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp

nhà nước theo chỉ đạo của Chính phủ, cũng như thực hiện lộ trình chuyển đổi của

các doanh nghiệp nhà nước theo mô hình phù hợp theo quy định của Luật Doanh

nghiệp năm 2005, trùng với thời điểm thực hiện chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí

theo quy định của Nghị định 154 và Nghị định 115, hầu hết các doanh nghiệp khai

thác công trình thuỷ lợi đã được chuyển đổi sang loại hình công ty trách nhiệm hữu

hạn một thành viên, 100% vốn thuộc sở hữu nhà nước. Một số địa phương cũng

thành lập mới hoặc thành lập mới công ty theo loại hình này như An Giang, Lai

Châu. Khi thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí, nhiều tỉnh cũng đang có xu hướng

thành lập lại các công ty khai thác công trình thuỷ lợi hoặc một đơn vị sự nghiệp cấp

tỉnh để thực hiện chức năng quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi cấp tỉnh, nhằm

quản lý các công trình thuỷ lợi lớn, kỹ thuật phức tạp và các kênh trục chính, kênh

cấp 1, cấp hai của các hệ thống công trình thuỷ lợi.

So với số lượng công ty, đơn vị sự nghiệp cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ quản lý,

khai thác công trình thuỷ lợi trước ngày có chính sách miễn thuỷ lợi phí, thì sau khi

thực hiện chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí số lượng tổ chức này có tăng lên. Đây

cũng là một bước hoàn thiện mô hình tổ chức ở các tỉnh, nhằm thực hiện tốt chính

sách miễn giảm thuỷ lợi phí, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả của các công ty

khai thác công trình thủy lợi.

3.4. Nghiên cứu điển hình ở địa phương.

82

Để nghiên cứu tình hình thực tế và thực trạng triển khai thi hành chính sách,

chúng ta nghiên cứu triển khai điển hình ở tỉnh Tiền Giang, một tỉnh thuộc vùng

Đồng bằng sông Cửu Long. Nghiên cứu này được trình bày trong Phụ lục kèm theo

luận văn này.

Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, cùng với tiến trình phát

triển kinh tế xã hội của đất nước, sự tiến bộ của đời sống xã hội, tìm giải pháp để cải

thiện đời sống, giảm bớt chi phí nhằm mục tiêu nâng cao mức sống cho người dân

chủ yếu sống bằng sản xuất nông nghiệp là một trong những nội dùng được Đảng và

Nhà nước đặc biệt quan tâm. Thực hiện mục tiêu này, cũng là nhằm thu hẹp khoảng

cách về mức sống và thu nhập giữa người dân sống ở nông thôn với người dân sống

ở khu vực thành thị, theo nhận xét, khoảng cách này ngày càng có nguy cơ rộng ra

khi chúng ta đã gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) và hướng tới nền kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí thể

hiện tính ưu việt và phù hợp với các chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước

ta.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện một số chính sách đã ban hành đã biểu

hiện một số tồn tại, bất cập cần phải chỉnh sửa, bổ sung. Những tồn tại, bất cập này

sẽ là bài học quý báu để các cơ quan nghiên cứu và ban hành chính sách tổng kết,

đúc rút kinh nghiệm để đưa ra những chính sách mới hiệu lực, hiệu quả hơn. Định

hướng những nội dung và việc đề xuất các giải pháp để sửa đổi, bổ sung chính sách

miễn thuỷ lợi phí sẽ được đề cập trong chương 4 dưới đây.

Chương 4.

ĐỀ XUẤT ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH THỦY LỢI PHÍ PHÙ HỢP

VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN

83

4.1. Sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung.

Việc thực hiện chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí chính thức, toàn diện đến

nay đã được 3 năm, với 2 Nghị định của Chính phủ đã được ban hành và rất nhiều

văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và

các Bộ ngành liên quan. Mặc dù chính sách đã đạt được nhiều mặt tích cực như đã

được đánh ở chương 3, nhưng quá trình thực hiện đã cho thấy nếu Chính phủ không

có những điều chỉnh, bổ sung phù hợp sẽ gây rất nhiều khó khăn cho các địa phương

trong quá trình thực hiện, đồng thời làm giảm hiệu quả sử dụng kinh phí từ nguồn

miễn giảm thuỷ lợi phí, không nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác công trình thuỷ

lợi.

Một số vấn đề bất cập lẽ ra phải được sửa đổi, bổ sung ngay như mức thuỷ lợi

phí, đối tượng, phạm vi được miễn, giảm thuỷ lợi phí ở một số vùng hiện nay không

phù hợp, dẫn đến kết quả không triển khai thực hiện được những quy định của Nghị

định 115. Như việc, hiện nay có nhiều địa phương khi thực hiện miễn giảm, tiếp

nhận nguồn kinh phí thuỷ lợi phí về địa phương nhưng không thể sử dụng hết, vì

nếu áp dụng theo đúng những quy định hiện hành thì không thể giải ngân hết số

kinh phí hoặc nếu giải ngân sẽ không phù hợp với các quy định của pháp luật. Chính

vì vấn đề này mà hiện nay, việc giải ngân kinh phí thực hiện chính sách miễn thuỷ

lợi phí có khác nhau ở một số địa phương.

Mục tiêu của chương này không có ý định đưa ra những nội dung của chính

sách chính sách mới sẽ được ban hành, mà chủ yếu nêu mục tiêu và định hướng

những nội dung, vấn đề cần sửa đổi và một số giải pháp chủ yếu cần phải thực hiện,

nhằm tạo hệ thống cơ chế chính sách đồng bộ, hợp lý trong công tác quản lý, khai

thác công trình thuỷ lợi và tăng cường hiệu lực hiệu quả của chính sách đã ban hành.

Trên cơ sở nghiên cứu thực tế, luận văn đưa ra một số những gợi ý mục tiêu cũng

như định hướng nên sửa đổi trong chính sách mới.

4.2. Mục tiêu và định hướng những nội dung cần sửa đổi, bổ sung

4.2.1. Mục tiêu của việc sửa đổi:

Thứ nhất, một trong những mục tiêu chính và toàn diện của chính sách miễn

84

giảm thuỷ lợi phí là nhằm giảm mức đóng góp, giảm chi phí sản xuất nông nghiệp,

tăng thu nhập của người dân được giao đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi

trồng thuỷ sản và làm muối. Do vậy, mục tiêu của chính sách sửa đổi, bổ sung cần

làm rõ nét thêm mục tiêu của chính sách. Đảm bảo khi thực thi chính sách sẽ giúp

người dân giảm chi phí, tăng thu nhập thực chất hơn.

Thứ hai, việc thi hành chính sách đã bộc lộ những tồn tại, vướng mắc trong

quá trình triển khai thực hiện, do vậy, sửa đổi, bổ sung chính sách miễn thuỷ lợi phí

phải đạt được mục tiêu là giải quyết được cơ bản những vấn đề tồn tại, vướng mắc

đã được đúc rút, tổng kết khi thực hiện các chính sách miễn thuỷ lợi phí đã được ban

hành và thực hiện trong các năm vừa qua.

4.2.2. Định hướng các nội dung cần sửa đổi, bổ sung

Trên cơ sở mục tiêu của việc sửa đổi, bổ sung chính sách miễn thuỷ lợi phí đã

được đặt ra, định hướng các nội dung sửa đổi hay ban hành mới chính sách miễn

thuỷ lợi phí cần tập trung vào nhưng vấn đề sau đây:

Một là, cho dù Chính phủ có thay mặt người dân trả thuỷ lợi phí cho tổ chức

quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi hay thực hiện miễn giảm thuỷ lợi phí bằng

cách nào đi nữa thì cũng cần phải xây dựng mức phí trên cơ sở tiếp cận nước là

hàng hoá, việc miễn hày giảm chỉ là một giải pháp chính sách trong một thời đoạn

phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Có như vậy mới làm cho người dân và mọi

đối tượng dùng nước hiểu được tầm quan trọng của nguồn tài nguyên nước và có ý

thức tiết kiệm nước trong điều kiện nguồn nước ngày càng suy giảm và cạn kiệt.

Hai là, khi ban hành chính sách, cần đảm bảo nguyên tắc công bằng, bình đẳng

được hưởng lợi cho mọi đối tượng được hưởng lợi nước từ công trình thuỷ lợi. Vì

nước là hàng hoá nhưng lại là một tài nguyên thiết yếu, có tính chất sống còn đối với

cuộc sống của mỗi con người, do vậy cần đảm bảo mọi người dân đều có quyền tiếp

cận đối với nguồn tài nguyên đó, vì nó đem lại sự tồn tại và phát triển cho người dân

và cho xã hội. Khi chính sách thực hiện được định hướng này, nó sẽ tạo được sự

đồng thuận cao của mọi người dân và toàn xã hội.

Ba là, việc thực hiện chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí cần xem xét đến khả

85

năng của ngân sách và vấn đề quản lý quản lý kinh phí được cấp cho những tổ chức

quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi không phải là các công ty khai thác công trình

thuỷ lợi. Mặc dù bỏ ra một khối lượng kinh phí rất lớn để thực hiện chính sách miễn

thuỷ lợi phí, nhưng một số năm gần đây, ngân sách nhà nước tập trung cho sửa

chữa, nâng cấp công trình thuỷ lợi không đáp ứng yêu cầu thực tế, dẫn đến, nhiều hệ

thống công trình thuỷ lợi đã phục vụ hàng chục năm nhưng vẫn chưa được đại tu,

nâng cấp, trong khi đó, nguồn kinh phí thực hiện miễn thuỷ lợi phí, về cơ bản chỉ

đảm bảo cho việc duy tu, sửa chữa thường xuyên công trình thuỷ lợi.

Bốn là, dù miễn hay không miễn thuỷ lợi phí thì nhà nước vẫn phải có các cơ

chế, chính sách đảm bảo chi phí hoạt động của các tổ chức quản lý, khai thác công

trình thuỷ lợi, đặc biệt là chi phí về tiền lương và khoản kinh phí dùng để duy tu, sửa

chữa công trình nhằm đảm bảo an toàn công trình và phát huy tối đa hiệu quả công

trình trong việc phục vụ sản xuất và dân sinh.

Năm là, song song với chính sách miễn thuỷ lợi phí ban hành, các cơ quan

chuyên môn cần có những hướng dẫn cụ thể, rõ ràng hoặc phải có những quy chế

ràng buộc, nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân trong việc sử dụng

nước tiết kiệm, đồng thời tích cực chủ động tham gia quản lý, khai thác công trình

thuỷ lợi.

Sáu là, phải tiếp tục có các giải pháp củng cố, sắp xếp đổi mới hoạt động, hoàn

thiện bộ máy tổ chức về thuỷ lợi. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, đối với bộ máy quản lý nhà nước về thuỷ lợi,

- Củng cố, kiện toàn và nâng cao năng lực, tăng cường hiệu lực hiệu quả hoạt

động của bộ máy quản lý nhà nước về thuỷ lợi ở cả Trung ương và các địa phương,

đáp ứng yêu cầu chỉ đạo điều hành sản xuất cũng như các lĩnh vực khác về thuỷ lợi.

Tách quản lý nhà nước ra khỏi quản lý, khai thác ở những địa phương hiện nay còn

mô hình này. Thống nhất mô hình tổ chức quản lý nhà nước về thuỷ lợi cấp tỉnh ở

63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

- Hướng dẫn thành lập các cơ quan quản lý nhà nước về thuỷ lợi ở địa phương,

bao gồm cả cấp huyện và xã, nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng quản lý nhà

86

nước về thuỷ lợi trên địa bàn, bao gồm cả hỗ trợ kỹ thuật cho các tổ chức quản lý

khai thác công trình, đặc biệt cho các tổ chức hợp tác dùng nước.

Thứ hai, đối với tổ chức và hoạt động của các đơn vị làm nhiệm vụ quản lý,

khai thác công trình thủy lợi.

- Tiếp tục nghiên cứu mô hình quản lý đối với các hệ thống công trình thuỷ lợi

từng vùng, từng địa phương để đề xuất mô hình tổ chức quản lý phù hợp, đảm bảo

tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả.

- Hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi: Thành lập

các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi ở các địa phương có hệ thống công

trình thuỷ lợi lớn, quan trọng, quản lý phức tạp. Thống nhất mô hình công ty trách

nhiệm hữu hạn một thành viên, 100% vốn thuộc sở hữu nhà nước theo quy định của

Luật Doanh nghiệp năm 2005.

- Nâng cao tính tự chủ của các doanh nghiệp về trách nhiệm, tổ chức nhân sự

và cơ chế tài chính. Từng bước tiến tới phải gắn thu nhập của người lao động với

kết quả hoàn thành nhiệm vụ tương ứng.

Thứ ba, đối với tổ chức và hoạt động của các tổ chức hợp tác dùng nước:

- Củng cố, kiện toàn hình thức tổ chức hợp tác dùng nước theo mô hình Hợp

tác xã dịch vụ nông nghiệp có làm dịch vụ thuỷ lợi hoặc Hợp tác xã dùng nước hoặc

mô hình Tổ chức hợp tác dùng nước (không phân biệt tên gọi).

- Ở những nơi không thành lập được Tổ chức hợp tác dùng nước, có thể giao

cho doanh nghiệp hoặc các tổ chức có chức năng để quản lý, vận hành công trình

thuỷ lợi trong phạm vi xã. Trường hợp, trên địa bàn không có tổ chức doanh nghiệp

và tổ chức hợp tác dùng nước, chính quyền cử người làm công tác quản lý, vận hành

công trình tạm thời, sau đó phải kiện toàn tổ chức.

Bảy là, cần quan tâm đến việc ban hành cơ chế chính sách hỗ trợ cho tổ chức

hợp tác dùng nước đủ điều kiện năng lực tham gia quản lý, khai thác công trình thuỷ

lợi, bao gồm:

Thứ nhất, Nhà nước có chính sách hỗ trợ tài chính đối với các Tổ chức hợp tác

dùng nước quản lý công trình thuỷ lợi nhỏ để đại tu, nâng cấp, khôi phục công trình

87

thuỷ lợi; đầu tư kiên cố hoá hệ thống kênh và xây dựng, hoàn thiện hệ thống thuỷ

nông nội đồng.

Thứ hai, các cơ quan chuyên môn thường xuyên thực hiện hỗ trợ kỹ thuật cho

tổ chức hợp tác dùng nước thông qua hình thức tập huấn, đào tạo trong việc kiểm tra

an toàn công trình trước và sau mùa mưa lũ hàng năm; kiểm tra hư hỏng, đánh giá

chất lượng công trình thuỷ lợi; hướng dẫn về sửa chữa, nâng cấp, khôi phục công trình

bị hư hỏng đơn giản; quản lý; kỹ thuật quản lý vận hành công trình, quản lý nguồn

nước, vận hành phân phối nước và kỹ thuật sử dụng nước tiết kiệm.

Đây là nội dung rất quan trọng, vì tổ chức hợp tác dùng nước hoạt động hiệu quả

sẽ quyết định hiệu quả cuối cùng, toàn diện và đồng bộ của hệ thống thuỷ lợi. Tuy

được các Bộ, ngành và chính quyền địa phương quan tâm nhưng vẫn là vấn đề cần

tiếp tục phải có chính sách cụ thể hơn.

4.3. Các giải pháp thực hiện.

Để đáp ứng được các mục tiêu và một số định hướng như trên, các cơ quan

chức năng, các Bộ, ngành, chính quyền địa phương và các cơ quan có liên quan cần

thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau :

4.3.1. Sửa đổi, ban hành các cơ chế chính sách để đồng bộ hệ thống pháp luật

trong quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.

Để phát huy tối đa hiệu quả của các hệ thống công trình thủy lợi, nâng cao hiệu

lực hiệu quả hoạt động của các tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thì

không chỉ riêng có chính sách thuỷ lợi phí (dù miễn hay không miễn), mà cần có

một hệ thống pháp luật đồng bộ trong công tác quản lý, khai thác công trình thuỷ

lợi. Hiện nay, chính thức trong lĩnh vực quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi mới có

Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi ngày 4/4/2001 của Uỷ ban thường

vụ quốc hội là văn bản cao nhất. Do vậy, để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước,

cần nâng pháp lệnh này thành Luật để bao trùm, điều chỉnh toàn bộ các nội dung,

hành vi trong hoạt động quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.

Trên cơ sở nòng cốt là văn bản Luật này, Chính phủ và các Bộ, ngành có liên

quan sẽ ban hành các Nghị định, thông tư hướng dẫn các hoạt động của các tổ chức

88

quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, cơ chế tài chính trong lĩnh vực quản lý, khai

thác công trình thủy lợi.

4.3.2. Ban hành chính sách riêng về thuỷ lợi phí

Như chúng ta đã thấy, trước năm 2003, Chính phủ luôn ban hành riêng 01

Nghị định quy định về chính sách thuỷ lợi phí. Tuy nhiên, từ năm 2003, Chính phủ

ban hành Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh khai thác

và bảo vệ công trình thuỷ lợi đã bao gồm cả nội dung của chính sách thuỷ lợi phí

trong đó. Vì thuỷ lợi phí là một chính sách rất phức tạp, nhạy cảm, nên việc chỉ đưa

một số điều trong một Nghị định hướng dẫn chung như vậy, sẽ còn rất nhiều nội

dung không được quy định cụ thể, dẫn đến trong quá trình thực hiện còn rất nhiều

vướng mắc, tranh chấp, đặc biệt là đối với các hệ thống công trình thuỷ lợi phục vụ

tưới, tiêu liên tỉnh.

Để các nội dung của chính sách được rõ ràng, cụ thể, giúp các cơ quan thực thi

cũng như người dân dễ dàng tiếp cận và hiểu về chính sách, cần phải ban hành một

Nghị định riêng của Chính phủ quy định về việc miễn thuỷ lợi phí, như thời kỳ của

Nghị định 112 trước đây, với các nội dung chủ yếu được đề cập và quy định cụ thể

như sau:

a) Đối tượng miễn: Cần làm rõ đối tượng được miễn thuỷ lợi phí là ai. Do

chính sách miễn thuỷ lợi phí hiện nay mới chỉ hỗ trợ cho cá nhân, hộ gia đình được

giao đất sản xuất, mặt nước làm nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và

làm muối, nên còn một số đối tượng khác vẫn chưa được xem xét. Ví dụ, như công

nhân nông trường trước đây, hiện nay, hầu hết các nông trường đã giải thể hoặc

được chuyển đổi, nhưng đất được giao cho người công nhân sản xuất, đời sống như

những người nông dân nhưng không được miễn thuỷ lợi phí; hoặc đối với những

doanh nghiệp, tổ chức hoạt động mang tính chất thực nghiệm, thử nghiệm, hoặc có

mục đích phục vụ sản xuất nông nghiệp cũng nên được xem xét là đối tượng được

miễn hoặc giảm thuỷ lợi phí.

b) Phạm vi miễn: Theo quy định hiện nay, việc miễn thuỷ lợi phí chỉ được thực

hiện đối với diện tích trong hạn điền, còn diện tích vượt hạn điền không được miễn

89

thuỷ lợi phí. Tuy nhiên, vấn đề này cũng chưa được quy định rõ trong chính sách là

tổng diện tích của 1 cá nhân, hộ gia đình vượt hạn điền hay một khu tưới có diện

tích vượt hạn điền sẽ phải nộp thuỷ lợi phí. Bên cạnh đó, trong chính sách quy định

miễn đối với đất lâm nghiệp nhưng không quy định cụ thể mức thu, do vậy không có

cơ sở để miễn.

Cũng cần xem xét yếu tố thuận lợi trong việc thực hiện, vì với diện tích trong

hạn điền, phần vượt hạn điền sẽ còn rất ít, và như vậy sẽ thường không khuyến

khích các tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thu phần thuỷ lợi phí của

diện tích vượt hạn điền.

c) Mức thuỷ lợi phí miễn

- Cần xem xét lại sự bất hợp lý trong mức thuỷ lợi phí hiện nay đối với các

vùng miền của cả nước trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đặc biệt đối với miền

núi, Tây Nguyên và vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Đảm bảo sự công bằng, bình

đẳng giữa các vùng miền. Tránh tình trạng những vùng khó khăn lại có mức cấp bù

thấp hơn vùng thuận lợi. Xem lại mức thu đối với các đối tượng hưởng lợi khác, sao

cho đảm bảo nguyên tắc thu đúng, thu đủ đối với các đối tượng hưởng lợi từ công

trình thuỷ lợi có lãi và dễ dàng trong việc ký kết hợp đồng, xác định mức thuỷ lợi

phí phải đóng góp.

- Ban hành định mức kinh tế kỹ thuật chuẩn trong quản lý, khai thác công trình

thuỷ lợi, trên cơ sở đó ban hành mức thu. Mức thu cần linh hoạt, điều chỉnh theo

trượt giá của từng giai đoạn, không nhất thiết phải điều chỉnh hàng năm. Mức thuỷ

lợi phí cần đáp ứng chi phí tối thiểu của doanh nghiệp, đảm bảo cơ bản chi phí vận

hành và bảo dưỡng công trình thuỷ lợi.

- Trường hợp Chính phủ ổn định ngân sách miễn thuỷ lợi phí trong giai đoạn 5

hoặc 10 năm, giao quyền chủ động quyết định cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và chủ

sở hữu quyết định mức thu để điều hoà chi phí quản lý, vận hành toàn hệ thống.

d) Nguồn kinh phí đảm bảo

Vì xét về nguyên tắc, thuỷ lợi phí chỉ là phí, đáp ứng một phần chi phí doanh

nghiệp quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, do vậy đây vẫn là các doanh nghiệp

90

sản xuất, cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích, như vậy, hàng năm ngân sách phải

hỗ trợ hàng năm tương ứng với giá trị của những công trình không phải trích khấu

hao để giúp doanh nghiệp có kinh phí trong việc sửa chữa, đại tu hệ thống công

trình thuỷ lợi.

đ) Nghiên cứu các phương pháp miễn

Theo một số ý kiến đánh giá, việc miễn thuỷ lợi phí trên diện tích được tưới

tiêu cũng chưa thực sự hiệu quả. Thông qua đó, miễn thuỷ lợi phí thông qua cấp

ngân sách nhà nước trực tiếp cho các tổ chức quản lý khai thác công trình thuỷ lợi sẽ

không hiệu quả, không gắn được trách nhiệm của người dân trong công tác quản lý,

khai thác công trình thuỷ lợi, cũng như việc giám sát của người dân đối với việc sử

dụng kinh phí được cấp từ ngân sách.

Các cơ quan nghiên cứu và đề xuất ban hành chính sách tiếp tục nghiên cứu

các phương pháp thực hiện miễn thuỷ lợi phí theo hướng thuận lợi, đảm bảo minh

bạch, hiệu quả nhất. Có thể nghiên cứu phương pháp miễn trực tiếp cho người dân,

nghĩa là người dân vẫn trực tiếp trả thuỷ lợi phí cho các tổ chức quản lý khai thác

công trình thuỷ lợi thông qua hợp đồng, trên cơ sở hoá đơn và nghiệm thu hợp đồng,

các cơ quan của nhà nước sẽ cấp kinh phí trả người dân.

4.3.3. Thực hiện phân cấp quản lý công trình rõ ràng, minh bạch

Việc phân cấp quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi rất quan trọng. Khi phân

cấp tốt, sẽ làm rõ trách nhiệm, phạm vi trong quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi,

giữa các đơn vị quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi cũng như người dân, đồng thời

cũng xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan chuyên

môn, chính quyền các cấp trong việc quản lý khai thác công trình thuỷ lợi.

Việc gắn trách nhiệm của người hưởng lợi đối với phần kinh phí thuỷ lợi nội

đồng cũng như kinh phí miễn thuỷ lợi phí đến phạm vi người dân vẫn phải đóng góp

chi phí cũng sẽ được làm rõ ràng nếu phân cấp tốt.

Bên cạnh đó, với một hệ thống thuỷ lợi nhỏ, kỹ thuật vận hành đơn giản,

không quá mất an toàn, việc phân cấp cho tổ chức hợp tác dùng nước quản lý, khai

thác, bảo vệ công trình thuỷ lợi quản lý sẽ hiệu quả, tiết kiệm chi phí hơn rất nhiều

91

so với các tổ chức của nhà nước quản lý.

4.3.4. Một số giải pháp phụ trợ khác

Nghiên cứu mô hình tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi phù hợp

hơn, đặc biệt là đối với từng vùng, miền trong giai đoạn miễn thuỷ lợi phí hiện nay.

Cần thực hiện điều tra, đánh giá thực trạng tổ chức quản lý, khai thác công trình

thuỷ lợi, đặc biệt ở cấp cơ sở để có giải pháp củng cố, kiện toàn; đánh giá thực trạng

tổ chức quản lý nhà nước về thuỷ lợi ở cấp huyện và xã, để có giải pháp củng cố,

kiện toàn.

Thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật

của Nhà nước về quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, đặc biệt là chính sách về

thuỷ lợi phí, các chính sách về quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi đến tận người

dân. Đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực và vai trò của người dân trong quản lý, khai

thác công trình thuỷ lợi.

Không có một chính sách nào có thể gọi là hoàn hảo, đáp ứng và thoả mãn

được tất cả các đối tượng mà chính sách điều chỉnh, trong khi đó, đây lại là chính

sách có ảnh hưởng tác động tới 70% dân số sinh sống trong lĩnh vực sản xuất nông

nghiệp. Do vậy, chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí, trong 3 năm đã có 2 Nghị định

của Chính phủ và tới nay đang được tổng kết đánh giá để có những kiến nghị điều

chỉnh, bổ sung cho phù hợp là rất cần thiết. Trong 3 năm qua, việc thực hiện chính

sách miễn giảm thuỷ lợi phí nhằm mục tiêu làm giảm chi phí sản xuất nông nghiệp

của người, góp phần tăng cao thu nhập, nâng cao mức sống của người nông dân

trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp là rất cần thiết.

Có thể, khi chính sách miễn thuỷ lợi phí mới ra đời cũng chưa thể giải quyết

được toàn bộ những tồn tại, vướng mắc đã thể hiện như đánh giá những tồn tại đã

nêu ở trên, cũng có thể khi ban hành chính sách miễn thuỷ lợi phí mới sẽ tiếp tục

nảy sinh ra những vấn đề mới, đó cũng là một điều bình thường khi ban hành một

chính sách. Nhưng, không thể cầu toàn, cũng không vội vã, thì việc nghiên cứu,

điều tra đánh giá cũng như tổng kết chính sách hiện hành để có những kiến nghị, đề

xuất sửa đổi, bổ sung chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí cho phù hợp với tình hình

92

thực tế hiện nay là một chủ trương đúng đắn của Chính phủ, các bộ ngành liên quan

và các địa phương.

93

KẾT LUẬN

Như chúng ta đã biết, chính sách thuỷ lợi phí là một chính sách rất phức tạp,

nhạy cảm, đặc biệt đối với những nước có nền sản xuất nông nghiệp lúa nước như ở

Việt Nam. Tính đến nay, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy định về chính

sách thuỷ lợi phí. Việc miễn thuỷ lợi phí đã được đề cập ở hầu hết các chính sách từ

khi ban hành, tuy ở từng mức độ khác nhau. Đặc biệt, chính sách miễn thuỷ lợi phí

đã được ban hành và thực hiện một cách đồng bộ và toàn diện hơn được thể hiện ở

Nghị định số 154 và Nghị định số 115 của Chính phủ.

Kết quả nghiên cứu của đề tài đã đạt được những mục tiêu chính theo yêu cầu

đặt ra, đó là :

Thứ nhất, đã làm rõ được cơ sở khoa học, sự cần thiết của việc ban hành các

chính sách thuỷ lợi phí và chính sách miễn thuỷ lợi phí của Việt Nam, nguyên tắc

các phương pháp xác định thuỷ lợi phí. Trong đó, đã nêu được một số kinh nghiệm

về chính sách thuỷ lợi phí ở một số nước trên thế giới.

Thứ hai, đã phân tích đánh giá được những nội dung của các chính sách thuỷ

lợi phí đã được Chính phủ ban hành, đặc biệt là các chính sách miễn giảm thủy lợi

phí trong giai đoạn gần đây và đang thực hiện hiện nay. Trong đó, đã phân tích, chỉ

rõ những mặt được, những mặt còn tồn tại trong các chính sách miễn thuỷ lợi phí

đang được thực hiện và nêu ra những vấn đề tiếp tục cần được nghiên cứu để chính

sách hoàn thiện hơn.

Thứ ba, trên cơ sở đánh giá những ưu điểm, nhận ra những tồn tại, luận văn đã

nêu được mục tiêu, đề xuất định hướng nội dung một số vấn đề cần được xem xét

sửa đổi trong chính sách sắp được ban hành.

Bản thân chính sách thuỷ lợi phí, khi còn đang thu, cũng thể hiện sự bất công

bằng, bình đẳng giữa những người được hưởng lợi về nước, do vậy, việc thực hiện

chính sách miễn thu thuỷ lợi phí sẽ rất khó khăn trong việc đảm bảo công bằng, bình

đẳng cho mọi người dùng nước. Tuy nhiên, việc ban hành một chính sách hiệu quả

không nhất thiết phải đảm bảo sự công bằng, bình đẳng cho mọi đối tượng, mà

chính sách đó chỉ có tác động và ảnh hưởng tới một bộ phận nhóm lợi ích nào đó,

94

miễn là đạt được một trong các hiệu quả về mặt kinh tế, xã hội hoặc chính trị.

Việc nghiên cứu thực thi chính sách miễn cần tiếp tục được nghiên cứu sâu

thêm hơn nữa trong việc đánh giá chi tiết sự ảnh hưởng đến quá trình hình thành,

hoạt động và hiệu quả của các tổ chức hợp tác dùng nước, tổ chức là cầu nối giữa

các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi và người dân, quyết định hiệu quả

cuối cùng của một hệ thống công trình thuỷ lợi; tác động của chính sách miễn, giảm

thuỷ lợi phí tới thu nhập, mức sống của người dân cũng như ảnh hưởng của vấn đề

này tới hiệu quả quản lý, khai thác vận hành công trình thuỷ lợi. Kết quả thu thập từ

thu nhập và chi phí của người nông dân cho thấy, khi thực hiện chính sách miễn

thuỷ lợi phí, đã có mức độ giảm nhất định trong chi phí của người nông dân đối với

sản xuất nông nghiệp, tuy nhiên, mức độ giảm thay đổi tuỳ theo từng vùng tuỳ thuộc

vào mức độ đóng góp trước đây, cũng như mô hình tổ chức quản lý khai thác và đặc

thù trong tập quán canh tác của nông dân từng địa phương. Bên cạnh đó, thì cơ chế

tài chính, vấn đề có liên quan chặt chẽ tới chính sách thuỷ lợi phí cũng cần được

nghiên cứu, đề xuất để ban hành chính sách minh bạch, cụ thể và phù hợp hơn. Tuy

nhiên, những vấn đề này cần có những đánh giá nghiên cứu sâu sắc, chi tiết và cụ

thể hơn và có thể được đặt ra trong những nghiên cứu chuyên sâu và cao hơn luận

văn này.

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng, trong công tác quản lý, khai thác công

trình thuỷ lợi, nếu chỉ tập trung vào sửa đổi, bổ sung riêng một chính sách thuỷ lợi

phí, cho dù có thu từ nông dân hay Chính phủ trả thay nông dân thì vẫn chưa đủ để

có thể nâng cao hiệu quả các hệ thống công trình thuỷ lợi và vấn đề chống xuống

cấp, đảm bảo an toàn công trình. Vì vậy, để đồng bộ trong hệ thống chính sách và

góp phần thực hiện hiệu quả chính sách miễn thuỷ lợi phí, Chính phủ, các bộ ngành

liên quan và các địa phương cần ban hành một hệ thống chính sách đồng bộ hơn nữa

trong công tác quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, đặc biệt những chính sách quy

định về phương thức hoạt động cũng như cơ chế tài chính trong quản lý, khai thác

công trình thuỷ lợi.

95

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt:

1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2004), Thông tư số 75/2004/TT-BNN-TL

ngày 20/12/2004 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn củng

cố, thành lập và phát triển các tổ chức hợp tác dùng nước.

2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính (2008), Thông tư số

74/2008/TTLT-BTC-BNN ngày 14/8/2008 của liên Bộ Tài chính - Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn chế độ quản lý tài chính trong Hợp tác

xã nông nghiệp.

3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2009), Thông tư số 65/2009/TT-

BNNPTNT ngày 12/10/2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng

dẫn tổ chức hoạt động và phân cấp quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.

4. Bộ Tài chính (2008), Thông tư số 26/2008/TT-BTC ngày 30/3/2008 của Bộ Tài

chính hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 154/2007/NĐ-CP ngày

15/10/2007 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số

143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một

số điều của Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi (đã hết hiệu lực).

5. Bộ Tài chính (2009), Thông tư số 11/2009/TT-BTC ngày 21/01/2009 của Bộ Tài

chính hướng dẫn đặt hàng, giao kế hoạch đối với các tổ chức quản lý khai thác

công trình thuỷ lợi và quy chế tài chính đối với các công ty nhà nước tham gia

quản lý khai thác công trình thuỷ lợi.

6. Bộ Tài chính (2009), Thông tư số 36/2009/TT-BTC ngày 28/3/2009 của Bộ Tài

chính hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 115/2008/NĐ-CP ngày

14/11/2008 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số

143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một

số điều của Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi.

7. Bộ Tài chính (2010), Thông tư số 117/2010/TT-BTC ngày 05/8/2010 của Bộ Tài

chính hướng dẫn cơ chế tài chính của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành

96

viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.

8. Chính phủ (2003), Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ

quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công

trình thủy lợi.

9. Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ

về thi hành Luật Đất đai.

10. Chính phủ (2007), Nghị định số 154/2007/NĐ-CP ngày 15/10/2007 của Chính phủ

sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày

28/11/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh

Khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi (đã hết hiệu lực).

11. Chính phủ (2008), Nghị định số 115/2008/NĐ-CP ngày 14/11/2008 của Chính phủ

sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày

28/11/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh

Khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi.

12. Chính phủ (2010), Nghị định số 25/2010/NĐ-CP ngày 19/3/2010 của Chính phủ về

chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên

và tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước

làm chủ sở hữu.

13. Hội đồng Bộ trưởng (1984), Nghị định số 112-HĐBT ngày 25/8/1984 của Hội đồng

Bộ trưởng về việc thu thuỷ lợi phí (đã hết hiệu lực).

14. Hội đồng Chính phủ (1962), Nghị định số 66/CP ngày 5/6/1962 của Hội đồng

Chính phủ về việc ban hành Điều lệ thu thuỷ lợi phí (đã hết hiệu lực).

15. Nguyễn Bá Uân, Ngô Thị Thanh Vân (2006), Giáo trình Kinh tế Thuỷ lợi, Nhà xuất

bản xây dựng.

16. Quốc hội (1998), Luật Tài nguyên nước, ngày 20 tháng 5 năm 1998.

17. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2001), Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thuỷ

lợi, số 32/2001/PL-UBTVQH của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ngày 4/4/2001.

18. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2001), Pháp lệnh phí và lệ phí, số 38/2001/PL-

UBTVQH của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ngày 28/8/2001.

97

19. Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (2008-2009),

Nghiên cứu những vấn đề phát sinh từ chính sách miễn, giảm thuỷ lợi phí.

20. Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam (2008-2009), đề tài nghiên cứu Thuỷ lợi phí và

chính sách thuỷ lợi phí ở Việt Nam.

Tiếng Anh:

21. Christina Jackson (2005), Water Resources Division - Department of Primary

Industries, Water and Environment: Review of fees payable under the water

management Act 1999.

22. Consuelo Varela-Ortega and Juan A. Sagardoy (2001): Irrigation Water Policies in

Syria: Current Developments and Future Options.

23. G.A.Cornish and C.J.Perry (2003), Water Charging in Irrigated Agriculture:

Lessons from the Field.

24. Ilija Kondinski (2005), Public Watereconomy Enterprise "Strezevo", Bitola,

Republic of MACEDONIA: Water Consumption Forecast and Water Demand

Management in Strezevo Irrigation System.

25. Intizar Hussain (2004) International Water Management Institute (IWMI): Have

Low Irrigation Service Charges Disadvantaged the Poor?, at the second ADB’s

Water Week, 26-30 January 2004, Manila, Philippines.

26. K. William Easter & Yang Liu (2005), The International Bank for Reconstruction

and Development/The World Bank: Cost Recovery and Water Pricing for

Irrigation and Drainage Projects.

27. Natural Resources Management and Environment Department – FAO (2005):

Water charging in irrigated agriculture.

28. Olubode-Awosola, O.O., Idowu E.O. & Van Schalkwyk H.D. (2005): Irrigation

Projects Reform Case Studies: An Assessment of Projects' Performance, a paper

presented at the 8th International Riversymposium 2005, 6-9 September,

Brisbane, Australia.